Giỗ cụ Lê Đình Kình: Nghĩ về vòng xoáy tội ác — Vòng xoáy đau thương

Giỗ cụ Lê Đình Kình: Nghĩ về vòng xoáy tội ác — Vòng xoáy đau thương

Bởi  AdminTD

Phạm Đình Trọng

16-1-2022

15 tháng Chạp năm Kỷ Hợi – 15 tháng Chạp năm Tân Sửu (9.1.2020 – 17.1.2022)

  1. Ra đời từ nạn đói năm 1945, không một hạt gạo, không một xu dính túi, nhà nước cộng sản của Hồ Chí Minh được người đàn bà goá bụa Nguyễn Thị Năm, chủ doanh nghiệp Cát Hanh Long mở lượng hải hà nghiêng nhà, nghiêng cửa dốc của cải, tiền bạc cả đời tần tảo, nhạy bén kinh doanh tích lũy của mẹ goá con côi ra nuôi nấng, chăm bẵm từ người đứng đầu nhà nước cộng sản đến người lính để nhà nước cộng sản làm cuộc kháng chiến chống Pháp giữ chính quyền.

Cuộc chiến tranh chống Pháp chỉ là cuộc chiến tranh giữ chính quyền cộng sản cũng như cuộc chiến tranh Nam – Bắc chỉ để áp đặt chính quyền cộng sản trên cả nước chứ không vì độc lập của nước, không vì tự do của dân. Cho đến nay nhà nước cộng sản Việt Nam vẫn bị cột chặt vào nước cộng sản đàn anh trong thế giới cộng sản thì làm gì có độc lập thực sự. Cho đến nay người dân vẫn không có những quyền tự do đương nhiên của con người, không có những quyền tự do đương nhiên của công dân thì làm gì có tự do.

Nuôi chính phủ, nuôi quân, nuôi cả cuộc kháng chiến đầu tiên của nhà nước cộng sản. Khi cuộc kháng chiến cuồn cuộn thế tiến công đến thắng lợi, chính quyền cộng sản được củng cố vững mạnh, nhà nước cộng sản liền vu cho người đàn bà nuôi nhà nước cộng sản từ thuở trứng nước là địa chủ, lôi người đàn bà ân nhân, lôi người đàn bà là Thánh sống cứu sinh của chính quyền cộng sản ra bắn trong cánh rừng âm u của bầy thú thời hồng hoang.

Ngày 9 tháng bảy năm 1953 tiếng súng tội ác của nhà nước cộng sản bắn chết người đàn bà tài năng, giỏi làm giầu chính đáng và rộng lớn lòng yêu nước thương nòi Nguyễn Thị Năm.

Người dân đều biết CB là bút danh quen thuộc của ông Hồ Chí Minh trong nhiều bài viết đăng trên tờ báo đảng của ông. Mười hai ngày sau khi bắn bà Thánh Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm, ngày 21 tháng bảy năm 1953, trên báo đảng lại có bài viết của CB: Địa Chủ Ác Ghê, bịa đặt, vu khống cho người đàn bà tài hiền, lòng Phật những tội do bộ máy vu khống chuyên nghiệp của đảng tạo ra. Địa Chủ Ác Ghê là những ngụm máu phun vào người đàn bà có tấm lòng Phật Nguyễn Thị Năm:

Mụ địa chủ Cát-Hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:

– Giết chết 14 nông dân.

– Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.

– Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người – năm 1944, chúng đưa 37 gia đình về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người.

– Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân – Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm nhiều. Ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.

– Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy tháng, 15 em đã bỏ mạng.

Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-Hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng bào !

Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ:

– Trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần, rồi dội nước lạnh vào người. Hoặc bắt đội thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào vai, đau buốt tận óc tận ruột.

– Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống.

– Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng hộc máu. Bơm nước vào bụng, rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra.

– Chúng đổ nước cà, nước mắm vào mũi nông dân, làm cho nôn sặc lên.

– Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt.

– Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia mẹ con chúng đã thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến . . .

Địa Chủ Ác Ghê là sự vu khống vô cùng đê tiện, hèn hạ như giọng điệu của đám dư luận viên hạ đẳng ngày nay.

  1. Phát động cuộc chiến tranh Nam – Bắc bằng nghị quyết trung ương 15/1959 nhằm áp đặt thể chế cộng sản trên cả nước, nhà nước cộng sản lại vét sức dân, vét máu dân làm cuộc nội chiến đẫm máu. Anh thanh niên nông dân Lê Đình Kình hăng hái nhập ngũ cầm súng đi vào cuộc nội chiến. Từ mặt trận cuộc nội chiến trở về đồng ruộng, người lính xuất ngũ Lê Đình Kình liền được trao trách nhiệm lo cho màu xanh cánh đồng, lo cho cuộc sống người dân làng xã. Lần lượt đảng viên Lê Đình Kình gánh vác: Chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp toàn xã Đồng Tâm. Trưởng công an xã. Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân xã. Bí thư đảng uỷ xã.

Từ đó, cuộc sống người dân Đồng Tâm là cuộc sống gia đình đảng viên Lê Đình Kình. Sự được, mất của mùa màng Đồng Tâm là niềm vui, nỗi buồn của lương tâm Lê Đình Kình. Sự tồn tại của mảnh đất Đồng Tâm là sự tồn tại của cuộc đời, sự nghiệp con người Lê Đình Kình.

Sau gần suốt cuộc đời gắn bó máu thịt với mảnh đất Đồng Tâm, trí nhớ minh mẫn và văn bản nhà nước về mảnh đất Đồng Tâm có đầy đủ trong tay, lão nông Lê Đình Kình thuộc địa phả Đồng Tâm như gia phả nhà mình. Biến động của đất nước, đất sống của Đồng Tâm cứ hao hụt là nỗi lo, nỗi bận tâm Lê Đình Kình.

Năm 1961 Đồng Tâm phải cắt 300 ha trong 406,3 ha đất cánh đồng Sênh cho quân đội làm trường bắn của sư đoàn 308, nay là trường bắn quốc gia Miếu Môn.

Năm 1981, sân bay đã chiến Miếu Môn được qui hoạch. 47,3 ha đất phía Đông đồng Sênh lại nằm trong 208 ha đất sân bay Miếu Môn. Một lần nữa Đồng Tâm lại phải cắt đất đồng Sênh giao cho bộ Quốc phòng. Dân Đồng Tâm chỉ còn 59 ha đất Tây đồng Sênh.

Đất sống của Đồng Tâm hao hụt hàng trăm ha, xót xa lắm nhưng nhà nước thu hồi đất đúng pháp luật thì phải chấp hành. 59 ha đất phía Tây đồng Sênh còn lại của tổ tiên người dân Đồng Tâm kéo địa giới Đồng Tâm vào tới chân dãy núi Găng, giáp đường Hồ Chí Minh đã xác định hình hài, tầm vóc Đồng Tâm, đã xác định vị thế chiến lược Đồng Tâm trong thế chiến lược của đất nước. 59 ha đất đồng Sênh còn lại của lịch sử, của sự sống Đồng Tâm, đầm đìa mồ hôi, đầm đìa khát vọng người dân Đồng Tâm càng vô cùng quí giá đến thiêng liêng.

Nhưng qua thời bần cố nông lộng hành. Qua thời bộ máy vu khống chuyện nghiệp tạo dựng lên những bần cố nông vu khống, đấu tố, buộc tội và giết hại bà Thánh Nguyễn Thị Năm lại đến thời tư bản hoang dã lộng hành. Quyền lực đồng tiền của tư bản hoang dã kết cấu với quyền lực nhà nước cộng sản sử dụng bộ máy vu khống chuyên nghiệp vu khống, buộc tội và sử dụng bạo lực nhà nước cướp đất dân.

Cho đến nay không có bất cứ một văn bản hợp pháp nào của nhà nước thu hồi 59 ha đất Tây đồng Sênh của dân Đồng Tâm. Nhưng lòng tham của tư bản hoang dã mang tên doanh nghiệp quân đội Viettel đã nhòm ngó mảnh đất Tây đồng Sênh thì dân Đồng Tâm phải mất đất Tây đồng Sênh. Như dân Văn Giang, Hưng Yên phải mất 500 ha đất bờ sôi ruộng mật, như dân Dương Nội, Hà Đông phải mất mảnh đất sống cho tư bản hoang dã chiếm làm đất kinh doanh thu lợi nhuận tư bản. Bộ máy vu khống chuyên nghiệp liền lu loa hô biến 59 ha đất Tây đồng Sênh của dân Đồng Tâm thành đất quốc phòng.

Làm kinh tế là hoạt động sản xuất kinh doanh tư bản. Quân đội làm kinh tế đã biến những tướng tá quân đội ở những đơn vị làm kinh tế thành những nhà tư bản thời tích luỹ tư bản, thời tư bản hoang dã, lòng dạ và tâm địa chỉ vì lợi nhuận. Biến người lính ở những đơn vị làm kinh tế thành những lao động không công cho những tướng tá kinh doanh tư bản. Như những nô lệ da đen lao động không công cho những tư bản da trắng thời nước Mỹ làm công nghiệp hoá.

Quân đội làm kinh tế biến nhiều tướng tá thành tư bản hoang dã, hối hả săn tìm lợi nhuận. Lợi nhuận bất chính đã dẫn dắt nhiều ông tướng vào con đường phạm pháp, tù tội, từ thượng tướng thứ trưởng bộ Quốc phòng đến trung tướng tư lệnh Cảnh sát biển. Quân đội làm kinh tế làm hư hỏng quân đội, tàn phá sức mạnh quốc phòng của đất nước và biến quan hệ quân dân cá nước thành quan hệ đối kháng. Đối kháng giữa tư bản hoang dã cướp đất phi pháp với người dân giữ đất hợp pháp, chính đáng.

Lão nông, đảng viên Lê Đình Kình quyết giữ chính đáng 59 ha đất Tây đồng Sênh cho người dân Đồng Tâm đã phải đối đầu với sức mạnh đồng tiền của tư bản hoang dã, đối đầu sức mạnh chính trị lực lượng vũ trang của đảng, đối đầu sức mạnh bạo lực nhà nước chuyên chính vô sản và người nông dân giữ đất chính đáng Lê Đình Kình phải nhận cái chết rùng rợn, man rợ hơn cả cái chết đau đớn của bà Thánh Nguyễn Thị Năm.

Bà Thánh Nguyễn Thị Năm bị toà án bần cố nông tuyên án tử hình và bị đội du kích xã xử bắn ban ngày trong cánh rừng chiến khu Việt Bắc.

Không có bản án nào buộc tội công dân Lê Đình Kình. Không có một hình thức kỉ luật nào kết tội đảng viên Lê Đình Kình. Đang là công dân lương thiện, đang là đảng viên trong sạch, giữa đêm bình yên rạng sáng 9.1.2020 đúng ngày rằm tháng chạp Kỷ Hợi, lão nông Lê Đình Kình bị cả một trung đoàn cảnh sát cơ động với xe bọc thép súng lớn, xe vũ khí điện tử, với ba ngàn quân tinh nhuệ vây kín quanh nhà và đội đặc nhiệm cảnh sát còn đảng còn mình, coi dân có tiếng nói khác biệt với đảng là thù địch, sôi sục sắt máu, phá cửa xông vào tận giường ngủ kề súng vào sát đầu, sát ngực dân xả đạn.

Công dân lương thiện, đảng viên trong sạch Lê Đình Kình không những bị bắn vỡ sọ, thủng ngực, toác đầu gối mà còn bị mang xác đi phanh thây từ cổ tới tận cùng bụng. Chỉ những kẻ lòng lang dạ thú không còn một chút tính người mới hành xử với con người, với đồng loại man rợ như vậy.

Giết bà Thánh Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm rồi CB Hồ Chí Minh viết trên tờ báo đảng của ông vu khống người đàn bà mở lượng hải hà nuôi nấng đảng cộng sản thành địa chủ giết người!

Tung cả một trung đoàn công an tinh nhuệ trong đêm đánh úp thôn Hoành bé nhỏ, bình yên, tung lực lượng đặc nhiệm phá cửa xông vào tận giường ngủ bắn nát tim, vỡ sọ đảng viên lão thành cách mạng 59 tuổi đảng rồi tướng phát ngôn bộ Công an Tô Ân Xô lên báo vu cho công dân lương thiện, đảng viên trong sạch Lê Đình Kình là “Địa chủ cường hào mới”. Tướng Xô đơm đặt: “Sự nổi lên của đối tượng cầm đầu, nhất là ông Lê Đình Kình trong bối cảnh dòng họ Lê Đình có ảnh hưởng lớn tại thôn Hoành, có khả năng chi phối, tác động kết quả bầu cử ở cơ sở, là một loại cường hào địa chủ mới” Địa chủ thì phải làm chủ nhiều đất hơn người dân trong làng xã. Cường hào thì phải có sức mạnh quyền uy và sức mạnh bạo lực đàn áp, khống chế người khác. Đảng viên Lê Đình Kình chỉ có lòng tin ngây thơ, son sắt vào đảng của ông và tình yêu máu thịt với con người và mảnh đất Đồng Tâm.

