Nguyễn Ánh hay Hồ Chí Minh: Ai là người “bán nước”, ai là người “cõng rắn cắn gà nhà”?

Ba’o Tieng Dan

31/10/2025

Trương Nhân Tuấn

31-10-2025

Sử gia CSVN lên án Nguyễn Ánh “bán nước”, bằng chứng là Hiệp ước Versailles 1787 và vụ cắt đất Trấn Ninh. Hiệp ước Versailles Nguyễn Ánh hứa nhượng Đà Nẵng và đảo Côn sơn cho Pháp. Đất Trấn Ninh, sau khi lên ngôi Nguyễn Ánh cắt Trấn Ninh để ban thưởng cho vua Ai Lao đã có công giúp Nguyễn Ánh trong chuyện dẹp Tây Sơn.

Thực tế là gì?

Hiệp ước Versailles 1787 không được thi hành. Quan chức Pháp thấy là “không có lợi Pháp”, do đó khước từ. Tức là hiệp ước đơn thuần “vô giá trị”. Nguyễn Ánh không có nhượng “cục đất” nào cho Pháp cả.

Còn đất Trấn Ninh bị Pháp sáp nhập vào Ai Lao để dựng lên nước Lào. Điều không thấy ai nói là sau đó Pháp tách ra từ Lào (và Cambodge) vùng đất rộng lớn, gồm cao nguyên trung phần (bao gồm Darlac, Đà Lạt, Kon Tum v.v..) để sáp nhập vô Việt Nam, để “đền bù” cho Việt Nam vụ Trấn Ninh. Vụ này tôi có viết hôm trước.

Sử gia CSVN phê phán Nguyễn Ánh dựa trên “ý định nhượng đất cho Pháp”.

Vấn đề là việc phê phán của họ không dựa trên tinh thần khách quan, khoa học, mà lại dựa theo ý kiến của ông Hồ Chí Minh trong một “bài vè”, tựa đề “Lịch sử nước ta”. Trong bài có các câu:

“Gia Long lại dấy can qua,

Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.

Tự mình đã chẳng có tài,

Nhờ Tây qua cứu, tính bài giải vây.

Nay ta mất nước thế này,

Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà,

Khác gì cõng rắn cắn gà,

Rước voi giầy mả, thiệt là ngu si…”

Đâu phải cái gì ông Hồ nói, hay làm cái gì thì những cái đó đều đúng hết đâu!

Ông Hồ bị sử gia Tây phương xếp chung “một giỏ” với những “đồ tể cộng sản” như Mao Trạch Đông, Pol Pot… Họ Mao trách nhiệm về cái chết của hàng trăm triệu người Hoa. Pol Pot trách nhiệm “diệt chủng” 1/4 dân Cambodge. Ông Hồ chỉ giết sơ sơ có 4 triệu người Việt mà thôi.

Thực tế cho thấy những gì mà ông Hồ nói về Gia Long đều là “vu khống”, vì không có bằng chứng.

Nguyễn Ánh có “rước Tây vào nhà không?”

Pháp chiếm 6 tỉnh Nam kỳ, sau đó chiếm Bắc kỳ, vì nhiều lý do mà không có lý do nào cho thấy có yếu tố “Nhà Nguyễn rước Tây vô nhà” hết cả.

Pháp chiếm Việt Nam “bằng vũ lực”. Pháp chiếm 6 tỉnh Nam kỳ bằng vũ lực. Pháp chiếm Hà nội bằng vũ lực. Pháp đánh quân Thanh để “bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của nước An Nam” bằng vũ lực. Cuộc chiến tranh với nhà Thanh khiến Pháp thiệt hại nặng nề. Chuyện này tôi cũng nói rồi.

Tôi có thể kết luận rằng ông tổ ngành “sử phịa” của Việt Nam là ông Hồ!

Giả sử rằng nhà Tây Sơn không bị Nguyễn Ánh tiêu diệt. Liệu nhà Tây Sơn có giúp Việt Nam giữ được “độc lập” hay không?

Theo tôi là không! Càng “cương” thì càng chết nhiều.

Cùng thời kỳ, những đế quốc sừng sỏ nhứt, từ Ấn Độ cho tới Trung Hoa, tất cả đều bị thực dân chiếm đóng làm thuộc địa. Trung Hoa bị các đại cường “phân liệt” thê thảm hơn hết. Vì đế quốc này giàu quá. Đây là thời kỳ “trăm năm nhục nhã” của đất nước Trung Hoa. Tất cả các nước trong khu vực, không ngoại lệ, từ Ấn Độ trải dài qua tới Trung Hoa, đều trở thành thuộc địa của nước ngoài.

Ngoại trừ Nhật, nước này thấy coi bộ “chống không lại” nên “thua trước cho cao cờ”. Bèn mở cửa cho nước ngoài (Mỹ) vào buôn bán. Mục đích của Mỹ, cũng như các đế quốc khác, là tìm một chỗ trú chân, trước để buôn bán, sau là nơi dưỡng quân. Mục đích của các đế quốc là “xẻ thịt” con heo mâp ú là Trung Hoa.

Việt Nam đã có thể trở thành một nước Nhật, nếu Hiệp ước Versailles 1787 được Pháp thi hành. Việt Nam được một đại cường hải quân bảo vệ, qua một hiệp ước “an ninh hỗ tương”, không khác gì các hiệp ước an ninh giữa Mỹ và các đồng minh NATO hay Nhật, Hàn, Phi… Nước nào lại không cắt đất cho Mỹ đóng quân? Nước nào không trả tiền để được Mỹ bảo vệ? Vụ này tôi cũng đã nói rồi.

***

Không có một bằng chứng nào cho thấy nhà Nguyễn “cõng rắn cắn gà nhà”. Nhưng có rất nhiều bằng chứng cho thấy ông Hồ và các hậu duệ cộng sản của ông đích thị là những kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”. Ngoài ra còn có bằng chứng cho thấy ông Hồ và hậu duệ đã “bán nước có văn bản”.

Biết bao nhiêu tài liệu từ nguồn Trung quốc, từ Mỹ, trong các thư viện các nước Tây phương… từ nhiều thập niên trước, đã cho ta thấy vai trò của Trung quốc trong cuộc kháng chiến gọi là “đánh Pháp giành độc lập”.

Khởi đầu phải tính từ cột mốc tháng 8 năm 1945: Thời điểm Nhật đầu hàng Đồng minh. Sử sách CSVN khoe khoang là “Việt Minh đã thành công đánh pháp, đuổi Nhật, chạy đua với Đồng minh để cướp chính quyền“.

Sự thật là sau khi quân Đồng minh vào Việt Nam để giải giới quân Nhật, miền Bắc được ủy nhiệm cho quân Trung Hoa Dân quốc và miền Nam cho quân Anh. Quân Trung Hoa vô tới đâu là tước vũ khí của Việt Minh tới đó, rồi giao chính quyền địa phương cho quân Việt Quốc. Miền Nam thì Anh “trả chủ quyền của An Nam” lại cho Pháp. Tức là không có vụ “đánh Pháp, đuổi Nhật, chạy đua với Đồng minh” mà chỉ có vụ Việt Minh “chạy có cờ”.

