“Thầy ông nội” và ba đệ tử bị cáo buộc lợi dụng quyền tự do dân chủ

Thầy ông nội” và ba đệ tử bị cáo buộc lợi dụng quyền tự do dân chủ

RFA
2022.01.07

Bốn người trong Tịnh thất Bồng lai bị khởi tố (từ trái qua): ông Lê Tùng Vân, Lê Thanh Hoàn Nguyên, Lê Thanh Nhất Nguyên, Lê Thanh Trùng Dương

 Photo: RFA

“Thầy ông nội” và ba đệ tử bị cáo buộc lợi dụng quyền tự do dân chủ

00:00/02:14

 Photo: RFA

Ông Lê Tùng Vân (thường được gọi là Thầy ông nội) và ba đệ tử là Lê Thanh Nhất Nguyên, Lê Thanh Hoàn Nguyên và Lê Thanh Trùng Dương chỉ bị khởi tố với tội danh duy nhất là “lợi dụng quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức công dân“. 

Mạng báo Vietnamnet cho biết, Cơ quan Cảnh sát Điều tra huyện Đức Hòa, tỉnh Long An bắt tạm giam ba người sống ở Tịnh thất Bồng Lai, riêng ông Lê Tùng Vân năm nay 90 tuổi được tại ngoại, cấm đi khỏi nơi cư trú. 

Báo Nhà nước không cho biết thêm những hành vi mà bốn người này đã làm, tuy nhiên đây là điều luật thường được chính quyền Việt Nam sử dụng để buộc tội những nhà hoạt động đòi tự do tôn giáo, nhân quyền. 

Như chúng tôi đã thông tin, hôm 4/1/2022 cơ quan công an tiến hành khám xét căn hộ tu tại gia của bà Cao Thị Cúc ở Long An thường gọi là Tịnh thất Bồng lai, sau được đổi tên là Thiền am bên bờ vũ trụ. 

Ngay sau đó, các tờ báo nhà nước đồng loạt dẫn các nguồn tin giấu tên từ cơ quan điều tra nói ông Lê Tùng Vân bị khởi tố về ba tội danh trong đó có tội ‘loạn luân” và tội ” lợi dụng tôn giáo để trục lợi”. 

Fanpage Sin Dubai có gần 200 ngàn người theo dõi đưa một trang văn bản không có mộc giáp lai, không có chữ ký nhưng lại cho là rò rỉ từ cơ quan điều tra cáo buộc “Thầy ông nội” là cha của nhiều đứa trẻ trong Tịnh thất bồng lai. 

Nhạc sĩ Tuấn Khanh, nhận xét về vụ việc qua tin nhắn với Đài Á châu tự Do như sau: 

“Cách làm này dẫn đến việc tạo nên một đám đông rộng lớn ủng hộ việc trừng phạt những người ở Tịnh thất Bồng Lai ở trong một tâm trạng ghét bỏ, và lợi dụng những điều đó – chính quyền có thể hành sự những điều bất minh và vô pháp trong việc kết án những người này, tạo tiền lệ về một xã hội không còn an toàn trong khung luật pháp và cỗ vũ những kiểu hành động rừng rú.”

Sự việc này làm người ta nhớ đến các vụ án của những người bất đồng chính kiến trước kia như vụ Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ bị bắt hồi năm 2010 ở trong phòng khách sạn với một người phụ nữ, và có hai bao cao su đã qua sử dụng. 

Tuy nhiên, sau đó cơ quan An ninh điều tra Công an Hà Nội đổi tội danh từ “quan hệ bất chính” sang cáo buộc “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 

Một người khác là blogger Điếu Cày – Nguyễn Văn Hải bị xử phạt 30 tháng tù giam về tội “trốn thuế” hồi năm 2008, nhưng sau khi hết thời hạn tạm giam lại bị tiếp tục khởi tố tội danh khác là “tuyên truyền chống nhà nước” với 12 năm tù giam bị tuyên tại phiên tòa hồi năm 2012. 

Chuyện gì đã xảy ra tại Tịnh thất Bồng lai? 

Hôm 24 tháng 10 năm 2019, ông Võ Văn Thắng và vợ cùng hàng chục người khác xông vào cơ sở tu tại gia của bà Cao Thị Cúc để tìm con là Võ Thị Diễm My (20 tuổi) được cho là đang ở đây để tu tập. 

Một phụ nữ đi theo nhóm là bà Châu Vinh Hóa dùng miếng gạch men ném vào mặt của ông Lê Thanh Nhị Nguyên, một người đang tu tại gia ở đây gây thương tích 13%. 

Không lâu sau đó, cô Võ Thị Diễm My quay lại Tịnh thất Bồng lai, được xuống tóc và sống cùng với những người trong hộ bà Cao Thị Cúc. 

Khoảng ngày 12/12/2019, Công an huyện Đức Hòa mời cô Diễm My lên để giải quyết đơn tìm con của ông Võ Ngọc Thắng, tuy nhiên sau đó cơ quan này bàn giao cô My cho gia đình. 

Khi biết thông tin này, ông Lê Tùng Vân và những đệ tử đã ở trụ sở công an quay phim, nói công an bắt cóc người và đòi chính quyền giao lại cô Diễm My đã đăng ký tạm trú tại đây. 

Video này sau đó đã thu hút sự quan tâm rất lớn của dư luận, không lâu sau đó cô My lấy được điện thoại quay lại video nói mình bị công an bắt cóc và bị bố mẹ ruột giam cầm và cho uống thuốc. 

httpv://www.youtube.com/watch?v=53E78NhTenU&t=575s

Chỉ khoảng 12 ngày sau trở về nhà, cô Võ Thị Diễm My từ tầng ba nhảy xuống mái nhà bên cạnh và nhảy xuống đường để bỏ trốn khỏi nhà, nhưng bị gia đình tìm ra không lâu sau đó. 

Một lần nữa, không biết bằng cách nào cô này tiếp tục trốn ra khỏi nhà và cho biết đang ở một nơi nào đó không xác định, tiếp tục đăng tải clip tố cáo gia đình, cụ thể là cha ruột xâm hại cô khi bị nhốt trong nhà.

Hiện gia đình cô My vẫn tiếp tục tìm kiếm cô này và cho rằng con gái mình có những biểu hiện không bình thường. 

Trong phiên tòa phúc thẩm ngày 9/12/2021, bà Châu Vĩnh Hóa – người ném gạch men vào một tu sĩ tại gia ở Tịnh thất Bồng lai bị tuyên y án sơ thẩm là hai năm tù, nhưng được cho hưởng án treo và bồi thường 17 triệu đồng cho bị hại. 

Địa đạo Củ Chi: truyện đại bịp của Việt Cộng

Nhật Duy is with Phong Tran and 

Địa đạo Củ Chi: truyện đại bịp của Việt Cộng

Dương Đình Lôi

Gái Củ Chi chỉ cu hỏi củ chi?

Trai Hóc Môn vừa hôn vừa móc.

Em Bảy Mô thân mến,

Bất ngờ anh bắt gặp một quyển sách tiếng Anh viết về địa đạo Củ Chi trong đó có đề cập tới em và hình em nữa. Xem xong quyển sách này anh cười phì vì nó hài hước và bịp bợm quá lẽ, anh không muốn nêu tên sách và tác giả ra đây vì họ không đáng cho anh gọi là nhà văn, mà họ chỉ đáng được gọi là những thằng bịp. Nếu em đọc được tiếng Ăng-Lê thì anh sẽ tìm cách gởi về cho em xem. Và chắc em sẽ có cảm tưởng rằng tác giả của quyển sách nói về một chuyện giả tưởng trên mặt trăng hoặc dưới đáy biển. Anh tự hỏi tại sao tác giả quá ngây ngô để bị lừa một cách dễ dàng rồi trở lại lừa độc giả của họ một cách vô lương như thế. Nhưng cho dù họ bịp được toàn nhân loại đi nữa, họ cũng không lừa được anh và em, những kẻ đã từng đổ mồ hôi và máu trên mảnh đất này. Riêng anh thì đã tử thủ mặt trận: Hai ngàn ngày đêm, không vắng mặt chút nào. Để nói cho độc giả biết rằng:

Bọn Cộng Sản đã bày trò bịp thế gian một lần nữa, sau vụ “đường mòn xương trắng” và khuyên những người nhẹ dạ chớ có mắc lừa, anh quyết định viết quyển sách này.

Họ bảo rằng bề dài địa đạo là hai trăm dậm. Em có tin không? Sự thực Củ Chi có mấy khúc địa đạo còn tạm xài được trước khi Mỹ vô (1964)? Quận Củ Chi là một quận nhỏ gồm mươi lăm xã cách Sài Gòn hai chục cây số đường chim bay, nhưng nó là cửa ngỏ đi vào Sài gòn cho nên có hai bên Quốc Gia lẫn Cộng Sản đều tử chiến ở đây, một chiến trường khốc liệt nhất Miền Nam trong cuộc chiến tranh lần thứ hai của nước ta. Nếu tính bề châu vi thì quận Củ Chi đo được chừng năm mươi cây số. Như vậy bề dài của địa đạo ít nhất bốn lần chu vi Củ Chi. Họ còn viết rằng “địa đạo đã lập thành một vòng đai thép bao quanh căn cứ Đồng Dù và người cán bộ mặt trận có thể ở dưới địa đạo nghe nhạc đang đánh ở trên căn cứ này. Cụ thể là ông Năm Phạm Sang ngồi đàn dưới địa đạo mà nghe Bon Hope diễn kịch” ở trên đầu hắn.

Quyển sách ma này nói láo, nói bậy hoặc nói nhầm hầu hết về những gì đã xảy ra ở Củ Chi trong vòng năm năm (1965-1970) anh và em có mặt ở đó. Nhưng ở đây anh chỉ nhặt ra vài ba điểm quá ư ngu xuẩn của tác giả mà một người đã dám cầm bút viết nên “sách” dù kém tài đến đâu cũng không thể có được. Ví dụ họ viết rằng “anh Tám Lê và vợ là Thị Thắm mổ xẻ thương binh dưới địa đạo”. Xin hỏi: “Làm cách nào để đem thương binh xuống đó?

“ Nên biết rằng miệng địa đạo chỉ hẹp bằng cái khay trầu thôi. Người thường tuột xuống đó còn phải lách chứ không dễ dàng.

Thương binh, nếu nặng thì nằm trên cáng, còn nhẹ thì băng bó đầy mình làm sao tụt xuống được? Và nếu có tụt xuống được thì nằm ở đâu, dụng cụ gì, đèn đóm nào dùng cho cuộc giải phẫu. Đó là chưa nói đến cái không khí ác độc ở dưới địa đạo. Người khỏe mạnh bất đắc dĩ phải xuống địa đạo thì chỉ trong vài tiếng đồng hồ là đã mệt ngất ngư rồi: vì không đủ dưỡng khí! Nếu bị kẹt vài giờ dưới đó thì con người đã trở thành miếng giẻ rách, còn khi bò lên được thì đã quên hết tên họ mình. Vậy sau khi được giải phẫu, thương binh phải sống dưới đó làm sao? Đó là chưa kể những việc lặt vặt khác như thương binh phóng uế hoặc thủ tiêu những băng đầy máu me. Những người chưa từng ở địa đạo nghe mấy vị này mô tả chắc sẽ nghĩ rằng cuộc sống dưới địa đạo khỏe khoắn như ở trong nhà lầu có máy điều hòa không khí.

Xin thưa câu chuyện không đẹp tai cho lắm: Một lần nọ khi chui xuống địa đạo chúng tôi bị quân Việt Nam Cộng hòa chốt trên đầu không lên được. Rủi thay một nữ cán bộ có đường kinh. Nếu ở trên mặt đất thì dù không kịp dùng băng vệ sinh người đàn bà vẫn không toát ra mùi gì (xin lỗi) nhưng ở dưới địa đạo gặp trường hợp này mọi người đều ngặt mình như sắp chết vì cái mùi uế tạp kia. Người chưa từng ở địa đạo không thể biết rằng đánh một cái rắm dưới đó chẳng khác nào bỏ một trái bom nguyên tử.

Vậy ông “anh hùng Tám Lê” có lẽ là một Tề Thiên Đại Thánh mới có thể biến thương binh nhỏ lại bằng cái tăm để đem xuống địa đạo và nhổ lông khỉ của mình biến thành dụng cụ đèn đóm để giải phẫu chăng? Ông “Tám Lê quân y sĩ” giải phẫu thương binh thì có, nhưng bảo rằng ông ta giải phẫu thương binh dưới địa đạo là một chuyện nói láo bỏ sách vở và coi khoa học là một bãi phân chuồng cũng như ông đại tướng bần cố nông Nguyễn Chí Thanh đem hầm đất ra chống B52 để rồi bị chết thảm thương như vậy. Sức khoan phá của một quả bom đìa là mười một thước bề sâu.

Đây anh xin nhắc lại một câu chuyện mà hai anh em mình cùng chứng kiến: Lần đó anh bị thương miểng đạn M79, em và tổ nữ “dũng sĩ” của em đưa anh vào quân y của ông Tám Lê. Vừa tới nơi anh hết sức ngạc nhiên vì thấy một toán bộ đội rượt đánh hai vợ chồng Tám Lê chạy bò càng trong rừng. Kể cũng tội cho ông. Tiểu đoàn Quyết Thắng đánh ở Lộ 6 Gò Nổi bị thương nhiều quá. Chờ đến sáng mới đem thương binh về tới Rừng Lộc Thuận tức là căn cứ của ông Tám Lê thì bị ông từ chối. May có anh ở đó, anh rầy lính tráng và năn nỉ Tám Lê ráng giúp dùm, hòa giải xích mích.

Năm 1967, trong cuộc “càn Cedar Falls” của Mỹ anh phải điều động một đại đội tới khiêng thương binh chạy dưới mưa bom B52 sau trận đánh Cây Trắc đường I làng Phú Hoà Đông về tới Bến Chùa. Trên một trăm thương binh nằm dầy đặc một khu rừng như củi mục. Tiếng la ó, rên rỉ, chửi bới vang trời. Thương binh nằm phơi bụng dưới bóng cây. Những người may mắn thì được đặt dưới hầm giống như cái huyệt cạn, chờ họ chết là lấp đất rất gọn gàng chứ nào xuống được địa đạo địa điếc gì.

Chiến dịch đó vô cùng khủng khiếp phải không em? Nội vùng tam giác sắt trong vòng một tháng có đến 576 cán binh ra hồi chánh. Nếu có địa đạo như kiểu ông tác giả trên nói thì họ cứ rút xuống đó ăn hút chừng nào Mỹ đi thì bò lên chống Mỹ, lựa là hồi chánh chi cho mệt phải không em?

