Mặt nạ Cộng Sản thực sự đã rớt

Mặt nạ Cộng Sản thực sự đã rớt

Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sẵng (Danlambao) – Hôm 5 tháng 11, năm 2021, tin tức trên Facebook, nhiều trang thông tin Tiếng Việt, kể cả những hãng thông tấn nước ngoài chạy tin nóng, hàng đầu về việc ông Tô Lâm ăn miếng thịt bò có vát vàng do người đầu bếp nổi danh được chính tay “Thánh rắc muối” Salt Bae chế biến và đút cho ăn món bò dát vàng trị giá lên đến 45 triệu đồng/phần trong một nhà hàng của ông này ở Luân Đôn.

Cư dân mạng đồng thời đưa lên một hình ảnh rất tương phản, vị Tổng Thống của cường quốc Mỹ, Obama khi thăm viếng Việt Nam, chỉ ngồi trong tiệm bình dân ăn món Bún Chả rẻ tiền.

Một hình ảnh khác cũng được Cư Dân Mạng đem ra so sánh. Tổng Thống Trump của siêu cường Hoa Kỳ, dùng bữa trưa với chiếc bánh Hamberger, khoai lang chiên và lon cô ca.

Nhìn 3 bức hình, dù ai vô cảm đến đâu cũng thấy thương cảm cho thân phận người Việt Nam quá đổi bi thương, trong khi lãnh đạo của họ luôn tuyên bố vì dân, suốt đời tranh đấu cho dân mà ăn bữa ăn tốn khoảng 45 ngàn đô la.

Sự mỉa mai đến cùng cực, dù có tài hùng biện như Tô Tần cũng không thể biện mình cho chế độ tàn bạo, vô lương nầy được.

Không biết cơ man bình luận với lời lẽ mạt sát ông Tô Lâm và thẳng tay lên án chế độ Cộng Sản Việt Nam.

Duy nhất chỉ có đảng Cộng Sản Việt Nam chưa lên tiếng, dù vụ việc đã xảy ra gần hai ngày.

Lên tiếng gì trước sự kiện dân, nhân công thất nghiệp đang ùn ùn bỏ về quê tìm cách sống tạm bợ qua ngày, nhưng ông Bộ Trưởng Bộ Công An của chế độ, ăn bữa ăn trị giá 22 tấn lúa, có thể nuôi sống hằng ngàn người đang đói khổ, lây lất để sống tạm bợ.

Một chế độ tự hào là phục vụ Công Nông, nhưng không hề liếc mắt dòm người nông dân, công nhân đang lê lết đầu đường, xó chợ tìm những thứ có thể đút vào miệng cho đỡ đói, mà không cần biết đến chất lượng, tình trạng vệ sinh của vật mà họ bỏ vào miệng mình.

Chua chát đến tận cùng, người lãnh đạo của đảng lại ung dung hưởng nuốt miếng thịt bò có giá trị 22 tấn thọc mà dân cần trong cơn đói.

Họ từng tuyên truyền là đầy tớ nhân dân, họ xả thân làm cách mạng để Cứu Dân, Cứu Nước.

Chiếc mặt nạ đã bị tự chính họ vứt xuống đất, và vô phương vãn hồi, nếu có chăng là họ tiếp tục dùng bàn tay sắt để đàn áp khốc liệt hơn để trấn áp sự bất bình từ dân, nhưng càng trấn áp, sức bật của dân càng mạnh lên. Đó là định luật và rồi Máu của Người Việt Nam sẽ chảy nhiều hơn, hận thù càng chất ngất và Chế Độ Cộng Sản Cũng Phải Sụp Đổ.

Ông Trọng và Bộ Chính Trị sẽ làm gì?

Theo thiển kiến, họ sẽ đưa ra biện pháp kỷ luật với ông Tô Lâm, nhưng Không Thể xoá tan sự phẩn uất trong lòng dân và uy tín đảng hầu như tiêu tan vì sự lừa dối không bao giờ phục hồi dù 30 phần trăm. Tôi nghĩ kể cả đảng viên công sản cũng không bao giờ tin vào đảng như khi xưa họ đã từng sinh Bắc tử Nam để Giải Phóng Miền Nam. May ra, còn bọn Lợi Dụng đảng để vinh thân, họ còn ở lại để tìm cơ hội riêng, nhưng niềm tin thì chắc chắn là không.

Vấn Nạn bao giờ cũng có Cơ Hội đi bên cạnh. Những người lãnh đạo cao cấp nhất của đảng nên để vài giây nghĩ đến tương lai đất nước và sự an ninh của bản thân và gia đình, nên có vài hành động cấp thời và quyết liệt, xin có vài đề nghị sau đây:

  1. Kỷ Luật thích đáng Tô Lâm để trấn an tinh thần dân chúng, vớt vát uy tín đảng.
  1. Đưa ra kế hoạch Dân Chủ Hoá Đất Nước có thời hạn rõ ràng.
  1. Xử dụng những nhân tài còn lại trong nước thay thế bọn Vá Áo Túi Cơm, lợi dụng uy quyền hà hiếp, bóc lột dân.
  1. Ấn định thời hạn cho cuộc Bầu Cử Quốc Hội có sự giám sát quốc tế, từ đó lập ra Thượng Hội Đồng Điều Hành Quốc Gia, đi đến Bầu Cử Tổng Thống.
  1. Thành tâm Hoà Giải với người dân trong nước để đi đến Hoà Hợp Dân Tộc.
  1. Giải tán đảng Cộng Sản.

Làm được vài điều căn bản trên đây, hy vọng làm vơi đi sự phẩn uất của toàn dân, tránh được cuộc đổ máu trong tương lai khi chế độ Cộng Sản Sụp Đổ.

Nhớ rằng Không có chế độ nào tồn tại muôn đời, chỉ có Dân Tộc là trường tồn.

Người Cộng Sản phải bình tâm, sáng suốt để tránh Tổn Thương cho Dân Tộc. 

Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sẵng

danlambaovn.blogspot.com

Rắc những đau thương…

Lê Vi

Rắc những đau thương…

Phạm Minh Vũ

Mạng xã hội lại dậy sóng chuyện “rắc muối”, khi công an Đà Nẵng đến triệu tập một người, từng làm clip “rắc hành” vào tô bún bò.

Tưởng chuyện ăn bò dát vàng của Tô Lâm đã yên, nhưng nó lại được đào bới, và người ta lại chế nhạo tiếp tục hình ảnh há mồm của Tô Lâm lúc Lâm ăn bò ở Anh.

Sự khinh bỉ của người Dân dành cho Tô Lâm đã được người Dân nhắc đi nhắc lại khi mà người Dân trong nước tới cơm không có mà ăn, vậy mà quan chức tầm cỡ như Lâm lại ngang nhiên nuốt miếng bò dát vàng tận xứ Tây với nụ cười khả ố, nhìn nó đểu cáng vô cùng. Mỉa mai hơn, trước đó Lâm lại đi thăm và dâng hoa tới ông tổ cộng sản Các – Mác, người cả đời lên án chủ nghĩ bóc lột.

Nơi Lâm và đám đệ tử ăn uống xa xỉ ấy, thật đau xót là nơi nơi hơn 2 năm trước, 39 người Việt Nam đã chết ngạt, chết lạnh cứng trong thùng xe đông lạnh khi cố vượt biên vào nước Anh để kiếm miếng ăn.

Nơi người Việt Nam bỏ mạng không chỉ một hoặc hai mà tận 39 người một lúc, mà Tô Lâm cùng đám đàn em tới thể hiện sự xa xỉ thì sự trơ trẽn nào bằng?

Như đây, mới đây trên báo Lao Động ghi lại một bữa cơm của học sinh một xã ở huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum. Thức ăn của các em là ốc mò dưới ruộng, là lá mì, là sâu đất đào đâu đó trong rừng.

Nhìn những khuôn mặt ngây thơ của các em, bên cạnh thức ăn chính là thứ săn bắt hại lượm được, và một bên là đám quan chức tụ tập ăn nhậu ở tận trời Tây với bữa ăn hàng chục ngàn đô la, ai chỉ cho tôi biết đâu mà bình đẳng? Và xa hơn đâu là lý luận Do Dân, vì Dân? Hay xa nữa đâu là vì ươm mầm cho tương lai Việt Nam? Hay tất cả những khẩu hiệu nổ vang trời ấy, tất cả là màu hồng để tô vẽ cho sự ngạo nghễ vĩ đại của bọn cầm quyền bất nhân, và vì chính bản thân của những kẻ cầm quyền?

Nhìn cảnh đầu bếp nổi tiếng người Thổ trên tay làm động tác rắc muối, và miếng bò dát vàng đút vào mồm Tô Lâm nó khác gì rắc vào vết thương đang rỉ máu trên đất Mẹ Việt Nam, nơi mà bắt ốc đào sâu để ăn hàng ngày?

Rắc muối hay rắc những nỗi đau?

 Phạm Minh Vũ

Tòa án của tỉnh Khánh Hòa hôm 15/11 tuyên án 7 năm tù giam đối với ông Nguyễn Trí Gioãn

VOA Tiếng Việt posted a video to playlist Thời sự Việt Nam 2021.

Tòa án của tỉnh Khánh Hòa hôm 15/11 tuyên án 7 năm tù giam đối với ông Nguyễn Trí Gioãn, 42 tuổi, sau khi tòa đi đến kết luận rằng ông phạm tội “làm, tàng trữ, phát tán, tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”, báo chí trong nước loan tin. Xem thêm: https://bit.ly/3wN7Cem

(Nếu không vào được VOA, xin hãy dùng đường link https://bit.ly/VOATiengViet1 hoặc https://bit.ly/VOATiengViet2 để vượt tường lửa)

Thời Tan Rã

Thời Tan Rã

Tưởng Năng Tiến

 “Bạn từ đâu đến”? (“Where do you come from”?) là câu hỏi mà tôi vẫn thường nghe trong những tháng ngày lưu lạc. Dù tha hương gần cả cuộc đời, tôi luôn luôn đáp rằng mình từ nước Việt: I’m from Vietnam!

