Cựu Biệt Kích Chung Tử Ngọc bị giam cầm 6 năm ở những trại tập trung

Ba’o Nguoi-Viet

May 31, 2025

Lâm Hoài Thạch/Người Việt

WESTMINSTER, California (NV) – Cựu chiến sĩ Biệt Kích Chung Tử Ngọc tuy ở trong quân ngũ không dài nhưng vẫn lo tròn nhiệm vụ của người lính. Ông có những chuyến công tác đặc biệt cận kề với tử thần theo tinh thần chiến đấu cho quốc gia, dân tộc với phương châm “Vào sinh ra tử.”

Ông Chung Tử Ngọc (giữa) cùng con gái và cháu ngoại tại nhà ông ở Westminster, California. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Ông Chung Tử Ngọc là Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ) Khóa 3/73 Trừ Bị Thủ Đức, nhập ngũ năm 1972. Ra trường Tháng Mười Hai, 1973, ông được về đơn vị Biệt Kích của Nha Kỹ Thuật, thuộc Toán 729 Đoàn Công Tác 72 của Nha Kỹ Thuật.

Thời gian quân ngũ của ông chỉ khoảng hơn một năm thì biến cố cuối Tháng Tư, 1975 ập tới. Chia sẻ với phóng viên nhật báo Người Việt tại nhà ở Westminster, một thành phố trung tâm của Little Saigon, nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất hải ngoại, cựu chiến sĩ Biệt Kích Chung Tử Ngọc tâm tình cuộc đời quân ngũ đến giờ phút cuối cùng khi chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Miền Nam bị thất thủ, lúc ông bị bắt làm tù binh trong những trại tập trung của Cộng Sản hết sáu năm, rồi vượt biên ra hải ngoại.

Nhờ dân làng nên thoát chết

Khoảng đầu Tháng Ba, 1975 là chuyến cuối cùng công tác của Biệt Kích Chung Tử Ngọc trong rừng của phạm vi Đà Nẵng. Sau khi đối đầu với Việt Cộng, ba toán Biệt Kích còn sống sót và hai chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến vào rừng, khi thấy không còn địch đuổi theo nữa, họ mới tìm cách đi ra khỏi khu rừng trong đêm.

Ông kể: “Lúc đó có người nói với chúng tôi là Cộng Sản đã chiếm Đà Nẵng, khoảng cuối Tháng Ba, 1975, và có rất nhiều người lính VNCH đã ra trình diện với Việt Cộng rồi, nên người dân mới khuyên chúng tôi phải ra trình diện. Không còn đường nào để đi, buộc lòng chúng tôi phải ra trình diện Cộng Sản.”

Sau khi ra trình diện tại một xã nhỏ, thì Việt Cộng mới đưa ba toán Biệt Kích và hai chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến về nhốt tại một trại giam nhỏ. Lúc đó một số lính xe tăng Bắc Việt ghé vào để xem số tù binh, khi họ biết nhóm này là lính Biệt Kích thì họ chĩa súng vào những Biệt Kích, nói: “Đem ra bắn bỏ hết mấy tên lính Biệt Kích này ngay.”

“Khi họ mang chúng tôi ra ngoài sân để tử hình thì những người dân thấy vậy mới ùa tới ngăn cản không cho mấy tên lính Bắc Việt giết chúng tôi,” ông Ngọc kể tiếp.

Cũng may, có một cán bộ Việt Cộng miền Nam đến nói với mấy tên lính xe tăng Bắc Việt rằng: “Các đồng chí tránh ra chỗ khác, nơi này là chỗ chúng tôi đang làm việc, các đồng chí không được muốn bắn ai thì bắn. Tôi biết mấy ông  lính ngụy đã từng đi ngang qua đây và chưa bao giờ bắt gà bắt vịt của dân làng gì hết. Tại sao các đồng chí phải giết họ? Đây là nhiệm vụ của chúng tôi, phải để chúng tôi xử lý. Tôi xin mời các đồng chí hãy đi khỏi địa bàn của chúng tôi đang làm việc.”

Chuẩn Úy Chung Tử Ngọc (ở trần) và các chiến hữu vào cuối Tháng Ba, 1975. (Hình: Chung Tử Ngọc cung cấp)

Ông Chung Tử Ngọc kể tiếp: “Sau khi đoàn xe tăng rời khỏi thì có một ông đến nói nhỏ với tôi, ‘Thôi mấy anh cứ ra Đà Nẵng trình diện với Ủy Ban Quân Quản đi, ở đây không phải nhiệm vụ của chúng tôi.’ Mừng quá vì được thoát chết, chúng tôi cám ơn và tức tốc rời nơi đó ngay. Tại Đà Nẵng, tôi đến nhà chị dâu là vợ của ông anh cả đang bị ở tù ngoài Bắc Việt, tá túc chỉ vài ngày, rồi nhờ mấy người bạn cho tôi tá túc hết nhà người bạn này đến nhà người bạn khác để tìm cách về Sài Gòn. Đến ngày 15 Tháng Sáu, 1975 thì tôi mới đi xe đò về Sài Gòn.”

Khi về đến Sài Gòn thì nhà cầm quyền Cộng Sản kêu gọi những cựu sĩ quan cấp tá của VNCH trình diện trước đó một tháng, còn những cựu sĩ quan cấp úy trở lên thì trình diện vào Tháng Bảy, 1975. Còn ông Ngọc là cấp chuẩn úy, được họ cho là hạ sĩ quan, nên đến Tháng Tám mới trình diện.

Họ kêu gọi những người lính VNCH ai là Biệt Kích, Chiêu Hồi, An Ninh Quân Đội, Quân Cảnh Tư Pháp thì chỉ đi trình diện học tập cải tạo trong tám ngày thôi. Nhưng thật ra trong những người này, có người bị đi cải tạo hết tám năm, còn Chuẩn Úy Chung Tử Ngọc bị đi cải tạo sáu năm.

Ông Ngọc cho hay, từ cấp chuẩn úy trở xuống hàng hạ sĩ quan của những binh chủng khác, người nào bị họ cho đi học tập cải tạo ba tháng là nhiều lắm rồi. Nhưng thành phần lính Biệt Kích bị họ xem như là những đơn vị “ác ôn” nên họ mới giam cầm lâu đến thế.

Ông Ngọc tiếp tục kể: “Đến ngày tôi trình diện thì họ đưa vài tù nhân trong đó có tôi ra Phú Quốc. Họ đưa chúng tôi xuống tàu ‘há mồm’ đang đậu tại bến Tân Cảng, chiếc tàu này đã bị hư không thể ‘há mồm’ được, nên chúng tôi phải đi bên hông để xuống tàu. Tàu lúc đó có khoảng 10 tù nhân. Tôi đem theo thức ăn dự trữ tám ngày để đi học cải tạo theo lời họ nói. Tôi ăn xong rồi nằm ngủ để chờ họ đưa mình đi đâu. Nghe có tiếng ồn ào, tôi tỉnh giấc thì thấy họ đã đưa thêm hơn trăm tù nhân xuống chiếc tàu này. Theo tôi biết là trong số này có những cựu sĩ quan cấp tá và tướng của VNCH.”

Chiếc tàu đi khoảng ba ngày ba đêm thì không biết tàu bị hư như thế nào nữa, nên không thể chạy đến Phú Quốc. Thế là họ quay tàu đưa nhóm tù binh vào trại Suối Máu. Rồi khoảng ba tháng sau, họ đưa tù binh Chung Tử Ngọc và một số tù nhân nữa xuống tàu ra trại giam Phú Quốc.