Những người chưa hề đào một tấc địa đạo nào cứ tưởng rằng đào địa đạo dễ như đào hang bắt chuột vậy. Đào một chốc là có cả chục thước ngay. Than ôi! Nào phải như vậy. Những vùng đất có thể đào địa đạo được phải là vùng đất cao để không bị ngập nước và đất phải cứng để không bị sụp lở cho nên đào một thước địa đạo phải hộc ra máu cục, phải mờ cả con mắt chứ đâu có dễ như ông tác giả vẽ trên giấy. Củ Chi có mười lăm xã, nhưng chỉ có năm xã đào được địa đạo mà thôi. Đó là các xã: Phú Mỹ Hưng, Anh Phú, An Nhơn, Nhuận Đức và Phú Hoà. Năm xã này nằm dọc theo bờ sông Sàigon, có lớp đất cao có thể trồng cây cao su mới đào được địa đạo. Ngoài ra mười xã kia là đồng ruộng làm hầm bí mật đã khó rồi.

Anh và em đã từng đào nên từng biết mỗi tấc địa đạo phải tưới bao nhiêu mồ hôi. Mười thanh niên khoẻ mạnh đào trong một đêm chỉ được chừng vài thước là cùng. Vậy muốn hoàn thành hai trăm dậm địa đạo phải mất bao nhiêu công? Và họ đào ở đâu, lúc nào mà được hai trăm miles. Ông tác giả lại còn phịa ra những chuyện ly kỳ là: “địa đạo hai tầng (như nhà lầu) và dưới đáy địa đạo lại có giếng để múc nước” (nấu nước trà uống chắc!). Chưa hết, ông ta lại còn bịa thêm rằng “dưới địa đạo có kho chứa hàng, có nơi nghỉ ngơỉ, có chỗ chứa thương binh”, và còn tài ba hơn nữa, tài nói láo, lại còn “có bếp Hoàng Cầm theo kiểu Điện Biên Phủ” (có đường dẫn khói luồng trong đất) và nào là “đường địa đạo thông ra bờ sông Sàigon…?”

Đây là một chuyện phản khoa học tại sao họ có thể viết được. Muốn cho một làn địa đạo có thể chui ra chui vào được và không sợ xe tăng cán sập thì nóc địa đạo phải cách mặt đất ít nhất chín tấc tây nghĩa là khỏi rễ cây ăn luồng, lòng địa đạo phải cao chín tấc và hình chóp nón nghĩa là đáy rộng chín tấc, nóc chỉ bảy, tám tấc, nếu địa đạo rộng hơn sẽ bi lở, sụp. Đôi khi rễ cây làm trở ngại rất nhiều, chặt đứt một cái rễ cây bằng cườm tay phải mất cả giờ đồng hồ. Như vậy muốn đào tầng địa đạo thứ hai ở dưới địa đạo thứ nhất phải theo công thức trên nghĩa là phải đào sâu xuống một mét tám tấc nữa rồi mới trổ ngang đào lòng địa đạo cao chín tấc. Như vậy từ mặt đất xuống tới đáy địa đạo thứ hai phải là: chín tấc cho nóc địa đạo I, chín tấc cho lòng địa đạo I, chín tấc cho nóc địa đạo II, chín tấc cho lòng địa đạo II, tổng cộng là ba mét sáu tấc. Tôi nói chi li ra như vậy để thấy rằng sự đào địa đạo không có dễ dàng, đơn sơ như ông tác giả kia tưởng tượng hoặc đã được Võ Văn Kiệt cho xem những hầm đào bằng máy để khoe với các ông ký giả ngây thơ. Nên nhớ rằng đào đất cứng dưới hầm nó khó khăn như gọt gỗ lim chớ không phải giang thẳng cánh mà cuốc như trên mặt đất.

Em đã từng đào địa đạo chung với anh, nhưng em nhớ lại thử xem chúng ta đã xuống đó bao nhiêu lần và mỗi lần ở dưới đó mấy giờ đồng hồ, ngoại trừ lần anh chết ngạt ở địa đạo Bến Mương khi anh được lôi lên, cô y tá Thu ở H6 ban Pháo Binh phải cứu cấp anh bằng nước tiểu. Anh không thể tưởng tượng được rằng họ đã bịa đặt đến thế được.

Em Mô thân mến,

Thời kỳ kháng chiến chống Pháp em chưa ra đời, nhưng anh đã đi bộ đội. Năm 1950, anh xuống Miền Tây để học trường Lục Quân. ở dưới đó anh cũng bị mê hoặc về những “đường địa đạo chống giặc” ở quê nhà: Nào là “cả làng, cả nhiều làng xuống địa đạo”. Hơn nữa, “dân lùa cả trâu bò xuống địa đạo, giặc Pháp có biết được miệng hầm cũng không làm gì nổi”. Ra Hà Nội, anh có gặp “anh hùng Nguyễn Văn Song”. Anh ta trở thành “anh hùng quân đội” với huyền thoại “Với một chiếc lưỡi hái cùn, anh ta đã đào hàng ngàn thước địa đạo và cất giấu cả tiểu đoàn. “ Anh vẫn tin như thế. Và cho tới khi đặt chân trở lại Củ Chi năm 1965 anh vẫn còn tin như thế. Nhưng chỉ sau khi đi với em đào một đêm, thì anh mới dội ngửa ra. Anh nghĩ rằng với cái liềm cùn đó, anh Song phải chết đi sống lại mười lần mới có thể đào xong hàng ngàn thước địa đạo kể trên. Anh Song ra Bắc ở Sư Đoàn 338, trốn về Nam rồi biệt tích.

Tác giả quyển sách này đã không biết rằng từ sau khi Mỹ đổ quân vào Việt Nam ta, hầm bí mật và địa đạo ở Củ Chi nói riêng và ở khu IV nói chung hoàn toàn mất tác dụng. Anh nhắc lại em nghe, nếu em quên, hồi đầu năm 1967, Mỹ mở một cuộc hành quân lớn vô An Nhơn. B52 vùi lấp cả một khúc địa đạo gần xóm trại Bà Huệ. Những kẻ sống sót không biết đâu mà moi móc, đành để nguyên như thế cho các nạn nhân yên lòng nơi chín sưối với nấm mồ tập thể trên hai chục người của văn phòng Tham Mưu quận.

Sau đó, một cuộc hội nghị Tham mưu gồm có Tư Hải, Sáu Phấn ở H6 và tiểu đoàn 8 Pháo Binh, bàn việc vận tải hỏa tiễn HI2/ĐKB để pháo kích Đồng Dù. Biệt kích tìm được miệng địa đạo, quăng lưu đạn chết không còn một mống. May mắn lần đó anh bận họp chấn chỉnh tiểu đoàn, nếu không, anh đến họp thì đã tiêu tùng rồi.

Còn ở Bến Súc, tại bờ Rạch Xuy Nô, Biệt kích Mỹ tìm ra miệng địa đạo của Ban Mật Mã điện đài Quân Khu. Họ tóm trọn ổ trên hai chục mạng, lấy vô số tài liệu và hai chiếc máy thông tin.

Kể từ đó địa đạo trở thành nỗi sợ hãi khủng khiếp đối với cán bộ và bộ đội. Ông Trần Đình Xu, tức Ba Định, Tư lệnh Quân Khu thấy tình hình giao động của cán bộ, bộ đội nên đã ra lệnh cho bộ đội không được xuống địa đạo nữa. Vì xuống dưới đó là bị động hoàn toàn không còn tinh thần đâu mà chiến đấu nữa. Kẻ nào bất tuân sẽ bị kỷ luật nặng.

Tuy ra lệnh gắt gao như vậy nhưng chính ông trong lúc cùng đường mạt lộ ông cùng ban tham mưu khu cũng phải chui xuống địa đạo. Chẳng may, Mỹ đóng chốt trên đầu. Cô Là, xã đội phó Phú Mỹ Hưng chạy vắt giò lên Trảng Cỏ tìm anh và yêu cầu anh đem quân về đánh giải vây cho ông ở Bàu Đưng. Nếu không có anh lần đó ông và cả ban tham mưu đã an giấc ngàn thu dưới lòng đất rồi. Nhưng thoát chết kỳ đó, sau mấy tháng, ông lại đạp mìn mà tan xác với chức “Thứ trưởng Quốc phòng” của Chánh phủ ông Phát.

Trong những người “anh hùng” mà ông tác giả kể ra, có ông “Thiếu tá Năm Thuận” nguyên là một tên du kích sọc dưa đã bỏ làng chạy qua Phú An (Bình Dương) để làm nghề câu tôm chờ ngày rước vợ ở Ấp Chiến Lược ra sống chung. Ông “Thiếu tá” này đã giác ngộ cách mạng cao nên đã trở lại Tiểu đoàn II thuộc Trung đoàn Quyết Thắng của anh. Lúc đó quân số Tiểu đoàn chỉ còn trên một đại đội nên Thuận mừng húm khi được anh nhận cho làm lính lãi.

Bên cạnh đó còn có một ông thiếu tá khác đặc sắc hơn. Đó là “Thiếu Tá Quợt” chính ông này bị B52 vùi lấp còn ló cổ lên và chính anh với em cứu sống ở rừng Bàu Nổ xã Thanh Tuyền. Ông ta chưa hề đào một nhát cuốc địa đạo thế mà được ông tác giả đề cao là “Anh hùng đã chiến đấu mười năm ở Củ Chi bằng địa đạo.” Chiến đấu bằng cách nào? Cái ông này nổi tiếng nhờ cái tật ỉa chảy và mang chứng bịnh mắc thằng bố nói nhãm kinh niên, người xanh mét gầy nhom như khỉ già, ngồi đâu như chết đó. Mỗi lần xuống hầm hoặc xuống địa đạo là ông ta són trong quần. Mọi người rất sợ phải chui chung với ông.

Còn nhân vật “chiến đấu” dũng cảm hơn hết. Đó là ông Võ văn Kiệt, tức là “Tư Kiệt Chính ủy Quân khu”. Ông được Năm Ngố “bí thư Huyện ủy” Nam Chi nhường cho một khúc địa đạo để nương náu qua ngày tại Phú Hòa Đông. Nhắc tới việc này, chắc em không khỏi nhớ tới em Lệ tức Tám Lệ, một nữ công tác thành của “Ban Quân báo quân khu”.

Lệ thường ra vào Sài gòn, Tây Ninh… và về báo cáo các công tác, ăn ở nhờ địa đạo của ông Năm Ngô. Do đó Lệ lọt vào mắt ông “Chính ủy khu”. Ông ta bèn biến cô Lệ thành liên lạc riêng của ông ta, rồi trở thành “bạn” thân thiết dưới địa đạo. Chuyện này chắc em không biết đâu. Để chốc nữa anh nói lý do tại sao anh biết cái chuyện ly kỳ này.

Em Mô thân mến,

Anh hiện nay là kẻ lưu vong, lòng luôn luôn hướng về đất nước. Nhưng không bao giờ mơ trở về đất nước, họa chăng có một biến thiên vĩ đại bất ngờ. Viết đến đây anh không cầm được nước mắt. Nếu như anh với em có duyên phần với nhau nhỉ? Nếu thế thì cuộc đời chúng mình sẽ không biết ra sao…

Thôi chuyện đã qua lâu rồi. Em đã có chồng có con cả bầy, còn anh cũng sắp sữa làm ông nội. Nhưng những kỷ niệm lửa máu thật khó quên. Anh không khỏi xót xa ngậm ngùi khi nhìn thấy hình em trên trang sách. Sao trông em sầu não tang thương quá đổi. Có chuyện gì không vui trong đời em sao vậy? Đôi mắt buồn thảm của em đang ngó tới nhưng chính tâm tư của em lại nhìn ngược về dĩ vãng xa vời phải không? Một cái dĩ vãng còn loe lói trong đầu một đứa con gái mười tám tuổi được tặng danh hiệu “dũng sĩ diệt Mỹ” toàn Miền Nam và cô nữ “Dũng sĩ” ấy đã yêu một chàng… nhưng chuyện lại không thành mặc dù cả hai người vẫn yêu nhau.

Có một lần ở đâu đó trên đất Củ Chi rực lửa vào một buổi chiều, anh có nói với em một câu và trước đó em đã tặng anh một bài thơ lục bát. Đến nay anh còn nhớ bài thơ này. Anh vốn là một người nhận được rất nhiều tình yêu, từ Hà Nội đến Mã Đà, từ Suối Cụt, suối Tha La đến Củ Chi Trảng Bàng nhưng để rồi chẳng giữ được mối tình nào cả. Bởi vì anh đâu có đứng lại lâu ở một nơi nào để mà nhận lấy. Cái chết đối với anh như bỡn như đùa. Đánh cả trăm trận, bị thương ngót chục lần, chết đi sống lại vài ba lượt. Cái Tiểu đoàn mà anh chỉ huy đã mất ít nhất là ba Tiểu đoàn trưởng. Anh là người thử tư. Nhưng anh là kẻ “thọ” nhất trong các vị Chỉ huy và với anh, nó được mệnh danh là Tiểu đoàn Thép. Bây giờ nhớ lại anh mới thấy rằng cả anh lẫn em đều bị bọn Bắc Kỳ lợi dụng mà không biết. Chúng thí mình như những con chốt lót đường.

“Chiến thắng” xong rồi, dân Nam kỳ mình được gì?

Là một người dân lưu vong anh hằng mong đất nước phồn vinh, dân tộc Tự do và những bạn bè cũ của anh, trong đó có em, được hạnh phúc. Nếu như không nhìn nét mặt của em trong sách thì anh đã có thể quên hết Hai Ngàn Ngày Đêm Trấn Thủ Củ Chi của anh, nhưng khổ nổi là anh đã gặp lại em quá ư đột ngột.

Anh đã có lần nói với em về Lệ rồi. Lệ yêu anh cũng đột ngột như em. Rồi xa anh cũng đột ngột như em xa anh vậy. Lệ làm liên lạc thành rồi bị ông Tư Kiệt bắt về làm thư ký cho ông ta. “Thủ trưởng” và nhân viên lại ở chung một hầm. Ông ta quá ư ẩu tả. Để đề phòng việc tệ hại nhất rất có thể xảy ra, Lệ đã dùng giấy pơ luya để bịt cửa mình. Lệ đã nói hết với anh ở Suối Cụt. Lúc đó anh cũng đã chán nản trước tình hình càng ngày càng xấu ra. Lệ bảo thật với anh đây là lần gặp anh cuối cùng. Và Lệ đã cùng anh sống một đêm vợ chồng bên bờ suối… Một trái pháo mồ côi đã nổ rất gần lều, suýt chút nữa là hai đứa rửa chân lên bàn thờ. Hôm sau Lệ đi công tác và không về nữa.