Nếu trả lời khác đi và đúng với thực trạng (I’m from California) thì rất có thể tôi sẽ nhận được ánh mắt, cùng với nụ cười thân thiện hơn của tha nhân. Tuy biết vậy nhưng tôi không muốn chối bỏ quê hương, dù không hãnh diện gì (lắm) về cái đất nước khốn cùng mà mình đã đành đoạn bỏ đi từ khi tóc hãy còn xanh.

Sống tha phương cầu thực – tất nhiên – không thiếu những phút giây tủi thân/ tủi cực hay tủi nhục, hoặc cả ba. Thêm (hay bớt) vài cái nhìn dè bỉu/khinh chê của thế nhân đâu phải là chuyện đáng để bận tâm.

Tôi vẫn thường nhủ lòng như thế. Ấy thế mà vẫn không tránh khỏi đôi chút mủi lòng khi nhìn thấy dăm ba đồng hương, đang lui cui nhặt nhạnh rác rưởi, trên hè phố nơi quê người đất khách: 

Bỗng nhiên hiện ra trước mắt ba người một bãi rác khổng lồ. Tủ đứng, tủ nằm. Xa lông. Máy giặt. Nồi cơm điện cũ. Rồi ghế xoay. Bá ngồi ngay lên chiếc ghế xoay. Xoay một vòng. Bốn bánh xe dưới chân đưa anh đi một quãng. Chà chà. Thật mê ly. Có cái ghế xoay này đặt trong nhà ngồi thư giãn, xem sách, đọc báo hay nghe nhạc thật tuyệt vời. Bảo đảm cả thành phố không ai có.

Đang thả tâm hồn bay bổng, nhìn theo Đay và Niệm đi sâu hơn nữa vào bãi rác, bỗng nghe tiếng reo, anh giật mình đứng lên bước nhanh về phía họ: Một đống quạt bàn hiện ra trước mắt.

Cái nào cũng còn nguyên bảo hiểm, cánh, cả giây và phích điện dù có chiếc bảo hiểm đã rỉ và bầu thì đã tróc sơn. Chỉ nhìn nét mặt họ, anh cũng biết anh không có phần ở đống quạt cũ này. Vì lúc họ tìm ra, anh không có mặt, anh còn đang đu đưa với chiếc ghế xoay. Cái ghế xoay chết tiệt! Đay cùng anh thuỷ thủ nhặt quạt bàn xếp thành một hàng rồi tìm ra một chiếc gậy gỗ xâu gần chục chiếc quạt lại.

Thật sung sướng khi nghe Niệm nói: “Phần ông Bá một chiếc, thôi, cứ xâu cả vào đây, khiêng về tầu, ông ấy lấy sau.”

Thật là một tấm lòng vàng. Cái quạt tai voi nhà anh cũ quá rồi. Khi chạy cứ long lên sòng sọc như muốn rời ra. Hai người khiêng quạt đi trước, Bá vác cái ghế xoay đi sau. Phải mang chiếc ghế này về. Vì nó quá sang trọng, quá tuyệt vời. Hơn nữa nó còn là nguyên nhân làm anh thất bát ít ra hai chiếc quạt!

Khiêng vác trên vỉa hè, gặp người Nhật và cả những người mắt xanh mũi lõ sải bộ trên hè, không ai bảo ai cả ba đều cúi gầm mặt. Niệm kêu to, trấn an bạn và cũng là để trấn an chính mình:

– Làm đéo gì mà xấu hổ. Họ biết mình là ai…

Rồi trừng mắt hỏi Bá:

– Ông là người nước nào. Tôi là người Ma lai xi a. Quốc tịch Ma lai xi a chính hiệu.

Đay cười nhạt:

– Thôi. Cứ nói Căm pu chia cho xong. Dân Mã lai nó đếch thèm những thứ này đâu. Sang đây mới thấy mình là cuối hạng người…

Ấy thế mà khi về đến Việt Nam chúng mình lại là nhất. Chúng mình là đầu hạng người. Ai nhìn chúng mình cũng nể. Ai cũng thèm được như chúng mình. Chúng mình chon von chót vót…

Ngay chuyến này thôi, với những ngày vắng mặt ở Việt Nam để đi sang nước Nhật này, trở về với mấy món hàng cũ trong tay, anh thực sự ở một mặt bằng khác, một nấc thang giá trị khác, một tầng lớp khác, một tầm cao khác. Đúng. Chỉ cần vắng mặt ở Việt Nam ít ngày thôi rồi trở về, anh đã là một con người khác” (Bùi Ngọc Tấn. Biển Và Chim Bói Cá. Hội Nhà Văn. Hà Nội: 2008, 458 – 461)

Bốn năm sau, sau khi tác phẩm thượng dẫn được xuất bản – trong một buổi trò chuyện với thông tín viên Mặc Lâm (RFA) vào hôm 15 tháng 4 năm 2012 – tác giả tâm sự: “Đây là quyển tiểu thuyết sử thi thời sự tan rã. Tan rã trong hệ tư tưởng, tan rã trong quan hệ sản xuất, nghĩa là tan rã trong ý thức hệ, tan rã trong  quan hệ giữa người với người.”

Bùi Ngọc Tấn giờ không còn nữa. Điều ông khẳng định về sự băng rã (và băng hoại) ở đất nước mình nay đã được nhận rõ ở bình diện quốc gia. Những ngày qua, giới báo chí nhà nước đồng loạt và hớn hở loan tin:

Qua một cuộc phỏng vấn dành cho giới truyền thông trong nước, ông Vũ Anh Minh – Chủ Tịch Hội Đồng Thành Viên Tổng Công Ty Đường Sắt Việt Nam (VNR) – khẳng định: “Nếu không có lợi thì chúng tôi đã không đề xuất. Lợi ở đây không phải là với doanh nghiệp tư nhân chỉ tính hiệu quả kinh tế của đồng vốn, mà đây chính là lợi ích cho Nhà nước…”

Thật là quí hóa! Quan chức mà ai cũng “vô vị lợi” như ông Vũ Anh Minh thì cái lò của ông Nguyễn Phú Trọng đã tắt ngúm từ lâu. Điều đáng tiếc là quan điểm “vị tha” (và “vị quốc gia”) của ông ta, xem ra, không được dư luận đồng tình.

Nhà báo Lưu Trọng Văn góp đôi lời bàn (ra) không thân thiện lắm:

Đường sắt là hình ảnh kinh tế hàng đầu như hàng không, tàu biển, để thế giới nhận diện độ tin cậy và xu hướng phát triển của Kinh tế VN và phẩm chất chế độ của VN để họ có nên đầu tư kinh doanh hay không. Việc VN xin rồi cải tạo đồ phế thải 40 năm và việc Chính phủ VN nếu chấp nhận thì sẽ là cú đánh cực mạnh vào uy tín nền kinh tế VN và uy tín quản trị của đảng cầm quyền VN.

Nỗi lo ngại về “uy tín của đảng” (cái Đảng đã từng đánh thắng liên tiếp mấy đế quốc to) của Lưu Trọng Văn, tất nhiên, hoàn toàn chính đáng. Tuy thế, nhà báo Nguyễn Thông lại còn bầy tỏ sự quan ngại (đáng ngại) hơn thế nữa cơ:

Trước năm 1975, nghèo đói, lạc hậu, chậm phát triển, một phần do chiến tranh đã đi một nhẽ (ấy là chỉ nói ở miền Bắc cắm đầu theo chủ nghĩa xã hội, chứ miền Nam không hẳn vậy, dù cũng chiến tranh), nhưng từ khi đất nước thống nhất tới giờ, các ông các bà làm gì suốt gần nửa thế kỷ để vẫn loay hoay giảm nghèo bền vững.

Nước Nhật người Nhật chỉ cần hơn 20 năm, còn các ông bà định kìm hãm nước này dân này tới bao giờ. Mấy chục toa tàu hàng bãi mà họ vứt bỏ, còn ta định lôi về không phải chỉ đơn giản chuyện cũ người mới ta, mà cao hơn sâu hơn, ẩn chứa sự hổ thẹn, ô nhục về khả năng cầm quyền, lãnh đạo.

Những hạn từ “hổ thẹn” và “ô nhục” trong đoạn văn trên khiến tôi nhớ đến một bài báo cũ (“Đi Nước Ngoài ‘Thoải Mái’ Như Ở Tổng Công Ty Đường Sắt Việt Nam”) đọc được trên trang Dân Trí, vào hôm 01/09/2016.  Xin phép trích dẫn đoạn mở đầu:

“Từ năm 2010 đến hết năm 2013, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam tổ chức 188 đoàn đi nước ngoài với tổng số tiền chi gần 14 tỷ đồng, trong đó có 23 đoàn đi không có văn bản mời hay hợp đồng học tập với phía đối tác. Kiểm tra hồ sơ 5 đoàn đi nước ngoài năm 2012 – 2013 thì cả 5 đoàn đều hợp đồng qua các công ty du lịch trong nước (theo tour) với nội dung ‘tham quan, học tập.”

Giá mà trong 188 đoàn đi nước ngoài này mà có vài người được chỉ định chuyên học tập cách tự sát – hara kiri – của người Nhật Bản (khi họ không làm tròn trách nhiệm được giao phó, hay danh dự bị tổn thương) để chỉ dạy cho giới lãnh đạo Việt Nam thì “uy tín của đảng cầm quyền” – chắc chắn – sẽ lên cao ngất!

Tưởng Năng Tiến
11/2021

Hôm nay giỗ 42 năm Cha Giáo Gioan Baotixita Trần Học Hiệu bị cộng sản xử tử hình

Duong Hoa is with Xạc Bình and ND Nguyen.

“Một trái tim lớn đau cái đau của cả dân tộc

Một trái tim âm thầm với một tình yêu lớn lao”

Xin cầu nguyện cho LM Gianbaotixita Trần Học Hiệu- Tiến sĩ- Giáo sư- Nhạc sĩ đã bị cộng sản hãm hại, tử hình mà rất it người biết.

Can Ngoc Tran

Hôm nay giỗ 42 năm Cha Giáo Gioan Baotixita Trần Học Hiệu bị cộng sản xử tử hình. Xin đăng bài viết ngắn của cô Phạm Minh Tâm nói về cuộc đời của Cha Giáo.