Nhờ thuật “bôi trơn” (truyền lại cho tới ngày nay) ông Hồ được Trung Hoa ủng hộ, ép Pháp ký Hiệp ước sơ bộ. Vấn đề là khi ký nhận, ông Hồ nhìn nhận “nước của ông Hồ” thực tế chỉ là một “tiểu bang tự do” trong “liên bang Đông dương thuộc Pháp”. Tức là cái “chính danh” của ngày 2-9-1945 rốt cục chỉ là “làm tay sai” lại cho Pháp mà thôi!!! Vụ này ông Bảo Đại có phê bình như vầy: “Để sửa sai ông Hồ đã đưa đất nước vào biển máu“.

Rõ ràng y chang như vậy: Ông Hồ đã đưa đất nước vào biển máu.

Sau năm 1949, nhờ sự trợ giúp về quân sự lẫn nhân sự từ cộng sản Tàu, lực lượng ông Hồ ngày càng mạnh, trên vùng biên giới. Trận Điện Biên Phủ năm 1954, quân ông Hồ thắng quân Pháp hay là quân Tàu thắng quân Pháp?

Bàn cãi vụ này tới chiều chưa hết. Để biết ai thắng, ta nên quy chiếu về Hiệp định Genève 1954. Bên nào chủ động trong bàn Hội nghị Genève? Xin thưa một bên là Pháp (dĩ nhiên), bên kia là Trung Cộng. Châu Ân Lai đóng vai chánh, Phạm Văn Đồng ngồi cho có. Kết quả phân chia Việt Nam ở vĩ tuyến 17, là quyết định của họ Châu.

Tới đây tạm đặt một dấu chấm để nói về “quyền dân tộc tự quyết”, là nền tảng của tính “chính danh” trong cuộc “đánh Pháp giành độc lập” của phe Cộng sản Việt Nam.

Làm gì có chuyện “tự quyết”, bởi vì sau lưng ông Hồ có Trung Cộng ủng hộ, từ cây súng, viên đạn, hột gạo… Trên mặt trận thì cố vấn Tàu Cộng chỉ vẽ đánh thế nào, đánh ở đâu v.v… Trên bàn hội nghị thì có Châu Ân Lai thương nghị với Pháp. Tức là Trung Cộng thủ vai chánh, “quyết” mọi thứ với địch thủ là Pháp.

Trong khi Việt Nam đã được Pháp trả độc lập trước đó 5 năm rồi, qua Hiệp ước Elysée 1949.

Việt Nam đã độc lập rồi, năm 1951 nước Việt Nam này tham dự Hội nghị San Francisco 1951, với tư cách là “quốc gia độc lập có chủ quyền, có tuyên bố chiến tranh với Nhật“. Việt Nam là khách mời của Mỹ.

Chuyện “đánh Pháp giành độc lập” của ông Hồ thực tế chỉ là chuyện “thọc gậy bánh xe” của Trung Cộng. Mao Trạch Đông không muốn có một Việt Nam thân tư bản ở sát nách nước mình.

Cho đến năm 1958, ông Hồ và chính phủ ký công hàm 1958, trong đó tôn trọng và thực thi mọi yêu sách về lãnh hải 12 hải lý, trên những vùng lãnh thổ của Trung quốc. Vấn đề là yêu sách của Trung Quốc bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Công hàm Phạm Văn Đồng ký năm 1958. Ảnh trên mạng

Quan điểm của nhà nước CSVN đối với công hàm này là gì?

Đó là nhà nước CSVN chỉ nhìn nhận lãnh hai 12 hải lý mà thôi. Không có chuyện gì khác nữa.

Theo tôi đây là lập luận ngu xuẩn nhứt trong những lập luận ngu xuẩn khác của CSVN về chủ quyền biển đảo.

Khi công nhận hiệu lực 12 hải lý thì nhà nước CSVN đã mặc nhiên nhìn nhận hiệu lực của công hàm 1958.

Mọi bàn luận khác của học giả CSVN chung quanh chuyện này để phủ nhận công hàm 1958 trở thành chuyện hài.

Vấn đề là khi nhìn nhận hiệu lực công hàm 1958 rồi, thì công hàm này phải được rọi dưới luật pháp quốc tế.

Chiếu luật quốc tế về “hiệu lực các tuyên bố đơn phương”. Không cần giải thích dông dài. Khi Việt Nam đã nhìn nhận hiệu lực công hàm 1958. Việt Nam đã mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Chiếu Luật quốc tế về Biển 1982, Việt Nam nhìn nhận hiệu lực công hàm thì Trung Quốc có quyền yêu sách hải phận các đảo Hoàng Sa và Trường Sa lên tới 200 hải lý.

Ngưng chuyện Hoàng Sa và Trường Sa ở đây.

Là gì? Là đích thị ông Hồ và hậu duệ ông Hồ đã chủ trương “bán nước”. Bán nước có văn tự hẳn hoi.

Học giả CSVN nghe ông Hồ dựng chuyện về Nguyễn Ánh rồi cả đàn hùa nhau “lật sử”, buộc Nguyễn Ánh về tội “bán nước”.

Ai bán nước có văn tự, Gia Long hay ông Hồ?

Cho tới cuộc chiến 54-75, có tới trên 300 ngàn quân Trung Cộng có mặt tại Việt Nam, giúp CSVN trong suốt cuộc chiến tranh “đánh Mỹ cứu nước”.

Theo luật quốc tế về việc thực thi quyền “dân tộc tự quyết”, khi một dân tộc gọi là “bị áp bức” nhờ tay một thế lực ngoại bang giúp đỡ để chống lại thế lực áp bức, quyền tự quyết của dân tộc này đã tiêu vong. Ta thấy quân Palestine khi chống Do thái, với danh nghĩa là sử dụng “quyền dân tộc tự quyết”, ta thấy có người ngoài nào trong hàng ngũ của họ hay không?

Tức là khi CSVN vịn vào quyền “dân tộc tự quyết” để “đánh Mỹ, giải phóng miền nam” mà trong hàng ngũ của họ lại có mặt 30 sư đoàn quân Tàu Cộng, thì CSVN không còn chánh nghĩa nào nữa cả.

Ngay cả khi quân Tàu chỉ đóng ở ngoài Bắc, thì theo luật và tập quán quốc tế, Trung Cộng vẫn là “một bên” can dự vào chiến tranh Việt Nam. Đây là lý do mà các nước EU không gởi quân giúp Ukraine tự vệ đánh lại Nga, ngay cả khi đạo quân này chỉ ở hậu phương không chạm súng với Nga.

Tức là gì?

Là không có chuyện “giải phóng miền Nam” mà chỉ có chuyện “xâm lược miền Nam”. Khi quyền tự quyết đã tiêu vong thì danh nghĩa “giải phóng” cũng thành mây khói.

Rốt cục lại, Gia Long hay Hồ Chí Minh, ai là kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”?

Rắn Trung Cộng, rắn Liên Xô, rắn Bắc Hàn… có mặt cả đàn theo lời kêu gọi của ông Hồ và đảng CSVN.