Chuyện Lệ đi, dù anh biết trước nhưng không cản ngăn một lời. Ông ta đã thế thì nàng phải thế. Và anh nữa, anh cũng phải thế. Chứ còn biết làm thế nào? Anh nói vậy chắc em hiểu mà. Và từ chuyện này em hiểu ra những chuyện khác.

Sau khi Lệ đi rất lâu, em theo du kích quận đánh đồn Thái Mỹ. Trước khi xuất quân, đáng lẽ em phải hỏi ý kiến “Tiểu đoàn trưởng “ chứ. Nhưng em đã đi đánh liều. Nghe súng trận nổ anh lập tức dắt tổ trinh sát chạy đến. Cũng vừa lúc du kích võng em về. Anh đã biết trước các em không đánh nổi mà. Anh chỉ còn biết băng vết thương trên ngực của em bằng tấm áo của anh và cả tấm lòng xót xa quặn thắt của anh nữa. Ngày nay mỗi lần nhìn tại vết sẹo trên da thịt em, chắc em nhớ lại lúc băng bó cho em, anh đã nói với em câu gì.

Sau đó ít lâu anh nghe tin em bị du kích Bàu Me ở Trảng Bàng bắt trói vì em đang mang AK trên đường ra Ấp Chiến Lược hồi chánh. (thì cũng như “anh hùng” Nguyễn văn Song trốn về Nam. ) Thế nhưng trong chương sách kể lể chiến công của “Nữ dũng sĩ gan góc” Bảy Mô ông tác giả đã giao cho nàng một “Công tác quan trọng ở vùng biên giới Việt Miên” cho đến khi hòa bình.

Đúng ra, em có đi công tác ở biên giới thật, nhưng là công tác cấp dưỡng đặc biệt cho “Bà Phó Tư lệnh” Ba Định. (Vì là một “Dũng sĩ” nên du kích không dám đụng tới em, chứ nếu là ai khác thì chúng đã bắn chết ngay rồi.) Chuyện Củ Chi dài quá em nhỉ! Định ngưng mấy lần nhưng ngưng chưa được.

Còn một “ông anh hùng” khác cũng bị nêu tên trong sách này. Đó là Nguyễn Thành Linh. Một tên Bắc Kỳ vô Củ Chi và chiến đấu bằng địa đạo trong vòng năm năm liền. Hắn được tác giả mô tả như một “kiến trúc sư của địa đạo chiến”. Vậy ra trước khi hắn vác mặt vô đây, dân Củ Chi không biết đào hầm hố hết? Nhưng địa đạo hay hầm bí mật đâu cần phải kiến trúc sư mới làm được. Cuộc sinh tồn mọi người đẻ ra sáng kiến để tự bảo vệ thôi: Anh ở Củ Chi năm năm có thấy tên nào Nguyễn Thành Linh đâu! Nhưng anh biết hầu hết tất cả địa đạo Củ Chi. Chỗ nào anh cũng biết miệng địa đạo, hoặc đã xuống địa đạo thử trước rồi. Anh đã lội nát Củ Chi không sót một mảnh rừng nào mà. Tất cả những tên làng, tên ấp tên người trong quyển sách này là thật. Đây là sự trần truồng không tiểu thuyết hóa một chút nào. Anh có thể điểm qua tất cả địa đạo trong quận Củ Chi cho em nghe: Bến Dược 200m, đồn điền Sinna 500m, Hố Bò 200m, Phú Hòa 200m, Lộc Thuận 200m. Gần đồn điền Sinna 150m, Trà Dơi 150m, Xóm Trại Giàn Bầu 100m, Xóm Bàu Hưng 300m, Xóm Thuốc 200m, 200m, Xóm Chùa 200m, ấp Bến Mương 100m, Góc Chàng 500m, Cây Điệp 150m, Nhuận Đức 100m, 100m, Bầu Tròn 100m. Bào Cạp 100m, 50m, Bầu Diều 100m, Ba Gia 100m, Bên Cỏ 100m, Đường làng II 100m, 50m. Hoàn toàn không có cái vòng đai sắt nào chung quanh hoặc dưới đít Đồng Dù cả. Ông Phạm Sang chỉ có thể nghe Bob Hope hát ở Đồng Dù từ trong hang ếch của ông ta và trong trí tưởng tượng thôi.

Sở dĩ có danh từ vòng đai thép bao bọc Đồng Dù, như em đã biết là do ông Tám Quang, “trưởng phòng chính trị quân khu” bịa báo cáo về R cùng với sự thành lập đội nữ du kích Củ Chi của tụi em với Bảy Nê, Út Nhớ chẳng qua để quay phim, chụp hình và “đài giải phóng” tuyên truyền mà em đã cười khi ngồi tâm sự với anh lúc mới quen nhau. Chớ đội nữ có đánh chát cái gì. Toàn do ông Tám Quang sáng tác và “đài giải phóng” phóng đại.

Nếu như có một hệ thống địa đạo Củ Chi thôn liền thôn, xã liền xã thì tại sao khu ủy khu IV chạy tuột lên tận Preyveng để ăn hút. Me xừ Tư Kiệt còn sống sờ sờ đó hãy bớt nói phét để khỏi bị cô Tám Lệ nhét mồm bằng giấy… pơ luya.

Chúng ta hãy cùng nhau cúi hôn mảnh đất Củ Chi đau khổ của chúng ta hiện nay đang nhục nhã vì bị bọn Cộng Sản đem ra làm trò bịp thế gian.

Cộng Sản nghĩa là đại bịp. Chúng bịp nhân dân, bịp thế giới và tự bịp chính mình.

Anh muốn tự ngưng bút ở đây nhưng thấy còn nhiều sự thực bị bưng bít nên viết tiếp. Hai ngàn trang sách mà anh viết ra đây sẽ vạch trần bộ mặt láo toét kinh hoàng của bọn Cộng Sản Hà Nội mà cả anh lẫn em đều là nạn nhân. Anh muốn nhắc chúng nó rằng: Thời kỳ Mỹ đóng chốt Đồng Dù, Củ Chi chỉ là một bãi tha ma không một bóng người thấp thoáng, không một gốc cây còn đứng nguyên, không một tiếng chó sủa gà gáy. Tất cả xã ủy đều chết, bị bắt, hồi chánh hoặc ngưng hoạt động.

Ông Út Một Sơn bí thư đầu tiên Củ Chi bị pháo Đồng Dù bắn lắp hầm chết ở Bàu Lách Nhuận Đức năm 1966. Chắc em còn nhớ chớ? Nếu địa đạo Củ Chi nối liền thôn xã (theo ông tác giả ngốc này mô tả thì nó chỉ kém đường xe điện ngầm ở Mạc Tư Khoa chút thôi) thì sao quận Củ Chi lại cắt ra làm hai: Nam Chi, Bắc Chi? Là vì cán bộ không đi lại được giữa hai phần đất này. Người ở đâu nằm chết ở đó. Mỗi sáng lóng ngóng chờ “chụp dù, nhảy dò, xe tăng càn” để lũi. Nhưng cũng không có đất lũi. Chỉ còn một cách độc nhất là làm hầm. Mỗi ông bà có một cái hầm bí mật (nên nhớ hầm bí mật chỉ là một cái hang ếch chứ không phải địa đạo và không có hầm bí mật nào ăn thông ra địa đạo cả ). Sư sợ hãi chết chóc làm tê liệt mọi ý chí. Cán bộ chỉ mong bị bắt sống cho khỏe thân. Cho nên họ ngồi trên miệng hầm ngụy trang với vài cành lá sơ sài như những người câu tôm câu cá ở bờ sông vậy. Do đó có danh từ “ngồi thum. “ Nhưng ngồi thum trong vùng căn cứ cũng không an toàn vì bị máy bay trực thắng cá rô hay quạt hoặc bị ăn pháo bầy dọn bãi trước khi Mỹ đổ chụp. Nên các bà Năm Đang, Hai Xót, khu ủy, quận ủy mới ra tá túc nhà dân ở Ấp Chiến Lược để “chạy lan” như chuột mất hang. Chạy lan có ngày cũng chết như trường hợp của cô Tư Bé, quận đội phó bị lính Mỹ bắn chết ở Đồng Lớn. Hay ông Tám Châu bí thư quận bị pháo bắn mất đầu ở Bố Heo.

Chắc em biết rõ sự chia cắt của các xã trong quận vì tình trạng “ngồi thum” và “chạy lan”. Xã Trung Lập đẻ ra Trung Lập thượng, Trung Lập hạ, An Nhơn nứt thành An Nhơn Đông, An Nhơn Tây, Phú Hòa cắt thành Phú Hòa Đông, Phú Hòa Tây v. v…

Tội nghiệp cho Madeleine Riffaud, Wilfred Burchett và mấy ông Giáo sư Liên Xô đã vượt hiểm nguy vô tận đất Củ Chi và rừng Con Mên để coi “giải phóng đánh Mỹ”! Tội nghiệp, vô tới đây họ chỉ ăn bom và lũi như chuột đến nổi đòi về ngay không biết cái địa đạo là gì. Cũng may cho bọn anh lúc đó. Nếu cặp ký giả ba sồn này ở lại lâu hơn và họ đòi đi nghỉ mát dưới địa đạo ngay ở đít Đồng Dù thì rắc rối to cho các anh rồi.

Đến nay mụ đầm già không biết gì kia đang ở đâu, sao không trở lại xem địa đạo Củ Chi do kiến trúc sư Nguyễn Thành Linh mới vừa xây dựng năm 1985? Nhớ tới W. Burchett anh không khỏi phì cười. Lão ta nằng nặc đòi xuống địa đạo và xem các dũng sĩ bố trí địa đạo chiến cho hắn quay phim. Anh và Tư Linh hồn vía lên mây. Địa đạo ở đâu mà coi? Kể từ năm 1965 trở đi, sau khi Củ Chi ăn dưa hấu B52 vài trận, ai cũng thấy những lỗ bom sâu từ sáu thước đến mười một thước cho nên không ai dám cho rằng địa đạo là bất khả xâm phạm nữa. Cực chẳng đã mới chui hầm bí mật thôi.

Tư Linh vốn là cán bộ địch vận, nhanh trí bảo Burchett: “Người đồng chí hơi to, vậy để chờ vài hôm tôi cho làm nắp rộng để đồng chí xuống mới lọt. “ Sau đó khất lần rồi cho qua luôn. Còn vụ xem “địa đạo chiến” thì anh cho “đội dũng sĩ” của em bịp hắn một cú thần tình, nhớ không? Hắn rất phục “đội dũng sĩ”. Đến nay hắn đã chết rồi, hắn vẫn chưa biết địa đạo là cái gì.

Em Mô thân,

Chuyện Củ Chi, chuyện anh và em nhiều vô số kể. Nhắc chuyện này lại nhớ chuyện kia. Nhắc Hố Bò nhớ Góc Chàng, nhắc Bến Mương nhớ Suối Cụt, nhắc Thái Mỹ nhớ Đồng Dù, toàn những kỷ niệm máu lửa không thể quên được. Nhớ cảnh nhớ người khôn xiết. Ba bốn lần anh bị thương ở Củ Chi đều có em băng bó hoặc tới y xá săn sóc. Anh đã tựa đầu vào vai em, anh đã nằm trên xuồng do em bơi qua sông Sài Gòn, anh đã cùng em ngồi ở rừng Lộc Thuận ngắm pháo sáng tua tủa trên nền trời Củ Chi. Anh và em đã từng hái những trái sầu riêng trong vườn sau nhà em và ngồi ở bậc đá bên con suối nhỏ. Anh thì ăn sầu riêng còn em đàn bản Đứt Đường Tơ cho anh nghe. Anh bảo em: “Tơ đâu có đứt mà đàn bản ấy.”

Chẳng ngờ đó là bản đàn định mệnh của chúng ta. Bây giờ “Tơ đã đứt” và không phương nối lại, đàn một nơi dây đàn một ngả.

Anh chúc em hạnh phúc. Hy vọng một ngày rất gần, chúng ta sẽ gặp lại nhau và sẽ về thăm lại Củ Chi dưới một khung trời mới.

Viết xong lúc tượng con quỷ chúa Lenin bị giật sập ở Mút-cu-oa

Dương Đình Lôi

Chia tay 2021: Vì sao Đảng mở chiến dịch Mậu Thân trên mặt trận nhân quyền? – Gió Bấc/RFA

Van Pham

Chia tay 2021: Vì sao Đảng mở chiến dịch Mậu Thân trên mặt trận nhân quyền?

Gió Bấc/RFA

Chia tay 2021: Vì sao Đảng mở chiến dịch Mậu Thân trên mặt trận nhân quyền? Một số tù nhân lương tâm đã bị chính quyền Việt Nam bắt giữ trong năm 2021

2021 bắt đầu với những vụ bắt giam, truy tố, xử án các nhà báo dồn dập bao gồm: xử án các nhà báo thuộc Hội Nhà báo Độc lập, bắt giam các thành viên nhóm Báo Sạch, bắt giam nhà báo Phan Lợi,… dồn dập trong cuối tháng 12 là 5 phiên tòa xử mà không xét những người bất đồng chính kiến, dân oan. Những bản án nặng nề từ tử hình đến hàng chục năm tù áp xuống những người dân vốn đã bị đẩy vào bước đường cùng. Dân oan kiệt sức kêu than khi đất Thủ Thiêm bốc cao tận trời xanh, giáo dân Lộc Hưng mỏi mòn chờ công lý. Oan án Hồ Duy Hải xuất hiện chứng cứ mới đi dự đám tang trong thời gian gây án nhưng lưỡi hái tử thần vẫn treo lơ lửng. Khúc ca “chiến thắng” Mậu Thân đang tái diễn trên lĩnh vực nhân quyền.

Chỉ trong nửa tháng cuối năm 2021, tòa án Việt nam đã dồn dập xử năm vụ án với những người dân vô tội, thậm chí còn là nạn nhân của chế độ độc tài.

Ngày 14.12.2021 tòa án Hà Nội xử nhà báo Phạm Đoan Trang chín năm tù vì cái tội viết sách cho người bình dân hiểu những quyền cơ bản mà thượng đế và nhân loại đã dành cho họ.

Ngày 15.12.2021 tòa án Hà Nội xử hai nông dân Trịnh Bá Phương 10 năm tù. Bà Nguyễn Thị Tâm sáu năm tù về tội kêu oan đòi đất

Ngày 16.12.2021 tòa án tỉnh Nam Định xử người thợ Đỗ Nam Trung 10 năm tù vì vạch mặt chỉ tên BOT bẩn.