Đại-học chi đạo…

Phạm Minh-Tâm

Làm gì thấy Người khi núi sông ngút khói

Máu xương ngập lối, ôi những ngày hấp-hối

Ghét ghen tham tàn, gây bất công nghèo đói

Con thấy Nhan Người trong nỗi đau tràn đầy

(Ôi Giê-su)

Khi tôi chống cưỡng luật Người

Luật Người khắc trong tim tôi

Lạc-viên êm-ái hồn tôi, tan-vỡ như ảo-mộng

Nay toàn thấy sỏi đá gai nhọn

(Từ vực thẳm hư-vô)

Ngày 05-11-2021 năm nay là ngày giỗ thứ 42 của linh-mục Gio-an Bao-ti-xi-ta Trần Học Hiệu với cái chết bằng các viên đạn xử bắn vào xế chiều ngày 05-11-1979 tại ấp Bà Thức, Suối Máu, Biên-hoà. Đây là khu đất nằm trong vùng phi-quân-sự phía sau phi-trường Biên-hoà mà sau 1975 chính-quyền cộng-sản huyện Thống-nhất, dùng làm bãi xử bắn dã-chiến.

Bản-thân tôi là con út trong gia-đình năm người con thiêng-liêng của linh-mục Trần Học Hiệu, được xếp theo thứ-tự nhận trước hay sau; gồm có anh Cao Kim Động, sau này là Đan-trưởng Đan-viện Thiên-hoà ở Ban-mê-thuột, anh Phạm Văn Tuyền đang sống tại Hoa-kỳ, chị Nguyễn Thị Phương sang Pháp từ trước 1975, chị Lê Thị Thu Hương một tân-tòng…

Hôm nay, khi viết về linh-mục Gio-an Bao-ti-xi-ta Trần Học Hiệu, tôi không nhắm vào mối liên-hệ là cha linh-hồn, cha thiêng-liêng, bố đỡ đầu… hay gì-gì khác theo cảm-xúc cá-nhân. Mà vì, đã 42 năm sau khi ông đã thành-toàn sứ-vụ ở trần-gian, tôi thấy cần phải viết, dù hơi trễ, về một con người linh-mục trí-thức Việt-Nam nơi ông, có thể xem như một tổng-hợp của đức tin tông-truyền hoà với nhân-cách một người Việt-Nam đúng nghĩa. Tóm lại, là của một công-dân linh-mục ý-thức rõ và dung-hoà được bổn-phận với Thiên Chúa và Tổ-quốc – Deus et Patria.

Cũng đồng-thời, muốn nhân đây, trước là chính-thức điều-chỉnh lại đôi ba chi-tiết liên-quan đến những ngày tháng tù-đầy và cái chết của linh-mục Trần Học Hiệu vào bốn năm sau ngày cộng-sản cưỡng chiếm Miền Nam, mà ông đã được vài ba nguồn tài-liệu nhắc đến, như sách Rồng Xanh Ngục Đỏ (trang 234-242) của linh-mục Vũ Đình Trác; Đoá Hồng Gai (trang 86-89) của Nguyễn Thanh Nga; Thư-viện Phạm văn Thành (Toàn cảnh Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng Việt Nam – Mặt Trận Liên Tôn kháng cộng sau 1975) trên mạng lưới thông-tin điện-tử với tấm ảnh không phải là chân-dung mà là vẽ truyền-chân. Tiếp sau, để chính-thức gửi đến những thân-hữu xa gần đã từng một thời biết, quen hay thân-thiết với ông từ sau cuộc di-cư 1954, từng cùng ông góp sức vào những sinh-hoạt của Giáo-hội, của xã-hội Miền Nam trong các điạ-hạt mục-vụ, Công-giáo tiến-hành, thánh-nhạc, giáo-dục, văn-học nghệ-thuật đến ngày 30-4-1975, rồi sau đó ông biệt tăm theo cơn xoáy chính-trị ở Miền Nam mà không mấy ai rõ-ràng.

Cổ-nhân khi nói “quốc-gia hưng-vong thất-phu hữu-trách” là hiển-nhiên xác-nhận vận-mệnh đất nước mạnh yếu hoặc mất còn đều hệ tại thái-độ chung phần trách-nhiệm của mỗi ngưòi dân; có nghĩa là không loại-trừ hay đặc-miễn cho bất-kỳ ai và càng không lý-giải theo thân-phận sang hèn hay giỏi dốt, mà là tinh-thần yêu đất nước, thương anh em cùng chung một bọc theo nghĩa hai chữ “đồng-bào”. Song riêng với thành-phần được gọi là sĩ-phu, là trí-thức theo mức-độ ăn học cao thấp thì còn có thêm một cách nhìn khác, nói đúng ra là một đòi hỏi khác gọi là con đường của kẻ sĩ, của giới trí-thức, gọi là “đại-học chi đạo”.

Mở đầu sách Đại-học có viết: Đại-học chi đạo, tại minh minh-đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện…Hai chữ “đại-học” ở đây có nghĩa là học vấn uyên-bác, tinh sâu; đạo là con đường. Con đường của kẻ đã có học-vấn cao hơn người thì truớc hết phải làm sáng tỏ cái đức, phải giúp dân biết đổi mới nếp sống và chỉ được ngừng khi đã tận hảo.

Linh-mục Gio-an Bao-ti-xi-ta TRẦN HỌC HIỆU

Linh-mục Trần Học Hiệu sinh năm 1927 tại Ninh-cường, Bùi-chu. Thụ-phong linh-mục năm 1958 tại Sài-gòn. Ông còn có một người em là linh-mục Trần Ngọc Quỳnh, thuộc tu-hội Saint Sulpice, giáo-sư Đại-chủng-viện Huế.

– Sau khi chịu chức linh-mục, ông giữ nhiệm-vụ Tuyên-uý Hiệu-đoàn tại

trường Nguyễn Bá Tòng, chuyên-trách các sinh-hoạt tâm-linh và các hoạt-động Hiệu-đoàn của mấy ngàn học-sinh, kiêm tuyên-uý đoàn Thanh Sinh Công tại đây. Ông là người đầu tiên và hình như cũng là duy-nhất chịu khó dịch tập Hiến-chương Dakar là Thủ-bản của Phong-trào Thanh Sinh Công thế-giới, thường biết đến với tên viết tắt là JECI (Jeunesse Étudiante Catholique Internationale) thành ấn-bản song-ngữ với lời đề biệt tặng các bạn Thanh Sinh Công của tôi.

– Là tác-giả hai tập sách dịch mang tên Ngày Quỷ Vương và Lạy Chúa con

nghe đây…dưới bút-hiệu Mặc Huy, xuất-bản vào thập-niên 60 tại Sài-gòn. Ông giải-thích, Mặc Huy là ánh sáng của ngọn đèn chầu, tuy leo-lét nhưng liên-lỉ.

Lễ mở tay của linh-mục Trần Học Hiệu tại trường Nguyễn Bá Tòng.

Bốn người hàng đầu từ trái, người em Trần Ngọc Quỳnh, cụ Hiếu thân-sinh, người chú, đức giám-mục Phạm Ngọc Chi.

– Là người có nếp sống đúng tinh-thần khó nghèo. Thậm chí, sau khi chiụ chức linh-mục, ông đã chọn

nơi dâng lễ mở tay là khu tiền-sảnh đơn-sơ của trường Nguyễn Bá Tòng.

– Là một người chống cộng và hăng say hoạt-động trong lãnh-vực văn-hoá và nghệ-thuật Công-giáo

– Năm 1964, ông rời trường Nguyễn Bá Tòng, đi làm Tuyên-uý Quân-đội, tùng-sự tại Nha Tuyên-úy

Công-giáo với cấp-bâc đại-uý tượng-trưng theo quy-định. Ông giữ nhiệm-vụ Trưởng Phòng Giáo-vụ Nha Tuyên-uý Công-giáo và đặc-trách nội-dung nguyệt-san Tinh Thần của Nha Tuyên-úy Công-giáo.

– Thành-lập ca-đoàn Hương Quê. Tổ-chức hai đêm đại-hợp-xướng tại Thảo-cầm-viên Sài-gòn và một

tuần Triển-lãm hội-hoạ do nhiều hoạ-sĩ tên tuổi góp mặt, như Bé Ký, Hồ Thành Đức, Hiếu Đệ….tại Nhà Văn Hoá là trụ-sở Hạ-nghị-viện trước và kết-thúc bằng đêm trình-diễn hợp-ca âm-nhạc Việt-Nam.

– Cùng với Giám-mục Huỳnh văn Nghi, chính-thức cổ-động Phong-trào Đạo Binh Xanh, do Đại-tá Đỗ

Sinh Tứ làm Giám-đốc.

– Chủ-trương tờ “Người Mới” bộ mới.

– Tháng 10 năm 1966, được Đức Tổng Giám-mục Nguyễn Văn Bình cho đi du-học bên Pháp bốn năm và được cho thêm hai năm để học về âm-nhạc.

– Năm 1972, về nước với văn-bằng Tiến-sĩ Đệ-tam-cấp Đại-học Sorbonne (Doctorat Troisième Cycle)

và Chứng-chỉ tốt-nghiệp khoá đào-tạo ca-trưởng tại Học-viện Ba-lê (Conservatoire de Paris).

– Vừa về nước, lập ban Hợp-ca “Đẹp Bình Minh” và tổ-chức buổi trình-tấu hợp-ca Thánh-nhạc tại trường Taberd.

– Dạy tại Đại-học Huế và xin về làm mục-vụ cho một số gia-đình thương phế binh đang sinh sống tại khu trại chăn nuôi bỏ hoang ở quận Tân-bình mà sau được phép lập thành giáo-xứ Tân Dân. Linh-mục Phan Văn Lợi cho biết…Cha Hiệu và cha Quỳnh tôi đều quen biết, vì cha Quỳnh là thầy của tôi nhiều năm tại Đại chủng viện Xuân Bích – Huế. Còn cha Hiệu thì tôi có nghe ngài thuyết trình một lần cho các đại chủng sinh, vào năm 1973 và vẫn còn nhớ chuyện ngài kể về các giáo dân thương binh giáo xứ Tân Dân của ngài. …Về chuyện của ngài, tôi nghe khoảng năm 1980, nhưng không nhiều chi tiết như chị cho biết. Ai cũng cảm thương và cảm phục ngài như đối với cha Nguyễn Văn Vàng DCCT, cha Nguyễn Quang Minh, cha Trần Đình Thủ và mọi cha bị tù tội vì cộng sản sau 1954 và 1975.