Phê phán Gia Long thì phải lập luận theo “hệ quy chiếu thiên mạng”.

Phê phán ông Hồ thì phải quy chiếu theo luật lệ và tập quán quốc tế hiện hành.

Không phải ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN “cõng rắn cắn gà nhà” thì còn ai vô đây?

Có người dân miền Nam nào muốn được mấy ông cộng sản giải phóng? Không có ai hết. Việt Cộng vô tới đâu dân chạy “chết mẹ” tới đó, biết chết trong bụng cá họ vẫn chạy. Ngay cả bây giờ, thà chết trong thùng đông lạnh người Việt Nam vẫn bỏ nước ra đi. Không có bấy nhiêu người muốn ở lại Việt Nam để “xây dựng đất nước” với đảng CSVN hết cả.

Không ai tin vào cộng sản bất cứ một chuyện gì hết cả, huống chi là chuyện lịch sử.


 

Đảo chính 1-11-1963: Đại sự bất thành của bốn đại tá dân ông Tạ

Ba’o Tieng Dan

01/11/2025

Cù Mai Công

1-11-2025

(Ba cái chết thảm, một án tử hình và năm mộ phần ở khu ngoại vi/ phụ cận/environ vùng Ông Tạ. Xin nói rõ: Tôi không phải là người viết sử mà chỉ ghi nhận thông tin từ góc người Ông Tạ. Nhưng lịch sử VNCH chắc chắn sẽ phải viết lại hoàn toàn nếu mưu sự ấy thành công).

Trong một con hẻm trên đường Thánh Mẫu (nay là Bành Văn Trân, Tân Bình cũ, TP.HCM) có một ngôi nhà khá lặng lẽ. Dân trong xóm này gọi bà chủ nhà lịch thiệp, lộ rõ nét sang trọng này là o Khôi. Ít ai biết đó là vợ đại tá VNCH Lê Quang Tung – tư lệnh Lực lượng Đặc biệt VNCH, phụ trách Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống phủ.

O Khôi hay đi bộ đến thăm gia đình đại tá Bùi Dzinh cách nhà o hơn trăm thước, đối diện hồ tắm Cộng Hòa. Phó của ông Tung là đại tá Trần Khắc Kính, nhà khu Bắc Hải – Ông Tạ, con rể cụ lý Sóc trong ngõ Con Mắt – Ông Tạ; cách nhà cũ của nhà thơ Đỗ Trung Quân chừng vài chục mét.

ĐẠI SỰ BẤT THÀNH

Ông Dzinh, ông Tung cùng Công giáo nhiều đời như gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm, thậm chí đồng hương Lệ Thủy (Quảng Bình), Huế với ông Diệm nên không khó để biết hai vị này rất ủng hộ ông Diệm. Riêng ông Tung, người tuyệt đối trung thành với ông Diệm; từng được ông Ngô Đình Nhu giao nhiệm vụ thành lập Quân ủy Trung ương đảng Cần Lao. CIA lúc đó xếp ông là người có quyền lực nhất ở Nam Việt Nam, sau anh em ông Diệm và ông Nhu.

Ngày 15.3.1963, Tổng thống Diệm đổi Sở Liên lạc thành Lực lượng Đặc biệt, thăng ông Tung lên đại tá, tư lệnh Lực lượng Đặc biệt, ông Kính làm phó.

Lực lượng Đặc biệt và Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống phủ là nỗi ám ảnh thất bại của nhóm tướng lĩnh đảo chính với hậu thuẫn của Mỹ – như đã từng thất bại trong cuộc đảo chính năm 1960. Ngày 19.10.1963, tướng Paul D. Harkins, chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ ở Việt Nam Cộng hòa thông báo cho Tổng thống Diệm biết ngân khoản Hoa Kỳ dành cho Lực lượng Đặc biệt bị cắt giảm.

Rõ ràng phía Mỹ đã “ngửi mùi” một âm mưu đáng sợ từ Lực lượng Đặc biệt mà hai vị tư lệnh và phó tư lệnh là Lê Quang Tung và Trần Khắc Kính – đều là dân Ông Tạ – đã lên kế hoạch: Một nhóm lính thuộc Lực lượng Đặc biệt mặc đồ thường dân sẽ phóng hỏa đốt Tòa đại sứ Mỹ, ám sát đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr. và một số quan chức chủ chốt của tòa đại sứ.

Và nhóm tướng lĩnh âm mưu đảo chính, với hậu thuẫn của Mỹ và đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr., ra tay trước.

NGÀY LỄ CÁC THÁNH, CÁC LINH HỒN 1 VÀ 2-11-1963 ĐẪM MÁU

Cả Tổng thống Diệm và ba vị đại tá kia đều là người Công giáo nhiệt thành chắc chắn không bỏ qua việc dự thánh lễ những ngày này. Thực tế sáng 2-11, ngay trong cơn dầu sôi lửa bỏng, thập tử nhất sinh, trước khi quyết định gọi điện thoại cho phe đảo chính báo nơi ẩn náu của mình, ông Diệm và em trai là ông Nhu vẫn bí mật dự lễ Các linh hồn ở nhà thờ Cha Tam.

Cuộc đảo chính của nhóm các tướng lĩnh, do tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, có lẽ đã tính toán cả những chuyện này khi quyết định chọn ngày D cho cuộc đảo chính: 1-11-1963.

Tuy nhiên, ngày 1-11, trong khi đại tá Kính cùng gia đình chuẩn bị bước vào nhà thờ An Lạc, nơi mà “thằng bé” sau này là nhà thơ Đỗ Trung Quân từng giúp lễ để dự lễ Các thánh thì đại tá Lê Quang Tung lại phải chuẩn bị đến Bộ Tổng tham mưu (nay là Bộ Tư lệnh Quân khu 7) cách khu An Lạc khoảng cây số – theo yêu cầu của nhóm tướng lĩnh tổ chức cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm.

Trong cuộc gặp này, ông Tung đứng lên phản đối cuộc đảo chính, bị lôi ra ngoài giết chết. Sau đó, em trai ông Tung là thiếu tá Lê Quang Triệu, tham mưu trưởng Lực lượng Đặc biệt vào Bộ Tổng tham mưu tìm anh cũng bị giết.

Thân xác của hai anh em ông Tung và ông Triệu bị vùi ở đâu đó ở khu vực nghĩa trang Bắc Việt (nay là khu vực chùa Phổ Quang, Tân Bình cũ), bên hông Bộ Tổng tham mưu mà tới giờ vẫn chưa tìm thấy.

Một ngày sau khi hai anh em ông Tung – ông Triệu bị thảm sát, ngày 2-11-1963, hai anh em ông Diệm và ông Nhu cũng bị thảm sát đẫm máu.