Ông Chung Tử Ngọc (giữa) trong Đại Hội Nha Kỹ Thuật tại Washington, DC. (Hình: Chung Tử Ngọc cung cấp)

Ông Ngọc cho biết thêm: “Tàu đưa chúng tôi ra Phú Quốc được an toàn, rồi tống chúng tôi vào trại giam tù binh ngày xưa của VNCH. Khoảng năm tháng sau thì xảy ra vụ quân Khmer tại Cambodia tấn công Phú Quốc, nên họ mới đưa các tù nhân chúng tôi về trại tù Long Giao giam cầm khoảng năm tháng, rồi họ đưa tôi về trại tù ở Phước Long.”

“Một hôm, tại trại Phước Long, các cán bộ giữ tù bắt chúng tôi phải đi đào củ mì để về trại tù trồng. Từ trại giam đến nơi trồng mì cũng xa khoảng 5 cây số. Khi đào mì xong thì họ bắt chúng tôi phải vác những bao khoai mì về trại. Đi khoảng nửa đoạn đường thì ông cán bộ canh giữ chúng tôi mới cho mọi người nghỉ mệt. Lúc đó có ông cán bộ tâm tình với một số anh em tù binh rằng, ‘Các anh biết không, mấy thằng lính Biệt Kích của ngụy chúng nó lội rừng nhanh lắm, họ đi một lèo là đến ngay. Mà mấy tên lính Biệt Kích này chúng nó như hồn ma vậy, khi ẩn khi hiện trong rừng sâu, và gan lì lắm.’”

Lúc đó có một tù nhân ngẫu hứng chỉ ngay ông Ngọc, nói: “Đó đó, ông Biệt Kích đang ngồi đó.” Tức tốc mấy cán bộ Việt Cộng liền đến chĩa súng ngay nơi ông Ngọc đang ngồi. Nhưng họ chỉ chĩa súng vào ông thôi chớ không làm gì ông hết. Hành động này là vì ngày xưa Việt Cộng đi rừng rất sợ Biệt Kích mai phục.

Qua những ngày sau đó, nếu có đi làm công tác lao động thì những người giữ tù nhân này bảo ông Ngọc đi trước, rồi họ mới đi theo sau. “Bởi vì họ vẫn còn sợ lính Biệt Kích,” cựu Chuẩn Úy Chung Tử Ngọc nói.

Cưới vợ lúc đang ở tù

Cả ông Ngọc và anh trai của ông đều bị Việt Cộng giam cầm sau biến cố 30 Tháng Tư, 1975. Mẹ ông phải tần tảo đi thăm hai con trai, người anh thì ở tù ngoài Bắc, còn ông Ngọc thì ở tù miền Nam. Thấy con mình bị ở tù khổ quá, nên mẹ ông Ngọc mới về lo tiền để chuộc ông ra khỏi tù.

Ông Ngọc nói: “Vì lúc đó mẹ tôi có làm ăn và cũng kiếm tiền được. Nhưng việc dùng tiền để đưa tôi ra khỏi tù không thành công, lý do vì tôi là lính Biệt Kích Lôi Hổ. Thấy thương con mình, nên mẹ tôi đã cưới vợ cho tôi lúc tôi đang ở tù.”

“Cô dâu là người hàng xóm của mẹ tôi, và chấp nhận làm đám cưới mà không có chú rể. Rồi sau đó, mẹ tôi cũng đưa vợ tôi ra trại tù Phước Long thăm tôi nhiều lần,” ông nhớ lại.

Tượng anh linh Chiến Sĩ Biệt Kích trong Đại Hội Nha Kỹ Thuật tại Little Saigon. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

“Tôi bị họ giam cầm tại Phước Long hơn một năm, thì họ đưa tôi về lại trại tù Suối Máu. Lúc này tôi đã ở tù gần bốn năm. Rồi từ Suối Máu họ lại đưa tôi về trại tù ở Xuyên Mộc, đây là trại tù khổ sai hạng nhất tại miền Nam. Tôi bị giam cầm ở đây khoảng hai năm một tháng là đủ sáu năm tù,” ông kể thêm.

Vượt biển đến Hoa Kỳ

Đến Tháng Chín, 1981, cựu chiến sĩ Biệt Kích Chung Tử Ngọc được mãn tù. Sau đó, ông sống bằng nghề sửa xe đạp bên lề đường Tô Hiến Thành, quận 10, Sài Gòn, để nuôi vợ con. Nhưng không đủ tiền để lo cho gia đình, ông chuyển sang phụ mẹ đi bán hàng hóa ở chợ Vườn Chuối, quận 3.

Đến năm 1989, ông cùng gia đình vượt biên bằng đường biển tại Nha Trang. Chuyến vượt biên đầu tiên được thành công, nên năm ngày sau ông được đến Philippines vào Tháng Sáu, 1989.

Lúc đó vì vấn đề núi lửa ở Philippines bùng phát, nên Liên Hiệp Quốc mới đình chỉ rước những người tị nạn Cộng Sản đang ở các trại tập trung chuyển tiếp tại Bataan và Palawan, Philippines. Do đó gia đình ông phải ở lại Philippines gần bốn năm.

Đến Tháng Sáu, 1993, gia đình ông mới được định cư tại California, Hoa Kỳ.

Hiện giờ gia đình của cựu Biệt Kích Lôi Hổ Chung Tử Ngọc cư ngụ tại thành phố Westminster, California. (Lâm Hoài Thạch) [qd]


 

50 Năm – Còn Đó Nỗi Buồn – Phạm Tín An Ninh     

Phạm Tín An Ninh                   

    

     Ngày 24.2.2025 tại Đại Hội Đồng LHQ, Hoa Kỳ đã quay lưng trước đồng minh NATO cùng hầu hết các quốc gia thuộc thế giới tự do, chính thức đứng về phía Nga, Iran, Bắc Hàn, và những nước thân CS, bỏ phiếu chống lại nghị quyêt lên án Nga gây chiến tranh xâm lược Ukraine, nhân dịp thế giới kỷ niệm 3 năm ngày Vladimir Putin xua quân vào lãnh thổ Ukraine. Sau đó, cả thế giới lại bàng hoàng, khi vị Tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ đã tỏ ra thân thiện với kẻ thù Nga, ca ngợi, bênh vực tên đồ tể Putin trong khi hết lời mạt sát, nhục mạ TT Zelensky, người đồng cấp, từng là đồng minh thân tín của Hoa Kỳ. Đã vậy, Tổng thống Mỹ còn đòi phải được khai thác khoảng sản, đất quý, tài sản quốc gia của Ukraine để trừ vào số tiền viện trợ trước đây. Có lẽ đây là nguyên nhân tiềm ẩn đưa đến cuộc tranh luận gay gắt, trở thành trận cải vã nặng nề ngay tại Tòa Bạch Ốc, giữa TT Zelensky của Ukraine và TT D.Trump cùng PTT J.D Vance của Hoa Kỳ vào ngày 28.2.2025, trước sự chứng kiến của các cơ quan truyền thông hiện diện cùng cả thế giới qua màn ảnh truyền hình. Sau khi “mời” TT Zelensky cùng phái đoàn tùy tùng ra khỏi Phòng Bầu Dục, TT Trump cũng đã quyết định ngưng tức khắc mọi viện trợ quân sự cũng như cung cấp tin tức tình báo, nhằm áp lực Ukraine phải nhanh chóng ngồi vào bàn hội nghị theo sự sắp xếp của Hoa Kỳ. Đến hôm nay, kết quả hội đàm tuy chưa chính thức ngã ngũ, nhưng ai cũng đã nhìn thấy trước số phận của Ukraine!