– Tổ-chức khóa huấn-luyện đầu tiên về Phong-trào Cursillo Việt-Nam tại nhà Betania Chí-hoà và mở tiếp khoá huấn-luyện Cursillo nữ đầu tiên tại Long-khánh.

Mấy anh em gia-đình thiêng-liêng chúng tôi thường được ông bố đỡ đầu nhắc-nhở mục-đích khi làm việc là đặt ý-nghĩa vào kết-quả đem lại chứ không ở tên-tuổi mình có được tiếng vang hay không. Bản-thân tôi nhớ mãi lời ông hướng-dẫn…giả như một hoạ-sĩ kia có biệt-tài vẽ nhưng thiếu nhiệt-tình phục-vụ nghệ-thuật thì mình nên cố gắng tìm cách khích-lệ anh ta…hầu-hạ cũng được, như rửa cọ, pha sơn, căng vải lên khung, pha cà-phê…miễn sao anh hoạ-sĩ chịu cầm cọ vẽ những nét đầu để hy-vọng anh sẽ vẽ nên một tác-phẩm nghệ-thuật để cho đời. Dĩ nhiên mình không có một dấu nào ghi trên hoạ-phẩm đó, song Thiên Chúa đã nhìn thấy sự đóng góp của mình là đủ.

Vào đầu thập-niên 70, Giáo-hội Công-giáo tại Miền Nam như mùa hoa nở rộ với khá nhiều thành-phần linh-mục trí-thức. Linh-mục Trần Học Hiệu tuy vẫn thuỷ-chung với thiên-chức linh-mục và tâm-thức Việt-Nam, song từ nhận-thức thủ-đắc trong thời-gian du-học, ông cũng gợi cho anh em chúng tôi ý-thức về một số cần thay đổi trong nếp sống đạo cũ bằng phong-cách dấn-thân nhập-cuộc mới.

Sau ngày 30-4-1975, nhiều biến-cố dồn-dập xẩy đến cho Giáo-hội bên cạnh niềm đau của dân-tộc. Ủy-ban Quân-quản Thành-phố đã bắt đầu chiếu-cố đến nhiệm-vụ Phó Tổng-giám-mục thừa-kế của Đức cha Nguyễn Văn Thuận. Một số linh-mục và giáo-dân trí-thức hùng-hổ theo “cách mạng”, kéo nhau đi trục-xuất Đức Khâm-mạng Toà-thánh. Rồi họ viết tâm-thư 1, tâm-thư 2, tâm thư 3…gửi Ủy-ban Quân-quản, tố-cáo Giáo-hội không dung-nạp lý-thuyết cộng-sản, tố-cáo Đức cha Thuận là có dòng máu chống cộng vì là con cháu trong gia-đình Tổng-thống Ngô-đình Diệm và thêm một tội nữa là tôn-sùng Đức mẹ Fa-ti-ma mà Đức Mẹ Fa-ti-ma là Đức Mẹ chống cộng …

Linh-mục Trần Học Hiệu khi ấy đang ở giáo-xứ thương-phế-binh trong trại chăn nuôi, trả lời ngay các thư này. Mỗi khi soạn xong thư trả lời, ông đạp xe đến giao cho tôi đánh “stencil” và dùng máy “ronéo” quay tay nhỏ của chúng tôi in ra nhiều bản, rồi đem đến các xứ để nhờ phổ-biến trong cộng-đoàn tín-hữu. Tôi nhớ rất kỹ hai người nhiệt-tình tiếp-nhận các thư trả lời và hăng-hái góp tay giúp là linh-mục Lã Quang Hiệu giáo-xứ Lộc-hưng và Đức cha Phạm Văn Nẫm khi còn là linh-mục, làm giám-học tại trường Thánh Mẫu ở Bà Chiểu.

Chính-quyền mới bắt đầu “rà từng đối tượng” linh-mục bằng các “nhãn” do họ dán cho để hoặc là kiếm cớ quản-thúc hay giới-hạn trong mục-vụ. Chẳng hạn, xuất-thân từ Trường Truyền-giáo Rô-ma, trong ban điều-hành và giảng dạy ở Giáo-hoàng Học-viện là di-sản tư-tưởng của Hội Thừa-sai Ba-lê, viết báo và ủng-hộ các đoàn-thể chống cộng…nghĩa là đủ cớ để loại trừ sau cái lý-do chính là linh-mục trí-thức Công-giáo. Linh-mục Trần Học Hiệu biết mình còn nhiều “tội” hơn nữa như gốc Bùi-chu chống cộng cực-đoan, là tuyên-uý Công-giáo, người điều-hợp chính của Phong-trào Đạo Binh Xanh…Đại-để như Nguyễn Ngọc Lan đã nói sống với xã-hội chủ-nghĩa, chúng ta mới hiểu “tội tổ tông” một cách thấm-thía hơn….

Một sáng sớm trong tháng 8, được tin ông bị bắt hụt, chúng tôi đến ngay giáo-xứ Tân Dân. Bà nấu bếp nhà ở ngang nhà xứ đã sang, đang ngồi khóc dưới bếp. Bà kể, sáng sớm công-an quân-quản đến bắt ông chủ-tịch Hội-đồng giáo-xứ. Cô con gái ông chủ-tịch đi lễ sớm, về gần đến nhà thấy lạ vội quay lại nhà thờ báo tin vừa kịp lúc cha Hiệu đang từ phòng áo bước ra nên ông không về nhà xứ, song không ai biết ông đi đâu. Tôi ra trước thềm nhìn thấy hai người đang ngồi câu cá trên bờ ao trước nhà xứ nên quay vào bàn với bà bếp cứ mở toang cửa phòng khách và xách giỏ đi chợ như mọi ngày, gọi mấy bà hàng xóm bảo họ thay nhau ra vào tự nhiên như không biết sự gì xẩy ra. Nhà tôi đem cuốc ra bụi chuối gần chỗ người câu cá ngồi, vừa đánh cây chuối con vừa khua náo khi nào cha về cô nói giúp con xin một cây về trồng. Hôm sau, bà bếp cũng sang mở cửa nhà xứ bình-thường, nhưng thay vì đi chợ thì xách giỏ đến nhà tôi, cho biết tối hôm qua, rất khuya cha mới về thu xếp giấy tờ, giao hết các chìa khóa cho bà và ra đi. Thật ra từ hai tháng trước, ông đã nói với chúng về một “chiến khu” và ông sẽ vào; song có lẽ sự việc đến mau nên ông chưa kịp sắp xếp.

Một buổi tối gần cuối năm 1975, cả khu phố bị cúp điện, chúng tôi có người khách ghé thăm. Vừa buớc vào nhà, ông yêu cầu đóng cửa lại và nói ngay một hơi …Tôi chỉ nói miệng vì cha Hiệu không muốn viết giấy hay thư. Cha đã vào đến nơi bình an và khoẻ. Cha không cần tiền bạc hay bất cứ gì khác. Nếu có ngay bây giờ thì gửi cho cha chiếc “radio transitor”. Cha dặn lúc nào đi Fa-ti-ma thăm hai cha Nguyễn Văn Lập và Trần Nguyên Khôi….Đó là lần cuối cùng tạm coi như tôi còn được liên-hệ với ông.

Tôi đến Fa-ti-ma gặp linh-mục Nguyễn Văn Lập, cựu Viện-trưởng Viện Đại-học Đà-lạt và linh-mục Trần Nguyên Khôi, như lời dặn. Nhờ vậy, được biết rõ hơn, linh-mục Trần Học Hiệu đã có người liên-lạc đón vào rừng an-toàn vào đầu tháng 9-1975. Còn thêm chi-tiết không ai ngờ là lúc từ phòng áo ra đi thì nguyên tuần đầu tiên ông vẫn ở khu trại chăn nuôi, trong ngôi chùa cũng mới xây trong thời-gian xây nhà thờ Tân Dân. Điều này đối với tôi không lạ vì ngay từ khi còn ở Phòng Giáo-vụ Nha Tuyên-úy Công-giáo, không biết duyên-do nào, ông và Hoà-thượng Thích Tâm Giác, Giám-đốc Nha Tuyên-uý Phật-giáo, có tương-quan giao-hảo nên thỉnh-thoảng tôi được giao việc đem bài viết của ông sang cho nguyệt-san Đại Từ Bi của Nha Tuyên-uý Phật-giáo, hay ngược lại sang nhận bài về cho nguyệt-san Tinh Thần. Còn khi làm mục-vụ ở giáo-xứ Tân Dân cũng thế, có buổi chiều hai vợ chồng tôi vào thăm, vừa gặp lúc ông lững-thững đi bộ về và mỉm cưới ý-nhị cho biết là sang thăm “sư cụ chùa Long-giáng”.

Đầu năm 1977, người dân tại nhiều quận Sài-gòn, đi họp tổ dân-phố đều được cảnh-giác không được liên-lạc hay chứa-chấp mà phải tố-cáo ngay các dư-đảng của “tên phản-động đội lốt thầy tu để chống phá cách-mạng Trần Học Hiệu”. Thời gian này ông bị giam ở Tổng Nha Cảnh-sát cũ, sau đó đem về Chí-hoà và vì ông bị bắt tại vùng Hố-nai nên đã bị đưa ra xét-xử trong một phiên toà công-khai tại huyện Thống-nhất, tỉnh Đồng-nai vào tháng 11-1978. Có thể vì muốn dằn-mặt công-luận nên chính-quyền huyện Thống-nhất gửi giấy mời Giám-mục Xuân-lộc và các linh-mục trong huyện Thống-nhất đi nghe xử. Đức giám-mục Nguyễn Văn Lãng sau này cho biết ông cũng rất muốn đến toà cho biết sự-thể, song nghĩ lại nên để cha Hiệu tự-nhiên ăn nói giữa toà. Những người có mặt trong phiên-xử này đã chúng-kiến thái-độ ung-dung tự-tại của linh-mục Trần Học Hiệu với những lý-luận giữa toà, nhất là khi nói về vụ án Galilée. Nhiều người thân, quen đã chép miệng trong toà …giáo-sư đại-học có khác, phải “minh minh-đức” như thế mới đúng nghĩa tâm-linh.

