Một gia đình nông dân trở thành một gia đình tù nhân chính trị

Chân Trời Mới Media

Một gia đình nông dân trở thành một gia đình tù nhân chính trị – đó không phải là lựa chọn của họ. Đó là kết quả của một hệ thống không biết lắng nghe.

Họ không chọn con đường trở thành “nhà hoạt động chính trị”. Con đường ấy được chính hoàn cảnh xô đẩy, khi công lý bị khước từ.

Và rồi, câu hỏi để lại cho tất cả chúng ta:

Có bao nhiêu người nông dân nữa sẽ phải trả giá bằng nước mắt và máu để biến thành “người phản biện xã hội”?


 

LẠI BẮT NGƯỜI BẤT ĐỒNG CHÍNH KIẾN

Huynh Ngoc Chenh 

Ông Huỳnh Ngọc Tuấn sinh năm 1959 tại Quảng Nam, viết văn.

Năm 1992 ông bị bắt vì có ý định gởi một bản thảo do ông sáng tác ra nước ngoài. Ông bị xử 10 năm tù và 4 năm quản thúc. Ông để lại ba đứa con còn bé (mồ côi mẹ) cho bà nội và các cô nuôi dưỡng.

Ra tù ông thỉnh thoảng viết bài phản biện một cách ôn hòa. Tuy nhiên gia đình ông bị cô lập, bị gây khó dễ, ông và ba con sinh sống tại địa phương Quảng Nam rất khó khăn.

Sau đó ông phải di chuyển lên Gia Lai để sinh sống.

Ba đứa con ông đã trưởng thành, nhiều lần tham gia biểu tình chống Trung Quốc gây sự ở biển Đông nên lại bị chính quyền gây khó khăn.

Cô con gái út của ông trốn qua Pháp và xin tỵ nạn chính trị. Con trai ông bị cấm xuất cảnh. Còn cô con gái đầu của ông là Huỳnh Thục Vy là nhân vật tích cực đấu tranh nhân quyền bị bắt đi tù 3 năm, vừa được mãn hạn tù, sinh sống tại Gia Lai.

Ông Huỳnh Ngọc Tuấn là người bất đồng chính kiến ôn hòa, thỉnh thoảng viết ý kiến của mình trên mạng xã hội qua Facebook. ( tài khoản Huỳnh Ngọc Tuấn được cho là của ông hiện nay vẫn còn trên mạng)

Thời gian gần đây thấy trên tài khoản đó tập trung bình luận các vấn đề quốc tế.

Thế nhưng vào ngày 7/10/ 2025, cơ quan công an đã vào nhà riêng bắt ông đi mà gia đình không biết lý do.

Đến nay con gái của ông là Huỳnh Thục Vy vẫn chưa nhận được thông báo của công an nên chưa biết ông bị giam giữ tại đâu và bị bắt vì tội gì.

Ảnh lấy trên mạng:

Ông Huỳnh Ngọc Tuấn lúc bị bắt


 

KINH HOÀNG! HÌNH ẢNH CỦA ĐẠI LỤT HỒNG THUỶ

Chính TrựcGiáo điểm Tin Mừng

KINH HOÀNG! HÌNH ẢNH CỦA ĐẠI LỤT HỒNG THUỶ

Thái Nguyên sáng 08.10.2025

Khung cảnh trời mây bình minh đẹp quá… nhưng nhìn xuống chỉ thấy một Thái Nguyên chìm trong nước lũ.

Giữa mây trời rực rỡ là nỗi đau của bao người mất trắng.

Một khung cảnh ám ảnh đến nhói lòng.

Ảnh: Trần Duy Tiệp


 

CÁI GIÁ CỦA TUYÊN TRUYỀN NHỒI SỌ – Dương Quốc Chính

THÔNG LUẬN

Dương Quốc Chính

Trước đến giờ đảng ta vẫn có bài tuyên truyền nhồi sọ. Chơi kiểu ấy là chơi dao 2 lưỡi. Bởi vì đến ngày nào đó, vì sự phát triển, vì ngoại giao hay vì lý do nào đó, muốn cho nhân dân được biết sự thật trái ngược với nội dung đã tuyên truyền thì cực kỳ khó, cần có 1 độ trễ rất lâu, có thể đến hàng chục năm, để tuyên truyền ngược trở lại. Nó giống như cái cành cây bị uốn cong từ bé cho “đẹp” bởi “nghệ nhân cây cảnh”, muốn uốn thẳng lại cho tự nhiên rất mất công, vớ vẩn là gẫy cành.

Ví dụ như ngày thành lập đảng ban đầu là 6/1, sau 30 năm mới đổi sang 3/2. Chuyện đó không đến nỗi nhạy cảm nhưng cũng phải chờ cho thế hệ lãnh đạo đảng đầu tiên chết vãn rồi mới dám thay đổi. Không lẽ 30 năm mới biết là nhầm ngày, trong khi chính bác mình chủ trì việc thành lập đảng chứ ai?!

Hay chuyện anh Tám Lê, giờ cũng chả dám công bố sự thật, cứ lẳng lặng kệ mẹ bọn PĐ tuyên truyền cho dân biết. Đảng im, sợ dân sốc.

Rồi chuyện xe tăng nào vào dinh Độc lập đầu tiên nữa. Trót chỉ đạo cho lãnh đạo có công to nhất rồi, giờ đổi công lại cho ông lính thì phức tạp quá. Hóa ra lãnh đạo cướp công của lính? Thôi đành vùi sâu chôn chặt. Ai ngờ bọn nhà báo cứ chọc thối, nên đành công bố sự thật.

Hay như việc công bố ngày bác Hồ chết, nó không hề nhạy cảm khi nói ra sự thật. Nhưng cũng phải mất 20 năm mới dám công bố sự thật, đó cũng là sau đổi mới, tư tưởng cũng đã cởi mở hơn.

Chuyện phức tạp hơn nhiều lần là duy trì việc ướp xác. Bao năm nay đã tuyên truyền về việc PHẢI ướp xác rồi, giờ muốn thiêu là cực kỳ khó, bởi đồng bào quen với việc đi viếng lăng rồi, lại càng quen với việc sùng bái cá nhân bác. Nên giờ đố ông quan đương chức nào dám mở mồm đòi thực hiện đúng di nguyện của CT HCM. Thế nên chắc các ông đương mới phải xúi các ông cựu/hưu trí nói ra chuyện đó. Vừa rồi có ông Bin (cựu thứ trưởng) và ông Nghị (cựu bí thư HN). Nhưng mà các báo chính thống cũng ko dám đăng tin. Như kiến nghị của ông Nghị chỉ có tạp chí Xưa và Nay của Hội KH Lịch sử dám đăng. Mà TC đó có mấy ai đọc đâu. Bần nông và mấy ông CCB vào sinh ra tử mà đọc được thì sẽ đào cả mả bố tổng biên tập lên.

Tương tự vậy, về danh xưng “Ngụy”. Mình đoán thực tâm thì đảng và Tuyên giáo cũng muốn bỏ từ đó lâu rồi, thực tế báo chí CM mấy năm nay không còn dùng phổ biến nữa. Thể hiện rõ nhất khi viết về đám tang ông Nguyễn Hữu Hạnh vừa rồi, KHÔNG 1 tờ báo nào dám dùng từ Ngụy nữa. Kể cả báo đảng từ TƯ đến địa phương.

Nhưng đảng cũng chả dám ra 1 văn bản chính thức nào về việc từ bỏ danh xưng “Ngụy” để chỉ VNCH. Vì trót nhồi sọ nhân dân lâu quá rồi, bây giờ mà ra văn bản đấy, khéo bò đỏ nó biểu tình chứ chả phải mít tinh nữa đâu. Thế nên đảng mới chơi bài lẳng lặng xúi anh em sử gia sửa lại quốc sử, xóa chữ Ngụy đi. Vụ đấy chăm chăm là có chỉ đạo từ BCT, chứ bố các anh sử gia dám tự tiện. Nhưng mà đảng chơi thế cũng hèn, dám chơi mà không dám chịu, đảng ăn ốc mấy chục năm, giờ đẩy anh em sử gia đổ vỏ, làm cờ đỏ cho bò đỏ húc! Khổ thân anh em, cũng không dám nói ra với bò là bọn tao cũng đã được chỉ đạo rồi, đành đấu khẩu với bỏn. Mà gì thì gì, người húc nhau với bò thì chỉ có thiệt thân.

Việc bỏ khái niệm Ngụy là tất yếu phải làm, lý do cơ bản nhất là để có lý lẽ mà đòi HS TS (mình đã trích dẫn bài viết của Tạp chí Lý luận chính trị, cơ quan ngôn luận của HV Chính trị quốc gia HCM, chỗ đào tạo ra cả TBT và các UV BCT). Bài viết này ngang nhiên công nhận chế độ QGVN và VNCH, cũng ngang nhiên tồn tại mấy năm nay, không bị gỡ, đó chính là sự khẳng định về nhận định bên trên của mình.

Thực tế là thế nhưng tẩy não bò là vô cùng khó, chính đảng cũng phải sợ lũ này, nhất là mấy bố tướng tá, cậy dây tý máu giờ vỗ ngực công thần, nhận mình có chính nghĩa hơn cả đảng!

Mình có xem clip mấy ông tướng và 1 ông TS bò đỏ đòi gặp cả TBT để kiến nghị, bức xúc về việc bỏ từ Ngụy. TBT cáo bận, trưởng ban Tuyên giáo cáo bận, đẩy cmn cho anh Đam phó thủ ra tiếp bò! Đấy là đảng sợ mà đẩy chú phỉnh ra làm cao bồi. Xem clip đó buồn cười phết. Anh Đam dĩ nhiên không tự tin về lịch sử nên phải ngồi với anh gì GS TS Lịch sử, các anh vuốt ve xoa dịu, vuốt mông đàn bò. Đại khái là: “Mình bỏ từ Ngụy đi thôi, để còn dễ ăn nói với bạn bè quốc tế, chứ bản chất bọn kia vẫn là Ngụy mà, anh em cứ yên tâm, chỉ thay đổi cái danh xưng thôi.”

Anh em bò hỉ hả ra về ca khúc khải hoàn. Nhưng mà anh em sử gia vẫn kệ cm bỏn, vẫn chém oang oang là đéo có Ngụy ngiếc gì cả sất, báo chí CM vẫn cứ “quân lực VNCH” với “chính quyền VNCH”, coi bọn bò đúng là bọn bò.

Vừa rồi, chương trình Đối diện của VTV lúc lên sóng cho ông tướng chém gió chửi Ngụy, được đúng 1 hôm là xóa cmn luôn khỏi clip online. Đấy minh chứng của Tuyên giáo có coi bò ra gì đâu. Nhưng mà hèn, đếch dám ra mặt, chơi kiểu vừa đấm vừa xoa. Anh em bò đỏ lại lên cơn bức xúc làm đơn từ kiến nghị với anh Minh VTV, đòi phục hồi clip, mà có ăn thua đâu, bố anh Minh cũng chả dám phục hồi, khéo còn bị kiểm điểm rồi ý!

Anh em bò đỏ hiện đang lập team đấu tố bọn GS lật sử, đòi đốt Ngụy sử mới hài, mấy năm nay CM vẫn chưa thành công!

Điều nguy hiểm nữa khi nuôi bò đỏ, đó là 1 ngày đẹp trời bỏn giác ngộ CM, biết được sự thật. Thế là bỏn chạy từ thái cực này sang thái cực khác, quay ra chửi đảng như chó, vì đảng bịt mắt bịt tai, lừa bịp nó mấy chục năm! Bọn ấy mới manh động, dám giết đảng luôn, vì vẫn còn bầu nhiệt huyết trong người, ưa bạo lực CM.

Tóm lại là đảng nên bỏ cái kiểu tuyên truyền nhồi sọ đi được rồi, có bẻ lái thì cũng bẻ độ 90 độ thôi, chứ cua tay áo nó nguy hiểm lắm. Rồi lộng giả thành chân. Đảng có muốn tuyên truyền lại cho đúng sự thật cũng đếch ai tin đảng nữa. Rồi chính lũ bò do đảng tạo ra sẽ quay lại húc đảng, nếu đảng muốn đổi mới, muốn hòa hợp dân tộc, muốn bắt tay với Mỹ để phát triển đất nước và bảo vệ lãnh thổ (chính là để bảo vệ đảng).

Chính anh em bò đỏ đang là lực cản lớn nhất để đảng thay đổi. Mà cản trở thế chính là chống đảng, chống lại sự phát triển, mà đảng cũng sợ, đếch dám làm thịt bỏn, vì chính mình tạo ra bỏn. Giờ đi mắc núi về mắc sông, nên cải cách rất chi là từ từ, còn chờ bò chết già.

https://www.facebook.com/chinh.duong.quoc.kts


 

Kỷ nguyên vươn mình của Tù Nhân Lương Tâm

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hồ Phú Bông

07/10/2025

Cấn Thị Thêu cùng 2 con trai

Người nông dân sống trong thời phong kiến bị địa chủ bóc lột cũng chỉ trong phạm vi thôn, làng. Địa chủ không thể bỏ tù hay giết họ, vì trên địa chủ có luật pháp. Địa chủ chỉ có thể mua chuộc, hối lộ quan chức địa phương để tránh bị xét xử. Vì thế đạo lý Cái Đình Làng sau lũy tre xanh dù gì thì thôn, xóm cũng giữ được yên bình. Khoan dung, tha thứ và thương yêu là cốt lõi đời sống.

Bản chất nông dân hiền lành, chân thật. Hạnh phúc là giúp nhau lo mùa màng, cày, cấy, vườn tược, đình, chùa. Câu chuyện giữa họ với nhau chỉ trong phạm vi sinh hoạt hàng ngày. Chẳng mấy ai dùng chữ “chính trị” nói gì đến phê phán hay chống đối chính phủ.

Địa chủ bóc lột thì cũng chỉ trong một khu vực nhỏ hẹp. Điều ác gây ra tự nó bị giới hạn vì chính gia đình con cháu người gây ác bị điều tiếng, khi vẫn phải sống chung ở đó.

Ngày nay Hiến pháp do đảng cộng sản viết “đất đai là sở hữu của toàn dân do nhà nước quản lý” thì đất đai ngàn đời của dân bỗng dưng trở thành của đảng. Đảng là Đại địa chủ cả nước và đang cầm quyền. Điển hình là quan chức chóp bu được tự ý chọn nơi chôn cất hoành tráng, đã thế còn được tổ chức quốc tang nữa.

Đại địa chủ cầm quyền nên quan chức của họ từ chóp bu Tứ trụ trở xuống đều tham nhũng. Hàng hàng lớp lớp tham nhũng không chừa bất cứ ban ngành nào. Đã thế họ có quyền bỏ tù, quyền giết người dám chống đối họ, cái gọi là “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân”. “Vặt lông vịt thật sạch mà không để vịt kêu to” như Vũ Đình Ánh, Tiến sĩ, một quan chức tiêu biểu (?) từng nói về việc đánh thuế trước đây, hẳn nhiều người còn nhớ. Nghĩ rộng ra thì luật pháp của Việt Nam đúng là như thế.

Tức nước, vỡ bờ. Tiếng súng của anh em nông dân Đoàn Văn Vươn khởi đầu. Tiếp theo là tiếng súng của Đặng Ngọc Viết, bắn cán bộ ngay tại văn phòng tỉnh Thái Bình. Rồi đến việc đảng trực tiếp xử tử đảng viên Lê Đình Kình và tuyên án tử hình, chung thân con cháu ông vì họ quyết bảo vệ đất đồng Sênh của dân làng, đi ngược lại lợi ích nhóm, phe phái của đảng.