Ngày 24.12.2021 tòa án cấp cao sẽ xử phúc thẩm hai mẹ con nông dân Cấn Thị Thêu và Trịnh Bá Tư. Án sơ thẩm đã xử bà mẹ nông dân Cấn Thị Thêu tám năm tù và con trai Trịnh Bá Tư tám năm tù về tội kêu cứu cho người dân Đồng Tâm.

Ngày 31.12.2021 chính quyền Hà Nội xử thầy giáo Lê Trọng Hùng về tội tự ra ứng cử Quốc Hội và chỉ ra sai trái của chính quyền.

Những bản án nặng nề cứ liên tiếp chụp xuống những người vô tội, trong cách nhìn của một xã hội, quốc gia dân chủ, đó là những công dân có trách nhiệm. Trong bối cảnh đen tối của đất nước vừa mới thoát ra đại dịch, kinh tế suy giảm, lòng dân hoang mang như một cái nút thắt thít chặt hơn vòng thòng lọng đã mặc định gắn trên cổ người dân từ sau 30-4-1975.

Ngoài danh sách tù nhân chính thức bị kết án bằng những công cụ chuyên chính mang tên pháp quyền còn có hàng triệu tù nhân dự bị được răn đe bởi những lực lượng ngoại vi mang danh nghĩa YouTuber, mạng xã hội cờ đỏ, AK 47… Những luật sư nhân quyền, những bác sĩ chuyên gia y tế độc lập ngoài quốc doanh, những nhà báo phi quốc doanh, ngay cả một nhóm người tu tại gia hoàn toàn phi chính trị là nhóm Tịnh Thất Bồng Lai cũng bị tấn công quấy phá đàn áp hàng ngày.

Theo BBC, “”hiện có khoảng khoảng 170 tù nhân lương tâm đang bị giam giữ tại Việt Nam, một con số cao kỷ lục trong lịch sử gần đây, theo số liệu năm 2020 của Tổ chức Ân xá Quốc tế. Trong khi Dự án 88 khẳng định rằng hiện có 217 nhà hoạt động trong tù và 306 người khác đang gặp nguy hiểm”.

Vấn đề là vì sao năm 2021 nhất là trong tháng 12, chính quyền cộng sản Việt Nam dồn dập tấn công trấn áp nhân quyền trắng trợn và công khai như vậy?

Thứ nhất về đối nội, mục đích trấn áp nhân quyền, tiêu diệt những mầm mống của xã hội dân sự là để bảo vệ độc quyền cai trị của thể chế độc tài hiện hữu. Bộ máy chính quyền hiện hữu hiện nay không thuần nhất rạn nứt với nhiều phe phái. Những phe phái này không hề khác nhau về quan điểm, chính kiến chính trị phe thân Trung Quốc, phe cấp tiến thân Mỹ như nhiều người ảo tưởng. Nó chỉ khác nhau về tính cục bộ địa phương: phe Miền Bắc, Phe Thanh Nghệ hay theo xu hướng cá nhân: phe Nguyễn Phú Trọng, Phạm Minh Chính, Nguyễn Xuân Phúc. Các lực lượng phe nhóm trong guồng máy nhà nước có thể đấu đá nhau chí chết để tranh giành quyền lực, quyền lợi nhưng hoàn toàn thống nhất nhau là còn đảng còn mình và đều cùng thề tận trung tận hiếu với anh lớn bạn vàng Trung Quốc. Niềm tin ấy có cơ sở vững chắc là hai bên thống nhất về chính trị và quyền lợi. Đảng Cộng sản Trung Quốc còn thì Đảng Cộng sản Việt Nam còn. Đảng còn thì đặc quyền đặc lợi còn. Tổ quốc, nhân nhân chỉ là phương tiện là hàng hóa để bán mua chia chác.

Cứ nhìn vào sự kiện công an đã công khai thảm sát thanh trừng đảng viên lão thanh Lê Đình Kình mà suốt quá trình đại hôi đảng lần thứ 13 không có tiếng nói phản kháng nào trong đảng. Trung Quốc lấn ép Việt Nam từ biền Đông đến cửa khẩu biên giới toàn Đảng vẫn ngậm hột thị, không tiếng nói phản kháng.

Sự thống nhất ấy được thực thi triệt để bằng cách nuôi dưỡng guồng mày quân đội công an còn Đảng còn mình, hệ thống tư pháp tay sai làm công cụ trấn áp nhân dân. Nguyễn Hòa Bình, tên đồ tể đội lốt người kẻ trơ tráo tuyên án Hồ Duy Hải trong phiên tòa giám đốc thẩm bất minh bị Quốc Hội phê phán vẫn đường đường thăng tiến vào Bộ Chính trị.

Về quan hệ đối ngoại, sự bành trướng của Trung Quốc trên biển Đông và toàn thế giới biến địa chính trị Việt Nam trở thành lợi thế mà Đảng Cộng sản đã tận dung cơ hội để mặc cả, đu dây cũng cố đặc quyền đặc lợi cho mình. Nguyễn Phú Trọng tự mãn khoe khoang đường lối ngoại giao điếm đàng khỉ dơi khu chuột ấy là triết lý ngoại giao cây tre “Cây tre Việt Nam gốc thì vững chắc, cành thì uyển chuyển, mềm dẻo nhưng rất kiên cường. Không có cơn gió nào quật ngã ”được” (1)

Rõ ràng nhất trong thực hiện đường lối cây tre, Việt Nam bất ngờ đón tiếp Bộ trưởng Vương Nghị ngay trước khi bà Phó Tổng thống Mỹ Harris đến Hà Nội. Nguyễn Phú Trọng núp lùm, Nguyễn Xuân Phúc trân trọng tiếp nhận vắc-xin nhưng né tránh nâng tâm quan hệ hợp tác hai nước

Rõ ràng do vị trí địa chính trị của Việt Nam nằm sát Trung Quốc, có bờ biển dài 2.200 km ở vị trí yết hầu Biển Đông, có 100 triệu dân là nguồn lao động cần cù Mỹ, EU, Nhật, Úc và nhiều quốc gia khác đã dành cho Việt nam nhiều ưu ái trong hợp tác đầu tư, viện trợ y tế, quốc phòng… Nếu Nhà nước Việt nam có trách nhiệm, có lý tưởng phụng sự quốc gia dân tộc thì đây là cơ hội bằng vàng để thoát Trung, thoát nghèo nàn lạc hậu. Nhưng rất tiếc, thể chế độc tài Đảng trụ Việt Nam đã tận dụng sự ưu ái đó để vun quén cho lợi ích nhóm của đảng cầm quyền, của cá nhân, để duy trì quyền lực cai trị với dân và để mặc cả, lập cộng với bạn vàng Trung Quốc.

Có thể thấy rõ điều ấy khi dịch bùng phát, nguồn vắc-xin viện trợ quý giá của Mỹ và Nhật…. đã không được tiêm cho công đồng theo ưu tiên người lớn tuổi, người có nguy cơ theo tiêu chí chung của WHO và các nước trên thế giới mà đã ưu tiên cho cán bộ, đảng viên, công an quân đội, con ông này cháu bà nọ để diễn ra đại hội Đảng rầm rộ, bầu cử Quốc Hội diễn trò làm dịch bùng phát trên diện rộng. Nguồn đô la hàng chục tỷ thu về từ thặng dư mậu dịch với Mỹ lại chạy ngược sang Trung Quốc để nhập về những thực phẩm hàng hóa độc hại từ Trung Quốc. Cả thế giới ủng hộ Đài Loan, chống lại chính quyền quân sự Myanmar, bảo vệ dân tộc Ngô Duy Nhĩ Tân Cương thì Việt Nam im lặng hoặc công khai lên tiếng theo giọng điệu của Trung cộng

Trên lĩnh vực nhân quyền, những vụ thảm sát Đồng Tân, bắt giữ xử tù Phạm Đoan Trang, Mai Phan Lợi, Phạm Chí Dũng, Trương Châu Hữu Danh…. Mỹ, EU và các tổ chức quốc tế có lên tiếng trong chừng mực những cảnh báo, kêu gọi mà chưa hề có biện pháp đáp trả khả dĩ nào thích đáng.

Đạc biệt khi Việt Nam tham gia EVFTA hai vấn đề mà người Việt Kỳ vọng nhất để có thể khơi mào cho sinh hoạt dân chủ, nhân quyền trong nước là “Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở” (tức “WRO, Workers Representative Organisations”) và DAG (Ban Tư vấn Xã hội dân sự). Những tổ chức dân sự ngoài quốc doanh sẽ được hình thành, nhưng EVFTA có hiệu lực hai năm qua mà những tổ chức này chẳng hề thấy dạng. Ngược lại Phạm Chí Dũng, Mai Phan Lợi những nhân tố khả dĩ có thể là hạt nhân đã bị chính quyền giam giữ.

“Mềm nắn rắn buông” là sách lược chủ yếu của đường lối ngoại giao lúc lắc cây tre. Sự mềm mại của Mỹ và đồng minh chính là cơ hội của chính quyền công sản Việt Nam. Một số nhà bình luận đã tổng kết quan trong trên BBC tiếng Việt là “Tầm quan trọng chiến lược của Hà Nội đối với Hoa Kỳ và các đồng minh đã cho phép Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều không gian hơn trong việc bịt miệng những người chỉ trích”(2).

Hai cuộc đối thoại nhân quyền với Mỹ và EU diễn ra trung tuần tháng 11 vừa qua cũng diễn ra ôn hòa theo kịch bản chất vấn, đối đáp ậm ừ hứa hẹn cải thiện nhân quyền theo kiểu để lâu cứt trâu hóa bùn mà nhà nước cộng sản đã dự kiến. Việc dồn dập xử tù nhân quyền trong tháng 12 không chỉ nhằm trấn áp người dân trong nước mà còn là bước leo thang để thăm dò phản ứng của Mỹ, EU và quốc tế nói chung. Nếu các đối tác này vì xem trong các yếu tố địa chính trị, tiềm năng đất đai, lao động của Việt Nam hơn giá trị Nhân quyền thì chắc chắn trong sắp tới nhân quyền Việt Nam sẽ thấp hơn mức “có đủ cơm ăn áo mặc” hiện nay

Vấn đề đặt ra là sự mềm mại săn đón với Nhà nước Việt Nam liệu có ý nghĩa, có giá trị hiệu quả với Mỹ và đồng mình không? nhất là trong triết lý ngoại giao cây tre thân cành lắc lư nhưng gốc rễ thì kiên cường không suy chuyển. Dân gian Việt thì bình dị hơn với câu “cà cuống chết cái đít còn cay”. Đã là cộng sản thì Việt, Nga Tàu, Triều Tiên, Cu Ba đều cùng một giuộc.

Nguyên lý ngoại giao thất tín không chỉ là phát kiến của riêng Nguyễn Phú Trọng mà là bản chất của Cộng Sản. Với người Cộng Sản không bao giờ có chữ tin vì sự bội tín đã được được nâng tầm giá trị lên tầm trí tuệ. Chiến dịch Mậu Thân đến nay vẫn được ca ngợi là chiến thắng trí tuệ (bất ngờ tấn công trong thời điểm thỏa thuận hưu chiến cho nhân dân ăn tết) buộc Mỹ phải ngồi vào bàn hội nghị. Khi ký một hiệp định hiệp ước người Cộng Sản luôn nghĩ đến việc sẵn sàng chà đạp lên những điều bất lợi cho mình và buộc đối phương phải thực hiện những điều có lợi.

Khi thực hiện hiệp định Geneve, Lê Duẩn đã chỉ đạo chôn súng ở các căn cứ, trình diễn lên tàu tập kết rồi bí mật quay lại Cà Mau. Ký hiệp định Paris, ngừng bắn tại chỗ, tố cáo VNCH chiếm những lãnh thổ của họ, Công Sản lại đưa hàng chục sư đoàn từ Bắc vào Nam giải phóng Sài Gòn. Sau khi cưỡng chiếm trọn miền Nam Phạm Văn Đồng dõng dạc tuyên bố “Mỹ chạy trời không khỏi nắng khoản bồi thường chiến phí theo hiệp định Paris”

Có lẽ đến lúc các nhà hoạch định chính sách cần cân nhắc lại ván cờ địa chính trị. Thà có thêm một đối thủ công khai còn hơn vun quén tình bạn đồng sàng dị mộng mà nói theo người Việt là “nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà”.

– Một số tù nhân lương tâm đã bị chính quyền Việt Nam bắt giữ trong năm 2021

– Những nhà hoạt động bị xét xử vào tháng 12/2021

Ăn & Ở – Tưởng Năng Tiến

Ăn & Ở – Tưởng Năng Tiến

Có anh bạn đồng hương và đồng nghiệp trẻ, sau khi tình cờ biết rằng tôi là dân thuộc bộ lạc Tà Ru (tù ra) bèn nhỏ nhẹ khen:

– Không thấy ai đi “cải tạo” về mà vẫn lành mạnh, bình thường như chú!

Chưa chắc đó đã là lời chân thật, và dù thật thì e cũng chỉ là câu khen trật (lất) thôi! Nói tình ngay, tôi không được “bình thường” hay “lành mạnh” gì lắm. Tôi ít khi đề cập đến những năm tháng lao tù của mình, giản dị chỉ vì nó rất ngắn ngủi và vô cùng nhạt nhẽo.

Khi có dịp gặp gỡ những vị huynh trưởng, vốn đều là dân từ “chiến khu” ra (Vũ Ánh, Đoàn Viết Hoạt, Vũ Thư Hiên, Thanh Thương Hoàng, Phan Nhật Nam, Bùi Ngọc Tấn, Uyên Thao, Nguyễn Chí Thiện …) tôi luôn luôn chỉ “dựa cột mà nghe” – dù luôn uống khá nhiều – chứ tuyệt nhiên không hề dám “thưa thốt” (hay nói leo) một câu nào ráo.

Tổng cộng số ngày tôi đi “cải tạo”, có lẽ, không nhiều hơn thời gian mà Nguyễn Chí Thiện ngồi trong chuồng xí (sau mấy lần tù) và chắc chưa bằng tổng số đêm mà Vũ Ánh hay Phan Nhật Nam nằm chèo queo trong những xà lim kiên giam ở A 20 – Phú Yên – hay trại 5 Thanh Hóa.