Sự kiện này xảy ra đúng vào thời điểm người Việt chuẩn bị tưởng niệm 50 năm, ngày kết thúc cuộc chiến Việt Nam. Chính xác hơn là ngày Miền Nam Việt Nam hay nước VNCH bị CS Bắc Việt cưỡng chiếm, cũng với sự phản bội tương tự của đồng minh Hoa Kỳ, khi Mỹ và Bắc Việt đã cùng bắt tay thỏa thuận ký kết hiệp định mạo danh Hòa Bình vào ngày 27.1.1973 tại Paris, quyết định số phận của VNCH, quốc gia chính trong cuộc chiến nhưng bị áp lực để (gần như) phải đứng bên lề. Trong các cuộc hội đàm, phái đoàn VNCH bị xếp ngồi ngang hàng với (cái gọi là) Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, trong khi ai cũng biết đó chỉ là đám tay sai, con rối do CSBV nặn ra.

Vẫn biết rằng, quyết định của nước lớn đối với đồng minh luôn tùy thuộc vào quyền lợi của chính đất nước họ, tuy nhiên điều đau lòng là cung cách hành xử khi quay lưng, phản bội lại những người từng một thời nhận là bạn, cùng sống chết bên nhau. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, ngày 29.4.1975, tại Đài Loan, ngay sau đêm đầu tiên bị áp lực phải rời khỏi nước, khi trả lời cho một đại diện của chính phủ Mỹ, cũng đã lên tiếng trong ngậm ngùi, cay đắng “Làm kẻ thù của Mỹ thì rất dễ, nhưng làm bạn rất khó”

Ukraine và VNCH bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi khi cuộc chiến đấu của hai quốc gia này có cùng một đích: tự vệ, chống lại quân xâm lược. Chỉ khác là trong cùng tình huống này, Ukraine có nhiều may mắn hơn VNCH. Bởi cuộc chiến Việt Nam kéo dài quá lâu, có hơn 58.000 quân nhân Mỹ tử trận, một số khác bị bắt làm tù binh, đẩy phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ ngày một dâng cao, đỉnh điểm vào tháng 5/ 1970, đã có đến 4 triệu sinh viên thanh niên liên tục xuống đường, gây bạo động, một số đã bị cảnh sát bắn chết. Thời điểm này đại đa số dân chúng Mỹ, qua lưỡng viện quốc Hội, không còn ủng hộ cuộc chiến Việt Nam. Cũng phải thẳng thắn để thừa nhận, trên thực tế quân dân VNCH đã không chiến đấu hết lòng và dũng cảm bằng Ukraine, và các cấp lãnh đạo, đặc biệt vị tổng thống của họ rất xứng đáng. Ngoài ra, Ukraine vẫn còn được đa số dân chúng Mỹ ủng hộ, quan trọng hơn, được Tổ Chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và gần như toàn bộ Âu Châu luôn hết lòng, sát cánh. Trong khi ở vào thời điểm (trước và sau) Hiệp định Paris ký kết, VNCH gần như cô thân độc mã. Cùng lúc bị Mỹ bỏ rơi, các đồng minh khác như Úc, Nam Hàn, Thái Lan, kể cả Phi Luật Tân cũng đều theo Mỹ, quay lưng!

***

Vào thời gian này, đơn vị chúng tôi đang hành quân tảo thanh tại khu vực Kontum – Tây Nguyên, sau khi vừa liên tục tạo các chiến thắng lẫy lừng, đánh tan các lực lượng hùng hậu thuộc Mặt Trận B-3 của tướng CS Hoàng Minh Thảo. Với khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam”, CSBV chuyên áp dụng chiến thuật biển người, đẩy đám bộ đội, đa phần là thanh niên, sinh viên miền Bắc bị cưỡng bách nhập ngũ, như những con thiêu thân lao theo sau các trận địa pháo, để bằng mọi giá phải chiếm được căn cứ Charlie của Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù,  mở cánh cửa ngõ xua chiến xa T-54 với hỏa tiễn tầm nhiệt của Liên Xô, tràn ngập BTL Tiền Phương SĐ22BB tại Tân Cảnh, chiếm cứ một vùng Bắc Kontum. Sau đó, một lực lượng Cộng quân hùng hậu hơn, gồm Sư Đoàn 320, Sư Đoàn 2 (sau này tăng cường thêm Sư Đoàn 968 từ Lào sang), cùng 4 trung đoàn biệt lập 66, 95, 20, 24, Trung đoàn Đặc công 400, 2 trung đoàn Pháo,  6 tiểu đoàn Phòng không và 1 tiểu đoàn Tăng T-54… tràn xuống phía Nam nhằm thôn tính thành phố Kontum, trong ý đồ tiến chiếm Pleiku, nơi có bản doanh của BTL/QĐII/VNCH hầu dùng làm bàn đạp tràn xuống đồng bằng, duyên hải, nhưng chúng đã bị thảm bại trước một lực lượng VNCH, với chỉ duy nhất mỗi Sư Đoàn 23 BB cùng 3 tiểu đoàn Pháo Binh và 1 chi đoàn chiến xa M-41 cơ hữu, đặc biệt được Không quân (giai đoạn đầu có B-52 của Hoa Kỳ) yễm trợ. Điều này đủ để chúng tỏ khả năng chiến đấu của Quân Lực VNCH.

Ngay trong trận chiến đầu tiên tại tuyến Tây Bắc Kontum, vào sáng ngày 14.5.1972. cả hai Trung đoàn 28 và 64 của Sư Đoàn (Thép) 320 CS cùng 1 tiểu đoàn xe tăng bị tiêu diệt, làm cho cả sư đoàn có tiếng, kỳ cựu này bị kiệt quệ, không còn khả năng chiến đấu. Sau đó chỉ đúng 10 ngày, sáng sớm ngày 24.5.72. trong trận tấn công cùng lúc vào Tòa Giám Mục,  Bệnh Viện 2 Dã Chiến và vòng đai phi trường Kontum,  cả Trung đoàn 52 thuộc Sư Đoàn 2 (Quảng Đà) mới tăng cường từ vùng Quảng Nam vào, bị đánh tan, đã phải giải thể. Một số lớn cán binh của Trung đoàn 141 thuộc sư đoàn này bị bắt và ra hồi chánh. (Những thất bại này CSBV đã phải công nhận qua chính các hồi ký, quân sử của họ)

Chiến thắng Kontum vào Mùa Hè 1972 của đơn vị chúng tôi ở Quân Đoàn II, cùng lúc với Bình Long ở Quân Đoàn III và QuảngTrị ở Quân Đoàn I đã bẻ gãy ý đồ thôn tính VNCH của CSBV, khi lợi dụng việc Hoa Kỳ vừa rút hết quân về nước, đồng thời cắt giảm tối đa quân viện cho VNCH, sau chiêu bài “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”.

Nhưng rồi Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973 như một trận gió chướng tàn độc, cuốn trôi hầu hết những chiến công mà chúng tôi đã phải trả bằng biết bao máu xướng để đạt được, cùng lúc làm tiêu hao hào khí mà quân sĩ đơn vị chúng tôi vừa dâng cao trong men say chiến thắng. Hiệp định Paris mà Hoa Kỳ và Bắc Việt đã thỏa hiệp, ký kết trên nỗi đau thương, phẫn uất cùng thân xác của những người lính khốn khổ chúng tôi, chính là huyệt mộ do chính Hoa Kỳ đào lên nhằm chôn sống quân lực và cả quốc gia đồng minh VNCH sau đó.