Điều trùng hợp là thoạt đầu, trước khi dời mộ về nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (nay là công viên Lê Văn Tám), hai ông Diệm – Nhu cũng được chôn cất gần nơi hai anh em ông Tung – Triệu bị giết (nghĩa trang Bắc Việt). Cụ thể hai ông Diệm, Nhu ban đầu đã được an táng trong một nghĩa trang trong khuôn viên Bộ Tổng Tham mưu, cạnh mộ Lê Văn Phong, em ruột Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt…

Sáu tháng sau, ngày 22-4-1964, em trai Tổng thống Diệm là ông cố vấn miền Trung Ngô Đình Cẩn bị Tòa án Cách mạng tuyên án tử hình. Ngày 9-5-1964, ông Cẩn bị hành quyết bằng xử bắn và chôn cất ở nghĩa trang Bắc Việt – xã Tân Sơn Hòa, ngoại vi Ông Tạ, cách mộ hai anh mình vài trăm thước.

Như vậy, ban đầu cả ba anh em ông Diệm – Nhu – Cẩn đều được chôn cất trên phần đất xã Tân Sơn Hòa, sát bên vùng Ông Tạ (trung tâm xã Tân Sơn Hòa).

MỘT ĐẠI TÁ BỊ TUYÊN TỬ HÌNH, MỘT ĐẠI TÁ BỊ SÁT HẠI

Ngày 1-11-1963, hay tin cuộc đảo chính nổ ra ở Sài Gòn, đại tá Bùi Dzinh đã lập tức điều động Trung đoàn 15 thuộc Sư đoàn 9 bộ binh và một pháo đội của Tiểu đoàn 9 pháo binh về phản đảo chính.

Nhưng đại tá Nguyễn Hữu Có, thuộc phe đảo chính, đã dàn lính Sư đoàn 7 bộ binh chặn ở ngã ba Trung Lương sau khi ra lệnh cho tỉnh trưởng Định Tường – trung tá Nguyễn Khắc Bình rút hết phà tại bến bắc Rạch Miễu và Mỹ Thuận về bờ phía Mỹ Tho để ngăn Sư đoàn 9 vượt sông Tiền.

Đây không phải là lần đầu tiên ông Dzinh phản đảo chính cứu Tổng thống Ngô Đình Diệm, người đồng hương huyện Lệ Thủy, Quảng Bình của mình. Ba năm trước, ngày 11-11-1960, ông Dzinh, lúc ấy là trung tá, tư lệnh phó kiêm tham mưu trưởng của Sư đoàn 21 bộ binh, cũng từ miền Tây mang một pháo đội 105 cùng đại úy Lưu Yểm, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/33 của của Sư đoàn 21 bộ binh kéo về Sài Gòn nhổ chốt Phú Lâm, do Tiểu đoàn 8 Nhảy dù trấn giữ; thẳng đường về Dinh Độc Lập dẹp tan cuộc đảo chính do đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu.

Ông Dzinh không ngồi yên. Ngày 19-2-1965, ông cũng ra tay: Tham gia cuộc đảo chính nhằm lật đổ tướng Nguyễn Khánh, do thiếu tướng Lâm Văn Phát chỉ huy cùng đại tá Phạm Ngọc Thảo.

Cuộc đảo chính thất bại. Ông Dzinh chạy về vùng Ông Tạ, ẩn náu ở lò bánh mì nhà ông bà Dần trên đường Thánh Mẫu, sau đó sang Nhà hưu dưỡng các linh mục trong khuôn viên nhà thờ Chí Hòa cách đó vài chục mét. Đại tá Thảo vốn nhà ở khu Bắc Hải – Ông Tạ nên thoạt đầu cũng chạy về vùng Ông Tạ, được nhà báo Thiên Hổ – linh mục Nguyễn Quang Lãm, xứ Nghĩa Hòa che giấu.

Bị lùng sục ráo riết, hai ông chạy sang nơi khác. Ông Dzinh bị tòa án quân sự kết án tử hình khiếm diện với tội danh “chuyên viên đảo chính và sử dụng quân đội bất hợp pháp” (sau hạ xuống chung thân rồi tha bổng).

Ông Dzinh chạy về nhà một ông trùm giáo xứ Lạng Sơn ở Xóm Mới (Gò Vấp) và bị bắt ở đây. Ông Thảo chạy về Biên Hòa, bị bắt và sát hại ở đây.

… Những ngày đại lễ tam nhật Các thánh ấy đầy oan khiên, máu và nước mắt.


 

Khổ cho dân ta

Lê Vi

 Năm 2010 tui sang Cali chơi. Thông qua người bạn thân, tui quen biết với một người trong giới xã hội liên quan đến cờ bạc, cá độ.

Anh chàng xã hội đó đưa tui và bạn tui từ Cali qua Las Vegas chơi. Bọn tui được ngủ lại trong phòng president của ks 5 sao mấy đêm liền mà không tốn tiền.

Tôi tìm hiểu thì trên đường lái xe về lại Cali, anh chàng xã hội kể: Em là khách VIP của sòng bạc nên được ưu đãi, mỗi năm em mang lợi đến cho họ vài chục triệu đô là bình thường.

Tui hỏi làm sao? Anh ta kể, đại gia, quan chức VN qua Cali chơi đều nhờ em đưa đi Las Vegas, ai đến chơi cũng đều thua sạch, có người mỗi lần chơi thua vài triệu đô là bình thường.

Lúc đó tui không tin lắm.

Nhưng về sau này thì tui rất tin vì biết quan chức và đại gia ở VN kiếm được tiền rất nhiều và rất dễ.

Khổ cho dân ta

– Huỳnh Ngọc Chênh


 

Ở đất nước này, công lý chỉ dành cho kẻ biết nộp tiền!

Tri Nguyen Ông Tám 

Trịnh Văn Quyết, kẻ thao túng thị trường chứng khoán, rút ruột hàng nghìn tỷ của dân, được ân xá chỉ sau vài năm “ngồi chơi xơi nước” trong trại giam sang trọng. Đỗ Hữu Ca, tướng công an tham nhũng cả trăm tỷ, cũng được “khoan hồng” thả ra như chưa từng có chuyện. Trong khi đó, Nguyễn Văn Chưởng và Hồ Duy Hải – hai án oan ngút trời, bằng chứng ngoại phạm rõ ràng, nhân chứng sống còn – vẫn bị giam cầm, bị treo lơ lửng án tử như con rối trong tay công lý méo mó. Công lý Việt Nam không bằng một ký lông, đúng hơn là không bằng một đồng xu lẻ! Thả kẻ có tiền, giữ kẻ không tiền – đó là luật rừng, là đạo đức chợ búa, chứ không phải pháp luật!

Công lý ở Việt Nam giờ là vở hài kịch do Đảng Cộng sản đạo diễn, kịch bản đã viết sẵn: ai nộp được mớ tiền “khắc phục hậu quả” thì được tự do, ai không có thì chết trong tù. Thả Quyết ra để lấy lại tiền, thả Ca ra để giữ thể diện nội bộ, nhưng thả Hải ra thì phải đền bù oan sai, phải thừa nhận sai lầm, phải đối diện tai tiếng quốc tế. Thế nên công lý bị liệt, nằm im thin thít, để mặc oan hồn kêu khóc. Xã hội này, kẻ có ngân hàng và bạch kim đầy túi mới là “thằng thắng” – còn dân đen, dù đúng dù sai, chỉ đáng làm nền cho trò hề pháp đình. Công lý đã chết, chỉ còn cái xác được trang điểm bằng khẩu hiệu!

