Dại gì đa đảng?” – Đỗ Ngà

Báo Tiếng Dân

Đỗ Ngà

Theo báo Vnexpress bản tin Tiếng Anh thì người Việt đầu tư mua nhà ở Mỹ vẫn tăng đều, bất chấp dịch Covid-19 trong những năm qua. Hầu hết thành phần chủ doanh nghiệp đều bị tơi tả mùa dịch nhưng người Việt vẫn cứ mua nhà mở Mỹ tăng lên, điều đó cho thấy thành phần trục lợi dựa trên thảm họa dịch bệnh đang tuồn mạnh tiền ra nước ngoài để mua nhà. Thành phần đó là ai?

Có 2 vụ án liên quan đến trục lợi dựa trên dịch Covid trong những năm qua, đó là vụ án Việt Á với khoản tiền trục lợi thống kê được là 4000 tỷ đồng, và vụ án chuyến bay giải cứu cũng trục lợi người dân Việt Nam đang mắc kẹt ở nước ngoài, cũng với con số tương tự. Đấy là phần nổi của tảng băng, phần chìm là ẩn số không ai có thể thống kê nổi.

Có một thống kê khá thú vị là, mỗi năm, số tiền mà người Việt mang sang Mỹ mua nhà tương đương với kiều hối do người lao động của Việt Nam ở nước ngoài, khoảng từ 3 – 4 tỷ đô la. Mà phần lớn lao động Việt ở nước ngoài là culi trong khi phần nhiều quan chức Đảng Cộng sản Việt Nam trục lợi được là tẩu tán tiền ra nước ngoài bằng cách mua nhà và cho con cái du học Âu – Mỹ. Đây là bức tranh khá thú vị, nó cho thấy culi Việt Nam ra nước ngoài kiếm đô gởi về cho các quan chức mua nhà ngoại, mua giáo dục ngoại cho con cái mình.

Trước đây người Mỹ gốc Việt có nguồn gốc VNCH là chủ yếu, tuy nhiên, càng về sau, tỷ lệ người Việt gốc Cộng Sản ngày một tăng. Hầu hết thành phần này rất giàu có bởi họ kiếm tiền bằng cách móc túi hàng triệu dân Việt để sang Mỹ tiêu xài, trong khi người Mỹ gốc VNCH phải “cày cuốc” vất vả mới có tiền.

Năm 2021, kiều hối đổ về nước 18,1 tỷ đô la. Mức tăng kiều hối hằng năm khoảng 10,1% (cao hơn mức tăng GDP Việt Nam), tuy nhiên do khủng hoảng kinh tế nên dự đoán kiều hối năm nay chỉ tăng khoảng 5%. Theo dự đoán này thì kiều hối năm nay sẽ là khoảng 19 tỷ đô la.

Có thể nói đây là khoản đầu tư sinh lời nhất của Việt Nam, bởi cả nền kinh tế Việt Nam chỉ có thể mang về khoảng 12 tỷ đô la (ước tính) do hoạt động buôn bán với thế giới, trong đó FDI kiếm về cho Việt Nam con số khoảng 36 tỷ đô la (ước tính), trong khi đó khối nội thì làm chảy mất 24 tỷ đô la (ước tính).

Tốc độ tăng trưởng kiều hối năm nay giảm. Nền kinh tế Việt Nam đang đi vào tâm bão với thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán đang khốn đốn. Dự báo nền kinh tế năm 2023 sẽ không gì làm khả quan lắm vì hàng loạt đại gia bất động sản như Đỗ Anh Dũng, Trịnh Văn Quyết và Trương Mỹ Lan chưa bị khui, vì nếu khui ra nền kinh tế có thể sẽ không trụ nổi. Tuy nhiên, không khui thì sâu mọt vẫn cứ ký sinh trong thân thể nền kinh tế và tiếp tục đục khoét. Năm sau là một năm không mấy hứa hẹn.

Ngày 10 tháng 12, khi đang thăm chính thức Luxembourg, ông Phạm Minh Chính đã đã gởi thông điệp với kiều bào trên khắp thế giới rằng “Đóng góp cho đất nước từ xa cũng là yêu nước”. Đóng góp từ xa là đóng góp bằng gì nếu không phải là kiều hối? Mỗi năm kiều hối tăng đều, lượng kiều hối cao hơn tổng kim ngạch xuất nhập khẩu thì xem ra dụ kiều bào kiếm tiền dễ hơn là ra chính sách thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh.

Như vậy, nền kinh tế có sao đi nữa thì thành phần có quyền vẫn cứ đầy túi, dù kinh tế có sao đi nữa thì người Việt (kể cả Việt kiều và người Việt đang lao động nước ngoài) cũng phải kiếm tiền gởi về nuôi Cộng Sản ngày một nhiều hơn. Làm đảng độc quyền cai trị sướng thế thì “dại gì đa đảng” kia chứ?

_______

Tham khảohttps://www.vietnamplus.vn/infographics-kieu-hoi-ve-viet-nam-du-kien-lap-ky-luc-181-ty-usd/760799.vnp

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Vàng & phân

Báo Nguoi-Viêt

(Hình minh họa: Hoàng Ðình Nam/AFP/Getty Images)

Nếu bạn để chính phủ (Cộng Sản) điều hành sa mạc Sahara, trong 5 năm chúng ta sẽ thiếu cát. – Milton Friedman

Bắt đầu từ thế kỷ 12, người Nhật “phát minh” ra một nghi thức tự tử (hara-kiri) mà ai ngó thấy cũng phải hết hồn. Họ đâm dao vào bụng trái, rồi rạch qua phải, xong thốc ngược mũi lên phần ngực. Chết là cái chắc!

Bởi vậy mới có thành ngữ “gan như Nhật.” Qua đến đầu thế kỷ 21, nhân loại mới được nghe nói tới một trường hợp tự tử cũng bằng dao nhưng ghê rợn hơn nhiều – theo bản tin (“Một Phụ Nữ Chết Ở Trụ Sở Công An Với Nhiều Vết Ðâm”) của báo Dân Trí:

“Ngày 13 Tháng Tư, công an thị trấn Long Hải tiếp nhận thông tin từ một gia đình ngụ trong thị trấn về việc bị mất trộm tài sản. Qua camera an ninh, chủ nhà nghi ngờ chị T. là người trộm tiền. Ðầu giờ chiều cùng ngày, công an thị trấn Long Hải đã mời chị T. đến trụ sở làm việc. Sau hơn hai giờ làm việc, công an cho gia đình bảo lãnh chị ra về.

Khoảng 30 phút sau chị T. quay lại trụ sở công an thị trấn Long Hải. Khi cán bộ công an thị trấn Long Hải đi ra khu vực phía sau thì phát hiện chị T. nằm dưới đất với con dao còn trên ngực. Chị T. được đưa đi cấp cứu nhưng đã tử vong. Qua khám nghiệm tử thi, trên người chị T. có 12 vết đâm.”

Ngay cả giới hiệp sĩ đạo Nhật mà đọc bản tin dẫn thượng (chắc) cũng sợ teo chim. Sao lại có một phụ nữ Việt Nam gan dạ tới cỡ đó, hả Trời. Dám quyên sinh bằng một cái dao… rất cùn nên phải tự đâm vào mình tới 12 lần lận!

Sự can đảm quá cỡ thợ mộc của chị T. khiến cho blogger Hải Âu nghi ngại, và xem đây là một “chuyện quá hoang đường!” Thực ra, gần đây, có nhiều vụ tự tử còn “hoang đường” hơn nữa:

-Ngày 9 Tháng Hai, ông Nguyễn Thành Ngôn treo cổ bằng dây giầy tại đồn công an Yên Thành, Nghệ An.

-Ngày 3 Tháng Năm, ông Nguyễn Hữu Tấn dùng dao cắt cổ đứt lìa tại đồn công an Bình Minh, Vĩnh Long.

-Ngày 14 Tháng Sáu, ông Ngô Chí Tâm thắt cổ bằng dây thun quần tại đồn công an Thủ Ðức, Sài Gòn.

-Ngày 7 Tháng Bảy, ông Nguyễn Hồng Ðê thắt cổ bằng áo dài tay tại đồn công an Ninh Hải, Phan Rang.

Cùng với những phương cách quyên sinh hoang đường kể trên, người Việt còn có nhiều kiểu hy sinh rất lạ mắt và khó tin không kém:

-Ngày 12 Tháng Mười Hai, 1953, ông Bế Văn Ðàn hy sinh lấy vai làm giá súng.

-Ngày 1 Tháng Hai, 1954, ông Tô Vĩnh Diện hy sinh lấy thân chèn pháo.

-Ngày 13 Tháng Ba, 1954, ông Phan Ðình Giót hy sinh lấy thân mình lấp lỗ châu mai.

Ðó là chưa kể đến nhiều đợt hy sinh ở bình diện tập thể, chưa từng xảy ra ở một quốc gia nào khác – ngoài Việt Nam:

Sau cuộc Cải Cách Ruộng Ðất (1953-1956) tại miền Bắc, toàn thể nông dân ở đây đã “tự nguyện” mang hết đồng ruộng giao nộp lại cho nhà nước (bằng cách gia nhập hợp tác xã) để chính phủ thực hiện chính sách… đất đai là của toàn dân.

Trong cuộc Cải Tạo Công Thương Nghiệp, kéo dài nhiều đợt, ở miền Nam, không ít người dân ở vùng đất này cũng đã “tự nguyện” mang hết tài sản (nhà, xe, cơ sở thương mại) cho nhà nước dưới hình thức hiến tặng.

Ngoài ruộng đất, xe cộ, nhà cửa, cơ sở làm ăn…, đã có lúc dân Việt còn mang luôn vàng cho (không) chính quyền cách mạng nữa kìa. Ký giả Trà Phương, báo mạng VNExpress, số ra ngày 13 Tháng Mười, 2010, có bài tường thuật, kèm hình ảnh (ngó) vô cùng cảm động:

“Sau khi giành độc lập, đất nước gặp nhiều khó khăn về tài chính, ngày 4 Tháng Chín, 1945, Bác Hồ đã phát động Tuần Lễ Vàng kêu gọi mọi người ủng hộ ngân sách quốc gia. Trong tuần lễ này, giới công thương có đóng góp nhiều nhất.”

Dù với đủ kiểu và đủ cách hy sinh của người dân (về tính mạng cũng như tài sản) ròng rã hơn 70 năm qua, Nhà Nước Cách Mạng Việt Nam – xem ra – vẫn nhất định không chịu phát triển. Quốc khố vẫn cứ trống trơn, cũng y như lúc vừa cướp được chính quyền, và nợ công thì đang chồng chất.

Theo TTXVN, đây là vấn đề đã được Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu lên lên trong hội nghị tổng kết ngành tài chính vào ngày 6 Tháng Giêng: “Nợ công trong năm năm qua tăng trung bình gấp ba lần tốc độ tăng trưởng… tốc độ tăng chi thường xuyên cao… thu ngân sách không đủ chi thường xuyên và trả nợ… nếu không chấm dứt tình trạng này, sự sụp đổ nền tài khóa quốc gia không thể tránh khỏi… Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc đề nghị các cơ quan chức năng phải có cải cách đột phá trong tư duy ngân sách…”

Khuynh hướng tư duy “đột phá” đang được nhắc đến nhiều nhất là… huy động nguồn lực vàng trong dân! Nói nào ngay thì kiểu “tư duy” này cũng gần giống như chuyện bác Hồ phát động “tuần lễ vàng” hồi năm 1945 thôi, chớ cũng không được “đột phá” gì cho lắm.

Cái gì chớ vàng thì hiện nay người dân không thiếu, và còn có nhiều hơn hồi trước nữa kìa (đó là chưa kể đô la) nhưng e là họ thiếu niềm tin vào cái nhà nước hiện hành. Liên quan đến vấn đề huy động vàng trong dân, trong cuộc phỏng vấn do báo Dân Trí thực hiện, Tiến Sĩ Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính-ngân hàng, góp ý: “Hiện nay, chưa có thống kê rằng, loại vàng nào trong dân là nhiều, vàng miếng, vàng trang sức, nữ trang, để đưa ra lời khuyên cho các nhà hoạch định chính sách và giúp người dân hiểu được chủ trương. Tôi cho rằng, nếu chúng ta làm tốt chủ trương này, thì đây là cơ hội lớn để phát triển đất nước, gia tăng tài sản cho Ngân Hàng Nhà Nước, đồng thời, nó cũng là cơ hội kinh doanh, kiếm lời cho người dân.”