Linh-mục Trần Học Hiệu bị tuyên xử tử-hình. Một mục-sư cùng bị giam với ông, vì bị bệnh nặng sắp chết, được cho về nhà để chữa bệnh, đã đem theo lời cha Hiệu nhắn về là sẽ không viết đơn xin ân-xá.

Năm 1981, tôi được tin từ Tân-mai Biên-hoà nhắn lên gặp gấp. Rồi được một cậu nhỏ bán cà-rem dẫn đi tìm mộ cha Hiệu. Tôi được cho mượn chiếc xe đạp cùng ra đi. Vừa đạp xe, cậu nhỏ vừa kể vì ngày-ngày đạp xe đi bán rong, la-cà đến cả các khu trại bộ-đội sau phi-trường Biên-hoà. Một hôm đang đứng bán kem cho bộ-đội ở cổng trại thì có mấy chiếc xe công-an chạy qua. Họ bảo là xe đi xử bắn và rủ đi xem, từ đó mới biết bãi xử bắn ở phía trong sâu này, cho nên sau đó cứ gặp xe như thế là chạy theo xem. Đây là nơi ngày trước thuộc vùng phi-quân-sự, nên có một khu đất bị bom làm thành một hố trũng khá lớn, thấp hơn mặt đường đi bốn năm thước, đang được dùng làm bãi xử bắn và cứ lâu-lâu họ lại đem đến bắn mấy người rồi vùi luôn xác tại đây nên dân địa-phương ít dám lai-vãng. Cậu nhỏ nói đâu có biết cha Hiệu là ai, chỉ là lần đi xem xứ bắn đó, thấy có người vừa bị bịt mắt và tróí vào cột xong là hát rất to bài “Kinh Hoà-bình” nên đoán là ông cha mới về kể lại thôi.

Pháp-trường vẫn còn ba cái cột chôn sẵn với các mẩu giây trói bị cắt nát vương-vãi và chỉ có thể đếm được gần 30 nấm mộ bằng-phẳng như mặt đất, là nhờ các miếng gỗ tạp cắm làm bia khuất trong bãi cỏ cao đến đầu gối. Cậu bán cà rem lưu ý đi cẩn-thận vì đã có lần người bị bắn xong thì vùi ngay xuống, không có quan tài gì cả. Tôi chăm-chú lần từng tấm bia gỗ với sự hồi-hộp giữa hy-vọng và thất-vọng lẫn-lộn cả khi tìm được mộ hay không.

Cuối cùng chúng tôi thấy được mộ linh-mục Trần Học Hiệu, dù hơi khó tìm vì cọc gỗ bị gẫy, tấm bia gỗ rộng khoảng 50 cm rơi lẫn trong cỏ, song nhờ mặt ghi chi tiết bằng sơn đen lại úp sấp trên đất nên còn rõ nét. Tôi thấy lạ khi đọc hai chữ Khánh Hạ viết trước tên cha Hiệu trong hàng chữ đầu. Linh-mục Trần Ngọc Quỳnh xác-nhận Khánh Hạ là tên gọi của linh-mục Trần Học Hiệu lúc nhỏ.

Trên đường về, tôi ghé báo tin cho gia-đình ông Cự, một người em con dì ruột của cha Hiệu sống ở giáo-xứ Bùi-vĩnh. Rồi về lần-lượt đi xác-nhận với Đức Tổng-giám-mục Nguyễn Văn Bình, linh-mục Trần Văn Hiến Minh Đại-diện Bùi-chu, các Bề-trên dòng Mân-côi Chí-hoà, Trinh Vương Bùi-môn, linh-mục Trần Thái Hiệp Giám-đốc Đại-chủng-viện…Lễ phát-tang được cử-hành tại nhà nguyện Mai-khôi của Dòng Đa-minh chi Lyon. Linh-mục Phạm Long Tiên mở đầu Thánh-lễ với câu…trong Thánh-lễ hôm nay, xin cộng-đoàn đặc-biệt nhớ đến linh mục Gio-an Bao-ti-xi-ta Trần Học Hiệu, người đã nhận một cái chết đau thương….

Lợi-dụng thời-gian chính-quyền đang có chương-trình giải-toả các khu nghĩa trang, gia-đình ông Cự đứng xin cải-táng. Lá đơn cần sáu con dấu, năm con dấu thuộc các ban cấp xã, ấp…cứ thấy chữ “đơn xin cải táng” thì đóng dấu, nhưng lên tới Huyện Thống-nhất, là nơi đã thi-hành án thì chúng tôi ngại ba chữ Trần Học Hiệu không xong, cho nên phải dùng tiền cho xong. Thực ra, nếu không xin giấy thì cũng có thể được vì nơi đó hoang-vắng không ai để ý, song chỉ sợ có khi đang làm thì chính-quyền tỉnh Đồng-nai lại đem ngưòi đến bắn, sẽ phiền-phức.

Hôm cải-táng về đất-thánh xứ Bùi-vĩnh, linh-mục Mat-thêu Bùi Tiến San vốn trước là học trò của cha Hiệu ở chủng-viện, đã dành cho mọi sự dễ-dàng, song chỉ khuyên vì còn mới quá nên bia mộ để đơn giản là cố “Gio-an Bao-ti-xi-ta HIEU”. Tôi cũng liên-lạc được với gia-đình ông giáo Nhâm, ở gần Trảng-bom là nơi đã giúp linh-mục Trần Học Hiệu thời-gian trong rừng và cả nhà họ sau đó đều bị bắt, ông giáo suýt bị tử hình, bà giáo và cô con gái cũng đi tù ít năm. Thêm vài người nữa tôi được biết như linh-mục Đa-minh Trần Văn Nguyện, phó xứ Tân-mai bị 20 năm tù, chỉ vì liên-lạc về nhu-cầu phụng-vụ của một linh-mục như đem rượu và bánh lễ vào cho cha Hiệu; ông Trần Trọng Thi trước 1975 là nhân-viên hành-chính của trường Nguyễn Bá Tòng, đã bị bắt giam ở Chí-hoà vì lý-do “đồng bọn” của linh-mục Trần Học Hiệu, nhưng không đưa ra tòa, hỏi cung và điều-tra chán thì thả về.

Xin được trân-trọng cùng tưởng-niệm nơi đây.

Đang giữa bữa ăn trưa trong ngày bốc mộ linh-mục Trần Học Hiệu, ông Cự đem túi đựng các thứ còn gom được trong quan-tài như sách đọc thiêng-liêng, tràng hạt, bàn chải đánh răng, hai vòng dây trói ở cổ tay và đôi dép nhựa đã đứt quai hậu…cho mọi người xem. Khi vừa nhìn thấy đôi dép cao su, bà vợ ông giáo đánh rơi bát đũa xuống đất và ôm mặt khóc vì chính bà mua gửi vào trong rừng.

Năm 1985, một linh-mục – tạm nhớ tên là cha Nhung – ở Long-khánh, tìm đến nhà, giao cho tôi ba bản nhạc viết tay do chính ông ghi lại. Ông cho biết, cũng bị đi tù 20 năm vì lý-do tôn-giáo và bị biệt-giam cạnh phòng giam cha Hiệu. Hai người dùng cách gõ “morse” mà nhận ra nhau là linh-mục. Cha Hiệu đã viết ba bản nhạc… Ôi Giê-su, Tù vực thẳm hư vô và Tâm-ca Mai-đệ-liên…rồi cũng gõ “morse” “hát” cho ông nghe hàng ngày để góp ý, thêm lời và hai người cứ hát đi hát lại. Rồi cha Hiệu nhờ ông khi nào được về thì giao lại cho tôi, vì cha nói không còn nhớ được địa-chỉ nào nữa. Thấy vậy, cha Nhung cố gắng ghi từng chi-tiết về cả nhạc và lời vào đầu. Sau khi linh-mục Trần Học Hiệu bị đem đi xử bắn thì ngày nào cha Nhung cũng hát nhẩm trong đầu như một cách dâng lời cầu nguyện cho cha Hiệu. Khi được tha, ông vội-vã viết ngay xuống giấy để khỏi quên, chờ tìm cách liên-lạc với tôi.

Hai đoạn trích-dẫn ngay ở đầu bài viết này là hai phiên-khúc của bài hát Ôi Giê-su và Từ vực thẳm hư-vô mà khi Đức Tổng-giám-mục Ngô Quang Kiệt đọc xong đã chia sẻ….thật là hào hùng. Một trái tim lớn đau cái đau của cả dân tộc. Bài “Từ vực thẳm hư vô” rất tha thiết. Đúng tấm lòng bị vò xé của ngài… Một trái tim âm thầm với một tình yêu lớn lao.

Trước khi chấm hết bài viết về linh-mục Trần Học Hiệu với những gì còn lưu lại nơi cõi đời này, tôi không thể không tỏ-bày đôi dòng cảm-nghĩ của một người con thiêng-liêng trong tương-quan tâm-linh …Lại thêm một ngày giỗ của cha đến trong khi con vẫn chưa quen được với những cảm-nghĩ rằng cha đã thực sự khuất vắng hẳn trong cuộc đời này. Là linh-mục bên cạnh đời sống tâm-linh của tín-hữu nói chung và của đám anh em chúng con cách riêng, cha đã thể-hiện được những gì của vai trò chứng-nhân cần có. Để ngay lúc này con có thể thưa với cha rằng trong cuộc hành-trình của chúng con, đôi lúc con cũng cảm thấy hun-hút, vô-định và mịt-mờ; nhưng hình ảnh và lời nói của cha đã nói tiếp với con về một cái gì không phải là hư-vô vì con nghĩ cha vẫn tiếp-tục đi về hướng trước mặt trên cùng con đường ấy…

HÁO HỨC

Lê Vi

HÁO HỨC

Nhà cai trị ít nhiều đã thành công trong việc dùng phương tiện báo chí truyền thông tâng bốc đường sắt Cát Linh-Hà Đông, dụ khị được khá đông dân chúng leo lên nó.

Từ khóa của 2 ngày qua là “háo hức”, chưa bao giờ báo chí tivi thể hiện sự đĩ thõa đến thế.