Án oan sai chồng chất trong dân, từ Cà Mau đến Hà Giang, ai cũng biết, ai cũng thấy, nhưng pháp luật thì cố che đậy bằng những phiên tòa dàn dựng, những bản án cắt sẵn. Họ lừa dân, lừa tiền, rồi bắt dân nộp tiền để “khắc phục” – như thể tội lỗi chỉ là món nợ có thể trả bằng tiền mặt. Dân biết hết, dân thấy hết, nhưng tiếng nói bị bóp nghẹt, bằng chứng bị tiêu hủy, nhân chứng bị đe dọa. Công lý không còn là công lý, chỉ là công cụ để bảo vệ kẻ mạnh, trừng phạt kẻ yếu. Đảng Cộng sản đạo diễn, tòa án diễn viên, công an bảo kê – còn dân thì ngồi xem, cười ra nước mắt, vì biết rằng: ở đất nước này, công lý chỉ dành cho kẻ biết nộp tiền!


 

 OAN KHỐC! –  Bùi Chí Vinh

Đặng Nam is with Exile Hoài Thạch Sơn.

Bùi Chí Vinh –

53 người bị chôn sống ở Trà My

Chôn sống khi đang còn mở mắt

Cơn thịnh nộ của núi rừng là một điều có thật

Sạt lở đất kèm theo sạt lở của lòng người!

53 sinh linh vô tội bị chôn vùi

Đừng đổ thừa tại tai trời ách nước

Mà hãy nhìn vào những ngọn núi trọc đầu, những khu rừng tang tóc

Những hệ thống thủy điện dã man tàn phá sạch môi trường!

Không còn gì ngăn cản được thần rừng

Núi đã trọc và rừng đã mất

Thiên nhiên bị hủy diệt màu xanh và bầu trời đã khóc

Bão tố mưa giông đại hồng thủy đã trả lời!

Tội nghiệp lũ lụt miền Trung và tội nghiệp dân tôi

53 người chết và nhiều người sẽ chết

Phải chăng sấm sét điên cuồng giáng xuống thành Thăng Long trong ngày Tết

Là điềm báo đầu tiên về cái chết cụ Kình

Về một năm đầy tà khí u minh!

29-10-2020

Bùi Chí Vinh.

 


 

Mưa chưa từng có, thủy điện xả lũ, miền Trung thành biển nước

Ba’o Nguoi-Viet

October 27, 2025

ĐÀ NẴNG, Việt Nam (NV) – Các đập thủy điện hối hả xả lũ vì “mưa lớn chưa từng có” làm cho nhiều khu vực các tỉnh thành miền Trung như Thừa Thiên , Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam chìm trong biển nước.

Nhiều báo tại Việt Nam đưa tin ngày Thứ Hai 27 Tháng Mười kèm theo các hình ảnh dẫn chứng khổ nạn của người dân địa phương đang phải chịu đựng “nhân tai” phối hợp với thiên tai, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản.

Trung tâm thành phố Huế bị ngập sâu. (Hình: Đức Hiếu/VNExpress)

Các nguồn tin cho hay ngày 26 Tháng Mười, mưa tầm tã trên diện rộng hai ngày qua trên các khu vực từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi. Thật ra mấy ngày trước đó, mưa lũ đã ập xuống khu vực này từ hệ quả của trận bão số 12, tên quốc tế là Fengshen. Bão khi đi vào gần đến đất liền miền Trung Việt Nam thì suy yếu thành áp thấp nhiệt đới với mưa như trút nước.

Theo thói quen chống chọi bão lũ hàng năm, các đập thủy điện ở khu vực từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi cũng đều mở các cửa xả bớt nước để tránh vỡ đập, giống như các khu vực khác tại các tỉnh miền núi phía bắc. Do vậy, các khu vực hạ du, gồm cả các thành phố lớn như Huế và Đà Nẵng đều biến thành biển nước. Một số cư dân Huế nói rằng lũ về nhanh quá họ không kịp trở tay.

“Lũ đặc biệt lớn trên sông Hương và sông Bồ (Huế) đang lên rất nhanh, có nơi vượt mức lịch sử. Hệ thống sông Vu Gia – Thu Bồn (Đà Nẵng) cũng đang trong giai đoạn lũ lớn; từ Quảng Trị đến Quảng Ngãi đón đợt lũ mới.” Báo Pháp Luật tường thuật.

Trên hệ thống các sông Hương, sông Bồ ở thượng nguồn của thành phố Huế, hệ thống hai sông Vu Gia và Thu Bồn ở thượng nguồn Đà Nẵng, các đập thủy điện khi hối hả xả lũ thì hạ du thành biển nước mênh mông không thể tránh khỏi. Hiện người ta còn lo chống chọi với cơn đại hồng thủy nên chưa thấy có báo cáo nào cho các thiệt hại người và tài sản, chỉ biết có thể sẽ không nhỏ.

Lũ sông Hương tại Dã Viên đã lên tới 4.59 mét, vượt báo động 3 gần 2 mét, khiến nhiều con đường ở thành phố Huế bị ngập lụt nặng. (Hình: Quang Nhật/Người Lao Động)

Lũ bủa vây tứ bề

Theo báo Tuổi Trẻ hôm 27 Tháng Mười, Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, mưa to, lũ các sông lên nhanh, khiến 88 xã, phường, có nguy cơ ngập sâu khiến đường sắt, đường bộ qua thành phố Huế tê liệt. Người dân muốn di chuyển phải đi thuyền hoặc lội nước.

Bên cạnh đó, hàng trăm ngàn học sinh ở Huế, Đà Nẵng, Quảng Trị, Quảng Ngãi phải nghỉ học nhiều ngày vì lũ “vượt mức lịch sử.”

Tại Huế, mưa lớn hơn 800mm, nước lũ về nhanh khiến nhiều khu dân cư ven sông Hương, Như Ý, Đông Ba và các tuyến đường trung tâm thành phố Huế bị ngập, nơi sâu nhất tới hơn 1 mét.

Từ tối 26 Tháng Mười, khu vực Đập Đá nằm giữa sông Hương và Như Ý nước dâng cao 0.7 mét, tràn vào nhà dân hai bên sông. Nhiều con đường chính ngập sâu trong nước như Hoàng Lanh, Vũ Thắng, Trường Chinh, Bạch Đằng… có nước chảy xiết đã buộc chính quyền địa phương giăng dây, đặt rào chắn ngăn không cho người dân qua lại từ trưa cùng ngày.

Thậm chí, lũ trên sông Tả Trạch dâng cao, cuốn sập cầu Le No ở xã Khe Tre, chia cắt hàng ngàn gia đình, buộc Ban Chỉ Huy Phòng Thủ Dân Sự Huế phải kích hoạt hệ thống còi hú báo động thiên tai.