Ông nội tiến sĩ này không biết từ hang hóc nào mới chui ra, hay chắc mới từ… trên trời rớt xuống nên không biết những chuyện cười (ra nước mắt) như sau, ở nước CHXHCNVN:

-Báo Một Thế Giới, 2 Tháng Tư, 2015: “Gửi tiết kiệm một chỉ vàng nhận lại một ổ bánh mì thịt”

-Báo Kiến Thức, 9 Tháng Ba, 2015: “Gửi tiết kiệm 20 năm mua được… 3 kg thịt”

-Báo Tuổi Trẻ, 10 Tháng Ba, 2015: “Gửi tiết kiệm 20 năm, một căn hộ còn ba tô phở”

-Ðài SBTN, 16 Tháng Năm, 2015: “Vietcombank khóa tài khoản nhà hoạt động theo lệnh công an”

-Báo Thanh Niên, 25 Tháng Tám, 2016: “Tiền ở ngân hàng lại ‘bốc hơi’ hàng loạt”

-Báo Ðiện Tử Ðài Tiếng Nói Việt Nam, 10 Tháng Năm, 2017: “Lào Cai: Hàng chục tỷ gửi tiết kiệm ‘bốc hơi’ chỉ còn 1 triệu đồng“

Dân Việt không ít kẻ đã gửi gắm niềm tin vào đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh và đang nhận lại nguyên một băng trộm cướp. Tuy thế, báo Dân Trí, số ra ngày 16 Tháng Bảy, lại vừa có bản tin (“Bộ Tài Chính Ðôn Ðốc Trả Nợ Tiền Vay Dân Sau Hai Cuộc Khảng Chiến”) đọc mà muốn trào nước mắt luôn: “Ðó là những khoản mà người cho vay và cơ quan nhận vay đều ý thức rằng sẽ được trả và phải hoàn trả. Cụ thể những khoản vay được nhà nước đảm bảo trả là những khoản: Công phiếu kháng chiến, phát hành trong các năm 1948, 1949, 1950, 1951, 1952; Công trái quốc gia, phát hành năm 1951; Công trái Nam Bộ, phát hành năm 1947, 1958; Công phiếu nuôi quân phát hành năm 1964 và những khoản vay khác (tiền hoặc lương thực) do các cơ quan chính quyền từ cấp huyện trở lên vay theo lệnh của cấp trên để mua sắm vũ khí, nuôi quân đánh giặc…”

Thiếu gì nhớ đấy: Pháp trị và ngoại lệ – Seppuku và danh dự

Nguyễn Ngọc Chu

9-12-2022

SEPPUKU VÀ DANH DỰ

Ngày 9/8/1945, Mỹ ném quả bom nguyên tử thứ hai xuống Nagasaki, Liên Xô đơn phương tuyên bố huỷ bỏ hiệp ước không tấn công lẫn nhau với Nhật, đưa hơn 1,5 triệu quân vượt biên giới tiến đánh một triệu quân Quan Đông Nhật Bản. 3 giờ sáng ngày 10/8/1945, Chính phủ Nhật gửi cho Mỹ, Anh, Liên Xô và Trung Quốc bản đề nghị đầu hàng vô điều kiện. Sau đó, Bộ trưởng Bộ quốc phòng Nhật Bản tự sát theo nghi lễ Seppuku.

Seppuku (tiếng Nhật: 切腹, Hán Việt: thiết phúc) có nghĩa là “mổ bụng”, là nghi thức tuẫn tiết mà người Nhật dùng để bảo vệ danh dự. Theo nghi thức này, một samurai sẽ tự mổ bụng mình nếu bị thất trận, thất hứa, hay không muốn bị nhục…

Không còn mấy ai tuân theo Seppuku vào thời đại kỹ thuật số này. Không ai yêu cầu giữ lời hứa bằng nghi thức Seppuku. Nhưng không có Seppuku không có nghĩa là không cần giữ danh dự, không cần giữ lời hứa.

Bởi coi nhẹ danh dự, nên mấy thập niên gần đây, đạo đức xã hội đang đi xuống, tinh thần kẻ sĩ quý tộc bị mối mọt sùng hà, lời hứa chẳng những không được giữ, mà sự dối trá lại gia tăng. Dối trá và thất hứa như những đợt lũ vô hồi ập tràn qua xã hội.

Dối trá không chỉ ở tầng lớp thiếu ăn, phải trộm gà cắp bánh mì, mà ở kẻ giàu vạn lạng vàng, cướp đoạt đất đai và tiền bạc qua dự án và trái phiếu. Dối trá không chỉ ở tầng lớp tiểu thương ngồi chợ, bất chấp người mua phải chịu hậu quả về hàng kém chất lượng, độc hại, mà còn lan sang cả thầy thuốc, nghệ sĩ rao bán thuốc giả, mặc thây con bệnh nan y đợi chờ sự diệu kỳ từ đống thuốc vô dụng. Dối trá không chỉ kẻ thiếu học đầu đường, mà còn ở tầng lớp giáo sư tiến sỹ vì tiền mà nhận bừa sáng chế phát minh về mình.

PHÁP TRỊ VÀ NGOẠI LỆ

Nhưng tất cả sự dối trá ở các giai tầng nêu trên, đều có nguồn gốc sâu xa không từ ở hạ tầng cơ sở mà từ thượng tầng kiến trúc. Thượng bất chính, hạ tất loạn. Khi thầy dối thì trò tất dối. Khi quan gian thì dân phải đối phó bằng sự không thật. Thượng tầng kiến trúc dối trá thì toàn xã hội dối trá.

Giá mà những người có địa vị cao biết giữ danh dự, biết giữ lời hứa, thì đã không nhiều quan chức phải ngồi tù, đã không có nhiều lời hứa suông với những con số viển vông. Không thể chống sự dối trá bằng đức trị, mà phải ngăn cản sự dối trá bằng pháp trị. Chỉ có thể dùng pháp luật mới chống lại được sự dối trá. Trước hết là pháp trị thượng tầng kiến trúc.

Đã pháp trị thì không ai có thể ở ngoài vòng pháp luật, hay đứng trên pháp luật. Nhưng ở nước ta lại có trường hợp đặc biệt. Pháp trị và ngoại lệ loại trừ nhau. Đã có trường hợp đặc biệt thì không có pháp trị.

Muốn xây dựng một nhà nước pháp quyền thì không có trường hợp đặc biệt.

N.N.C.

From: Bauxite VietNam

HỊCH TƯỚNG SĨ thế kỷ 21

Thiên Đức

HỊCH TƯỚNG SĨ thế kỷ 21.

Sách văn học không cần dầy, in bài này là đủ!

***

Ta cùng các ngươi

Sinh ra phải thời bao cấp

Lớn lên gặp buổi thị trường.

Trông thấy:

Mỹ phóng Con thoi lên vũ trụ chín tầng

Nga lặn tàu ngầm xuống đại dương nghìn thước

Nhật đưa rô bốt na nô vào thám hiểm lòng người

Scôtlen dùng công nghệ gen chế ra cừu nhân tạo.

Thật khác nào:

Đem cổ tích mà biến thành hiện thực

Dùng đầu óc con người mà thay đổi thiên nhiên!

Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa

Chỉ giận chưa thể đuổi kịp nước Nga, vượt qua nước Mỹ, mà vẫn chỉ hơn Lào, hao hao Băng la đét.

Dẫu cho trăm thân này phơi trên sao Hỏa, nghìn xác này bọc trong tàu ngầm nguyên tử, ta cũng cam lòng.

Các ngươi ở cùng ta,

Học vị đã cao, học hàm không thấp

Ăn thì chọn cá nước, chim trời

Mặc thì lựa May Mười, Việt Tiến

Chức nhỏ thì ta… quy hoạch

Lương ít thì có lộc nhiều.

Đi bộ A tít, Cam ry

Hàng không Elai, Xi pic.

Vào hội thảo thì cùng nhau tranh luận

Lúc tiệc tùng thì cùng nhau “dô dô”.

Lại còn đãi sỹ chiêu hiền

Giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ, cử nhân, ai cũng có phần, không nhiều thì ít.

Lại còn chính sách khuyến khoa

Doanh nghiệp, giáo viên, trí thức, nông dân nhận cúp, nhận bằng còn thêm tiền thưởng.

Thật là so với:

Thời Tam quốc bên Tàu, Lưu Bị đãi Khổng Minh,

Buổi hiện đại bên Nga, Pu tin dùng Mét vê đép,

Ta nào có kém gì?

Thế mà, nay các ngươi:

Nhìn khoa học chậm tiến mà không biết lo

Thấy công nghệ thụt lùi mà không biết thẹn

Giáo sư ư? Biết “Thần đèn” chuyển nhà mà chẳng chạnh lòng

Tiến sỹ a? Nghe “Hai lúa” chế tạo máy bay sao không tự ái?

Có người lấy nhậu nhẹt làm vui

Có kẻ lấy bạc cờ làm thích

Ham mát xa giống nghiện “u ét đê”

Ghét ngoại ngữ như chán phòng thí nghiệm

Chỉ lo kiếm dự án để mánh mánh mung mung

Không thích chọn đề tài mà nghiên nghiên cứu cứu

Ra nước ngoài toàn muốn đi chơi

Vào hội thảo chỉ lo ngủ gật

Bệnh háo danh lây tựa vi rút com pu tơ

Dịch thành tích nhiễm như cúm gà H5N1

Mua bằng giả để tiến sỹ, tiến sy

Đạo văn người mà giáo sư, giáo sãi.

Thử hỏi học hành như rứa, bằng cấp như rứa, thì mần răng hiểu được chuyện na niếc na nô?

Lại còn nhân cách đến vậy, đạo đức đến vậy, thì có ham gì bút bút nghiên nghiên.

Cho nên:

“Tạp chí hay” mà bán chẳng ai mua

“Công nghệ tốt” mà không người áp dụng.

Đề tài đóng gáy cứng, chữ vàng, mọt kêu trong tủ sắt

Mô hình xây tường gạch, biển xanh, chó ị giữa đồng hoang.

Hội nhập chi, mà ngoại ngữ khi điếc, khi câm?

Toàn cầu chi, mà kiến thức khi mờ, khi tỏ?

Hiện đại hóa ư? vẫn bám đít con trâu

Công nghiệp hóa ư? toàn bán thô khoáng sản

Biển bạc ở đâu, để Vi na shin nổi nổi chìm chìm?

Rừng vàng ở đâu, khi bô xít đen đen đỏ đỏ?

Thật là:

“Dân gần trăm triệu ai người lớn

Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con”!

Nay nước ta:

Đổi mới đã lâu, hội nhập đã sâu

Nội lực cũng nhiều, đầu tư cũng mạnh

Khu vực có hòa bình, nước ta càng ổn định

Nhân tâm giàu nhiệt huyết, pháp luật rộng hành lang

Thách thức không ít, nhưng cơ hội là vàng!

Chỉ e:

Bệnh háo danh không mua nổi trí khôn

Dịch thành tích chẳng làm nên thương hiệu.

Giỏi mánh mung không lừa nổi đối tác nước ngoài

Tài cờ bạc không địch nổi hắc cơ quốc tế.

Cặp chân dài mà nghiêng ngả giáo sư

Phong bì mỏng cũng đảo điên tiến sỹ.

Hỡi ôi,

Biển bạc rừng vàng, mà nghìn năm vẫn mang ách đói nghèo

Tài giỏi thông minh, mà vạn kiếp chưa thoát vòng lạc hậu.

Nay ta bảo thật các ngươi:

Nên lấy việc đặt mồi lửa dưới ngòi pháo làm nguy;

Nên lấy điều để nghìn cân treo sợi tóc làm sợ

Phải xem đói nghèo là nỗi nhục quốc gia

Phải lấy lạc hậu là nỗi đau thời đại

Mà lo học tập chuyên môn

Mà lo luyện rèn nhân cách

Xê mi na khách đến như mưa

Vào thư viện người đông như hội

Già mẫu mực phanh thây Gan ruột, Tôn Thất Tùng chắc cả trung đoàn

Trẻ xông pha mổ thịt Bổ đề, Ngô Bảo Châu cũng dăm đại đội

Được thế thì:

Kiếm giải “Phiu” cũng chẳng khó gì

Đoạt Nô ben không là chuyện lạ

Không chỉ các ngươi mở mặt mở mày, lên Lơ xút, xuống Rôn roi

Mà dân ta cũng hưng sản, hưng tâm, vào Vi la, ra Rì sọt.

Chẳng những tông miếu ta được hương khói nghìn thu

Mà tổ tiên các ngươi cũng được bốn mùa thờ cúng,

Chẳng những thân ta kiếp này thỏa chí,

Mà đến các ngươi, trăm đời sau còn để tiếng thơm.

Chẳng những tên tuổi ta không hề mai một,

Mà thương hiệu các ngươi cũng sử sách lưu truyền.

Trí tuệ Việt Nam thành danh, thành tiếng

Đất nước Việt Nam hóa hổ, hóa rồng

Lúc bấy giờ các ngươi không muốn nhận huân chương, phỏng có được không?

Nay ta chọn lọc tinh hoa bốn biển năm châu hợp thành một tuyển, gọi là Chiến lược

Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này theo lời ta dạy bảo thì suốt đời là nhà khoa học chính danh.

Nhược bằng không tu thân tích trí, trái lời ta khuyên răn thì muôn kiếp là phường phàm phu tục tử.

Vì:

Lạc hậu, đói nghèo với ta là kẻ thù không đội trời chung

Mà các ngươi cứ điềm nhiên không muốn trừ hung, không lo rửa nhục

Chẳng khác nào quay mũi giáo mà đầu hàng, giơ tay không mà thua giặc.

Nếu vậy rồi đây khi nước Việt hóa hổ, hóa rồng, ta cùng các ngươi há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất này nữa?

Cho nên mới thảo hịch này

Xa gần nghiên cứu

Trên dưới đều theo!