Tôi cũng chả bị vu vạ cho những tội trạng tầy đình (xét lại, âm mưu lật đổ chính quyền, biệt kích cầm bút) như Đoàn Viết Hoạt, Vũ Thư Hiên, Bùi Ngọc Tấn, Uyên Thao, Thanh Thương Hoàng, và vô số tù nhân khác. Tội danh của tôi tuy nghe cũng nặng nề (“cầm súng chống lại nhân dân”) nhưng vì chỉ là một sỹ quan hạng bét, và có hàng trăm ngàn thằng như thế nên không đứa nào bị hỏi cung hay tra vấn gì sất. Cái giá phải trả tương đối cũng nhẹ hều à: lao động cải tạo.

 Chỉ có điều vô cùng “bất tiện” là chúng tôi chả bao giờ được cho ăn uống đàng hoàng hay no đủ cả. Với thời gian, cái đói – dường như – cũng từ lòng ruột “ngấm” luôn vào tiềm thức hay vô thức. Ngay cả trong giấc ngủ, tôi cũng chỉ mơ toàn khoai (với củ) chứ chưa hề thấy cá hấp, vịt quay, gà xối mỡ, chim cút rô ti, hay cua rang me (hoặc rang muối) một lần nào cả.

Tôi đói đến độ có thể nuốt cơm không, chả cần muối mắm gì, cũng vẫn thấy rất ngon. Hạt cơm vào miệng tan thành như sữa, ngấm tận kẽ răng, rồi trôi dần xuống họng. Nó trôi đến đâu là thấm thía, đậm đà, ngọt ngào tới đó.

Cũng từ đó, tôi nhìn thực phẩm (hạt ngô, hột đỗ, muỗm cháo, thìa mỡ, tán đường, cục kẹo …) bằng một đôi mắt khác – trân trọng đến độ bất thường – và hoàn toàn không được “lành mạnh” gì cho lắm! Đôi lúc, tôi lớn tiếng quát tháo con cái (chỉ vì chúng bỏ dở chút thức ăn thôi) rồi cứ ân hận mãi về cái tính khí “không được bình thường” của mình!

Thế hệ chúng tôi không phải là những người Việt đầu tiên sống chung với … đói. Nhiều kẻ cũng bị lâm vào cảnh khốn cùng tương tự, từ giữa thế kỷ trước, dù họ chả có tội tình gì ráo:

Bán trôn rồi lại bán cả mồ hôi
Mà đói rét vẫn quần cho sớm tối!

Hai câu thơ trên Nguyễn Chí Thiện viết từ năm 1964. Mười năm sau, sau khi cuộc chiến Bắc/Nam đã chấm dứt, tình hình – xem ra – cũng không khác trước bao nhiêu:

“Sau năm 1975, chính quyền CSVN cho phép các hộ gia đình được giết mổ lợn vào dịp tết nhưng phải xin giấy phép của UBND xã và nộp thuế sát sinh… Chuyện đụng lợn ngày tết cũng phải nói thêm rằng, đối tượng là những gia đình có mức sống trung bình trở lên chứ những hộ nghèo đói quanh năm thì chỉ dám mua vài cân thịt chui ở chợ đen. Trong 3 ngày tết, họ ăn thịt rang mặn với rau dưa là chính. Chỉ sáng mồng Một tết họ mới dám thịt con gà để cúng tổ tiên. Vì thế, mấy ngày trước tết, nếu nghe tiếng lợn kêu từ nhà nào vọng tới thì họ cũng chỉ biết thở dài và cảm thấy chạnh lòng nhìn lũ con đói cơm, rách áo.” (FB Lê Hữu Nghiệp. “Đơn Xin Mổ Lợn Thời Bao Cấp” – 09/06/2021).

Miền Nam – tất nhiên – cũng thế, theo như lời của blogger Trần Ngọc Tuấn: “Khoảng thời gian 1976 – 1977… các chợ trời ở Miền Nam như Sài Gòn – Đà Nẵng – Huế không còn thấy sách nữa, thay vào đó là quần áo, máy nghe nhạc Akai, đồng hồ, xe đạp, xe máy, bàn ghế kiểu, salon, tủ chè, tủ lạnh, tivi…và cả bàn thờ…cả trăm thứ đồ dùng dân sự, đồ nhà binh, thượng vàng hạ cám. Điều đó chứng tỏ người dân Miền Nam (tính từ Quảng Trị trở vào) đã lâm vào hoàn cảnh cực kỳ khó khăn về kinh tế, về miếng ăn hàng ngày.

Thời gian, cũng như thời cuộc – may thay – đều không đứng về phía cường quyền nên việc “quản lý bao tử” không thể kéo dài mãi được. Chế độ tem phiếu buộc phải cáo chung. Blogger Lê Bá Vận kết luận: “Cộng sản dù là thứ chính cống cũng chịu hết nổi buộc phải từ bỏ chính sách Bác Hồ bao cấp để sửa sai, đổi mới. Đó là thời kỳ Kinh tế thị trường định hướng XHCN.”  

Kinh Tế Thị Trường không chỉ giúp cho đám đông quần chúng được đủ no mà còn tạo ra một nhu cầu mới cho giới quan chức cao cấp ở Việt Nam, như phản ảnh của báo chí ở xứ sở này:

Điều đang “thách thức” công luận – thực ra – không phải là những biệt phủ/biệt thự nguy nga mà là tình cảnh sống chui rúc (như chuột bọ) của đám đông quần chúng. Báo Lao Động, số ra ngày 28/12/2020, cho biết:

“Theo kết quả kiểm toán chương trình nhà ở xã hội vừa được Kiểm toán Nhà nước công bố, tại Hà Nội, trong giai đoạn 2016-2020, dự kiến có 15 dự án nhà ở xã hội được xây dựng, hoàn thành nhưng đến tháng 7.2020 chưa có dự án nào hoàn thành.”

Toàn là những “dự án ma” thôi thì làm sao mà “hoàn thành” được, mấy cha? Phần lớn dân Việt nay có đủ ăn là đã “hạnh phúc” lắm rồi, chưa ai kịp nghĩ đến chuyện ở đâu. Họ “chỉ mỗi mong có cái bỏ vào mồm” thôi, theo như cách nói của bỉnh bút Thu Trân của trang Việt Nam Thời Báo.  

Ngay cả đến một cặp vợ chồng nghệ sỹ lừng lẫy như Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh mà còn không có một chỗ trú thân tử tế thì nói chi đến đám công nhân lam lũ: Khoảng không gian của anh và em/ Khi buồn bã em không thể quay mặt đi nơi khác/ Anh không giấu em một nghĩ lo nào được/ Ta chỉ có mấy thước vuông để cùng khổ cùng vui.

Vấn đề chỉ trở nên phức tạp khiến thiên hạ lo sợ trong những ngày dịch bệnh vừa qua vì mức độ lây lan nhanh chóng do sự bẩn chật thôi. FB Đào Tuấn tường thuật:  

Thứ trưởng Bộ Lao động Nguyễn Văn Hồi kể trong đợt khảo sát vừa rồi, ông gặp trường hợp có gia đình 5-6 người sống trong căn phòng chỉ 7m2… Không hiểu họ ăn ở sinh sống thế nào khi mà chỉ thở thôi đã vật vã rồi. Nhưng đó chưa phải là sự tồi tệ nhất. Ông Trần Việt Anh, Phó Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp TP.HCM nói: Nhiều phòng trọ chỉ 10m2, mà có tới 10 người chen nhau chung sống.

Trước phong tỏa, họ chia ca ngày đêm đi làm cũng đỡ. Bốn tháng hơn 120 ngày lockdown tất cả chui một chỗ 24/24. Không gian kín mít ở những nhà trọ ổ chuột như này chính là lý do vì sao số F0 dựng đứng suốt mấy tháng giời.

Lockdown không kéo dài hoài. Dịch bệnh rồi cũng sẽ qua thôi nhưng họa cộng sản thì e sẽ còn ở lại lâu.“Những nhà trọ ổ chuột” cũng thế, cũng sẽ tồn tại mãi mãi với chế độ hiện hành. Phát biểu khai mạc Hội Nghị Trung Ương 4, Khóa XIII – hôm 4 tháng 10 năm 2021 – Nguyễn Phú Trọng bầy tỏ sự lo âu:

“Tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện ‘tự diễn biến’, ‘tự chuyển hóa’ vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi một cách căn bản, thậm chí có mặt còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn, có thể gây ra những hậu quả khôn lường.”

Trong khi mà người dân đang cuống cuồng (như bầy kiến trên một que sắt nóng) thì điều duy nhất mà ông TBT đương nhiệm quan tâm vẫn chỉ là là sự tồn vong của Đảng và Nhà Nước thôi, chứ còn chuyện ăn ở của đám dân đen thì chưa bao giờ được các đồng chí lãnh đạo mang ra bàn thảo trong suốt bốn kỳ ở Hội Nghị Trung Ương. Quí vị Đại Biểu Quốc Hội cũng vậy, cũng câm như hến ròng rã hai phần ba thế kỷ qua – nếu tính từ năm 1946.

Tưởng Năng Tiến
10/2021

“Họ” sẽ tiếp tục viết

 “Họ” sẽ tiếp tục viết

Luật Khoa

Chính quyền không chỉ bỏ tù nhà báo, họ đang tuyên chiến với niềm tin của nghề viết nói chung.

 14/12/2021

By HUỲNH CÔNG ĐƯƠNG

Từ trái sang: Phạm Chí Dũng, Phạm Đoan Trang, các thành viên nhóm Báo Sạch. Ảnh: IJAVN, VnExpress.

Chỉ tính trong giai đoạn 2020 – 2021, đã có đến ba nhóm nhà báo khác nhau bị bắt và bị lôi ra tòa hình luật.

Nhóm đầu tiên là những nhà báo bị gọi là “phản động” rõ nhất, bị chửi bới to nhất: những nhà báo độc lập không hoạt động theo khuôn khổ của pháp luật báo chí Việt Nam.

Từ Hội Nhà báo Việt Nam Độc lập với Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy và Lê Hữu Minh Tuấn cho đến Phạm Đoan Trang –  họ là những ngòi bút tài năng không chỉ quen thuộc trong nước mà còn được cộng đồng quốc tế biết đến.

Nhóm thứ hai là những cái tên lớn trong giới nhà báo chính thống. Bạn có thể chưa từng nghe đến tên họ, nhưng những người này được xem là có tiếng nói (và thành tích) nhất định trong hệ thống báo chí chính thống do chính quyền quản lý, như ông Mai Phan Lợi hay ông Nguyễn Hoài Nam. [1] [2]

Nhóm cuối cùng gồm những nhà báo hoạt động đâu đó ở giữa hai nhóm trên, không nghiêng hẳn về phía bị cho là “phản động” nhưng cũng không nằm trong hệ thống báo chí chính thống. Tuy nhiên, cách tiếp cận, tư duy và niềm tin của họ về vai trò – nghĩa vụ của báo chí thì không quá giống với những điều được cho phép.

Với hàng loạt những lần lên tiếng trong vụ án của tử tù Hồ Duy Hải, chống lại một số sai phạm ở địa phương lẫn phát hiện các khuất tất có khả năng tham nhũng, nhóm Báo Sạch cùng những thành viên bao gồm Trung Bảo, Hữu Danh, Thế Thắng, Kiên Giang và Thanh Nhã là một ví dụ điển hình của nhóm này. [3] Tôi không hẳn đồng tình với tất cả những gì họ nói hay làm; nhưng tôi phải thừa nhận vai trò của rất lớn của Báo Sạch trong việc khuấy động lại không gian báo chí điều tra Việt Nam.

Họ khác nhau ở điểm nào? Có lẽ rõ nhất là quan điểm chính trị của họ. 

Phạm Đoan Trang có thể đưa ra những quan điểm chính trị cụ thể về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Song những nhà báo như Trung Bảo, Hữu Danh hay Thế Thắng gần như chưa bao giờ thách thức hay động chạm đến câu hỏi trên. Dù họ có thể đấu tranh trong một vấn đề tư pháp A, có thể tham gia đưa tin về một vụ tham nhũng tại địa phương B, nhưng tựu trung lại, không ai trong số này thuộc về nhóm mà nhà nước gọi là mượn danh nghĩa ngọn cờ “nhân quyền” hay “dân chủ” để chống phá chế độ.

Điều này lại càng đúng với Mai Phan Lợi hay Nguyễn Hoài Nam. Dù không hẳn là những lá cờ đầu trong phong trào thi đua yêu nước kiểu Việt Nam, họ đều là những cái tên thành danh trong giới báo chí nước nhà, và dường như họ thật tâm tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Nhà báo chuyên điều tra tham nhũng Nguyễn Hoài Nam (trái) bị bắt vào tháng 4/2021, sau đó bị truy tố vì tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ”. Trước đó, ông từng nhận được bằng khen của Ban Nội chính Trung ương về thành tích chống tiêu cực. Ảnh: Facebook Hoài Nam/ Báo Công Lý.

Những người nói trên giống nhau ở chỗ họ đều viết, đều là những nhà báo nghĩ rằng mình nên làm gì đó cho xã hội, và cũng đáng tiếc là, đều bị trừng phạt vì theo đuổi lý tưởng đó.

Đoan Trang bị khởi tố vì những nghiên cứu và báo cáo vô cùng chi tiết, có tính khoa học và có bằng chứng rõ ràng. Các sản phẩm của cô được dùng làm tư liệu cho hàng loạt các tổ chức nhân quyền cũng như ngoại giao quốc tế.

Sản phẩm phóng sự điều tra của Báo Sạch thì được rất nhiều khán, thính giả trên mạng xã hội chào đón vì những thông tin và phương pháp truyền đạt hiếm thấy ở làng báo trong nước.

Hay Nguyễn Hoài Nam, một nhà báo từng được khen thưởng vì các loạt phóng sự điều tra của mình khi còn ở báo Thanh Niên, nay cũng vì làm “chướng tai gai mắt” một số cá nhân quyền thế mà rơi vào vòng lao lý.

*** 

Khác với nhiều người, tôi không cho rằng các nhà báo có một nghĩa vụ thiêng liêng về dân chủ, nhân quyền, minh bạch hay trong sạch xã hội gì cả.

Các nhà báo chọn viết, đơn thuần bởi vì họ giỏi làm việc đó.

Giống như một người quyết định mở quán phở vì họ nghĩ rằng họ nấu phở ngon hơn trung bình khả năng nấu phở của toàn xã hội, một người theo nghề báo vì họ cảm nhận được năng lực viết, năng lực đọc, năng lực săn tin tức và năng lực điều tra của họ tốt hơn trung bình của toàn xã hội.

Đó có thể là một bài toán “bàn tay vô hình” không hơn không kém.