Ủy Ban Nobel Hòa Bình NaUy năm 1973 đã phải vô cùng xấu hổ và ân hận khi có một quyết định vội vã, sai lầm, trao giải cho Henry Kissinger và Lê Đức Thọ. Bị cả thế giới và nhiều dân biểu NaUy phản đối, một số thành viên bất mãn rút tên ra khỏi Ủy Ban. Sau đó chính Lê Đức Thọ đã phải từ chối nhận giải, vì hơn ai hết, chính cá nhân ông ta và cả Bộ chính trị Đảng CS đều biết trước là sẽ không hề có hòa bình, bởi họ đã mưu đồ từ trước, không hề tôn trọng hiệp định mà chỉ lợi dụng những kẻ hở có toan tính, để đẩy mạnh cuộc chiến nhằm sớm cưỡng chiếm Nam Việt Nam.

Hiệp định mang tên Hòa Bình, nhưng kỳ thực chỉ là hình thức ngưng bắn kiểu “da beo”, để các lực lượng CSBV không phải rút về Bắc mà được tiếp tục hiện diện hợp pháp tại các phần đất mà chúng vừa lấn chiếm, cùng lúc Hoa Kỷ cắt hết viện trợ quân sự cho VNCH để đổi lấy tù binh, trong khi CSBV vẫn được Trung Cộng, Liên Xô cùng khối CS gia tăng tối đa viện trợ. Lợi dụng tình hình này, CSBV đã ào ạt chuyển đại quân, chiến xa, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu vào chiến trường miền Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh, và một số từ Lào sang để gia tăng cường độ các cuộc tấn công, trong khi chúng tôi phải chiến đấu trong những điều kiện vô cùng khó khăn, thiếu thốn, từ quân số, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu, đến mọi phương tiện khác.

Hồi tưởng thời gian này, tôi bỗng thấy đồng cảm và thấm thía với tâm trạng của người lính trẻ Paul Bäumer, nhân vật chính trong “All Quiet On The Western Front” (Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh), tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng của nhà văn Đức, Erich Maria Remarque, mặc dù tình huống tương tự đã xảy ra từ thời Đê Nhất Thế Chiến, hơn 55 năm trước:

“Ngày tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là mùa hè đẫm máu và kinh hoàng nhất. Thời gian giống như những thiên thần đang bay lượn trên vùng hủy diệt một cách không thể hiểu nổi. Dường như ai cũng biết rằng chúng tôi sẽ phải thua trong cuộc chiến này. Nhưng rất ít ai nói ra điều ấy. Chúng tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không còn đủ quân số, không đủ tiếp liệu, đạn dược để có khả năng phản kích sau cuộc tổng công kích này. Duy chỉ có các chiến dịch hành quân là còn đang tiếp diễn – và những cái chết sẽ vẫn còn tiếp tục…”

Là những người trực tiếp chiến đấu, cận kề quân sĩ, chúng tôi đã phải xót xa, đau đớn đến dường nào khi chứng kiến đồng đội của mình ngã xuống mỗi ngày trong tình trạng tức tưởi, oan khiên như thế!

                   

                    (Trên đường ra trận – ảnh từ Internet)

Hơn mười năm phục vụ trong một đơn vị Bộ Binh bình thường, nhưng chúng tôi chưa hề một lần chiến bại, ngay cả những trận chiến gay go, đẫm máu nhất, với lực lượng địch đông gấp nhiều lần và vũ khí tối tân hơn, điễn hình như trận chiến Kontum. Vậy mà bỗng dưng chúng tôi trở thành những người bại trận. Bi thảm và tủi nhục hơn là dù có “gãy súng”, “buông súng” hay không, chúng tôi cũng bị thuộc về bên phía “đầu hàng” theo lệnh của ông tướng mới lên làm tổng thống ba ngày, nhân danh Tổng Tư Lệnh. Sau này, có người bảo ông làm đến đại tướng mà ngây thơ, nghe theo lời dụ dỗ, móc nối của ai đó và một người em ở phía bên kia, tin Cộng sản sẽ thành lập “chính phủ ba thành phần” Có người lại bảo ông giành chức tổng thống chỉ để làm một điều duy nhất – đầu hàng. Cũng có người bênh vực, bảo nhờ ông đầu hàng nên tránh được một cuộc tắm máu, và có đủ thời gian cho một số người kịp chạy đến Subic Bay hay đảo Guam, sang Mỹ sớm. Là những thằng lính khốn khổ nhất, năm tháng chỉ ở trong núi rừng, dưới các giao thông hào, ngộp thở với tiếng bom đạn cùng bao nhiêu thứ lệnh lạc chiến trường, chúng tôi đâu có biết gì về chính trị bẩn thỉu, nhất là các biến cố dồn dập, hỗn độn trong những ngày tháng cuối cùng tại thủ đô Sài gòn.

Trong chiến tranh, thắng bại dù sao cũng là lẽ thường tình. Cuộc nội chiến Mỹ 1861-1865, Nam quân đã đầu hàng Bắc quân, và trong Đệ Nhị Thế Chiến, nước Nhật hùng mạnh đã phải đầu hàng quân đội đồng minh, sau khi hai quả bom nguyên tử do Mỹ thả xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki. Kẻ chiến thắng đã hành xử văn minh, nhân bản như thế nào, cho dù các cuộc chiến ấy cũng vô cùng tàn khốc, cướp đi rất nhiều sinh mệnh của hai bên – cả dân lẫn lính. Nhưng cuộc bại trận của chúng tôi sao mà phẫn uất và đau đớn quá.

Bị đồng minh phản bội, bỏ rơi trong đành đoạn, tức tưởi. Thua một kẻ địch không đáng để thua. Một chế độ tự do nhân bản, văn minh, phồn thịnh lại phải đầu hàng một chế độ man rợ, nghèo nàn, lạc hậu. Có lẽ trong lịch sử chiến tranh Đông-Tây, chưa từng có những người lính nào ở phe thắng trận lại ngồi khóc ở vệ đường trên phần đất vừa mới chiếm được – như trường hợp nhà văn bộ đội CS Dương Thu Hương và nhiều người khác nữa– bởi nhận ra mình bị lừa dối, uổng phí cả một thời trai trẻ để đi “giải phóng” một miền đất tự do, văn minh, nhân bản, giàu có, hạnh phúc gấp vạn lần “miền Bắc xã hội chủ nghĩa” của mình.

Đến hôm nay, cuộc chiến oan nghiệt ấy đã kết thúc vừa đúng nửa thế kỷ. Hầu hết những dấu tích chiến tranh trên quê hương đã bị “bên thắng cuộc” chôn xóa, hủy diệt, ngoại trừ một số rất ít được chọn lọc, tô son thiếp vàng, trưng bày trong các viện bảo tàng, nhằm để tô vẽ, tuyên truyền. Trong số chứng tích còn sót lại là những nấm mồ xác xơ của hàng vạn tử sĩ miền Nam, nằm trong các nghĩa trang tiêu điều hoang phế, bị kẻ chiến thắng đập phá, hủy hoại, nhục mạ. Thực ra, họ rất muốn phá hủy hoàn toàn cho sạch hết chứng tích cuộc chiến mà chính họ đã làm hoen ố lịch sử dân tộc một thời, như đã từng san bằng, giải tỏa một số các nghĩa trang quân đội ở các tỉnh miền Trung, nhưng sở dĩ một số ít nghĩa trang lớn còn sót lai, dù trong tình trạng bị phá hủy, thay tên gọi (như NTQĐ Biên Hòa trở thành một nghĩa trang dân sự địa phương lạ lẫm nào đó), chỉ nhằm để kiếm lợi trong các cuộc tuyên truyền, thương lượng, đổi chác với Hoa Kỳ cùng Thế Giới Tự Do, và cũng để gạt gẫm, lừa mị đồng bào miền Nam hầu ngụy tạo một chút gì cái “tình dân tộc” trong chiêu bài “hòa hợp hòa giải”.