Trong khi đó, ở bờ Bắc sông Hương, Lũ trên sông Hương đã vượt quá báo động 3 và đang tiếp tục lên. Nhiều di tích Huế nằm ven con sông này đang bị ngập lụt, chẳng hạn như Nghinh Lương Đình, cầu Cửa Ngăn (cửa Thể Nhân Môn) đường dẫn vào Đại Nội Huế, hay như khu vực cổng Ngọ Môn…

Tương tự, theo báo VNExpress, tối 26 Tháng Mười, nước lũ tại phường Hội An, Đà Nẵng, dâng nhanh. Đến khoảng 0 giờ rạng sáng 27 Tháng Mười, thì nước tràn lên đường Bạch Đằng 1 mét, lan sang đường Nguyễn Phúc Chu bên kia sông Hoài, buộc hàng quán đóng cửa, tắt điện.

Người dân phố cổ đã quen chạy lũ nên nhiều nhà dân và hộ kinh doanh chủ động di chuyển đồ đạc lên cao từ trưa cùng ngày.

Tuy nhiên, đến sáng 27 Tháng Mười, nhiều con đường huyết mạch trong khu phố cổ Hội An như Bạch Đằng, Nguyễn Thái Học, Công Nữ Ngọc Hoa… ngập sâu từ 1-1.5 mét.

Ngoài trung tâm phố cổ, các khu vực vùng ven như chợ cá Thanh Hà và làng gốm Thanh Hà, phường Hội An Tây, cũng bị nước lũ chia cắt hoàn toàn.

Chính quyền phường Hội An đã khuyến cáo người dân hạn chế đi lại trên các đoạn đường ngập sâu để phòng tránh tai nạn chết đuối.

Tại tỉnh Quảng Ngãi, mưa lớn trong hai ngày 26 và 27 Tháng Mười, đã khiến toàn tỉnh có 30 vị trí sạt lở do mưa lũ.

Theo đó, hàng loạt cây cầu nhỏ và cầu tràn bên sông Rin, sông Trà Bồng, sông Vệ, Trà Khúc bị nước lũ tràn qua. Trong đó, chỉ riêng xã Sơn Hạ có bảy điểm ngập, khiến hàng trăm gia đình bị chia cắt.

Ngoài cầu Sông Rin cũ ở xã Sơn Hà ngập 0.7 mét, nhiều khu vực giáp ranh miền núi và đồng bằng Quảng Ngãi cũng ngập nặng. Chẳng hạn, cầu tràn Thạch Nham ngập hơn 1.6 mét, cầu máng Hành Minh-Hành Nhân ngập 0.5 mét, lực lượng hữu trách phải chốt chặn, hướng dẫn giao thông.

Phố cổ Hội An, Đà Nẵng, ngập lũ sáng 27 Tháng Mười. (Hình: Trung Đào/VNExpress)

Hậu quả từ lòng tham thủy điện

Nhà cầm quyền Việt Nam tham lam cho xây dựng các đập thủy điện tràn lan trên các sông lớn đã đành, mà các phụ lưu của chúng cũng đều bị khai thác thủy điện với những cái đập nhỏ bé, khả năng chỉ cung cấp từ 2 MW trở lên. Chúng quá nhỏ nên không có khả năng cắt lũ hay điều tiết lũ, mà chỉ xả lũ ngay khi ở “trên mức báo động” hầu tránh vỡ đập.

Báo Vietnamnet kể rằng mưa lớn, nước đổ về hồ chứa tăng quá nhanh, các đập thủy điện Tả Trạch, Sông Tranh, Trà My, Đắk Mi, Trà Đơn, Sông Bung, A Vương… phải “xả tràn” để “đảm bảo an toàn công trình.”

Thủy điện tránh được vỡ đập thì phố xá, nhà cửa, ruộng vườn các khu vực hạ du lãnh hậu quả ngập lụt.

Bão số 10 (Bualoi) làm cho 51 người chết và hơn $600 triệu thiệt hại ở các tỉnh miền núi phía Bắc và Bắc miền Trung khoảng 350 nhà sập hay bị lũ cuốn trôi trong khi 170,000 nhà hư hỏng. Còn bão số 11 cũng làm ít nhất 13 người chết, chưa kể các thiệt hại tài sản ở một số tỉnh miền núi phía Bắc.

Tất cả đều từ hậu quả của “nhân tai” phối hợp với thiên tai gây ra. Gần chục năm trước, người ta thấy một số lời kêu gọi dẹp bỏ các thủy điện quá nhỏ vì những thiệt hại do chúng gây ra quá lớn trong khi lợi ích điện năng lại quá nhỏ. Nhưng những lời kêu gọi đó đều bị gác bỏ ngoài tai. Trong khi đó, tuy là kẻ gây thiệt hại người và tài sản nhưng dân lại phải chịu đựng hệ quả chứ không phải thủ phạm “nhân tai.”

Thủy điện Đăk Mi 4 xả lũ vào năm 2020. Hình: Đắc Thành/VnExpress)

Hệ thống sông Vu Gia-Thu Bồn ở Quảng Nam dài khoảng 200km phải gánh hơn 60 đập thủy điện lớn nhỏ. Dân chúng khu vực này từng bị thiệt hại nặng nề vì thủy điện xả lũ suốt bao năm qua cả người lẫn tài sản.

Theo dự báo của Đài Khí Tượng Thủy Văn Trung Bộ, do tác động của không khí lạnh, dải hội tụ nhiệt đới và gió Đông, từ tối 26 đến 29 Tháng Mười, từ Huế đến Quảng Ngãi tiếp tục mưa rất to có nơi vượt 500-600 mm.

Các sông ở khu vực này sẽ xuất hiện một đợt lũ, đỉnh lũ có thể lên trên báo động 3, lập “mốc lịch sử đỉnh lũ mới.” (NTB&Tr.N) [kn]


 

Núi Sạt Lở Như “Thác Đổ” Ở Đà Nẵng, Quốc Lộ 40B Bị Chia Cắt Hoàn Toàn

Ba’o Dat Viet

October 28, 2025

 Chiều 28 Tháng Mười, một vụ sạt lở núi nghiêm trọng đã xảy ra tại thôn Trà Giác, xã Trà Tân (TP. Đà Nẵng), khiến khối lượng đất đá khổng lồ tràn xuống Quốc lộ 40B, cuồn cuộn như dòng thác đổ, làm giao thông tê liệt và khiến người dân một phen kinh hoàng.

Ông Nguyễn Hồng Lai, cán bộ xã Trà Tân, xác nhận vụ sạt lở xảy ra vào khoảng 14 giờ 30 phút. “Một phần sườn núi đổ sụp xuống, đất đá ào ạt chảy qua đường như thác lũ. Rất may thời điểm đó ít người và phương tiện qua lại nên không có thương vong,” ông nói.

Theo ông Lai, mưa lớn kéo dài suốt nhiều ngày qua là nguyên nhân chính gây ra hàng loạt điểm sạt lở trên địa bàn. Chính quyền đã khẩn trương sơ tán hàng chục hộ dân ở khu vực có nguy cơ cao đến nơi an toàn. “May mắn là chúng tôi di dời dân sớm, nếu không hậu quả có thể rất nghiêm trọng,” ông cho biết thêm.

Một đoạn video lan truyền trên mạng xã hội cho thấy cảnh tượng khủng khiếp: đất đá từ sườn núi sụp xuống, cuộn trào thành dòng bùn đặc, tràn qua đường quốc lộ như con thác lớn, cuốn theo cây cối và đá tảng. Tiếng người la hét, hoảng loạn vang lên giữa cơn mưa nặng hạt.