Dân chúng, những người “háo hức”, tò mò, vô tư mau chóng quên rằng con đường dài 13 cây số ấy đã đội vốn lãng phí gấp 3 lần so với ban đầu, tiêu tốn gần 1 tỉ đô (Mỹ) từ chính tiền thuế mà họ đóng góp, suốt mười mấy năm qua gây quá nhiều tai tiếng. Họ không hiểu rằng nhà cai trị đang xoa tay thở phào khi cho tàu chạy, coi như thế là xong, không bị thiên hạ bới đống rác Cát Linh-Hà Đông ra ngửi nữa.

Tôi nói thật, với kiểu dân háo hức an phận dễ quên như thế, đừng mong gì vào cái gọi “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân”. Chính dân tự tước cái quyền làm chủ của mình, tự cúi đầu trước kẻ cai trị, chứ không có ai bắt ép họ cả, trừ những trường hợp bị lừa. Tham một chút mồi dử “miễn phí” để tiếp tay cho những kẻ chủ trương ngu dân, ngu muội.

Thông cáo (Nguyễn Thông)

Ảnh: Một thủ đô hiện đại thế kỷ 21 mà con tàu trông giống như con sâu, không khác gì con sâu rau muống, xấu đau xấu đớn, còn coi những ảnh chụp trong tàu thấy nó không hơn tàu điện bờ Hồ-Hà Đông từ thời Pháp.

May be an image of train and outdoors

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Tù Nhân Phạm Đoan Trang

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Tù Nhân Phạm Đoan Trang

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

Nguyễn Xuân Phúc không phải là người hùng biện hay nói năng lưu loát. Mọi câu chữ ngô nghê của ông (cờ lờ mờ vờma dzê in Việt Nam …) đều trở thành đề tài cho thiên hạ cười đùa, giễu cợt. Ngay cả khi ông phát biểu những lời lẽ (nghe) có vẻ thống thiết chăng nữa, ông cũng vẫn bị mọi người coi thường và đều bỏ ngoài tai.

Ngày 4 tháng 8 năm 2017, trong buổi làm việc với Liên Hiệp Các Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam, ông tuyên bố: “Thủ tướng luôn lắng nghe bất cứ văn nghệ sĩ nào có những ý tưởng xây dựng đất nước.”

Bốn năm sau – hôm 26 tháng 7 năm 2021 – khi đọc Diễn Văn Nhậm Chức Của Chủ Tịch Nước, ông không quên ân cần nhắc nhở:“Chủ tịch nước sẽ lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, trong đó có đội ngũ trí thức trong và ngoài nước.”

Vài  tuần kế tiếp, vào hôm 16 tháng 9 năm 2021, trong Thư Gửi Đồng Bào Cử Tri TPHCM, ông Phúc lại tiếp tục thiết tha bầy tỏ sự cầu thị (cứ) y như thiệt vậy: “Gia tài lớn nhất của chính quyền là niềm tin của nhân dân. Vì vậy, cần có nhiều kênh, nhiều cách để lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của người dân, đáp ứng ở mức cao nhất.”

Thế mà đám cử tri ở Sài Gòn (nói riêng) và giới văn nghệ sĩ/trí thức (nói chung) đều thủ khẩu như bình. Chả ai có “ý kiến, tâm tư, nguyện vọng” gì ráo trọi – trừ TS Nguyễn Đình Cống :

“Tôi đã hai lần gửi thư chuyển phát nhanh qua Bưu điện, có biên nhận. Ngày 22 tháng 9 gửi trực tiếp cho Chủ tịch. Ngày 24 gửi cho ông Chủ nhiệm Văn phòng, nhờ chuyến cho Chủ tịch. Thư gửi đến Văn phòng chủ tịch nước, số 2 Hùng Vương, Hà Nội…

Nhưng cho đến ngày 7 tháng 10 vẫn bặt vô âm tín. Phải chăng thư đã bị chặn hay là thất lạc đâu đó, chưa đến tay Chủ tịch, hoặc đã đến tay nhưng ông không xem.”

Thiệt là may mắn. May là “thư đã bị chặn hay là thất lạc đâu đó,” chớ không thì ông Cống (hay ông Nghè, hoặc ông gì bất cứ) cũng đã “nằm co” trong nhà tù Hoả Lò rồi.

Thiệt là hú hồn, hú vía!

Thận trọng hơn, T.S Mạc Văn Trang bèn nghĩ ra một phương cách an toàn khác. Thay vì gửi thư “góp ý” như T.S Nguyễn Đình Cống, ông cho lên trang FB ảnh một cái cây lá vẫn còn xanh nhưng gốc đà mục rễ, rồi xin độc giả cho một lời bình.

Thiệt là một sáng kiến. Chỉ trong vài tiếng đồng hồ, có đến gần 600 độc giả sốt sắng tham dự. Điều lạ lùng là tuyệt đại đa số đều phát biểu những câu chữ, với nội dung tương tự nhau. Xin ghi lại năm bẩy ý kiến đầu tiên :

Tiếng nói của cư dân mạng nghe cứ như tiếng cú khiến tôi nhớ đến lời báo tử của nhà văn Nguyên Ngọc: “Chế độ này thế nào cũng sụp đổ. Nhưng không biết nó sẽ sụp đổ theo kịch bản nào?”

Trung ngôn nghịch nhĩ !

“Kịch bản nào” thì cũng rất trái tai ông Chủ Tịch Nước và những vị lãnh đạo cấp cao của chính phủ hiện hành. Nguyên Ngọc – tuy thế – chỉ bị đám dư luận viên xúm vào bề hội đồng thôi, chứ chưa phải tù tội một ngày nào cả.

Ngoài cái uy tín của một người cầm viết có thực tài (và có đông độc giả), một sĩ quan cao cấp với rất nhiều công trạng, Nguyên Ngọc còn có ưu thế của một già làng sắp đến tuổi cửu tuần. Trong một xã hội mà “mọi công dân đều là một tù nhân dự khuyết” thì nhà nước Việt Nam bắt ai chả được nhưng tóm Nguyên Ngọc hôm trước rồi hôm sau (lỡ) ổng “chuyển qua từ trần” luôn thì …chết mẹ, nếu không lôi thôi lớn thì cũng lôi thôi lắm!  

Phạm Đoan Trang, tiếc thay, không có cái “ưu thế” tương tự. Tuy ôn tồn, nhỏ nhẹ, và hoà nhã thấy rõ (chỉ “yêu cầu tổ chức bầu cử tự do và công bằng ở Việt Nam” thôi) nhưng nhà báo đã bị bắt giam – từ ngày 6/10/2020 – và bị “hành” cho bầm dập từ hơn một thập niên trước đó.

Bỉnh bút Trần Phương (Tạp Chí Luật Khoa) ghi nhận :

Năm 2008 – 2009 Đoan Trang là nhà báo Việt Nam đầu tiên viết bài phân tích sâu về quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam. Đó là những bài viết gây tiếng vang lớn trên chuyên trang Tuần Việt Nam của báo VietNamNet…

Năm 2009, một sự kiện bất ngờ đã bẻ lái cuộc đời cô sang một hướng khác. Ngày 27/8/2009, blogger Người Buôn Gió, tên thật là Bùi Thanh Hiếu, bị bắt. Một ngày sau đến lượt Đoan Trang; và rồi blogger Mẹ Nấm, tên thật là Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, bị bắt vài ngày sau. Công an cho rằng cả ba người đã xâm phạm an ninh quốc gia vì đã tham gia in ấn áo thun chống dự án khai thác quặng bauxite ở Tây Nguyên…

Sau vụ bị bắt tạm giam năm 2009, Đoan Trang bị báo VietnamNet sa thải mà không có lý do… Ngày 5/8/2012, Đoan Trang bị công an bắt trong một cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội.

Sáng ngày 26/4/2015, nhóm Vì Một Hà Nội Xanh tổ chức tuần hành phản đối chính quyền Hà Nội chặt cây xanh. Trong lúc biểu tình, công an đã cưỡng bức Đoan Trang cũng như nhiều người biểu tình khác lên xe buýt…

Sau vụ việc này, Đoan Trang bắt đầu đi đứng khập khiễng. Vào tháng 5/2015, cô được bác sĩ chẩn đoán là khớp gối bị tràn dịch khớp và viêm bao hoạt dịch…

Tháng 10/2016, Nhóm Green Trees xuất bản sách “Toàn cảnh thảm họa môi trường biển Việt Nam” trên Amazon do Đoan Trang và các nhà hoạt động khác làm đồng tác giả. Đây là cuốn sách ghi lại các diễn biến, thực trạng trong và sau sự cố Công ty Formosa làm ô nhiễm biển vào giữa năm 2016. Cũng trong năm này, sách “Từ Facebook xuống đường” được xuất bản trên Amazon

Năm 2017, Đoan Trang viết sách “Chính trị bình dân” trong những ngày bị giam lỏng tại nhà ở Hà Nội. Tháng 7/2017, để tránh bị công an sách nhiễu, cô đã rời khỏi Hà Nội và đến Sài Gòn.

Ngày 22/9/2017, sách “Chính trị bình dân” của Đoan Trang ra mắt độc giả. NXB Giấy Vụn và nhóm Green Trees đã xuất bản cuốn sách này. Đây là một cuốn sách nhằm phổ biến các kiến thức chính học căn bản đến tất cả mọi người, nhất là các bạn trẻ hoạt động xã hội, và nhân quyền.

Ngày 15/8/2018, Đoan Trang bị công an mặc thường phục đánh đập khi đến nghe đêm nhạc của ca sĩ Nguyễn Tín. Đêm ca nhạc bị công an giải tán, những người tổ chức và tham gia bị công an thẩm vấn và đánh đập… Trong hơn ba năm kể từ tháng 7/2017, Đoan Trang đã sống ở ít nhất 60 chỗ ở khác nhau ở khắp các tỉnh thành. Cô đã đi lại hơn ba năm qua cùng với đôi chân thương tật, và nỗi sợ hãi nặng nề đeo bám, bị đánh đập, bị hành hung, bị công an bao vây bất cứ lúc nào…

Mà nào chỉ có thế!