Sưu tầm

SỢ…

Amy Truc Tran

SỢ…

Dù tự hào là phe thắng cuộc nhưng đã nửa thế kỷ trôi qua rồi mà họ vẫn sợ, sợ tất cả những gì thuộc về Việt Nam Cộng Hoà, từ màu cờ cho đến bài hát, và giờ thì ai cũng biết là họ còn sợ luôn cả ngôn từ.

Họ thà để cho dư luận cãi nhau om sòm giữa Đại Học và Trường Đại Học chứ khăng khăng không dám dùng lại từ “Viện Đại Học”, một từ mà Giáo Dục VNCH đã sử dụng rất chuẩn. Dưới Viện Đại Học thì có các Trường Đại Học, đơn giản dễ hiểu mà đầy đủ ý nghĩa.

Cái gì hay, cái gì đẹp thì phải học, phải theo, cho dù là của “thế lực thù địch”, chẳng phải là con cháu các ông cũng đã được Tây, đi Mỹ học hết rồi sao. Đã bao nhiêu năm hô hào chiến thắng vẻ vang “đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào” thì còn gì mà phải sợ. Bản chất nó vốn là Viện Đại Học thì cứ gọi là Viện Đại Học. Mình đã “trong veo” thì sợ cái gì chứ?? Cứ cố chấp, bảo thủ khiến cho nền giáo dục ngày càng nát bét.

Amy Truc Tran

 

 

 

Tại sao người cộng sản sợ Việt Nam Cộng Hòa như sợ ma?

Tien Cuong Nguyen  Sự Thật Lề Đường

Nguyễn Tiến Cường

Ma – theo sự hiểu biết thông thường của đa số là người chết không hoặc chưa được siêu thoát, thường hiện hình quấy phá người ở dương thế. Thành ngữ Đi Đêm Có Ngày Gặp Ma ngụ ý cảnh cáo những kẻ gian manh, trộm cướp, lừa bịp, phá làng phá xóm…nên cải tà quy chánh, kẻo rồi có lúc bị cảnh sát bắt hay bị nạn nhân gài bẫy, tóm được. Người được gặp, thấy ma rất hiếm và thường chỉ vào ban đêm hoặc lúc trời chạng vạng tối hay khi bình minh chưa tới. Tuy nhiên, nghe nói tới ma thì chí ít cũng phải 70-80% người bình thường nổi gai ốc, lạnh sống lưng.

Chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam sụp đổ đã hơn 47 năm, nôm na là chết lâu rồi. Với hầu hết những người trẻ tuổi sinh từ đầu thập niên 70 thế kỷ trước cho đến nay, những chữ Việt Nam Cộng Hòa là những gì thật mơ hồ. Trừ một thiểu số rất ít được cha, anh kể lại cho nghe hoặc do tìm hiểu về cuộc chiến tranh Quốc-Cộng qua sách vở báo chí, truyền thông hải ngoại, số còn lại không hề có một khái niệm gì về mấy chữ Việt Nam Cộng Hòa hoặc nếu có thì hiểu biết cũng rất giới hạn qua sách báo tuyên truyền gian trá, sai sự thật của chế độ cộng sản.

Đối với người cộng sản Việt Nam, có thể nói Việt Nam Cộng Hòa là Ma với biểu tượng duy nhất còn tồn tại là lá cờ vàng ba sọc đỏ, được sử dụng vào những lễ kỷ niệm của cộng đồng người Việt hải ngoại như Giỗ Tổ Hùng Vương, Tết, ngày quân lực VNCH 19.06…

Cụm từ Việt Nam Cộng Hòa vẫn là nỗi ám ảnh không nguôi trong lòng bất cứ một đảng viên cộng sản nào, từ cán bộ hạ tầng đến lãnh đạo trung ương. Ra hải ngoại công tác, làm việc, gặp gỡ ngoại giao…hễ nghe nói đến, nhìn thấy lá cờ vàng là người cộng sản hoảng hốt, lo sợ như…gặp ma, thiếu điều muốn tè trong quần. Ngay cả khi có những cuộc gặp gỡ ngoại giao chính thức ở cấp lãnh đạo quốc gia với các nướcÂu, Mỹ…, được hàng rào cảnh sát, lực lượng an ninh bảo vệ vòng ngoài vòng trong, người cộng sản luôn luôn tìm cách né tránh, hoặc lén lút, đi ngõ sau để tránh nhìn thấy…ma.

Còn trong nước thì sao? Nỗi sợ hãi VNCH đã khiến chế độ cộng sản kết án 3 phụ nữ, bà Ngô Thị Minh Ước 57 tuổi, Nguyễn Thị Trí 58 tuổi, Nguyễn Thị Bé Hai 57 tuổi – dân oan bị cướp mất đất đai, phất cờ vàng biểu tình đòi đất trước tòa lãnh sự Mỹ ở Sài Gòn – tổng cộng 10 năm tù (1), cũng như kết án thanh niên Nguyễn Viết Dũng 7 năm tù về tội tàng trữ 4 lá cờ vàng và tội tuyện truyền chống nhà nước Cộng Hòa XHCNVN. (1)

Nỗi sợ hãi đó còn lan truyền đến “hậu duệ” người cộng sản. Du sinh Dương Đức Thịnh, tuổi đời chưa đến 20, người Hải Phòng, qua Úc du học, trên đường đi bộ với một nhóm bạn, thấy cờ vàng treo trên đường phố thì nổi điên, giật xuống, dẫm đạp. Kết quả là Dương Đức Thịnh…”tự ý” về nước và “cam kết” với chính quyền không bao giờ quay trở lại vì không muốn thấy ma trên đường phố nước Úc thêm lần nào nữa. (2)

Đâu là nguyên nhân khiến chế độ cộng sản sợ hãi ma Việt Nam Cộng Hòa quá đáng như vậy?

Tất cả chỉ bắt nguồn tự sự bất chính, mặc cảm tự ti cũng như tâm trạng của kẻ gian manh đi ăn cướp khi xua quân tấn công xâm chiếm miền Nam. Thua sút về trí tuệ, yếu kém về văn hóa, kiến thức…khiến người CSVN tìm đủ mọi cách, mọi biện pháp, thủ tiêu mọi liên hệ, dấu tích…nhắc nhở đến một chế độ nhân bản, một nền văn minh, một chế độ giáo dục tự do, khai phóng hơn họ một trời một vực.

Tuy nhiên càng tìm cách xóa bỏ, người cộng sản Việt Nam càng thất bại. Dù trăm phương, ngàn kế, từ bôi nhọ, phỉ báng, vu khống, nhục mạ, tuyên truyền láo xược, gian manh… Chế độ cộng sản với chiến dịch quét sạch “tàn dư văn hóa” Mỹ, Ngụy năm 1975 cũng không thể xóa được những hình ảnh tốt đẹp, những dấu ấn nhân văn của một chế độ tự do, dân chủ trong lòng những người từng sinh ra, lớn lên, trưởng thành ở miền Nam trước tháng tư năm 1975.

Sách báo, tranh, ảnh, nghệ thuật, văn hóa miền Nam đã bị thủ tiêu, đốt phá, huỷ diệt tưởng chừng sẽ vĩnh viễn không thể khôi phục nay đã hồi sinh ngày càng mạnh mẽ. Những bản nhạc vàng bolero, tango, chachacha, nhạc tình ca của miền Nam mà chế độ cộng sản từng lên án là thứ nhạc ủy mị, yếu đuối đã và đang từng bước thay thế loại âm nhạc mang nặng hận thù, kích động chiến tranh, giết chóc…Điều này khiến lãnh đạo cộng sản ngày càng sợ hãi.

Do không có chính danh nên người cộng sản VN rất sợ hãi khi phải công khai đối thoại. Có mấy ai còn nhớ, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam đã được cộng sản Hà Nội khai sinh năm 1960 chỉ với mục đích thực hiện bước đầu xâm lược miền Nam trước khi chính thức xua quân vượt vĩ tuyến 17 năm 1972, vi phạm hiệp định Genevè 1954. Sau đó khi chữ ký của hiệp định Paris 1973 chưa ráo mực, cộng sản Bắc Việt đã lập tức mở các cuộc tấn công vào các đơn vị VNCH. Chiếm được hoàn toàn miền Nam, cộng sản Bắc Việt lặng lẽ bóp mũi, giết chết đứa con sinh năm 1960, đám tang MTGPMNVN thật lặng lẽ, không kèn không trống, cũng chẳng còn ai nhắc nhở sau đó.

Hơn 47 năm đã trôi qua, dù năm nào đến ngày 30.04, chế độ CSVN vẫn tưng bừng, rầm rộ tổ chức ăn mừng chiến thắng nhưng chưa một lần nào họ đủ can đảm, thật sự bình thản, an nhiên, tự tại nhìn lá cờ vàng ba sọc đỏ như chứng tích của một thời chiến tranh, một cuộc nội chiến giữa những người Việt với nhau. Họ ra rả kêu gọi người Việt hải ngoại hòa hợp hòa giải nhưng chưa bao giờ thực tâm muốn thực hiện lời kêu gọi. Đó chính là nguyên nhân gây ra sự sợ hãi trầm kha của người cộng sản VN khi nhìn thấy, nghe nói về lá cờ vàng ba sọc đỏ – Bóng ma chế độ VNCH.

TNLT Nguyễn Năng Tĩnh được trao Giải thưởng Lê Đình Lượng 2022

Đài Á Châu Tự Do

Nhà hoạt động xã hội dân sự, tù nhân lương tâm Nguyễn Năng Tĩnh được tổ chức Việt Nam Canh tân Cách mạng Đảng (tức đảng Việt Tân) trao giải thưởng Lê Đình Lượng năm nay với chủ đề “Bảo vệ Chủ quyền trước Nguy cơ Trung Quốc.”

Ông Nguyễn Năng Tĩnh là một giảng viên âm nhạc tại một trường cao đẳng ở tỉnh Nghệ An, bị bắt giam hồi tháng 5/2019 và hiện đang phải thụ án tù 11 năm với tội danh “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”

Tiến sỹ Đông Xuyến, phát ngôn nhân của Việt Tân cho biết, ông Tĩnh vượt qua nhiều ứng cử viên nặng ký khác trong một cuộc bình chọn bởi một hội đồng có nhiều thành viên uy tín trong và ngoài nước, trong đó có Dân biểu Hạ viện Canada- bà Judy Sgro hay Giám đốc tổ chức Whistleblower Aid- bà Libby Liu, Chủ tịch Phong trào Dân chủ hoá Châu Á- Giáo sư Kojima Takayuki…

#RFAVietnamese #ledinhluong #nguyennangtinh #viettan

Giảng viên âm nhạc Nguyễn Năng Tĩnh tại phiên toà ở Nghệ An hôm 15/11/2019

RFA.ORG

TNLT Nguyễn Năng Tĩnh được trao Giải thưởng Lê Đình Lượng 2022

Hệ thống tự vỡ nguy hiểm hơn ‘đá tự vỡ’

Báo Tiếng Dân

Blog VOA

Trân Văn

9-12-2022

Vỉa hè lát đá tự nhiên ‘có độ bền 70 năm’ ở Hà Nội vỡ nát sau khi sử dụng một thời gian ngắn là vì ‘mưa xuống đá giãn nở nên tự vỡ’…

Tuần này, phát biểu của một số viên chức hữu trách từ trung ương (như phát biểu của ông Vũ Đức Đam – Phó Thủ tướng: Chuyên gia các nước phát triển ước ‘quay lại, phát triển theo định hướng Việt Nam’ [1]) đến địa phương,… tiếp tục hun nóng mạng xã hội Việt ngữ, khiến thiên hạ sôi sùng sục nhưng góp nhiều nhiệt nhất có lẽ là ý kiến của ông Võ Nguyên Phong – Giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội (Vỉa hè lát đá tự nhiên ‘có độ bền 70 năm’ ở Hà Nội vỡ nát sau khi sử dụng một thời gian ngắn là vì ‘mưa xuống đá giãn nở nên tự vỡ’ [2])

Không thể đếm xuể đã có bao nhiêu người bình luận về những phát biểu kiểu đó. Có một điểm đáng chú ý là những phát biểu theo logic hết sức khác thường ấy không làm công chúng ngạc nhiên nữa. Tuy sôi sùng sục nhưng các bình luận về những phát biểu khác thường ấy chỉ thể hiện hai điểm chung – mỉa mai đầy vẻ khinh miệt và ngán ngẩm, kiểu như: Nghe giải thích xong bỗng nhớ tới ‘đá cá, lăn dưa’. ‘Đá tự vỡ vì giãn nở sau mưa’ đi với ‘đá cá, lăn dưa’ rất hợp quy hoạch (3).