Ngay sau khi sự cố xảy ra, tuyến Quốc lộ 40B bị chia cắt hoàn toàn, các phương tiện không thể lưu thông. Lực lượng chức năng địa phương đã phong tỏa khu vực, cảnh báo nguy cơ tiếp tục sạt lở do nền đất còn yếu.

“Lúc đất đá tràn xuống, tôi đang cách đó chừng trăm mét. Chỉ trong vài giây, cả ngọn núi như nổ tung, rồi đổ ập xuống đường,” một người dân địa phương kể lại. “Ai chứng kiến cảnh ấy đều khiếp đảm.”

Theo ghi nhận ban đầu, khối lượng đất đá sạt lở ước tính hàng nghìn mét khối, phủ kín một đoạn đường dài hàng trăm mét. Lực lượng chức năng đang huy động máy móc và xe ủi để khơi thông tạm thời, song do mưa vẫn tiếp diễn, công tác khắc phục gặp nhiều khó khăn.

Khu vực Trà Tân là vùng núi cao, địa hình dốc và thường xuyên xảy ra sạt lở trong mùa mưa bão. Chỉ trong vòng một tuần qua, chính quyền xã đã ghi nhận nhiều điểm sạt lở nhỏ lẻ, gây chia cắt cục bộ và uy hiếp hàng chục hộ dân sinh sống dọc triền núi.

Giới chuyên gia cảnh báo, hiện tượng mưa lớn liên tục kết hợp địa hình dốc và rừng đầu nguồn bị khai thác khiến nguy cơ sạt lở ở miền Trung ngày càng nghiêm trọng. Với tình hình thời tiết bất ổn hiện nay, nhiều khu vực ở Đà Nẵng và các tỉnh lân cận có thể tiếp tục đối mặt với nguy cơ “thác lũ đất đá” tương tự trong những ngày tới.


 

“Kinh tế mới” cái thời mà cơm không đủ no, áo không đủ mặc…

Dân Nông is with Nông Dân.

 Chỉ có những ai từng bị đày ải vào vùng kinh tế mới, thì mới hiểu hết được sự thiếu thốn  khốn khổ trăm bề của một đứa trẻ sinh ra và lớn lên trong rừng thiêng nước độc giống như tôi .

  Trời chưa rạng sáng ba mẹ đã nắm cơm vào rừng bẻ măng, lấy củi .

 Ở nhà một mình chị Hai trông bầy em bốn năm đứa nheo nhóc…

 Tôi nhớ có một lần ba mẹ đi rừng, ở nhà với chị tới bữa cơm trưa chị em ăn cơm nguội, có nồi thịt gà kho nước lễnh bễnh để làm canh .

Tôi đang ăn thì chị Hai không cho ăn nữa, nói để dành cho bữa chiều.

Tôi không chịu cứ một mực đòi ăn rồi khóc giãy nãy , dỗ mãi không được chị Hai nổi quạu cầm cái búa ba hay đi rừng giá lên đầu tôi dọa nạt cho tôi im .

 Ngày đó còn bé tôi đâu có biết chị Hai có trách nhiệm phân chia đồ ăn để lo cho chúng tôi, tôi cứ nghĩ chị Hai dành ăn với tôi nên tôi cứ ấm ức mãi … chờ ba mẹ đi rừng về để méc .

Chờ tới chiều tối thì ba mẹ tôi cũng về, thấy ba mẹ về tôi òa khóc nức nở, bao nhiêu ấm ức trong ngày tôi kể hết cho ba mẹ nghe , với giọng điệu ngọng nghịu cùng tiếng khóc nức nở :

    – Ba mẹ có biết không, con ở nhà chị Hai ăn hiếp con, nhà còn có chút lướt lịt (nước thịt) mà chị không cho con ăn, chị còn lấy cái búa ba đi tầm (  búa ba hay đi rừng lấy trầm) để lên đầu con con lém ( xém)chết .

Ba mẹ nghe tôi vừa méc vừa khóc tức tưởi mà không nhịn được cười, vừa thương con , vừa giả vờ la chị Hai cho tôi hết ấm ức .

” Kinh tế mới ” cái thời mà cơm không đủ no, áo không đủ mặc, làm thịt con gà kho cả nắm muối rim mặn chát .

Rồi mỗi ngày lấy ra một ít nấu nước lềnh bềnh chan cơm, ăn bữa trước phải để dành bữa sau , ám ảnh cái cảnh cơm độn củ mì, củ lang, chỉ một vài hạt cơm dính trên lát củ, bát cơm trắng là mơ ước của tất cả mọi người sống trong vùng kinh tế mới giống như tôi.

Giờ nghĩ lại đúng thật là ác mộng .


 

XÓT XA CẢNH XE MÁY BỊ NHẤN CHÌM TRONG NƯỚC LŨ Ở HUẾ

Báo Tin Tức Việt Đức

XÓT XA CẢNH XE MÁY BỊ NHẤN CHÌM TRONG NƯỚC LŨ Ở HUẾ

Trưa 27-10, nước lũ trên các sông TP Huế đã lên cao, ngập lụt bủa vây.

Dự báo đỉnh lũ sông Bồ, sông Truồi sẽ vượt lũ lịch sử, sông Hương ở mức rất cao.

Khu vực phường Vỹ Dạ.

Nhiều xe máy tại chung cư Vicoland, phường Vỹ Dạ bị nước lũ nhấn chìm.

Họ đã cứu được hơn 50 người như vậy

 Thao Teresa

Họ là những giáo dân nghèo, sống bằng nghề chài lưới. Nơi ở của gia đình họ là căn nhà tạm bợ dưới chân cầu Bến Thuỷ bắc qua con sông Lam nối hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Cuộc sống bấp bênh, cơm không đủ ăn áo không đủ mặc, vậy mà suốt 20 năm qua, mỗi khi nghe có người nhảy cầu tự tử là họ lại lao ngay xuống dòng nước xiết để cứu, và họ đã cứu được hơn 50 người như vậy. Đó là vợ chồng anh Hoàng Văn Mạnh – chị Đậu Thị Phúc và em vợ, anh Đậu Văn Toàn.

Nhiều người dân chài vẫn kiêng kỵ việc cứu người rơi xuống sông vì tin rằng họ thuộc về Hà Bá, nếu cứu sẽ bị Hà Bá đòi thế mạng. Là người Công giáo, và tin rằng cứu người là việc tốt, nếu thấy chết mà không cứu thì càng áy náy hơn nên anh Mạnh, anh Toàn và chị Phúc đã vượt qua nỗi sợ “Hà Bá” và sông sâu, nước xiết, liều mình bơi chiếc xuồng nhỏ ra giữa dòng cứu người bị nạn lên bờ. Những người được cứu thì già, trẻ, lớn, bé có đủ và lý do họ chọn cách tự tử cũng rất nhiều: nghèo khổ, nợ nần, giận chuyện gia đình, điểm thấp, có thai ngoài ý muốn… Sau khi được cứu sống và được anh chị ân cần tâm sự, khuyên giải, họ hối hận và từ bỏ ý định kết thúc cuộc đời. Có người bỏ đi không lời cám ơn, nhưng cũng có người coi anh chị như ân nhân, thường quay lại báo đáp.