Ngoài việc bị lực lượng công an ngày đêm rình rập, thường xuyên sách nhiễu và hành hung, lực lượng tuyên giáo của nhà nước còn cho phổ biến hằng trăm bài viết với một thứ ngôn từ bẩn thỉu và hạ tiện chưa từng thấy:

Không rõ “bao nhiêu cuốn lịch đang chờ Phạm Đoan trang” trong những ngày tháng tới nhưng mọi người đều biết sắp có một phiên toà (ô nhục) dàn dựng bởi một nhà nước hèn hạ, và hèn nhát. Họ nắm trọn mọi quyền lực trong tay, sử dụng tất cả những thủ đoạn đê tiện và thô bạo nhất (trong hơn chục năm trời) nhưng vẫn không thể khuất phục được một lương dân chỉ bầy tỏ ý kiến rất ôn hoà (yêu cầu tổ chức bầu cử tự do và công bằng ở Việt Nam”) như nhà báo Phạm Đoan Trang.

Cuối cùng thì chế độ hiện hành đã phải dùng đến hạ sách là “giam người bịt miệng. Ấy thế mà vẫn cứ trơ tráo “ tham gia ứng cử vào Hội Đồng Liên Hiệp Quốc (và mồm mép vẫn cứ leo lẻo “lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân”) mà không đứa nào biết ngượng ngùng hay hổ thẹn gì ráo trọi!

Bữa tiệc đầu tiên

Bữa tiệc đầu tiên

Bởi  AdminTD

Thái Hạo

5-11-2021

Từ vụ “rắc muối”, nhớ đến một chuyện xưa cũ, đó là năm thứ nhất đại học. Sau buổi đại hội, tôi “được” các bạn bầu làm bí thư của lớp. Đại hội, tất nhiên rồi, thành công tốt đẹp.

Chúng tôi được dắt đến một nhà hàng. Tôi từ nông thôn lên thành phố đi học, cái nhà hàng và bữa tiệc như thế khá xa lạ với tôi. Tôi áng chừng, với đồ ăn, bia bọt… như thế bữa tiệc này có thể bằng mấy tháng tiền cha mẹ chu cấp cho mình ở thời điểm đó. Lúc ấy, tôi ngồi cạnh một anh năm 4 là bí thư liên chi đoàn. Tôi hỏi anh “Mình đi nhậu thế này, là tiền ai?”, anh ấy trả lời “Tiền quỹ đoàn”.

Sau này, vì cứ thắc mắc mãi trong lòng, tôi mang chuyện này hỏi thầy tôi, rằng tại sao “cán bộ” đi nhậu mà lại dùng tiền quỹ của đoàn viên đóng góp, tiền ấy đáng ra phải được sử dụng vào những việc công và hữu ích chứ…”. Thầy tôi nói một câu dường như rất lạc đề: “Em là người chưa tha hóa”.

Lúc ấy tôi không hiểu, mãi về sau mới dần dần cảm nhận được ẩn ý của thầy khi đã nhìn thấy, đọc thấy, nghe thấy đủ nhiều. Chính cái “bữa tiệc đầu tiên ấy” đã ở lại mãi trong tâm trí tôi, nó khiến tôi nhìn và luôn nhìn vào cái cách tổ chức, cách vận hành và cách xài tiền công, về cả căn bệnh “vua tập thể”, nó dẫn tôi đến ngó sâu hơn vào cả nạn tham nhũng, tệ mua quan bán tước, ăn trên ngồi trước… Viết đến đây bỗng nhớ bài thơ “Sở kiến hành” (Những điều trông thấy lúc đi đường) của Nguyễn Du, miêu tả hai hình ảnh trái ngược của quan và dân:

“Thức ăn thừa đổ đi
Chó no ngấy món ngon,
Biết đâu bên đường quan,
Có mẹ con cực khổ!”

Đến nay, những hình ảnh như thế dường như càng được tô đậm hơn bởi những bất công oan nghiệt giữa thế kỷ 21 này.

Tiêu tiền của người khác dĩ nhiên là không thể chấp nhận được rồi, điều ấy không cần phải bàn nữa; nhưng hoang phí tiền bạc của chính mình cũng vẫn là một điều tệ hại. Tôi không khuyến khích sự khổ hạnh, nhưng có những giá trị phổ quát mà cả nhân loại thừa nhận và nỗ lực giữ gìn, xiển dương, như là đức khiêm cung, là sự tiết độ. Xã hội chỉ lành mạnh khi con người sống lành mạnh và giàu có về tâm hồn.

Từ những bữa tiệc cò con ở cấp thôn xã lên tiệc sang của cấp huyện tỉnh, rồi đại yến… Nó không phải chỉ đơn thuần là câu chuyện lãng phí hay tiêu tiền chùa. Sự hưởng thụ vật chất vô độ chỉ chứng tỏ một tinh thần nghèo nàn thảm hại. Sự trống rỗng của cái đầu và trái tim phải được bù đắp bằng sự đầy ắp của cái bụng và cái đít.

Hoang phí bằng lối sống xa hoa phè phỡn là biểu hiện của sự tha hóa nhân tính. Đối với một triều đại thì đó là dấu hiệu của suy tàn và diệt vong.

Liên Hiệp Quốc báo động nạn buôn phụ nữ Việt Nam sang Ả Rập Xê Út

Liên Hiệp Quốc báo động nạn buôn phụ nữ Việt Nam sang Ả Rập Xê Út (RFI)

Đăng ngày: 05/11/2021 – 13:52

Ảnh minh họa : Nạn nhân buôn người thường là thiếu nữ hoặc phụ nữ trẻ. Ảnh : AFP

Thùy Dương

Liên Hiệp Quốc ngày 03/11/2021 báo động về nạn phụ nữ và trẻ em gái Việt Nam nghèo đói trở thành nạn nhân của những kẻ buôn người sang Ả Rập Xê Út thông qua hình thức xuất khẩu lao động. 

Tuyên bố của nhóm chuyên gia đăng trên website của Cao Ủy Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc ngày 04/11/2021 báo động: “Chúng tôi đang chứng kiến ​​những kẻ buôn người nhắm vào phụ nữ và trẻ em gái Việt Nam sống trong cảnh nghèo đói, nhiều người trong số họ đã lâm cảnh dễ bị tổn thương và bị gạt ra bên lề xã hội. Những kẻ buôn người hoạt động mà không bị trừng phạt”. 

Theo các chuyên gia Liên Hiệp Quốc, sau khi ký hợp đồng với các công ty tuyển dụng lao động tại Việt Nam, một số thiếu nữ và phụ nữ bị chủ lao động lạm dụng tình dục, đánh đập, tra tấn và đối xử tàn nhẫn khi đến Ả Rập Xê Út. Thường thì họ không được cung cấp thực phẩm, không được điều trị y tế, không được trả lương, hoặc chỉ được hưởng lương thấp hơn mức lương ghi trong hợp đồng. 

Liên Hiệp Quốc báo động có một số công ty khai khống tuổi của trẻ em gái để đưa các em sang Ả Rập Xê Út làm giúp việc gia đình, che giấu sự thật là các em vẫn còn nhỏ tuổi. Các chuyên gia nêu trường hợp một thiếu nữ Việt Nam 15 tuổi bị ốm vì bị chủ đánh đập, không cho ăn uống và chữa bệnh. Nạn nhân được cho về nước, nhưng chưa kịp lên máy bay thì đã qua đời. Do giấy tờ của cô bị làm giả nên gia đình hiện vẫn chưa nhận được thi thể nạn nhân. 

Liên Hiệp Quốc thúc giục chính quyền Việt Nam và Ả Rập Xê Út có thêm nhiều hành động để chống nạn buôn người và bảo vệ những người lao động Việt Nam, trên cơ sở các nguyên tắc về nhân quyền và bảo đảm thực thi trách nhiệm. Liên Hiệp Quốc khuyến nghị Ả Rập Xê Út có luật lao động bảo vệ người nước ngoài nhập cư làm lao động giúp việc gia đình, mở rộng cải cách luật lao động cho nhóm đối tượng này. Các chuyên gia của Liên Hiệp Quốc cũng thúc giục chính phủ hai nước tiến hành một cuộc điều tra công bằng và độc lập, thậm chí cả về những cáo buộc liên quan đến sự tiếp tay của các cơ quan công quyền. 

Liên Hiệp Quốc cho biết thêm trong vòng chưa đầy 2 tháng, từ ngày 03/09 đến 28/10/2021, có khoảng 205 phụ nữ Việt Nam, trong đó có nhiều người là nạn nhân của nạn buôn người, đã được hồi hương. Các chuyên gia kêu gọi Việt Nam tăng cường hỗ trợ những người phụ nữ này, kể cả về pháp lý, chăm sóc y tế và tâm lý xã hội. 

Liên Hiệp Quốc nhắc nhở Việt Nam và Ả Rập Xê Út về “các nghĩa vụ pháp lý quốc tế trong việc hợp tác chống nạn buôn người”, bao gồm cả trong điều tra tư pháp hình sự, có các biện pháp khắc phục hiệu quả tệ nạn này và hỗ trợ nạn nhân. 

Điều gì khó chịu nhất ở Việt Nam?

Điều gì khó chịu nhất ở Việt Nam?

Bởi  AdminTD

 Nguyễn Thọ

5-11-2021

Nhiều người nước ngoài đã đến Việt Nam thường bày tỏ những cảm xúc khác nhau về đất nước, con người xứ này.

Trang Quora.com có đăng ý kiến của Michael Gailey, người Mỹ đã sống 12 năm ở VN. [1] Dù rất thích sống ở Việt Nam, lấy vợ Việt, anh vẫn kể ra một loạt các vấn đề khiến anh khó chịu. Nào là các cây cột điện chằng chịt dây, nào là sự rối loạn trong giao thông, rắc rối trong việc quản lý tiền tệ, ngoại hối. Rồi bụi, ồn, ô nhiễm, v.v. và v.v.

Tất cả những chuyện đó người Việt đều biết, đều khó chịu và rồi đều cùng chung tay làm cho không khí thêm bụi, nước thêm ô nhiễm, tiếng ồn càng tăng, cột điện càng chằng chịt, biển số nhà càng rối loạn, giao thông càng ùn tắc… Ai cũng chặc lưỡi chấp nhận một nền hành chính quan liêu, từ nhà bank đến đăng ký tạm trú, khai báo covid…

Nhiều người Việt coi nguồn gốc của mọi vấn nạn ở chỗ nhà nước yếu kém, ở chế độ chính trị lạc hậu. Điều đó đúng 100%, xét về phía nhà nước. Nhưng còn 100% của vế kia, của người dân thì ít ai nhắc đến.