Một số trong số những bình luận thường là rất ngắn dẫu không dài lắm nhưng đủ để khái quát vấn đề . Ví dụ như bình luận của ông Kim Van Chinh: Đá tự nhiên không phải đá nào cũng làm được vật liệu xây dựng, dù chỉ là đá lát vỉa hè. Đại để đá xây dựng có hai loại chính. Đá marble có cấu trúc không định hình, cho vân đẹp, độ nhám tốt, nhưng kém chịu lực, dễ bị phong hóa ố màu, hoặc ngấm nước tự vỡ… Đá granite có kết cấu chắc hơn nhưng lại hay có thớ dọc ngang theo tấm, bề mặt cứng nhưng lại trơn trượt nếu bề mặt bào mòn hay mài bóngDo vậy, dùng đá tự nhiên làm vật liệu lát đường, vỉa hè, sân nhà, bia mộ cần nghiên cứu rất cẩn thận và đặt hàng, sản xuất, nghiệm thu rất nghiêm chỉnh chứ không phải chuyện đùa giỡn hoặc ngu ngốc vô học cho rằng cứ đá là bền, cứ đá là chắc, cứ đá là sang… Các nước có nền văn hóa dùng đá lâu đời và nền khoa học – sản xuất đá có kinh nghiệm họ thường lấy đá granite ốp, xây tường, làm cột chịu lực,… dùng đá marble làm đá trang trí lát sàn trong nhà, ốp tường… rất đẹp với sức bền hàng thế kỷ. Riêng đá làm đường họ có thể dùng marble hay granite nhưng họ hay dùng đá chẻ thành cục vuông và để thô. Mới lát trông lổn nhổn và nhám nhưng đi lại hàng chục năm, hàng trăm năm… dần dần viên đá mòn nhẵn nhưng vẫn không trơn (do đá chẻ miếng nhỏ lát có mạch, có khi chỉ ghép lại với nhau, không có mạch vữa vẫn bám cứng…).

Dự án đá hóa vỉa hè Hà Nội là dự án lớn kinh khủng nhưng những người làm dự án là một lũ vô học và cẩu thả. Chúng cứ nghĩ đá là bền, là đẹp như các nước họ đã làm… Hỡi ôi, giờ thì nát bét hết cả vỉa hè Hà Nội rồi. Đá 70 năm thì hai năm đã vỡ toác. Chỗ cần nhám (vỉa hè, gờ đường cho xe máy lên xuống) thì chúng lát đá trơn, ngã cứ oành oạch… Chỗ cần đá chẻ thì chúng lát đá phiến. Chỗ cần granite thì chúng lát marble. Chỗ cần marble thì chúng lát granite. Chỗ không được gắn vữa cứng thì chúng trét xi măng đóng cứng… Hết giám đốc này đến giám đốc khác, hết chủ tịch này đến chủ tịch khác nhưng quyết tâm đá hóa vỉa hè không hề thay đổi… Lần này, Giám đốc Sở Xây dựng có khá hơn là công bố nguyên nhân của đá vỉa hè vỡ là do “đá gặp mưa tự giãn nở rồi vỡ” giống hệt ông nào ngày xưa trả lời đê vỡ là do mưa quá to, có gì đâu, vỡ đê là vẫn theo kế hoạch. Chủ tịch Nguyễn Thế Thảo xưa là kỹ sư vật liệu xây dựng đấy. Còn Võ Nguyên Phong, tân Giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội, sinh năm 1969, quê quán tại Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị thì là cán bộ ngành xây dựng với chuyên ngành quản lý đô thị. Ông Phong từng là Phó Giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội, Phó Bí thư quận Đống Đa, Chủ tịch quận Đống Đa (5).

***

Khác với đa số, thêm chuyện ‘Đá tự vỡ vì giãn nở sau mưa’ , ông Nguyễn Trường Sơn không giễu cợt để mỉa mai mà nêu thắc mắc, dân chúng còn bị sỉ nhục đến bao giờ: Tôi nghĩ không có gì là quá đáng khi người dân đòi hỏi công chức làm tròn trách nhiệm tối thiểu của họ. Trong đó bao gồm hoàn thành các trọng trách mà công việc yêu cầu, có thái độ làm việc chuyên nghiệp, ứng xử với dân một cách văn minh và ân cần, nói năng theo cách mà ai cũng có thể hiểu. Bởi bản thân mỗi chúng ta khi đi làm cũng đều được yêu cầu phải làm được những điều căn bản này. Không có doanh nghiệp nào muốn giữ lại một nhân viên mà ngay cả những điều đơn giản như vậy cũng không làm được. Do vậy chúng ta có quyền yêu cầu chí ít công chức cũng phải làm được như chúng ta, chứ chưa nói là phải làm tốt hơn. Bởi sau cùng, chúng ta muốn tự hỏi bản thân rằng số tiền mà chúng ta bị trừ hàng tháng, hay phải trả thêm mỗi lần mua hàng (gọi chung là thuế), rốt cuộc có đáng hay không nếu người thụ hưởng nó lại không làm tròn trách nhiệm?Ấy thế mà. Hết lần này đến lần khác, chúng ta bị sỉ nhục bởi những người vẫn hàng tháng ngửa tay lãnh lương từ tiền thuế mà chúng ta phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới kiếm ra. Nào là ‘đá vỉa hè bị nứt do mưa’, rồi ‘Việt Nam không cần quá giàu’,…

Ông Nguyễn Trường Sơn nhấn mạnh: Hết lần này đến lần khác, dân chúng bị đối xử như trẻ ranh, bị cợt nhả và không coi ra gì bởi những phát ngôn coi thường phát ra từ miệng công chức. Những lời nói này không chỉ tự thân chúng bộc lộ sự yếu kém về năng lực của công chức xứ ta mà đằng sau nó là một vấn đề trầm trọng hơn rất nhiều, đó là những người làm công ăn lương ở nước ta mang trong họ thái độ coi thường đối với công việc và khinh bỉ đối với dân chúng. Vì nếu là một công chức coi trọng chức trách và có trách nhiệm với sự tín nhiệm của người dân, thì sẽ suy nghĩ trước khi mở miệng. Một bộ máy nhà nước đầy rẫy những công chức không coi công việc và người dân ra gì thì sẽ không thể vận hành một cách trơn tru và càng không thể tạo ra sự phát triển cho đất nước. Cũng giống như một doanh nghiệp với những nhân viên rệu rã, làm việc với thái độ dửng dưng, coi khách hàng là cỏ rác thì sẽ không thể thành công. Cái chết ở đây đó là bộ máy nhà nước thì sẽ tạo ra hệ lụy nghiêm trọng hơn một doanh nghiệp rất nhiều. Một doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả thì đối mặt với phá sản, cùng lắm là ảnh hưởng đến những người làm việc cho nó nhưng một bộ máy nhà nước với những công chức vô năng, vô tri thì hệ luỵ vô cùng lớn.

Do vậy, ông Sơn lưu ý: Không chỉ quốc gia bị tụt hậu bởi sự vô dụng của các cơ quan nhà nước, mà người dân còn chịu khổ bởi nạn tham nhũng và thói hách dịch từ công chức, cùng với đó là dịch vụ công đắt đỏ và kém chất lượng. Mỗi một lần công chức đưa ra những phát ngôn chướng tai thì sẽ nhận lại sự cười cợt từ dân chúng. Người dân coi đó là một màn tấu hài, là dịp để cả xã hội được phen cười vào mặt quan chức cho hả hê những khổ ải mà chúng ta phải chịu đựng bấy lâu nhưng theo tôi đó là thái độ sai lầm. Bởi cười cợt sẽ không mang lại bất cứ sự thay đổi nào, rồi đâu lại hoàn đó, những bất công và ngang trái vẫn sẽ đè lên đầu lên cổ chúng ta. Thay vào đó, chúng ta cần phải cảm thấy bị sỉ nhục, phải cảm thấy tự ái và nhục nhã mỗi khi những người nắm giữ trọng trách trong bộ máy nhà nước có những phát ngôn như vậy. Thử hỏi có cay không khi những kẻ ăn trên ngồi trốc từ tiền thuế của chúng ta lại quay sang khinh bỉ chúng ta? Rốt cuộc thì có đáng không khi chúng ta nai lưng ra làm để bị thu thuế nhưng cái chúng ta nhận được lại là sự coi thường (6)?

Chú thích

(1) https://thanhnien.vn/di-toyota-con-hon-di-lexus-ma-song-nhanh-tan-pha-tat-ca-post1529228.html

(2) https://tuoitre.vn/giam-doc-so-xay-dung-ha-noi-da-via-he-nut-mot-phan-do-mua-xuong-da-gian-no-tu-vo-20221208105950279.htm

(3) https://www.facebook.com/khanhtuanng/posts/pfbid02fo7oXsJvMLVUkTj19zE2L1Uf4QZKJ45QTPFxCbm8ng8TymB2TSdtMdDGJZYVqUJKl

(4) https://www.facebook.com/100005487228403/posts/pfbid06BHGyRXnqM7HScnUZkZX5BNCvLAuiUQUMfS2kRjmE6rBdjFZ4hc5372ZVoydoqu8l/?mibextid=Nif5oz

(5) https://www.facebook.com/kimvanchinh/posts/pfbid0umnW8Fy3ETcmky9NcEKFdcdXK4DK6hpZR46gX5PNn2BPnaUz1i4myXwxcTCZyswwl

(6) https://www.facebook.com/truongson.nk/posts/pfbid0D5KRd2mMHqNMsL6o3SSn9tzNnzX82NjuJ8SNeegdQDYCS7aamo9iF8fS43aLQFfMl

Góp nhặt buồn vui thời điêu linh: Đốt sách

Hồi Ức Một Đời Người: Nguyễn Ngọc Chính

“Nơi nào người ta đốt sách thì họ sẽ kết thúc bằng việc đốt sinh mạng con người”.

Theo Sử ký Tư Mã Thiên, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, thừa tướng Lý Tư đã đề nghị dẹp bỏ tự do ngôn luận để thống nhất chính kiến và tư tưởng. Lý Tư chỉ trích giới trí thức dùng ‘sự dối trá’ qua sách vở để tạo phản trong quần chúng.

Chủ trương Đốt sách, Chôn nho (Phần thư, Khanh nho) của Tần Thủy Hoàng được thực hiện từ năm 213 trước Công nguyên. Qua đó, tất cả những kinh điển từ thời Chư tử Bách gia (trừ sách Pháp gia, trường phái của Lý Tư) đều bị đốt sạch. Lý Tư còn đề nghị đốt tất cả thi, thư, sách vở, trừ những quyển được viết vào thời nhà Tần. Sách trong lĩnh vực triết lý và thi ca, trừ những sách của Bác sĩ (cố vấn nhà vua) đều bị đốt. Những nho sinh dùng sử sách để chỉ trích chính quyền đều bị hành hình. Những ai dựa vào chế độ cũ để phê phán chế độ mới sẽ bị xử tội chém ngang lưng.

Lý Tư tấu: “Thần xin rằng sử sách không phải do Tần ghi chép đều bị đem đốt. Ngoại trừ quan chức không phải là tiến sĩ thì trong thiên hạ không ai được phép cất giữ Thi, Thư, sách của Bách gia, tất cả đều phải đem đốt. Nếu dám dùng những lời ngụ ngôn trong Thi, Thư thì chém bêu đầu ở chợ. Lấy xưa mà chê nay thì giết cả họ. Quan lại thấy mà không tố cáo sẽ bị coi là đồng phạm. Nay lệnh trong ba mươi ngày mà không đem đốt, sẽ bị xăm mặt và bắt đi xây dựng trường thành”.

Năm 212 TCN, Tần Thuỷ Hoàng phát hiện ở Hàm Dương có một số nho sinh đã từng bình phẩm về mình liền hạ lệnh bắt để thẩm vấn. Các nho sinh không chịu nổi tra khảo, lại khai ra thêm một loạt người khác. Tần Thuỷ Hoàng hạ lệnh đem tất cả trên 460 nho sinh đó chôn sống ngoài thành Hàm Dương. Đốt sách, chôn Nho là hành vi được người đời sau coi là tàn bạo nhất của Tần Thủy Hoàng. Đó cũng là tội danh hàng ngàn năm sau vẫn còn ghi nhớ. Không riêng gì người Hán mà cả nhân loại lên án.

Trong thâm tâm, Tần Thủy Hoàng cũng như Lý Tư đều biết rất rõ, lệnh đốt sách không thể nào xóa sạch những tư tưởng trong đầu óc dân chúng, những cuốn sách ‘khó đốt’ nhất là nằm trong tinh thần con người. Như vậy, việc đốt sách thực tế chỉ là một thủ đoạn chứ không tạo được tác dụng triệt để trong việc xóa sạch vết tích văn hóa-chính trị như mong muốn.

***

Việt Nam vốn tự hào là quốc gia có hơn 4000 năm văn hiến, nhưng sách vở của người xưa để lại thì rất ít. Nguyên nhân chính là vì quân nhà Minh bên Tàu đã ra lệnh hủy hết sách vở ngay trong những ngày đầu đô hộ nước ta để dễ bề cai trị. Sau này, cuộc Cách mạng Văn hóa tại Trung Hoa từ năm 1953 đến 1966 cũng đã gây nhiều ảnh hưởng đến miền Bắc. Do đó, xét về mặt lịch sử, Việt Nam đã trải qua rất nhiều thời kỳ sách vở bị tiêu hủy cho phù hợp với những thay đổi qua các giai đoạn chính trị.

Trên thực tế, tại miền Bắc, ngay sau khi tiếp quản Hà Nội, việc kiểm duyệt sách báo, bài viết trước khi đem phổ biến ra công chúng đã được thực hiện ngay từ năm 1954. Đối với các loại sách báo đã in ra từ trước 1954 dưới thời Pháp thuộc cũng đã bị đốt. Thế cho nên, việc đốt sách tại miền Nam năm 1975 chỉ là rập khuôn của chính sách cũ năm 1954.