Tiêu biểu sức mạnh của Đại địa chủ cầm quyền là Đỗ Hữu Ca, Giám đốc công an Hải Phòng, người dùng công an và quân đội đánh cướp đất đầm Cống Rộc, công sức quai đê lấn biển của gia đình nông dân Đoàn Văn Vươn. Chiếm xong còn tự hào “là trận đánh đẹp có thể viết thành sách”. Anh em nông dân Đoàn Văn Vươn thì đi tù còn Đỗ Hữu Ca thăng lên cấp Tướng.

Hiện tại 4 lao động chính trong gia đình nông dân Trịnh Bá Khiêm đã và đang bị tù nhiều lần, tổng cộng 40 năm, vì họ cương quyết bảo vệ đất ở Dương Nội. Vợ là bà Cấn Thị Thêu và con trai Trịnh Bá Tư mỗi người đang bị tù 8 năm. Con trai lớn là Trịnh Bá Phương thì 10 năm vì có thêm tội tuyên truyền chống nhà nước. Ngày 27 tháng Chín vừa qua anh bị thêm án chồng án 11 năm, tổng cộng là 21 năm tù, vì viết hai câu “Đả đảo cộng sản vi phạm nhân quyền” và “Đả đảo tòa án kết án oan cho tôi” trên giấy A-4.

Hai câu viết trên cất trong phòng giam, hoàn toàn cách ly xã hội bên ngoài, thì “tuyên truyền chống phá nhà nước” với ai? Do đó phiên tòa là phi pháp, bản án là phi lý, phi nhân.

Vì thế có thể hiểu là đảng CSVN muốn dùng bản án kỳ quái đó vì mục đích khác.

– Trước hết là họ răn đe, tạo thêm tâm lý sợ hãi vốn đã có sẵn trong xã hội. Điều này cho thấy hiện tượng âm thầm chống đảng của người dân là có thật, đang phát triển mạnh và nhanh, chế độ có thể bị nguy hiểm nên họ cần phải ra tay. Dứt khoát, không khoan nhượng.

– Mâu thuẫn trong nội bộ đảng giữa phe bảo thủ và phe đổi mới họ cần phải giải quyết. Xử thêm 11 năm tù với anh Trịnh Bá Phương phe đổi mới muốn chứng tỏ họ dứt khoát với “bọn phản động”. Không có chuyện vì đổi mới sẽ giảm án hay trả tự do sớm cho Tù Nhân Lương Tâm như công luận đòi hỏi, điều phe bảo thủ đang lo ngại. “Ân xá” tù nhân nổi tiếng Trần Huỳnh Duy Thức và vài cá nhân chỉ là cá biệt để hình ảnh Tô Lâm bớt lem luốc khi lần đầu tiên xuất hiện tại diễn đàn Liên hiệp quốc. Hiểu như vậy thì dù phe bảo thủ của Nguyễn Phú Trọng đã bị cho ra rìa nhưng, phần chắc, còn mạnh và đang chống đối phe của Tô Lâm.

Thế nhưng, Án Chồng Án với anh Trịnh Bá Phương lại đưa tinh thần tranh đấu anh dũng, kiên cường, bất khuất với độc tài cộng sản của Tù Nhân Lương Tâm từ trong bóng tối ra ánh sáng. Tinh thần yêu nước, chính nghĩa vì hạnh phúc, vì tự do, dân chủ của dân tộc sáng ngời của Tù Nhân Lương Tâm lại thêm một lần nữa đánh thức lương tâm con người trong thế giới văn minh.

“Kỷ nguyên vươn mình” của Tô Lâm còn xa và mơ hồ nhưng, sự thật, là Tù Nhân Lương Tâm đang viết từng trang lịch sử của kỷ nguyên vươn mình chống độc tài cộng sản của người Việt Nam thời hiện tại, ngay trong ngục tù.

Thế sự xoay vần, ai dám bảo bản án chồng án của anh Trịnh Bá Phương hôm nay không phải là bản án chồng án của chế độ CSVN tự xử chính họ trong ngày tháng năm sắp tới?

29/9/2025


 

Tìm đâu ra những người biết đau và biết nhục

Ba’o Tieng Dan

Trần Trung Đạo

7-10-2025

Milovan Djilas là nhà nghiên cứu lý thuyết Cộng sản và từng là ủy viên Bộ Chính trị đảng Cộng sản Nam Tư, Phó Chủ tịch Nhà nước Cộng sản Nam Tư, Chủ tịch Quốc hội Cộng sản Nam Tư. Sau khi phản tỉnh ông viết trong tác phẩm Giai Cấp Mới: Một phân tích về hệ thống Cộng sản, xuất bản năm 1957 như sau:

Trong một thời gian dài, đảng Cộng sản cố tình che giấu bản chất của mình. Quá trình hình thành của giai cấp mới không chỉ được che đậy bằng những thuật ngữ xã hội chủ nghĩa mà quan trọng hơn bằng hình thức sở hữu mới, sở hữu tập thể … Bản chất giai cấp của hình thức sở hữu này được che đậy bằng bình phong quyền lợi của toàn dân tộc“. (Giai Cấp Mới, Phạm Minh Ngọc dịch theo bản tiếng Nga, Talawas, 2005).

Cũng trong tác phẩm Giai Cấp Mới, Milovan Djilas viết: “Năm 1936, nhân dịp công bố Hiến pháp mới, Stalin tuyên bố rằng ở Liên Xô đã không còn giai cấp bóc lột, nhưng trên thực tế người ta không chỉ thực hiện xong quá trình thủ tiêu các nhà tư sản và các giai cấp khác của chế độ cũ mà còn thiết lập một giai cấp hoàn toàn mới, chưa từng có trong lịch sử”.

Nhưng câu này của Milovan Djilas mới là chí lý: “Các lãnh đạo Cộng sản xử lý tài sản quốc gia như của riêng họ, nhưng đồng thời họ cũng lãng phí nó như thể nó là của người khác”.

Thời gian dài trôi qua từ khi tác phẩm ra đời nhưng bản chất của chế độ Cộng sản tại năm nước Cộng sản còn lại, trong đó có Việt Nam, vẫn đúng như Milovan Djilas nhận xét.

“Giai cấp mới” hình thành sau cuộc “đấu tranh giai cấp” tại các nước cộng sản, trong đó có Việt Nam. “Giai cấp mới” nắm giữ toàn bộ quyền lực. Tài sản xã hội trở thành tài sản của “giai cấp mới” này.

Sự tiêu pha và lãng phí của họ đã làm cho Việt Nam, một đất nước nhiều tiềm năng, thành là một nước nghèo so với tiêu chuẩn phát triển chung của thế giới. Các thế hệ Việt Nam đã đổ mồ hôi, nước mắt và cả máu để nuôi dưỡng “giai cấp mới” hoàn toàn không làm một việc gì hữu ích cho xã hội ngoài hút máu dân tộc Việt.

Khái niệm “nhân dân làm chủ” chỉ là một chiếc bình phong để “giai cấp mới” toàn quyền sử dụng tài sản của đất nước như của chính mình, cũng như có toàn quyền lãng phí tài sản đất nước như không phải của mình.

“Giai cấp mới” hình thành bằng phương tiện “bạo lực cách mạng”. Cha đẻ của phương tiện này là Lenin và Felix Dzerzhinsky. Lenin khai triển quan điểm “đấu tranh giai cấp” của Marx trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản nhưng Felix Dzerzhinsky mới là người áp dụng một cách tàn bạo để tiêu diệt mọi mầm mống đối kháng tại Nga sau 1917.

Sergei Melgunov, một sử gia Nga nổi tiếng, chủ bút của tạp chí Tiếng vọng từ Quá khứ (Voice of the Past) và tác giả của nghiên cứu Khủng Bố Đỏ tại Nga 1918-1923 (The Red Terror in Russia 1918-1923) được in lần đầu tại Đức năm 1924, cho biết, danh từ “Red Terror” không phải là tiếng để báo chí hay dân chúng ám chỉ tội ác của Felix Dzerzhinsky hay kết án y, mà danh từ do chính Dzerzhinsky thừa nhận và cơ quan an ninh Cheka đã dùng trong các tài liệu chính thức của tổ chức.

Trong tài liệu của Cheka, mục đích của tổ chức này là “tận diệt mọi kẻ thù của giai cấp vô sản”.

Không riêng đàn ông mà vợ con những người tình nghi là phản cách mạng cũng bị giết. Trong nhiều trường hợp, trẻ em bị xử bắn trước sự chứng kiến của cha mẹ nhưng cũng có khi cha mẹ bị xử bắn trước mắt con cái còn rất nhỏ của họ.

Dzerzhinsky công khai thừa nhận và ủng hộ phương pháp khủng bố: “Chúng ta ủng hộ khủng bố có tổ chức. Khủng bố là một điều cần thiết trong thời kỳ cách mạng. Mục tiêu của chúng ta là chiến đấu chống kẻ thù của Chính quyền Xô Viết và trật tự sống mới. Chúng ta kết án nhanh chóng. Trong hầu hết trường hợp, chỉ cần một ngày, giữa bắt giữ kẻ phạm tội và xử án”.

Do đó, không lạ gì tượng Dzerzhinsky được dựng tại Việt Nam.

Lễ khánh thành tượng Dzerzhinsky ở Hà Nội. Nguồn: Học viện Cảnh sát Nhân dân VN

Milovan Djilas viết về bản chất, nguồn gốc lịch sử hình thành nên “giai cấp mới” nhưng ông có thể đã sót một đặc điểm quan trọng, “giai cấp mới” còn gồm những con người ích kỷ, vô lương tâm và vô cảm.

Mấy năm trước, nhìn bức hình các bà cụ đứng trong cơn mưa tầm tã để nhận một “bằng khen” trong khi chiếc dù duy nhất được dùng để che cho Nguyễn Xuân Phúc để thấy sự băng hoại, thối rữa về đạo đức trong xã hội Việt Nam ngày nay trầm trọng đến mức độ nào.

Nguồn: Internet

Thời gian đó nếu ai phê bình ông Nguyễn Xuân Phúc, có thể bị kết án 15 năm tù dù hôm nay cả nước đều biết các ông Nguyễn Xuân Phúc, Võ Văn Thưởng, Vương Đình Huệ v.v.. là ai.

Tham nhũng dưới chế độ Cộng sản không phải phát xuất từ bản chất tham lam của một số người ở đâu cũng có thể có.

Tham nhũng tại Việt Nam có tính đảng vì chính đảng Cộng sản tạo môi trường cho tham nhũng sinh sôi, nuôi dưỡng tham nhũng lớn và tạo điều kiện để tham nhũng hoành hành.

Đối diện với tầng lớp cai trị, bộ máy tuyên truyền và bạo lực trấn áp khủng khiếp và thường trực của chế độ Cộng sản đã biến phần lớn người Việt thành một tầng lớp chỉ biết phục tùng vì mất hết khả năng chống đối.

Trời hành họ còn biết kêu trời nhưng đảng hành thì không ai dám kêu đảng. Nhà tù đang chờ họ. Trấn áp đang chờ họ. Chết đói, chết khát đang chờ họ. Bộ máy kìm kẹp của đảng Cộng sản siết chặt đến mức làm tê liệt ý thức phản kháng của con người. Họ lầm lũi như đoàn nô lệ da đen đi tìm một nơi để gọi quê hương.

Suốt thời gian chịu đựng Covid, hàng triệu người dân phải đã trở về trong căn nhà trơ trọi và bên ngoài mùa mưa đang đến, nước lụt đang dâng. Có tiếng than, tiếng khóc nửa đêm nhưng tuyệt nhiên không có tiếng trả lời hay an ủi.

Nhưng rồi đại dịch qua đi, những người dân bất hạnh lại sẽ vào thành phố tìm đường sống vì không còn gì để sống trên nơi chôn nhau cắt rốn. Và cứ thế, cuộc đời của tầng lớp người bị trị tại Việt Nam sẽ bị vùi dập trong trầm luân thống khổ cho đến chết.

Tìm ra những người biết đau và biết nhục tại Việt Nam rất khó nhưng phải tìm cho ra. Bởi vì, bài học từ các nước bị độc tài cai trị cho thấy, chính những người biết đau và biết nhục đã thay đổi vận mệnh đất nước họ.

Việt Nam có thể còn khá lâu nhưng nguyên lý không thay đổi, chỉ có những người biết đau, biết nhục mới thay đổi được vận mệnh Việt Nam.


 

ĐIỆP VIÊN NHỊ TRÙNG VÕ VĂN BA- Tác giả: Tina Hà Giang

Câu chuyện về Võ Văn Ba, điệp viên hàng đầu của VNCH và CIA ở Nam Việt Nam

Tác giả: Tina Hà Giang

Nhân viên CIA Frank Snepp nhận huy chương của VNCH – ảnh tư liệuNGUỒN HÌNH ẢNH,FRANK SNEPP

Chỉ gần đây mới có tin chính thức về cái chết của Võ Văn Ba, người từng được coi là ‘điệp viên hàng đầu của CIA ở Nam VN’, khi báo chí Hà Nội gọi đây là ‘tên nội gián nguy hiểm’, bí số X92, Frank Snepp đã biết chắc về cái chết sẽ đến của điệp viên này từ ngày 17/4/1975.

“Lúc ấy tôi biết tính mệnh của Võ Văn Ba đang lâm nguy, và có đủ lý do để tin là một nhân viên CIA biết rõ về nhiệm vụ của ông đã bị phe cộng sản bắt tại Phan Rang, và ngờ rằng khi bị tra tấn, người này sẽ khiến ông bị lộ. Một trong những ác mộng kinh hoàng nhất của tôi trong những ngày cuối cuộc chiến – là người anh hùng này, người đã liều lĩnh làm mọi thứ để hỗ trợ đồng minh – và đảm bảo sự thành công của đợt không vận khẩn cấp cuối cùng đưa nhiều người Việt di tản khỏi VN – có thể đã không sống sót.

Thiếu tá Cảnh sát VNCH Phan Tấn Ngưu, trong một bài viết về Võ Văn Ba trên trang CanhsatQuocgia.org đã gọi ông là “điệp viên giỏi nhất của VNCH, và nhớ lại ông Võ Văn Ba hay nói ‘Nếu cộng sản chiếm được miền Nam, tôi sẽ tự tử!’ và đó chính là điều ông đã làm, khi bị bắt giữ chỉ vài ngày sau khi Sài Gòn thất thủ.”

“Giờ đây tôi nhiều lần tự trách là đã không khăng khăng bắt Võ Văn Ba phải cùng mình rời khỏi Việt Nam,” nhà phân tích chính của CIA (Cục Tình báo Trung ương Mỹ) trong cuộc chiến Việt Nam thổ lộ điều vẫn còn khiến ông bị dằn vặt.

Cùng là gián điệp hai mang, nhưng không như Phạm Xuân Ẩn, cái tên Võ Văn Ba chỉ trong mấy năm nay mới được nhắc đến.

Truyền thông Việt Nam sau 1975 nói ông “chui sâu, leo cao vào nội bộ ta” trong suốt 10 năm và “gây tổn thất đáng kể cho cách mạng” (báo Nhân Dân hồi 2015, và báo Công an Nhân dân về điệp viên X92).

Võ Văn Ba là ai? Ông đã làm gì trong cuộc chiến Việt Nam mà được mệnh danh là điệp viên hàng đầu của CIA, giỏi nhất của VNCH ở Nam Việt Nam?