Và cũng giống như chủ quán phở tâm huyết với sản phẩm của mình và không thể sử dụng nguyên liệu hư hỏng hay phụ gia có hại cho sức khỏe, một nhà báo tâm huyết với các bài viết của mình không thể chỉ viết theo chủ trương, theo định hướng, viết về người tốt việc tốt như thể nền báo chí quốc gia chỉ là nguyệt san mỹ thuật của con trẻ cấp hai.

Họ cần sự mới mẻ, cần sự can đảm và quan trọng nhất, họ cần sự thật – những sự thật cốt lõi mà họ nghĩ rằng một nhóm độc giả, một cộng đồng, hay toàn bộ quốc dân đang bị giấu giếm.

Đó là một thứ mong muốn phi chính trị, không “chống phá” mà cũng không “phản động”.

Sẽ có người muốn nghe, sẽ có người không muốn nghe. Xã hội luôn là thế.

Kể từ khi thấy người ta từ chối tiêm vaccine để phòng chống COVID-19, tôi tin rằng mọi thứ quan điểm đều sẽ có một nhóm ủng hộ viên nhất định – dù quan điểm đó có ngu ngốc đến thế nào, như việc cho rằng Hitler đã đúng hay Stalin là một lãnh đạo có tâm chẳng hạn.

Song vấn đề ở chỗ, mọi câu chuyện đều cần được kể.

Đó là cách chúng ta biết điều gì đang xảy ra trong xã hội mà chúng ta có thể đã bỏ lỡ.

Đó là cách chúng ta hiểu nguồn cơn của những cơn thịnh nộ xã hội.

Đó là cách chúng ta học trò chuyện, học cảm thông và học tiếp nhận những điều khác biệt.

Thông qua các nhà báo, chúng ta học những điều đó cùng nhau.

Và theo tôi, đó là những bài học sống còn.

Không ăn được một tô phở ngon trong một thời gian dài, người ta có lẽ chỉ bức bối. Nhưng nếu cộng đồng quá lâu không được học cách trò chuyện, cách chấp nhận khác biệt thì có trời mới biết điều gì có thể xảy ra khi quốc dân đối mặt với những thử thách và khủng hoảng trong tương lai.

***

Khi tôi nói rằng “họ” sẽ tiếp tục viết, tôi không nói về những nhà hoạt động dân chủ danh tiếng, tôi không nói về những “KOL” ngàn like đã và đang tiếp tục “hoành hành” mạng xã hội, và tôi cũng không đòi hỏi những nhà báo đã chịu tù đày lại phải tiếp tục dấn thân vào con đường sẽ lấy đi hàng chục năm tạm bợ ở nhân gian của họ.

Khi mà một chính quyền tuyên chiến với cái tâm của các nhà báo nói riêng, tuyên chiến với niềm tin của cái nghề viết nói chung, họ sẽ còn bắt bỏ tù nhiều cây bút đã, đang, và sẽ tiếp tục đổ tấm lòng của mình vào con chữ. Danh sách đó có thể bao gồm tôi và các bạn.

Tin hay không tin vào chủ nghĩa cộng sản, lúc ấy, không còn quan trọng nữa.

Bài phản ánh quan điểm riêng của tác giả. Mọi bài bình luận xin gửi cho Luật Khoa tại đây.

Giám đốc bệnh viện thành phố Thủ Đức mang số tiền lớn đi ‘chạy án’

Giám đốc bệnh viện thành phố Thủ Đức mang số tiền lớn đi ‘chạy án’

December 29, 2021

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Tại cuộc họp báo vào chiều 28 Tháng Mười Hai, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thành, phó cục trưởng Cục Cảnh Sát Điều Tra Tội Phạm Về Tham Nhũng, Kinh Tế, Buôn Lậu thuộc Bộ Công An, cho biết ông Nguyễn Minh Quân, 48 tuổi, giám đốc bệnh viện thành phố Thủ Đức, Sài Gòn, đã mang số tiền lớn đi “chạy án.”

“Kết quả điều tra ban đầu, có việc ông Quân mang tiền đi nhờ vả một số đối tượng có liên quan. Số tiền ông Quân mang đi nhờ vả khi có kết luận điều tra thì chúng tôi mới xác minh chính xác. Nhưng chúng tôi xác định, ông Quân đã mang một số tiền lớn đi nhờ vả. Sự việc này, ngoài điều tra các sai phạm của ông Quân tại bệnh viện, chúng tôi cũng sẽ điều tra cả dấu hiệu ông Quân mang tiền đi ‘chạy án,’” Thiếu Tướng Thành nói.

Hai bị can Nguyễn Minh Quân (trái) và Nguyễn Văn Lợi. (Hình: Dân Trí)

Theo báo Dân Trí, trước đó hôm 6 Tháng Mười Một, Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra Bộ Công An đã khởi tố, bắt giam ông Nguyễn Minh Quân và ông Nguyễn Văn Lợi, 35 tuổi, giám đốc công ty Thương Mại Dịch Vụ Sản Xuất Nguyễn Tâm, cùng các đơn vị liên quan, để điều tra về tội “vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng,” xảy ra tại bệnh viện thành phố Thủ Đức.

Kết quả điều tra xác định ông Quân và ông Lợi “đã thông đồng, câu kết thực hiện hành vi trái quy định của luật đấu thầu trong việc mua sắm vật tư, trang thiết bị y tế tại bệnh viện thành phố Thủ Đức, gây thiệt hại nghiêm trọng tài sản nhà nước.”

Trước đó báo Thanh Niên loan tin ông Quân từng chạy án với số tiền trên $1.6 triệu. Tuy nhiên, thông tin này bị cơ quan có trách nhiệm bác bỏ.

Theo báo Tuổi Trẻ, ông Quân được phân công làm giám đốc, bí thư đảng ủy bệnh viện quận Thủ Đức từ năm 2007, khi mới 34 tuổi.

Năm 2009, đơn vị này được nâng cấp thành bệnh viện hạng 2 với 23 chuyên khoa. Hai năm sau, bệnh viện quận Thủ Đức “là cơ sở y tế tuyến quận, huyện duy nhất của Việt Nam được xếp loại bệnh viện hạng 1.”

Đến năm 2016, bệnh viện quận Thủ Đức vào nhóm 10 bệnh viện “dẫn đầu về phẩm chất điều trị và độ hài lòng từ người bệnh ở Sài Gòn.”

Ông Quân được xem là “một trong những người có đóng góp lớn, nâng tầm bệnh viện” này.

Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thành thông tin bước đầu về vụ án. (Hình: Thái Sơn/Thanh Niên)

Liên quan đến vụ án này, Bộ Công An đã khởi tố, bắt giam tám bị can, trong đó có sáu người gồm: Bùi Trung Kiên và Lê Thanh An, cựu cán bộ Cảnh Sát Điều Tra Tội Phạm Về Tham Nhũng, Kinh Tế, Buôn Lậu thuộc Bộ Công An; Bùi Thị Hồng Giang, luật sư; Trần Văn Long, tổng giám đốc công ty Cổ Phần Truyền Thông Du Lịch Việt; Hà Duy Tuấn, lao động tự do; và Nguyễn Ngọc Triệu, tu sĩ, bị khởi tố về tội “lạm dụng chức vụ, quyền hạn, chiếm đoạt tài sản.”

Hiện, Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra đang làm rõ hành vi vi phạm của các bị can, mở rộng vụ án để thu hồi tài sản cho nhà nước và bệnh nhân. (Tr.N) 

Tội ác chưa bị trừng phạt (Phần 2)

Tội ác chưa bị trừng phạt (Phần 2)

Bởi  AdminTD

Nguyễn Thông

29-12-2021

Tiếp theo Phần 1

Người phụ nữ ở Bình Dương bị cưỡng chế xét nghiệm Covid-19. Ảnh trên mạng

Có dịch bệnh thì phải chống dịch. Nó là thứ thiên tai địch họa, muốn tránh cũng chả được. Phòng chống ngăn ngừa dịch là chủ trương lớn của nhà nước, của cả hệ thống từ trung ương tới địa phương. Những chỉ đạo của chính phủ và các bộ, nhất là từ những người cầm đầu như thủ tướng, phó thủ tướng, bộ trưởng… được xem như pháp lệnh, khi đã ban ra dân chúng nhất nhất phải thực hiện. Vấn đề đáng nói là chủ trương như thế nào.

Đã từng diễn ra cảnh dở khóc dở cười khi Chính phủ đẻ hết Chỉ thị này tới Chỉ thị khác, theo đầu óc chủ quan, tư duy mệnh lệnh, tạo nên kiểu ngăn sông cấm chợ mới. Chẳng hạn cấm dân ra đường từ 6 giờ chiều tới 6 giờ sáng không khác chi thiết quân luật; lập tràn lan các trạm xét hỏi đòi đủ thứ giấy tờ, gây ra đủ thứ phiền hà; cấm tuyệt đối cả những nhu cầu tối thiểu của con người, nên mới có chuyện dở khóc dở cười coi bánh mì không phải là lương thực, sữa không phải hàng hóa.

Chống dịch nhẽ ra phải bằng tư duy và biện pháp khoa học, bằng chuyên môn, thì người ta lại dựa vào chính trị, vào thứ thói quen chính trị cổ hủ từng tồn tại quá lâu ở xứ này. Ví dụ việc tiêm vắc-xin cho người dưới 18 tuổi, nhất là cho trẻ em, cũng phải chờ bộ chính trị duyệt. Nếu chỉ là chuyện khôi hài đã đi một nhẽ. Đằng này cười ra nước mắt.

Vụ kit test Việt Á bị phanh phui liên quan tới nhiều vấn đề. Nó lừa đảo, gian dối, trục lợi chính sách, câu kết với kẻ xấu trong bộ máy cai trị để kiếm tiền trên nỗi đau của dân chúng. Lợi dụng thiên tai địch họa để bóc lột, tội ấy chỉ có cách duy nhất lôi ra bắn.

Nhưng những kẻ tạo điều kiện cho nó cũng không thể vô can. Trong đám “can phạm” có cả những kẻ làm chính sách, ép dân phải thực hiện chính sách. Sản phẩm dùng cho việc ngoáy mũi, xét nghiệm của Việt Á sẽ chỉ là cọng rác nếu không có chính sách ép dân ngoáy mũi tràn lan, cực kỳ phiền hà, kém hiệu quả, gây bao nhiêu tốn kém và bất bình.

Đã đến lúc phải nghiêm túc xem lại những gì đã làm và đang làm, nhất là xét nghiệm. Suốt bao nhiêu tháng, việc tét (test) mũi tràn lan dưới danh nghĩa phòng chống dịch diễn ra trên cả nước, khiến cuộc sống chao đảo, tốn công tốn của không biết bao nhiêu mà kể. Nó phơi bày những tiềm năng thế mạnh xấu xa trong bộ máy cai trị, mà vụ cô gái bị cưỡng chế ngoáy mũi ở TP Dĩ An tỉnh Bình Dương là ví dụ rõ nhất.

Hà chính mãnh ư hổ (chính sách hà khắc như con cọp dữ). Con người khi thành nạn nhân của chính sách vô lý và tàn bạo, không khác gì con vật. Nói thẳng, từ trung ương xuống địa phương, từ ông thủ tướng tới tay dân phòng lính lệ đều phải chịu trách nhiệm về chuyện test đại trà lợi ít, hại nhiều làm khổ dân này.

Cần chấm dứt ngay trò test mũi tràn lan rất tốn kém tiền bạc của dân và công quỹ nhà nước (thực ra cũng là tiền do dân đóng góp). Phòng ngừa dịch chưa biết thế nào, dân có tránh được dịch không, chỉ thấy làm giàu cho đám cá mập. Chả hạn, người đi máy bay, đã tiêm đủ 2 – 3 mũi vắc-xin, đã khai báo y tế đầy đủ, không xuất phát từ vùng dịch cam đỏ, mà vẫn bị đè ra test là điều cực kỳ vô lý. Nhiều khi chi phí ngoáy mũi xét nghiệm ngang giá vé bay.

Tiền dân một nắng hai sương làm ra không phải để chúng bay tùy tiện đặt ra chính sách vớ vẩn rồi bắt dân nộp vào. Thằng Việt Á nói cho cùng chỉ là kẻ đại diện thu tiền. Đó không phải là phòng dịch, mà là ăn cướp.

Chúng ta không thể vô can

Than Ngoc Pham

Chúng ta không thể vô can

Dư luận kết án mẹ kế Nguyễn Võ Quỳnh Trang đã đành, vì kẻ này còn trẻ, có học nhưng thường xuyên lên Facebook khoe ảnh hở hang và có những stt kể lể mình thương yêu con gái của chồng. Lên án cô ta là đúng vì hình ảnh câu chuyện Tấm Cám đã hằn sâu vào tâm trí người Việt, hơn nữa tra tấn con chồng là tội ác bị người đời căm ghét hạng nhất, có lên án Quỳnh Trang cũng là điều nên làm nhằm cảnh báo những con người tương tự.

Nhưng người cha cũng không tránh khỏi bị dư luận lên án, bởi chính anh ta im lặng trước tội ác của vợ và vì vậy anh ta không thể thoát tội đồng lõa giết người. Dư luận lên án anh ta hai mặt: Đạo đức và trách nhiệm. Đạo đức: anh ta không có tình phụ tử, một thứ tình mà thượng để ban phát đồng đều cho mọi người ngoại trừ anh ta. Trách nhiệm: anh ta không bảo vệ con, hay chí ít của một đồng loại trước hành vi dã man của người vợ kế đối với một đứa trẻ.

Còn hàng xóm thì sao?

Việt Nam không có luật chế tài đối với người dân khi biết một vụ bạo hành gia đình mà không báo lại với cơ quan chức năng như nhiều nước khác trên thế giới, do đó người dân tự thấy không bị ràng buộc vào một điều luật có tính cưỡng chế, vì vậy mọi án mạng, tai nạn, hay bạo hành xảy ra thường xuyên hơn nhưng không có ai cảm thấy mình có lỗi khi không khai báo những việc ác độc mà họ chứng kiến.

Luật pháp như cái lưới bắt cá, cá lớn thì lưới lớn, chắc chắn, cá nhỏ thì sợi lưới nhỏ, mỏng nhưng đan dày hơn. Việt Nam không có lưới bắt những loại cá nhỏ mà xã hội cho là vô can.

Nếu luật pháp đan lưới dày hơn thì những con cá “vô can” không những sẽ sợ hãi và hai chữ vô can sẽ không còn trong tự điển pháp luật. Bắt buộc người ta phải báo cáo lại những gì họ nghe hay nhìn thấy từ đó giúp nạn nhân nhiều vụ tránh được cái chết tương tự như của cháu Vân An và hàng trăm người khác.

Là người Việt, chúng ta không thể vô can.