Hồi ký của Một người Hà Nội ghi lại sự kiện đốt sách năm 1954 khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản miền Bắc: “Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số ‘lớp Chín hậu phương’, năm sau sẽ sáp nhập thành ‘hệ mười năm’. Số học sinh ‘lớp Chín’ này vào lớp không phải để học, mà là ‘tổ chức Hiệu đoàn’, nhận ‘chỉ thị của Thành đoàn’ rồi ‘phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!’. Họ truy lùng… đốt sách!

Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn ‘kiểm tra’, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang ‘tập trung’ tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm ‘phấn khởi’, lời hô khẩu hiệu ‘quyết tâm’, và ‘phát biểu của bí thư Thành đoàn’: Tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là… ‘cực kỳ phản động!’. Vào lớp học với những ‘phê bình, kiểm thảo… cảnh giác, lập trường”.

***

Tại miền Nam, trong thời điêu linh ngay sau ngày 30/4/1975, việc đốt sách được thể hiện qua chiến dịch Bài trừ Văn hóa Đồi trụy-Phản động. Tự bản thân khẩu hiệu trong chiến dịch đã nêu rõ 2 mục đích: (1) về chính trị, bài trừ các luồng tư tưởng phản động chống đối chế độ và (2) về văn hóa, xóa bỏ hình thức được coi là ‘đồi trụy theo hình thức tư bản’.

Một trong những việc làm cấp thiết của chính quyền mới khi miền Nam sụp đổ là niêm phong, tịch thu sách tại các thư viện. Những tác phẩm của nhà in, nhà xuất bản và nhà sách lớn tại Sài Gòn như Khai Trí, Sống Mới, Độc Lập, Đồng Nai, Nam Cường, Trí Đăng… đều bị niêm phong và cấm lưu hành.

Xuống đường Bài trừ Văn hóa Đồi trụy & Phản động trong thời điêu linh

Đội ngũ những người cầm bút miền Nam phải nói là rất đông và bao gồm nhiều lãnh vực. Về triết học phương Tây có Lê Tôn Nghiêm, Trần Văn Toàn, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung, Trần Bích Lan… Triết Đông có Nguyễn Đăng Thục, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Khắc Kham, Nghiêm Toản, Kim Định, Nhất Hạnh…

Phần biên khảo có Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Lê Ngọc Trụ, Lê Văn Đức, Lê Văn Lý, Trương Văn Chình, Đào Văn Tập, Phạm Thế Ngũ, Vương Hồng Sển, Thanh Lãng, Nguyễn Ngu Í, Nguyễn Văn Xuân, Lê Tuyên, Đoàn Thêm, Hoàng Văn Chí, Nguyễn Bạt Tụy, Phan Khoang, Phạm Văn Sơn, Nguyễn Thế Anh, Nguyễn Khắc Ngữ, Nguyễn Văn Sâm…

Về thi ca có Nguyên Sa, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Tô Thùy Yên, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Viên Linh, Hoàng Trúc Ly, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Đức Sơn, Du Tử Lê…. Phê bình văn học có Tam Ích, Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh, Đỗ Long Vân, Đặng Tiến, Uyên Thao, Huỳnh Phan Anh…

Đông đảo nhất là văn chương với Võ Phiến, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Bình Nguyên Lộc, Mặc Thu, Mặc Đỗ, Thanh Nam, Nhật Tiến, Nguyễn Thị Vinh, Phan Du, Đỗ Tấn, Nguyễn Mạnh Côn, Sơn Nam, Võ Hồng, Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Minh Đức Hoài Trinh, Nguyễn Đình Toàn, Chu Tử, Viên Linh, Duyên Anh, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Vũ Hạnh, Y Uyên, Cung Tích Biền, Duy Lam, Thế Uyên, Lê Tất Điều, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang, Nguyễn Thụy Long, Phan Lạc Tiếp, Thế Nguyên, Thế Phong, Diễm Châu, Thảo Trường, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Ngô Thế Vinh…

Toàn bộ sách ấn hành tại miền Nam của những tác giả nêu trên (còn một số người nữa mà người viết bài này không thể nhớ hết) đều bị ‘đánh đồng’ là tàn dư Mỹ-Ngụy, văn hóa nô dịch, phản động và đồi trụy. Các cấp chính quyền từ phường, xã, quận, huyện, thành phố ra chỉ thị tập trung tất cả các loại sách vở, từ tiểu thuyết, biên khảo cho đến sách giáo khoa để hỏa thiêu.

Không có con số thống kê chính thức nhưng người ta ước đoán có đến vài trăm ngàn sách báo và băng, đĩa nhạc bị thiêu đốt trong chiến dịch truy quét văn hóa phẩm đồi trụy-phản động tại Sài Gòn. Sách báo trên kệ sách trong nhà của tư nhân bị các thanh niên đeo băng đỏ lôi ra hỏa thiêu không thương tiếc. Tại các cửa hàng kinh doanh, sách báo bị thu gom để thiêu hủy, coi như đốt cháy cả cơ nghiệp lẫn con người những cá nhân có liên quan. Tất nhiên, những người có sách bị đốt cũng có phản ứng quyết liệt. Trong hồi ký Viết trên gác bút, nhà văn Nguyễn Thụy Long ghi lại một diễn biến trong vụ đốt sách năm 1975:

Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhâp tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu, có kẻ mạng vong. Những chú nhỏ miệng còn hôi sữa, những cô bé chưa ráo máu đầu là nạn nhân vô tội. Trên cánh tay còn đeo tấm băng đỏ, quả thật súng đạn vô tình! Cả chủ tiệm cũng mạng vong”.

Nguyễn Thụy Long là cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học nổi tiếng với câu “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Những tiểu thuyết của Nguyễn Thụy Long như Loan mắt nhungKinh nước đen cũng gian truân không kém cuộc đời của tác giả, chúng được xếp vào loại ‘văn hóa nô dịch’ nên phải lên giàn hỏa.

Năm 1975, Duyên Anh (Vũ Mộng Long) bị chính quyền mới coi như ‘một trong mười nhà văn nguy hiểm nhất của miền Nam’ với hơn 50 tác phẩm văn chương, trong đó nổi bật có Luật hè phố, Dzũng Đakao, Điệu ru nước mắtVẻ buồn tỉnh lỵ, Thằng Vũ, Thằng Côn, Con Thúy. Chế độ mới cấm ông viết lách và bắt giam không xét xử suốt sáu năm qua các nhà tù và trại tập trung.

Vượt biển sang Pháp, Duyên Anh tiếp tục viết và cho xuất bản gần hai mươi tác phẩm, trong đó có Un Russe à Saigon và La colline de Fanta do nhà Belfond xuất bản. Báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình Pháp viết nhiều, nói nhiều về ông. Sử gia Piere Chaunu, giáo sư Đại học Sorbonne, coi Duyên Anh là ‘nhà thơ lớn, vinh quang của quốc gia’.

Đầu năm 1997, Duyên Anh từ trần tại Pháp. Dù muốn dù không, nhiều người ngậm ngùi nghĩ đến tác giả của truyện ngắn đọc đến mủi lòng, có tựa đề là Con sáo của em tôi đăng trên Chỉ Đạo năm 1956. Những truyện ngắn, truyện dài thật trong sáng của tuổi ô mai như Dưới dàn hoa thiên lý hoặc du côn du đãng như Dzũng Dakao… Tất cả lần lượt được hóa kiếp bằng ngọn lửa.

Trong cuốn Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa – tư tưởng xuất bản sau năm 1975 có đoạn viết:

“… Một số người như Duyên Anh, Nhã Ca… chấp nhận chủ nghĩa chống Cộng với một thái độ hoàn toàn tự nguyện. Nhưng nếu xét gốc rễ thái độ thù địch của họ đối với cách mạng, thái độ đó có nguyên nhân ở sự tác động của chủ nghĩa thực dân mới. Họ vừa là kẻ thù của cách mạng, của nhân dân. Nhưng nếu xét đến cùng họ cũng vừa là một nạn nhân của đường lối xâm lược tinh vi, xảo quyệt của Mỹ.

Dù xét dưới tác động nào, hoạt động chống Cộng bằng văn nghệ của đội ngũ những cây bút này cũng là những hoạt động có ý thức. Ý thức đó biểu hiệu trước hết trong thái độ chấp nhận trật tự xã hội thực dân mới, chống lại một cách điên cuồng chủ nghĩa Cộng Sản…

Họ cho văn nghệ là sự chọn lựa một phạm vi hoạt động, một phương tiện để đạt mục đích và tự nguyện dùng ngòi bút của mình phục vụ cho chế độ. Thái độ tự nguyện của họ cũng đã có nhiều người tự nói ra. Vũ Hoàng Chương tự ví mình là ‘viên gạch để xây bức tường thành ngăn sóng đỏ’, Doãn Quốc Sĩ coi mình như một ‘viên kim cương, răng Cộng Sản không sao nhá được’…”

Trong vụ án được mệnh danh là Nhũng tên Biệt kích Cầm bút năm 1986, một số nhà văn ra tòa tại Sài Gòn với tội ‘gián điệp’. Chính quyền mới muốn dựng một vụ án điển hình để đe dọa các nhà văn miền Nam nhưng bất thành vì áp lực từ bên ngoài. Theo kịch bản được dàn dựng, họ muốn xử Doãn Quốc Sĩ mức án tử hình hay chung thân, Hoàng Hải Thủy (từ chung thân đến 20 năm),  Dương Hùng Cường (18 năm), Lý Thụy Ý (15 năm), Nguyễn Thị Nhạn (12 năm), Hiếu Chân Nguyễn Hoạt (10 năm) và  Khuất Duy Trác cùng Trần Ngọc Tự (8 năm).

Tính ra Hoàng Hải Thủy (còn có bút danh Công tử Hà ĐôngCon trai bà Cả Đọi…) ngồi tù ngót nghét 10 năm sau đó tìm đường vượt biên sang Mỹ. Tác phẩm của ông gồm đủ thể loại: tiểu thuyết đăng nhiều kỳ trên các báo, truyện phóng tác, bình luận, phiếm luận… Bây giờ tuy đã già nhưng vẫn còn viết rất hăng ở Rừng Phong (Virginia) trên blog http://hoanghaithuy.wordpress.com/.

Những nhà văn như Hoàng Hải Thủy, Duyên Anh, Nguyễn Thụy Long thường sinh sống bằng nghề viết báo bên cạnh việc viết văn. Trong lãnh vực báo chí, Sài Gòn vẫn được coi là trung tâm của báo chí với những nhật báo lớn đã xuất hiện từ lâu như tờ Thần Chung (sau đổi thành Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai), Sài Gòn Mới của bà Bút Trà… Khi người Bắc di cư vào Nam có thêm tờ Tự Do, tiếp đến là Ngôn Luận. Đó là những nhật báo lớn có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng. Hoạt động báo chí ở Saigòn càng ngày càng phát triển, theo Vũ Bằng, đến tháng 12/1963, ở Sài Gòn có tới 44 tờ báo ra hàng ngày.

Nhật báo Tiếng Chuông

Một đặc điểm của văn học miền Nam là việc hình thành các nhóm văn học. Nhóm Quan Điểm do Vũ Khắc Khoan thành lập với Nghiêm Xuân Hồng, Mặc Đỗ. Quan Điểm (cũng là tên nhà xuất bản do Mặc Đỗ điều hành) được người đương thời gọi là nhóm ‘trí thức tiểu tư sản’, bởi tác phẩm của họ, trong những ngày đầu chia cắt đất nước sau hiệp định Genève, thường có những nhân vật mang nỗi hoang mang, trăn trở của người trí thức tiểu tư sản trước ngã ba đường: theo bên này, bên kia, hay đứng ngoài thời cuộc?

Theo Trần Thanh Hiệp, nhóm Sáng Tạo là một nhóm sinh viên hoạt động trong Tổng hội sinh viên Hà Nội, trước 1954, gồm bốn người: Nguyễn Sĩ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh Hiệp. Di cư vào Sài Gòn, họ tiếp tục hoạt động văn nghệ với tuần báo Dân Chủ (do Trần Thanh Hiệp và Thanh Tâm Tuyền phụ trách), rồi tờ Người Việt (tiền thân của tờ Sáng Tạo). Sau đó Mai Thảo gia nhập nhóm với truyện ngắn Đêm giã từ Hà Nội, rồi đến Lữ Hồ, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Quách Thoại.

Trên tạp chí Sáng Tạo, ngoài những tên tuổi kể trên người ta còn thấy Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Dương Nghiễm Mậu, họa sĩ Thái Tuấn. Sáng Tạo số đầu ra tháng 10/1956 và tạm ngưng ở số 27 (tháng 12/58). Sáng Tạo bộ mới chỉ đến số 7 (tháng 3/62).

Tạp chí Sáng Tạo (1958)

Nhóm Bách Khoa ra đời tháng 1/1957 và sống đến ngày Sài Gòn sụp đổ. Bách Khoa là nguyệt san văn học nghệ thuật có tuổi thọ dài nhất với 426 số. Bách Khoa do Huỳnh Văn Lang điều hành trong những năm đầu. Đến 1963, khi Ngô Đình Diệm đổ, Huỳnh Văn Lang bị bắt, bị tù, nên giao hẳn cho Lê Ngộ Châu.