  1. Từ đội du kích thi hành bản án tử hình xử bắn bà Thánh Nguyễn Thị Năm giữa ban ngày trong cánh rừng vắng đến đội đặc nhiệm cảnh sát trong đội hình trung đoàn cảnh sát cơ động giữa đêm xông vào tận giường ngủ hành quyết không cần có bản án, xả súng giết rồi phanh thây công dân thánh thiện, đảng viên trong sạch Lê Đình Kình đã tạo ra vòng xoáy tội ác ngày càng ghê tởm, tội ác đã được đẩy lên cao tới tận cùng man rợ!

Trong nhà nước cộng sản, quyền lực cộng sản cứ ngạo nghễ ngự trị trên vòng xoáy tội ác và người dân cứ mãi mãi chìm sâu trong vòng xoáy thăm thẳm đau thương, oan trái và oán hờn.

Tại sao những ca khúc trước 1975 được ưa chuộng?

Tại sao những ca khúc trước 1975 được ưa chuộng?

Nguyễn Văn Tuấn 

Hôm nọ, ông NPTrọng phàn nàn là Việt Nam không có những bài hát hay. Tôi thì nghĩ khác ổng, vì Việt Nam có những bài hát hay. Có thể ổng chưa nghe đó thôi. Chúng ta thử tìm về nhạc thời trước 1975 ở miền Nam xem, có nhiều bài hay lắm chứ, và vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay dù nó bị vùi dập nhiều lần …

Câu hỏi đặt ra là tại sao những bài ca đã được sáng tác hơn nửa thế kỉ trước mà đến nay vẫn còn được giới thưởng ngoạn, từ bình dân đến lịch lãm, đều ưa thích. Tôi nghĩ đến 4 lí do và cũng là đặc điểm của những ca khúc trước 1975 ở miền Nam: tính nhân văn, tự do tư tưởng, tính phong phú, và giàu chất nghệ thuật.

Nhân văn

Thứ nhất là đậm chất nhân văn. Nếu nhìn lại những bài ca trước 1975 ở miền Nam và so sánh với những sáng tác ở miền Bắc, tôi nghĩ ít ai có thể bác bỏ tính nhân văn trong các sáng tác ở trong Nam. Khi nói “nhân văn”, tôi không chỉ nói đến những sáng tác về thân phận con người, mà còn kể cả những sáng tác thuộc dòng nhạc lãng mạn, trữ tình, nói lên cảm xúc của con người trước thời cuộc.

Người ta thường phân nhóm những sáng tác của Trịnh Công Sơn thành hai nhóm tình yêu và thân phận, nhưng tôi nghĩ cách phân nhóm đó cũng có thể áp dụng cho nhiều nhạc sĩ khác như Từ Công Phụng chẳng hạn. Tình yêu không chỉ là tình yêu đôi lứa, mà còn tình yêu quê hương đất nước (“Tôi đi xem để thấy những gì yêu dấu Việt Nam”) và giữa người với người “Tôi yêu bác nông phu đội sương nắng bên bờ ruộng sâu”).

Thỉnh thoảng cũng có một vài bài có chất “máu” (như câu “nhưng thép súng đang còn say máu thù” trong bài “Lính xa nhà”), nhưng cho dù như thế thì câu kết vẫn có hậu “Hẹn em khi khắp trời nở đây hoa có tôi về”. Có thể nói rằng cái đặc tính nhân văn và nhân bản của những ca khúc trước 1975 ở miền Nam là yếu tố mạnh nhất để phân biệt so với các ca khúc cùng thời ngoài Bắc vốn lúc nào cũng có nhiều mùi máu và súng đạn.

Nghệ thuật

Cái đặc điểm nổi bật thứ hai là tính nghệ thuật trong các ca khúc. Khi nói “nghệ thuật” tôi muốn nói đến những lời ca đẹp, giàu chất thơ, và những giai điệu đẹp. Những bài ca mà ngay cả từ cái tựa đề đã đẹp. Những Dấu tình sầu, Giáng ngọc, Mùa thu cho em, Nghìn trùng xa cách, Tuổi biết buồn, Thà như giọt mưa, Giọt mưa trên lá, Hạ trắng, Diễm xưa, Ướt mi, và biết bao tựa đề có ý thơ và sâu lắng như thế đã đi vào lòng người thưởng ngoạn.

Thử so sánh những tựa đề của các sáng tác cùng thời ngoài Bắc như Bài ca năm tấn, Em đi làm tín dụng, Chào anh giải phóng quân, chào mùa xuân đại thắng, Người mẹ miền Nam tay không thắng giặc, v.v. thì chúng ta dễ dàng nhận ra sự khác biệt.

Lời ca trong những ca khúc trước 1975 ở miền Nam cũng là những lời đẹp. Tôi thán phục những nhạc sĩ như Phạm Duy, Trầm Tử Thiêng, Hoài Linh [không phải anh hề], Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Ngô Thuỵ Miên (và nhiều nữa) đã viết ra những lời ca đi vào lòng người. Không phải chỉ đơn giản nhân văn theo kiểu những ý tưởng trừu tượng trong sáng tác của Trịnh Công Sơn (ví dụ như “hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi”, hay “Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”), nhưng có khi đi thẳng vào vấn đề như Phạm Duy (“tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời”). Còn nhiều nhiều bài đã đi vào lòng người qua những lời ca đẹp và giản dị: “Hôm xưa tay nắm tay nhau anh hỏi tôi rằng: ‘Những gì trong đời ta ghi sâu vào tâm tư / Không tan theo cùng hư vô, không theo tháng năm phai mờ / Tình nào tha thiết anh ơi?”. Có những lời ca mà tôi nghĩ giới trẻ ngày nay có thể mỉa mai cười khẩy nói sến, nhưng tuổi trẻ thì thường chưa đủ lớn để cảm những câu như “Phút ban đầu ấy / Thư xanh màu giấy viết nhưng chưa gởi e / Ngõ đi chung một lối / Đôi khi định nói với em một lời.”

Không biết từ thuở nào mà tôi đã mê bài Trộm nhìn nhau và đã từng dự báo rằng bài này có ngày sẽ nổi tiếng. Thời đó, tôi mới về thăm nhà sau 20 năm xa cách, và nhìn người xưa, tôi thấy những câu “Ðôi khi trộm nhìn em / Xem dung nhan đó bây giờ ra sao / Em có còn đôi má đào như ngày nào” sao mà hay quá, hợp cảnh quá. Chỉ trộm nhìn thôi. Lời nhạc rất thơ. Mà, thật vậy, đa số những lời ca trong các sáng tác trước 1975 được viết ra như những vần thơ hoặc phổ từ thơ. Người phổ thơ thành nhạc hay nhất là Nhạc sĩ Phạm Duy, được xem như là một “phù thuỷ âm nhạc”. Chính vì thế mà âm nhạc trước 1975 có những lời ca sang trọng. Thời nay, trong môi trường những ca khúc dung tục, rất hiếm thấy những ca khúc có những lời ca đẹp như trước.

Lạ một điều là cũng là nhạc tuyên truyền (ở ngoài Bắc gọi vậy) hay nhạc tâm lí chiến (cách gọi trong Nam), nhưng những sáng tác trong Nam thì lại được người dân nhớ và xưng tụng. Sau cuộc chiến, những bài gọi là “nhạc đỏ”, dù được sự ưu ái của nhà cầm quyền văn hoá, chẳng ai nhớ hay muốn nhớ đến chúng.

Ngược lại, những sáng tác về người lính ở trong Nam thời trước 1975 thì lại còn lưu truyền và nuôi dưỡng trong lòng dân, dù nhà cầm quyền ra sức cấm đoán! Ngay cả những người lính miền Bắc cũng thích những bài hát về lính của các nhạc sĩ trong Nam. Tại sao vậy? Tôi nghĩ tại vì tính nghệ thuật và nhân bản trong những sáng tác ở miền Nam. Người lính, cho dù là lính cộng sản hay cộng hoà, thì vẫn cảm được những câu “Con biết xuân này mẹ chờ tin con / Khi thấy mai đào nở vàng bên nương” hay “Thư của lính, ba lô làm bàn nên nét chữ không ngay”. Những lời ca đó không có biên giới chính trị.

Tự do

Đặc điểm thứ ba là tự do. Dù có kiểm duyệt, nhưng nói chung các nghệ sĩ trước 1975 ở miền Nam có tự do sáng tác. Không ai cấm họ nói lên nỗi đau và những mất mát của chiến tranh. Không ai “đặt hàng” họ viết những bài ca tụng lãnh đạo như ngoài Bắc. Thật vậy, nhìn lại dòng nhạc thời đó, chẳng có một ca khúc nào ca tụng ông Nguyễn Văn Thiệu cả. Có một bài ca tụng ông Ngô Đình Diệm, nhưng cũng chẳng ai ca vì nó được dùng trong mấy rạp chiếu bóng là chính. Thay vì ca ngợi “lãnh tụ” dòng nhạc miền Nam ca ngợi con người và dân tộc, nhưng cũng đồng thời nói lên nỗi đau của chiến tranh.

Trịnh Công Sơn viết hẳn một loạt “Ca khúc Da Vàng” (mà hình như cho đến nay vẫn chưa được phép phổ biến). Trong thời chiến mà họ vẫn có thể phổ biến những sáng tác không có lợi cho chính quyền. Những ca khúc như “Dù anh trở về trên đôi nạng gỗ / Dù anh trở về bằng chiếc xe lăn” chắc chắn không có cơ may xuất hiện trong âm nhạc miền Bắc thời đó (và ngay cả sau này). Một trong những ca khúc nổi tiếng nhất trong thời chiến có lẽ là bài “Kỉ vật cho em” (phổ thơ của Linh Phương) với những lời ca ray rứt, bi thảm: “Anh trở lại có thể bằng chiến thắng Pleime / Hay Đức Cơ, Đồng Xoài, Bình Giã / Anh trở về anh trở về hàng cây nghiêng ngả / Anh trở về, có khi là hòm gỗ cài hoa / Anh trở về trên chiếc băng ca / Trên trực thăng sơn màu tang trắng.” Nghe nói ca khúc này đã làm cho chính quyền VNCH rất khó chịu với nhạc sĩ.

Tiêu biểu cho tinh thần tự do sáng tác có lẽ là tự sự của Phạm Duy: “Tôi đưa ra một câu nói thôi: ‘Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi’ đất nước bơ vơ, nó rối bù đi thì tôi phải khóc thôi. Lúc nào mà đoàn kết thì tôi cười theo. Khóc cười theo mệnh nước. Cái xã hội mình nó rối tung lên như vậy thì làm sao mà mình …. thành thử tôi nghĩ rằng vấn đề là … Các anh yêu tôi thì nói là tôi có sự nghiệp hơi đầy đủ, hơi lớn một tí đấy, nhưng mà riêng tôi thì tôi thấy cho đến giờ phút này thì tôi hoàn toàn thất bại. Bởi vì đất nước đã thống nhất rồi mà lòng người thì không thống nhất, thành thử đại khái nếu mà tôi có chết đi thì tôi hãy còn gần như là tôi không được thỏa mãn.”

Cái tính tự do còn thể hiện qua một thực tế là chính quyền thời đó không cấm đoán việc phổ biến các nhạc sĩ còn ở ngoài Bắc. Những sáng tác của Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Đoàn Chuẩn – Từ Linh, v.v. đều được phổ biến thoải mái trong Nam. Ngay cả bài quốc ca mà chính quyền vẫn sử dụng bài “Tiếng gọi thanh niên” của Lưu Hữu Phước vốn là một người cộng sản. Ngược lại, nhà cầm quyền ngoài Bắc thì lại cấm, không cho phổ biến các sáng tác của các nhạc sĩ trong Nam hay đã vào Nam sinh sống.

Đa dạng

Đặc điểm thứ tư của âm nhạc ngày xưa là tính phong phú về chủ đề. Khác với nhạc ngoài Bắc cùng thời tất cả dồn cho tuyên truyền và kêu gọi chiến tranh, các sáng tác trong Nam không kêu gọi chiến tranh nhưng yêu thương kẻ thù. Nhạc thời đó đáp ứng cho mọi nhu cầu của giới bình dân đến người trí thức, từ người dân đến người lính, từ trẻ em đến người lớn quan tâm đến thời cuộc, từ tình yêu lãng mạn đến triết lí hiện sinh, từ tục ca đến đạo ca, từ nhạc trẻ đến nhạc “tiền chiến”, từ nhạc tâm lí chiến (tuyên truyền) đến nhạc chống chiến tranh, nói chung là đủ cả. Không chỉ sáng tác bằng tiếng Việt mà còn trước tác hay dịch từ các ca khúc nổi tiếng ở nước ngoài để giới thiệu cho công chúng Việt Nam.

Tôi nghĩ 4 đặc điểm đó có thể giải thích tại sao những ca khúc dù đã sáng tác hơn nửa thế kỉ trước mà vẫn còn phổ biến và được yêu chuộng cho đến ngày nay. Mai kia mốt nọ, nếu có người viết lại lịch sử âm nhạc, tôi nghĩ họ sẽ ghi nhận những sáng tác thời trước 1975 ở miền Nam là một kho tàng vàng son của âm nhạc Việt Nam. Như là một qui luật, những bài hát tuyên truyền thô kệch và nhồi sọ, những bài ca sắt máu, những sáng tác kêu gọi giết chóc và hận thù sẽ bị đào thải, và thực tế đã chứng minh điều đó. Ngược lại, chỉ có những sáng tác đậm tính nhân văn, giàu nghệ thuật chất, và phong phú xuất phát từ tinh thần tự do thì mới tồn tại theo thời gian.

Hình :

https://www.facebook.com/photo/?fbid=1372095503237763&set=pcb.1372096573237656

https://www.facebook.com/photo/?fbid=1372096186571028&set=pcb.1372096573237656

Tịnh Thất Bồng Lai: Những câu hỏi quanh việc ‘đàn áp tôn giáo’ và tội ‘loạn luân’ (BBC)

 Tịnh Thất Bồng Lai: Những câu hỏi quanh việc ‘đàn áp tôn giáo’ và tội ‘loạn luân’

12 tháng 1 2022 

 Ông Lê Tùng Vân (giữa) cùng 2 đệ tử của Thiền Am Bên Bờ Vũ Trụ

Hiện nay một số luật sư đang đăng ký thủ tục để bảo vệ pháp lý cho các thành viên của Tịnh Thất Bồng Lai (hay Thiền Am Bên Bờ Vũ Trụ ). Trong khi chờ đợi vụ việc được đưa ra xét xử, nhiều câu hỏi nhức nhối đang được dư luận đặt ra.

Có hay không việc đàn áp tôn giáo?

Giới chức cho rằng các thành viên của Tịnh Thất Bồng Lai là ‘sư giả’, không thuộc Giáo hội Phật Giáo Việt Nam, không được nhà nước công nhận nhưng ‘vẫn cạo đầu, mặc áo tu hành’.

Vậy đi tu mà không nằm trong hệ thống cơ sở tôn giáo của nhà nước có phải là tu không?

Trao đổi với BBC hôm 11/1, tu sĩ Thích Đồng Long ở Thành phố Hồ Chí Minh, một thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất, không được nhà nước công nhận, nói:

“Hiện tại, không có tiêu chuẩn cụ thể nào để khẳng định một người có tu hay không. Nhưng thông thường, theo truyền thống Phật giáo, có hai hình thức là tu tại gia và tu xuất gia.

“Phật tử tu tại gia vẫn được có gia đình và tham gia vào mọi hoạt động xã hội. Họ chỉ có trách nhiệm giữ gìn 5 giới hay cao hơn là bồ tát giới hoặc thập thiện… Việc giữ gìn này cũng là tự nguyện.

“Với người xuất gia, tùy mức độ thọ giới mà họ phải giữ các giới pháp của họ. Nếu sai phạm thì tùy theo mức độ mà bị xử lý theo luật của Phật.

“Tịnh Thất Bồng Lai khẳng định họ tu tại gia. Họ cạo tóc là việc bình thường. Xưa nay không có quy định nào cấm người tu tại gia không được cạo tóc, thờ Phật hay ca hát. Những việc làm của họ dù đúng hay sai theo Giáo Pháp, thì đứng trên phương diện tự do dân chủ về tín ngưỡng, tôn giáo, không ai có quyền can thiệp hay phán xét họ. Bởi vì người ta có quyền có một lập trường, quan điểm và cách tu tập theo nhận thức của mình.”

“Sự việc xảy ra với Tịnh Thất Bồng Lai thể hiện sự thiếu tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam, và cũng là một hình thức đàn áp tôn giáo với cá nhân, tổ chức không tham gia vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam.”

Chính Thượng tọa Thích Nhật Từ, Chủ nhiệm Hội đồng Trị sự, Trưởng ban Văn hóa Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong bài trả lời Báo Giác ngộ năm 2017 cũng khẳng định những người ở Thiền Am tu tại gia, ông Lê Tùng Vân chưa bao giờ nhận mình là hòa thượng và cũng chưa từng nói mình là ‘trụ trì’ chùa Bồng Lai.

Ông Thích Nhật Từ khẳng định hai bị cáo “Lê Thanh Hoàn Nguyên, Lê Thanh Nhất Nguyên tu tại gia, cạo đầu, mặc áo nâu sòng từ nhỏ, họ không hề giả mạo tăng sỹ để lừa đảo bất kỳ ai như một số báo chí đã cáo buộc”.

Việc họ tham gia các chương trình ca hát, theo ông Thích Nhật Từ, là không có gì vi phạm giới luật của đạo Phật.

“Vấn đề cốt lõi là ban tổ chức chương trình games show phải nói rõ trong thông cáo báo chí và cho giới truyền thông biết họ chỉ là những người tu tại gia…. Khu Bồng Lai viên chỉ là một tịnh thất, không có bảng hiệu chùa, nên không đăng ký với Giáo hội Phật giáo tỉnh Long An.

Ông Thích Nhật Từ cũng nói rằng ông ngạc nhiên vì sao Giáo hội Phật giáo tỉnh Long An chưa cử đại diện đến Bồng Lai viên để nắm rõ thực hư vấn đề, dẫn đến các ‘phát ngôn vội vã’.

Có hay không tội loạn luân?

Trước khi bốn thành viên của Thiền Am bị khởi tố, truyền thông Việt Nam đồng loạt đưa tin rằng ông Lê Tùng Vân (90 tuổi), có thể bị kết tội ‘Loạn luân’. Rằng kết quả xét nghiệm DNA bước đầu cho thấy nhiều người tại Tịnh Thất Bồng Lai có quan hệ huyết thống với ông Vân, trong đó “có những đứa trẻ chỉ vài tuổi”. Và rằng “kết quả điều tra ban đầu cũng xác định, ông Lê Tùng Vân có ba con với ít nhất hai người con gái ruột của ông“.

Hàng loạt báo lề phải đăng các bài viết với tiêu đề gây xôn xao như ‘Hé lộ gây sốc về chuyện loạn luân tại “Tịnh thất Bồng Lai” (Vietnamnet), Vụ án loạn luân tại Tịnh thất Bồng Lai: Mẹ của những đứa trẻ “mồ côi” sống cùng ông Lê Tùng Vân là ai? (Kenh14.vn), Ông Lê Tùng Vân có 3 con sau khi loạn luân với 2 con gái ruột (Soha)…

Tuy nhiên, ngay sau đó, có ý kiến từ nhà khoa học rằng có thể có sai số trong xét nghiệm DNA, đồng thời có những quy định nghiêm ngặt liên quan đến quy trình này.

Theo GS Nguyễn Văn Tuấn từ ĐH New South Wales, Australia, xét nghiệm huyết thống vẫn có thể sai lầm, dao động trong khoảng 1% đến 30%. Sai lầm có thể là vô ý nhưng cũng có thể cố ý.

Bên cạnh đó, do tầm quan trọng của việc xét nghiệm huyết thống, không phải labo nào cũng được phép làm. Với những labo được cấp phép, việc xét nghiệm DNA chỉ được thực hiện với sự đồng thuận của ‘khách hàng’.

“Lấy mẫu máu của người ta đi làm xét nghiệm mà người ta không biết là một vi phạm về nhân quyền và vi phạm đạo đức khoa học”, theo GS Tuấn.

Sai lầm cố ý phổ biến trong xét nghiệm DNA là khi có sự can thiệp nhằm thay đổi kết quả xét nghiệm theo ý đồ của ai đó.

“Đó cũng chính là lí do tại sao người ta không đặt niềm tin vào những xét nghiệm do cảnh sát làm,” GS Tuấn viết trong một bài phân tích đăng trên Facebook cá nhân.

Sai lầm cũng có thể xảy ra do vô ý, như lấy mẫu xét nghiệm sai chỗ, không bảo quản mẫu xét nghiệm đúng tiêu chuẩn (đúng nhiệt độ và vô trùng) trước khi làm xét nghiệm, không xử lý mẫu xét nghiệm tốt khiến mẫu bị nhiễm, dẫn đến kết quả sai, vẫn theo GS Tuấn.

Trong vụ việc Tịnh Thất Bồng Lai, dư luận đặt câu hỏi giới chức đã lấy mẫu xét nghiệm như thế nào, vào bao giờ, có được sự đồng ý của gia đình hay không? Tại sao báo chí lại được phép thông tin về kết quả này khi đang trong giai đoạn điều tra, và ngay sau đó lại đưa tin cơ quan chức năng truy tố ông Lê Tùng Vân một tội khác không liên quan?

“Cần sự có mặt của luật sư từ giai đoạn điều tra, bao gồm cả việc thu thập mẫu DNA và giám định DNA để bảo đảm tính khách quan của vụ án,” luật sư Đặng Đình Mạnh – người đang nộp hồ sơ đăng ký bào chữa cho ông Lê Tùng Vân, nói với BBC News Tiếng Việt từ Sài Gòn.

Luật sư Mạnh ủng hộ việc giám định DNA tại các cơ sở giám định tư pháp độc lập. Tuy nhiên ông ‘lấy làm tiếc’ vì Việt Nam chưa có các cơ sở giám định DNA độc lập nào. Hầu hết các cơ sở xét nghiệm DNA có tư cách giám định tư pháp đều thuộc nhà nước.

Trao đổi với BBC từ Hà Nội, luật sư Ngô Anh Tuấn cho rằng chỉ có cách là mời nước ngoài để giám định DNA độc lập.

“Nhưng điều đó thì gần như không thể và chưa có tiền lệ trong lịch sử tố tụng Việt Nam,” luật sư Tuấn nói với BBC.

Báo chí VN vi phạm quyền riêng tư?

Một số thành viên của Thiền Am Bên Bờ Vũ Trụ

Các báo chính thống của Việt Nam và nhiều diễn đàn, tải khoản Facebook của người Việt mới đây cũng đăng tải hình ảnh, tên tuổi của các thành viên Thiền Am, trong đó có các trẻ nhỏ.

Luật sư Đặng Đình Mạnh nói với BBC rằng “việc chia sẻ các thông tin này là vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của những người liên quan, đặc biệt là trẻ nhỏ”.

Luật sư Ngô Anh Tuấn cũng cho rằng “mọi sự đưa tin không đúng sự thật về người khác của bất kỳ ai đều là sự vi phạm pháp luật Việt Nam”.

“Nó vi phạm quyền tự do cá nhân, quyền bí mật cá nhân bất khả xâm phạm của mọi cá nhân được Hiến pháp bảo vệ. Luật pháp đã có quy định rõ ràng nhưng việc có quá ít cá nhân, tổ chức bị xử lý trách nhiệm nên việc sai phạm cứ ngang nhiên diễn ra lâu nay và vẫn sẽ còn tiếp diễn trong thời gian tới,” luật sư Tuấn nói.

Hôm 12/1, Cục Trẻ em đề nghị Cục An toàn thông tin, Bộ Thông tin và Truyền thông, kiểm tra, xử lý các tài khoản, fanpage chia sẻ hình ảnh trẻ em trong vụ “tịnh thất Bồng Lai” ‘chưa đươc kiểm chứng’, có thể gây tổn hại đến trẻ, theo VNExpress.

‘Tránh oan sai và chia rẽ’

Theo luật sư Ngô Anh Tuấn, vì tính chất nghiêm trọng của vụ việc nên cần cẩn trọng trong việc điều tra, xử lý để không làm tổn hại thêm, khoét sâu thêm mâu thuẫn và sự chia rẽ trong xã hội giữa những người đứng về hai phía: bảo vệ và bài trừ.

LS Đặng Đình Mạnh cho rằng việc sớm tiếp nhận và hoàn tất thủ tục luật sư đăng ký bào chữa (nếu có) sẽ là bước tích cực bảo đảm sự khách quan, vô tư của cơ quan điều tra và quyền hợp pháp của những người bị khởi tố.

“Ngay sau khi nhận quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, thì ông Lê Tùng Vân và các thành viên ở Tịnh Thất Bồng Lai nên nhờ luật sư giúp bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình ngay từ giai đoạn bắt đầu chính thức điều tra vụ án. Đó là một trong những cách để họ tự bảo vệ mình. Đối với những người bị tạm giam, thân nhân của họ có thể thay mặt họ nhờ luật sư.”

Luật sư Mạnh cho hay hom 07/01/2022, ông đã đến Cơ quan Cảnh sát Điều tra Huyện Đức Hòa, tỉnh Long An để nộp hồ sơ đăng ký bào chữa cho ông Lê Tùng Vân.

“Tuy nhiên, sau khi xin ý kiến lãnh đạo thì trực ban đã không nhận hồ sơ của tôi với nhiều lý do không đúng quy định luật pháp,” luật sư Mạnh thuật lại.

Luật sư Mạnh sẽ trở lại đây để tiếp tục thực hiện việc nộp hồ sơ đăng ký bào chữa. Riêng đối với ông Lê Tùng Vân, dù được tại ngoại điều tra, nhưng lực lượng chức năng vẫn đang phong tỏa cơ sở Tịnh Thất Bồng Lai và đã ngăn cản luật sư vào tiếp xúc với ông, theo lời luật sư Mạnh.

Vụ việc Tịnh Thất Bồng Lai diễn ra như thế nào?

Hôm 7/1, công an tỉnh Long An ra quyết định khởi tố ông Lê Tùng Vân (SN 1932); Lê Thanh Hoàn Nguyên (SN 1990); Lê Thanh Nhất Nguyên (SN 1991) và Lê Thanh Trùng Dương (SN 1995). của Tịnh Thất Bồng Lai về tội “Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, tổ chức, cá nhân”.

Chỉ trước đó vài ngày, báo Việt Nam đăng tải thông tin khả năng ông Lê Tùng Vân sẽ bị khởi tố tội ‘loạn luân’, ‘lừa đảo’ và ‘Lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, tổ chức, cá nhân”.

Thông tin trên truyền thông Việt Nam cũng cho hay trước đó, cơ quan của tỉnh Long An nhận được nhiều đơn tố cáo Tịnh Thất Bồng Lai “có dấu hiệu lợi dụng hình thức tu tại gia, nuôi dưỡng trẻ mồ côi, cơ nhỡ để kêu gọi góp vốn từ thiện và lợi dụng quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của tổ chức, cá nhân; có dấu hiệu loạn luân… nên gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại phương”.

Trước khi bị khởi tố, cơ sở Tịnh Thất Bồng Lai nhận là nơi tu tại gia, nuôi dưỡng 9 trẻ mồ côi. Các trẻ này, cùng một số thành viên khác của Tịnh Thất từng tham gia một số games show ca hát trên truyền hình và nhận được một số giải thưởng.

Hiện ba bị cáo đã bị tạm giam, ông Lê Tùng Vân được tại ngoại, cấm đi khỏi nơi cư trú, trong khi Tịnh Thất bị phong tỏa.

Ba người phụ nữ Đồng Tâm và 730 ngày phải sống

Ba người phụ nữ Đồng Tâm và 730 ngày phải sống

“Bố và chồng tôi chỉ làm điều đúng: đòi đất cho dân làng.

 08/01/2022

 MAY

Đồ họa: Luật Khoa.

Dư Thị Thành

Trần Thị Hương

Hoàng Thị Hoa

Những người phụ nữ ấy đã từng đứng ngoài gần như tất cả các quyết định quan trọng của gia đình. Tên của họ thi thoảng xuất hiện đâu đó như những người bên lề trong cuộc tranh đấu đất đai của dòng họ Lê Đình thôn Hoành, lẫn trong rạng sáng ngày mà công an Hà Nội nổ súng tấn công vào chính ngôi nhà của họ. Hai năm – 730 ngày đã qua sau sự kiện ấy, ba người phụ nữ – có chồng bị giết hoặc bị án tử treo lơ lửng trên đầu, có con trai chung thân tù tội – bằng cách này hay cách khác, vẫn phải sống tiếp.

Người viết đã gặp và lắng nghe câu chuyện của họ. Những dòng dưới đây được ghi lại theo lời kể của từng người.

***

Tháng Chạp, đất ruộng hai bên đường vào làng đã được vỡ sau vụ mùa, trời còn chưa tỏ, rét căm căm, sương phủ mịt mờ, anh Công đã lai tôi ra chợ bán thịt lợn. Chợ xa lắm, cách nhà hơn 35km, nhưng đi hoài cũng quen, giáp Tết, khách đông, phải đi bán thật sớm. Đến chợ, vợ bày hàng. Kẻ bán, người mua, tiếng rao ồn ào, chồng vẫn nằm dài trên cây Wave ngủ ngon lành. Có lần một bé gái theo bà đi chợ thấy nắng lên rồi mà anh vẫn ngủ say bèn giả làm con gà trống gáy ò o gọi anh dậy. Mỗi lần nhớ đến chuyện cũ tôi lại thấy buồn cười. Đó là những ngày tháng vất vả nhưng hạnh phúc nhất của vợ chồng.

Cũng là tháng Chạp, khi hai thằng con trai của tôi –  Uy và Doanh – đã lớn và cưới vợ, chúng nó hay cùng anh họ qua Hưng Yên đánh đào, quất về bán cho người làng chưng Tết. Tụi nó lanh lẹ, đi buôn năm nào cũng mát tay. Năm đó, lẽ ra mấy anh em đã đặt cọc tiền cho chủ vườn nhưng lại không ưng ý đám quất nên quay về… Và rồi súng nổ.

Nhà tôi chẳng còn gì. Sẽ không bao giờ có tháng Chạp bình yên trở lại.

Chồng bị án tử. Một thằng con bị chung thân, đứa nhẹ thì 5 năm. Tôi không dám khóc trước mặt các con dâu. Hồi xưa, tôi chỉ biết đi chợ, lo cơm nước cho chồng, chăm con rồi giữ cháu, nhưng giờ tôi là trụ cột chính của gia đình. Suy sụp rồi cũng tự đứng dậy. Phải nghĩ là mình có suy nghĩ thêm cũng chẳng giải quyết được gì. Án tử đã ra. Người bị tù phải ở tù. Người ở ngoài cần phải làm ăn mới có thể sống tiếp. Sáng tôi bán trái cây, chiều bán thêm cây cảnh rồi phụ con dâu trông cháu. Tôi mà lăn ra ốm thì hai đứa con dâu, mấy đứa cháu nội, ba con người trong tù sẽ ra sao. Mình là mẹ chồng, là bà nội, là chỗ dựa tinh thần của đám đàn bà, trẻ con trong nhà lúc này, nên mình phải vui vẻ để chúng an tâm. Không được phép ngã quỵ, tôi khóc lúc không có ai.

Chỉ sau phiên tòa phúc thẩm, tôi mới được gặp chồng và các con. Lần đầu tiên nhìn thấy mặt vợ, mẹ và các cháu nội sau biến cố, anh không nói được gì. Người anh gầy rộc, hai chân bị xích lại, một tay bị xích vào ghế, một tay cầm ống nghe, khóc và chỉ khóc. Tôi không biết anh có còn đủ sức nghe những điều mà đêm hôm trước, tôi đã sắp xếp, chuẩn bị sẵn những gì cần nói để anh an lòng. Gần 20 phút nhìn nhau qua cửa kính, anh chỉ kịp nhắn lần sau nhớ gửi đồ ăn, quần áo nhiều thêm một chút để chia cho người bạn cũng án tử chung phòng, không có người thân đến thăm. Lần thứ hai, anh dặn đi dặn lại vợ không được làm đơn xin giảm nhẹ tội cho anh. Trong ấy, cán bộ động viên anh viết đơn cầu xin chủ tịch nước ân xá nhưng anh nhất quyết không chịu. Không được ăn học nhưng tôi cũng nghĩ giống anh, viết cái đơn xin đồng nghĩa với việc mình có tội. Chồng tôi vô tội. Mà chắc gì viết đơn, người ta đã tha cho, hay lại lấy đó buộc tội mình.

Hơn 30 năm lấy nhau, có với nhau hai mặt con, mọi chuyện lớn bé trong nhà, anh là người quyết. Hồi anh nghỉ đi chợ với vợ, ở nhà phụ bố lo giấy tờ đòi đất đai, tôi không một lời can ngăn vì nghĩ đó là việc anh phải làm. Thỉnh thoảng, tôi có thầm mong mấy bố con bỏ hết kiện tụng, tập trung làm kinh tế, lo cho gia đình; nhưng rồi lại nghĩ mình là đàn bà, là người ngoài cuộc nên mới dễ dàng nghĩ thế; còn bố chồng và chồng tôi là người trong cuộc, biết rõ ngọn ngành, nên sẽ càng bức xúc, ức chế.

Tôi nhớ, bố chồng hay nói: mình biết có sai phạm mà không làm gì là có tội với dân. Đến giờ, tôi vẫn không ân hận về quyết định của những người đàn ông trong nhà, các con dâu tôi cũng không một lời trách móc. Mà họ đã làm điều gì xấu xa để vợ con ân hận? Bố và chồng tôi chỉ làm điều đúng: đòi đất cho dân làng.

Thấy mẹ rang lạc với muối, hai đứa con gái bảo: bố thích món này lắm.

Mâm cơm chiều có món canh chua, canh cua, hai đứa lại bảo: hồi ở nhà, bố rất thích ăn món này.

Thằng con trai út ra đời 15 ngày sau khi bố bị bắt chắc lớn lên sẽ chẳng có ký ức nào về bố, ngoài con tôm bố ở trong tù lấy bao nilon làm và tết sai tên nó là Huy. Con trai anh tên Duy nhưng hồi trước phiên toà, luật sư vào gặp nói nhầm thành Huy. Anh cũng không nhận ra con vào lần đầu gặp lúc nó đã hơn một tuổi, lớn và khác so với cái ảnh chụp hồi mới sinh bé tí ti mà tôi nhờ luật sư mang vào. 

Anh gầy, đen, yếu đi nhiều. Cái não của anh bị lõm xuống, tôi vẫn thấy chỗ lõm ấy sau lớp tóc. Họ đã bắn, và đánh đập anh. Lần cuối tôi được đến thăm anh là hồi tháng Bảy năm ngoái, anh nói bị đau đầu, cần thuốc hoạt huyết dưỡng não nhưng cán bộ trại giam không cho người nhà gửi thuốc vào. Họ cũng từ chối bức hình ba đứa con của anh.

Cầu thang trong nhà hai năm qua vẫn thiếu cái lan can. Vợ chồng chưa đủ tiền xây thì người ta nổ súng. Bỗng dưng tôi thành trụ cột gia đình, vừa thêu quần áo vừa trông con nhỏ. Nhiều việc cần đàn ông trong nhà. Cái ống nước hỏng, bóng đèn hư cần sửa, ba đứa con đang lớn. Tôi rất sợ thằng Duy lớn lên mà không có bố, một mình tôi không đủ sức dạy. Nó đã chịu nhiều thiệt thòi từ lúc mới sinh, mẹ vì suy sụp mà tắt sữa, phải bú toàn sữa ngoài.

Tôi không được phép khóc vào ban ngày vì sợ các con gái thấy. Tôi đang nói dối chúng vài năm nữa bố sẽ về. Mong ở trong ấy, anh viết đơn xin giảm nhẹ, nhưng rồi cũng sợ, anh viết đơn lúc không minh mẫn thì lại theo hướng người ta muốn. Chồng tôi đã làm gì có tội?

Anh đi làm thuê cả ngày, lúc làm cốp pha, lúc sơn tường; suốt nhiều năm không tham gia vào chuyện đất đai của bố và anh trai. Anh chỉ sang nhà bố vào đêm hôm ấy để bảo vệ ông. Giá như đêm hôm ấy, tôi bắt anh đi cùng mình và các con về ngoại. Nếu anh đi cùng thì giờ này anh vẫn ở đây với bốn mẹ con. Anh nóng tính, ăn nói cộc cằn, không gọi vợ là “em” mà thường là “mẹ mày” nhưng lại rất chiều vợ. Đã hai cái Tết tôi không dám ra đường vì sợ nhìn thấy những cặp vợ chồng đèo nhau.

Miếng keo mấy đứa cháu dán bít lại lỗ đạn trên cửa được vài tuần lại rớt xuống. Đôi lần như vậy, bọn nhỏ bỏ cuộc. Giờ cánh cửa vẫn loang lổ vết đạn, vệt nứt trên kính cứ lan rộng dần, chẳng biết bao giờ sẽ vỡ hẳn ra.

Hồi trước, công an bảo sẽ thay mặt kính trên cửa nhưng tôi không chịu. Họ đã bắn ra thế nào, thì cứ để nguyên như vậy. Những lỗ thủng to, nhỏ vẫn nằm im trên tường, dưới gian bếp, thành lan can, khắp căn nhà trong hai năm qua. Nhọ đen của khói lựu đạn cay cũng vậy, bám chặt từng vệt trên sàn, có cố chà thật kĩ cũng không trôi. Tôi sẽ sống với chúng, trong căn nhà này, đến lúc chết.

Ngày giỗ lần hai của ông Kình, tôi sẽ không làm cỗ to như lệ làng. Làm to làm gì, thằng Công, Chức, Uy, Doanh ở trong kia có ăn được đâu. Phần tôi còn mấy sào ruộng đủ sống qua ngày đến lúc chết. Nhưng phần Công, Chức, tôi không biết nghĩ thế nào. Lần cuối tôi nhìn thấy mặt con là tháng Bảy năm ngoái, rồi vì dịch bệnh họ không cho vào thăm nữa. Ống chân của chúng nó hồi đó bị xích lại, gầy đét, trơ xương. Thằng Chức bị một viên đạn găm vào đầu, đầu nó bị lõm một lỗ, như vết thủng trên tường nhà bố nó vậy. Có người bị giam chung trại với nó được tha về kể, thỉnh thoảng Chức lên cơn điên. Nó bị đau đầu, kêu gào, la ó mãi người ta mới đưa thuốc cho. Họ sẽ tử hình nó và thằng Công. Nếu mình xin nhà nước khoan hồng, khác nào mình nhận tội, rằng chúng nó đã giết người. Mình chỉ nên viết đơn đề nghị thôi đúng không? Không xin xỏ, chỉ đề nghị. Tôi già rồi, không biết nghĩ thế nào mới phải.

Mỗi lần leo cầu thang lên tầng thắp hương cho chồng, chân lại nhói đau. Cái chân của tôi không còn đi đứng thẳng thớm được nữa. Tai lúc nào cũng ù ù do tiếng đạn nổ ngày hôm đó và cả do công an tát vào đầu mấy cái liền lúc trên đồn. Năm ngoái, tôi đi miền Nam chữa bệnh, công an đến hỏi có phải đi miền Nam nhận tiền khủng bố không. Có giải thích nhưng chắc gì họ tin. Tôi biết, làng xóm người ta vẫn thương gia đình mình nhưng chắc là bị chính quyền dọa, sau ngày tòa xử, nhiều người không còn hỏi thăm mình như trước. Nhưng kệ họ thôi. Cái giấy báo tử của ông Kình, tôi cũng kệ luôn rồi, không thiết lên xã đòi nữa.

Này, có khách tới à? Chén tách lâu ngày không ai sờ tới nên lạnh tanh. Uống tạm nước đun nhé. Từ sau buổi sáng hôm ấy, nhà tôi đã không còn dùng trà. Còn ai sống nữa đâu mà mua về. Chỉ tại ông Kình mãi tin vào Đảng, tin ông Nguyễn Phú Trọng. Đến cuối đời, ông ấy vẫn kiên quyết với tôi: Đảng không bao giờ làm việc xấu. Lúc sống ông như vậy, nên mấy tấm bằng khen của Đảng, nhà nước trao cho đảng viên Lê Đình Kình, tôi vẫn giữ gìn, treo cả ở phòng khách. Đối diện với chúng là cánh cửa kính đầy vết đạn mà công an bắn vào.

HRW: Việt Nam bắt giữ, xét xử hàng chục nhà hoạt động trong năm 2021

HRW: Việt Nam bắt giữ, xét xử hàng chục nhà hoạt động trong năm 2021

Đăng ngày: 13/01/2022 

Phiên tòa xét xử các nhà báo, blogger Phạm Chí Dũng (P), Nguyễn Tường Thụy (T) và Lê Hữu Minh Tuấn (thứ ba bên trái) tại tòa án TP Hồ Chí Minh. Ảnh do VNTTX công bố ngày 05/01/2021. AFP – STR

Thanh Phương

Hôm nay, 13/01/2022, tổ chức nhân quyền của Mỹ Human Rights Watch công bố Báo cáo Thế giới 2022. Trong phần nói về Việt Nam, tổ chức này ghi nhận là trong năm 2021, chính quyền Việt Nam đã bắt giữ và xét xử hàng chục nhà hoạt động nhân quyền.

Theo Human Rights Watch, trong năm 2021, năm mà dịch Covid hoành hành dữ dội, đảng Cộng Sản họp Đại Hội lần thứ 13 và bầu cử Quốc Hội được tổ chức, chính quyền Việt Nam đã tống giam ít nhất 63 người vì đã bày tỏ chính kiến hoặc tham gia các nhóm bị coi là chống chính quyền, trong số đó có nhiều người đã bị tuyên án tù rất nặng nề « sau các phiên xử bất công ». 

Ông Phil Robertson, phó Giám đốc Ban Á Châu của HRW nói: « Chính quyền Việt Nam núp bóng đại dịch Covid-19 để tiến hành đàn áp nặng tay đối với các hoạt động ôn hòa, nên đa phần các vụ này không được bên ngoài Việt Nam biết đến ». Cũng theo ông Robertson, dường như chính quyền « muốn xóa sổ phong trào bất đồng chính kiến đang lớn mạnh bằng các án tù tàn khốc », trước khi thế giới chú ý trở lại đến tình hình nhân quyền ở Việt Nam. 

Cụ thể, theo báo cáo của HRW, vào tháng 1/2021, ba thành viên của Hội Nhà báo Việt Nam Độc lập (Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy và Lê Hữu Minh Tuấn) đã bị kết án từ 11 đến 15 năm tù. Đến tháng 5, nhà hoạt động vì quyền lợi đất đai Cấn Thị Thêu và con trai Trịnh Bá Tư lãnh án mỗi người 8 năm tù. Vào tháng 7, đến lượt nhà văn Phạm Chí Thành bị xử 5 năm rưỡi tù giam. 

Sau đó vào tháng 10, một tòa án ở Cần Thơ xử phạt năm thành viên nhóm Báo Sạch (Trương Châu Hữu Danh, Đoàn Kiên Giang, Lê Thế Thắng, Nguyễn Phước Trung Bảo và Nguyễn Thanh Nhã) từ 2 đến 4 năm rưỡi tù giam. Tất cả những người này đều bị cáo buộc tội tuyên truyền chống nhà nước theo điều 117, hoặc tội lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước theo điều 331 của Bộ Luật hình sự. 

Trong bản báo của HRW, phó giám đốc ban Á Châu Robertson kêu gọi: « Các nhà tài trợ quốc tế của Việt Nam nên ngưng việc ngoảnh mặt làm ngơ trước tình hình nhân quyền tồi tệ ở Việt Nam và nên gây sức ép với giới lãnh đạo nước này để chấm dứt việc người dân Việt Nam phải chịu đau khổ nhiều hơn nữa ».

Đúng là “Thời loạn”!

Đúng là “Thời loạn”!

Bởi  AdminTD

Nguyễn Như Phong

14-1-2022

Bốn năm trước, tôi có viết cuốn tiểu thuyết mang tên ‘Thời loạn’.

Cuốn tiểu thuyết nói về những “doanh nhân” mà để làm giàu, họ không từ một thủ đoạn nào. Thủ đoạn từ mưu mô thổi giá chứng khoán, buôn lậu vàng, thâu tóm đất đai đến đòi nợ thuê, rồi cả giết người… Những cuộc tình đầy toan tính và éo le. Các biên tập viên của Nhà xuất bản CAND đọc rất thích nhưng cứ băn khoăn về chữ “Thời loạn”, bởi nó “nhạy cảm”. Xã hội ta đang tươi roi rói, cơ đồ sáng choang thế này, đi đâu cũng thấy cờ hoa biểu ngữ đỏ rực thế này mà lại bảo “Thời loạn”, nghe rất không được. Thôi vậy, thế thì đổi tên.

Bàn đi tính lại mãi với nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ, cuối cùng đổi thành “Kim Tiền”, và cuốn tiểu thuyết đã đạt giải B cuộc thi Tiểu thuyết, Truyện ký của Bộ Công an và Hội Nhà văn năm 2020. Cuốn tiểu thuyết cũng chuyển thành kịch bản phim hình sự, nhưng chả ai dám đầu tư vì đây không phải là “hàng chợ”, đầu tư làm phim khá tốn tiền, phải gấp ba, gấp bốn lần phim “Thị trường” hiện nay.

Nói lằng nhằng một tý về cuốn sách. Nhưng giờ mới thấy thời buổi này đúng là “Thời loạn” thật. Đúng là “Thời loạn” khi mà liên tiếp xảy ra những vụ cha mẹ đánh chết con thơ. Con cái đánh chết cha mẹ.

Đúng là “Thời loạn” thật, khi mà nhiều ông to bà lớn, mới hôm trước còn lên bục răn dạy thiên hạ, thì ít hôm sau lại thấy “ăn năn, hối lỗi”.

Đúng là “Thời loạn” thật, khi mà xảy ra những vụ như Việt Á, lợi dụng dịch bệnh để kiếm chác, mà lại được tặng thưởng Huân chương mới là “loạn” chứ?

Đúng là “Thời loạn” thật, khi mà có không ít doanh nhân vừa mới lên diễn đàn thể hiện “lòng yêu nước vô bờ bến” thì lại có những hành vi lừa đảo, kiếm tiền bất chấp liêm sỉ?

Mà xem ra khá nhiều tình tiết hư cấu trong tiểu thuyết “Kim Tiền” là được các “roanh… nhân” hiện nay áp dụng. Kể cũng thú vị.

Mặc dù tôi biết, họ chả có thời gian đâu, văn hóa đâu mà đọc cuốn sách của tôi đến ngót 800 trang?

Đúng là “Thời loạn” thật!

Công an Tuyên Quang bắt chủ kênh Tiếng dân Tivi Lê Hà

VOA Tiếng Việt 

Chính quyền thành phố Tuyên Quang vừa bắt giam nhà báo độc lập Lê Mạnh Hà, chủ một kênh YouTube chuyên lên tiếng cho những người dân bức xúc về các tranh chấp đất đai và các vấn đề xã hội, theo tin từ gia đình.

Bà Ma Thị Thơ cho VOA hay chồng bà bị một nhóm các quan chức chính quyền bắt đi từ sáng sớm ngày 12/1 khi ông đến huyện Chiêm Hóa mời đám hỏi cho con gái và ông bị giải về nhà ở thành phố Tuyên Quang để khám xét nơi ở vào buổi trưa cùng ngày.

“Trong nhà có khoảng 30 người vào, còn ngoài kia có người chắn đường, có cả y tế, có khoảng tất cả 50 người, mặc sắc phục và thường phục.”

Sau khi lục soát nơi cư trú của gia đình ông Lê Mạnh Hà ở xã Kim Phú, chính quyền tịch thu một số vật dụng.

Bà Thơ cho biết:

“Cơ quan chức năng khám xét lấy đi hơn 20 quyển sách – toàn sách luật do nhà xuất bản Việt Nam sản xuất. Họ lấy hai cái laptop của nhà – của vợ một cái, của con một cái. Anh ấy làm kênh [YouTube] trên máy này nên người ta thu giữ hết, với lại cả cái điện thoại của tôi vì tôi theo dõi kênh của anh ấy bằng điện thoại của tôi”.

VOA đã liên lạc chính quyền thành phố Tuyên Quang và chính quyền tỉnh Tuyên Quang để tìm hiểu về vụ bắt ông Hà, nhưng chưa được phản hồi.

Thông báo của Công an tỉnh Tuyên Quang đề ngày 13/1 mà gia đình vừa nhận được cho biết ông Lê Mạnh Hà bị bắt theo Điều 117 “Tuyên truyền chống nhà nước”.

Nhà báo độc lập Lê Mạnh Hà, 52 tuổi, lập kênh Tiếng dân Tivi Tiếng nói của người dân Việt từ tháng 5/2018 với nhiều buổi phát trực tiếp. Kênh của ông là tập hợp tiếng nói đa dạng của những người dân không được đền bù thỏa đáng trong các tranh chấp đất đai, bức xúc trong xã hội, và lên án tệ tham nhũng.

“Chồng tôi chuyên giúp dân oan, như đi đòi đất đai. Việc của anh làm là đòi quyền lợi cho dân, chứ tôi không thấy có cái gì là “chống phá nhà nước”.

“Anh không vào hội, nhóm nào,” bà Thơ cho biết thêm.

Vào tháng 1/2022, ông Lê Mạnh Hà viết trên trang Facebook Lê Việt Hà về “cuộc chiến đấu không cân sức” trong việc bài trừ tham nhũng: “Ở Việt Nam, tham nhũng đã chiến thắng người dân. Vì tham nhũng được trang bị vũ khí hiện đại. Người dân không được trang bị vũ khí – ngoài chiếc điện thoại – để chống lại tham nhũng”.

Ông Lê Mạnh Hà là một trong những nhà báo độc lập, những người bình luận trên Facebook và YouTube mới nhất bị bắt hay xét xử tại Việt Nam vì lên tiếng chỉ trích chính quyền.

Ông Nguyễn Thái Hưng và vợ là bà Vũ Thị Kim Hoàng hôm 5/1 bị chính quyền tỉnh Đồng Nai bắt giam với báo buộc “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ” theo Điều 331 Bộ luật Hình sự.

Nhà báo độc lập Lê Trọng Hùng, một người nổi tiếng với các chương trình phát trực tiếp trên YouTube về các vấn đề tranh chấp đất đai và xã hội, vừa bị một toàn án ở Hà Nội tuyên phạt 5 năm tù hôm 31/12/2021 với cáo buộc “Tuyên truyền chống nhà nước”.

Hôm 13/1, tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) viết trong một thông cáo rằng Chính quyền Việt Nam hạn chế nghiêm trọng các quyền dân sự và chính trị cơ bản, trong đó có các quyền tự do biểu đạt, ngôn luận, thông tin, lập hội và nhóm họp ôn hòa.

“Những người công khai phê phán chính quyền hay lãnh đạo Đảng Cộng sản trên mạng xã hội thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ bị sách nhiễu, đe dọa, theo dõi gắt gao, cản trở quyền tự do đi lại, bị hành hung thân thể và bắt giữ,” HRW nhận định.

NHỚ ÔNG LÊ ĐÌNH KÌNH (1936-2020)

Lê Vi

NHỚ ÔNG LÊ ĐÌNH KÌNH (1936-2020)

Tôi và ông Lê Đình Kình khác nhau nhiều quá. Khác về vùng miền, về thế hệ, về nghề nghiệp. Nhưng quan trọng nhất là khác về ý thức hệ: Ông là đảng viên Cộng sản, và nghe nói, trước lúc chết, vẫn còn tin vào lý tưởng của đảng; còn tôi, ngược lại, bị đảng của ông xem như kẻ thù, đến độ cấm không cho về thăm gia đình. Tuy vậy, tôi vẫn bị ám ảnh về cái chết của ông mãi. Cả hai năm nay, thỉnh thoảng, tôi lại nghĩ đến ông. Và thấy xót xa cho ông.

Cứ tưởng tượng một ông già 84 tuổi, giữa khuya, lúc đang ngủ say trong nhà, bỗng dưng bị công an và quân đội ập vào nhà và bắn chết. Chưa hết, họ còn mang xác đi, mổ xẻ tanh bành, cả mấy ngày sau mới trả lại cho vợ con. Cũng chưa hết, con và cháu ông cũng bị bắt, và trong một phiên toà sau đó, người ta kết án tử hình hai người con trai và án chung thân đối với người cháu nội của ông. Giống như một bản án tru di tam tộc!

Nhớ đến những chuyện đó không phải chỉ để thương ông. Mà là để phẫn nộ giùm cho ông. Cái đảng ông vẫn tin tưởng đã coi ông như một kẻ thù và quyết tâm truy diệt ông đến cùng.

Thấy gì qua vụ án ấy? Thấy rõ một điều: Chính quyền độc tài nào cũng xem dân chúng là kẻ thù, khi cần, họ sẵn sàng dùng bạo lực để triệt hạ. Đừng nói chuyện thân dân hay cận nhân tình với họ. Vô ích.

– Nguyễn Hưng Quốc

Tổng giám đốc Việt Á khai chi hoa hồng gần 800 tỷ đồng và lời tuyên bố của Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long

Tổng giám đốc Việt Á khai chi hoa hồng gần 800 tỷ đồng và lời tuyên bố của Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long

Bởi  AdminTD

Đỗ Duy Ngọc

8-1-2022

Đúng là những vi phạm, sai sót của Bộ Y tế không thể làm lu mờ hình ảnh và sự hi sinh của đội ngũ thầy thuốc, y bác sĩ, cán bộ ngành Y trong cuộc chiến chống Covid. Bởi họ đã không tiếc công sức kề cận cái chết để cứu mạng sống cho biết bao nhiêu người. Nhân dân ghi ơn họ.

Thế nhưng những xấu xa tột cùng và tàn nhẫn của bọn người nhận 800 tỷ hối lộ để cho Kit Test tràn lan lại cho thấy rõ hơn sự tham lam, tàn bạo, đồng tình chia chác nhau ngân sách quốc gia mà đó chính là xương máu của dân thông qua những đồng tiền thuế. Người dân nghèo còng lưng, mướt mồ hôi, rơi nước mắt và có khi đổ cả máu để đóng góp nghĩa vụ thuế cho nhà nước. Thế mà các lãnh đạo Bộ Khoa học Công Nghệ, Quân Y và cả bộ Y tế và các quan chức khác nữa cấu kết, đánh lừa mọi người để chia chác với nhau những đồng tiền dơ bẩn ấy thông qua những trò truyền thông láo toét, mở chiến dịch xét nghiệm đại trà để có thể tiêu thụ thật nhiều Kit Test. Ngoáy càng nhiều, tiền càng vào đầy túi của một số người. Các ngài chia nhau 800 tỷ đồng bất kể Kit đó có kết quả như thế nào. Người âm tính giả, kẻ dương tính nhầm đều đưa đến hậu quả là rất nhiều người phải chết oan khiên, xã hội xáo trộn, kinh tế tuột dốc khó phục hồi. Tội của kẻ kê khống giá một, tội của các người mười.

Do vậy không thể kết tội một mình tên Phan Quốc Việt bán Kit mà phải kết tội các ngài đầu tiên và có hình phạt nặng. Một mình Việt và công ty của y không thể thực hiện được việc này nếu không có sự tiếp sức, bàn binh bố trận của các vị. Giờ chuyện vỡ lở, các ngài biến y trở thành con chốt thí, hứng mũi chịu sào. Bắt và điều tra một vài ông Giám đốc CDC cũng chỉ là những con nhãi tép. Còn rất nhiều ông lớn của các ban ngành liên quan cũng phải liên đới chịu trách nhiệm và phải hầu toà và bị kết án. Đó mới là công bằng. Nhưng cũng xin nói thật, dù các ngài xử tội bất cứ hình thức gì cũng không thể làm cho những nạn nhân đã chết oan có thể sống lại. Các ông cũng chẳng thể khiến cho dân tin. Mà đã mất lòng tin thì khó mà lấy lại được.

Lại thêm, ông Bộ trưởng Y tế khi điều trần trước Quốc hội lại mạnh miệng tuyên bố rằng Kit Test của Việt Á khi qua kiểm nghiệm chính xác 100%. Ông còn cho rằng “Những vi phạm, sai sót xảy ra vừa qua là rất nghiêm trọng nhưng không là hình ảnh đại diện của ngành, không thể làm phai mờ những nỗ lực đóng góp, cống hiến đêm ngày cũng như sự hy sinh của đội ngũ thầy thuốc, các y bác sĩ, các cán bộ, nhân viên ngành Y tế trong cuộc chiến với dịch COVID-19 trong suốt thời gian qua và cả trong thời gian sắp tới”. Kẻ có tội là những kẻ nắm quyền lực chứ y bác sĩ chí có việc là chấp nhận những khó khăn gian khổ, thiếu thốn để mang lại cuộc sống cho người bệnh. Họ đáng được tuyên dương và kẻ tham lam lợi dụng cơ hội đục nước béo cò mới là kẻ đáng bị lên án.

Chuyện Kit test chính xác nghe thật nghịch lỗ nhĩ. Ngay cả những Kit của các nước có nền y học và khoa học hàng đầu thế giới cũng không thể có con số đẹp như mơ này. Và từ đó cho thấy các ngài chẳng còn chút liêm sĩ khi vẫn còn bao biện, nâng đỡ cho sự tàn nhẫn vô nhân đạo này. Bởi còn dù một ít suy nghĩ của một kẻ có thể gọi là có học hàm, học vị. Chỉ cần có một chút lương tâm của một con người, nhân cách của một người lãnh đạo thì các người nên mạnh dạn từ chức để hầu toà cho những tội lỗi của quý vị. Tiếc rằng dù cho đến nay vụ Kit Test đó dù đã bị phanh phui, các người cũng vẫn mồm loa mép dãi để trốn tránh nhiệm vụ. Đó là hành động vô sỉ của kẻ làm người chứ chưa bàn đến trách nhiệm của người lãnh đạo. Làm người ai lại làm thế nhỉ? Đã phát hiện 800 tỷ chia chác nhau, còn bao nhiêu tỷ nữa bị cả bọn xúm vào biến tiền chung thành món lợi riêng diễn ra hàng ngày trên đất nước này?

Đất nước này không ngóc đầu lên được cũng vì lòng tham không đáy của các vị. Nhân dân vẫn còn khốn nạn sống nghèo khổ, bi thương cũng từ sự tàn nhẫn của các ngài. Không chỉ là con số 800 tỷ đâu. Đất nước này lụn bại cũng vì những đồng tiền đáng lẽ được chia đều cho nhân dân cùng hưởng thì các vị cấu kết với nhau để cùng hưởng lợi. Dân càng ngày càng nghèo khi các vị càng lúc càng giàu. Tiền thu được sẽ mở tài khoản ở các nhà bank ngoại quốc, sẽ biến thành những lâu đài, căn hộ giá hàng chục triệu đô la trong và ngoài nước. Con cái các vị đi du học, vợ con các vị mua sắm, ăn chơi không khác chi những tay tư bản giàu sụ của các nước giàu.

Chia 800 tỷ đồng, người bán sẽ thu lợi gấp bao nhiêu lần như thế? Trong khi các y bác sĩ nhân viên y tế hi sinh trên tuyến đầu chống dịch. Trong khi dân nghèo thất nghiệp không có miếng cơm ăn vì giãn cách, phong toả thời gian dài. Trong khi nhiều người đành chấp nhận cái chết vì không được chăm sóc, chữa trị đúng vài bản khoa học. Thì các ngài rung đùi hưởng những món lợi kếch xù mặc cho đất nước và nhân dân đang lâm vào cơn khốn khó. Tội lỗi như thế đã đáng bị nguyền rủa và kết án chưa?

Đồng Nai: Hai vợ chồng bị bắt giam khi đang trên sóng live stream nói về chế độ cộng sản

Câu chuyện ‘Thiền Am’: Lịch sử lặp lại

Câu chuyện ‘Thiền Am’: Lịch sử lặp lại

Tôi nghĩ nhà cầm quyền sẽ xoá sổ Thiền Am. Đó không phải là ‘nếu’ mà chỉ là ‘khi nào’. Sự xoá sổ Thiền Am, trong cái nhìn của thế giới, chỉ làm cho diện mạo của nhà cầm quyền Việt Nam (không phải riêng gì Long An) xấu thêm mà thôi.

Sự xoá sổ Thiền Am chẳng liên quan gì với những cáo buộc mà nhà cầm quyền tuyên truyền (lợi dụng tự do dân chủ, lợi dụng tôn giáo, và ‘loạn luân’). Bởi lí do đơn giản là những cáo buộc đó hoặc là mơ hồ, hoặc là vô chứng cớ. Thật vậy, không có chứng cớ gì cụ thể để nói rằng mấy người trong Thiền Am lợi dụng tôn giáo để trục lợi cả. Họ tu hành tại gia, họ tự lực cánh sinh, họ chẳng lên tiếng xin xỏ ai (như Giáo hội của nhà nước hay làm), và họ chẳng gây hại cho ai. Ngược lại, họ giáo dục các trẻ em mồ côi thành những người có ích cho xã hội. Chẳng có một chứng cớ đáng tin cậy và độc lập nào để nói người đứng đầu là một ông cụ 91 tuổi phạm tội ‘loạn luân’. Chỉ toàn là vu cáo. Những vu cáo đó được tung ra chỉ để nhắm tới mục đích xoá sổ Thiền Am.

Để hiểu chuyện ngày nay, chúng ta cần phải biết chuyện quá khứ. Tương tự, để hiểu những gì xảy ra đối với Thiền Am, chúng ta cần phải biết những gì xảy ra đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất và tu viện Bát Nhã.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN)

Thiền Am dĩ nhiên không phải là nạn nhân đầu tiên, và rất có thể không phải là nạn nhân sau cùng. Để hiểu vấn đề, có lẽ cần phải điểm qua những gì xảy ra trong quá khứ đối với Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất. Chú ý là có chữ ‘Thống Nhất’ (để phân biệt với “Giáo hội Phật giáo Việt Nam” do đảng Cộng sản Việt Nam thành lập). Thông tin chi tiết về GHPGVNTN có thể tham khảo trong trang wiki và sách xuất bản ở nước ngoài. Dưới đây là vài mốc thời gian quan trọng:

Từ năm 1964, miền Nam có Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là một tổ chức chánh thống đại diện cho đa số tăng sĩ Phật Giáo Việt Nam. Sự ra đời của GHPGVNTN là một sự tiến bộ và hiện đại của Phật giáo Việt Nam vì trước đó không có tổ chức chặt chẽ như bên Công giáo. GHPGVNTN qui tụ rất nhiều các tăng sĩ và học giả sáng chói nhất của Việt Nam. Đó là các thầy như Thích Tâm Châu, Thích Nhất Hạnh, Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu (tức Lê Mạnh Thát), Thích Tâm Giác, Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang, Thích Thiện Minh, v.v.

Những thầy này đã có công sáng lập ra Viện Đại học Vạn Hạnh, lúc đó là một đại học tư thục đầu tiên ở miền Nam. Thầy Thích Minh Châu là viện trưởng, và học giả Hồ Hữu Tường là Phó viện trưởng. Ngoài ra còn có thầy Thích Nhất Hạnh trong ban giảng huấn. Nhà thơ Minh Đức Hoài Trinh cũng là một trong những giảng viên của Viện Đại học Vạn Hạnh. Ngoài Đại học Vạn Hạnh, GHPGVNTN còn thành lập hàng loạt trường cao đẳng Phật học, trung học và tiểu học, tạp chí Chánh Đạo, Nhà xuất bản Lá Bối, cô nhi viện, bệnh xá, Thanh niên Phật tử, v.v. Tất cả đều hoạt động theo triết lí Phật Giáo. Có thể nói đó là thời vàng son của Phật giáo Việt Nam.

Sau 1975, chế độ mới thiết lập một thiết chế Phật giáo khác và mở đầu cho một quá trình suy thoái. Nhà cầm quyền mới tịch thu tất cả các cơ sở của GHPGVNTN. Họ xoá sổ Cô nhi viện Quách Thị Trang, xoá sổ nhà xuất bản Lá Bối, đến xoá sổ Viện Đại học Vạn Hạnh, đóng cửa tất cả các trường trung tiểu học thuộc quyền quản lí của GHPGVNTN. Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phản đối, nhưng không có hiệu quả. Nói chung, chỉ 2 năm sau 1975, tất cả những cơ đồ và thành tựu của GHPGVNTN bị tan thành mây khói.

Năm 1981, nhà cầm quyền chiêu dụ một số sư Phật giáo là cán bộ hay có cảm tình với chánh phủ mới đứng ra thành lập một tổ chức mới có là “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”. Tuy nhiên, dân gian gọi đó là Giáo hội Phật giáo quốc doanh. Kể từ 1982, GHPGVNTN coi như không tồn tại ở Việt Nam, mà chỉ có GHPGVN. Dĩ nhiên, GHPGVN chịu dưới sự chỉ đạo của Đảng và không thể độc lập như GHPGVNTN.

Mặt khác, nhà cầm quyền bắt giam các thầy Thích Huyền Quang, Thích Thiện Minh, Thích Quảng Độ và Thích Thiện Minh mà không có tội danh nào. Thượng tọa Thích Thiện Minh sau đó đã chết trong trại giam. Không ai biết thầy Thiện Minh chết vì nguyên nhân gì, nhưng Thượng tọa Thích Quảng Độ cho rằng thầy Thiện Minh đã bị quản giáo đánh chết trong tù.

Sự kiện Thiền viện Bát Nhã

Sự kiện Bát Nhã thu hút chú ý của công chúng trong và ngoài nước một thời gian dài, và đã được đề cập đến trong nhiều bài viết trên các trang Phật giáo và wiki. Ở đây, tôi chỉ trích lược những thông tin chánh. Tu viện Bát Nhã được Thượng tọa Thích Đức Nghi thành lập vào năm 1995 ở Bảo Lộc. TT Thích Đức Nghi là một người rất ngưỡng mộ thầy Thích Nhất Hạnh. Cần biết rằng vào năm 1957, thầy Nhất Hạnh đã thành lập một tu viện có tên là Phương Bối, được thầy mô tả trong cuốn sách ‘Nẽo về của ý’, nhưng tu viện này đã bị hoang phế vì thời cuộc. TT Đức Nghi rất muốn thành lập một Phương Bối thứ hai theo đường hướng của thầy Nhất Hạnh. Hoài bão này đã thành sự thật khi TT Đức Nghi được nhận đèn giáo thọ từ thầy Nhất Hạnh ở Làng Mai bên Pháp.

Từ tháng 5/2005 đến tháng 6/2008, TT Đức Nghi đã mời và bảo lãnh gần 300 các thầy và sư cô giáo đã từng tu tập tại Làng Mai (trong đó có các vị gốc Việt mang quốc tịch nước ngoài) về Bát Nhã để chia sẻ pháp môn và đào tạo các vị xuất gia trẻ tu học theo mô thức Làng Mai. Tuy chỉ mới thành lập được vài năm, các vị này đã tổ chức các khóa tu cho hàng ngàn người tại Tu viện Bát Nhã và đã tham gia vào nhiều chương trình văn hóa và xã hội tại địa phương.

Nhưng tháng 6/2008, TT Đức Nghi đổi ý, không bảo lãnh các thầy sư cô giáo thọ có quốc tịch nước ngoài và không muốn Tu viện Bát Nhã tu tập theo pháp môn Làng Mai nữa. Tuy nhiên, đằng sau sự đổi ý của TT Đức Nghi là GHPGVN. Nhà cầm quyền và GHPGVN cáo buộc rằng các khóa tu không có phép của GHPGVN, số người tới tu tập quá đông mà không đăng kí tạm trú gây mất an ninh trật tự tại địa phương.

TT Đức Nghi yêu cầu tăng thân tu học theo pháp môn Làng Mai phải rời Bát Nhã. Nhà cầm quyền địa phương theo yêu cầu của TT Đức Nghi cắt nguồn điện để các môn sinh bị khó khăn trong sinh hoạt. Nhưng các tăng ni Làng Mai vẫn tiếp tục ở lại, và từ đó dẫn đến mâu thuẫn giữa phật tử Bát Nhã với những người tu theo pháp môn Làng Mai tại đây. Họ tổ chức những nhóm người gây áp lực buộc những người tu theo pháp môn Làng Mai ra khỏi tu viện. Họ có những hành động và hành vi rất bỉ ổi, rất bạo động, nhưng công an không can thiệp giải tán các nhóm này. Chẳng hạn như họ quăng đá, ném phân súc vật vào tu viện. Họ còn tổ chức thành đám đông đến tấn công khu tu viện, dùng búa đập phá và hăm dọa những người trong đó. Điều ngạc nhiên là công an và dân quân địa phương có mặt tại hiện trường nhưng không can thiệp!

Trước sự đàn áp dã man đó, thầy Nhất Hạnh viết thư cho Chủ tịch Nước lúc đó là Nguyễn Minh Triết yêu cầu can thiệp, nhưng tất cả đều vô không có hồi âm. Ông Lê Hiếu Đằng, một cựu quan chức của Mặt trận tổ quốc Việt Nam TPHCM nhận xét rằng “vụ Bát Nhã cho thấy sự vô trách nhiệm của chính quyền địa phương, tạo ra một tiền lệ hết sức nguy hiểm là bất cứ công dân nào cũng có thể bị côn đồ đe dọa, và cấp trung ương phải nhanh chóng giải quyết chuyện này.” Nhưng chẳng có ai giải quyết. Các tổ chức nhân quyền, các cơ quan truyền thông quốc tế, nhiều chánh phủ, quốc hội Âu – Mĩ đều đề cập đến những vụ đàn áp bằng võ lực xảy ra tại tu viện Bát Nhã, và họ yêu cầu nhà cầm quyền ngưng những hành động bức hại tôn giáo, xâm phạm đến tín ngưỡng. Nhà cầm quyền làm ngơ. Cuối cùng thì do không chịu không nổi áp lực, đến tháng 9/2009 tất cả những người tu theo pháp môn Làng Mai phải rời khỏi tu viện Bát Nhã.

Thiền Am

Người đứng đầu Thiền Am là cụ Lê Tùng Vân. Năm nay ông đã 91 tuổi, không vợ, không con. Ông xuất thân từ một gia đình nề nếp ở miền Tây, theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông là người hiếu học, tốt nghiệp cử nhân năm … 60 tuổi!

Ông là người có lòng nhân từ bác ái. Ông nhận nuôi hàng trăm đứa trẻ mồ côi hay cơ nhỡ. Những đứa trẻ đã bị bỏ rơi trong bệnh viện (vì hoàn cảnh nào đó), những đứa trẻ mắc bệnh tâm thần bị bỏ rơi bên đường, dưới gốc cây, ông đều nhận về và nuôi dạy. Chẳng hiểu ông có cách giáo dục nào mà tất cả những đứa trẻ đó đều nên người có ích cho xã hội, một số trở nên xuất sắc. Ngay cả một số đứa từng bị bệnh tâm thần sau một thời gian nuôi dạy, họ trở nên vui tươi và có vẻ có cuộc sống bình thường.

Một mình ông và vài người phụ tá làm đủ mọi việc để duy trì trung tâm nuôi dạy. Họ trồng rau, nuôi trồng thuỷ sản, làm nhang, thậm ca hát để có tiền nuôi dạy hơn 50 đứa trẻ trong cùng một lúc! Phải nói đó là một nghị lực phi thường, một sự dấn thân tuyệt vời mà không mấy ai trong xã hội làm được.

Ông không được sự hỗ trợ của Nhà nước dù chỉ 1 xu. Ngược lại, mấy người trong bộ máy nhà nước còn làm khó ông đủ điều. Trung tâm cô nhi “Thánh Đức” (được thành lập từ thập niên 1990s) nuôi 56 trẻ em mồ côi và cơ nhỡ. Họ còn được trung tâm SOS (của nhà nước?) nhờ nuôi trẻ em mồ côi. Thế nhưng nhà cầm quyền viện lí do “không đăng kí người lưu trú và không làm thủ tục nhận con nuôi” đóng cửa trung tâm. Trước khi bị đóng cửa, trung tâm bị đốt cháy toàn bộ, mà nguyên nhân và thủ phạm đốt cháy vẫn còn là một dấu hỏi lớn.

Sau khi Thánh Đức bị giải toả, ông Lê Tùng Vân sáng lập Tịnh thất Bồng Lai (nay là “Thiền Am”) ở ấp Lập Thành, xã Hòa Khánh Tây, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Ở đây, ông vẫn tiếp tục nuôi trẻ mồ côi hay cơ nhỡ. Ở đây, ông LTV và Thiền Am cũng bị nhà cầm quyền làm khó đủ điều. Thậm chí, có người được nhà mạnh thường quân ở Úc tài trợ cho đi du học, nhưng nhà cầm quyền địa phương không chịu làm hộ chiếu nếu không chi một số tiền lớn.

Chẳng những bị nhà cầm quyền gây khó khăn, Thiền Am còn bị mấy người trong giáo hội Phật giáo của Nhà nước (còn gọi là “Giáo hội quốc doanh”) ganh tị và dèm pha đủ điều rất buồn cười. Tôi không thể nào hiểu nổi tại sao mấy người trong giáo hội nhà nước lại ghét Thiền Am đến thế, vì thái độ của họ không nhứt quán với triết lí Nhà Phật.

Bên cạnh giáo hội là một đội quân báo chí của Nhà nước cũng góp phần vào sự gây nhiễu thông tin. Tất cả báo chí đều nói một tiếng nói. Tiếng nói đó là cáo buộc rằng Thiền Am không phải là chùa hay tịnh thất, rằng cụ Lê Tùng Vân là ‘giả sư’, rằng những người tu trong Thiền Am là ‘giả tu’, rằng cụ ấy ‘loạn luân’. Nhưng điều ngạc nhiên là họ không hề đến Thiền Am, họ không phỏng vấn một người nào trong Thiền Am! Họ chỉ hóng hớt thông tin từ công an và đội quân youtuber kền kền. Xu huớng chung là họ bắt bẽ những chi tiết vụn vặt, những danh xưng (mà họ không hiểu), và nguỵ biện theo kiểu ‘ad hominen’ vốn rất phổ biến trong báo giới VN. Tất cả đều mang tính vu cáo và kết tội hơn là làm sáng tỏ câu chuyện. Nếu là người nước ngoài và quen với báo chí văn minh, người đó sẽ không thể nào tin rằng Việt Nam có một nền báo chí thảm hại như thế.

Gần đây, Thiền Am còn là đối tượng vu khống, thoá mạ, và tấn công của nhiều kẻ lắm tiền nhiều của và đội quân ‘youtuber kền kền’. Họ là những kẻ vô giáo dục, thô lỗ, tục tằn, và lưu manh trong xã hội. Họ dùng những chữ vô cùng tục tĩu, họ chửi thề như ở chợ cá tôm, họ không biết đến thuần phong mĩ tục là gì. Họ là những kẻ hết sức mất dạy. Xin lặp lại để nhấn mạnh: mất dạy. Có thể nói họ là những phó sản của một xã hội đang suy thoái về đạo đức. Nhưng ngạc nhiên thay, họ lại được giới báo chí của Nhà nước và có thể ngay cả công an (?) sử dụng triệt để. Riết rồi công chúng không phân biệt đâu là báo chí Nhà nước và đâu là những con kền kền.

Rồi nay, nhà cầm quyền bắt giam ông Lê Tùng Vân (nhưng tin không chánh thức cho biết ông đã được về Thiền Am). Khi bắt, nhà cầm quyền chưa xác định tội danh để truy tố. Phải một hai ngày sau, họ cho báo chí nói rằng ông bị khởi tố 3 tội danh: (i) lợi dụng những quyền tự do dân chủ; (ii) lừa đảo; và (iii) loạn luân. Nhưng như chúng ta thấy, cho đến nay, chưa thấy bằng chứng nào cho thấy ông ấy phạm 3 tội trên.

Thật ra, năm 2017, ông Thích Nhật Từ, một quan chức trong GHPGVN, từng nhận định về Thiền Am như sau:

“Thực tế thì Hoàng Nguyên và Nhất Nguyên không phải là người giả mạo tăng sĩ để lừa đảo bất kỳ ai như một số báo chí đã cáo buộc.”

“[…] Hơn nữa, khu Bồng Lai Viên chỉ là một tịnh thất, không có bản hiệu chùa, nên không có đăng kí từ viện với Giáo hội Phật giáo tỉnh Long An. Từ năm 2015 trở về trước [phút 19:12] Cụ Thích Tâm Đức nay đã 86 tuổi, từng là Tỉnh hội trưởng Bửu Sơn Kỳ Hương, xây dựng khu Bồng Lai Viên, là vị cha tinh thần nuôi nấng hai vị này [Hoàng Nguyên và Nhất Nguyên] cùng như là 24 thành viên khác, nhỏ nhất là 3 tuổi cho đến U30 đều cạo đầu, mặc áo nâu sòng. Những cụ già thì được miễn và để tóc như là các Phật tử thông thường. Thật ra, cụ Thích Tâm Đức chưa bao giờ từng xưng mình là Hoà Thuợng và chưa nói mình là trụ trì Chùa Bồng Lai. Tại khu Bồng Lai Viên cụ đã cho phép tất cả các cháu mồ côi tại đây cạo đầu mặc áo nâu sòng […]“

Ông còn nói rằng những cáo buộc về Thiền Am của GHPGVN tỉnh Long An là ‘vội vã’:

“Họ là những người cư sĩ tại gia sống trong tịnh thất, được thầy của họ là người xuất gia cạo đầu, cho mặc áo nâu sòng từ nhỏ. Cho đến ngày hôm nay (tức 27/9/2017), tôi có phần ngạc nhiên đó là Giáo hội PGVN huyện Đức Hoà nói riêng và tỉnh Long An nói chung, chưa cử đại diện của Giáo hội đến Bồng Lai Viên nhằm trao đổi chánh thức để nắm rõ thực hư của vấn đề. Do vậy ở chừng mực tương đối tôi cho rằng phát biểu của Giáo hội PGVN tỉnh Long An là hơi vội vã vì vấn đề chưa được xác minh.”

***

Tuy nhiên, những gì xảy ra với Thiền Am và ông Lê Tùng Vân, như các bạn thấy, rất giống với những gì đã xảy ra đối với các tăng thân Làng Mai ở Bát Nhã. Vẫn là tấn công bằng bạo động, thậm chí gây thương tích 13% cho một thành viên trong Thiền Am. Vẫn quăng đá, đập phá, đánh đập, và công an không can thiệp. Y chang như sự kiện Bát Nhã.

Chính vì thế mà tôi sợ rằng số phận của Thiền Am cũng sẽ như số phận của các tăng thân Làng Mai ở Bát Nhã. Kết cục buồn đó sẽ xảy ra, thì sự việc chỉ thêm một gam màu đen tối cho xã hội dân sự ở Việt Nam. Việt Nam, trong cái nhìn của bạn bè quốc tế, vẫn là một quốc gia lạc hậu và bất dung hợp.

PS: Viết xong cái note này và đọc báo TT thì biết rằng tội danh loạn luân không còn nữa. Người ta cáo buộc tội “lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của tổ chức, cá nhân”. Riết rồi không biết họ (nhà cầm quyền) có làm theo luật pháp hay không?

https://tuoitre.vn/ong-le-tung-van-bi-khoi-to-toi-gi…

https://nguyenvantuan.info/…/cau-chuyen-thien-am-lich…/

Lập luận của bà Cấn Thị Thêu trong phiên tòa phúc thẩm

Lập luận của bà Cấn Thị Thêu trong phiên tòa phúc thẩm

Bởi AdminTD

 Thu Đỗ

7-1-2022

Đây là những lập luận của mẹ tôi, Cấn Thị Thêu, trong phiên tòa phúc thẩm ngày 24/12/2021, chứng minh mẹ tôi và em Trịnh Bá Tư vô tội.

“Hôm nay tôi sẽ chứng minh cho tòa phúc thẩm thấy là Tôi và con trai của tôi không vi phạm pháp luật. Tôi không tuyên truyền, không chống phá, không kêu gọi không phỉ báng, không gây hoang mang trong nhân dân, mà tôi và con trai của tôi nói đúng sự thật, phản ánh đúng tội ác man rợ, mất hết tính người của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã gây đau thương oan khuất cho gia đình tôi và những người cùng cảnh ngộ như gia đình tôi. Trong toàn bộ video mà tòa kết tội hai mẹ con tôi được bộ công an dịch ra thành văn bản thì có nội dung chính sau đây:

Nội dung thứ nhất là đưa tin vì vụ Đồng Tâm là chế độ CSVN đã tấn công dân làng Đồng Tâm trong đêm, không phải là xảy ra đụng độ tại khu vực xây dựng tường rào sân bay Miếu Môn, là hoàn toàn đúng sự thật. Chế độ CSVN đã tấn công gia đình cụ Lê Đình Kình, đã áp đảo gia đình cụ Lê Đình Kình, đã bắn chết cụ Lê Đình Kình, đã mổ phanh thây cụ Lê Đình Kình, đã bắn vỡ tung đầu gối cụ Lê Đình Kình là hoàn toàn đúng sự thật. Tội ác man rợ mất hết tính người của chế dộ CSVN đã áp dụng đối với người dân Đồng Tâm đã làm cho nhiều người dân và nhà văn Nguyên Ngọc phải thốt lên rằng tội ác của chế độ CSVN là Trời không dung, Đất không tha là hoàn toàn đúng sự thật.

Nội dung thứ hai: Tôi và con trai tôi nêu: Chế độ CSVN đã đàn áp, đánh đập tàn khốc người dân là hoàn toàn đúng sự thật, tất cả những hình ảnh đó được nằm ở 128 băng đĩa mà công an đã thu giữ tại gia đình tôi. Hôm nay để thấy rằng tội ác của chế dộ CSVN là trời không dung, đất không tha là hoàn toàn đúng sự thật.

Nội dung thứ ba: Tôi và con trai tôi nêu ra là: Chế độ CSVN đã đánh đập, tra tấn tàn bạo người dân trong đồn công an là hoàn toàn đúng sự thật, Bản thân tôi và các con của tôi đã bị đánh đập, tra tấn tàn bạo trong đồn công an…

Nội dung thứ tư: Tôi và con trai tôi nêu là, chế độ CSVN độc tài tham nhũng về một trong lĩnh vực đất đai, cướp đất của dân, đất đai là một vấn đề thiêng liêng gắn bó như máu thịt đối với người dân Việt Nam là hoàn toàn đúng sự thật.

Nội dung thứ năm: Tôi và con trai tôi nêu là: Đừng tin Cộng Sản nói. Cộng sản nói một đằng, làm một nẻo. Tin Cộng Sản thì có chuốc lấy đàn áp và khủng bố, là hoàn toàn đúng sự thật.

– Căn cứ theo bản căn cứ của nước Việt Nam, căn cứ theo những quy định của Hiến Pháp, pháp luật của nhà nước thì mọi công dân được bình đẳng trước pháp luật, được đối xử công bằng, được tự do ngôn luận, được tự do mưu cầu hạnh phúc ấm no, được sở hữu tư liệu sản xuất của mình, được lựa chọn nghề nghiệp và nơi làm việc, được nhà nước công nhận, được tôn trọng và bảo vệ các quyền đó cho người dân. Nhưng thực tế thì hoàn toàn ngược lại. Ở trong nhà tôi có một bài báo có nêu một vị Đại biểu quốc hội mà sở hữu trong tay hơn 200 ha đất, cho thuê 100ha đất mà một năm thu được mấy nghìn tỷ đồng. Còn ở tại Dương Nội chúng tôi thì bình quân mỗi người chỉ có hơn 100m2 đất nhưng lại bị thu hồi hết sạch như vậy thì bình đẳng ở chỗ nào. Những người dân không chuyển đổi được nghề nghiệp nên không nhất trí với việc thu hồi đất, đã làm đơn khiếu nại gửi các cơ quan chính quyền từ địa phương tới trung ương theo đúng luật khiếu nại, tố cáo, trên đường khiếu kiện chúng tôi đã bị đàn áp, đánh đập.

Nội dung thứ sáu: Tôi nêu là: Chế độ ĐCS không chỉ cướp đất của dân đen mà bọn chúng còn đè đồng đảng của chúng ra để cướp, là hoàn toàn đúng sự thật. Hãy nhìn vào vụ việc cụ Lê Đình Kình ở Đồng Tâm thấy được. Trường hợp hai là các cán bộ, chiến sỹ công tác ở tòa soạn báo CAND, là cơ quan bảo vệ chế độ trung thành nhất… Về vấn đề này, nếu cứ về số 1 Ngô Thì Nhậm, quận Hà Đông thì thấy rằng có rất nhiều người đã từng công tác trong bộ máy chính quyền, nhiều người đeo huy huân chương đầy người nhưng cũng bị chế độ CSVN cướp đất phá nhà giống như những người dân đen chúng tôi, là hoàn toàn đúng sự thật.

Căn cứ vào những vấn đề trên thì tôi và con trai tôi không vi phạm pháp luật. Mà tôi và con trai tôi chỉ nói đúng sự thật, phản ánh đúng tội ác của chế độ CSVN. Tội ác man rợ mất hết tính người của chế độ ĐCS đã gây đau thương và oan khuất cho gia đình tôi và những người cùng cảnh ngộ giống gia đình tôi gấp 1000 lần thì tôi và con tôi chỉ mới nêu được một phần tội ác của chế độ CSVN. Chính tội ác man rợ mất hết tính người của đảng CSVN, mới thực sự làm cho dân chán ghét và căm hờn chính quyền nhân dân, đúng như lời nói của ông Trần Quốc Vượng, chủ nhiệm Trung Ương Đảng đã nói.

Căn cứ theo nội dung bản án sơ thẩm thì tôi thấy chế độ CSVN là kẻ có tội, lại đi xét xử mẹ con tôi là nhưng người vô tội”.