Trong cuộc phỏng vấn chúng tôi thực hiện cho BBC, Frank Snepp, người từng nhận lệnh của CIA đưa ông Nguyễn Văn Thiệu ra sân bay để rời VN tháng 4/1975, nói điệp viên Võ Văn Ba là một trong những lý do ông đang viết thêm một cuốn sách nữa về cuộc chiến cho đến giờ vẫn còn ám ảnh tâm trí ông.

Frank Snepp: Võ Văn Ba là một người yêu nước, được CIA đặt cho biệt hiệu ‘TU Hackle’ và là điệp viên giỏi nhất của CIA hoạt động trong lòng địch.

Ông từng là một đảng viên cộng sản tận tụy vào cuối thập niên 1940, chuyên tuyển mộ thành viên trẻ tại một tỉnh phía Nam Sài Gòn. Ông làm việc với Việt Minh, rồi trở thành một kẻ khủng bố, nhưng nhanh chóng nhận ra rằng khủng bố không phải là cách thu phục trái tim con người. Chán ngán việc phe cộng sản dùng giết chóc và đe dọa như một chiến thuật chiêu mộ, Võ Văn Ba rời bỏ hàng ngũ.

Tạm biệt chủ nghĩa cộng sản năm 1954 vào thời điểm Hiệp định Geneva, Võ Văn Ba trở thành người đốn cây trồng rẫy, và dọn về tỉnh Tây Ninh, phía tây bắc Sài Gòn. Tây Ninh là một tỉnh quan trọng, vì đó là địa bàn hoạt động của Trung ương Cục Miền Nam, từ một hang ở Núi Bà Đen.

Khi cán bộ Bắc Việt đi qua rẫy của Võ Văn Ba ở chân đồi, ngay bên dưới căn cứ chỉ huy Trung Ương Cục để tham dự các cuộc họp, ông dần dà quen biết họ. Cảnh sát VNCH trong khu vực này, biết lý lịch của Võ Văn Ba, nhận ra ông ở một vị trí lý tưởng. Họ tìm đến ông và nói: chúng tôi muốn ông giúp chúng tôi theo dõi cộng sản, và Võ Văn Ba trở thành gián điệp nhị trùng năm 1960.

Thoạt đầu Võ Văn Ba hợp tác với cảnh sát VNCH. Ông nhanh chóng là một điệp viên hiệu quả, làm việc với cấp chỉ huy cộng sản. Võ Văn Ba đóng vai người cộng sản lầm đường muốn trở lại Đảng, và mới đầu chỉ được tiếp cận với vòng ngoài của Trung ương Cục Miền Nam, nhưng sau đó đi hẳn vào trung tâm của Cục. Nhờ vậy, ông thu thập được mọi động tĩnh từ cơ quan này, biết hết các điệp viên hai mang của họ, và những điều họ đang làm.

Năm 1965, CIA bắt đầu bắt đầu đưa Võ Văn Ba vào quỹ đạo của mình sau khi nhận thấy ông là một nguồn tin có giá trị. Ông từ đó làm việc cho cả An ninh Cảnh sát VNCH lẫn CIA.

Năm 1968, Võ Văn Ba báo trước cho cảnh sát VNCH năm ngày về cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân. Thông tin tương tự đến được Đại sứ quán Hoa Kỳ, người Mỹ không đánh giá cao tin này lắm, nhưng cảnh sát VNCH thì có. Và đó là lý do tại sao khi lực lượng cộng sản tấn công Sài Gòn vào Tết Mậu Thân 1968, cảnh sát VNCH đã chuẩn bị trước và có mặt để đối phó.

BBC:Ông có thể kể lại kinh nghiệm làm việc với Võ Văn Ba?

Frank Snepp: Năm 1969, tôi đến VN làm chuyên viên phân tích cho CIA. Một trong những điều đầu tiên tôi phải làm là phân tích tài liệu chúng tôi vừa tịch thu được, một tài liệu của Cộng sản quan trọng nhất mà chúng tôi từng có.

Tài liệu đó là Nghị quyết 9, phân tích của Bắc Việt về những gì xảy ra năm 1968, cũng như hoạt động quân sự sau đó. Bắc Việt nhận định rằng quá nhiều quân sĩ của họ đã tử trận, nhiều đến mức họ dự trù phải thúc thủ trong vòng hai năm. Nói cách khác, họ không thể có cuộc tấn công lớn nào nữa. Khi CIA tịch thu được toàn bộ tài liệu này, tôi được giao nhiệm vụ cùng với ba hoặc bốn đồng nghiệp, cũng thuộc CIA, phải tìm hiểu xem tài liệu có xác thực hay không.

Chúng tôi nghĩ tài liệu đó thật, nhưng không chắc 100%. Làm thế nào để xác định được là tài liệu đó có giúp chúng tôi biết ý định sự thật của phía cộng sản không rất quan trọng, vì chương trình Việt Nam hóa chiến tranh, chính sách mới của Nixon về việc rút lực lượng Mỹ và đưa lực lượng Việt Nam lên tuyến đầu, chỉ mới bắt đầu. Nếu tài liệu này đúng, có nghĩa là trong thời gian hai năm, khi Cộng sản không thể hoạt động mạnh trên chiến trường, chúng tôi sẽ rảnh tay thực hiện chính sách Việt Nam hóa.

Chúng tôi gặp Võ Văn Ba và được Võ Văn Ba xác nhận đó là tài liệu đúng. Đó là một đột phá tình báo lớn. Tôi biết Võ Văn Ba trong hoàn cảnh đó. Trong vòng hai năm, tôi bắt đầu gặp trực tiếp ông ta, không phải vì tôi giỏi, không phải vì tôi nói được tiếng Việt, tôi luôn phải có thông dịch viên khi làm việc với Võ Văn Ba, nhưng vì tôi đã nắm sẵn được nhiều bí mật. Là một nhà phân tích của CIA, tôi được truy cập vào những bí mật quan trọng và bạn phải biết bí mật thì mới có thêm được bí mật. Vì vậy CIA cử tôi đến nói chuyện với nhiều nguồn tin, trong đó có Võ Văn Ba, để lấy tin và xác minh xem những gì chúng tôi nhận được có chính xác không.

Tôi bị Võ Văn Ba mê hoặc. Ông có trí nhớ phi thường, có thể xem một tài liệu và nhớ nguyên văn mọi thứ cần nhớ về tài liệu đó. Không cần phải cầm tài liệu trong tay, chỉ cần đọc nó một lần, ông sẽ có thể mang tài liệu đó đến cho chúng tôi trong đầu của ông.

CIA huấn luyện cho ông tất cả những kỹ thuật căn bản trong nghề tình báo.

Phải nói rõ là Võ Văn Ba có người phụ trách trực tiếp tức ‘handler’ là Cảnh sát Đặc biệt của VNCH. Ông cũng có một ”handler” khác là một nhân viên CIA người Mỹ ở Tây Ninh. Nhưng người Mỹ này không thể trực tiếp gặp ông, bởi nếu Cộng sản nhìn thấy ông với một người da trắng, họ sẽ nghi ngờ.

Hai ông Frank Snepp và Phan Tấn Ngưu tại California, Hoa Kỳ NGUỒN HÌNH ẢNH,FRANK SNEPP

Vì vậy, để gặp ‘handler’ người Mỹ, Võ Văn Ba phải vào một bệnh viện ở Tây Ninh, trèo lên một băng ca, kéo tấm trải giường lên người, giả như người đã chết. Sau đó, các nhân viên phụ trách người Việt của ông sẽ chuyển băng ca ra ngoài, đưa lên máy bay. Máy bay sẽ đưa Võ Văn Ba vào Sài Gòn nơi ông cải trang để gặp tôi hoặc một người Mỹ khác. Ông sẽ mặc áo dài nam hay đội bộ tóc giả lớn khiến ông trông giống một phụ nữ và đeo cặp kính đen khổng lồ giống như Greta Garbo, rồi đến gặp chúng tôi tại một nơi an toàn.

BBC:Ngoài trí nhớ phi thường như ông nói, Võ Văn Ba là người như thế nào và có đặc điểm gì, thưa ông?

Frank Snepp: Võ Văn Ba có hai nhược điểm. Một là rất thích bia Budweiser. Ông được bảo là người Mỹ thả bia Budweiser dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh để làm chậm tiến độ xâm nhập của Bắc Việt, vì đang di chuyển họ phải dừng lại uống bia (cười). Chẳng biết điều đó có đúng không, tôi cho rằng đó là sự thật, dù không bao giờ kiểm chứng được. Dẫu sao Võ Văn Ba rất mê Budweiser.

Nhược điểm thứ hai là rất thích thuốc Salem. Nghe nói ông Hồ Chí Minh cũng mê thuốc lá Salem, và thường bỏ thuốc Bastos hoặc thuốc lá Việt Nam trong túi áo, và mời những thứ này cho các đồng chí. Nhưng khi muốn hưởng chút lạc thú, ông sẽ lấy Salem ra hút. Vì vậy, Võ Văn Ba, người thích trò trớ trêu, luôn đòi chúng tôi cung cấp bia Budweiser và thuốc Salem trước khi trao cho chúng tôi những bí mật.

Và những bí mật ông có được thì thật tuyệt vời. Toàn những tin từ nội bộ. Ông được hàng ngũ cộng sản tín nhiệm đến nỗi được tham gia các cuộc họp bên trong Bộ chỉ huy ở Núi Bà Đen.

Võ Văn Ba ở vào vị trí lý tưởng để giúp chúng tôi, và để giúp ông đóng được vai trò một thành viên Cộng sản tốt, CIA và Cảnh sát Đặc biệt VNCH dàn dựng nhiều việc. Chúng tôi tấn công vào các trạm kiểm soát của cảnh sát VNCH, tất cả đều là giả, và sau đó loan tin là phe cộng sản đã làm điều đó, dĩ nhiên Võ Văn Ba kiếm được điểm, vì vậy, tín nhiệm của ông ngày càng tăng trong giới chỉ huy Bắc Việt. Họ cho rằng ông đã thi hành tất cả những điệp vụ kinh tởm cho họ, trong khi thực sự ông làm việc cho chúng tôi.

BBC:Những tường trình của Võ Văn Ba đã giúp công việc của ông ra sao?

Frank Snepp: Tôi dần dà ủng hộ tuyệt đối những tường trình của Võ Văn Ba. Lúc trở về trụ sở CIA ở Mỹ vào năm 1971, tôi là thành viên của một đơn vị phân tích lớn, chuyên viết bản tường trình hàng ngày (Daily Brief) cho Tổng thống. Tôi quảng bá báo cáo của Võ Văn Ba, vì là một trong số ít người trong ban phân tích của CIA đã gặp được ông, và vì tôi biết ông là vàng ròng.

Năm 1972, chúng tôi bắt đầu nhận được báo cáo lạ của Võ Văn Ba. Lạ vì nó cho thấy Cộng sản đang làm một điều mà chúng tôi không bao giờ nghĩ họ sẽ làm. Họ cho cán bộ biết là có thể sẽ có một hiệp định hòa bình mà không cần phải có điều kiện họ luôn coi là tiên quyết, đó là Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức. Tôi sửng sốt khi đọc điều đó, vì tôi biết Võ Văn Ba là người đáng tin.

Tôi viết ngay bản tường trình hàng ngày cho tổng thống nói rằng tôi nghĩ một hiệp định hòa bình đang trong quá trình được thực hiện. Lúc ấy Henry Kissinger đang bí mật đàm phán ở Paris, nhưng không nói cho ai biết mình đang làm gì. Báo cáo của Võ Văn Ba là dấu hiệu đầu tiên cho chúng tôi thấy đã có bước đột phá trong cuộc đàm phán bí mật ở Paris giữa Kissinger và Lê Đức Thọ. CIA, dù ít nhất là ở cấp của tôi, không ai biết gì về điều này. Vì vậy, chúng tôi đã được điệp viên giỏi nhất của mình báo về tiến trình các cuộc đàm phán tại Paris.

Lê Đức Thọ nói chuyện với Henry Kissinger tại Paris năm 1972 NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES

Sau đó tôi lại được cử về Sài Gòn vào mùa thu năm 1972 để thẩm vấn một tù binh Bắc Việt giỏi nhất mà chúng tôi bắt được. Vào tháng 10/1972, khi tôi đã có mặt ở Sài Gòn, chúng tôi nhận được một báo cáo hết sức sửng sốt của Võ Văn Ba. Báo cáo cho biết Kissinger đã có một thỏa thuận khủng khiếp với phe cộng sản, cho phép Bắc Việt giữ lực lượng của họ ở miền Nam.

Bản báo cáo của Võ Văn Ba không chỉ đến Tòa Đại sứ, mà còn đến tay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, khiến ông Thiệu vào tháng 10/1972 phản ứng mãnh liệt, hỏi chuyện gì đang xảy ra, Kissinger đang làm gì? Ông Thiệu nhất quyết phản đối, nói sẽ không chấp nhận thỏa thuận mà Kissinger đang đàm phán dù đó là thỏa thuận gì, vì ông không được tham dự vào việc thương lượng. Khi ông Thiệu nhất quyết phản đối thì đến phiên Bắc Việt hỏi chuyện gì đang xảy ra, người Mỹ chắc đang lừa chúng ta.

Khi thấy thỏa thuận có nguy cơ bị hỏng, vì Võ Văn Ba đã cho chúng tôi biết sự thật, Nixon quyết định dội bom Bắc Việt để chứng minh với ông Thiệu rằng Mỹ vẫn đứng về phía ông, và cũng để làm cho Bắc Việt phải tiếp tục thương lượng, và họ đã trở lại đàm phán.

Võ Văn Ba đã cung cấp cho tổng thống VNCH thông tin đầu tiên về những gì Kissinger đang làm, và quan trọng nhất là quyết định cho phép quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam của Kissinger.

BBC: Ông có tiếp xúc với Võ Văn Ba thường xuyên không?

Frank Snepp: Trong thời kỳ ngừng bắn 1973 đến 1975, tôi thỉnh thoảng gặp ông để biết những kế hoạch mới nhất của cộng sản. Tôi cũng được trao một trọng trách mới, là giúp quản lý một đặc vụ mà chúng tôi đang có ở Hà Nội. Phải nói rõ rằng người phụ trách Võ Văn Ba là một nhân viên CIA khác rất giỏi, nhưng tôi được cử đến gặp ông định kỳ để kiểm chứng những phát hiện của ông với nguồn trực tiếp của chúng tôi ở Hà Nội. Tôi không giỏi gì, nhưng chỉ vì tình cờ mà tôi được liên lạc trực tiếp với điệp viên giỏi nhất của CIA và có dịp kiểm chứng những tin những điệp viên gửi về.

Khi Nixon từ chức, Võ Văn Ba cho chúng tôi những dấu chỉ đầu tiên về những gì Cộng sản sẽ làm vào cuối năm 1974. Ông nói Bắc Việt sẽ thử nghiệm để xem khả năng phòng thủ của VNCH lúc ấy yếu đến độ nào.

Ngày 8/4/1975, Võ Văn Ba cho chúng tôi báo cáo đầu tiên về những gì phe cộng sản sẽ làm để dứt điểm cuộc chiến. Tôi không được tin này trực tiếp, mà nhận qua người ‘handler” của ông. Tôi gửi ngay yêu cầu cho Võ Văn Ba thông qua người Mỹ này để hỏi thêm.