                   

Mới đây, có người phát hiện Nghĩa trang Sư Đoàn 22BB hoang phế nằm lẫn khuất trong một vùng núi rừng Bình Định. Cây cỏ và cả rác rến gần như che lấp hàng ngàn mộ phần tử sĩ rêu phong. Một số đồng đội, nhà hảo tâm trong và ngoài nước cùng hô hào đóng góp, nhờ một số các anh chị em còn nặng tấm lòng với miền Nam trong nước tiếp tay, phát quang, sơn sửa, kẻ lại tên tử sĩ và dựng lại các tấm bia gãy đổ. Vậy mà, sau đó họ đã bị chính quyền CS đe dọa, ngăn chặn, gây bao phiền muộn. Kế hoạch trùng tu “kín” một số nghĩa trang hoang phế khác trong vùng cũng vì đó mà đành phải hủy bỏ.

                      

 Hàng vạn trại tù vội vàng được dựng lên sau tháng 4/1975, trên khắp mọi miền đất nước, nhằm đày ải, hành hạ, giết dần mòn gần một triệu quân cán chính, trí thức, văn nghệ sĩ, kể cả nhà sư và linh mục miền Nam. Giờ hầu hết những trại nằm trong rừng sâu, núi thẳm đã biến mất, một số trại tù lớn ở các thành phố thì đã được nâng cấp, sửa sang để trở thành những trại giam lớn của tỉnh hay cấp nhà nước. Tuy nhiên cứ thi thoảng người dân lại phát hiện một số nấm mồ “tù cải tạo” nằm sâu trong núi rừng Lào Cai, Yên Bái hoang vu, giờ chỉ còn mỗi tấm bia xám xịt rêu phong, lẫn khuất dưới cỏ cây từ gần 50 năm trước.

                       

             (Mộ tù cải tạo trong rừng núi Yên Bái – ảnh từ youtube)

Một chứng tích đau lòng khác, những thương binh VNCH  bị đối xử tệ hại, đang phải sống từng ngày khốn cùng trong nước, Phần đông, theo thời gian đã chết do nghèo đói, bệnh tật. Số còn lại cũng đã già nua, sống lây lất trên các vỉa hè góc phố. Vậy mà họ vẫn không yên với một chế độ thiếu vắng tính nhân bản, tình tự dân tộc, luôn nặng hận thù. Với nghĩa tình cùng lòng tri ân của những đồng đội, đồng bào từ hải ngoại và cả trong nước, vận động gom góp gởi về, qua các vị Linh mục nhân từ thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài gòn, để các vị tổ chức mỗi năm một, hai lần buổi họp mặt “Bên nhau đi nốt cuộc đời”, như là một chút ủy lạo trong tinh thần huynh đệ chi binh và biết ơn những người đã hy sinh một phần thân thể, vậy mà chính quyền CS cũng đã tìm mọi cách gây khó khăn, đe dọa, ngăn chặn cấm đoán, để cuối cùng phải hủy bỏ.

                     

                    Thương phế binh VNCH – ảnh Dân Làm Báo)

Chứng tích quan trọng và sinh động hơn, là sự hiện diện của hơn 5 triệu người Việt đã phải bỏ nước ra đi, đang sống lưu vong trên khắp mặt địa cầu. Sau tháng 4.1975, cả một miền Nam “thua cuộc” đã nhanh chóng trở thành một vùng đất chết, khốn cùng, bi thảm. Người dân có cảm giác như bị lưu đày ngay trên chính quê hương mình. Tương lai chỉ còn là những cơn ác mộng. Thời ấy, mọi người chỉ còn biết nhìn ra biển khơi mênh mông để ước mơ một sự đổi thay nào đó ở phía bên kia chân trời mịt mờ vô định. Và còn gì đau đớn hơn khi con người nghĩ tới chuyện phải bỏ quê hương ra đi lại là một niềm khát vọng! Trong suốt lịch sử thăng trầm của dân tộc, chưa có thời kỳ nào mà người dân phải bỏ cả quê hương, nhà cửa, mồ mả ông bà cha mẹ để vượt thoát ra đi trong cái chết. Chính quyền CS từng tuyên truyền, bôi xấu họ là bọn phản quốc chạy theo chân đế quốc nhằm tìm chút bơ thừa sữa cặn, để rồi không lâu sau đó lại âu yếm, chiêu dụ, gọi họ là những “khúc ruột ngàn dặm”, những “sứ giả”của quê hương, dân tộc. Thực chất, các cộng đồng người Việt tỵ nạn trên hầu hết các quốc gia tự do – mà chính quyền CS vẫn luôn xem là “các thế lực thù địch”- đa phần đã thành công vượt bậc tại các quốc gia định cư, thế hệ con cháu thành đạt trên đủ mọi lãnh vực, từ giáo dục, khoa học kỹ thuật, chính trị, quân sự, văn học, âm nhạc. Đó là những đóng góp rất tích cực cho các quốc gia đón nhân họ, nhưng cũng là những chất xám quý báu mà chính quyền CS trong nước hằng mơ ước.

Trong suốt 50 năm, kẻ chiến thắng đã cố tình biến miền Nam, vùng đất tự do văn minh hạnh phúc xinh đẹp một thời, trở nên nghèo nàn, khốn khổ hơn so với cái nôi “cách mạng” miền Bắc, nhưng rồi dù có bị đàn áp, bần cùng hóa. phân biệt đối xử đến đâu, người miền Nam vẫn luôn giữ được văn minh, nhân bản, và đất miền Nam vẫn luôn đáng yêu, đáng sống. Đã có hằng triệu triệu người dân miền Bắc bỏ quê cha đất tổ tìm vào đất phương Nam, mong được đổi đời. Mật độ dân số miền Nam, đặc biệt tại Sài gòn ngày một đông đúc, có khi gấp gần 5 lần so với tháng 4.1975, nhà cửa, cao ốc thi nhau dựng lên bừa bãi, đến nỗi nhiệt độ trở nên nóng bức trong cả mùa đông, và nhiều con đường phố đã trở thành sông, chỉ sau một cơn mưa, dù không lớn lắm. Ngay cả các tỉnh Cao Nguyên, miền Trung, giờ cũng đầy những người miền Bắc bỏ xứ vào đây lập nghiệp, giành nương chiếm rẫy của những người Thượng, vốn từng bao nhiêu đời khai sơn phá thạch, sống chết ở đây.

50 năm, nền giáo dục “xã hội chủ nghĩa” lạc hậu, xuống cấp đã làm cho bao thế hệ học trò trở nên thua kém rất xa so với thế giới chung quanh. Đến nỗi một cô giảng viên trường Đại học sư phạm (Thái Bình) đã công khai trong một chương trình trên truyền hình Hà Nội, rằng “Tự Lực Văn Đoàn là một gánh cải lương, và ông Nhất Linh là ca sĩ cổ nhạc”. Tệ hại và tủi nhục hơn là tình trạng tha hóa trong ngành giáo dục, kể cả thầy giáo và hoc trò, Chuyện thầy giáo gạ tình, hiếp dâm nữ sinh cũng như chuyện học trò, kể cả nữ sinh, đánh nhau và đánh luôn cả thầy cô giáo, gần như là chuyện thường tình.