Bách Khoa quy tụ được nhiều tầng lớp nhà văn khác nhau thuộc mọi lứa tuổi. Những cây bút nổi tiếng cộng tác thường xuyên với Bách Khoa là Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, Nguyễn Ngu Ý, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Đoàn Thêm, Nguyễn Văn Xuân, Bình Nguyên Lộc…. Theo Võ Phiến, trong thời kỳ cực thịnh, tức là khoảng 1959-1963, mỗi số Bách Khoa bán được 4500 đến 5000 bản.

Tạp chí Bách Khoa (1962)

Đắt khách nhất là tạp chí Văn của Nguyễn Đình Vượng, ra đời ngày 1/1964 và sống đến 1975. Văn do Trần Phong Giao trông nom trong 10 năm đầu, đến 1974 chuyển lại cho Mai Thảo. Văn cũng quy tụ được nhiều nhà văn ở nhiều lứa tuổi thuộc nhiều khuynh hướng, từ Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền đến Thế Uyên, Nguyễn Mạnh Côn, Bình Nguyên Lộc… Văn đặc biệt quan tâm đến việc dịch thuật và giới thiệu văn học nước ngoài. Trần Phong Giao cũng là một dịch giả nổi tiếng, còn có thêm Trần Thiện Đạo, sống ở Paris, dịch và viết về những phong trào văn học đang thịnh hành ở Pháp.

Tạp chí Văn

Tạp chí Văn hoá Ngày nay của Nhất Linh ra đời ngày 17/6/1958, được 11 số thì đình bản. Nguyễn Thị Vinh tiếp tục chủ trương tiếp các tờ Tân Phong, Đông Phương, theo chiều hướng Văn hoá Ngày nay.

Tạp chí Đại học, tờ báo của Viện đại học Huế do Linh mục Cao Văn Luận, viện trưởng, làm chủ nhiệm, ra đời năm 1958 ở Huế, và sống đến năm 1964. Trên Đại học, xuất hiện những bài đầu tiên của Nguyễn Văn Trung, người sau này có ảnh hưởng lớn đến thế hệ sinh viên và trí thức.

Về các nhóm, Viên Linh trong cuốn Chiêu niệm văn chương, cho biết: “Các nhà văn xuất hiện thường xuyên, trên nhật báo, qua các nhà xuất bản, nhất là trên các báo định kỳ, và thành từng nhóm. Lý lịch văn chương và sắc thái địa phương của họ rất tương đồng, tùy theo nhóm tạp chí trên đó họ góp mặt”.

Đa số các nhà văn miền Nam qui tụ trên các tờ tuần báo Đời MớiNhân Loại, và nhật báo như Tiếng Chuông, Sàigon Mới (Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Kiên Giang, Lưu Nghi, Thẩm Thệ Hà, Trang Thế Hy…). Các nhà văn gốc miền Trung xuất hiện trên tờ Văn Nghệ MớiBách Khoa (Võ Thu Tịnh, Nguyễn Văn Xuân, Võ Phiến, Đỗ Tấn, Vũ Hạnh, Bùi Giáng, Võ Hồng, Nguyễn Thị Hoàng); các nhà văn ‘di cư’ có mặt trên các tờ Đất Đứng, Sáng Tạo, và trên các nhật báo như Tự Do, Ngôn Luận (Đỗ Thúc Vịnh, Nguyễn Hoạt, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Sỹ Tế, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền) hay Văn Nghệ (Lý Hoàng Phong, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn), Hiện Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhã Ca). Tờ Chỉ Đạo, Phụng Sự, Tiền Tuyến quy tụ các nhà văn quân đội hay quân nhân đồng hoá như Nguyễn Mạnh Côn, Mặc Thu, Thanh Nam, Phan Nhật Nam, Thảo Trường…

Nhật báo Tiền Tuyến

Khuynh hướng Phật giáo có các tờ Tư Tưởng, Vạn Hạnh với Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn Hữu Hiệu; khuynh hướng Thiên chúa giáo La mã có Hành Trình, Đối Diện với Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Diễm Châu, Thế Nguyên. Mặc dù khi đó đảng Cộng Sản bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, song các nhà văn theo Cộng Sản như Nguyễn Ngọc Lương, Minh Quân, Vũ Hạnh vẫn tạo được diễn đàn riêng trên Tin Văn hay hiện diện trong tổ chức Văn Bút dưới thời linh mục Thanh Lãng làm chủ tịch.

Những tờ như Văn, Phổ Thông, Văn Học, qui tụ các nhà văn không có lập trường chính trị rõ rệt, họ thuần túy làm văn thơ cổ điển như Đông Hồ, Mộng Tuyết, Nguyễn Vỹ, Bùi Khánh Đản, hay văn nghệ thời đại, sinh hoạt thành phố như Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng. Những tờ về nghệ thuật hay về phụ nữ quy tụ các nhà văn như Tùng Long, An Khê, Lê Xuyên, Nguyễn Thụy Long, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang…

Về giới cầm bút sau 1963, Nguyễn Văn Trung viết: “Giới cầm bút sau 1963, họ là những người hồi 1954 trên dưới mười tuổi theo gia đình vào Nam hoặc sinh trưởng và lớn lên ở miền Nam hầu hết có tú tài và tốt nghiệp đại học. Số lượng giới trẻ cầm bút này càng ngày càng đông đảo theo đà thành lập các đại học ở các tỉnh Huế, Đà Lạt, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Long Xuyên, Tây Ninh và các đại học tư ở Sàigòn như Vạn Hạnh, Minh Đức…

Những nhà văn trẻ đã trưởng thành về tuổi đời và nhận thức sau 1963, trong hoàn cảnh nhiều xáo trộn chính trị-xã hội, chiến tranh mở rộng với sự can thiệp ồ ạt của quân đội nước ngoài. Thời cuộc và chính trị ảnh hưởng trực tiếp đến họ vì bị động viên hay quân dịch… Do đó, họ có lối nhìn thời cuộc đất nước và nghệ thuật văn học khác hẳn với lối nhìn của những đàn anh viết từ trước 1963… Thơ văn giới trẻ viết sau 1963 thường theo một xu hướng chung, phản ánh vũ trụ Kafka, như tên đặt cho một số đặc biệt về thơ văn của Hành Trình, hoặc phản ánh thân phận những nhân vật Việt Nam tương tự những nhân vật trong tiểu thuyết Giờ thứ hai mươi lăm của Gheorghiu.

Nhờ hệ thống báo chí phát triển, quần chúng độc giả bao gồm nhiều thành phần trong khi các nhà văn nổi tiếng như Mai Thảo, Bình Nguyên Lộc, Túy Hồng, Nhã Ca, Duyên Anh, Chu Tử, Thanh Nam… đều sống bằng ngòi bút một cách dư giả. Họ là những người viết chuyên nghiệp, thậm chí nhiều nhà văn có nhà xuất bản riêng.

Nguyễn Hiến Lê trong 30 năm biên khảo và dịch thuật đã viết được 100 quyển sách trước 1975, và 20 cuốn thời gian sau đó. Nguyễn Văn Trung, ngoài lượng sách về triết học, văn học, in trước 1975, trong những công trình sau 1975, có bộ Lục Châu Học, nghiên cứu về văn học miền Lục tỉnh Nam Kỳ. Những nhà văn như Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo… cũng đều có những số lượng tiểu thuyết trên dưới 30 cuốn. Về sáng tác, số lượng tỷ lệ nghịch với chất lượng và đó là cái giá mà nhà văn phải trả.

Về đối tượng độc giả, có thể nói, lớp trẻ ‘bụi đời’ thích đọc Duyên Anh, lớp sống vũ bão thích Chu Tử. Phụ nữ thích Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca vì họ phản ảnh đời sống người phụ nữ tân tiến. Lớp trí thức thích cách đặt vấn đề của Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng. Lớp trẻ lãng mạn giao thời thích đọc Mai Thảo. Tuy nhiên, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu là những tác giả đòi hỏi người đọc một trình độ trí thức cao. Quần chúng bình dân thích Lê Xuyên, Tùng Long… Học sinh trường Tây đọc văn chương ngoại quốc qua tiếng Pháp, tiếng Anh. Học sinh trường Việt đọc các tác phẩm ngoại quốc qua bản dịch hoặc phóng tác.

Nhà văn Chu Tử qua Vũ Uyên Giang

Bộ sách Văn Học Việt Nam Nơi Miền Đất Mới của Nguyễn Q. Thắng xuất bản sau năm 1975 có đề cập tới 53 ‘văn gia’ của VNCH, mỗi người được tác giả gắn cho một nhãn hiệu. Chẳng hạn, Nguyễn Văn Trung là ‘nhà văn nhập cuộc’, Cao Xuân Hạo ‘nhà lập thuyết ngữ học’, Nguyễn Ngọc Lan ‘nhà văn Công giáo, nhà báo dấn thân’, Thanh Việt Thanh (?) ‘nhà văn cần cù’, Thế Uyên ‘nhà văn nhập cuộc’, Viên Linh ‘hoàng đế’, ‘nhà độc tài’ văn học’ (!?), Hồ Trường An ‘dược sĩ (?), nhà văn’…

Những nhà văn nữ như Nguyễn Thị Thụy Vũ được khoác cho cái nhãn ‘nhà văn nữ giầu tình dục’, Túy Hồng ‘nữ văn sĩ giầu tính nhục cảm’, Nguyễn Thị Hoàng ‘nhà văn trẻ của tình lụy’, Thu Vân (?) ‘nhà văn dùng tính dục để giải quyết vấn đề’…

Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ dưới mắt họa sĩ Chóe

Nhà văn Túy Hồng dưới mắt họa sĩ Chóe

Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng dưới mắt họa sĩ Chóe

Một điều không ai có thể phủ nhận là miền Nam trước khi có chiến dịch đốt sách năm 1975 rất phong phú về sách báo, từ sáng tác đến dịch thuật, từ chính luận đến phiếm luận. Điều chắc chắn là trong số các tác phẩm đó ‘có vàng’ nhưng cũng ‘có thau’. Người đọc đủ sáng suốt để lọc ra những gì với họ là tinh túy để giữ lại, hoặc dấu nếu cần.

Khi người Bắc di cư vào Nam năm 1954, họ rất ngạc nhiên khi thấy những người đạp xe xích lô đến buổi trưa, tìm chỗ mát nghỉ ngơi. Họ ngồi gác chân đọc nhật trình. Người bình dân miền Nam có truyền thống đọc sách báo mà ở ngoài Bắc không có. Ngay từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 miền Nam đã là vùng đất của tiểu thuyết và báo chí trong khi ngoài Bắc, sách vở, báo chí phần lớn chỉ dành cho người có học.

Miền Nam vào những thập niên 60-70 lại có hiện tượng giao thoa giữa hai nền văn hóa Pháp và Mỹ với sự du nhập ồ ạt của các loại sách Livre de poche của Pháp và các loại sách soft cover của Mỹ. Giá sách nói chung tương đối rẻ vì mục đích chính là phổ biến văn hóa, thương mại chỉ là phụ.

Người đọc có thể tìm loại sách IC (Information & Culture) dưới hình thức sách bỏ túi (Livre de Poche) của Pháp bày bán tại các nhà sách Sài Gòn trước 1975 một cách dễ dàng. Nếu có chút vốn liếng về tiếng Pháp, người ta có thể tìm đọc những tác phẩm cổ điển của Platon, Homère hoặc các tác phẩm đương đại của Albert Camus, Jean-Paul Sartre, Saint Exupéry, Francoise Sagan…

Quân đội Mỹ ào ạt đổ bộ vào miền Nam, nhưng văn hoá Mỹ có vai trò áp đảo hay không? Theo giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, “Thời chiến tranh lạnh, với thế lưỡng cực trên thế giới, miền Nam nằm trong vùng ảnh hưởng Mỹ, và như vậy là có thêm tác nhân mới. Tuy nhiên, văn hoá Mỹ, theo gót đoàn quân viễn chinh, cũng chưa thể gọi là có ảnh hưởng gì sâu đậm. Ở lối sống, ở những giai tầng thấp thì có thể gọi là có ảnh hưởng một cách xô bồ, nhưng ở thượng tầng thì chưa”.

Hoa Kỳ thành lập cơ quan thông tin-văn hóa JUSPAO (Joint United States Public Affairs Office) và tạp chí Thế giới Tự do được phát hành miễn phí cho mục đích tuyên truyền. Đây là báo ảnh, được in ấn bằng phương tiện tối tân nên rất hấp dẫn người đọc.

Cũng có một nguồn cung cấp sách tiếng Anh hoàn toàn miễn phí nhưng rất ít người biết để đem về kệ sách riêng của mình. Đó là sách của Asia Foundation (Cơ quan Viện trợ Văn hóa Á Châu) một tổ chức phi mậu dịch, tặng không cho người đọc là quân nhân, công chức với số lượng hạn chế mỗi lần 5 quyển cách nhau 3 tháng.

Tôi là ‘khách hàng’ thường xuyên của Asia Foundation. Sách của Asia Foundation là loại sách viện trợ thuộc đủ mọi lĩnh vực, trên sách có đóng dấu bằng 2 thứ tiếng “Not for sale” và “Xin đừng bán”. Nếu gặp may, bạn có thể gặp những sách thuộc loại ‘quý, hiếm’.