Báo CAND: Việt Nam là nước dân chủ mà không cần đa nguyên, đa đảng!

Đài Á Châu Tự Do 

Mạng báo Công an nhân dân có bài viết, khẳng định Việt Nam là một nước dân chủ dưới sự cai trị của đảng Cộng Sản mà không cần có đa nguyên, đa đảng.

Bài báo trên được đăng tải hôm 27 tháng 12, chỉ sau ngày kỷ niệm 30 năm sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết có một ngày.

Nội dung của bài báo tập trung vào việc phản bác các quan điểm cho rằng Việt Nam không có dân chủ bởi do đảng Cộng Sản độc quyền lãnh đạo.

Ngoài ra, bài viết cũng đưa ra lời biện hộ rằng ở Việt Nam thực tế tồn tại chế độ dân chủ, được gọi là “dân chủ Nhân dân hướng theo con đường xây dựng Xã hội Chủ nghĩa”.

Trước lập luận trên của cơ quan ngôn luận của Bộ Công an, ông Nguyễn Văn Đài, người sáng lập Hội Anh em Dân chủ, một tổ chức đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam, cho Đài Á châu Tự do biết quan điểm của ông:

“Bài báo này không chỉ nhân dịp kỉ niệm 30 năm Xô Viết sụp đổ mà còn ra cùng ngày mà họ tổ chức hội nghị công an toàn quốc, đây là một trong những hội nghị rất quan trọng.

Cho nên họ gửi một cái thông điệp rõ ràng, là các lực lượng công an, an ninh, cảnh sát ở Việt Nam phải bảo vệ bằng được chế độ độc đảng của đảng Cộng Sản Việt Nam, đồng thời thì họ cũng nói với người dân rằng là họ khẳng định sẽ bảo vệ cho cái chế độ độc đảng này.”

#RFAVietnamese #Vietnam #baoCAND

VỤ ÁN CHÁU BÉ 8 TUỔI BỊ ĐÁNH CHẾT VÀ VẤN ĐỀ NHÂN QUYỀN

Vũ Quốc Ngữ

VỤ ÁN CHÁU BÉ 8 TUỔI BỊ ĐÁNH CHẾT VÀ VẤN ĐỀ NHÂN QUYỀN

– – – – –

Huỳnh Ngọc Chênh

Cháu bé bị hành hạ ác độc hơn một năm qua để rồi cuối cùng bị đánh chết mà không hề được ai cứu giúp ngay trong một gia đình khá giả thượng lưu có cha làm giám đốc một công ty và ông nội là bác sĩ phó giám đốc một bệnh viện lớn, nói lên nhiều vấn đề của xã hội ngày hôm nay.

Nhiều bài viết đã lên án về mặt đạo đức và pháp luật khá đầy đủ, thấy không cần phải nêu ra nữa. Ở đây tui muốn lưu ý đến khía cạnh phổ biến hiểu biết về nhân quyền cho toàn dân và giáo dục nhân quyền cho trẻ em.

Đã nhiều lần khi nói về nhân quyền, tui hay nhắc đến chuyện ngay cả trẻ em mẫu giáo của các nước châu Phi cũng đã được dạy về nhân quyền. Quyền cụ thể và đầu tiên mà các em được dạy là quyền không bị làm đau đớn và không làm đau đớn người khác. Nghĩa là em không được cấu, cắn bạn bè và ngược lại. Rồi từ đó nâng cao lên, không ai có quyền đụng chạm đến cơ thể của em gây ra đau đớn, kể cả bố mẹ.

Rồi người ta dạy cho các em biết khi bị người lớn đụng chạm đến cơ thể phải phản ứng ra sao, phải báo động đến ai, phải cầu cứu ai…

Cháu bé vừa bị đánh chết đã học lên đến lớp 3, nếu từ khi còn mẫu giáo đã được dạy dỗ những điều như trên thì ngay lần bị mẹ kế hành hạ đầu tiên đã biết cầu cứu đến mẹ ruột, đến ông bà nội, đến hàng xóm, đến thầy cô giáo…

Nhưng cháu đã không làm được điều này, để bị hành hạ liên tục, ngày càng nặng hơn suốt một năm rồi bị đánh chết trong lần bị hành hạ cuối cùng. Cháu không được dạy về quyền làm người và cách bảo vệ quyền làm người của mình.

Người mẹ kế cũng không được dạy về quyền làm người từ bé nên đã thản nhiên xâm phạm cơ thể của cháu bé mà không thấy sai. Pháp luật thì cô càng không am hiểu.

Người bố học hành cao, có địa vị trong xã hội, nhưng từ bé đã không được dạy về nhân quyền, lớn lên và làm việc trong một xã hội mà nghe nói đến hai chữ nhân quyền như nghe về điều gì huý kị ghê gớm lắm, nên không hiểu một điều rất cơ bản là không có quyền làm đau con mình và không cho ai được phép làm đau con mình.

Nhân quyền thì giấu đi, luật pháp thì bưng bít những điều tiến bộ mà thế giới buộc phải ghi vào, thảm cảnh vẫn tiếp tục xảy ra cho con người VN là điều không thể tránh khỏi.

Nhân quyền là nền tảng của pháp luật. Hiểu biết pháp luật là hiểu biết về nhân quyền. Có lẽ vì vậy mà pháp luật cũng bị bưng bít với người dân.

Đã có nhóm Hiến Pháp bị bắt đi tù hết cả nhóm chỉ vì có ý định phổ biến kiến thức luật cho người dân.

Đã có bạn tui là ứng cử viên quốc hội Lê Trọng Hùng bị bắt đi tù chỉ vì đã phát sách pháp luật cho người dân.

Và cũng có lẽ vì vậy mà tui nhiều lần muốn gởi sách bộ luật hình sự và luật tố tụng hình sự vào trại giam cho vợ tui là Nguyễn Thuý Hạnh nghiên cứu am hiểu luật cũng bị ngăn cấm.

FB Huỳnh Ngọc Chênh

Ăn Cướp & Ăn Cắp- Tưởng Năng Tiến

Ăn Cướp & Ăn Cắp

Tưởng Năng Tiến

Tôi nghe nhiều người than phiền về một vị đồng hương (khó thương) của mình nên cũng đâm ra hơi sốt ruột, và xót ruột:

Người Buôn GióHầu như cứ động đến Việt Kiều là có mặt Thọ Muối. Nhà văn Thọ Muối trước là cựu chiến binh giải phóng miền Nam, khi xuất ngũ về đói quá (tác phẩm Nhà Ba Hộ đoạt giải của Thọ Muối lột tả những tháng ngày đau khổ này) Thọ Muối đi xuất khẩu lao động sang Đông Đức. Thời thế nháo nhào Tây Đông hòa hợp, Thọ Muối thành Việt Kiều Đức nhưng lòng nhớ các em gái Việt Nam khôn nguôi.

Và hơn nữa là sự đam mê văn chương. Vì những thứ ấy chỉ ở Việt Nam mới đáp ứng nhu cầu của Thọ Muối. Nên Thọ năng đi về quan hệ với văn nghệ sĩ và các em út trong nước. Mà muốn đi về thì phải phát ngôn thế nào thì Thọ tất rõ. Thọ Muối từng giật míc đọc thơ đón tiếp Tổng Bí Thư Nông khi ngài có dịp sang Đức quá bộ thăm Kiều bào bên đó.”

Đỗ Trường: Tập kiểu sống như thế này, hèn và nhục lắm ông Nguyễn Văn Thọ ạ

Khánh Minh: “Thọ Muối là đồng chí đéo lào mà lịnh thế!”

Cứu cánh biện minh cho phương tiện là châm ngôn sống của nhiều người, chứ chả riêng chi ông Thọ. Nịnh bợ, nói nào ngay, cũng chỉ là một trong hằng trăm cách ứng xử ở đời thôi. Trong cái bối cảnh xã hội mà “không có nhân cách người ta vẫn sống, thậm chí còn sống béo tốt hơn” (theo như lời của một vị sĩ phu xứ Việt) thì xu phụ – nghĩ cho cùng – cũng không có gì là trật lắm!

Tôi chỉ có hơi phiền lòng chút đỉnh khi nghe nhà văn Nguyễn Văn Thọ lại vừa lớn tiếng đòi “lên án gia đình” em V.T.T.M, một nữ sinh mồ côi cha, quê ở Sầm Sơn – Thanh Hoá. Em bị bắt giữ và làm nhục chỉ vì ăn cắp một cái váy trị giá 160 ngàn đồng tiền Việt, vào hôm 3 tháng 12 năm 2021:

“Xưa người ta thường nói Đứa dại hở L thằng khôn xấu hổ hay Chó gầy hổ mắt người nuôi. Cha mẹ những kẻ ăn cắp phải nên biết xấu hổ và tôi thấy báo chí không nên khai thác 1 mặt về phía tâm lí cha mẹ trong trường hợp này, dường như gia đình và cô gái kia không đáng lên án sao?

May mà còn có những người người cầm bút khác, với cái tầm và cái tâm bao dung hơn thế:

– Thùy DươngTrong vụ việc nói trên, chủ shop quần áo đã có những hành vi mang tính nhục mạ, xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của nữ sinh 16 tuổi. Việc chụp ảnh em M. bị hành hung để tung lên mạng xã hội, phát tán cho nhiều người cùng xem, đã làm cho mức độ xâm phạm danh dự, nhân phẩm của nữ sinh này trầm trọng thêm.

Thái HạoChúng ta tỉnh táo tới mức không thể chấp nhận việc có nhiều người động lòng thương gia đình một cô bé nghèo khổ ăn cắp, chúng ta sáng suốt nhân danh đủ thứ lý lẽ để đòi trừng trị, chúng ta cao giọng dạy dỗ huấn thị. Ngày xưa, khi phát hiện một đứa trẻ đang leo cây hái trộm ổi, ông chủ nhà sẽ im lặng không lên tiếng, giả vờ như không biết vì sợ nó té ngã; ngày xưa, khi một đứa trẻ ăn trộm trái cây trong vườn ông thầy đồ, ông sẽ nói “cháu đừng hái trái xanh”, rồi đến trưa thì tự tay mang sang nhà cho một rổ… Thời tôi vẫn còn lác đác thấy thế, thời cha mẹ ông bà tôi thì nhiều hơn.

Những chuyện “ngày xưa” thượng dẫn khiến tôi nhớ đến một câu chuyện khác, chưa xa xưa gì lắm, đọc được trên trang Trí Thức VN:

Buổi sáng hôm ấy, cậu học sinh này cứ lang thang mở coi hết cuốn này đến cuốn khác ở chỗ các giá sách tiếng Pháp. Việc lấm lét nhìn tới nhìn lui của cậu bé khiến nhân viên trông coi khu sách tiếng Pháp nghi ngờ. Lúc cậu đi ra, họ giữ lại, sờ ngực áo cậu và lôi ra một cuốn Toán Hình học và Đại số của Réunion de Professeurs quý giá đã nói ở trên.

– Tại sao cậu ăn cắp sách?

Cậu bé tái mặt không nói nên lời. Chiếc phù hiệu trên ngực áo cậu cho biết cậu học trường Pétrus Ký, một trong bốn trường trung học công lập lớn nhất rất nổi tiếng tại Sài Gòn lúc bấy giờ: Gia Long, Trưng Vương, Pétrus Ký, Chu Văn An.

– Hừ, học sinh trường Pétrus Ký mà ăn cắp sách! Tôi gọi cảnh sát đến bắt để cậu chừa cái thói đó đi!

Họ lôi cậu bé tới chỗ quầy thâu tiền của cô thâu ngân viên, nhờ cô giữ cậu giùm rồi đi gọi cảnh sát. Cậu bé sợ hãi khóc như mưa như gió:

– Lạy chị, nhà em nghèo không có tiền mua sách, chị nói với chú ấy tha cho em đừng gọi cảnh sát…

Từ đầu đến giờ có một ông đã lớn tuổi, ăn mặc lịch sự vẫn đứng theo dõi câu chuyện. Thấy cô thâu ngân nói thế, ông bảo cô ta:

– Thôi được, cuốn sách giá bao nhiêu để tôi trả tiền. Học trò nghèo mà, lấy một cuốn sách, lỡ bị đuổi học tội nghiệp…

Cô thâu ngân viên chưa biết giải quyết thế nào thì đúng lúc đó ông Nguyễn Hùng Trương, chủ nhà sách mà mọi người vẫn gọi là ông Khai Trí, từ ngoài đi vô.

Thấy chuyện lạ, ông dừng lại hỏi chuyện gì. Cô thâu ngân viên thuật lại sự việc và ông khách cũng đề nghị trả tiền như ông đã nói với cô thâu ngân. Ông Khai Trí cầm cuốn sách lên coi sơ qua rồi nói:

– Phải học trò giỏi mới dùng tới cuốn sách này chứ kém không dùng tới. Cám ơn lòng tốt của ông nhưng để tôi tặng cậu ta, không lấy tiền và sẽ còn giúp cậu ta thêm nữa…

Ông trao cuốn sách cho cậu bé, thân mật vỗ vai khuyên cậu cố gắng học hành rồi móc bóp lấy tấm danh thiếp, viết vài chữ, ký tên và đưa cho cậu:

– Từ nay hễ cần sách gì cháu cứ đem danh thiếp này đến đưa cho ông quản lý hay cô thâu ngân, cô ấy sẽ lấy cho cháu. Ngày trước bác cũng là học sinh trường Pétrus Ký mà…

Thái độ của người khách lạ và ông chủ hiệu sách Khai Trí khiến tôi nhớ đến tựa một cuốn sách (It Takes A Village) của Hillary Rodham Clinton, xuất bản lần đầu vào năm 1997. Đề tựa này dường như được lấy cảm hứng từ một câu ngạn ngữ cổ xưa – “It takes a village to raise a child” Một đứa bé cần được cả làng chăm sóc – của dân Châu Phi.

Cái thời mà phần lớn nhân loại sống theo từng làng mạc nay đã qua rồi. Bây giờ ở Việt Nam nếp sống được tổ chức chặt chẽ hơn nhiều. Ngoài sự “quan tâm” thường xuyên của Nhà Nước và Đảng cầm quyền, tất cả mọi người dân (bất kể nam phụ lão ấu) còn được Mặt Trận Tổ Quốc “chăm sóc” tới nơi tới chốn nữa cơ?

Liệu chính quyền địa phương (với đủ thứ hội hè, đoàn thể, ban ngành) có chút trách nhiệm gì không về hành vi đáng tiếc vừa qua của một công dân vị thành niên?