Đặc biệt, ngôn ngữ Việt (cả tiếng nói lẫn chữ viết) bị biến cải một cách tùy tiện, ngốc nghếch, kể cả muốn Tàu hóa như trường hợp ông giáo sư tiến sĩ Bùi Hiền nào đó. Lịch sử (và môn Sử học) được dựng lên từ bao điều dối trá. “Anh hùng Lê Văn Tám” được xây tượng đài, đặt tên cho các con đường lớn, công viên, trường học, bắt học trò cả nước phải học tập, noi gương như một vị anh hùng. Thực chất, lại là một người không hề có thật, mà chỉ là nhân vật tưởng tượng trong một phim truyện của đạo diễn Phan Vũ, nhằm để tuyên truyền. Thực chất, lại là một người không hề có thật, mà chỉ là nhân vật tưởng tượng trong một phim truyện nhằm để tuyên truyền. Chính ông GS Trần Huy Liệu, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử VN đã thú nhận với GS Phan Huy Lê, nhân vật Lê Văn Tám là do mình “dựng” nên và nhờ GS Phan Huy Lê sau này khi đất nước yên ổn, nói lại giùm, lỡ khi đó ông Trần Huy Liệu không còn nữa.  (GS Phan Huy Lê: Trả lại sự thật hình tượng Lê Văn Tám, Khoa Đông phương học). Và ông Phan Huy Lê đã công bố sự thật này vào tháng 2 năm 2005,  nên người dân trong nước đều biết câu chuyện gian dối lừa mị này, vậy mà đảng và nhà nước vẫn không hề một lời lên tiếng.

50 năm, nền văn học “xã hội  chủ nghĩa” còn lại những gì, ngoài mấy trăm bài thơ nịnh Bác của đám văn nô, tiêu biểu cỡ Tố Hữu “Ta bên người, người tỏa sáng trong ta/ Ta bỗng lớn bên Người một chút…” hay “ Xta-lin ơi!/Hỡi ôi Ông mất, đất trời có không?/Thương cha, thương mẹ, thương chồng/Thương mình thương một, thương Ông thương mười), cùng các bản nhạc “đỏ”: Bác đang cùng chúng cháu hành quân, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây,Tiếng Chày Trên Sóc Bam Bo,  Năm Anh Em Trên Một Chiếc Xe Tăng, Cô Gái Vót Chông… mà đám văn công hát đi hát lại trong mấy ngày lễ lớn, và tất nhiên chẳng ai còn muốn nghe, với họ có khi đó chỉ là một cách “tra tấn” thính giác của con người!

Nhưng 50 năm với những bản tình ca miền Nam, một thời bị cho là nhạc vàng, cấm đoán, đến nỗi có người hát (như Toán Xồm, Lộc Vàng) đã từng bị đàn áp,  tù đày để người phải bỏ mình, người thì gần cả một đời khốn đốn, giờ lại làm mê mẫn say đắm mọi người lớn nhỏ, kể cả những “đồng chí lãnh đạo”, công an, bộ đội, từ Nam ra Bắc, từ thành phố cho đến các hang cùng ngõ hẻm, vùng sâu vùng xa, Mà oái ăm thay, đa phần những bản nhạc tình ca này lại viết rất đẹp về lính VNCH, người lính “bên thua cuộc”.

Trong một bài tiểu luận viết vào ngày 1.1.2022, dưới nhan đề “Níu một thời, giữ một đời”, nhà văn Ban Mai, một trí thức trẻ của chế độ (giảng viên tại Trường Đại Học Quy Nhơn) đã viết:

“Việt Nam, sau năm 1975 kết thúc chiến tranh giữa hai miền Nam – Bắc. Hòa bình đã đến sau mấy thập niên tang tóc vì bom rơi, đạn nổ.

Thế nhưng, người Miền Nam đã không thể tưởng tượng nổi, tiếp sau đó là một thảm cảnh kinh hoàng… Trầm trọng hơn nữa: Sự xơ xác tinh thần của trí thức Miền Nam không còn được tự do trình bày suy nghĩ, không còn được tự do hấp thụ tri thức nhân loại. Thay vào đó là những đợt học tập chính trị triền miên, theo một định hướng duy nhất: Chủ nghĩa Marx.Tất cả sách báo, văn học nghệ thuật bị tịch thu tiêu hủy, nền văn chương Miền Nam hoàn toàn bị bôi xóa. Giống như thời man rợ của Tần Thủy Hoàng năm 210 trước công nguyên…

Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra và lớn lên ở Việt Nam không hề biết đã từng có một nền văn học nghệ thuật Miền Nam vô cùng gía trị với nhiều thể loại “trăm hoa đua nở”, đề cao tự do, dân chủ, với ý thức khai phóng, nhân bản, theo kịp trào lưu thế giới…

Bên trong nước, mấy năm gần đây có một bạn trẻ Nguyễn Trường Trung Huy ở Sài Gòn cũng dày công sưu tầm Văn học Miền Nam và bộ sưu tập của bạn ngày một đồ sộ đáng cho ta kinh ngạc, đó là một kỳ công. Tôi tin rằng, trên đất nước Việt Nam này có nhiều người thầm lặng âm thầm tìm kiếm, lưu giữ một nền văn chương nhân bản mà ta tưởng rằng đã chết sau năm 1975. Ngày nay, giới nghiên cứu văn học trong nước đang ngày càng tìm kiếm để nghiên cứu, mới đây trong một đề thi luận văn bậc trung học phổ thông, có một giáo viên đã đem bài thơ “Ta về” của Tô Thùy Yên cho học sinh bình giảng, với những câu thơ đầy tính nhân văn:

“Ta về như lá rơi về cội

Bếp lửa nhân quần ấm tối nay

Chút rượu hồng đây xin rưới xuống

Giải oan cho cuộc biển dâu này”.

(Tô Thùy Yên là một sĩ quan VNCH, từng bị tù đầy qua nhiều trại giam trong gần 13 năm, sau tháng 4.1975)

Tuy đây chỉ mới là một hành động đơn lẻ nhưng đó là một tín hiệu vui.

 Tôi tin rằng, sẽ không còn bao lâu nữa dòng Văn chương Miền Nam (1954-1975) sẽ được đưa vào giảng dạy chính thức trong nhà trường, nó xứng đáng được trả về với đúng vị trí của nó trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam hiện đại, không ai và không một thể chế nào có thể bôi xóa một thời đại lịch sử của nước nhà. Giữ gìn, bảo tồn và chia xẻ Văn học Miền Nam cho đời sau là trách nhiệm của chúng ta, của tôi và các bạn những người yêu tiếng Việt, những người yêu văn chương Việt Nam”

Một vị giáo sư khác trong nước, chuyên nghiên cứu về Văn Học Việt Nam đã khẳng định “Trong hai thập niên 1955-1975, nếu không có Văn Học Miền Nam, thì nền Văn Học Việt Nam xem như không hề có, hoặc chẳng có gì cả!”