Nhưng vẫn có những lần dù cố gắng hết sức mà lực bất tòng tâm, như vụ người cha ôm hai con nhỏ nhảy cầu Bến Thuỷ vừa rồi. Đêm đó ngay mùa lũ, nước sông Lam dâng cao, sóng ngầm dưới chân cầu cuộn xiết, dù anh chị cùng với lực lượng cứu hộ quần thảo cả một khúc sông nhưng không thể nào tìm thấy dấu hiệu sự sống. Họ chỉ có thể giúp đưa thi thể về quê cho gia đình mai táng. Những lần như vậy, anh Mạnh, anh Toàn và chị Phúc ray rứt mãi, cả đêm không ngủ được. Nhưng họ vẫn tiếp tục cứu sống những người khác. Chỉ trong 20 ngày đầu tháng 10, anh Mạnh, anh Toàn và chị Phúc đã cứu được ba người, trong đó có một bé gái 12 tuổi vì bị bạn bắt nạt nghĩ quẩn nhảy xuống sông. Có khi, trong 1 tháng anh chị cứu được 5-7 người. Cả con trai anh Mạnh, chị Phúc cũng tham gia cứu người với gia đình.

Mùa mưa bão năm nay, căn nhà xiêu vẹo của ba anh chị lại bị bão đánh sập một phần, trong nhà chắc chỉ còn cái bàn thờ là nước lũ chưa dâng tới. Thương cho hoàn cảnh của họ, hàng xóm và nhiều mạnh thường quân đã giúp họ tu sửa lại căn nhà bên bờ sông. Nhiều lần anh Mạnh, anh Toàn và chị Phúc muốn chuyển đi nơi khác sinh sống nhưng vì không biết chữ, không biết làm gì ngoài chài lưới nên họ vẫn cứ ở lại khúc sông Lam và cây cầu Bến Thuỷ có nhiều người tự tử này. Nhưng chưa bao giờ họ từ chối việc cứu người, không phải để được ghi ơn hay báo đáp, mà chỉ để sống đúng với lương tâm mình. Có lẽ, ý Chúa cũng muốn họ gắn bó với nơi này để trao cho những người nông nổi, quẫn trí cơ hội thứ hai làm lại cuộc đời.


 

Em trai Hoàng Phủ Ngọc Tường qua đời tại Sài Gòn

Ba’o Nguoi-Viet

October 25, 2025

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Ông Hoàng Phủ Ngọc Phan, em trai ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, qua đời tại Sài Gòn, thọ 85 tuổi.

Anh em ông Tường cùng với nhà văn Nguyễn Đắc Xuân, từng bị cho là “đồ tể khát máu” trong vụ thảm sát Tết Mậu Thân 1968 ở thành phố Huế.

Ông Hoàng Phủ Ngọc Phan. (Hình: Thanh Niên)

Theo tờ Thanh Niên hôm 25 Tháng Mười, ông Phan, là nhà văn và còn có bút danh Hoàng Thiếu Phủ, được nhà cầm quyền Việt Nam trao “Huân Chương Quyết Thắng,” “Huân Chương Chống Mỹ Cứu Nước”…

Báo Công An Nhân Dân hồi năm 2013 cho rằng anh em ông Tường cùng với ông Xuân “là những nhân vật nòng cốt của phong trào đấu tranh đô thị ở Huế” và rằng những cáo buộc nhắm vào ba ông này “là sự vu khống tráo trở.”

Bản tin dẫn lời ông Hoàng Phủ Ngọc Phan rằng những tài liệu chỉ trích anh em ông và ông Xuân “đều rặt một luận điệu cũ rích.”

Hồi trung tuần Tháng Bảy, 2023, ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, gốc người Quảng Trị nhưng sinh ra ở Huế, qua đời tại Sài Gòn ở tuổi 86 sau một thời gian dài bị bệnh phải ngồi xe lăn.
Ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, một trong những nhân vật nổi tiếng chống đối chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) rồi thoát ly lên rừng theo Cộng Sản, bị không ít người lên án phải chịu trách nhiệm vụ thảm sát hàng ngàn quân cán chính và dân lành vô tội khi quân Cộng Sản mở chiến dịch tấn công Tết Mậu Thân 1968 ở Huế.

Cái làm ông Tường nổi tiếng nhất không phải về tài viết văn làm thơ mà là những tranh cãi về vai trò của ông, người em trai Hoàng Phủ Ngọc Phan, và ông Nguyễn Đắc Xuân, trong vụ thảm sát hàng ngàn người trong cuộc “tổng công kích” Tết Mậu Thân.

Đám tang ông Hoàng Phủ Ngọc Tường diễn ra hồi Tháng Tám, 2023 tại thành phố Huế. (Hình: Thanh Niên)

Nạn nhân của họ không riêng gì quân cán chính địa phương mà còn gồm cả đàn bà, trẻ em cũng bị giết chung. Rất nhiều người bị đập vỡ sọ, bị chôn sống, bị cột chùm với nhau bằng dây kẽm gai rồi đẩy chung xuống hố tập thể. Tài liệu cũ với hình ảnh, bài viết, phim tài liệu thời sự của báo chí, truyền hình, và hồi ký, bằng tiếng Việt và ngoại ngữ, là các bằng chứng không thể chối cãi về sự dã man và độc ác cùng cực của Cộng Sản tại Việt Nam.

Trong khi nhà cầm quyền Việt Nam cho tới giờ này vẫn chối và đổ vạ ngược lại cho Mỹ và VNCH, ông Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số người hiếm hoi, mấy năm trước, nhìn nhận cuộc tàn sát ở Huế Tết Mậu Thân là do Cộng Sản gây ra.

Về phần mình, trong một bức thư gửi qua nhà văn Nguyễn Quang Lập, ông Tường phủ nhận mình có mặt ở Huế khi vụ đại thảm sát diễn ra khi viết rằng mình là “kẻ ngoài cuộc.”

Tuy nhiên, dù ông có trực tiếp nhúng tay vào máu hay không, ông Tường vẫn không phải là “kẻ ngoài cuộc.”

Trước đó, năm 1981, khi trả lời nhóm người làm bộ phim tài liệu truyền hình Mỹ “Việt Nam Thiên Sử Truyền Hình” của nhà báo Stanley Karnow, ông Hoàng Phủ Ngọc Tường xuất hiện trong đó, gọi các nạn nhân vụ thảm sát là “những con rắn độc.”

Nhưng khi viết trong bức thư nhờ ông Nguyễn Quang Lập phổ biến trên Facebook năm 2018, sau 50 năm xảy ra vụ tắm máu Mậu Thân, ông Tường viết rằng “hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân là một sai lầm không thể nào biện bác được.”

Đồng thời, ông Tường còn nói ông đã dối trá khi kể lại vụ tắm máu đó như một kẻ tham dự trực tiếp nhưng lại không có mặt. (N.H.K) [đ.d.]