Sài Gòn hai hình ảnh năm 1975 và 2020NGUỒN HÌNH ẢNH,GETTY IMAGES

Sau đó, ngày 17/4, tôi trực tiếp gặp Võ Văn Ba và nhận được toàn bộ kế hoạch kết thúc chiến tranh của Cộng sản: Sẽ không có thỏa thuận nào, ông Thiệu từ chức hay không không thành vấn đề, cũng không thành vấn đề nếu chúng tôi muốn thành lập một chính phủ liên hiệp, Cộng sản nhất quyết tiến chiếm Sài Gòn kịp sinh nhật Hồ Chí Minh vào giữa tháng 5, và sẽ tấn công trước ngày 1/5, đúng y như những gì đã xảy ra.

Tin đó khiến các nhà hoạch định quân sự Hoa Kỳ đã bị sốc mà phải tức thời lập chương trình cho những chuyến trực thăng khẩn cấp đưa người di tản. Vì vậy, với những ai đã được đưa ra khỏi Việt Nam vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến, Võ Văn Ba là người đã cứu họ…

Trong phần hai của cuộc phỏng vấn, ông Frank Snepp, năm nay 78 tuổi, so sánh hai điệp viên Võ Văn Ba và Phạm Xuân Ẩn. Cuộc nói chuyện do Tina Hà Giang thực hiện cùng cameraman Dân Huỳnh tại Nam California, Hoa Kỳ cuối tháng 10/2021.


 

Bà Thanh đã bị bắt!-Lê Huyền Ái Mỹ

Ba’o Tieng Dan

Lê Huyền Ái Mỹ

6-10-2025

Chiều nay, báo chí đăng tin bà Phan Thị Mỹ Thanh, cựu phó Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai bị bắt vì tội nhận hối lộ trong vụ án liên quan siêu dự án King Bay 125 ha.

Bà Phan Thị Mỹ Thanh, cựu Phó bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai, đã bị bắt. Nguồn: BVPL

Tội trạng này hoàn toàn mới trong “bộ sưu tập” sai phạm của bà Thanh. Bởi trước đó, khi là giám đốc sở Công nghiệp, bà cho thu tiền của dân nhưng không cho xây dựng trong dự án khu tập thể nhà máy dệt Thống Nhất, lấy tiền gửi qua dự án khác (công ty gỗ Tân Mai), chuyển công tác nhưng không bàn giao dự án…

Khi là phó chủ tịch UBND tỉnh, không xem xét nội dung tham mưu của sở ngành, không báo cáo xin ý kiến các Bộ ngành khi thực hiện một số dự án trọng điểm, ký một số quyết định (có cả ngoài lãnh vực mình phụ trách) để ưu ái cho công ty gia đình, báo cáo sai sự thật về khối lượng, tiến độ đã thực hiện của dự án, nhằm mục đích trục lợi cho doanh nghiệp của gia đình mình. Nhiều lần sử dụng hộ chiếu ngoại giao để đi nước ngoài với mục đích cá nhân, xuất cảnh không báo cáo tổ chức.

Rõ ràng, bà Thanh đã vi phạm “rất nghiêm trọng” – theo kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương tại tờ trình 111/2018 – nên bị cách hết tất cả các chức vụ trong Đảng từ tháng 5/2018.

Và vì “rất nghiêm trọng” nên tháng 12 cùng năm, bà Thanh được chuyển từ Văn phòng tỉnh ủy Đồng Nai về Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh!

Vi phạm rất nghiêm trọng mà vẫn còn được tái bố trí trong bộ máy nhà nước thì phần nào lý giải độ “che cả bầu trời” của bà Thanh. Những vi phạm, sai phạm ở các cương vị đều cho thấy bà như đi giữa chốn không người, kỷ luật tự thân hay kỷ cương tập thể đều là thứ “bỏ túi” trong tay bà.

Trước sự đã rồi, cả Ban thường vụ Tỉnh ngồi lại tự kiểm với câu “coi đây là bài học sâu sắc để xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh”. Chẳng phải đợi đến khi Trung ương ra án kỷ luật thì mới thấy là bài học kinh nghiệm. Bài học nào – từ ai, kinh nghiệm gì – từ đâu khi diễn tiến sự việc, cách điều hành, thói can thiệp công khai, lộ liễu như thế, tính Đảng bị mất đi, bị triệt tiêu từ trong cá thể đến tập thể như thế, cần gì phải đợi tổng kết, đúc kết để ra “bài học kinh nghiệm”.

Giờ thì bà ta đã bị bắt, cái tội danh gọn ơ trong ba chữ “nhận hối lộ” nhưng như là “phẩm tính” ở một con người, một cán bộ, một lãnh đạo địa phương coi Trời bằng vung, coi dân rẻ mạt.

Việc bắt một cựu quan chức sai phạm đã gần như “thế à” ở xã hội ta. Điều đáng quan tâm hơn họ có là một mắc xích trong đường dây “quan – thương” câu kết để trục lợi ngày càng tinh vi, biến tướng, nguy hại hơn, với mối quan hệ “quan chức – doanh nhân – tội phạm”, các đối tượng đã thông đồng, móc ngoặc, hình thành “nhóm lợi ích” để trục lợi” – như lưu ý của Tổng bí thư Tô Lâm mới đây khi nói về một loạt sai phạm ở Thanh Hóa.

Những ngày này, đọc về một “bà đầm thép” xứ người nay mai sẽ là Thủ tướng; nhìn lại cũng một “đầm thép” xứ mình, là dân đất Trấn Biên xưa, sao chỉ thấy lối hành xử công quyền vô thiên vô pháp.


 

Tiên sư anh thiên tai! – Thái Hạo 

Hạo’s Post – Thái Hạo 

 Lại mưa. Nhìn những hình ảnh cột điện đổ bằng sắt hộp này và nghĩ về cảnh mất điện 4 – 5 ngày không một lời thông báo của i-vi-en mà mệt ngang. Mệt hơn nữa là dù mất điện, dù không dùng điều hòa, không sử dụng bao nhiêu nhưng tiền điện vẫn được giữ vững, có khi còn tăng trưởng ngoạn mục nữa. Tài, tài đến thế là cùng. Tiên sư anh thiên tai!

Sách cũ miền nam 1954 -1975- Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

03/10/2025

Đã định tâm như thế rồi. Cho nên, khoảng 6 tháng trước khi về Sàigòn để thăm lại bạn bè, bà con mình, tôi đã nhờ bạn bè bên ấy tìm cho tôi những sách mà tôi muốn tìm. Thật ra ít có ai có thì giờ và có lòng để đi làm một công việc vô bổ như thế. Biết bao nhiêu phần đời tôi, biết tìm cái gì, biết mua ra sao…

…Rất may là tôi còn những người bạn có lòng để tâm giúp đỡ, tên anh là Hồ Công Danh. Đó không phải là đi mua sách cũ mà là một việc truy lùng, sục sạo, mò mẫm đầy bất trắc và may rủi, nhưng cũng đầy thú vị và mủi lòng.

Bởi vì sách vở thời ấy, số phận nó như số phận người. Nó cũng phải trốn chạy, chui rúc, ẩn náu. Chúng cũng rơi vào cảnh mồ côi cha mẹ, cảnh lạc đàn, cảnh tan nát, cảnh tan hoang mất còn. Vận người dân miền Nam thế nào, vận chúng như thế. Đứa may trốn thoát. Tôi có đứa cháu trai, hồi đó, 6, 7 tuổi. Khi đi di tản năm 1975, cháu chỉ mang cặp sách của cháu và nhặt một cuốn sách giáo khoa tâm lý học tôi viết thời đó. Sang sau vài năm, cháu đưa lại cho tôi. Kể cũng mừng và cũng buồn cười. Đứa yểu tử thì làm mồi cho cuộc phần thư. Đứa không may làm giấy gói xôi buổi sáng. Đứa bất hạnh làm giấy chùi đít. Đó là cuộc trốn chạy vô tiền khoáng hậu mà những kẻ đi truy lùng chỉ là các trẻ con lên 12, 13 tuổi. Các cháu ngoan bác Hồ. Họ xô những đứa trẻ con vô tội đó ra đường. Chúng quàng khăn đỏ hô hoán, reo hò như trong một vụ đi bắt trộm, hay đi bắt kẻ gian. Chúng lục soát tận tình, chúng đánh trống, chúng hát hò như một cuộc ra quân của một đoàn quân chiến thắng.

Gia đình nào cũng sợ hãi cái quang cảnh đó nên kẻ mà phải hy sinh đầu tiên chính là sách vở.

Sách vở gì cũng sợ nên sách gì cũng phải tẩu tán. Sách vở bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, mặc dầu chúng là người ngoại quốc, mặc dầu chả dính dáng gì đến chuyện chính trị hay chiến tranh Việt nam, chúng cũng chịu chung số phận. Tôi cũng có khá nhiều sách vở bằng tiếng Pháp, nhưng tôi biết rằng, trước sau gì tôi sẽ không bao giờ dùng đến chúng nó nên lôi ra bán ve chai mà không thương tiếc. Sách nhỏ bán trước, sách lớn bán sau, cuối cùng là bộ Bách Khoa tự điển bằng tiếng Anh tuần tự rơi vào tay các ông bà bán ve chai. Ở nơi ấy, chẳng mấy khi mà Aristote gặp được Kant. Cũng chẳng ai ngờ được Bùi Giáng gặp mặt được Heideigger.

Sách cũ đối với tôi là một ám ảnh mời gọi tìm về. Trong đó đặc biệt có truyện sưu tập tài liệu triết cũ. Cũng từ những sách cũ đó mà trước đây tôi lớn lên, được nuôi dưỡng và phát triển về trí năng mỗi ngày. Nếu cơm gạo miền Nam cho tôi lớn lên thì sách miền Nam nuôi dưỡng tôi thành người thông tuệ.

Đi truy lùng lại sách cũ là tìm lại một phần bản thân tôi vậy.

Nhưng khi tôi nói sách cũ thì không có nghĩa là sách cổ, mà là sách của miền Nam xuất bản trước 1975. Sách mà theo báo cáo của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng tại kỳ họp thứ nhất của Quốc Hội, ngày 26 tháng 6, năm 1976 là: “Việc xây dựng nền Văn Hóa mới đuợc tiến hành trong cuộc đấu tranh quét sạch những tàn dư mà Mỹ đã gieo rắc ở miền Nam. Đó là thứ Văn Hóa ‘nô dịch’, lai căng, đồi trụy, cực kỳ phản động..” [I].

Để thực hiện nghị quyết trên, họ đã làm mọi cách: tịch thu, tàng trữ và đốt sách và coi sách vở báo chí miền Nam chỉ là thứ rác rưởi. Phần tôi, tôi dám gọi đó là đống rác tinh thần, tài sản của tất cả trí thức, nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà phê bình, nhà khoa học miền Nam trong vòng hai mươi năm đã bị đốt. Tóm lại, đó là đống rác thân yêu của miền Nam, cho người miền Nam gìn giữ lấy.

A.- Tình hình sách cũ hồi 1975.

Cộng chung số sách đã bị tịch thâu, hay bị đốt theo là bao nhiêu. Hình như chưa có ai hỏi câu hỏi đó và cũng chưa bao giờ có câu trả lời. Có thể chẳng ai biết được. Chỉ tính theo đầu sách thôi, các số liệu cũ của Bộ Thông Tin cho thấy, vào tháng 9-1972, theo Ủy Hội Quốc Gia Unesco, Việt Nam Cộng Hòa trung bình đã cấp giấy phép cho 3000 đầu sách được xuất bản một năm. Cộng chung từ năm 1954 đến 1975, đã có khoảng từ 50.000 – 60.000 đầu sách đủ loại được xuất bản, thêm vào đó 200.018 đầu sách ngoại quốc được nhập cảng. Giả dụ mỗi đầu sách in tối thiểu 3000 cuốn. Sẽ có 180 triệu cuốn sách tiếng Việt bị tiêu hủy. Đây chỉ là một lối tính ước chừng. Và như vậy số sách bị tịch thâu, bị đốt, bị bán ra vỉa hè hay ve chai là khoảng 180 triệu cuốn trên khắp miền Nam. Miền Nam theo nghĩa từ Bến Hải vào đến Cà Mâu.

Con số này đã không còn đúng nữa khi ta đọc một bài viết của ông Vũ Hạnh, một nhà văn thời VNCH và là một đảng viên cộng sản trong bài: “Mấy ý nghĩ về Văn Nghệ thực dân mới đăng trong tuần báo Đại Đoàn kết: Từ 1954 đến 1972, có 271 ngàn loại sách lưu hành tại miền Nam, với số bản là 800 triệu bản.” Trong khi đó sách của ông Trần Trọng Đăng Đàn đưa ra con số 357 ngàn loại. Và ông Đàn dám cả gan nói: Như vậy là con số của Vũ Hạnh gần như khớp với con số chúng tôi tìm được. Thưa ông Trần Trọng Đăng Đàn, con số cách nhau gần một trăm ngàn mà ông dám bảo là khớp thì tôi chịu ông. Các ông đã bao giờ biết nói thật chưa.

Cũng vậy, tờ Tin Sáng số ra ngày 1 tháng 8, năm 1976 tính rằng: Từ năm 1962 về sau, tại Nam Việt Nam đã xuất bản 208 bộ sách chưởng, gồm 850 quyển, con số phát hành này ước tính 5 triệu bản, bằng số sách giáo khoa trung học xuất bản cùng thời gian. [ii]

Con số này, xin nhờ những vị chuyên gia về Kim Dung cho biết xem thực hư ra sao. [iii]

Độc giả thân mến, xin ghi nhận những thống kê của Ủy Hội Quốc Gia Unesco VN là tài liệu đáng tin cẩn. Tôi chỉ xin nói một điều, nước Pháp hiện nay mỗi năm xuất bản khoảng 1000 đầu sách tiểu thuyết mới. Làm sao VNCH có thể xuất bản mỗi năm hơn 20 chục ngàn đầu sách một năm. Những con số của ông Vũ Hạnh hay gì khác là một thổi phồng đến phi sự thực. Tôi không dám bảo là ông ấy nói láo khoét. Hãy trả lại các ông ấy những gì các ông ấy viết. Chỉ cần so sánh con số dự đoán giữa ông và Trần Trọng Đăng Đàn đưa ra cũng cách nhau cả gần một trăm ngàn đầu sách. Điều đó muốn nói với chúng ta điều gì.

Nay tất cả những sách đó đều ra tro. Đây là một chính sách man rợ và xuẩn động của nhà cầm quyền Hà Nội. Dĩ nhiên, người ta đã không đốt hết mà mang bán, chính vì thế nay còn rơi rớt lại một số nhỏ nơi các tiệm bán sách.

Vì sợ hãi nên người ta mang sách vở tài liệu ra chợ bán ký, đó là thứ hàng vô dụng và nguy hiểm nhất trong lúc ấy. Người ta đốt những sách nào liên quan đến chính trị, nhất là sách vở chống Cộng. Người ta đốt những nhà văn nào liên quan đến chính trị như Nguyễn Mạnh Côn. Nhã Ca, Phan Nhật Nam v.v… Người ta cũng đốt tài liệu, hình ảnh cũ, giấy tờ, huân chương, bằng khen. Đó cũng là thứ mà những người chủ mới không muốn nó có mặt.

Người ta đốt tất cả những kỷ niệm, dù đẹp nhất của đời mình.

Mọi người phải tự hiểu rằng, phải đốt tất cả những gì cần đốt, không phải chỉ đốt những kỷ niệm mà tất cả những gì liên quan đến đời sống đó. Một đời sống mà tự nó đã là một điều xấu, một bản án.