Tôi còn giữ được một bộ 2 cuốn World Masterpieces (dày khoảng 3000 trang in lại những kiệt tác văn chương của thế giới qua các thời kỳ như Iliad của Homer, Don Quixote của Miguel de Cervantes, Hamlet của William Shakespeare, Thoughts (Les Pensées) của Blaise Pascal, Faust của Von Goethe, The Death of Iván Ilyich của Leo Tolstoy, Theseus (Thésée) của Andre Gide, Remembrance of  Things Past của Marcel Proust, No Exit của Jean-Paul Sartre…

Sách do Asia Foundation tặng

Một số sách xuất bản ở miền Nam trước 1975 nay đã được in lại, và càng ngày càng có một nhu cầu muốn tìm hiểu và phục hồi lại nền văn học đã mai một này. Hơn nữa, tên tuổi và tác phẩm của những nhà văn nổi tiếng ở miền Nam đã xuất hiện khá nhiều trên Internet. Sau 1975, Từ điển văn học bộ mới cũng được phép in một số mục từ về Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng…

Chỉ tiếc một điều là một số sách báo xưa đã biến mất sau đại họa 1975 và chỉ còn lưu giữ rất hạn chế tại các thư viện tại hải ngoại dưới hình thức microfilm. Rồi người ta cũng quên đi ‘bữa tiệc BBQ’ nhưng vấn đề là những thế hệ sau này sẽ mất hẳn sợi dây liên lạc bằng sách báo với quá khứ.

Kết thúc bài viết này, tác giả xin mượn ý thơ của Vũ Đình Liên than thở cho thân phận ông đồ trước cảnh tàn lụi của nền nho học:

Năm nay đào lại nở

Không thấy sách báo xưa

Ngọn lửa nào năm cũ

Lạc về đâu bây giờ?

Bản chất tham nhũng ở Việt Nam

Đỗ Duy Ngọc

Sáng 5.12, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức hội nghị toàn quốc quán triệt Nghị quyết Hội nghị T.Ư 6 khóa XIII. Trong cuộc họp Trưởng ban Nội chính T.Ư Phan Đình Trạc nhấn mạnh rằng: Nâng cao đời sống để cán bộ không còn tham nhũng chỉ giải quyết được một phần vì những người tham nhũng vừa qua đều là người giàu.

Ông nói đúng, bởi tham nhũng phải có quyền lực. Bản chất của tham nhũng, tiêu cực là lợi dụng quyền lực. Chỉ có cán bộ nhà nước mới có quyền lực và thời nay người giàu chính là các cán bộ. Chỉ cần một cái gật đầu, một chữ ký họ có thể thu về cả triệu đô la. Họ có sân sau, sân trước, tay chân bộ hạ mang về cho họ lợi tức khổng lồ. Doanh nghiệp sống nhờ cán bộ và quan chức làm giàu từ doanh nghiệp. Vẽ vời dự án, duyệt dự án cũng mang lại cho họ những món tiền ba đời ăn không hết. Mối quan hệ giữa đại gia với cán bộ là đường dây không thể tách rời. Không có thế lực chính trị hậu thuẫn, doanh nghiệp khó tồn tại và phát triển.

Đó là chưa kể họ tham nhũng từ ngân sách của nhà nước. Từ lớp cán bộ cấp thấp ở làng, xã, phường cho đến cấp cao đều có dính đến hối lộ và tham nhũng. Họ giàu, rất giàu nên tăng phúc lợi cho họ bằng cách tăng lương là một việc làm vô ích.

Tăng bao nhiêu họ vẫn tham nhũng vì số tiền họ thu được từ chức vụ lớn gấp ngàn lần đồng lương của họ. Khi bị phạm tội họ dùng chính một ít đồng tiền đó để khắc phục hậu quả. Dính vụ nào đền vụ đấy. Nhưng trong thời gian đương chức họ làm cả trăm vụ. Điều tra vụ nào họ chỉ khắc phục vụ đó. Trong quá trình điều tra họ đã tẩu tán phần nhiều tài sản.

Kết án vài ba năm, chục năm trở về họ vẫn là những người giàu. Mà theo ý kiến của cụ Tổng, khắc phục được thì án giảm, nhẹ hều. Thiết nghĩ khi bị dính tội, hành động đầu tiên là phải kiểm kê tài sản và tịch biên. Nếu trong quá trình xét xử nhận thấy số tài sản có nguồn gốc rõ ràng, hợp lý thì sẽ trả lại, con ngược lại làm hồ sơ tịch biên gia sản do tham nhũng mà có. Kiểm kê tài sản của mỗi cá nhân cán bộ là việc cần làm và ai cũng phải bị kiểm tra.

Cách bốc thăm như hiện nay đang áp dụng chỉ là một trò hề. Làm cho có thôi. Chuyện này làm dễ ợt, khó khăn chi.

Thật ra, bàn chơi cho vui thế thôi. Với cách quản lý, điều hành như hiện nay; Với thể chế và cơ cấu cán bộ như hiện nay, không thể và không bao giờ diệt được tham nhũng.

Đừng có mơ giữa ban ngày.

Đ.D.N.

(*) Tựa do BVN đặt

Nguồn: FB Do Duy Ngoc

Hà Nội ới, Hà Nội ơi, Hà Nội ơi…

Kim Văn Chính

8-12-2022

  1. Đá tự nhiên không phải đá nào cũng làm được vật liệu xây dựng, dù chỉ là đá lát vỉa hè

Đại để đá xây dựng có hai loại chính: Đá marble có cấu trúc không định hình, cho vân đẹp, độ nhám tốt, nhưng kém chịu lực, dễ bị phong hóa ố màu, hoặc ngấm nước tự vỡ… Đá granit có kết cấu chắc hơn nhưng lại hay có thớ dọc ngang theo tấm, bề mặt cứng nhưng lại trơn trượt nếu bề mặt bào mòn hay mài bóng.

Do vậy, dùng đá tự nhiên làm vật liệu lát đường, vỉa hè, sân nhà, bia mộ cần nghiên cứu rất cẩn thận và đặt hàng, sản xuất, nghiệm thu rất nghiêm chỉnh chứ không phải chuyện đùa giỡn hoặc ngu ngốc vô học cho rằng cứ đá là bền, cứ đá là chắc, cứ đá là sang…

Các nước có nền văn hóa dùng đá lâu đời và nền khoa học – sản xuất đá có kinh nghiệm họ thường dùng đá granit cho việc ốp, xây tường, làm cột chịu lực…, dùng đá marble làm đá trang trí lát sàn nhà trong nhà, ốp tường… rất đẹp với sức bền hàng thế kỷ. Riêng đá làm đường họ có thể dùng mable hay granit nhưng họ hay dùng đá chẻ thành cục vuông và để thô lát ban đầu trông lổn nhổn và nhám, nhưng đi lại hàng chục năm, hàng trăm năm… dần dần viên đá mòn nhẵn nhưng vẫn không trơn (do đá chẻ miếng nhỏ lát có mạch, có khi chỉ ghép lại với nhau, không có mạch vữa chết cứng…).

  1. Dự án đá hóa vỉa hè Hà Nội là dự án lớn kinh khủng

Nhưng những người làm dự án là một lũ vô học và cẩu thả. Chúng cứ nghĩ đá là bền, là đẹp như các nước họ đã làm…

Hỡi ôi, giờ thì nát bét hết cả vỉa hè Hà Nội rồi: Đá 70 năm thì 2 năm đã vỡ toác.

Chỗ cần nhám (vỉa hè, gờ đường lên xuống xe máy) thì chúng lát đá trơn, ngã cứ oành oạch…

Chỗ cần đá chẻ thì chúng lát đá phiến. Chỗ cần granit thì chúng lát marble. Chỗ cần marble thì chúng lát granit. Chỗ không được gắn vữa cứng thì chúng trét xi măng đóng cứng…

  1. Hết giám đốc này đến giám đốc khác, hết chủ tịch này đến chủ tịch khác, nhưng quyết tâm đá hóa vỉa hè không hề thay đổi

Lần này, Giám đốc Sở Xây dựng Võ Nguyên Phong có khá hơn là công bố nguyên nhân của đá vỡ, vỉa hè vỡ là do “đá gặp mưa tự giãn nở rồi vỡ”.

Ảnh chụp màn hình bài trên báo Tuổi Trẻ

Ông giải thích,chất lượng đá sử dụng để lát vỉa hè Hà Nội được khai thác bằng phương pháp nổ mìn nên đá bị om. Ngoài ra, đá marble thường có gân đá, không được đồng chất, khi mưa xuống thì bị giãn nở, tự vỡ, thậm chí không cần tác động vật lý“.

Nguyên nhân gốc rễ là lát bằng đá marble chứ chỗ nào lát granit vỉa hè không vỡ? Nhưng trơn kinh khủng…

Giống hệt ông nào ngày xưa trả lời đê vỡ là do mưa quá to, có gì đâu, vỡ đê là vẫn theo kế hoạch.

Chủ tịch Nguyễn Thế Thảo xưa là kỹ sư vật liệu xây dựng đấy.

Còn tiểu sử Võ Nguyên Phong: “Tân Giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội sinh năm 1969, quê quán tại Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Ông Võ Nguyên Phong là cán bộ ngành xây dựng với chuyên ngành quản lý đô thị. Ông Phong từng là Phó Giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội.

Ảnh trên mạng

Vào tháng 8/2017, Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội có quyết định điều động ông Võ Nguyên Phong – Phó Giám đốc Sở Xây dựng tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Quận ủy Đống Đa, giữ chức Phó Bí thư Quận ủy nhiệm kỳ 2015 – 2020. Sau đó, HĐND quận Đống Đa đã bầu ông Phong làm Chủ tịch UBND quận“.

Nguyễn Bá Thanh và những vụ bức tử, “giết người diệt khẩu” kinh hoàng ở Đà Nẵng (Phần 2)

Báo Tiếng Dân

Mai Hoa Kiếm

4-12-2022

Tiếp theo phần 1

Xuất gia, đạo và đời

Sư thầy Thích Pháp Vân tên thật là Đỗ Vân, sinh năm 1972, quê ở thôn Quang Châu, xã Hoà Châu, huyện Hoà Vang, Đà Nẵng, trong một gia đình đông con, cùng cực và đói nghèo. Đỗ Vân là con áp út, dưới Vân còn có một em gái.

Vốn hiếu thảo, học giỏi, nhưng “chọn đường tu, mong sao đủ công đức cho kiếp sau cha mẹ, anh em dòng họ bớt khổ”, như sư tâm sự của thầy.

Năm 1982, Đỗ Vân được Hoà thượng Thích Huệ Hướng (1940-1995) trù trì chùa Quán Thế Âm, dưới chân ngọn núi Kim Sơn, thu nạp đệ tử, đặt cho pháp danh Pháp Vân, cùng đồng môn: Pháp Như, Pháp Châu, Pháp Bửu, Pháp Chiếu…

Năm 1990, thể theo nguyện vọng các đồ đệ trưởng thành, Hoà thượng Thích Huệ Hướng khuyến khích đệ tử cứ tự lập tịnh thất để phát triển đạo pháp. Pháp Châu lập tịnh thất Huệ Quang tại ngọn núi Mộc Sơn (nay là chùa Huệ Quang). Pháp Bửu, Pháp Vân ở lại với thầy cho đến khi Hoà thượng lâm trọng bệnh và viên tịch vào năm Ất Hợi 1995.

Ảnh: Làng Quang Châu, quê của sư Pháp Vân. Nguồn: Tác giả gửi cho Tiếng Dân

Ảnh: Chùa Quán Thế Âm, nơi sư Pháp Vân tầm sư học đạo. Ảnh trên mạng

Sau đó mấy năm, khi nỗi nhớ, niềm thương sư phụ nguôi ngoai, sư Vân lên đỉnh Sơn Trà tìm nơi yên tĩnh, tịnh tâm, học đạo tu hành. Bãi Bụt, vùng đất bằng phẳng, hướng vọng về phía chùa Quán Thế Âm, Ngũ Hành Sơn, vị trí này tương truyền có Phật Bà hiển linh, thường hiện ra trong sương mờ, là nơi sư Vân dừng chân, dựng một tịnh thất nho nhỏ. Tháng ngày trôi đi, nơi thâm sơn cùng cốc, sư làm bạn cùng chim muông, cây cỏ, cùng loài voọc chà vá chân nâu. Sư Vân sẽ bình yên gởi nốt phần đời còn lại nơi cửa Phật, nếu như không có một ngày…

Lửa thiêng gào thét

Năm 2004, sau khi đánh bại phe Trần Văn Thanh – Dũng “lửa”, thu tóm được hàng loại chức vụ, bí thư thành uỷ, trưởng đoàn đại biểu Quốc hội, chủ tịch HĐND TP Đà Nẵng, Nguyễn Bá Thanh chính thức trở thành ông trùm ở Đà Nẵng. Một mặt, Bá Thanh cho rà soát, thiết kế lại bộ máy công chức, cài cắm, đưa người của ông ta vào nắm hết công an và chính quyền.

Về tôn giáo, Bá Thanh cũng can thiệp, để đưa người tin cậy vào Hội đồng trị sự giáo hội Phật giáo thành phố, trong đó có thượng toạ Thích Thiện Nguyện (1946-2016), tức “thầy Nguyện”, trụ trì hai ngôi chùa Linh Ứng 1 ở Ngũ Hành Sơn và Linh Ứng 2 ở Bà Nà.

Mặc khác, Bá Thanh chỉ đạo cho ồ ạt “chỉnh trang đô thị”, thẳng tay đàn áp, cưỡng chế thu hồi đất, móc nối chia chác dự án, phân lô bán nền. Hàng ngàn đại gia, doanh nghiệp, “ông lớn” bất động sản từ TPHCM và Hà Nội đổ về Đà Nẵng để xí phần. Dân oan bị những kẻ nhân danh đảng và nhà nước cướp đất, mất nhà, kêu khóc như xé nát trời xanh.

Từ sau vụ án Phạm Minh Thông, Nguyễn Bá Thanh cảnh giác rất cao. Ông ta không trực tiếp nhận tiền chung chi, hối lộ, mà thông qua thư ký, tay chân như Phan Văn Tâm, Vũ “nhôm” và vài nhân vật tin cẩn khác. Thậm chí, doanh nhân đến nhà chơi, hầu chuyện dịp Tết, Bá Thanh cũng buộc họ cởi bỏ veston, áo khoác, để điện thoại bên ngoài, nhằm tránh bị ghi âm, ghi hình.

Để lấy được dự án, được giao đất, được bất động sản, công sản với giá bèo bọt, doanh nghiệp phải hối lộ cho Bá Thanh khoản tiền từ 8-10% giá trị lô đất, giá công sản, tùy vị trí. Tiền có được, một phần ông ta chung chi cho các “đại ca” trung ương, phần còn lại thì bỏ túi. Về sau, thấy việc lấy tiền qua các “đầu sai” dễ bị lộ, nên Bá Thanh nghĩ ngay đến việc rửa tiền qua chùa.

Bá Thanh cho phép thầy Nguyện chọn bất kỳ địa điểm nào mà thầy muốn, để xây chùa Linh Ứng 3, ông ta cũng giúp “giải phóng mặt bằng”. Thoả thuận “tội lỗi” được Bá Thanh đề nghị, tiền của thập phương cúng dường công đức xây chùa, thì thầy Nguyện lấy, còn tiền doanh nghiệp, công ty “ủng hộ xây chùa” sẽ là của Bá Thanh. Mỗi tuần, hai bên đối chiếu, chia tiền qua biên lai, sổ sách.

Thầy Nguyện muốn xây được chùa to, hoành tráng để đời, nên tất tật phải chấp nhận, nghe theo mọi yêu cầu Bá Thanh đưa ra. Bù lại, Bá Thanh hứa sẽ trích thêm chút tiền cho thầy Nguyện xây Linh Ứng 3 và đưa thầy lên đỉnh cao quyền lực trong hệ thống Phật giáo thành phố.

Chùa Linh Ứng 3, sau này có tên Linh Ứng Bãi Bụt, được thầy Nguyện chọn ngay địa điểm gần sư Vân thiền tu. Bá Thanh cấp ngay gần 20 hecta đất, lấy trùm luôn tịnh thất nhỏ bé của sư Vân. Chùa được khởi công ngày 4-7-2004 và khánh thành ngày 30-7-2010. Ròng rã suốt 6 năm, số tiền ước đoán lên đến hàng ngàn tỷ đồng hối lộ, núp dưới mác “ủng hộ xây chùa”, đã chảy vào túi Bá Thanh.

Chùa Linh Ứng Bãi Bụt. Ảnh trên mạng

Một số hình ảnh Nguyễn Bá Thanh trong ngày khánh thành chùa Linh Ứng – Bãi Bụt. Nguồn: Báo Giác Ngộ

Về phần sư Vân, được biết, sư không hề oán trách hay tranh giành đất đai gì với thầy Nguyện. Bởi lẽ, đất của “nhà nước quản lý”, tịnh thất nép mình sau đại tam bảo cũng là kính Phật, thầy Nguyện cũng là bạn thân với cố hoà thượng Thích Huệ Hướng và cũng là người sư Vân luôn kính trọng và ngưỡng mộ, lúc rỗi sư Vân thường sang bên thầy Nguyện đàm đạo. Thầy đâu biết rằng, những tháng ngày bình yên, tĩnh lặng mà thầy đang tu tập nơi núi cao, sắp chấm dứt.

Một buổi trưa đầu tháng 8-2008, sư Vân sang thăm thầy Nguyện như thường lệ. Cửa chính không đóng, sư Vân sững người lại khi nhìn thấy ông trùm Nguyễn Bá Thanh và thầy Nguyện đang kiểm đếm tiền, lấy từ các két sắt để chia nhau. Sư Vân không tin vào mắt mình, khi thấy toàn những xấp Mỹ kim dày cộm và những cây tiền đồng Việt Nam nguyên đai, nguyên kiện còn dấu niêm phong của ngân hàng. Quan ngại lẫn kinh sợ, sư Vân xin phép cáo từ, quay lui.

Sư Vân đi rồi, Bá Thanh chau mày nói với thầy Nguyện: “Thầy tính răng (sao) thì tính, chứ phải xử nó thôi”. Một tuần sau, thầy Nguyện cùng bộ phận hậu cần, quản viện bên chùa Linh Ứng 3, hô hoán, bị kẻ trộm lẻn vào lấy đi số tiền 50 triệu đồng. Rất nhanh, công an Đà Nẵng vào cuộc điều tra. Giám đốc CA Phan Xuân Sang, cùng các phó giám đốc như Thái Công Sỹ, Lâm Cao Luynh, Nguyễn Đình Chính đều thay nhau chỉ đạo rốt ráo. Người ta tìm thấy bọc tiền đúng 50 triệu được giấu trong chậu hoa trong khuôn viên tịnh thất của sư Vân.

Cơ quan điều tra liên tục triệu tập sư Vân để lấy cung, nhưng sư có biết gì đâu để khai báo. Không một ai đứng ra biện bạch, giải oan, ngược lại mọi con mắt hồ đồ đều ném cái nhìn đầy nghi kỵ về phía sư Vân. Cuối cùng, sư Vân cũng nhận được đề nghị lựa chọn từ điều tra viên. Một là sư Vân phải vĩnh viễn rời khỏi tịnh thất, ra đi thật xa; hai là sư sẽ bị khởi tố, tội danh “trộm cắp tài sản”.

Đớn đau cả về nhục thể lẫn tinh thần, nước mắt nhà sư uất nghẹn như hoà trong mây ngàn, gió núi…

Biết trước sau gì Bá Thanh cũng sẽ mượn bàn tay công an côn đồ hoặc

xã hội đen giết mình, nên sư Vân đã ghi âm toàn bộ sự thật câu chuyện, cùng đôi lời trăng trối vào điện thoại di động, rồi chuyển về cho gia đình.

Để giữ sự sáng trong, đạo hạnh suốt 25 năm của bậc chân tu nương nhờ cửa Phật, sư Vân đành phải hoá thân.

Lúc 9h sáng, ngày 15-8-2008, tức ngày 15-7 năm Mậu Tý, khi bình minh chưa tan hết những giọt sương mai, sư Vân rời tịnh thất, xuống khúc quanh cung đường dẫn lên chùa Linh Ứng 3, rồi tưới xăng châm lửa tự thiêu. Ngọn lửa bao trùm xác thân vị sư thầy vô tội, khói đen cuộn lên như dấu hỏi to ngáng giữa lưng trời.

Dân chài vùng Thọ Quang gần đó cho biết, công an phong toả tất cả các ngã đường lên xuống chùa. Không có ai dập lửa cho đến khi có tiếng sét đùng đùng nổ giữa trời quang. Có lẽ trời Phật cũng khóc thương cho thân phận cô đơn, oan khốc của bậc tu hành, nên giáng mưa giông bất ngờ, làm tắt ngọn lửa sắp tàn.

Công an Đà Nẵng xoá sạch hiện trường trong buổi sáng. Thi thể sư Vân được bàn giao cho gia đình đưa về quê mai táng. Truyền thông của đảng cấm đưa bất kỳ thông tin nào, vì vậy ngày đó, kể cả người dân Đà Nẵng, cũng không nhiều người biết sự việc.

Khúc quanh, địa điểm nơi sư Vân tự thiêu. Nguồn: Tác giả gửi tới Tiếng Dân

Tiếc thương bậc chân tu, khổ hạnh, nguyện duyên bạc mệnh, dân trong vùng lập một am nhỏ ngay vị trí sư tự thiêu, để nhang khói tưởng niệm. Người ta cho rằng, lửa thiêng gào thét đưa sư Vân hoá thân về cõi Phật tại Bãi Bụt năm ấy, như hồi chuông mong mỏi thức tỉnh lương tri những kẻ tham lam, gian ác, vô minh.

Mấy năm sau đó, luật pháp chưa đụng đến, nhưng luật trời đã ra tay. Những “đại quan” cai trị sở tại, từng dính líu đến oan án sư Vân, cũng lần lượt quy hồn địa phủ khi còn đương chức, nắm quyền sinh sát trong tay.

Thiếu tướng Phan Xuân Sang, giám đốc CA Đà Nẵng, bị ung thư gan, chết hồi tháng 1-2011, hưởng dương 59 tuổi.

Các cấp phó của Phan Xuân Sang cũng chịu chung số phận:

– Đại tá Lâm Cao Luynh, bị ung thư não, chết tháng 8-2015, hưởng dương 55 tuổi.

– Đại tá Thái Công Sỹ, bị ung thư vòm họng, nằm trên giường bệnh suốt 8 năm rồi đứt bóng vào tháng 9-2016, ở tuổi 61.

Riêng Nguyễn Bá Thanh được cho là bị đầu độc phóng xạ (ARS). Sau ba lần hoá trị không thành công, người co quắp, đen sì như bị hỏa thiêu rồi chết trong trong đau đớn hồi tháng 2-2015, khi gần tới tuổi 62.

Riêng cá nhân thầy Nguyện, đang khoẻ mạnh bỗng dưng phát bệnh, bệnh viện Đà Nẵng không chữa trị được. Dù đưa vào bệnh viện Việt-Pháp rồi bệnh viện 115 TPHCM, nhưng các bác sĩ hàng đầu vẫn bó tay.

Tháng 9-2016, hòa thượng Thích Thiện Nguyện, chức vụ Ủy viên Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Trưởng ban Trị sự Giáo hội Phật giáo TP Đà Nẵng; Ủy viên Ủy ban MTTQ Việt Nam TP Đà Nẵng; đại biểu HĐND TP khoá VII, VIII; Trụ trì chùa Linh Ứng 1,2,3 Đà Nẵng, trút hơi thở cuối cùng.

***

Dưới bàn tay của Nguyễn Bá Thanh, còn rất nhiều vụ án kinh người, mà trong khuôn khổ bài này không thể kể hết.

Vụ huy động cả ngàn công an Đà Nẵng đàn áp đẫm máu Giáo xứ Cồn Dầu vào ngày 4-5-2010, bắt nhiều người, đánh dập não đến chết giáo dân Nguyễn Thành Năm vào ngày 3-7- 2010, sau đó loan tin rằng ông Năm “bị đột quỵ” mà nhiều người đã biết.

Hay vụ kỹ sư Phạm Thanh Sơn, đến trụ sở UBND TP để khiếu kiện về việc cưỡng chế thu hồi đất, bị công an bảo vệ tại đây đánh chết, quẳng ra đường Bạch Đằng tưới xăng đốt xác phi tang, rồi rêu rao đó là vụ tai nạn giao thông lúc 12h30 trưa ngày 17-2-2011. Sau, truyền thông của đảng lại đưa tin, kỹ sư Sơn “bị bệnh tâm thần nên tự thiêu”.

Đó chỉ là hai trong số hàng trăm vụ oan án, dân bị cướp đất, bị đánh chết nếu khiếu kiện kéo dài.

Hai năm sau ngày Bá Thanh chết, Ban thường vụ Thành uỷ Đà Nẵng chỉ đạo làm hồ sơ, đề nghị nhà nước truy phong cho ông ta danh hiệu “Anh hùng lao động” và đề nghị được lấy tên đặt cho một con đường.

Dư luận xã hội mỉa mai, kẻ sẵn sàng thủ tiêu đối thủ chính trị, bức tử cả người xuất gia tu hành, nấu cao hổ và nghiện món thịt chó như Bá Thanh, lại được xưng thánh và truy phong anh hùng, thì Lê Thanh Hải, tức Hai Nhựt ở Sài Gòn, phải được gọi là “đại thánh” và phong tặng “đại anh hùng”.

Còn dân nghèo bị cưỡng chế cướp đất, khi họ lên tiếng bảo vệ tài sản của mình thì bị quy chụp “phản động”, bị đánh đập dã man đến chết, là chuyện không hề hiếm tại xứ “thiên đường XHCN” dưới chế độ cộng sản.

Điều kỳ lạ là, dù cướp cạn của dân, bán hết tài nguyên lẫn công sản Đà Nẵng để rồi mở vài tuyến phố, xây dăm ba cây cầu, “hung thần” Nguyễn Bá Thanh lại được đồng đảng tôn vinh như thánh. Chừng đó thôi đủ để thấy chế độc độc tài tàn bạo khát máu, nhưng luôn dùng đủ ngón nghề, thủ đoạn xảo trá, mị dân, lừa đảo, bịp bợm, gây ra muôn vàn tội ác cho dân. Nhưng tất cả bọn chúng đều không thoát khỏi lưới trời!