Nhà thơ, nhà giáo cũng là nhà báo nổi tiếng miền Bắc, Hoàng Hưng, trong bài viết “Về ảnh hưởng của Văn hóa miền Nam (VNCH) sau 1975”, sau khi hết lời ca ngợi lối sống, văn hóa, văn học miền Nam, đã kết luận:

“…nhìn một cách tổng thể, toàn bộ đời sống miền Nam, trong đó có đời sống văn hoá, văn học, trong 45 năm qua đã dần dần “giải phóng” người dân miền Bắc khỏi cái nhà tù lớn trong đó con người bị buộc phải giả tạo, “gồng mình” hoặc bị mê hoặc mà mù quáng tuân phục trong thời chiến và theo “định hướng XHCN….

Đến nay nó vẫn tiếp tục đóng góp vào tiến trình “giải Cộng” gian lao của đất nước! Chắc chắn sẽ đến một ngày, đất nước chứng kiến một cuộc phục hưng văn hoá, văn học, đi tiếp con đường mà văn hoá, văn học miền Nam đã đi. Con đường Tự Do, Nhân Bản, Hội Nhập Quốc Tế.”

Sau 50 năm, tất nhiên đất nước cũng đã có những đổi thay nhất định. Cơ sở hạ tầng, đặc biệt tại các đô thị có nhiều phát triễn, đời sống người dân ở đây có khá hơn so với nông thôn. Tuy nhiên trên thực tế, Việt nam vẫn còn tụt hậu khá xa so với nhiều nước chung quanh. Chính ông TBT Tô Lâm mới đây đã công khai tuyên bố: “Cách đây 50 năm vào những năm 1960-1970, Singapore chỉ mong được sang Bệnh viện Chợ Rẫy (Sài gòn) để chữa bệnh, giờ thì ta lại ước mơ được vào khám bệnh ở Singapore.”

Theo thống kê của IMF (International Monetary Fund/Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế), lợi tức tính theo đầu người ở Việt Nam cho năm 2025 là 4,986 Mỹ kim (Mk), trong khi ở Singapore là 93,956 Mk, và so với hầu hết các quốc gia Đông Nam Á khác, mức sống của người dân Việt nam đều rất thấp:

-Hàn Quốc(Nam Hàn): 37,675 Mk

-Nhật Bản               :  35,611 Mk

-Đài Loan               :  34,944 Mk

-Malaysia               :  14,423 Mk

-Thái Lan               : 7,754 Mk

Tệ hơn, Việt nam còn thấp hơn nhiều so với cả Mộng Cổ (Mongolia), một nước chỉ có đồng cỏ và sa mạc, với lợi tức trung bình của người dân năm 2025 ở đây là: 7,576 Mk.

Điều đặc biệt đáng chú ý hơn là trong hầu hết các quốc gia Đông Âu, mới giã từ chế độ CS khoảng 30 năm nay, người dân đều có lợi tức cao hơn nhiều so với Việt Nam (4,896 Mk).

-Tiệp Khắc (Czech Republic) = 33,038 Mk

-Hung Gia Lợi (Hungary)   = 25,703 Mk

-Ba Lan (Poland)                 = 25,040 Mk

-Lỗ Ma Ní (Romani)           = 21,570 Mk

-Bảo Gia Lợi (Bulgari)       = 18,456 Mk

Tuy vậy, chủ trương làm “kinh tế thị trường (với cái đuôi) theo định hướng XHCN” thực tế cũng đã làm giàu nhanh chóng cho hầu hết tầng lớp đảng viên, gia đình và phe nhóm, đưa họ sớm trở thành những nhà tư bản “đỏ”, đào thêm cái hố ngày càng sâu giữa giai cấp giàu (đảng) và nghèo (dân). Điều này hoàn toàn trái ngược mục tiêu “đấu tranh giai cấp” mà đảng CS từng hô hào; đấu tố, giết hại dã man hàng mấy vạn người vô tôi trong “Cải Cách Ruộng Đất”, lộ rõ chiêu trò lừa gạt “giải phóng miền Nam”, và hiện nguyên hình một đám thảo khấu khi chủ trương “tiêu diệt tư sản mại bản” rất tàn độc ngay sau khi cướp được miền Nam.

Sự làm giàu bộc phát (và bất chính) của tầng lớp tư bản đỏ này đã kéo theo hiện tượng xuống cấp từ Giáo Dục, Văn Hóa, Y Tế, tha hóa về Đạo Đức, Xã Hội và cả Tôn Giáo. Đặc biệt nhất là vấn nạn thối nát, tham nhũng – tất nhiên ngay trong hàng ngũ đảng CS, kể cả những lãnh đạo cao cấp nhất, từ hàng tướng lãnh, thứ bộ trưởng, thủ tướng đến cả chủ tịch nước – như là một thứ quốc nạn không còn thuốc chữa. Chức quyền được chuyền tay theo kiểu “cha truyền con nối”, “gia đình trị” của thời phong kiến. Đảng đứng trên pháp luật, thu tóm mọi quyền lực, tài sản quốc gia. Đảng viên sống phè phởn giàu sang trên đầu những người dân cùng khốn. Đám con cháu, những “hạt giống đỏ”, được đưa sang du học tại các trường tư nổi tiếng ở các nước tư bản, tất nhiên bằng tiền của nhà nước hoặc từ tham nhũng, chuẩn bị cho các vai trò kế vị.

Một ông thủ tướng (sau đó là chủ tịch nước) từng mở miệng khoe khoang “Việt nam bây giờ đang là một đất nước đáng sống nhất, cái cột đèn ở hải ngọai mà có chân thì cũng đã chạy hết về VN” (sic!). Trong khi ấy, hàng vạn cô con gái phải bỏ cha mẹ, người tình sang làm vợ cho những ông già bệnh hoạn, tàn tật ở tận Đài Loan, Nam Hàn, như một thứ nô lệ, kể cả nô lệ tình dục. Nhiều cô không liên lạc được với gia đình, Một số bị giết chết hoặc bị bán vào các động mãi dâm. Tại một số nước Á châu, báo chí công khai quảng cáo dịch vụ “mua vợ Việt Nam” với giá bằng một món đồ chơi rẻ mạt. Trong lịch sử dân tộc, dù có những giai đoạn lệ thuộc khó khăn, nhưng không có thời kỳ nào mà thân phận những người con gái, đàn bà Việt Nam lại rẻ rúng và thê lương như thế. Chính quyền đã “xuất khẩu” hàng vạn, hàng trăm ngàn người lao động đi khắp thế giới, ngay cả những nước nghèo ở tận châu Phi, nhằm kiếm sống và kiếm thêm ngoại tệ cho nhà nước. Đã vậy vẫn cứ tiếp tục những dòng người tìm mọi cách trốn khỏi Việt nam, để một số phải chết ngạt trong những chiếc xe đông lạnh, kín mít, một số phải sống trong núi rừng, trồng á phiện và bị bắt, vì không có quốc gia nào chấp nhận để dung thân. Một sự kiện đáng xấu hổ, khi nhóm chín người tháp tùng chuyên cơ của bà Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân trong chuyến viếng thăm “hữu nghị” Hàn Quốc, vào đầu tháng 12.2018, đã bỏ trốn khi vừa mới bước chân lên đất khách. Đó là chưa kể một số ra nước ngoài chỉ để ăn cắp, làm gái điếm, đến nỗi cái “hộ chiếu” Việt nam đã từng trở thành nỗi ô nhục.