Người Tây vào Việt Nam thì lại ít kể về nhà nước pháp quyền, về tự do ngôn luận, về quyền con người. Vì họ biết là họ đang ở đâu. Họ thường chú ý đến cách hành xử của con người, đến cái cột điện, cái quán nhậu để đánh giá văn hóa của chủ nhà.

Có một số người Tây khó chịu khi thấy quán cà phê, quán nhậu lúc nào cũng đông và đặc biệt thường là người trẻ tuổi ngồi. Các bạn trẻ đó có thể ngồi cả ngày, trong khi họ là những người có năng lực lao động nhất trong gia đình, xã hội.

Đã thế người Việt lại có thói quen khoe ảnh lúc ăn nhậu. Tôi dị ứng nhất khi nhìn thấy các bức ảnh kiểu này, bất kể khi cả bọn quần đùi bệ rạc ngồi bệt trên chiếu, bát đũa lôi thôi, hay các đại gia ngồi bên cỗ bàn đắt tiền, rượu bạc triệu. Kèm theo đó là những nụ cười mãn nguyện, hả hê trước miếng ăn, mâm cỗ.

Đó là lỗ hổng văn hóa!

Như vậy thì hình ảnh cái cột điện chằng chịt, cái biển số nhà dài lê thê, cảnh ngã tư ùn tắc hay những nụ cười hả hê bên mâm nhậu đều cùng một nguồn gốc.

[1] https://www.quora.com/What-do-you-not-like-in-Vietnam

LỊCH SỬ CÒN NGUYÊN

LỊCH SỬ CÒN NGUYÊN

Chuyện về cụ bà Nguyễn Thị Năm (Cát Hanh Long) bị xử tử. Làm cách nào một người yêu nước, góp cho cách mạng 800 lạng vàng như cụ bà lại bị cách mạng xử tử? Đó là những câu chuyện rất lạ của một thời lịch sử.

Bà Cát Hanh Long (tên hiệu trong buôn bán giao dịch của bà Năm) sinh năm 1906, quê ở Làng Bưởi, ngoại thành Hà Nội, vốn là một người đàn bà giỏi làm ăn trên đất cảng Hải Phòng, từ nhiều nghề khác nhau trong đó có buôn bán tơ, sắt vụn, bà đã sớm thành đạt trên thương trường, xây nhà tậu ruộng…

Nhà giàu, được giác ngộ nên bà Năm trở thành nguồn cung cấp tài chính cho cách mạng thời từ trước tháng 9 năm 1945 mà bây giờ gia đình tập hợp lại thành một hồ sơ dày đặc từ việc góp 20.000 đồng bạc Đông Dương tương đương bẩy trăm lạng vàng đến thóc gạo, vải vóc, nhà cửa…

Dù đã đứng tuổi theo quan niệm đương thời, nhưng người phụ nữ 40 tuổi của thành phố cảng ấy đã phóng xe nhà treo cờ đỏ sao vàng từ Hải Phòng lên thẳng chiến khu qua thành phố Thái Nguyên, nơi quân Nhật còn chiếm đóng đến Đồng Bẩm, Đình Cả, Võ Nhai để báo cho con trai và các đồng chí của mình tin Hà Nội đã giành được chính quyền.

Sau năm 1945, bà Năm tản cư theo cách mạng lên chiến khu, và mua lại hai đồn điền lớn của “một ông Tây què” tại Thái Nguyên. Hai con trai bà đều đi theo kháng chiến. Khi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức “Tuần lễ vàng”, bà đóng góp hơn 100 lạng vàng. Trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp, bà Nguyễn Thị Năm tham gia các cấp lãnh đạo của Hội Phụ nữ của tỉnh Thái Nguyên và Liên khu Việt Bắc, trong đó có 3 năm làm Chủ tịch hội Phụ nữ tỉnh Thái Nguyên. Khi thực hiện lệnh “tiêu thổ kháng chiến”, bà đã cho san bằng khu biệt thự Đồng Bẩm tại Thái Nguyên.

Nhiều cán bộ cách mạng, nhiều đơn vị bộ đội thường tá túc trong đồn điền của bà. Bà Nguyễn Thị Năm cũng từng nuôi ăn, giúp đỡ nhiều cán bộ Việt Minh sau này giữ những cương vị quan trọng như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Hoàng Hữu Nhân, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Tùng, Vũ Quốc Uy, Hoàng Thế Thiện, Lê Thanh Nghị…

Khi Cuộc cải cách ruộng đất triển khai vào năm 1953, những hành động yêu nước của Nguyễn Thị Năm bị cho là “giả dối nhằm chui sâu, leo cao vào hàng ngũ cách mạng để phá hoại” và bà trở thành địa chủ đầu tiên bị đem ra “xử lý”. Bà bị lên án với tội danh “tư sản địa chủ cường hào gian ác”.

Trong bài viết “Địa chủ ác ghê” của C.B trên báo Nhân dân ngày 21 tháng 7 năm 1953 có kể tội bà là “Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người… Giết chết 14 nông dân, tra tấn đánh đập hằng chục nông dân…”. Cũng theo đó, Nguyễn Thị Năm đã “thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến” và cũng theo đó thì Nguyễn Thị Năm “không thể chối cãi, đã thú nhận thật cả những tội ác”.

Sau những cuộc đấu tố với đủ các thứ tội ác được gán ghép bà đã bị đem ra xử bắn ở Đồng Bẩm, tỉnh Thái Nguyên lúc 8 giờ tối ngày 29 tháng Năm Âm lịch năm 1953. Khi bà vừa tuổi 47.

“Khi du kích đến đưa bà ta đi, bà ta đã cảm thấy có gì nên cứ lạy van “các anh làm gì thì bảo em trước để em còn tụng kinh”. Du kích quát: “đưa đi chỗ giam khác thôi, im!”. Bà ta vừa quay người thì mấy loạt tiểu liên nổ ngay sát lưng. Mình được đội phân công ra Chùa Hang mua áo quan, chỉ thị chỉ mua áo tồi nhất. Và không được lộ là mua chôn địa chủ. Sợ như thế sẽ đề cao uy thế uy lực địa chủ mà. Khổ tớ, đi mua cứ bị nhà hàng thắc mắc chưa thấy ai đi mua áo cho người nhà mà cứ đòi cái rẻ tiền nhất. Mua áo quan được thì không cho bà ta vào lọt. Du kích mấy người bèn đặt bà ta nằm trên miệng cỗ áo rồi nhảy lên vừa giẫm vừa hô: “Chết còn ngoan cố này, ngoan cố nổi với các ông nông dân không này?” Nghe xương kêu răng rắc mà tớ không dám chạy, sợ bị quy là thương địa chủ. Cuối cùng bà ta cũng vào lọt, nằm vẹo vọ như con rối gẫy vậy…” – Hồi ký Đèn Cù của Trần Đĩnh.

Ông Nguyễn Hanh, con trai bà Năm kể rằng khi mẹ ông bị xử bắn, ông đang cùng đơn vị ở Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc. Người ta giấu ông mọi tin tức từ trong nước. Hai tháng sau, cuối tháng 6/1953 ông được đưa về nước, bị tống ngay vào trại giam ở Tuyên Quang vì là con của địa chủ gian ác. Năm 1954 ông mới được nghe bà vợ ông đến trại để thăm nuôi kể rõ về sự kiện bi thảm này. Em ruột ông Hanh là Nguyễn Cát, bí danh là Hoàng Công, cả 2 anh em đều hoạt động từ thời kỳ tiền khởi nghĩa 1944 ở vùng Đình Cả, Vũ Nhai. Hoàng Công từng là trung đoàn trưởng của sư đoàn Quân Tiên Phong 308, cũng bị đưa vào trại cải tạo năm 1953, năm 1956 mới được tự do, đau ốm, đến năm 1989 chết thảm trong một tai nạn xe máy.

Năm 1993, sau 40 năm tìm kiếm rất kiên trì, gia đình ông Hanh mới tìm thấy di hài bà Năm cạnh một ao sen, ở bên gốc cây phượng hoa đỏ nhờ chiếc vòng ngọc bám chặt cổ tay và chiếc răng vàng cũng như 2 đầu đạn, bà Cúc vợ ông Hanh cho hay sở dĩ chiếc vòng ấy còn vì bà Năm đeo từ hồi trẻ nó thít chặt vào cườm tay, khi đấu tố có người đã cố rút ra nhưng không được. Di hài bà Năm được đưa về nằm bên mộ chồng là làng Đại Kim, Thanh Trì, Hà Nội.

Cụ ông Nguyễn Hanh, người đảng viên Cộng sản khi mới 21 tuổi, người sỹ quan QĐND cấp trung đoàn khi mới 24 tuổi đã mất sạch mọi thứ, từ bà mẹ nhân hậu đảm đang bị 2 phát đạn oan khiên, đến nhà cửa, tiền bạc, công danh, nay thổ lộ rằng từ 1993 ông đã gửi hàng vài chục lá thư đề nghị các đời Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng… xét cho 2 điều: công nhận mẹ ông, bà Nguyễn Thị Năm là người có thành tích, có công đóng góp cho cách mạng, truy thưởng cho bà Huân chương Kháng chiến, và công nhận Bà là Liệt sỹ, nhưng không một ai trả lời.

Điều duy nhất ông nhận được đến nay là công văn tháng 6 năm 1987 của Ban Tổ chức tỉnh ủy Thái Nguyên, quy định lại thành phần giai cấp của bà mẹ là “Tư sản – địa chủ kháng chiến”.

Ông than thở: “Mẹ tôi từng nuôi dưỡng, che chở cho cả sư đoàn bộ đội, cán bộ, nhiều người biết chuyện nhưng đã cao tuổi, nên sau khi họ mất đi thì mọi chuyện sẽ rơi vào quên lãng”.

FB: Tuấn Mai SG

——————-

Ảnh: Bà Nguyễn Thị Năm (1906-1953) lúc ngoài 40 tuổi.

Nguồn: http://antg.cand.com.vn/…/Chuyen-ve-nguoi-phu-nu-tung…/