Tôi chưa được đặt chân đến Thanh Hoá lần nào nên cũng tò mò muốn biết xem cuộc sống nơi em V.T.T.M sinh trưởng ra sao? Lần dò qua báo chí nước nhà, và đọc được những mẩu tin sau:

Nếu “khối tài sản” của ông Bí Thư Thành Ủy Thanh Hóa đừng quá “khổng lồ” (và nếu quí vị quan chức ở địa phương này chịu “cắt xén” hay “ăn chận” mỏng hơn chút xíu) liệu em V.T.T.M sẽ có thể sắm một cái váy để mặc, thay vì trộm cắp hay không?

Có thể cũng không, vì chả có gì hoàn toàn bảo đảm là một cá nhân có thể hành xử cách này, thay vì cách khác. Tuy thế, tôi vẫn tin rằng nếu nhà văn Nguyễn Văn Thọ cũng “đứng về phe nước mắt” như vô số người cầm viết khác (thay cho cái thói “thượng đội hạ đạp” cố hữu) thì chắc chắn ông sẽ tránh được rất nhiều điều tiếng hay búa rìu dư luận.

Tưởng Năng Tiến
12/2021

Đêm Giáng Sinh nổi dậy ở trại Suối Máu

Đêm Giáng Sinh nổi dậy ở trại Suối Máu

LTS: Dưới đây là hồi ký của một sĩ quan VNCH trong thời gian đi tù cải tạo, về một lần đón Giáng sinh khó quên trong đời ông. Những gì ghi lại cho thấy sự khác biệt vô cùng lớn lao giữa người miền Nam có tín ngưỡng và bộ đội Bắc Việt vô thần, vào những ngày VNCH sụp đổ. Nhưng dù sao, đêm Noel cũng đã diễn ra, trong vòng vây thù hận.

Thấm thoát lại một mùa Giáng Sinh đến với nhân loại, và đó là Lễ Giáng Sinh lần thứ tư trong lao tù của chúng tôi. Theo quy định của trại từ “bò xanh” đến “bò vàng”, chúng cấm chỉ tuyệt đối mọi lễ nghi tôn giáo, nhưng anh em có đạo vẫn tuỳ theo hoàn cảnh tổ chức lễ Noel trong tù.

Hôm nay, mọi sinh hoạt trong trại trong ngày vẫn bình thường. Từ buổi chiều một số anh đã bắt tay thực hiện một hang đá dã chiến đơn giản bằng giấy vỏ bao ciment bôi nhọ nhồi đen với những nếp nhún khi sắp xếp xen kẽ, chồng chất lên nhau trông không khác gì hang đá thật ngoài đời. Hang đá khá lớn, cao khoảng hơn một mét rưỡi, dựa vô chính giữa vách nhà 15. Cho đến sẩm tối thì công tác thiết trí hang đá hoàn tất. Một bóng đèn điện tròn duy nhất treo trên phần cao chính giữa bên trong nhà 15 được kéo giây luồn ra ngoài, được đặt vào trong hang đá.

Tôi là người ngoại đạo, nhưng tôi rất thích đi nhà thờ và dự Lễ Noel với các bạn thuở còn là học trò. Khi thì đi lễ nhà thờ Tây Ninh với cô bạn học Tuyết Mai, khi thì đi dự Lễ Noel với các bạn Chiến, Thành, Lưỡng, Diên, Mùi ở nhà thờ của Cha Dụ trên trại định cư Tầm Long, Trảng Lớn, Tây Ninh. Vì thế, tôi ở nhà 17 nhưng cứ lẩn quẩn bên cạnh các anh làm hang đá và thầm phục các anh tài hoa, khéo tay đã sáng tạo ra một hang đá thật đẹp và thanh thoát dù chỉ bằng một ít giấy vỏ bao ciment.

Công tác thiết trí hang đá với các mẫu tượng nhỏ của Chúa Hài Đồng, Ba Vua, Máng Cỏ đặt bên trong xong thì trời cũng đã tối. Các anh em không có đạo thì sinh hoạt bình thường, đi dạo bộ hay ở trong nhà. Các anh em có đạo bắt đầu mang ghế cá nhân đến nơi hành lễ. Vì hang đá lập chính giữa bên vách nhà 15 nên các anh em xếp ghế ngồi hai bên đường đi giữa nhà 15 và nhà 16, mặt hướng thẳng ra cổng trại, xuyên suốt qua các nhà 9 và 10 dãy 2 và nhà 3 và 4 dãy 1.Buổi Lễ bắt đầu khoảng 10 giờ đêm với ước chừng trên 50 anh em tham dự. Tôi đứng ngay sau lưng các anh, nhưng ở phía khoảng trống giữa hai nhà 15 và nhà 16 xem các anh làm lễ và nghe các anh đọc kinh.

Thình lình, từ hướng sau nhà 13 bên trái ào đến toán “bò vàng” đi tuần, theo như thông lệ, tên Trung uý Quỳnh Trưởng K1 đi đầu, theo sau là một tiểu đội 10 tên “bò vàng”, súng CKC cầm tay có gắn lưỡi lê ập tới. Rất nhanh, toán “bò vàng” đi vào nơi anh em đang làm lễ. Tên Quỳnh la lên: “Ai cho các anh tụ họp làm lễ. Giải tán! Giải tán! Giải tán ngay!” Rất nhanh, anh em chưa kịp ra khỏi con đường giữa hai nhà thì toán “bò vàng” đi tuần đã rút thật nhanh qua hai nhà 9 -10 và 3 – 4 ra ngoài trại mà không có điều gì xảy ra.

Một số nhỏ vài anh trở vô nhà của mình, phần còn lại, các anh tiếp tục cuộc lễ đang dở dang. Không ngờ, khoảng nửa giờ sau, tên Quỳnh lại dẫn toán “bò vàng” đi tuần trở vào lần thứ nhì. Đi như chạy, bọn chúng ập vô nơi anh em đang làm lễ. Tên Quỳnh la lên: “Tại sao không giải tán? Tại sao không giải tán? Bắt lấy nó!” Các anh giạt ra hai bên tiến về phía trước, bọn vệ binh xô đẩy, nổ súng và chụp một vài anh lôi đi. Ngay khi tiếng súng nổ, tôi nghe có tiếng thét: “Giết nó!” cùng tiếng chân chạy sầm sập đàng sau lưng. Tôi liên tưởng đến đổ máu. Nói thì lâu nhưng diễn biến thì chỉ trong tích tắc, một số anh em bên K5 đã vượt qua hàng rào kẽm gai để qua bên này với chúng tôi.

Nhưng cũng rất nhanh, toán “bò vàng” bắt theo mấy anh đã ra tới cổng trại rồi khóa chặt cổng lại. Ngay sau đó, được biết có ba anh đã bị bọn chúng bắt ra ngoài trại là các anh Rĩnh, Hoàng và Bé. Một số anh em vô nhà chuẩn bị đi ngủ, nhưng các anh trong Ban Hành Động quyết định biểu tình bất bạo động trong trại để đòi bọn “bò vàng” phải trả anh bị chúng bắt vô trại. Một lệnh được đưa ra ngay lập tức và được thực hiện ngay là một toán các anh đi từng nhà yêu cầu tất cả các anh em ở trong nhà còn thức hay ngủ, dù bịnh cũng phải ra sân chơi bóng chuyền tập họp. Khi cuộc tập họp đã đầy đủ, toàn thể 18 nhà bỏ trống, Ban Hành Động bắt loa tay yêu cầu trả ba anh em bị bắt vào trại.

Phía ngoài trại, bọn “bò vàng” dùng loa trả lời: “Nhà cầm quyền trại yêu cầu các anh em giải tán. Ai về nhà nấy. Ngày mai trại sẽ thả các anh bị bắt.” Anh đại diện nói vọng ra trả lời : “Chúng tôi chỉ giải tán khi ba anh em chúng tôi được trả vô trại.” Lời qua tiếng lại không bên nào chịu bên nào. Ba lần bọn chúng yêu cầu chúng tôi giải tán, ba lần chúng tôi yêu cầu thả anh em chúng tôi bị bắt trở vô trại. Lúc đó vào khoảng 11 giờ đêm Giáng Sinh.

Tình hình căng thẳng lên, phía ngoài trại cách một mặt đường là khu đóng quân và nhà làm việc của bọn “bò vàng”. Bọn chúng la hét, rồi nhảy xuống giao thông hào và hố chiến đấu cá nhân dọc theo bên đường. Tiếng súng lên đạn nghe rõ mồn một. Các loại súng chĩa thẳng vô chúng tôi trong trại. Có tiếng di chuyển ầm ì của chiến xa từ xa vọng lại và các đơn vị địa phương và cơ động được điều động tới. Chúng tôi không nao núng, chờ đợi những diễn tiến xảy đến, kể cả có thể phải chịu cuộc tắm máu của bọn cuồng sát đêm nay.

Rồi thì sương đêm bắt đầu thấm lạnh, trong không gian u tịch của trại tù K1 Suối Máu, Khu Tân Hiệp, Biên Hòa, một ai đó trong anh em chúng tôi, trong cảnh khốn cùng tù đày khởi sự hát lên bản nhạc Giáng Sinh quen thuộc “Đêm đông lạnh lẽo” của Hải Linh. Tiếng hát trầm ấm cất lên – “Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời. Chúa sinh ra đời. Nằm trong hang đá nơi máng lừa.” Rồi thì một số anh em cùng hát theo “Trong hang Belem ánh sáng tỏa lan tưng bừng,” và rồi cả trại cất cao tiếng hát vang vang trong không gian bao la của khu vực Tân Hiệp, tiếng hát vang lên không trung “Nghe trên không trung tiếng hát Thiên Thần vang lừng. Đàn hát, xướng ca dư âm vang xa. Đây Chúa Thiên Tòa giáng sinh vì ta. Người hỡi hãy kíp bước tới đến xem nơi hang Belem ôi Chúa Giáng sinh khó khăn thấp hèn. Nửa đêm mừng Chúa Giáng sinh ra chốn dương trần. Người đem ơn phước xuống cho muôn dân lầm than. Nơi hang Belem Thiên Thần xướng ca. Thiên Chúa vinh danh chúng nhân an hòa? Tan giá đêm đông ấm thân con người. Nơi hang Belem huy hoàng ánh sao. Đưa lối Ba Vua phương Đông đến chào.”

Cứ thế chúng tôi không phân biệt lương, giáo, tiếp tục hát và như một chuyển động dây chuyền, phía sau chúng tôi anh em bên K5 ra sân cùng hát, bên K2 rồi K3 và K4 cũng hòa nhập với chúng tôi cất cao lời hát. Bấy giờ thì cả chúng tôi ở 5 K đều tụ họp ngoài sân trại và cùng đồng thanh hát bản Thánh ca “Đêm đông lạnh lẽo” để “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình An dưới thế cho người thiện tâm.”

Trong đêm Giáng Sinh này, chúng tôi những chiến sĩ VNCH trong lao tù cộng sản ở Trại Suối Máu, Tân Hiệp, đã có dịp chứng tỏ sức mạnh của sự đoàn kết, chúng tôi không khiếp nhược trước bạo lực. Chúng tôi say sưa hát để biểu dương tình người, tình chiến hữu. Nếu Thiên Chúa xuống dương trần để đem ơn phước cho người lầm than thì tại sao những anh em chúng tôi chỉ vì biểu lộ đức tin mà bị đối xử thô bạo. Các anh có thể bị tra tấn, đánh đập bằng đòn thù; các anh sẽ bị nhốt vào connex, những container bằng sắt đêm lạnh tê người và ngày nóng cháy da. Có lẽ chưa có một ca đoàn nào có một ban hợp ca vĩ đại như ca đoàn liên K ở trại tù Suối Máu trong đêm Giáng sinh 1978 và đáng được đưa vào sách ghi kỷ lục Guinness.

Sương rơi ướt bờ vai, thấm lạnh thật sự. Chúng tôi vẫn hát chỉ một bản duy nhất “Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời. Chúa sinh ra đời. Nằm trong hang đá nơi máng lừa.” Những điệp khúc vang lên êm đềm, tha thiết sưởi ấm lòng người xa nhà, xa người thân yêu trong một đêm Chúa Giáng sinh trong một tình cảnh vô vọng “Thiên Chúa vinh danh chúng nhân an hòa? Tan giá đêm đông ấm thân con người.”

Cứ như thế, thời giờ đã qua nửa đêm về sáng, bất ngờ ngoài trại có tiếng loa: “Nhà cầm quyền trại yêu cầu các anh em giải tán, ai về nhà nấy. Ba anh em sẽ được thả vào trại.” Chúng tôi ngừng hát. Quả nhiên, cổng trại có ánh đèn pin chiếu, cổng mở và ba anh Rĩnh, Hoàng và Bé bước vô trại. Chúng tôi vô cùng mừng rỡ cùng reo lên trong một thắng lợi ngoạn mục không ngờ. Liền sau đó, chúng tôi tản hàng trở về nhà ngủ. Anh em ở các K bạn cũng giải tán trong im lặng.

Thời gian trôi qua thật mau, Mới đó mà đã 30 mùa Giáng Sinh trôi qua kể từ đêm Giáng Sinh năm xưa ở trại tù Suối Máu. Mỗi khi mùa giáng Sinh về, trong tôi ký ức về một đêm Lễ Giáng Sinh tràn đầy nhân bản, tình chiến hữu lại tỏa sáng. Đây có lẽ là cuộc tranh đấu độc nhất trong lịch sử lao tù của cộng sản chỉ bằng đêm hát nhạc thánh ca ôn hòa nhưng đầy hào hùng và đem lại thành công tuyệt đẹp.

Dưới trời mưa tuyết đầy băng giá nơi vùng Tây Bắc Hoa Kỳ, trong mùa Giáng Sinh này, tôi xin thắp một nén nhang tưởng niệm đến các bạn đã trở thành “người của cõi vĩnh hằng” như Bạn Vinh/QC/nhà16; Đỗ Văn Phố/LBPV/ PTT, Bùi Văn Thanh/KQ/nhà17. Để tặng các bạn ở trại tù Suối Máu, và đặc biệt các bạn lưu lạc bốn phương trời: Huỳnh Lê Phi Hùng/ ANTB/ BTLKQ/Saigon; Phạm Văn Đức/ANQĐ, Nguyễn Văn Phước/ANHQ/Paris. Đặng Ngọc Trung/ANQĐ, Hùng (tay trái) Cali; Đại Đức Tuyên Uý Đối/BĐQ, Dương Cự/QP, và các bạn Sĩ, Vinh, Mùi, Lợi?

Bùi Quốc Hùng
Tacoma-Washington,

Ghi lại nhân mùa Giáng Sinh 2008

From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen