Khủng hoảng nhân sự tại Việt Nam không chỉ có y tế, giáo dục

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Lương chết đói, áp lực công việc nặng nề, công chức cán bộ trong guồng máy cai trị của Việt Nam theo nhau bỏ chạy khắp mọi ngành, mọi nơi.

“Một số anh em xin nghỉ việc nhiều. Kể cả vụ phó, trưởng phòng cũng xin nghỉ việc. Tôi phải gặp và động viên suốt,” ông Hồ Đức Phớc, bộ trưởng Tài Chính Việt Nam, được báo Thanh Niên ngày Thứ Hai, 19 Tháng Chín, dẫn lời nhìn nhận về tình trạng nhân sự của bộ này nghỉ việc.

Người dân làm thủ tục hành chính tại bộ phận tiếp nhận và trả hồ sơ hành chính ở thành phố Thủ Đức, Sài Gòn. (Hình: VNExpress)

Tháng trước, cục trưởng và hai cục phó Cục Quản Lý Qiá đã bị “kỷ luật” vì dính líu trong đại án lừa dân cả nước “kit xét nghiệm” COVID-19 mà hàng chục quan chức nhiều bộ ngành đã bị bắt giam. Riêng ông Nguyễn Anh Tuấn, cục trưởng Cục Quản Lý Giá, bị “cách hết các chức vụ trong đảng,” một dấu hiệu có thể dẫn đến bắt giam khi cuộc điều tra tham nhũng vẫn còn đang tiếp diễn.

Không thấy ông Phớc đưa ra con số viên chức Bộ Tài Chính xin nghỉ việc, chỉ thấy ông ta nhìn nhận “bộ máy, nhân sự của Bộ Tài Chính hiện rất khó khăn.” Như vậy, người ta có thể hiểu hàng chục hay hàng trăm cán bộ đã bỏ chạy chứ không ít.

Bộ Tài Chính là bộ phận “tay hòm chìa khóa” của chế độ. Suốt nhiều năm qua, người ta hiểu rằng muốn chen chân vào Tổng Cục Thuế, hoặc Tổng Cục Hải Quan không phải dễ. Trên mạng xã hội từng thấy có những tiết lộ số tiền phải đút lót để được làm viên cho hai cơ quan vừa kể phải bằng rất nhiều đô la hay vàng khối. Viên chức hai cơ quan này nổi tiếng là “hái ra tiền.”

Lời xác nhận của ông Phớc chỉ vài ngày sau khi quan chức đứng đầu dầu khí quốc doanh cho hay rất nhiều chuyên viên trong ngành dầu khí bỏ việc lương thấp, chạy qua làm ở khu vực tư nhân lương tiền “đãi ngộ” tương xứng với khả năng.

Báo chí tại Việt Nam mấy tháng gần đây cho hay hàng ngàn viên chức y tế và giáo dục xin nghỉ làm vì không thể chịu đựng nổi đồng lương không đủ sống.

Ông Hoàng Ngọc Trung, phó tổng giám đốc Thăm Dò và Khai Thác Dầu Khí (PVEP), được thuật lời cho hay từ đầu năm đến nay “nhiều người có chuyên môn cao của đơn vị chuyển sang nơi khác, bởi vì họ có chế độ đãi ngộ tốt hơn, trong khi doanh nghiệp nhà nước như PVEP phải tuân thủ về chế độ ưu đãi, đãi ngộ theo quy định.”

Hậu quả, theo ông này, “người thực sự muốn giữ thì họ ra đi, không giữ được, còn người chúng tôi không muốn giữ thì họ không đi và chúng tôi không có cách nào cho người ta đi.”

Nhiều báo tại Việt Nam ngày Thứ Bảy, 13 Tháng Tám, dẫn thuật văn thư khẩn của chính quyền thành phố ở Sài Gòn gửi trung ương, một ngày trước đó, báo động số lượng rất lớn “cán bộ, công chức, viên chức” xin nghỉ việc lên gần 6,200 người.

Viên chức nhà nước giải quyết thủ tục hành chính cho người dân. (Hình: VNExpress)

Ba nguyên nhân được nêu ra gồm đồng tiền lương quá thấp không đủ sống, cơ hội thăng tiến không có, trong khi áp lực công việc lại rất lớn. Các nguyên nhân này “ảnh hưởng niềm tin, động lực gắn bó” với công việc của cán bộ công chức mà nói chung “làm giảm sức hấp dẫn của khu vực công.”

Đầu Tháng Bảy, các báo tại Việt Nam cho hay gần 10,000 bác sĩ y tá tại các bệnh viện công trên cả nước nghỉ làm kể từ đầu năm 2021. Lương không đủ sống, môi trường làm việc nguy hiểm trong khi bị ép làm việc quá sức chịu đựng của con người.

Đồng thời, hàng ngàn giáo viên khắp nơi cũng bỏ việc cũng vì đồng lương không đủ sống. Ngoài giờ dạy học, nhiều người phải chạy xe ôm hay làm thêm những việc khác mới tạm đủ qua ngày. (TN) 

LĂNG VUA NGÔ QUYỀN

LĂNG VUA NGÔ QUYỀN

–Chiêm ngưỡng Lăng vua NGÔ  QUYỀN  rồi  nhìn lại lăng tên bán  nước hồ chí minh hay ngôi mộ của các tên   tổng  bí  thư  vietcong khác  một trời một vực—- nhưng lăng mộ vua  NGÔ QUYỀN sẽ  trường cửu–còn mộ   của  những   tên  hèn với  giặc , ác với dân sẽ bị đào  thải  như  của  các  tên  Lenin… Ceaucescu mà  thôi !!

Cái lăng bé nhỏ này chính là Lăng Ngô Quyền, vị vua đầu tiên đã đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng vào năm 938, giúp dân tộc ta kết thúc hơn 1000 năm Bắc thuộc, giành nền độc lập. 

Lăng của Ngài ở quê hương là làng Đường Lâm, Sơn Tây (Hà Nội), lăng có diện tích chỉ vài m2, có mái che chỉ cao 1,5 mét, bia đá được khắc thời Tự Đức, có ghi bốn chữ Hán “Tiền Ngô Vương lăng”. Ngài mất năm 944, hưởng dương 47 tuổi.

Hàng cây duối cổ thụ màu xanh biếc ở gần đó tương truyền là nơi xưa Ngài buộc ngựa chiến và voi chiến mỗi khi về làng. Những cọc gỗ mà Ngài cho quân lính đóng dưới lòng sông Bạch Đằng nay vẫn còn nguyên…

Một vị vua hào hùng như vậy, có tên tuổi ghi dấu đậm nét trong lịch sử Việt Nam mà chỉ an nghỉ trong một khoảnh đất nhỏ nơi làng quê. Nhưng uy danh của Ngài thì có ở khắp nơi trên đất Việt. Đền thờ khiêm tốn của Ngô Quyền ở ngay trên đất Đường Lâm cũng đời đời được dân ta ngưỡng vọng và thờ phụng.

Tổ tiên ta thật khiêm cung, mà cũng đầy hiển hách. Không có lăng mộ, tượng đài nào là vĩnh cửu mà chỉ có lòng yêu mến, kính trọng của dân chúng là vĩnh cửu trường tồn!

Doãn Hồng Giang

From: Tu-Phung

Họ vẫn cứ ra đi-Tác giả: Vũ Thị Phương Anh 

Họ vẫn cứ ra đi

Tác giả: Vũ Thị Phương Anh 

Hôm nay là ngày chủ nhật cuối cùng của năm, thêm một ngày nữa là đã bước sang năm mới rồi.

Thế hệ của tôi, họ bắt đầu ra đi, lác đác từ những năm 79. Đi “bán chính thức”…. Đa số họ là con cái của các gia đình tư sản thành đạt từ chế độ cũ, phải ra đi vì họ không được chấp nhận trong xã hội mới. Năm ấy tôi 19 tuổi, mới vào đại học, và lòng thì phơi phới vô cùng vì nghĩ rằng chiến tranh chết chóc đã qua đi, giờ chỉ cần học xong, có một nghề nghiệp ổn định là thế hệ của chúng tôi sẽ nhanh chóng xây dựng lại đất nước để sánh vai cùng thế giới.

Thế hệ của tôi, họ ồ ạt ra đi trong những năm 1989. Đành đoạn dứt áo ra đi tìm đường sống. Vượt biên, thuyền nhân. Đất nước khủng hoảng sau lần đổi tiền cuối cùng vào năm 1985. Lúc ấy tôi 29 tuổi, đã là giảng viên đại học, có gia đình và 1 đứa con 2 tuổi. Hai vợ chồng đi làm trong khu vực công (vì làm gì có khu vực nào khác!), và dù là gia đình “2 thu nhập” với chỉ 1 đứa con nhỏ mà chúng tôi vẫn … đói triền miên với đồng lương nhà nước.

Những năm 1999, đất nước đã mở cửa, bắt đầu hội nhập với thế giới. Tôi đã có bằng tiến sĩ được vài năm (vô cùng hiếm hoi vào thời ấy) từ một học bổng viện trợ của Úc dành cho VN, là phó khoa của một trường đại học công lập lớn ở Sài Gòn, và có thêm đứa con thứ hai. Lúc ấy tôi 39 tuổi, và mặc dù biết rằng bạn bè tôi đã rục rịch bắt đầu tính toán việc “vượt biên bằng máy bay”, tôi vẫn tin rằng VN đã đi vào đúng quỹ đạo của thế giới tự do và phát triển, rất cần sự đóng góp của những người may mắn có cơ hội học hành tử tế như tôi. Niềm tin ấy được chia sẻ và củng cố bởi ông xã hiền lành nhân hậu của tôi, và cứ thế, chúng tôi cắm đầu làm việc, sống thanh bạch nhưng lương thiện, sinh hoạt hết sức giản dị và tiết kiệm, đến độ một người đồng nghiệp cùng khoa của tôi đã phải thốt lên: PAnh sống như người đi tu. (Cảm giác ấy sau này cô con dâu cũng xác nhận.)

Những năm 2009, VN đã hội nhập quốc tế sâu rộng, đã là thành viên WTO, nền “kinh tế thị trường định hướng XHCN” đã được thiết lập, khu vực tư nhân bắt đầu phát triển. Tôi đã 49 tuổi, đã đứng đầu một đơn vị rất nhỏ nhưng có vai trò quan trọng trong ĐHQG-HCM dù là một người không Đảng – được bổ nhiệm chỉ vì năng lực, bất chấp “lý lịch xấu”. Tôi được quyền sử dụng ngân sách, là chủ tài khoản, toàn quyền tuyển dụng và bổ nhiệm nhân sự dưới quyền (trừ cấp phó), toàn quyền sử dụng tài chính và tài sản công được cấp miễn là theo đúng quy định, toàn quyền quan hệ với thế giới trong lĩnh vực chuyên môn của mình. Quyền khá lớn, và tôi cũng làm được khá nhiều, nên tôi thấy khá hài lòng, trừ một việc: Lương của tôi (và của nhân viên) theo quy định của nhà nước vẫn là một đồng lương chết đói! Và để khỏi chết đói, tôi vẫn phải đi dạy vào buổi tối và cuối tuần. Không ai hiểu tại sao lại như vậy, khi công việc của tôi được xem là “khá béo bở”, không cần lương, chỉ cần bổng là đủ! Bạn bè tôi – số ít ỏi còn ở lại VN – lúc ấy đã có nhiều người phất lên, (một số vì “trúng quả”, đa số là do làm cho những công ty đa quốc gia, lương cao ngất ngưởng), đã/đang bắt đầu thực hiện kế hoạch cho con cái đi tỵ nạn giáo dục, còn bản thân họ thì mua nhà ở nước ngoài, mua thẻ xanh ở Canada, Mỹ, Úc…. Tóm lại, bao nhiêu năm rồi họ vẫn (cứ) ra đi.

Còn 2 ngày nữa là tôi bắt đầu bước sang tuổi 59. Rất muộn màng nhưng trễ còn hơn không bao giờ, tôi đã ra khỏi khu vực công đến nay được gần 8 năm, đã có lương hưu sau hơn 30 năm làm việc, vẫn tiếp tục không phải là (và sẽ không bao giờ là) Đảng viên, đã kịp cho cô con gái đi tỵ nạn giáo dục vài năm qua (cậu con trai đầu thì học hoàn toàn trong nước vì bố mẹ sống thanh bạch lương thiện và làm việc trong khu vực công thì tiền đâu mà cho con tỵ nạn?). Vài ngày qua, đọc tin tức về vụ LNMQ, rồi vụ đoàn du lịch VN trốn ở lại Đài Loan, nhìn lại đời mình tôi thấy tiếc những cơ hội của cá nhân mà tôi đã từ chối vì những lý tưởng ngây thơ, thấy mình thật buồn cười, và cũng thấy thật buồn. Mọi thứ trên đất nước này đã thay đổi, phải nói là đảo lộn tất cả.

Chỉ có một thứ dường như không thay đổi: Họ vẫn ra đi!

Tác giả: Vũ Thị Phương Anh 

From: TU-PHUNG

Những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ Cộng sản Việt Nam

Vũ Ngọc Yên

16-9-2022

Đảng CSVN không mạnh như chúng ta tưởng. Đảng đang bệnh, thậm chí bệnh còn nghiêm trọng hơn những người lãnh đạo như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hay Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc. Đảng đã thay đổi trở thành một chính đảng phục vụ lợi ích các gia tộc và tư bản thân hữu của giai cấp chức thống trị … Lý tưởng xã hội chủ nghĩa vốn là niềm tin của đảng viên không còn nữa. Chất keo gắn bó, đoàn kết nội bô chỉ là Quyền và Tiền.

Tập đoàn lãnh đạo đảng nay chỉ loay hoay lo những chuyện tranh chấp quyền lực, bố trí nhân sự và quân bình lợi ích phe nhóm, thay vì quan tâm đến những vấn đề hiện đại hoá, canh tân đất nước và quốc kế dân sinh. Chế độ Cộng sản đang đứng trước nhiều thách thức tồn vong.

1.– Đất nước vẫn còn tụt hậu

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất tự hào tuyên bố trong buổi khai mạc Đại hội XII của đảng vảo ngày 26.1.2021, rằng “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay…” Sự hãnh diện của Nguyễn Phú trọng không sai nếu lấy thành quả kinh tế và chính trị của ông đối chiếu với nhiệm kỳ của những người tiền nhiệm Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh. Nhưng so với các nước láng giềng thì nước Việt nam cộng sản thực tế đã phát triển tới đâu?

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam trong năm 2021 chỉ hơn 362,6 tỷ đô la Mỹ.

Bộ Chỉ số Phát triển Thế giới (WDI) được Ngân hàng Thế giới cập nhật hôm 1.7.2022, cho thấy, Thu nhập quốc dân (GNI) trên đầu người của Việt Nam vào năm 2021 là 3.560 đô la. So với các nước trong cùng khu vực, con số của Việt Nam chỉ bằng gần 1 phần 18 của Singapore, 64.010 đô la. Thu nhập quốc dân (GNI) trên đầu người của Việt Nam đứng thứ 7 trong số 11 nước Đông Nam Á và thứ 130 trên 195 nước được Ngân hàng Thế giới thống kê, xếp hạng, theo số liệu vừa được ngân hàng này cập nhật vào đầu tháng 7.

Lần lượt đứng thứ hai và thứ ba ở Đông Nam Á là Brunei và Malaysia với các con số tương ứng là 31.510 và 10.930 đô la, cao hơn Việt Nam gấp khoảng 9 lần và 3 lần.

Ba nước khác thuộc khối ASEAN đứng trên Việt Nam là Thái Lan, với 7.260 đô la/người, đứng thứ 88 trên thế giới; Indonesia, 4.140 đô la, vị trí 119; và Philippines, 3.640 đô la, vị trí 128.Các nước cùng khu vực có GNI đầu người thấp hơn Việt Nam là Lào, Timor Leste, Campuchia và Myanmar.

GDP bình quân đầu người Việt Nam, dự báo đến năm 2030 sẽ đạt 7.000 – 7.500 USD, tương đương GDP bình quân đầu người của Thái Lan năm 2019 và chưa theo kịp Malaysia năm 2010.

2.– Tham nhũng ngày càng lan rộng.

Tham nhũng và lũng đoạn tài sản quốc gia hiện tại là quốc nạn. Độc tài, tham nhũng là bản chất của các chế độ độc tài, độc đảng, đặc biệt ở các quốc gia CS như Việt Nam và Trung Quốc. Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã phát biểu: “Tham nhũng ở nước ta là do cả cơ chế lẫn con người“. Giai cấp thống trị đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để vụ lợi. Chạy chức, chạy quyền là những hình thức hối lộ, tham nhũng phổ biến.

Tham nhũng được các quan chức đảng coi là chất keo kết dính các phe phái lại với nhau và tạo động lực cho các cán bộ trẻ đầy tham vọng, thuộc loại 5c (con cháu các cụ cả). Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã nêu ra trong một bài viết ngày 2-9-2014: “Chúng ta vẫn còn phải trăn trở, đau lòng khi nghe câu truyền miệng lâu nay trong nhân dân: ‘Nhất hậu duệ, nhì tiền tệ, ba quan hệ, bốn trí tuệ‘,” trong công tác cán bộ.

Quan hệ gia đình trở thành tác nhân trong việc tuyển dụng, bổ nhiệm nhân sự ở các cấp. (Xem thêm https://baotiengdan.com/2020/11/20/chuyen-thai-tu-dang-va-nhung-hat-giong-do-cua-dai-hoi-xiii/.)

Song song với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa nạn tham nhũng ở Việt Nam mỗi lúc lan rộng. Tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong quản lý sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng từ nguồn vốn Nhà nước, lĩnh vực tín dụng ngân hàng, công tác tổ chức cán bộ. Việc xử lý tham nhũng vẫn còn hạn chế; tỉ lệ thu hồi tài sản tham nhũng, thất thoát còn thấp.

Hàng trăm vụ tham nhũng làm thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng ngân sách quốc gia, gây phẫn nộ trong dư luận. (Xem thêm https://danviet.vn/nhin-lai-12-dai-an-tham-nhung-kinh-te-trong-10-nam-2022062804425177.htm)

Công luận chỉ trích việc xử lý tham nhũng đã không mang lại hiệu quả vì cơ chế độc đảng ở Việt Nam đẻ ra tệ nạn tham nhũng và bọn tham nhũng lại ra sức bảo vệ cơ chế này. Vì vậy, giao phó cho Đảng Cộng sản độc quyền chống tham nhũng thì tham nhũng càng phát triển.

Nguyễn Phú Trọng lên nắm quyền vào năm 2011, hứa hẹn sẽ chấm dứt tình trạng “suy thoái tư tưởng và kiềm hãm tham nhũng” vì lo ngại đảng và chế độ chính trị khó tồn tại. Tại đại hội 12, Trọng đã điều động lật đổ Nguyễn Tấn Dũng và bè lũ khét tiếng tham ô. Tranh chấp quyền lực trong đảng luôn có chủ đích.

Thành phần của cơ quan cao nhất của đảng, Bộ Chính trị gồm 19 người, đại diện cho sự cân bằng của các lực lượng phe phái phản ánh các lợi ích khác nhau. Bộ Chính trị là cơ quan quyết định chính trị của cả nhà nước và đảng. Không giống như các Bộ Chính trị trước đây, năm 2021 Trọng đã củng cố quyền lực với ​​nhiều thành phần thuộc các khu vực nhà nước, nhiều cảnh sát, công an và nhiều người trung thành với đảng thay vì các nhà kỹ trị. Thực chất các chiến dịch chống tham nhũng của Trọng chỉ là những cuộc tấn công vào sự tham nhũng của kẻ thù phe ông, như một cách để loại bỏ các đối thủ.

Trong 10 năm qua, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 2.700 tổ chức đảng, gần 168.000 đảng viên, trong đó có hơn 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý, trong đó có 33 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang.

Theo cách xếp hạng Nhận thức về Tham nhũng của Tổ chức Minh Bạch Quốc tế (Transparency International) công bố năm 2021, thì Việt Nam có chỉ số tham nhũng 39 được xếp hạng 87 trong số 180 quốc gia.

3.– Lý tưởng cách mạng suy thoái

Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh” là những biểu hiện suy thoái lý tưởng cách mạng . Báo Quân đội nhân dân (QĐND) ngày 18/08/2022 cảnh báo “Sự suy thoái đạo đức, lối sống, nhất là về sự suy thoái lý tưởng cách mạng của một bộ phận cán bộ, kể cả một số cán bộ cấp cao, trong thời gian vừa qua hết sức đáng ngại. Chủ nghĩa cá nhân, động cơ kiếm tiền, bao che để trục lợi, lợi dụng khe hở của công tác quản lý và luật pháp để thu vén, làm giàu cho bản thân và gia đình đều là những nguyên nhân trực tiếp khiến người có chức, có quyền, có địa vị cao trong xã hội trở thành tội phạm.

Theo QĐND: “Sự lao dốc của những cán bộ đã từng trải ấy trên các cương vị công tác họ được đảm nhận, suy đến cùng là do lối sống buông thả, do sự tham lam quyền lực vô độ, muốn có thật nhiều tiền, muốn làm giàu thật nhanh mà không nghĩ đến hậu quả. Chính họ đã không đủ can đảm để chống lại những “bả” vinh hoa, phú quý không chính đáng. Sự lao dốc không phanh ấy, một lúc nào đấy thuận lợi, rất có thể sẽ dẫn đến chỗ góp phần bán rẻ cả đồng chí, đồng đội, phản bội lại Tổ quốc và quay lưng lại với nhân dân.”

4.– Bất công xã hội gia tăng

Các lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục trong nhiều thập niên qua không chuyển biến. Văn hoá, đạo đức xuống cập, lối sống gây bức xúc; tệ nạn xã hội gia tăng.

Sự phân hoá phân hóa giàu nghèo hiện nay ở Việt Nam có xu hướng phân thành hai cực rõ rệt. Nhiều quan chức có thu nhập quá cao với rất nhiều nhà đất và vợ con tiêu xài một cách xa hoa, lãng phí, trong khi phần lớn người lao động vẫn phải đối mặt với cuộc sống cơ cực, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số. Số hộ nghèo ở các huyện ở thôn quê vẫn còn ở mức độ lo ngại.

Theo khảo sát của Viện Công nhân và Công đoàn (Tổng LĐLĐ Việt Nam), bình quân tiền lương của người lao động là 4,9 triệu đồng/ người/ tháng. Vì lý do lương thấp nên hơn 12% lao động phải thường xuyên đi vay để chi tiêu. Nếu không làm thêm, lao động khó có thể đủ chi tiêu, sinh hoạt. Lương thấp cũng khiến hơn 54% lao động không dám lập gia đình… Cũng theo điều tra năm 2021 của Viện Công nhân và Công đoàn, 5% công nhân được hỏi cho biết, rất ít khi trong bữa ăn của họ có thịt, cá (chỉ 1-2 lần/tuần) và 34% cho biết thỉnh thoảng có ăn (3 lần/tuần); 41% cho biết chỉ đủ tiền để mua một số loại thuốc cơ bản. Họ không dám đi khám bệnh vì không có tiền.

Năm 2022 đã chứng kiến ​​một làn sóng đình công ở Việt Nam, khi công nhân chiến đấu để giành lại những gì họ đã mất trong cuộc khủng hoảng COVID-19. Vào tháng Giêng, đã có một cuộc đình công của từ 14.000 đến 16.000 công nhân tại các nhà máy sản xuất giày dép Pou Chen ở Biên Hoà, Đồng Nai, miền Nam Việt Nam. Doanh nghiệp Đài Loan này là nhà cung cấp lớn nhất cho Nike và Adidas. Kế tiếp 5.000 công nhân Công ty giầy da Viet Glory ở tỉnh Nghệ An và 2.500 công nhân tại bộ phận kiểm tra hàng hóa của một nhà máy ở miền Trung Việt Nam đã đình công. VnExpress, một tờ báo mạng dưới sự kiểm soát của đảng CSVN, báo cáo rằng đã có 30 cuộc đình công tính đến tháng 3 năm 2022.

5.– Toàn vẹn lãnh thổ và phát triển kinh tế không vững chắc

Thế giới liên tục chứng kiến nhiều biến động, từ chiến tranh Ukraine đến căng thẳng eo biển Đải Loan. Khả năng nước lớn sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế với các nước nhỏ có chiều hướng tăng lên. Khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược là khu vực cạnh tranh giữa các cường quốc, tiềm ẩn nguy cơ xung đột quân sự. Trên Biển Đông, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo vẫn diễn ra phức tạp.

Tranh chấp Mỹ-Trung chi phối quan hệ quốc tế nói chung và tác động đến quan hệ giữa các nước với một trong hai nước này. Mỹ nhìn nhận sự trỗi dậy của Trung Quốc như là một thực tế, nhưng không bỏ lỡ những thời cơ thuận lợi khống chế Trung Quốc. Tham vọng bá quyền của Trung Quốc luôn đe doạ chủ quyền các nước láng giềng. Trung Quốc sẽ tăng áp lực đối với các nước, trước hết là Việt Nam trong quan hệ với Đài Loan và các vấn đề tranh chấp ở Biển Đông.

Kinh tế thế giới đang lâm vào khủng hoảng, suy thoái, lạm phát. Nền kinh tế Việt nam phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, yếu kém, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới do tác động của đại dịch Covid-19, chiến tranh Ukraine và sự suy thoái kinh tế toàn cầu gây ra. Thương maị Việt Nam hiện lệ thuộc nhiều vào hai nước. Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung nếu vẫn tiếp diễn, căng thẳng sẽ ảnh hưởng nhiều đến tình hình xuất nhập và sản xuất hàng hoá.

Lời kết

Đảng CSVN không mạnh như chúng ta tưởng. Đảng đang bệnh. Một tập hợp chính trị có cấu trúc tổ chức vững chắc và xem lý tưởng cách mạng là niềm tin thì tổ chức sẽ có trọn vẹn 100% sức mạnh. Nhưng nay đảng CSVN không còn hai yếu tố này nữa. Lý tưởng Xã hội chủ nghĩa từ lâu đã không hiện thực và trở thành bóng ma. Tham nhũng bây giờ là phương cách duy nhất được thực hiện như một chất keo gắn bó giữa các phe nhóm lợi ích nhằm duy trì tổ chức. Không có tham nhũng, cơ cấu đảng sẽ tan rã. Đảng và Chế độ đang trực diện trước nguy cơ tồn vong.

Việt Nam không có chủ nghĩa “thương dân”?

Việt Nam không có chủ nghĩa “thương dân”?

15-9-2022

Hình như người VN không có chủ nghĩa “thương dân” mà chỉ có chủ nghĩa yêu nước. Chính trị gia, học giả, trí thức… đa số qua các bài viết, các ý kiến của họ cho tôi thấy như vậy. Ngay cả những người chủ trương “dân tộc chủ nghĩa”, tôi cũng không thấy “tình yêu thương dân tộc” ở đâu trong “ý thức hệ” của họ.

Còn người cộng sản, xưa nay đều như vậy. Họ cũng sử dụng “lòng yêu nước” nhằm hô hào, kích động người dân để phục vụ cho ý đồ của họ. Vấn đề là ý đồ của họ chưa bao giờ phục vụ cho lợi ích của người dân hết cả. Họ chỉ phục vụ cho “giai cấp”, tức cho những người “cùng phe” với họ mà thôi.

Không có dân thì làm sao có nước? Không yêu dân thì làm sao yêu nước? Dân không giàu thì làm sao nước giàu? Dân không mạnh thì làm sao nước mạnh?

Người cộng sản cai trị VN luôn miệng nhắc câu, nói là của ông Hồ: Cán bộ là đầy tớ của nhân dân. Thực tế cho thấy ai là đầy tớ ai là ông chủ.

Theo tôi, cái gọi là “lòng yêu nước” chỉ là một thứ tình cảm “mị dân”, một thứ “thuốc phiện” mà đời này qua đời kia các lãnh tụ đã “chích” vào cơ thể cỏa mọi người. Tội “phản quốc” là tội nặng nhứt. Ít ai đặt vấn đề “thế nào là phản quốc ?”

Đơn giản, theo tôi, phản quốc là cá nhân, tập thể, đảng phái đó đã có các hành vi làm tổn hại đến lợi ích của “đất nước”.

Nhưng có một trọng tội, nặng trên cả tội “phản quốc”, là tội “phản dân” mà không thấy ai nói tới.

Đọc báo nước ngoài lâu lâu thấy tên VN “nổi bật”. Toàn là các tin tức mà người có sĩ diện, có cái ý thức gọi là “quốc thể”, phải tức đến hộc máu.

Nào là người Việt bị lừa qua Campuchia “làm việc nhẹ lương cao”. Nào là dân Hàn Quốc khuyến khích nữ du học sinh VN lấy chồng các “lão nông”, tức những nông dân già, ế vợ của thôn quê Hàn quốc. Nào là “thùng nhân”, nào là trồng cần sa, nào là buôn lậu… Dân VN một số vùng “nổi tiếng” đến đỗi sổ thông hành VN không dám đề xuất xứ quê hương.

Xuất khẩu lao động, một hình thức “buôn dân”, trở thành “chính sách” của đảng.

Tôi nói thẳng, yêu nước mà để đất nước đến đỗi như vầy là “phản quốc”.

Giữa hai chế độ thực dân ngày xưa và cộng sản bây giờ, tôi chọn chế độ thực dân.

Thực dân khai thác đất nước, nói là cạn kiệt, làm gì bằng cộng sản phá hoại đất nước như bây giờ? Thực dân trồng rừng, làm đường xá, làm đường xe lửa, xây cầu cống, đào kênh, khai khẩn đất hoang, chỉnh trang độ thị, xây trường học, làm nhà thương, khuyến khích người dân làm giàu lương thiện, bằng việc buôn bán và sản xuất…

Thực dân ngày xưa cho phép người dân ra báo tư nhân, cho phép tôn giáo và các tổ chức, đoàn thể hoạt động tự do.

Còn chế độ cộng sản, họ làm được gì?

Tôi nói thẳng, tôi không yêu nước dưới chế độ cộng sản bây giờ. Tôi yêu quê hương, nơi “chôn nhau cắt rún” của mình. Tôi yêu gia đình, hàng xóm, yêu đồng bào… Đây là “tình cảm” tự nhiên.

Dân không có thì nước không có. Không có vụ “yêu nước” khơi khơi. Yêu nước trước hết là yêu dân cái đã.

Những dự án ‘zombie’ ở Việt Nam

Những dự án ‘zombie’ ở Việt Nam

 

Blog VOA

Trân Văn

16-9-2022

Cách nay khoảng 20 năm, chuyên gia nhiều giới từng cảnh báo, khi khoảng cách giữa nhiều phi cảng quá nhỏ và khi hệ thống giao thông đường bộ đang rút ngắn cả khoảng cách lẫn thời gian di chuyển, đầu tư xây dựng, nâng cấp các phi cảng chính là vứt tiền qua cửa sổ.

______________________

Có không ít zombie (những xác chết đội mồ đứng dậy, tiến – lui, hành động theo sự điều khiển của các pháp sư, khuấy động thế giới người sống) trong hệ thống chính trị và hệ thống công quyền tại Việt Nam. Việc tìm đủ cách khôi phục những chủ trương, dự án đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông như đường sắt cao tốc, phi cảng,… sau khi tạm lắng bởi các trận bão dư luận chính là ví dụ.

***

Giữa năm 2010, sau khi nghe nhiều người, nhiều giới phân tích thiệt – hơn, hay – dở về “Dự án Đường sắt cao tốc” (1) , các Đại biểu Quốc hội khóa 12 (2007 – 2011) đã nhất trí gạt bỏ dự án này (2). Tuy nhiên năm năm sau, chính phủ Việt Nam đã “hà hơi, tiếp sức” để dựng dự án vừa kể đứng dậy bằng cách đổi tên dự án từ “Đường sắt cao tốc” thành “Đường sắt… tốc độ cao” (3).

Từ đó đến nay, thỉnh thoảng “Dự án Đường sắt… tốc độ cao” lại khuấy động dư luận vì cứ xẹp xuống một thời gian do có nhiều người, nhiều giới khuyên can lại được dựng dậy, chẳng hạn, hệ thống công quyền đã từng có ý định mang dự án ra trình các ĐBQH khóa 14 hồi 2020 nhưng ngừng lại dường như vì khó được thông qua và tin mới nhất: Chính phủ đang chờ Bộ Chính trị cho… chủ trương trong tháng này (4).

Cứ dùng Google để tìm – đối chiếu khuyến cáo của các giới về “Dự án Đường sắt cao tốc”, sau này đổi lại thành “Dự án Đường sắt tốc độ cao” suốt từ 2008 đến nay ắt sẽ thấy, tuy dự án không thuyết phục được công chúng về tính khả thi, không có giải pháp giải quyết hậu quả như nợ nần (sẽ phải vay vài chục… tỉ Mỹ kim), bảo đảm hiệu quả hoạt động (5)… nhưng trong 14 năm qua, hệ thống công quyền Việt Nam dứt khoát không bỏ cuộc (6).

Không chỉ có “Dự án Đường sắt tốc độ cao” giống như… “Zombie”. Có rất nhiều chủ trương, kế hoạch, dự án khác, cả của chính phủ lẫn chính quyền các địa phương chẳng khác gì… “Zombie”. Chẳng hạn, tính riêng trong lĩnh vực giao thông, song hành với… “Zombie… đường sắt tốc độ cao” là… “Zombie… Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc”.

***

Cách nay khoảng 20 năm, chuyên gia nhiều giới (kinh tế, hàng không,…) từng cảnh báo, khi khoảng cách giữa nhiều phi cảng quá nhỏ (chỉ từ vài chục đến chừng hơn một trăm cây số) và khi hệ thống giao thông đường bộ đang rút ngắn cả khoảng cách lẫn thời gian di chuyển, đầu tư xây dựng, nâng cấp các phi cảng chính là vứt tiền qua cửa sổ. Thậm chí tháng 3 năm 2016, Tổng Công ty Hàng không Việt Nam từng chính thức thú nhận, trong 22 phi cảng, chỉ Nội Bài (Hà Nội) và Tân Sơn Nhất (TP.HCM) sinh lợi, 20 phi cảng còn lại đều lỗ nặng. Lượng khách hàng năm của 20 phi cảng đó chỉ dao động trong khoảng từ 8% đến 37% so với qui mô đầu tư.

Tuy nhiên với sự ủng hộ… “không mệt mỏi” của chính phủ, Bộ GTVT vẫn hết sức… “kiên nhẫn”, không ngừng chỉnh sửa cho cái gọi là… “Quy hoạch tổng thể hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc cho giai đoạn từ 2021 – 2031 và định hướng đến năm 2050”. Kể cả sau khi Trà Nóc được biến thành… phi cảng quốc tế và sau đó, chính quyền thành phố Cần Thơ suýt thực hiện… sáng kiến… dùng công quỹ để… bù lỗ cho các hãng hàng không mở… đường bay đến Trà Nóc (7).

Bất kể thực tế là vốn (thuế, tiền vay cả ở trong lẫn ngoài Việt Nam, tiền lãi) rót vào hệ thống phi cảng không những không sinh lợi còn khiến nợ nần càng ngày càng lớn,… hệ thống công quyền Việt Nam từ trung ương (chính phủ với đại diện là Bộ GTVT) đến địa phương (chính quyền các tỉnh) vẫn… không tỉnh! Tuy “thi đua mở sân bay rồi thi đua bù lỗ” đã được đúc kết cách nay năm năm nhưng “Quy hoạch tổng thể hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc cho giai đoạn từ 2021 – 2031 và định hướng đến năm 2050 cứ lắng xuống mỗi khi công chúng sốt ruột rồi lại… trồi lên, trở thành cơ hội để chính quyền các tỉnh thi nhau… xin, còn chính phủ thì nhờ vậy mà có cơ hội… xem xét – phê duyệt!

Mới đây, ông Lê Văn Thành – một trong các Phó Thủ tướng – vừa họp với đại diện của “15 tỉnh, thành phố có nhu cầu nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới cảng hàng không” để “tìm các nhà đầu tư sân bay theo hình thức PPP” (hình thức đối tác công tư: chính quyền giao đất để nhà đầu tư thực hiện – quản lý – vận hành dự án) (8). Cũng vì vậy “Zombie… Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc” lại khuấy động dư luận. Ngay cả những cơ quan truyền thông vốn hết lòng ủng hộ mọi chủ trương, chính sách của hệ thống chính trị, hệ thống công quyền như Công An Nhân Dân cũng thấy cần phải mở miệng trước những sự kiện như Sơn La xin đầu tư hai phi cảng (9).

***

Tại sao hệ thống chính trị, hệ thống công quyền vẫn bất động, không đặt định được giải pháp khả thi nào để đưa giáo dục, y tế (vốn là phúc lợi công cộng, bảo đảm an sinh) ra khỏi khủng hoảng vì thiếu đủ thứ từ chủ trương đúng, chính sách hợp lý và khả thi đến nhân lực, hạ tầng, hay tìm cho ra cách thức giải quyết những bế tắc cố hữu trong lĩnh vực việc làm (vốn liên quan để cả kinh tế lẫn dân sinh),… ngoài những chỉ đạo quái gở bởi đã vô duyên còn vô trách nhiệm kiểu như: “Ai không làm thì đứng sang một bên cho người khác làm” (9)? Vì lẽ gì mà hệ thống chính trị, hệ thống công quyền lại trung thành với một số chủ trương, kế hoạch, dự án tới mức biến chúng thành… “Zombie” như đã biết và đang thấy? Ai, cái gì đang để nhiều thành viên từ nhiệm kỳ này sang nhiệm kỳ khác có thể vận hành các hệ thống như chỗ bảo trợ và dành hết tâm huyết cho… “Zombie”?

TỰU TRƯỜNG LÀ GÌ HẢ MẸ…?

Lmdc Viet Nam

 *** Những mảnh đời bất hạnh vì lỡ được sinh ra trong thiên đường CH XH CN CSVN

***

TỰU TRƯỜNG LÀ GÌ HẢ MẸ…?

Về đi con, nhà mình còn lon gạo

Về nhà đi, mẹ nấu cháo cho ăn

Nhà mình nghèo khó nhọc kiếm miếng ăn

Con mơ chi chuyện cung hằng sao hỏa.

Về đi con, cả đêm qua đói lả

Mà sáng nay còn tất tả đến trường

Không có tiền, đừng cầu cạnh tình thương

Không học phí thì ra đường mà đứng.

Về đi con, đừng rưng rưng nước mắt

Lòng mẹ đau như ai cắt con ơi

Bởi mẹ cha sinh ra “bất phùng thời”

Lại vô tâm sinh con, đời con khổ.

Về đi con, chữ nghĩa đều vô bổ

Con người ta hùng hổ được nhờ tiền

Người hơn người nhờ cơ cấu, ưu tiên

Học cho giỏi, quá hiền đành thất nghiệp.

Về đi con, lật sách cha đọc tiếp

Chữ nghĩa nhân trong số phận con người

Học yêu thương, học khóc lẫn học cười

Học chân thật giữa kiếp người lừa lọc…

NVQ.

FB Doan Quoc Bao 

 

Phóng Viên Không Biên Giới: CSVN độc ác, tàn bạo vô giới hạn

Phóng Viên Không Biên Giới: CSVN độc ác, tàn bạo vô giới hạn

September 13, 2022

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới (RSF) lên án nhà cầm quyền CSVN là “độc ác và tàn bạo vô giới hạn” về mặt nhân quyền.

Hôm Thứ Ba, 13 Tháng Chín, RSF chỉ trích bản án năm năm tù áp đặt lên đầu ông Lê Anh Hùng trong một phiên xử kín hồi cuối Tháng Tám vừa qua, bất chấp dư luận quốc tế.

Blogger Lê Anh Hùng trước khi bị bắt. Ông từng là cộng tác viên của Ban Việt Ngữ Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA Tiếng Việt). (Hình: Hội Anh Em Dân Chủ)

Nhà cầm quyền CSVN trước khi kết án tù đã nhốt ông trong bệnh viện tâm thần suốt bốn năm. Không những vậy, nhiều khi còn cột chặt người ông xuống một chiếc giường nan sắt từ ngày này sang ngày khác vì ông không chịu uống thuốc tâm thần. Ông cả quyết với họ là đầu óc ông tỉnh táo, bình thường chứ không bị tâm thần, hoang tưởng như họ gán ghép.

Nhà cầm quyền CSVN, cũng như Trung Quốc và Nga hiện nay vẫn có thói quen nhốt những người bất đồng chính kiến vào bệnh viện tâm thần để trả thù cho những phát biểu làm chế độ độc tài tức giận. Nhốt người vào bệnh viện tâm thần vốn có từ thời nước Nga còn là đế quốc Cộng Sản ở thế kỷ trước.

Tuy coi ông là kẻ tâm thần nhưng lại đem ra tòa kết án. Khi kết án ông năm năm tù ngày 30 Tháng Tám vừa qua, lại ngang nhiên xử kín dù lúc nào chế độ cũng thông báo là “phiên tòa xét xử công khai.” Trong trường hợp ông Lê Anh Hùng, bà mẹ ông chỉ biết được có phiên tòa xử khi bà gọi điện thoại cho công an hỏi thăm về trường hợp của ông.

RSF kêu gọi báo cáo viên đặc biệt của Liên Hiệp Quốc về tra tấn và các hình thức tàn ác khác “hành động để bảo đảm 38 nhà báo độc lập có thể sống còn trong các nhà tù CSVN.”

Khi ông Lê Anh Hùng bị bắt năm 2018, Hà Nội cũng bắt nhà báo độc lập Đỗ Công Đương. Ông cũng bị vu cho tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ…” với bản án bốn năm tù. Sức khỏe của ông xấu đi nhanh chóng và không được chữa trị khi bị giam tại nhà tù ở huyện miền núi Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, nên qua đời ngày 2 Tháng Tám, 2022.

Tại bản xếp hạng về tự do báo chí thế giới hằng năm, năm nay CSVN hạng 174 trên tổng số 180 nước được RSF thực hiện chấm điểm. Hà Nội luôn luôn nằm trong nhóm cuối bảng cùng với những nước Cộng Sản, độc tài hay quân phiệt, tôn giáo cuồng tín khác như Bắc Hàn, Trung Quốc, Cuba, Iran, Lào, Miến Điện…

Blogger Lê Anh Hùng bị trói cả người trên giường sắt ngày 16 Tháng Bảy, 2020, vì từ chối uống thuốc tại bệnh viện Tâm Thần Hà Nội. (Hình: Facebook Nguyễn Vũ Bình)

Ông Lê Anh Hùng là thành viên của hai tổ chức dân sự như Hội Anh Em Dân Chủ và Hội Nhà Báo Độc lập. Trước khi bị bắt, ông từng là cộng tác viên viết blog bình luận, phân tích các vấn đề thời sự chính trị tại Việt Nam.

Sự chỉ trích của ông hiển nhiên dẫn đến sự trả thù. Trong mấy năm liên tiếp, ông gửi hàng trăm đơn tố cáo ông Hoàng Trung Hải, ủy viên Bộ Chính Trị, có thời là phó thủ tướng, tội buôn lậu và làm gián điệp cho Trung Quốc.

Theo RSF, nhà cầm quyền CSVN lạm dụng hệ thống tư pháp để áp đặt các bản án nghiệt ngã nhằm trừ khử các nhà báo độc lập dùng mạng xã hội đả phá độc tài đảng trị. (TN) [qd]

Tại sao Việt Nam lại tệ như thế?

Tại sao Việt Nam lại tệ như thế?

14-9-2022

Cứ mỗi lần xem hình ảnh, hay tin tức về tổn thất kinh hoàng của quân đội Nga trong cuộc xâm lược Ukraine, tôi lại đặt ra câu hỏi: Vì đâu nên nỗi?

Cùng câu hỏi ấy, tôi cũng đặt ra khi xem tin tức về vụ 39 người Việt chết thê thảm trong thùng xe đông lạnh ở nước Anh.

Ký ức lại dắt tôi về câu chuyện mấy mươi năm về trước, khi tôi đi thăm hai người bạn ở Sofia, Bulgaria. Lúc ấy nước này đã không còn sự cai trị độc đảng của người cộng sản nữa. Đi giữa những phố phường cũ kỹ, rải rác những “di tích” bê tông xấu xí thời cộng sản (lăng Dimitrov chẳng hạn), Milene, bạn tôi cứ nhiếc móc thậm tệ người … Nga, những kẻ mà theo họ đã gây ra sự èo uột của nước Bulgaria mấy mươi năm.

Tôi bèn thử phản biện: Này, tôi thấy các bạn không công bằng, cái gây ra khổ nạn cho Bulgaria là chế độ cộng sản Soviet, chứ đâu phải người Nga. Họ cũng chịu nạn cộng sản như các bạn vậy? Tôi thấy người Nga họ cũng dễ mến mà!

Milene nhìn sững vào tôi: Họ có thể dễ mến, nhưng họ ngu ngốc quá, cứ để cho cái bọn độc tài nó đè đầu cưỡi cổ, từ Sa hoàng, cho đến Lenin, Stalin…

Tôi không bao giờ quên câu mắng nhiếc một dân tộc thậm tệ như thế của Milene. Cứ mỗi lần nhớ tới nó, tôi lại chột dạ: Không biết có ai nói dân Việt Nam cũng là những người dễ mến, nhưng ngu ngốc vì để bọn độc tài đè đầu cưỡi cổ không?!

Đã có nhiều tranh cãi vì sao người Việt lại “cam tâm” nằm dưới sự cai trị của đảng Cộng sản gần nửa thế kỷ như thế (đối với miền Bắc Việt Nam thì đã gần 70 năm), thậm chí là có cả một lý giải khá siêu hình là chuyện quả báo của người Việt, vì họ là thủ phạm tiêu diệt cả một nền văn minh Champa rực rỡ, gần như diệt chủng cả một giống nòi.

Người Việt thì không bị diệt chủng, mà họ ngày càng đông lên, nhưng lại không tạo được một cuộc sống xã hội bình thường như những người bình thường nghĩ đến.

Trước đây, nông dân nghèo từ những vùng “toàn cát” như Nghệ Tĩnh, Quảng Bình,… đổ vào các khu công nghiệp mới mở vùng Đông Nam Bộ để bán sức lao động rất rẻ của họ cho tư bản nước ngoài. Bây giờ thì đến cả nông dân vùng sông nước vang bóng một thời là miền Cửu Long, cũng đổ lên phố kiếm việc, để lại cả một vùng quê xơ xác.

Mà lên phố như vậy cũng có đổi đời được là mấy. Chỉ mấy mươi ngày cách ly chống dịch Covid hồi giữa năm 2021, đã làm cho cả triệu công nhân chạy nháo nhào vì… đói.

Học trò giỏi, sau khi được ra nước ngoài học hành, thì tìm cách ở lại, vì về nước để làm gì?

Mà đâu chỉ học trò giỏi, học trò không giỏi đi làm thuê ở nước ngoài (gọi cho sang là hợp tác lao động), cũng tìm cách ở lại.

Trước đây các em gái ít học vùng Cửu Long lớn lên thì theo mai mối đi lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc, nay có vẻ khuynh hướng này chuyển sang cả các em có học. Mới đây thành phố Mungyeong ở Hàn Quốc đề ra “chính sách” khuyến khích các nông dân già, ế vợ, lấy nữ du học sinh Việt Nam để gia tăng dân số.

Trên đây tôi chỉ liệt kê ra những gì liên quan tới vật chất, đo đếm được, chứ không bàn đến chuyện tinh thần. Chuyện này rất khó tranh cãi vì nó tùy thuộc vào quan điểm, quan niệm,… chẳng hạn như những ồn ào gần đây về cúng vong, giải hạn của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Đương nhiên đảng Cộng sản Việt Nam là người chịu trách nhiệm cho tất cả những sự khổ ải ấy của người dân Việt Nam, vì có ai khác ngoài họ cầm quyền đâu.

Tuy nhiên sẽ có một câu hỏi được đặt ra là tại sao họ (đảng Cộng sản Việt Nam) cầm quyền tệ hại như vậy mà không ai làm gì được họ cả?

Điểm lại những thay đổi triều đại ở Việt Nam từ khi có sử ghi chép đến nay, chúng ta không thấy có bất cứ triều đại nào bị dân chúng lật đổ cả, mà chỉ kết thúc bằng những cuộc xâm lăng từ bên ngoài, hoặc bằng những thanh toán cung đình, như từ triều Lý chuyển sang triều Trần, triều Trần chuyển sang triều Hồ, hay là cuộc nội chiến kéo dài Trịnh và Nguyễn, Tây Sơn và Nguyễn Ánh.

Tóm lại là không có … cách mạng!

Đó là mẫu số chung của nền văn minh Trung Hoa mà Việt Nam sống trong ảnh hưởng của nó cả ngàn năm.

Trong nền văn minh của những … quan phụ mẫu, dân chúng rất vâng lời, không phản kháng. Trước kia không phản kháng các vị tiên chỉ, thì nay cũng không phản kháng các vị bí thư chi bộ xã.

Chủ nghĩa cộng sản, một sản phẩm thất bại của nền văn minh Do Thái Ki Tô phương Tây đến với Trung Quốc, Tiều Tiên và Việt Nam trong bối cảnh “giải thực”, nên đã thắng thế. Tại miền đất mới, nó biến dạng và lai tạp với đám quan phụ mẫu phương Đông. Đứa con lai ấy chính là chế độ gọi là cộng sản ở Việt Nam.

Nó lai thêm lần nữa sau biến cố Đông Âu năm 1989, để biến thành kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dân chủ tập trung, trong đó vẫn còn các quan phụ mẫu, và vẫn còn đám dân chúng không bao giờ cãi cơ quan công quyền.

Cuộc đô hộ trăm năm của người Pháp, cuộc can thiệp chống cộng sản 20 năm của người Mỹ, tạo nên một nhóm người Việt có ý thức khác với các “quan phụ mẫu”. Nhưng nhóm này vẫn là một thiểu số rất ít trong xã hội Việt Nam. Với cái số ít đó, những ai muốn phản kháng thì phản kháng… bằng chân. Nói hoa mỹ là bỏ phiếu bằng chân.

Nhưng đừng tưởng bỏ phiếu bằng chân, sang đến “bến bờ tự do” rồi thì sẽ không còn các “tiên chỉ” nữa. Trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại cũng có đầy các “tiên chỉ”. Chỉ có điều là trong môi trường xã hội mới, sự “tinh tướng” của các “tiên chỉ” này bị giới hạn rất nhiều, vợ con họ không còn bị họ tác oai tác quái nhiều như khi còn ở cố hương.

Trở lại câu hỏi tại sao của tôi ở đầu bài, tôi không đủ kiến thức để trả lời chuyện người Nga cứ húc đầu vào chỗ tai ương (thời thế chiến thứ nhất, quân đội Nga bị các ký giả phương Tây gọi là cái cối xây thịt, vì họ chết rất nhiều).

Đối với Việt Nam thì thủ phạm cho cái chết của các cô gái Việt trong thùng xe đông lạnh ở Anh, hay cô du học sinh Việt nào đó lấy ông nông dân Hàn Quốc già (có gì khác nhau?), chính là các… “tiên chỉ”.

Có người sẽ không đồng ý với tôi mà hét lên rằng: Thủ phạm là cộng sản.

À vâng, cộng sản!

Giáo dục đơn nguyên và chuyện cô cháu gái

Giáo dục đơn nguyên và chuyện cô cháu gái

Nguyễn Ngọc Già

Bốn tin tức về giáo dục mới nhứt, như dưới đây:

1. Tỉnh Hưng Yên đang xác minh hàng trăm gia đình đồng loạt cho con nghỉ học [1]

2. Một thầy giáo dạy môn Ngữ Văn cấp III đã dùng thước và nón bảo hiểm đánh vào đầu học sinh [2].

3. Thầy giáo đâm chết đồng nghiệp tại căn tin nhà trường [3].

4. Khởi tố nữ sinh 16 tuổi đã lột đồ, hành hung và làm nhục bạn giữa đường [4]

càng khiến người dân hoang mang hơn bao giờ hết, khi toàn bộ học trò vừa khai giảng cho niên khóa mới 2022 – 2023.

Người dân không hiểu tại sao giáo dục gần nửa thế kỷ qua đi, với sự lãnh đạo của ĐCSVN, sáng suốt là như thế – trí tuệ là như vậy, bỗng ngày càng ghê rợn khủng khiếp như một xã hội vô chính phủ, khiến người dân bất an vô cùng!

Song song bốn tin trên, thêm 2 tin liên quan về giáo dục:

1. Hà Nội dự kiến chi 1.130 tỷ đồng hỗ trợ 50% học phí năm nay [5].

2. Nhà cầm quyền CSVN đang xem xét để kỷ luật ông Phùng Xuân Nhạ – nguyên là Bộ trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo – trong quãng thời gian ông ta chịu trách nhiệm về giáo dục toàn cõi xứ thiên đàng [6];

liệu số tiền hơn ngàn tỷ đó và việc kỷ luật cựu Bộ trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo sẽ thay đổi được gì (?).

Giáo dục phi triết lý – phản triết học

Thể chế chính trị nào sanh ra cơ chế giáo dục đó. Với thể chế đơn nguyên độc đảng tại Việt Nam, dĩ nhiên, giáo dục chắc chắn là một nền giáo dục đơn nguyên. Tính đơn nguyên đã loại bỏ tất cả những gì gọi là “sáng tạo” và “phong phú” trong việc dạy học, ngay từ những ngày trẻ chập chững bước vào lớp Một – lớp học vô cùng quan trọng cho tất cả trẻ em, để hình thành nhân cách và phẩm hạnh làm người.

Xứ thiên đàng với giáo dục XHCN, dù có đài thọ 100% học phí hay kỷ luật cấp cao nhứt trong giáo dục cũng không thể thay đổi gì cả là vậy. Bởi giáo dục XNCH không dạy “LÀM NGƯỜI” – trước khi cung cấp các môn học khác – ngay từ lớp thấp nhứt trong hệ thống giáo dục căn bản – vốn là điểm khởi đầu. Điều này có nghĩa, khi trẻ đã bước qua tuổi 15, vô cùng khó khăn để dạy về nhân cách. Cho nên – tới chương trình cấp Ba – những chương trình thuộc lãnh vực “giáo dục công dân” nhằm dạy và hình thành cho trẻ ý thức làm công dân – ngưỡng cửa của tuổi 18 – chứ không dạy về đạo đức nữa. Vì vậy, cho tới đại học, những bài giảng về đạo đức Hồ Chí Minh trở nên thừa thãi – nhàm chán và không hề có tác dụng gì, ngoài việc sinh viên buộc phải có đủ tín chỉ để ra trường.

Gần nửa thế kỷ đã trôi qua, tính từ 1975, nền giáo dục của nhà nước CHXHCNVN dường như không có lối thoát và con đường đi lên hay đi tới vẫn nằm đâu đó xa ngái và đầy chập chùng, hiểm nguy cùng với rủi ro đầy ắp, trên “con đường đến lớp” vốn được vẽ lên thật êm đềm và lãnh mạn, dành cho học trò – phụ huynh – thầy cô. Tuy vậy, “nền giáo dục XHCN” hoàn toàn logic, bởi chịu sự lãnh đạo của ĐCSVN mà cho tới nay vẫn loay hoay con đường tiến lên XHCN, lại không hề có một tia sáng le lói nào cho người Việt Nam, bất chấp “hết mưa là nắng hửng lên thôi” của ông Nguyễn Xuân Phúc – Chủ tịch nước CHXHCNVN – vừa phát ngôn trong lễ khai giảng năm học này [7].

Chuyện cô cháu gái

Bất chấp cải cách, bất chấp đầu tư giáo dục, bất chấp sự quan tâm của đảng và nhà nước, nền giáo dục XHCN chưa hề làm cho người dân an tâm trong hiện trạng xã hội đang đối diện với quá nhiều xáo trộn.

Người dân quèn và người dân nghèo buộc phải tự xoay xở, lo lắng cho tương lai có vẻ mờ mịt và vô định của con em mình. Dười đây là câu chuyện thật về cô cháu gái từ năm 2019.

Cô cháu gái lên 15, còn vài tháng nữa sẽ thi. Cô bé không chịu học nữa. Ba mẹ nó hỏi ý kiến tôi.

Lâu ngày, mới gặp cô bé. Tuổi 15, nó lớn phổng phao, ra dáng thiếu nữ với cặp giò dài, da ngăm ngăm – đúng “mốt” trẻ hiện nay. Cô bé cũng facebook như bao đứa trẻ khác. Nó thật sự sốc với hiện trạng học đường hiện nay, khi xem clip nữ sinh đánh nhau không thua đám đánh mướn.

Tôi khuyên nó:

– Còn vài tháng nữa thôi, con ráng học cho xong đi.

Nó lắc đầu quầy quậy và buông một câu nghe choáng váng:

– Tại bác hổng biết chớ! Bây giờ trong trường còn phức tạp hơn ngoài xã hội nữa!

Tôi trợn tròn mắt. Nó tiếp:

– Bác tưởng ngoài xã hội phức tạp hơn à? Không! Ở ngoài xã hội, người ta còn có quyền chọn bạn mà chơi. Trong trường mà hổng chịu chơi với mấy bạn “đầu gấu” là ăn đập liền!

Nghe mà đau điếng!

Tôi nói với ba mẹ nó:

– Nó đã nói vậy thì cũng nên cho nó nghỉ học đi.

Ba nó phân vân:

– Nhưng nhỏ quá! Nó nghỉ học rồi làm gì bây giờ, anh?

Tôi khuyên:

Hãy cho nó đi học nghề. Chọn những nghề nữ công gia chánh như: nấu ăn, làm bánh, cắm hoa, may vá hoặc học nail. Còn không cho nó học làm tóc, make-up, thiết kế thời trang.

Thời buổi này, đừng nghĩ đến mảnh bằng đại học nữa. Vô giá trị, vô dụng. Hãy nhìn các ông bà “giáo sư tiến sĩ” các loại mà coi! Và biết bao nhiêu sinh viên ra trường thất nghiệp, chạy grab và làm đủ thứ nghề mưu sinh. Bốn năm đại học, chỉ phí tiền. Quan trọng nhất là đứa trẻ sẽ chán ngán, bỏ nửa chừng càng nguy hiểm.

“Thời đại kỹ sư, bác sĩ” mà thế hệ chúng ta mong muốn đã quá lạc hậu rồi. Hơn nữa, cho nó học những nghề như nấu ăn, bartender, khi tốt nghiệp rất dễ kiếm việc, vì nhà hàng, khách sạn, resort bây giờ rất nhiều.

Nhưng học gì thì học, nhớ phải cho nó học tiếng Anh. Thế hệ tụi nhỏ mà không có tiếng Anh không được. Khi nó giỏi tiếng Anh và giỏi nghề càng có cơ hội làm việc nước ngoài, vì các quốc gia văn minh hiện nay họ rất coi trọng những nghề mang tính nghệ thuật. Tương lai của con bé là chỗ đó

Giáo dục bây giờ nát bấy! Đừng làm khổ xấp nhỏ nữa! Đây cũng là lời khuyên chân

thành của tôi đến các bậc phụ huynh.

N.N.G.

Nguồn: RFAvietnam

[1] https://thanhnien.vn/hung-yen-xac-minh-viec-hang-tram-gia-dinh-dong-loat-cho-con-em-nghi-hoc-post1498037.html

[2] https://thanhnien.vn/xon-xao-vu-viec-thay-giao-dung-thuoc-non-bao-hiem-danh-vao-dau-hoc-sinh-post1497991.html

[3] https://thanhnien.vn/tam-giu-hinh-su-thay-giao-day-the-duc-dam-dong-nghiep-tu-vong-tai-can-tin-cua-truong-post1497419.html

[4] https://tuoitre.vn/khoi-to-nu-sinh-16-tuoi-lam-nhuc-ban-giua-duong-20220907203728665.htm

[5] https://thanhnien.vn/ha-noi-du-kien-chi-1130-ti-dong-ho-tro-50-hoc-phi-nam-nay-post1498054.html

[6] https://congan.com.vn/tin-chinh/vi-pham-cua-nguyen-bo-truong-gddt-phung-xuan-nha-den-muc-phai-xem-xet-ky-luat_136650.html

[7] https://danviet.vn/chu-tich-nuoc-nguyen-xuan-phuc-gui-thu-nhan-dip-khai-giang-het-mua-la-nang-hung-len-thoi-20220904161746202.htm

Mũ Tai Bèo – STTD- Tưởng Năng Tiến

Mũ Tai Bèo – STTD- Tưởng Năng Tiến

Tôi đã trót có dăm ba lời về nón cốimũ cối, và dép râu nên (lỡ trớn) cũng xin được thưa luôn – đôi câu – về cái nón tai bèo.

 “Theo một tài liệu, chiếc mũ tai bèo đầu tiên xuất hiện ở một đơn vị võ trang ta trong đêm Đồng Khởi (17-1-1960) ở Bến Tre. Dần dần chiếc mũ vải mềm, màu xanh, vành tròn, có làn sóng giống như những cánh bèo trên sông nước, càng được đông đảo các chiến sĩ giải phóng quân sử dụng.

Đến những năm 1966-1967, chiếc mũ tai bèo “dễ thương như một bàn tay nhỏ”, với nhiều tiện lợi ở một xứ sở nhiệt đới nắng lắm mưa nhiều, trong hoàn cảnh chiến trận cần cơ động, gọn nhẹ, đã được đưa vào hành trang của anh bộ đội Giải phóng. Nó chính thức nằm trong trang phục của Quân giải phóng miền Nam. Và từ đó, chiếc mũ tai bèo cùng đôi dép cao su cũng hiện lên trong thơ, văn, nghệ thuật, gần gũi, giản dị mà đầy tự hào, cao vợi.” (Đàm Chu Văn. “Nhớ Chiếc Mũ Tai Bèo.” Đồng Nai Online 13.11.2019).

Trí nhớ của tác giả đoạn văn thượng dẫn e có vấn đề, chứ thực sự thì cái mũ bèo nhèo này chưa từng bao giờ được ca tụng (“tự hào, cao vợi”) như nón cối hay dép râu cả. Lý do dễ hiểu vì nó không thuộc về lực lượng chính quy mà chỉ là trang phục dành cho đám binh lính Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (M.T.G.P.M.N) thôi. Chả những thế, cái mặt trận này đã chết. Vì chút “nhậy cảm chính trị” (hay cũng có thể là do “tế nhị”) nên không mấy ai muốn nhắc nhở (xa gần) gì đến sợi giây thừng trong một căn nhà đã có người bị treo cổ!

Thảng hoặc, mới thấy một vị quan chức cấp địa phương có cố gắng “nâng cấp” cái mũ tai bèo nhưng nỗ lực này – xem ra – cũng chả đến đâu. Ký giả Đoàn Nguyễn (Sài Gòn Tiếp Thị Online) tường thuật:

“Tại một hồ nước trên cánh đồng thuộc xã Đại Cường (Đại Lộc, Quảng Nam) có một pho tượng cô du kích đầu đội mũ tai bèo, vai mang súng. Bức tượng khi xây có thể là thạch cao trắng, nhưng bây giờ, người ta thấy đã loang lổ nhiều mảng đen.

Trong hồ nước, nông dân làm chuồng nuôi vịt. Qua mấy ngày mưa lũ, đàn vịt không còn, chỉ còn lại cái chuồng xiêu vẹo tả tơi. Một bác nông dân vác cuốc đi ngang dừng lại góp chuyện: “Mấy tháng trước, hồ nước sạch sẽ lắm, không ai dám thả vịt, thả cá, nước trong vắt. Nhưng từ khi thay Phật bà bằng cô du kích thì ra như ri đây”. Phật Quan Âm? Tôi ngạc nhiên và nhìn kỹ thì thấy có điều lạ là cô du kích này đứng trên… toà sen.

Trước đó, tuy cô du kích chưa bao giờ có chỗ đứng “ngang hàng” với Phật Quan Âm nhưng cũng chiếm được vị trí tương đối khá trang trọng trong tranh ảnh cổ động và sách báo của nhà đương cuộc Hà Nội. Cùng với những thành viên của lực lượng Dân Công Hỏa Tuyến hay Thanh Niên Xung Phong, họ luôn được xưng tụng là những bông hoa nở giữa chiến trườngbông hoa trên tuyến lửahoa lan trong rừng cháy …  

Sau khi chiến trường đã ngưng tiếng súng thì mọi hy vọng về một cuộc sống an lành (“đôi chim bồ câu trắng hẹn nhau về làng xưa”) cũng đều biến thành ảo vọng. Những bông hoa từng nở trên tuyến lửa đều héo úa trong các “xóm không chồng” giữa thời bình. Họ trở thành những con số không tròn trĩnh: không chồng, không con, không nhà, và không chế độ!

Họ chỉ được hưởng trợ cấp mỗi một lần thôi nhưng rất tượng trưng, và cũng rất muộn màng. Quyết định 290/2005/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính Phủ – Về Chế Độ, Chính Sách Đối Với Một Số Đối Tượng Trực Tiếp Tham Gia Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước nhưng chưa được Hưởng Chính Sách Của Đảng và Nhà Nước – ký ngày 8 tháng 11 năm 2005, quy định như sau:

Dân quân tập trung ở miền Bắc từ ngày 27 tháng 01 năm 1973 trở về trước, du kích tập trung ở miền Nam (bao gồm cả lực lượng mật) từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 trở về trước do cấp có thẩm quyền quản lý đã về gia đình phải được hưởng trợ cấp một lần theo số năm thực tế tham gia dân quân, du kích tập trung, cứ mỗi năm được hưởng 400.000 đồng. Mức chi trả trợ cấp một lần thấp nhất bằng 800.000 đồng.

Những con số bạc bẽo và thảm hại này hoàn toàn tương phản với tâm tình chứa chan của những kẻ đã từng chiến đấu bên nhau, dù họ không hẳn đã là đồng đội cùng chung lực lượng hay đơn vị. Một cựu chiến binh tâm sự:

Sáng ngày 30-4-1975, sau khi Sư đoàn 10 (thuộc Quân đoàn 3) đánh chiếm xong một số mục tiêu đã định, ông Việt khi đó là Thượng sĩ, Tiểu đội trưởng Tiểu đội xe, thuộc Phòng hậu cần Sư đoàn 10, lái chiếc zeép (chiến lợi phẩm) có gắn máy thông tin 2W và rơ-moóc, đưa đồng chí Võ Khắc Phụng-Phó sư đoàn trưởng, Tham mưu trưởng Sư đoàn 10 cùng một số sĩ quan chỉ huy tổ chức đánh chiếm Bộ Tổng tham mưu ngụy.

Trên xe có một thiếu nữ độ 20 tuổi, gương mặt tươi sáng, đội mũ tai bèo, luôn luôn mang khẩu tiểu liên AK bên mình. Đó là nữ chiến sĩ biệt động Sài Gòn Nguyễn Thị Nết (biệt hiệu: Nguyễn Thị Trung Kiên, nguyên mẫu nhân vật Cô Nhíp trong bộ phim truyện cùng tên – bộ phim đầu tiên của điện ảnh miền Nam sau ngày giải phóng).

Theo sự dẫn đường thông minh, chủ động và linh hoạt của cô Nết, đội hình tấn công vừa vận động, vừa chiến đấu, vượt qua mọi trở ngại, thần tốc xốc tới…

Đã 40 năm trôi qua. Ông Việt và những người bạn chiến đấu ngày ấy … vẫn thường xuyên liên lạc, thông báo cho nhau chuyện vui, buồn. Những lúc như thế, các ông thường nhắc tới cô Nết, mong biết tin tức về người nữ biệt động xinh đẹp, gan dạ, mưu trí, dũng cảm và thông minh ấy… (Phạm Xưởng. “Cô Nhíp Đang Ở Đâu.” TIẾNG NÓI CỦA CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM – 01.06.2015).

Câu hỏi trên đã nhận được hồi đáp, qua một status ngắn của FB Văn Toàn, vào hôm 13 tháng 4 năm 2016:

Sáng ngày 29-4-1975, xe tăng của bộ đội Bắc Việt tiến vào cửa ngõ Sài Gòn theo hướng Tây bắc. Trên xe có một thiếu nữ độ 20 tuổi, gương mặt xinh đẹp, đội mũ tai bèo, luôn luôn mang khẩu tiểu liên AK bên mình dẫn đường cho bộ đội.

Đó là nữ chiến sĩ biệt động Sài Gòn Cao Thị Nhíp (tên hoạt động là Nguyễn Thị Trung Kiên,). Vốn thông thuộc đường xá, Cô Nhíp đã ngồi trên xe chỉ huy để hướng dẫn toàn đơn vị của Thiếu tá Bùi Quan Bùi Quang Đấng đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. Sau này, đạo diễn Nguyễn Trí Việt của Hãng phim Giải Phóng đã dựa vào hình tượng này để dựng thành bộ phim “Cô Nhíp” khá nổi tiếng. Hiện nay bà Nhíp đã sang định cư tại thành phố Garden Grove, Nam California, Hoa Kỳ từ lâu và mang quốc tịch Mỹ với tên họ khác…  

Bên dưới thông tin thượng dẫn có không ít những lời lẽ vô cùng cay nghiệt:

  • Tung Thu Tran: Bà nầy ăn cơm quốc gia thờ ma cs!
  • Hoang Nam: Mẹ kiếp sao bà không chết cho rồi?
  • Kim Oanh Tran: Loài ký sinh trùng dơ bẩn ai biết bà ta ở đâu làm ơn thông báo để đồng bào tránh xa
  • Anh Nguyen Hung: Bên thắng cuộc mà cũng đu càng à, LOÀI VÔ SỈ.
  • Quyền Toàn Lâm: Thiên đường ko ở qua đó làm j chòi.

Bà Nhíp không phải là người duy nhất đã rời khỏi Việt Nam, và đã thay tên cùng quố́c tịch. Hơn nửa thế kỷ qua đã có vài triệu người bỏ đi như thế, và dòng người này chưa bao giờ ngừng lại cả. T.S  Phương Mai gọi đây là cuộc “tị nạn niềm tin.”

Cũng như bao nhiêu kẻ khác, khi niềm tin đã mất, bà Nhíp có toàn quyền thay đổi chính kiến và đổi thay nơi cư trú để tìm đến một nơi có cuộc sống an toàn và khả kham hơn. Chỉ có điều đáng tiếc (và đáng nói) là số nạn nhân của những cái nón tai bèo thì quá nhiều mà kẻ may mắn, có cơ hội làm lại cuộc đời, lại quá hiếm hoi – và dường như chỉ có mỗi một thôi!

Tưởng Năng Tiến
9/2022 

Cô Thẩm Thuý Hằng

 Cô Thẩm Thuý Hằng

10-9-2022

Ảnh: Zing

Mấy hôm nay đọc tin tức thấy ngôi sao điện ảnh Thẩm Thuý Hằng, người từng một thời được mệnh danh là Người đẹp Bình Dương, vừa qua đời tại Sài Gòn, khiến cho tôi cảm động và bồi hồi nhớ lại vài kỷ niệm với gia đình cô.

Đúng hơn là những kỷ niệm với chồng cô, ông Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh và hai người con trai song sinh là Ái Quốc và Quốc Việt.

Đọc báo thấy ảnh các con trai của cô Thẩm Thuý Hằng và ông Nguyễn Xuân Oánh về dự tang lễ mẹ, tôi chợt giựt mình, mới đó đã gần 30 năm tôi không thấy hình ảnh của Ái Quốc và Quốc Việt.

Thời gian trôi nhanh như một cái chớp mắt. Đối với tôi, hơn một phần tư thế kỷ cứ chỉ như mới hôm qua, hôm kia. Thời gian như bị dừng lại kể từ ngày tôi rời khỏi quê hương.

Tôi có nhớ đã từng viết về ông Oánh nhưng đã lâu rồi. Phải mất khá lâu mới tìm lại được bài trên Facebook. Riêng một bài trên trang Dân Luận thì giờ không còn vết tích vì trang báo “phản động” này đã không còn sinh hoạt nữa.

Chia sẻ lại những kỷ niệm khó quên với gia đình cô Thẩm Thuý Hằng trong một bài viết từ năm 2016 như một lời tưởng nhớ và tri ân đến gia đình cô, đặc biệt bác Oánh, người đã gián tiếp biến giấc mơ của cuộc đời tôi thành hiện thực.

Cầu mong hương hồn cô Thẩm Thuý Hằng sớm siêu thoát về cõi vĩnh hằng.

***

Cố Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh

Lausanne, 5-12-2016

Tối nay soạn lại đống thư từ bên nhà gởi sang từ hơn 20 năm qua. Thư gia đình, thư tình, thư bạn bè… tất cả dường như đã nhạt màu theo năm tháng. Ít khi đọc lại vì có nhiều kỷ niệm buồn hơn vui. Bất chợt, trong đống thư ngổn ngang ấy, thấy thiệp chúc Tết của Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh (1921-2003). Đọc lại, nhớ đến những năm tháng bên nhà và cuộc gặp gỡ với ông đã trở thành một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời mình.

Ông Nguyễn Xuân Oánh (giữa). Ảnh tư liệu

Khi ấy tôi là sinh viên ĐHTH và chuẩn bị đi học bên Pháp. Tối đến tôi đi dạy thêm cho học sinh và tình cờ, em trai tôi, quen với cô Thẩm Thúy Hằng (qua những công việc từ thiện), giới thiệu tôi đến làm gia sư cho hai con trai của cô và ông Nguyễn Xuân Oánh. Hồ sơ xin đi Pháp bị kẹt cứng, dẫu đã có trường đại học nhận nhưng Lãnh sự Pháp từ chối không muốn cấp visa, bảo phải xin được passport thì họ mới cấp. Phía Việt Nam thì lại bảo khi nào có… visa của Pháp thì họ cấp hộ chiếu! Đã 3 năm chờ đợi cho đến khi gặp ông Oánh, ông biết chuyện nên hứa giúp. Dạo đó (1995) có Jacques Toubon là Bộ trưởng Bộ Văn hóa Pháp sang thăm Việt Nam, ông Oánh đã đi gặp và hỏi về vấn đề hồ sơ của tôi. Ngày hôm sau, Jacques Toubon nói với ông rằng hồ sơ bị kẹt vì gia đình tôi, chính xác hơn người bảo lãnh, có vấn đề chính trị với chính phủ Việt Nam!

Đi Pháp hoàn toàn bị bế tắc. Cậu tôi bên Thụy Sĩ đã làm giấy tờ lo cho đi học tại Lausanne. Cha mẹ tôi đã chạy bằng nhiều cách để mua cho bằng được cái hộ chiếu quí giá. Quá trình làm hồ sơ rất mau từ bên Thụy Sĩ. Tất cả cũng chính ông Nguyễn Xuân Oánh đã đưa tôi đi gặp ông Lãnh sự Thụy Sĩ để lo giấy tờ. Khi ấy ông bảo tôi: “Anh Nhiên ráng giúp cho mấy đứa con tôi thi đậu vào trường chuyên (từ lớp 5 sang lớp 6), việc xin giấy tờ với chính phủ Thụy Sĩ, tôi sẽ lo. Tôi có thể nói một tiếng với nhà trường thì hai đứa nhỏ cũng sẽ được nhận vào, nhưng tôi muốn tụi nó tự thi đậu!”. Tôi xem đó như một lời động viên nhưng đồng thời cũng là một yêu cầu chính đáng. Và chính tay ông Lãnh sự đã gởi hồ sơ của tôi về Berne để xin visa. Hai đứa nhỏ con ông, Ái Quốc và Quốc Việt, thi đậu vào trường chuyên (Colette), ông Oánh rất vui. Bộ Ngoại giao Thụy Sĩ cấp visa cho tôi và ông khuyên tôi nên đi ngay. Ông bảo, “với chính phủ này, chỉ khi nào anh lên máy bay và cất cánh khỏi Tân Sơn Nhất thì mới ổn!”. Tôi rời khỏi Việt Nam chỉ sau hai ngày nhận visa…

Ảnh: FB tác giả

Mất gần 5 năm tôi mới được đi học tại châu Âu. Nếu không có sự can thiệp và giúp đỡ của ông Oánh thì có lẽ tôi không thể nào ra đi. Và cũng buồn cười, dẫu bị làm khó, ngăn cản không cho xuất ngoại nhưng nếu biết đường chạy chọt thì cũng “xin” được hộ chiếu!

Dạy học cho con ông hơn một năm, tôi có đôi dịp trò chuyện và học hỏi nhiều từ một nhân vật trí thức quan trọng của đất nước, của cả hai chế độ. Ông bị nhiều người lên án, chê bai đã cộng tác với người cộng sản… Tôi chỉ có thể cho rằng, vượt lên mọi ý thức hệ chính trị, ông là một người yêu nước mãnh liệt. Ông thừa biết chế độ CS tệ hại và bạc nhược nhưng điều đó vẫn không ngăn cản ông ở lại, giúp và cố vấn cho chế độ trên lĩnh vực kinh tế.

Khi ông bệnh nặng, gần qua đời, cha mẹ tôi có đến thăm ông, gọi ông là “thầy” dẫu không học ông ngày nào (ông vốn là tiến sĩ người Việt đầu tiên tại Harvard, và giảng dạy tại đây). Ông vui lắm, dẫu đã rất yếu.

Giờ nhìn lại những dòng chữ ông viết, tự nhủ có những cuộc gặp gỡ thật định mệnh. Tôi thật may mắn khi luôn găp những người tốt trong những thời điểm tưởng chừng bế tắc trong cuộc đời. Những gì ông Oánh giúp tôi là vô giá. Không đơn thuần là một giấc mơ, mà là cả một bầu trời tự do đang chào đón. Như lời ông dặn khi chia tay: “Anh hãy cố gắng nhé! Thế giới tự do nhiều điều hay lắm!”.

Ông mỉm cười và xua tay bảo tôi về đi. Mới đó mà đã hơn 20 năm!

Post lại bài viết cách đây đã lâu về ông. Như lời tưởng niệm về một trí thức trong một giai đoạn bi thương của dân tộc.

***

Ếch ngồi đáy giếng

16-09-2007

Thấy ông Thủ tướng đảng cộng sản đang đi công du châu Âu. Tôi lại nhớ đến một câu nói, mà theo thiển ý của riêng mình, là bất hủ. Đó là vào giữa thập niên 90, ông tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh (cựu Phó thủ tướng kiêm Thống đốc ngân hàng Việt Nam Cộng Hòa), khi ấy là cố vấn kinh tế cho nguyên Thủ tướng cộng sản Võ Văn Kiệt, đã nói với người viết rằng: “Tôi dẫn họ đi để cho họ biết thế giới bên ngoài, chứ họ cứ như là con ếch ngồi đáy giếng!”.

Dạo đó, ông Nguyễn Xuân Oánh cũng đã dẫn một phái đoàn của chính phủ cộng sản, do ông thủ tướng Võ Văn Kiệt cầm đầu để đi thăm các nước Châu Âu. Nói là đi thăm chính thức nhưng mục đích cốt yếu là để xin tiền viện trợ, để hòng thay đổi chút ít hình ảnh của một Việt Nam nghèo nàn lạc hậu và độc tài. Đó cũng là những năm sau thời kỳ “Đổi mới” (1986), chính sách mà ông Nguyễn Xuân Oánh là một trong những người chủ chốt đã giúp nhà cầm quyền cộng sản soạn thảo (dưới thời ông cố Tổng bí thư đảng cộng sản Nguyễn Văn Linh).

Ông Oánh so sánh những người lãnh đạo đảng CSVN như những con ếch!

Con ếch ngồi đáy giếng ngày ấy, cứ tưởng mình là ông trời, là cái rốn của nhân loại trong cái giếng bé tí bé teo. Nhưng khi thấy mấy con ếch khác dần dần nhảy ra khỏi miệng giếng, chỉ để lại nó một mình thì lại bắt đầu cuống cuồng, tìm đường sống. Khổ thay, có ai dẫn dắt nó đi ra ngoài để tận mắt thấy rõ thế giới! Thành phần lãnh đạo thì quá kém cỏi, già cả, ít học làm sao mở miệng nói chuyện với người khác! Muốn xin tiền thì cũng phải biết nơi, biết chỗ có tiền để đi xin. Thế là ông cố tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh, một trong những trí thức có tiếng trên bình diện quốc tế, đã đảm nhận vai trò làm cầu nối cho chính quyền cộng sản với các nhà lãnh đạo châu Âu.

Là một trí thức của VNCH và chấp nhận làm cố vấn kinh tế cho những người cộng sản. Nhưng ông thừa hiểu rằng họ vẫn chỉ là những con ếch, chẳng biết gì về thế giới, về tự do. Họ chỉ nghĩ rằng chuyên chính vô sản là siêu việt, là đỉnh cao trí tuệ!

Tôi cũng còn nhớ hình ảnh ông cán bộ lão thành trong xóm, mấy chục năm tuổi đảng, có lẽ vì ngồi giếng quá lâu nên cứ nghĩ mình là số một. Đó là cái thời mà cộng sản Việt Nam cứ tối ngày gọi Trung cộng là “bọn bành trướng Bắc Kinh” từ trên truyền hình đến báo chí. Ông ta, có lẽ một hôm quá cao hứng, nên tuyên bố với lũ thanh niên chúng tôi là: “Bọn bành trướng mà láo lếu thì đánh bỏ m… chúng. Quân đội ta anh hùng, Mỹ còn đại bại huống chi bọn Tàu!”. Tội nghiệp cho ông ta là quân đội Việt Nam anh hùng của ông đã bị Tàu cộng đánh tơi tả, chiếm đất, chiếm núi… thế mà chính ông và toàn thể đồng bào của ông trong nước không hề hay biết! Và có lẽ đến giờ ông cán bộ cách mạng lão thành ấy vẫn đinh ninh tin rằng Đảng là sự chọn lựa tất yếu trong sứ mệnh lèo lái dân tộc đi đến “dân giàu, nước mạnh”. Đáng sợ thay con ếch ngồi đáy giếng hay cái chính sách ngu dân, bưng bít thông tin, và bộ máy tuyên truyền của đảng cộng sản!

Con ếch – những người lãnh đạo đảng CSVN – mặc dù sau đó đã nhảy ra được khỏi miệng giếng rồi, nhưng có lẽ nó vẫn còn ì ra, chai lì ra, dẫu biết rằng mình chẳng là gì trong cái thế giới rộng lớn kia. Thế giới mà nó khám phá thực tế lớn hơn nhiều so với cái khung trời nhỏ mà nó thấy qua đáy giếng. Ấy thế mà nó lại cứ quay về cái chốn cũ!

Ngày nay, cứ mỗi khi muốn cải thiện hình ảnh của mình, muốn làm ăn, buôn bán, xin xỏ với thế giới, hay thậm chí tìm kẻ bảo vệ mình thì những người cộng sản lại công du. Hết Chủ tịch nước, Tổng bí thư đảng lại đến Thủ tướng chính phủ cứ rầm rộ kéo phái đoàn đi. Lạ thay là đại đa số những nơi đặt chân đến đều là thế giới của tự do, của nhân quyền, thế nhưng họ vẫn cố tình “làm ngơ”. Như anh chàng vừa mù, vừa điếc lại vừa câm để không thấy rõ cái quyền căn bản của một xã hội văn minh, dân chủ!

Đấy chỉ là một sự cố tình vì họ thừa biết rằng chủ nghĩa cộng sản đã lỗi thời trên thế giới. Họ cũng biết rằng muốn sống và tồn tại thì phải làm ăn với “bọn tư bản hút máu, bóc lột”. Họ thừa hiểu thế nào là khái niệm dân chủ mà nhân loại đã vật lộn để vươn tới và ngày nay đã trở thành một giá trị không thể chối từ của một dân tộc tiến bộ. Hiểu nhưng không chấp nhận vì nếu chấp nhận là đồng nghĩa với việc sẽ phải đương đầu với bao sóng gió. Là sự đối mặt với bao tội ác mà họ gây ra cho dân tộc. Là bao sự thật sẽ bị vạch trần trước công luận, là sự chà đạp lên lòng yêu nước của bao thế hệ, là sự hèn nhát đối với tổ tiên đã dày công gìn giữ non sông, là một tòa án do nhân dân phán xét… Và kết quả mà không mấy khó khăn để tiên đoán là ngày tàn (nếu không tàn thì cũng hấp hối như đảng cộng sản Pháp) của bộ máy cầm quyền vì chẳng có người dân nào còn tin tưởng để bỏ lá phiếu cho họ trong một xã hội dân chủ, đa đảng.

Thế nên con ếch ngày nào dẫu đã có dịp nhảy ra khỏi giếng, chu du thiên hạ, “đi một ngày đàng, học một sàng khôn… vặt” nhưng rồi vẫn quay về cái giếng cũ. Bây giờ, họ đã học ăn, học nói đôi chút nhờ vào thế hệ “trí thức” mà đảng gởi đi đào tạo tại các trường đại học nổi tiếng trên thế giới. Học cái mới chỉ để hòng củng cố sự cầm quyền của đảng. Phải “đổi mới, hội nhập với thế giới” cũng chỉ để tồn tại và đánh lạc hướng dư luận “thơ ngây” trong và ngoài nước.

Ông Oánh đã mãi mãi ra đi, và con ếch mà ông nói đến vẫn còn đó!

Thế mới biết, ngày nào con ếch cộng sản vẫn còn ngồi đáy giếng thì ngày ấy vẫn còn là đại họa cho dân tộc Việt!