Muốn sống yên, người ta phải đốt tất cả quá khứ đời một người cùng với những kỷ niệm, những sự nghiệp từ quá khứ đó mà ra.

Sách không đốt thì được bày bán lén hoặc công khai. Sự bầy bán sách vở như thế coi như dân chúng bắt mạch được thâm ý người chủ mới muốn gì. Nhưng trong số vạn người bán, vạn người mua, vẫn có những người nhà buôn bất đắc dĩ mà đặc loại là một số nhà văn, nhà giáo chế độ cũ nắm được cái chìa khóa của nhu cầu và ý nuốn của người đọc. Họ tìm ra giữa những kẽ hở để thấy được trong hàng tấn sách báo thải loại, cái nào là thứ hàng có giá trị, có giá đối với người chủ mới. Nạn chợ đen, nạn săn tìm sách cũ cho một thị trường mới nhờ thế càng phát triển.

Một cách nào đó, chính những nhà giáo, nhà văn, những kẻ bán sách lề đường, những tên lái sách trở thành những người bảo tồn Văn hóa miền Nam.

Sách phản động càng cấm, càng có giá. Đó là phản ứng ngược chiều ở thời điểm đó. Trên báo Đại Ðoàn Kết, ngày 10-11-1982, Đinh Trần Phương Nam thú nhận một thực tế phũ phàng như sau: “Các hoạt động của chúng ta vừa qua thật rầm rộ, thật phong phú và đa dạng, song các loại sách báo phản động đồi trụy, đã bị quét hết chưa. Xin thưa ngay là chưa.” Số Tiền Phong ngày 23-9-1985 cũng than thở “Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều đợt bài trừ sách báo xấu, nhưng hiện nay hiện tượng mua bán và cho thuê các loại sách báo xấu vẫn còn tồn tại.” [iv]

Những sách càng bị cấm lại càng có giá trên thị trường đen. Trên vỉa hè phố, những sách từ ngoài đó được phép bầy bán nằm chống mốc, cong queo ít được ai ngó tới. Người ta bầy những sách trên để che mắt mà thôi. Người mua sách sành điệu chỉ cần hỏi tên một tác giả nhà văn Ngụy. Năm phút sau, chạy đi một lúc có liền.

Lại một thách đố nữa cho người chủ nhân ông mới.

Sách Ngụy trở thành một thách đố chính quyền mới, thách đố ai hơn ai chứ không phải ai thắng ai.

Thách đố mang tầm vóc văn học, giá trị nghệ thuật dựa trên nhu cầu người đọc. Sách hay thì tìm đọc, sách tuyên truyền thì không đọc.

Đài phát thanh thành phố ra lệnh phải thu nộp tất cả các sách vở, báo chí, phim ảnh, tài liệu in ấn trước ngày 30 tháng tư được coi là đồi trụy. Nhiều người tiếc rẻ đem bán kilô. Các gói xôi bán buổi sáng, nay có tên Nguyễn Thụy Long, Nhã Ca, Thanh Tâm Tuyền. Vừa ăn, vừa đọc kể cũng vui. Nhiều chỗ mang sách vở cũ ra đốt. Mà phải đốt lén vào ban đêm.

Nhưng sau đó ai cũng thấy đốt là phí phạm. Không đốt thì sách vở đó đi đâu? Không ai biết nữa. Nhiều người nhắc nhở đến tên Tần Thủy Hoàng. Nhưng chẳng ai để ý đến có mối liên hệ gì giữa chuyện xưa và chuyện nay.

Tại sao lại dị ứng với văn học như thế? Không lẽ tất cả đều là phế liệu, tàn dư Mỹ Ngụy hết sao?

Sách nào là phản động, đồi trụy?

Vì thế sách cũ ở đây được đồng hóa với sách cực kỳ phản động, không phản động thì đồi trụy, không đồi trụy thì lai căng. Mấy chữ trên như những khẩu lệnh bao trùm và truy chụp hầu như bất cứ tác giả nào và bất cứ quyển sách nào.

  • Trước hết, các nhà xuất bản sách thiếu nhi bị cấm toàn bộ.

Đó là các nhà xuất bản như Tuổi Thơ, Nắng Sớm, Tuổi Hoa Niên, Sách Đẹp, Viễn Du, Hùng Dũng, Hoa Hồng, Hoa Hướng Dương, Hoa Mai.

  • Các dịch giả Kiếm Hiệp sau đây cũng bị cấm: Kim Dung, Cổ Long, Trần Thanh Vân, Nam Kim Thạch, Từ Khánh Phụng, Phan Cảnh Trung, Long Đức Nhân.
  • Các tác giả có sách bị cấm toàn bộ như: Bùi Giáng, Chu Tử, Dương Nghiễm Mậu, Duyên Anh, Doãn Quốc Sỹ, Đinh Hùng, Nguyễn Mạnh Côn, Hoàng Hải Thủy, Lệ Hằng, Mai Thảo, Nguyên Sa, Nguyễn Đình Toàn, Thế Uyên, Thanh Nam, Võ Phiến, Văn Quang, Vũ Hoàng Chương, Vũ Tài Lực, Nguyễn Mộng Giác, Thảo Trường, Nguyễn Thị Hoàng..

Nhận xét:

– Những nhà xuất bản sách thiếu nhi này ấn hành đặc biệt các truyện dành cho thiếu nhi. Những sách đó có tính cách giáo dục, giải trí, hay nêu gương tốt cho các em thiếu nhi. Nội dung lành mạnh và có chất lượng giáo dục. Những nhà xuất bản này thường bất vụ lợi, có sự tài trợ đằng sau của những tổ chức tôn giáo, hay những nhà xuất bản có lòng như trường hợp ông Khai Trí. Vậy mà tội tình gì cũng bị cấm. Cứ cấm là cấm, cấm một cách trùy dập vô tội vạ và vô ý thức.

Các trẻ em miền nam tự nhiên mù chữ vì không có sách đọc.

Về các dịch giả truyện Kiếm Hiệp cho thấy đây là những sách dịch vô tội vạ, vô thưởng vô phạt xét về mặt luân lý, giáo dục. Chủ đích của người dịch trước hết có thể là giải trí người đọc. Ai đọc truyện kiếm hiệp chả thấy hấp dẫn và hay, đọc để giải trí. Sau đó mới nói tới những chủ đề tình yêu, y học, võ thuật, nhân vật truyện, chất hài, chất ghen tuông, chất giang hồ, kiếm pháp trong các truyện kiếm hiệp ấy. Sách phải được coi là bổ ích và nó là bộ phận không nhỏ trong sinh hoạt Văn học miền Nam.

Trẻ đọc, già đọc, bình dân đọc, trí thức đọc… Mỗi người tìm ra được cái thích thú cho riêng mình.

Đến có thể nói, một trong những nét đặc thù trong sinh hoạt Văn Học miền Nam là sách của Kim Dung.

Kim Dung tên thật là Trà Lương Dung. Truyện võ hiệp đầu tay là Thư Kiếm Ân Cừu, xuất bản ở Hương Cảng, từ đó có bút danh Kim Dung. Năm 1957 ra bộ Anh Hùng Xạ Điêu, 1969 ra Lộc Đỉnh Ký. Cho mãi đến 1978 Đài Loan mới rút lệnh cấm tác phẩm Kim Dung và 1986, sau khi tiến lên 4 Hiện Ðại Hóa ở Trung Quốc mới xuất hiện Kim Dung. Truyện chưởng Kim Dung “độc bá quần hùng” trong sinh hoạt văn học ở miền Nam thời ấy. Vào năm 1968, khi xuất hiện Tiếu Ngạo Giang Hồ trên tờ Minh Báo thì có đến 44 nhật báo ở Sàigòn đều tranh nhau dịch và đăng lại. Tình trạng mê Kim Dung đến như thế, và kéo dài cho đến 1972-1974 khi bộ Lộc Đỉnh Ký ra đời. Và đây là lời Vũ Đức Sao Biển, tốt nghiệp Đại học Văn Khoa, Sàigòn, ban Hán Văn: “Tôi học cách làm người, cách đối xử nhân thế, đắc thủ được những kiến thức hoàn toàn không có trong giáo trình đại học từ các tác phẩm của một nhà văn nước ngoài chưa hề biết mặt.”

Với lượng tác phẩm đồ sộ như thế, với số người đọc đông như thế, không thể không tìm hiểu văn học miền Nam nhất là văn học dịch mà bỏ qua tác giả Kim Dung. Người ta có thể bàn về bất cứ vấn đề nào của con người, của xã hội. Có thể từ tình yêu, bạo lực, đạo đức, tâm lý hay sự đánh tụt giá của chủ nghĩa bạo lực trong truyện Kim Dung. Từ vấn đề nghệ thuật, cách xây dựng nhân vật tiểu thuyết, chất thơ, chất hài… đến chứng cứ kiếm pháp, Võ và Hiệp, cho đến những vấn đề có thể trở thành tranh luận văn học như hư cấu nhân vật, hư cấu lịch sử. Kim Dung đã hư cấu lịch sử Trung Hoa cách đấy ba thế kỷ mà vẫn hay với cấu trúc tiểu thuyết liên hoàn. Vương Sóc, nhà văn-nhà phê bình Trung Hoa (mà nghĩ đến ông tôi bắt nghĩ đến Trần Trọng Đăng Đàn của Việt Nam), đã gọi tiểu thuyết Kim Dung là một trong “tứ đại tục” bởi đã hư cấu méo mó hình tượng người Trung Hoa. Từ đó đã gây thành những tranh luận lớn khắp Hoa Lục. Lại còn vấn đề tôn giáo, giáo phái trong tiểu thuyết. Luận về anh hùng và những nhân vật biểu tượng như Kiều Phong, một đại trí, đại dũng lại rất giầu tình cảm và lòng nhân ái vời vợi? Trương Vô Kỵ, Lệnh Hồ Xung, tài trí hơn người, hành xử quang minh lỗi lạc, tốt bụng hơn người? Dương Quá, Địch Vân, Hồ Phỉ… Rồi còn nhân vật nữ, những mỹ nhân như Hân Tố Tố, Nhậm Doanh Doanh, Triệu Minh, Tiểu Siêu, Song Nhi, v.v… mỗi người mỗi vẻ, mỗi người một thông điệp. Không có những nhân vật nữ đó, tiểu thuyết Kim Dung còn gì?

Vấn đề tâm đắc đối với tôi: Vấn đề chính hay tà, vấn đề thị phi trong cuộc đời, giữa Hiệp nghĩa và xã hội đen, giữa danh môn chính phái và ma giáo. Ai chính, ai tà. Tà chính khác nhau chỗ nào? Đọc Kim Dung sẽ thấy sự phân biệt Chính và Tà là vô thực. Trong Kim Dung, có một cố gắng đánh tụt giá những người tự nhận là Chính Nghĩa, và qua họ, những giá trị mà họ tượng trưng. Sự sa đọa xuống tới sự bất nhân, sự dâm loạn, sự ngu xuẩn của những đệ tử phái Toàn Chân thì còn ai tin gì ở Chính Nghĩa?

Chuyện đã hay, cơ man nào nhân vật, cơ man nào tình tiết chòng chéo lôi kéo người đọc. Kim Dung phải là người kiến thức rộng, đọc nhiều, dùng Quan Thoại, một thứ ngôn ngữ trong sáng, lại kế thừa truyền thống của những nhà văn như Lâm Ngữ Đường, Tào Ngu, Lỗ Tấn… đã biến những chuyện võ hiệp tầm thường thành những tác phẩm để đời. Đã vậy, có những dịch giả như Hàn Giang Nhạn chuyển ngữ tài tình làm say mê độc giả VN.

Hễ hay thì người đọc, dở thì bị người bỏ quên.

– Về các tác giả, các nhà văn bị xóa sổ cho thấy tính cách tổng quát hóa và khái quát hóa đồng loạt. Tỉ dụ thơ của Vũ Hoàng Chương như Hoa Đăng, Thơ Say, Tâm Sự Kẻ Sang Tần thì tại sao cấm. Gìn Vàng Giữ Ngọc và Giòng Sông Định Mệnh của Doãn Quốc Sỹ thì chỗ nào là phản động, chỗ nào là đồi trụy. Duyên Anh với Hoa Thiên Lý, Sa Mạc Tuổi Trẻ, Ngựa Chứng Trong Sân Trường, Dấu Chân Sỏi Ðá thì chẳng những không đồi trụy mà còn có tác dụng giáo dục nữa. Thơ Nguyên Sa, Gõ Ðầu Trẻ, Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ thì hoặc là có tác dụng giáo dục, hoặc đặt ra những vấn đề tranh luận trong văn học. Hầu hết người ta không biết hoặc quên rằng Nguyên Sa còn có tập thơ “Những năm 1960”, trong đó là thứ thơ dấn thân, nhập cuộc. Thảo Trường với Người Ðàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp thì có giá trị tố cáo sự tàn bạo của chiến tranh. Bùi Giáng với Mưa Nguồn, Đi Vào Cõi Thơ là những chất ngọc nào phải thứ đồi trụy rẻ tiền.

Có vẻ nhà cầm quyền lúc đó muốn truy chụp tác giả hơn là tác phẩm. Vũ Hoàng Chương, Mai Thảo, Duyên Anh, Đinh Hùng, Hoàng Hải Thủy, Nguyên Sa, Chu Tử, Thanh Tâm Tuyền, Nhã Ca, Võ Phiến, Văn Quang, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mạnh Côn, Tạ Tỵ có viết gì cũng vẫn bị coi là thứ biệt kích văn nghệ.

Xin lấy trường hợp Vũ Hoàng Chương làm điển hình. Ai đã gặp Vũ Hoàng Chương rồi thì đều thấy đó là một thi sĩ gầy ốm tong teo, nói năng nhỏ nhẹ, lúc nào cũng ăn mặc rất chải chuốt, tươm tất, đầu chải mượt với cà rà vạt. Tác phẩm thì tóm gọn trong hai chữ mà thôi: Thơ Tình. Cả đời chỉ biết làm thơ. Và chỉ biết có thơ. Nhưng dù chỉ làm thơ cũng bị coi là người bội phản. Ông đã đi tù như một số nhà văn khác như trường hợp Hồ Hữu Tường. Khi ra khỏi tù được vài ngày thì ông chết.

Mai Thảo dù chỉ viết truyện thuần túy văn chương như Người Thầy Cũ, Mười Ðêm Ngà Ngọc, Căn Nhà Vùng Nước Mặn hay Bầy Thỏ Ngày Sinh Nhật cũng vẫn bị coi là tên biệt kích văn nghệ hàng đầu của miền Nam. Thanh Tâm Tuyền dù siêu thực hay lãng đãng bí hiểm như Tôi Không Còn Cô Ðộc, Bếp Lửa, Cát Lầy cũng là kẻ cấy mầm độc tư tưởng ngoại lai thoái hóa. Hủy diệt các niềm tin thì đã có Thanh Tâm Tuyền, Phạm Công Thiện. Duyên Anh có viết Dấu Chân Sỏi Ðá, Hoa Thiên Lý, Thằng Khoa, Gấu Rừng, Giặc Ô Kê cho trẻ con cũng vẫn là tên đầu sỏ văn nghệ nguy hiểm.

Người ta nhắm đánh vào người, nhắm thái độ lập trường chính trị để đánh giá tác phẩm của tác giả. Vì nhắm tác giả nên có nhiều nhà văn tự nhiên được sót tên một cách cố ý. Đó là những nhà văn một mặt nào đó có thể không chịu xếp hàng trong xã hội miền Nam cho dù thực sự họ cũng xếp hàng như mọi người. Có nghĩa là xét về mặt tác phẩm thì những nhà văn này cũng chẳng khác gì các nhà văn vừa kể ở trên. Có gì phân biệt được về phong cách viết giữa Bình Nguyên Lộc với Lê Xuyên hay với Võ Phiến. Nhưng Bình Nguyên Lộc được tha. Giữa Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh Trung mà đôi khi ta tưởng hai người có cùng một lập trường, cùng một quan điểm và cùng một đường lối. Nhưng sách vở thì lại bị phân biệt đối xử khác nhau.

Trong số những người sót tên trong sổ đen phải kể đến Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Vũ Hạnh, Lý Chánh Trung, Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn, Thích Nhất Hạnh.

Sự đánh phá và truy chụp đó nói cho cùng là một sự muốn xóa trắng Văn học miền Nam. Xin trích dẫn vài tư liệu làm bằng cớ trong sách Văn Học VN dưới chế độ Cộng Sản của Nguyễn Hưng Quốc, trang 200: “Theo Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức, trong Nhà Văn VN, từ 1954-1975 có 286 bài viết nhằm vu khống, xuyên tạc văn học miền Nam. Chỉ thị của Lê Duẩn sau giải phóng, kỳ họp Quốc Hội khóa 5: Sau ngày giải phóng nhân dân ta đã làm rất nhiều việc nhằm quét sạch những dấu vết và di hại của thứ văn hóa ấy. Công việc này cần được tiếp tục một cách kiên trì, tích cực và triệt để.”

Về những bài viết, xin kể vài bài: Tiếp tục đấu tranh xóa bỏ tàn dư văn hóa mới. Nọc độc văn hóa nô dịch. Những tên biệt kích cầm bút. Lại bàn về nọc độc văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-75.

Tên những người viết đó là: Trần Trọng Đăng Đàn, Lê Đình Ky, Trần Văn Giàu, Nguyễn Huy Khánh, Thạch Phương, Phan Đắc Lập, Bùi Công Hùng và cả Lữ Phương.

Miền Nam có thể thua cuộc. Nhưng cái văn học đó không có lý do gì bị xóa trắng oan uổng như thế. Bởi vì trong 20 năm sinh hoạt văn học đó, nó xác định cho thấy chỗ đứng của nó với sắc thái và cá tính của một nền Văn học đích thực. Một nền văn học mà sản phẩm của nó là kết quả của tự do suy nghĩ, tự do sáng tác. Đấy là cái ưu vượt của sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam mà trong suốt mấy chục năm chia cắt và cả sau mấy chục năm thống nhất đất nước rồi, người ta vẫn chưa thực hiện nổi một điều đơn giản đó.

Đặc biệt các giáo sư Triết, dù bị phê phán vì rao truyền chủ nghĩa Hiện Sinh, nhưng sách vở của họ lại không bị cấm lưu hành toàn bộ như Lê Tôn Nghiêm, Trần Thái Đỉnh, Trần Văn Toàn, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung và các lớp giáo sư trẻ như Đặng Phùng Quân, Nguyễn Trọng Văn. Trừ một trường hợp đặc biệt, dù là giáo sư triết, nhưng viết văn nên cấm lưu hành toàn bộ như sách của Huỳnh Phan Anh và Nguyễn Xuân Hoàng.

Phần tôi nghĩ rằng, thời kỳ sau 1975, đó là thời kỳ Văn Học bất hạnh cho toàn miền Nam

Bất hạnh vì sách bị tịch thu, bị thiêu hủy. Bất hạnh vì hơn 200 nhà văn, nghệ sĩ bị đưa đi cải tạo. Bất hạnh theo suốt cả đời họ. Vì kể từ đó, họ bị khước từ là nhà văn, bản án tù cứ thế kéo dài mãi mãi vì họ không bao giờ còn có cơ hội để viết. Và kể từ đó đến sau này, ta không còn bắt gặp lại mảnh đất miền Nam với những cây trái văn học nữa, cùng lắm có những cây trái đau khổ, đọa đầy và hủy diệt.

Và cái người bất hạnh nhất, tiêu biểu nhất có lẽ là nhà văn Nguyễn Thụy Long mà người ta quen gọi là nhà văn ‘Loan mắt nhung’. Sau 1975, ông lê kiếp số phận nhà văn như một con chó đói, một loài chuột chui nhúc để kiếm sống.

Hãy nghe ông kể: “Tôi về sống với mẹ già ở Ấp Đông Ba Gia Định sau ngày ‘giải phóng’, bên này Cầu Bông, sau khi bị phía nhà vợ thuộc gia đình Cách mạng đuổi ra khỏi nhà… Tôi ngậm đắng nuốt cay bước ra khỏi nhà sau khi bị vu bao nhiêu là thứ tội, kể cả tội ăn cắp tài sản của chính mình, suốt nhiều năm cầm bút tạo thành… Mất nhà, mất vợ chẳng nói làm gì, vì đã cạn tầu ráo máng rồi, nhưng mất con tôi mới đau.” Sau khi hồ Con Rùa trên đường Duy Tân bị nổ, ông cùng nhiều trí thức, văn nghệ sĩ bị bắt vì vụ này. Xin đọc tiếp: “Những câu chuyện vặt trong phòng giam bỗng im bặt, khi tiếng nói thật lớn thật to ở phòng giam tử tội cuối hành lang cất lên: Chào tất cả các anh em bạn tù, chúng tôi ba người mang án tử hình, sẽ bị xử bắn vào sáng sớm ngày mai, chúng tôi có lời chào vĩnh biệt tất cả các anh em còn ở lại. Tôi là Nguyễn Xuân Hùng, tự Ali Hùng, hai người bạn tôi, một là linh mục, một là chiến sĩ. Tôi là một người Việt Nam lai da đen, xứ Phi Châu Sénégalais, mẹ tôi là người Việt Nam, vậy tôi xin nhận nơi này làm quê hương, vì mẹ Việt Nam của tôi đã nuôi tôi khôn lớn và thành người. Trong phòng giam của tôi, vị linh mục đang quỳ dâng mình cho Chúa, người bạn chiến sĩ thì đang huấn nhục. Tôi có giọng khỏe, xin được hát thân tặng lại tất cả những anh em còn ở lại. Những bài hát thấm đượm tình quê hương của Phạm Duy mà tôi rất ngưỡng mộ.”

Chúng tôi đã mất Sàigòn thật rồi. [v]

Sau này, theo bs Trần Ngọc Ninh viết lại trên tờ Khởi Hành, tháng 9-2005, ông từ chối không cho nhà xuất bản sửa dù một chữ những tác phẩm của ông: “Tôi còn gì để mất ngoài liêm sỉ, thà chết đói chứ tôi không sửa văn tôi viết trước kia được.”

Chính ông cũng kể lại về trường hợp có nhà xuất bản cho người đến đề nghị in lại cuốn Kinh Nước Ðen với điều kiện nó phải được sửa chữa lại. Ông đã từ chối không chịu.Nay thì tờ Khởi Hành đang tiến hành giải văn chương năm nay dành cho ông. Thực tế trước mắt là ông sẽ nhận được một số tiền để sinh sống ra khỏi kiếp chó đọa đầy.

B.- Tình hình sách cũ hiện nay.

Về Sàigòn hôm nay, chỉ ở Sàigòn thôi mà không ở Hànội, tôi tìm lại xem trong đống tro tàn đó còn lại được gì. Không còn bao nhiêu. Tôi thấy họa hiếm mới còn sót lại một vài cuốn truyện. Và càng ngày, số lượng nó càng ít đi, vì mua vào mà không bán ra hoặc theo thời gian bị tiêu ma vì không có thư viện bảo quản. Chỉ còn lại một số rất ít mà trên lý thuyết vẫn là sách cấm lưu hành, bất hợp pháp, nhưng lại được bày bán công khai như thể hợp pháp. Hơn thế nữa, các loại ‘sách cũ’ thuộc loại sách chưởng, kiếm hiệp, mặc dầu vẫn là sách cấm lưu hành lại được in lại, sách cũ trở thành ‘sách mới’, bày bán công khai và hợp pháp. Chẳng hạn những sách của Vũ Đức Sao Biển như Kim Dung Giữa Ðời Tôi gồm các quyển Kiều Phong, Khát Vọng Tự Do, quyển thượng, Thiên Hạ Ðệ Nhất Mỹ Nhân, quyển trung, Từ AQ Ðến Vi Tiểu Bảo, quyển hạ và Thanh Kiếm Và Cây Ðàn, quyển kết thì đã được Nhà xuất bản Trẻ in ấn và phát hành đoàng hoàng. Gần như toàn bộ các loại sách kiếm hiệp được in lại. Sách của nhóm Tự Lực Văn Đoàn cũng vậy. Sách Triết cũng được in lại rất nhiều với các tác giả Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm.

Thế thì những bá cáo chính trị suốt bao nhiêu năm cũng như những văn kiện, nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung Ương Ðảng Cộng sản phải chăng chỉ còn có giá trị như những tấm giấy lộn.

Để hiểu rõ thêm về phần sách cũ này, tôi có một nhận xét như sau: Kể từ 1975 đến 1985, Sàigòn hay miền Nam có hai bộ mặt sinh hoạt văn học: Mặt nổi và mặt chìm. Mặt nổi bao gồm những sách báo in ấn chính thức từ miền Bắc gửi vào. Đó là một thứ văn học Cộng Sản mà tự nó mang tính chất đồng phục, tính chất hợp pháp và giáo điều buồn nản và tầm thường. Tôi còn nhớ trên vỉa hè phố Sàigòn những cuốn sách dịch in trên giấy xấu đến khó coi cả từ bề ngoài đến tựa đề. Đọc lên nghe tức anh ách như: Mười Ngày Của Bôcaxiô. 10 ngày gì mới được chứ. Thằng Cười, dịch V.Hugô. Cửa Hàng Vì Hạnh Phúc Các Bà của E. Zôla… Dịch lạ quá, tôi đi tìm sách của nhà văn này, nhưng đành chịu không kiếm ra cái tựa đề Cửa Hàng Vì Hạnh Phúc Các Bà ở đâu. Trăm Năm Cô Ðơn của G. Market. Tuổi Thơ Mãi Mãi Cùng Ta của M. Karim, Đất Vỡ Hoang của M. Sôlôkhốp, Thời Gian Ðể Sống Và Ðể chết của E. Rơmacơ. Ông Già Và Biển Cả của E. Hemingway, Đồi Gió Hú của E. pônti. Cả ba cuốn này đều đã được dịch ở trong Nam trước đó rồi. Đốt Đỉnh Gió Hú, đốt Lão Ngư Ông Và Biển Cả, đốt Thời Gian Ðể Sống Và Ðể Chết của miền Nam mà chất lượng dịch đã hẳn là bảo đảm hơn miền Bắc để mang nguyên con những thứ đó vào miền Nam với phẩm chất không bảo đảm và giấy thì thật xấu. Để làm gì?

Vì thế dân chúng trong Nam vẫn chịu khó tốn công, tốn tiền đi tìm sách báo cũ để đọc, chuyền tay nhau để đọc. Bởi vì, chính những sản phẩm văn hóa đó đã làm nên họ, là của họ, là bản thân họ và trở thành biểu tượng của những giá trị quá khứ cần được nâng niu giữ gìn. Và như thể, nếu không có những thứ văn hóa phẩm đó được nuôi dưỡng thì họ không còn là họ nữa, khô chồi và thui chột.

Nhưng một phần thì sinh hoạt văn học miền Nam dừng lại ở đó, bằng lòng với tất cả những thứ đến từ dĩ vãng, quá khứ và trong tương lai sẽ mỗi ngày mỗi thưa vắng đi, bởi vì không có người làm công việc sáng tác nữa. Đó là thứ văn học không có tương lai mà chỉ còn mở ra một sinh lộ: Quay lại quá khứ của chính mình để nhớ, để thương và để sống lại. Nếu ở Hải ngoại thời đó người ta gọi VHHN là thời kỳ văn học lưu vong. Trong nước phải gọi là thời kỳ văn học của quá khứ, vang bóng một thời.

Từ một nền văn học đồng phục, bị động, nghèo nàn với những sách vở lưa thưa và chưa định hình. Sách báo miền Nam cũ vẫn có mặt mà chưa có kế thừa và thay thế. Kể từ đó, sau ngày 30-4, sách báo miền Nam vỉa hè, giống như số phận của chính nền văn học ấy, thực sự trở thành sinh động chỉ nhờ vào sách báo cũ. “Điều đáng chú ý là đa số chủ nhân các tụ điểm văn hóa này là những người có học. Không thể nói là họ không am hiểu nội dung và tác hại của thử sách ra. Lạ một điều là bất chấp mọi hậu quả, họ cứ thản nhiên bày bán, những thứ rác rưởi văn hóa đó, ngày này qua ngày khác. Cứ mỗi độ chiều về, ở những điểm này, người bán kẻ mua tấp nập.” [vi]

Không có gì lạ. Cái lạ là các ông không hiểu gì về nếp sống, nếp nghĩ, sinh hoạt văn học miền Nam cả. Những thứ mà quý ông gọi là rác rưởi thì dân miền Nam lại coi là thứ rác quý, rác hiếm.

Sau 30-4, miền Nam có nhiều thứ rác lắm. Những thứ rác có thể đốt. Nhưng đốt thứ rác sách vở, báo chí văn học nghệ thuật miền Nam, các ông đã đụng chạm đến tinh thần và niềm tự hào của cả một miền đất nước thân yêu của họ. Điều đó khó mà tha thứ được.

C.- Những người có công với sách cũ của Sàigòn.

Sách vở, báo chí miền Nam trở thành món ăn tinh thần là do công sức của các nhà văn, nhà phê bình, giáo sư đến các học giả. Điều hiển nhiên là thế. Nhưng sức bật, sự tác động để phổ biến những văn hóa phẩm ấy là nhờ vào một số lớn nhà xuất bản có công với Văn Học. Họ là những nhà xuất bản như Trình Bày, Nam Sơn, Nguyễn Đình Vượng, Văn Hóa Á Châu, Diên Hồng, Xưa nay, Khai Trí, Lá Bối, An Tiêm. Những nhà xuất bản này đã đóng góp vào việc xuất bản 200 triệu cuốn sách trong 20 năm. Con số thật không nhỏ.

1.- Ông Khai Trí:

Chẳng mấy ai biết tên thật của ông, thành ra thương hiệu nhà sách KT, 62 Lê Lợi được đồng hóa vào tên ông. Thật ra tên ông là Nguyễn Hùng Trương, với hai tay trắng làm nên sự nghiệp. Ông vừa là một doanh gia, vừa là người làm văn hóa. Ông biên soạn khoảng 15 cuốn sách như Thơ Tình Việt Nam và Thế Giới Chọn Lọc, Chánh Tả Cho Người Miền Nam… và chủ trương tuần báo Thiếu Nhi cùng với Nhật Tiến.

Sau giải phóng, nhà sách Khai Trí là nạn nhân của nạn hôi của, đốt phá. Sách vở tung toé khắp nơi từ trong nhà sách ra ngoài đường. Tôi đã chính mắt chứng kiến cảnh ấy trong nỗi bất lực, bất lực của một người tự xếp hàng vào người thua cuộc. Tôi không biết lúc bấy giờ ông Khai Trí đứng ở đâu. Đứng ở đâu thì cũng cùng tâm cảnh đau xót đó thôi. Khi đã chứng kiến cảnh này rồi thì đừng bảo tôi có thể nghĩ hay cho những người mới đến. Họ không hiểu được điều đó vì quá hăng say trong men chiến thắng hay họ chưa bao giờ biết nghĩ tới người dân muốn gì, nghĩ gì. Tiếp theo đó là hai kho sách lớn cũng bi trưng thâu. Hằng vài trăm ngàn cuốn sách ra khỏi kho, rồi biến mất dạng.

Ông trắng tay sau bao nhiêu năm tốn công gây dựng.

Sau này, ông ở Mỹ về VN một lần nữa, mang theo hy vọng làm được một chút gì cho đất nước. Ông đã mang về 2000 đầu sách để tiếp tục làm Văn hóa. Sách bị tịch thâu với lý do: in trước 75. Theo Nguyễn Thụy Long, phần lớn sách bị tịch thâu là các loại sách Học Làm Người, báo chí quý hiếm trước 1954, như bộ Loa rất nổi tiếng. Sách ông mang về ai cũng biết là sách về giáo dục, sách hiền, sách tốt cả. Mà dại gì ông mang sách dữ, mà làm gì kiếm ra đâu được sách dữ. Nó chỉ có một cái tội: Tội đã in trước 1975.

Trước 75 là xấu, vi phạm luật. Sau 75 là tốt.

Ông đau lòng vì sách, ôm đơn đi kiện. Kết cục chẳng đi đến đâu.

Trước khi ông mất, người ta đã không quên đặt tên ông cho một con phố nhỏ. Đúng như ông thày TQ nhận xét: Hôm qua nó giết mình, hôm sau nó mang vòng hoa đến phúng điếu.

…Ông ra đi lúc 5h15 ngày 11/3/2005, linh cữu quàn tại nhà riêng (237 Điện Biên Phủ, quận 3, TP HCM), lễ động quan lúc 6h ngày 14/3, hỏa táng tại Bình Dương. Nguyện vọng của gia đình là gửi tiền phúng điếu vào quỹ từ thiện thành phố.

Cụ Toan Ánh, năm đó 91 tuổi, trong bữa đưa đám ma ông Khai Trí than thở: tại sao mình sống lâu như thế, ông Khai Trí mới có 80 tuổi.

2.- Nhà Lá Bối:

Nhà Lá Bối do nguyên Đại đức Từ Mẫn, tên thật là Võ Thắng Tiết trông nom. Sau ông hoàn tục. Ông là người có lòng, để việc phụng sự văn học nghệ thuật lên trên tiền bạc. Từ Mẫn đã giúp các nhà văn có nơi xuất bản những đầu sách có giá trị và người đọc có cơ hội đọc những cuốn sách trang nhã, chăm sóc từng chút trong việc trình bầy ấn loát và cả đến nội dung sách. Tất cả sách của Nhất Hạnh đều từ đây mà ra. Nếu không có Lá Bối, những Chiến Tranh và Hòa Bình, Chiến Quốc Sách, Sử Ký Tư Mã Thiên, Kiếp Người của Sommerset Maugham, Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay và Lối Thoát Cuối Cùng của V. Georghiu sẽ nằm ở đâu? Nếu không có Lá Bối, nhiều sách chắc gì đã có cơ hội ra mắt bạn đọc. Nhất là bộ Chiến Tranh và Hòa Bình của Léon Tolstoi. Sách in tốn vài ba triệu thời bấy giờ, bao giờ lấy lại vốn. Sau này, ở hải ngoại, ông tiếp tục làm công tác văn học với nhà xuất bản Văn Nghệ. Nếu cần một vinh danh gì cho 20 năm Văn học dịch nói riêng và Văn học nói chung, có cần nên nhắc đến Võ Thắng Tiết không? Kẻ lót đường cho Văn học miền Nam.

3.- An Tiêm Thanh Tuệ:

Tôi chỉ xin trích dẫn hai bài viết lúc mà Thanh Tuệ nằm xuống để thấy được rằng nhà xuất bản An Tiêm với Thanh Tuệ có lòng với văn chương như thế nào.

– Tiếc Văn Chương, thương chữ nghĩa, Trần Thị Lai Hồng.

Biết là vô thường, nhưng vẫn không khỏi tiếc thương. Tôi tiếc thương người An Tiêm Thanh Tuệ hiền hòa đã đành, mà nỗi tiếc Thương Văn Chương chữ nghĩa còn trĩu quá nặng.

Thôi từ nay, còn ai khổ công lặn lội tìm tòi đãi lọc để phổ biến văn chương như đã từng với Tuệ Sĩ, Bùi Giáng, Sao Trên Rừng, Nguyễn Đức Sơn. Thôi từ nay còn ai trân quý nâng niu bảo trọng chữ nghĩa như đã từng với Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Mười Hai con Mắt… Đêm Nguyệt Động, Cái Chuồng Khỉ và còn nhiều, rất nhiều công lao với văn học đã, đang và chưa thực hiện được.

– Với nhà văn Lê Thị Huệ:

Rồi bỗng nhiên nghe tin Ông chết. Đặng Ngọc Loan hôm trước rủ đi uống cà phê với Ông một lần, gọi điện thoại nói với tôi: Tin gì kỳ cục. Sao người vậy mà chết nghe kỳ cục quá.

4.- Doanh nghiệp sách Thành Nghĩa, Sàigòn:

Có lẽ phải nói đây là một ông Khai Trí thứ hai. Trong một dịp đi dự một buổi phát giải thưởng, do cái TTNCBTVPHVHDT. Viết tắt thế để quý vị khỏi mất thời giờ với cái Trung Tâm đó. Tôi có gặp anh Võ Thành Tân, Tổng giám đốc nhà sách Thành Nghĩa và nhất là anh Vũ Quang Trình, trợ lý TGĐ trong bữa ăn trưa đó. Gốc gác các anh đều là dân Quảng Nam, Quảng Ngãi mà người dân gọi đùa là: Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Quảng Nam, Đà Nẵng. Gọi như thế để thấy cái dân ngoài đó đi theo đảng nhà nước tận tình. Nay sau 30 tháng tư, họ, những người dân miền ấy có mặt khắp nơi, nhất là trong ngành báo chí, xuất bản. Các báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên v.v… đều có người của họ. Chẳng hạn báo Thanh Niên có Nguyễn Công Khế, Tuổi Trẻ có Hùng Sơn Phước, Công An thành phố Trần Trữ Loang, Sàgòn Time có Võ Như Lanh, Kinh Tế VN có Cung Văn, Nhất Ánh..

Võ Thành Tân, sau 75 đang còn học Văn Khoa. Với cái vốn liếng ấy đâm ra hữu dụng, anh làm nghề mua bán sách cũ. Biết sách nào quý, biết sách nào giá trị là sở trường của một người mua bán sách cũ. Có tý vốn rồi, anh mua lại một cái ki ốt bán sách lẻ ở đường An Dương Vương. Kịp đến thời mở cửa, 1986… Theo lời anh Trình, các anh liên kết với các nxb của nhà nước để in sách. Họ đứng tên, cho giấy phép rồi họ mặc cho mình muốn làm gì thì làm. Một cuốn sách mới đầu ít vốn in 1000 cuốn thăm dò. Bán chạy thì in lại, bán tiếp. Một năm mới đầu xuất bản 4, 5 đầu sách, rồi cứ thế tăng dần. Đến năm 2004 thì đã cho xuất bản đến 3000 đầu sách đủ loại. 2005 tăng lên 3500 đầu sách một năm.

Nay thì các anh trở thành tỉ tỉ phú trong ngành xuất bản. Ngoài ra, các anh còn mở ra 18 cửa hàng bán sách với 2000 nhân viên. Hỏi sao có nhiều nhân viên như thế. Trả lời là để trông chừng những khách hàng ăn trộm đồ trong tiệm sách.

Có những tiệm sách lớn có đến 40 chục ngàn đầu sách đủ loại.

Làm gì còn có những Thanh Tuệ, những Từ mẫn nữa. Làm gì còn có Lá Bối, An Tiêm, Nam Sơn nữa. Làm gì còn có ‘Loan Mắt Nhung’ nữa.

Thôi chào vĩnh biệt sách cũ Sàigòn. Chào những đứa con tinh thần sinh trước 1975 còn sót lại.

Và như trong một số bài viết của tôi, tôi luôn luôn đòi hỏi nhà cầm quyền đương thời một điều, một điều thôi. Trước khi nói hoà giải, trước khi nói tình nghĩa, trước khi kêu gọi Việt kiều về nước, trước khi nói đến khúc ruột ngàn dặm v.v. và v.v… Yêu cầu các ông một lời xin lỗi chúng tôi, xin lỗi những người lính VN Cộng Hòa, xin lỗi các nhà văn, nhà trí thức, xin lỗi các bà vợ, xin lỗi người mẹ, xin lỗi trẻ con miền Nam và cuối cùng xin lỗi sách vở miền Nam. Xin lỗi tất cả.

Không làm thì hãy khoan nói đến truyện gì khác.

Nguyễn Văn Lục

_____________________

[i] Trích Văn Hoá, Văn Nghệ. Nam Việt Nam 1954-1975, Trần Trọng Đăng Đàn, trang 779, nxb Văn Hóa Thông Tin Hànội- 2000.
[ii] Trích lại trong Văn Hóa Văn Nghệ Nam Việt Nam 1954-1975 của Trần Trọng Đăng Dàn, trang 502, nxb Văn Hóa Thông tin.
[iii] Trích lại trong Văn Hoá, Văn Nghệ, Nam Việt Nam 1954-1975 của Trần Trọng Đăng Đàn. Nxb Văn Hóa Thông tin. Trang 502.
[iv] Trích Văn Học Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản, Nguyễn Hưng Quốc, trang 226, nxb Văn Nghệ, 1991
[v] Trích Ký ức về tiếng hát của người tử tù, Nguyễn Thụy Long, tạp chí Khởi Hành số tháng 9-2005, trang 23.
[vi] Trích SGGP, ngày 15-2-1987. Trong Văn Học VN dưới chế độ Cộng Sản của Nguyễn Hưng Quốc, trang 228. nxb Văn Nghệ.


 

Sự cáo chung của chế độ cộng sản và lựa chọn sinh tồn

Nhật Ký Yêu Nước

Sự cáo chung của chế độ cộng sản và lựa chọn sinh tồn

(Trần Khánh Ân-Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên)

Từ một cá nhân đến sự cáo chung của cả chế độ

Mỗi chế độ độc tài thường sản sinh ra những gương mặt biểu tượng cho sự tha hóa và mục ruỗng của chính nó. Tô Lâm, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, là một gương mặt như thế. Ông ta không nổi bật bởi tài năng chính trị, cũng không nổi bật bởi tầm vóc trí tuệ, mà trái lại, nổi bật bởi sự thô kệch, tầm thường và sự khôn ngoan của một công an khét tiếng với những hồ sơ tham nhũng và khủng bố tinh thần trong tay.

Quyền lực của Tô Lâm không đến từ sự tín nhiệm của đồng chí, cũng không đến từ sự kính trọng của dân chúng. Nó đến từ sự thối nát triền miên của một chế độ đã tự biến mình thành một tổ chức tội phạm có vỏ bọc chính đảng. Ở đó, mỗi ủy viên trung ương, mỗi bộ trưởng, mỗi cán bộ cao cấp đều đã nhúng chàm tham nhũng, đều có những hồ sơ bất minh mà chỉ cần bị khui ra là có thể đi tù. Trong cái nhà tù tập thể ấy, kẻ nào nắm chìa khóa điều tra, kẻ đó trở thành “chúa tể”. Và Tô Lâm chính là chúa tể kiểu đó.

Nhưng Tô Lâm không chỉ là một cá nhân. Ông ta là tấm gương phản chiếu của cả một chế độ đang thối rữa từ gốc rễ, nơi mà quyền lực được duy trì bằng sợ hãi, nơi mà tư tưởng đã bị quăng vào sọt rác, và nơi mà kinh tế thì chìm trong những dự án thất bại, còn ngoại giao thì chỉ biết bám víu vào hai chế độ độc tài khác, cũng đang hấp hối : Trung Quốc và Nga.

Từ một cá nhân, chúng ta có thể nhìn thấy sự cáo chung không thể đảo ngược của cả chế độ.

Ở một xã hội bình thường, quyền lực chính trị dựa trên sự tín nhiệm dân chúng, dựa trên năng lực điều hành, và dựa trên những dự án chính trị thuyết phục. Ở Việt Nam, quyền lực lại nằm trong tay kẻ nào nắm được hồ sơ tham nhũng của người khác. Cái gọi là “phòng chống tham nhũng, tiêu cực” thực chất chỉ là công cụ để thanh toán phe phái. Khi trở thành Phó trưởng Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng, Tô Lâm bỗng nhiên có thể quyết định số phận của tất cả những ủy viên Bộ Chính trị khác. Bởi lẽ, tất cả họ đều tham nhũng, đều có những khối tài sản bất minh không thể giải thích. Một người chỉ với mức lương 1.000 đô la mỗi tháng lại có thể ngồi trong nhà hàng ăn bò dát vàng giá 2.000 đô la một miếng, uống rượu 15.000 đô la một chai, thì cái gọi là trong sạch chỉ còn là chuyện hoang đường.

Tô Lâm không mạnh, mà những kẻ khác quá yếu. Ông ta không có tầm vóc trí tuệ, nhưng có quyền lực trong tay. Ông ta không có lý tưởng, ông ta sống bằng nỗi sợ hãi của các đồng chí. Và trong một tập thể đã mục ruỗng đến tận cùng, thì nỗi sợ hãi trở thành đồng tiền giao dịch duy nhất. Đó cũng chính là bằng chứng sống động nhất cho thấy Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay không còn là một chính đảng, mà là một tập đoàn tội phạm, vận hành bằng sự trao đổi hồ sơ và sợ hãi.

Tham nhũng và tội phạm hóa của cả bộ máy

Điều hiển nhiên mà Tô Lâm đã phơi bày, chính là mọi cán bộ lãnh đạo của Đảng đều phạm pháp. Trong một đất nước mà tài sản khổng lồ của quan chức không thể nào giải thích bằng lương, thì tham nhũng không còn là hiện tượng cá biệt, mà là bản chất của chế độ. Mỗi vụ án tham nhũng chỉ là bề nổi. Phần chìm là cả một hệ thống đã biến tham nhũng thành điều kiện sống còn. Chế độ này giống như một căn phòng khóa kín, nơi tất cả các thành viên đều bị trói trên ghế bằng dây xích tham nhũng. Ai cũng có tội, ai cũng sợ bị lôi ra ánh sáng. Và trong cái căn phòng ấy, kẻ nào giữ chìa khóa, kẻ đó trở thành ông chủ. Đây là điều giải thích vì sao Tô Lâm có thể thanh toán những nhân vật tưởng chừng có uy tín hơn, như Vương Đình Huệ hay Võ Văn Thưởng. Và vì sao Bộ Chính trị rốt cuộc chỉ còn lại những gương mặt phục tùng ông ta một cách vô điều kiện.

Một chính đảng nếu thực sự lành mạnh thì phải là nơi tập hợp những con người có phẩm chất, có lý tưởng, có kiến thức để cùng nhau bàn bạc, thảo luận và xây dựng dự án cho đất nước. Nhưng ở đây, cái gọi là “Bộ Chính trị” chỉ là một phòng họp tội phạm, nơi những kẻ đồng lõa phải im lặng vì sợ bị xử lý thì làm sao có thể dám suy nghĩ chứ chưa nói tới việc sản xuất ra được một ý kiến đúng đắn ?

Ý thức hệ là một xác chết chưa được chôn

Có một điều đáng chú ý : từ khi Tô Lâm lên nắm quyền, những khẩu hiệu về “chủ nghĩa Marx Lenin” hay “tư tưởng Hồ Chí Minh” gần như biến mất. Tô Lâm không còn nhắc đến những thứ ấy. Nhưng không phải vì ông ta tiến bộ hơn, mà vì ông ta biết rằng đó chỉ là xác chết. Thực ra, ý thức hệ của Đảng cộng sản đã chết từ lâu. Nó chết từ khi chính quyền buộc phải quay lại với kinh tế thị trường, từ khi chủ nghĩa xã hội chỉ còn tồn tại trên giấy tờ. Nó chết từ khi chính những người lãnh đạo cao nhất xây dựng biệt phủ, gửi con cái ra nước ngoài, và tiêu xài bằng đồng đô la chứ không bằng đồng tiền Việt Nam.

Nhưng Tô Lâm là người đã công khai xác nhận cái chết ấy, bằng cách lặng lẽ trục xuất Marx – Lenin và Hồ Chí Minh ra khỏi mọi diễn ngôn chính trị. Không còn nền tảng tư tưởng, chế độ này chỉ còn lại sự trống rỗng. Một chính đảng nếu không dựa trên tư tưởng, không dựa trên dự án chính trị, thì không còn là chính đảng nữa. Nó chỉ còn là một tập đoàn quyền lực, một nhóm lợi ích.

Đó là điều mà Tô Lâm đã chứng minh một cách rõ ràng rằng Đảng cộng sản không còn sức sống, không thể tự tái tạo, và không còn lý do tồn tại.

Từ thiên đường hứa hẹn đến địa ngục thực tế của nền kinh tế và sự bất mãn trong dân chúng

Nếu một chính quyền có thể biện minh cho sự tồn tại của mình, thì lý do cuối cùng thường là kinh tế. Dân chúng có thể tha thứ cho độc tài, nhưng không thể tha thứ cho sự nghèo đói, thất nghiệp và bất công. Tô Lâm hứa hẹn một “kỷ nguyên vươn mình”, hứa hẹn tăng trưởng 8% vào năm 2025 và hai con số sau đó. Nhưng thực tế là nền kinh tế đang khốn đốn hơn bao giờ hết. Chiến dịch “tinh gọn bộ máy” tiêu tốn 170.000 tỷ đồng để rồi chỉ cắt giảm được chưa đến 3% biên chế. Những người có năng lực đã bỏ đi, những kẻ bất tài thì ở lại. Bộ máy vốn đã trì trệ nay càng thêm vô dụng. Chiến dịch “tái tổ chức hành chính” thì gây ra những vết thương tinh thần cho dân chúng. Việc sáp nhập các xã, phường, huyện, tỉnh đã chạm vào mối dây tình cảm của người dân đối với nơi chôn nhau cắt rốn, tạo ra oán thù và bất mãn vì cảm giác bị tước đoạt quê hương.

Trong lĩnh vực kinh tế tư nhân, thay vì khuyến khích một môi trường cạnh tranh bình đẳng, Tô Lâm và chế độ chỉ tập trung ưu đãi cho VinGroup đứa “con cưng” của chế độ. Nhưng “con cưng” này không thể nào tồn tại nếu không được bơm vốn vô tội vạ. Và cái gọi là “tư nhân” thực chất chỉ là tay sai của Đảng. Dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam với chi phí 62 tỷ đô la, tương đương 15% GDP, lại được giao cho một công ty không hề có một kinh nghiệm nào. Đó không phải là phát triển, mà là một canh bạc bằng máu và mồ hôi của cả dân tộc.

Kinh tế Việt Nam đang lộ ra những con số bệnh hoạn : ngành xây dựng chiếm tới 30% GDP, gấp ba lần ngưỡng báo động. Xuất nhập khẩu chiếm gần 200% GDP, nghĩa là đất nước này lệ thuộc gần như hoàn toàn vào thị trường bên ngoài, không còn khả năng tự chủ. Đồng tiền mất giá, thị trường bất động sản lao dốc, ngân hàng ngập trong nợ xấu.

Từ “thiên đường hứa hẹn”, người dân đang bước thẳng vào “địa ngục thực tế”. Và sự phẫn nộ đang dâng lên, vượt qua cả nỗi sợ hãi.

Ngày nay, đi đến bất cứ vùng quê nào cũng nghe người dân than thở về đất đai bị thu hồi, về nhà cửa bị cướp trắng, về nợ nần chồng chất. Ở các thành phố, giới trẻ thất nghiệp, giới trung lưu bị lừa bởi những căn hộ không sổ đỏ, những lời hứa viển vông từ các tập đoàn bất động sản. Biểu tình đất đai đã nổ ra khắp nơi. Trên mạng xã hội, người dân không ngần ngại nguyền rủa Tô Lâm, thậm chí công khai mong ông ta chết đi.

Đây là dấu hiệu của một bước ngoặt : nỗi sợ hãi đang nhường chỗ cho sự phẫn nộ. Và khi sự phẫn nộ đã vượt qua nỗi sợ, thì chế độ không còn chỗ dựa. Chỉ cần một mồi lửa, một sự kiện bùng phát, thì đám cháy có thể lan rộng không ai kiểm soát nổi.

Sự bất mãn trong nội bộ Đảng

Nếu sự phẫn nộ trong dân chúng ngày càng lộ rõ, thì sự bất mãn trong nội bộ Đảng lại âm ỉ nhưng nguy hiểm hơn nhiều. Đó là một ngòi nổ ngầm có thể làm chế độ nổ tung từ bên trong.

Việc sáp nhập các xã, huyện, tỉnh đã khiến hàng ngàn cán bộ cấp cơ sở mất chức hoặc bị tinh giản sau khi đã bỏ tiền ra chạy chọt. Họ mất tiền, mất ghế, và mất cả tương lai chính trị. Đó không chỉ còn là bất mãn, mà là hận thù.

Ở cấp cao hơn, Tô Lâm đã triệt hạ những người từng được xem là có tư cách tối thiểu. Những cú đánh không chỉ nhằm loại bỏ đối thủ, mà còn làm nhục họ, khiến cả hệ thống cảm thấy bị đe dọa. Trong một đảng có năm triệu đảng viên, con số những người oán hận Tô Lâm đã chiếm đa số.

Đặc biệt, việc triệt hạ bộ máy chính quyền ở Thanh Hóa, quê hương chính trị của Phạm Minh Chính, với hơn một ngàn vụ khởi tố, hàng loạt cán bộ bị bắt, cho thấy sự thù địch đã biến thành hành động. Đó là một cuộc chiến phe phái công khai. Và lịch sử cho thấy, khi một chính đảng đã tan rã thành các phe phái thù địch, thì ngày sụp đổ chỉ còn là vấn đề thời gian.

Sự cô lập quốc tế và bế tắc ngoại giao

Một chính quyền dù mục ruỗng đến đâu, vẫn có thể kéo dài sự tồn tại nếu còn được quốc tế nâng đỡ. Nhưng chính sách đối ngoại hiện tại của Việt Nam lại đưa đất nước vào thế cô lập chưa từng có. Các lễ kỷ niệm lớn của chế độ không có sự hiện diện của lãnh đạo các nước dân chủ. Liên minh duy nhất mà chính quyền bám víu là Trung Quốc và Nga, hai quốc gia đang suy yếu, một bên thì sa lầy ở Ukraine, một bên thì khủng hoảng kinh tế trầm trọng.

Hình ảnh quốc tế của Việt Nam ngày càng xấu đi. Một buổi duyệt binh Quốc khánh mà Chủ tịch nước chỉ đứng như thuộc cấp bên cạnh Tổng bí thư Đảng đã nói lên tất cả : thế giới nhìn Việt Nam như một chế độ côn đồ, không có tư thế của một quốc gia bình thường.

Kinh tế phụ thuộc quá lớn vào xuất khẩu, nhưng Mỹ và Châu Âu đã bắt đầu siết chặt thương mại. Những ưu đãi thuế quan không còn nữa, trong khi thuế nhập khẩu vào Mỹ đã tăng lên 25%, gấp đôi so với hàng hóa từ Châu Âu. Những cú đòn này có thể làm tê liệt các tập đoàn xuất khẩu của Việt Nam, đẩy hàng triệu công nhân vào thất nghiệp.

Tất cả những điều này cho thấy con đường của chế độ đã tận. Nó không còn chỗ dựa quốc tế, không còn sức sống kinh tế, và không còn chút niềm tin nào trong dân chúng.

Việt Nam trước ngưỡng cửa của một khúc quanh lịch sử

Trong bối cảnh này, câu hỏi không còn là chế độ cộng sản có sụp đổ hay không, mà là sụp đổ như thế nào và sau đó sẽ là gì ?

Lịch sử thế giới cho thấy hai kịch bản. Một là sự sụp đổ trong hỗn loạn và bạo lực. Hai là sự sụp đổ trong trật tự và hòa giải. Việt Nam sẽ đi theo con đường nào ? Điều đó tùy thuộc vào việc có hay không một tổ chức chính trị lành mạnh sẵn sàng thay thế, với lý tưởng và dự án rõ ràng. Nếu không có, thì sự sụp đổ của sẽ chỉ mở ra một chu kỳ hỗn loạn, phe phái trong Đảng thanh toán nhau, quân đội chia rẽ, quần chúng nổi dậy bạo lực. Một đất nước đã chịu quá nhiều đau khổ như Việt Nam không thể lại tiếp tục đi vào con đường đó.

Việt Nam cần một tổ chức chính trị có lý tưởng hòa giải

Đây chính là lúc cần khẳng định một sự thật, chỉ có một tổ chức chính trị lành mạnh, có đội ngũ, có kiến thức chính trị, và có lý tưởng hòa giải dân tộc mới có thể đưa Việt Nam ra khỏi bế tắc. Một tổ chức như thế không lo lật đổ chế độ hiện tại, mà lo chuẩn bị cho ngày mai, giữ cho đất nước không rơi vào bạo loạn.

Tinh thần cốt lõi của tổ chức này phải là hòa giải. Không một chế độ dân chủ nào có thể ổn vững nếu các vết thương lịch sử tiếp tục bị khoét sâu. Chúng ta phải nhìn nhận rằng tất cả từ cán bộ cộng sản đến những người đối lập, từ công an đến dân oan, từ Nam ra Bắc đều là nạn nhân của cùng một chế độ. Hòa giải không phải là quên đi tội ác, mà là để chấm dứt vòng luẩn quẩn của hận thù, mở ra một khởi đầu mới. Một tổ chức như thế không thể ra đời trong ngày một ngày hai. Nó đòi hỏi sự chuẩn bị, sự kiên nhẫn, và sự gắn bó bền bỉ với một dự án lâu dài. Đó chính là điều duy nhất có thể cứu đất nước này khỏi tai họa.

Bước vào kỷ nguyên mới

Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh lịch sử trọng đại. Đảng cộng sản đã tự chứng minh sự cáo chung của nó bằng sự thối nát, sự tê liệt, và sự thất bại toàn diện. Tô Lâm, bằng quyền lực của mình, đã vô tình làm lộ ra tất cả những điều mà chế độ muốn che giấu : sự tham nhũng, sự vô dụng, sự trống rỗng tư tưởng, và sự cô lập quốc tế. Nhưng sự sụp đổ của một chế độ không tự động mang lại dân chủ. Nó có thể mang đến hỗn loạn, bạo lực, thậm chí một hình thức độc tài mới. Chính vì vậy, lựa chọn của chúng ta hôm nay sẽ quyết định vận mệnh của dân tộc. Chúng ta cần một tổ chức chính trị trưởng thành để mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc.

Đây không phải chỉ là một cảnh báo. Đây là một lựa sinh tồn. Thời gian không chờ đợi để tiếp tục chứng minh những sai lầm. Và lịch sử sẽ không tha thứ nếu chúng ta bỏ lỡ cơ hội này, ngày hôm nay !

Trần Khánh Ân

(26/09/2025)


 

Hai người họ Trịnh: Một bản án, hai số phận – một chế độ đầy bất công

Hoài niệm

Trong cùng một đất nước, dưới cùng một hệ thống pháp luật, hai người họ Trịnh đang được chú ý nhiều bởi hai kết quả trái ngược: một người là doanh nhân gây thiệt hại hàng ngàn tỉ đồng cho xã hội, người kia là nông dân lên tiếng vì công lý. Cách chế độ đối xử với họ đang tạo nên tranh cãi sôi nổi và cho thấy sự bất công quá rõ rệt của nhà cầm quyền.

Trịnh Văn Quyết – Tội phạm gây thiệt hại nặng nề cho xã hội, lại được ưu ái

Ngày 10/1/2022, ông Quyết bán chui hơn 76 triệu cổ phiếu FLC, thu về gần 1.700 tỷ đồng mà không công bố thông tin theo quy định.

Ông nâng khống vốn điều lệ FLC Faros từ 1,5 tỷ lên 4.300 tỷ đồng để niêm yết mã ROS, qua đó chiếm đoạt hơn 3.600 tỷ đồng từ nhà đầu tư.

Tổng thiệt hại xã hội lên đến hàng ngàn tỉ đồng, ảnh hưởng đến hàng chục ngàn người.

Bản án sơ thẩm: 21 năm tù. Phúc thẩm: giảm còn 7 năm. Sau 3 năm: được đặc xá.

Lý do đặc xá? Khắc phục hậu quả, bệnh tật, “đơn xin giảm nhẹ từ hàng ngàn cá nhân và tổ chức”. Nhưng số tiền ông trả lại chưa tới 50% số tiền chiếm đoạt. Hơn nữa, ai biết được con số thật phía sau lớn đến đâu, khi ông ta được bao che bởi những thế lực ngầm?

Trịnh Bá Phương – Người nông dân bị bóp nghẹt tiếng nói

Ông Phương là một người dân Dương Nội, lên tiếng phản đối cưỡng chế đất, đòi quyền lợi cho nông dân bị mất đất.

Không chiếm đoạt của ai một đồng, không gây thiệt hại cho xã hội, chỉ nói lên tiếng nói của người dân thấp cổ bé họng.

Bản án: 10 năm tù vì “tuyên truyền chống nhà nước”. Sau đó bị xử thêm 11 năm vì “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền”. Tổng cộng: 21 năm tù.

Khi con trai thứ hai của ông vừa tròn 4 ngày tuổi, ông đã bị bắt. Trong tù, có lúc ông mắc bệnh nặng và suy yếu vì tuyệt thực nhưng không được đặc xá, không được chăm sóc y tế đầy đủ. Nhiều tù nhân lương tâm khác đã bỏ mạng vì điều kiện giam giữ khắc nghiệt – nhưng chẳng ai được tha dù chỉ một ngày.

Một chế độ, hai chuẩn mực

Người gây thiệt hại hàng nghìn tỉ đồng được giảm án, đặc xá, vì “có bệnh”, “ăn năn”, “có thành tích”.

Người đấu tranh ôn hòa vì công lý bị chồng án, bị bỏ mặc trong tù, dù cũng bệnh nặng, dù không làm hại ai.

Đây không chỉ là sự bất công. Đây là sự phân biệt đối xử có hệ thống, là một chế độ bảo vệ kẻ làm giàu phi pháp, đàn áp người dân cô thế, là một nền pháp lý không dựa trên công lý mà dựa trên quyền lực và tiền bạc.

NTNgọc