Sau đúng 50 năm, tại Sài gòn, trước cả mấy tháng, nhà nước CSVN đang chuẩn bị rầm rộ mừng ngày “Thống Nhất”, thao dượt một cuộc diễn binh rất qui mô mà tốn phí dự trù hằng chục triệu Mỹ kim, vẫn với lời ca “thề phanh thây uống máu quân thù” vẫn với các khẩu hiệu “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, hừng hực không khí kiêu ngạo, hận thù. Trong khi ấy, đã có những anh bộ đội có mặt trong đoàn quân giải phóng ngày nào, theo chân nhà văn Dương Thu Hương (ngồi khóc ở vệ đường, khi nhận ra mình bị lừa gạt để chém giết đồng bào, hủy hoại cả một miền Nam nhân bản, văn mình, giàu đẹp) giờ cũng đã tột cùng ăn năn hối hận, như trường hợp cựu cán binh Bình Ngọc với bài thơ “Xin Lỗi Tháng Tư!”:

Thời trai trẻ, gác bút nghiên, gác mọi ước mơ …lên đường ” đánh Mỹ!”

Cây súng trên vai, máu đỏ trong tim!

Mụ lí trí! Hùng hục vượt Trường Sơn.

Đêm nghỉ, ngày đi, giày vẹt gót , áo sờn vai thấm lạnh!

Mẹ còng lưng vắt kiệt sức, mỏi mòn, thao thức đợi con về!

“Ba mươi tháng Tư” Bên Thắng cuộc, hả hê

Con trở thành kẻ “kiêu binh!” trong đoàn “quân Giải phóng!”

Nhưng! Ba mươi tám năm sau con vô cùng thất vọng!

Không hiểu mình đi Giải phóng cho ai?

Chễm chệ trên cao, toàn những kẻ bất tài!

Đáy xã hội, nhiều “dân oan!” mất đất.

Những nghịch lý, tai ương…chồng chất!

Khoảng cách “sang, hèn” cứ rộng mãi ra.

Người ở “quê” không còn tha thiết với “ao nhà”.

Tràn vào Miền Nam “ngoạ, chiếm, xâm canh…từ núi, rừng, chợ búa, thị thành, lầu cao, gác tía ….!”

Đi đâu, ở đâu cũng gặp toàn người “ngoài ấy”.

Nhà cửa, ruộng vườn ngoài ấy họ bỏ hoang???

Quê Hương tôi, tên thật đẹp (làng Vàng).

Cũng có đình, chùa, bờ xôi, ruộng mật!

Không hiểu vì sao nhiều người “bỏ tất” để vào Nam chen lấn, đua đòi?

Riêng tôi!

Đã mấy năm nay, tôi đã làm kẻ “chạy trốn!”

Trốn khỏi “sai lầm” những năm, tháng …đã đi qua!

Mỗi tháng Tư về tôi lại nhớ vào Nam!

Xin lỗi ! “tháng Tư!”

Xin lỗi ! Miền Nam, những việc tôi đã làm!

Xin lỗi tất cả!

Cả những người “bên thua cuộc!”

Biết sao được !

Mọi người chúng ta sinh ra, đâu có thể chọn được thời cuộc

Nhưng! Lẽ đời, Đen, trắng phải phân minh!

Xin lỗi! “tháng Tư!”

Hãy tha thứ cho mình! Rất chân thành, chứ không phải lời giả dối.

Hay trường hợp của Trần Đức Thạch, cựu phân đội trưởng trinh sát, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341, Quân đoàn 4, qua các bài thơ

Tạ Lỗi Miền Nam

Tôi sinh ra ở miền bắc

Không hình dung ra giặc thế nào

Người ta hô hào

Phải căm thù giặc…?

Người ta dạy tôi là người miền bắc

Phải biết thương yêu đồng bào miền nam

Bà con ruột thịt đang lầm than

Dưới gót giày của Mỹ Diệm…

Những người con nông dân thật thà như đếm

Mặc áo lính vai khoác súng lên đường

Hồn nhiên tin là đi bảo vệ tổ quốc quê hương

Đánh đuổi quân xâm lược…

Thống nhất đất nước

Mới ngớ ra “Quân ta đánh dân mình

Miền nam giàu và dân sống văn minh

Không đói khát vật vờ như dân miền bắc…”

Hận ngút trời đứa nào lừa tuổi xuân tôi coi dân mình là giặc!

Sám Hối

Thế hệ chúng tôi tội lỗi ngập đầu

Nhìn con cháu lòng muôn hổ thẹn…

Thế hệ chúng tôi một thời chinh chiến

Thắng lợi mang về là xua đuổi văn minh

Thắng lợi mang về là làm khổ dân mình

Để đểu cáng lên ngôi gây tội ác

Thế hệ chúng tôi hoàn toàn lầm lạc

Quên dân tộc mình theo chủ nghĩa Mác Lê Nin

Bệnh hoạn tư duy méo mó cách nhìn

Gieo thù hận trong lòng con cháu

Thế hệ chúng tôi đổ bao xương máu

Chẳng ý nghĩa gì khi dân tộc điêu linh

Chẳng ý nghĩa gì khi đất nước tanh bành

Lãnh thổ giang sơn bị ngoại bang gậm nhắm

Thế hệ chúng tôi cuộc đời cay đắng lắm

Mất chính mình mang tội ác với tương lai

Riêng những người lính miền Nam, sau nhiều năm bị tù ngục, đọa đầy, nhiều gia đình ly tán, lưu lạc khắp bốn phương trời, nếu còn sống sót giờ cũng đã trên dưới 80, nhưng vết thương từ cuộc chiến bất hạnh ấy vẫn mãi luôn âm ỉ trong lòng. Một quãng đời trai trẻ, những vinh nhục, những đớn đau tức tưởi trong giờ khắc phải buông súng, cùng những món nợ máu xương chưa trả được cho đồng đội anh em, rồi cùng sẽ xót xa theo họ về cõi vô cùng.

Xin được đồng cảm với tâm sự của một đồng đội đàn anh, nhiều năm chiến đấu bên nhau, từng là một cấp chỉ huy trẻ tuổi, thao lược:

“Tuổi đời chồng chất, sức khỏe và những hăng say của tuổi thanh xuân ngày tháng nguội dần. Tôi thấy cuộc sống mình hụt hẫng hoang mang. Mỗi năm lại vắng thêm đồng đội và rồi một ngày nào đó, cũng sẽ tới lượt mình. Điều tự nhiên này, thực chất chẳng phải là nỗi ưu tư bởi vì đó là quy luật. Nhưng điều làm tôi suy ngẫm là ý nghĩa về cuộc đời của chính mình, thế hệ chúng ta, qua những việc đã làm, những đau thương đã trải…thực sự là gì, hoặc chẳng là gì hết?”

 Phạm Tín An Ninh

Cuối tháng 4-2025  

From: haiphuoc47& NguyenNThu


 

Kinh tế Việt Nam đang đứng bên bờ vực thẳm-Trần Anh Quân

Ba’o Nguoi-Viet

May 27, 2025

Trần Anh Quân

Tổng Bí Thư Tô Lâm nhắc nhở “tiền trong dân còn nhiều,” Thủ Tướng Phạm Minh Chính liền phát động thi đua làm giàu: CSVN đang chuẩn bị in thêm tiền để chơi canh bạc “lạm phát cao.”

CSVN ủ mưu gom tiền trong dân

“Tiền trong dân còn nhiều” là câu nói khiến người ta nhớ tới Vương Đình Huệ, khi ông này còn là Chủ tịch Quốc hội. Ông Huệ nói câu hồi tháng Mười năm 2021, khi Việt Nam đang chìm trong dịch bệnh cúm Tàu và vẫn chưa có giải pháp gì để vực dậy nền kinh tế. Nên ông Huệ muốn “huy động” tiền trong dân để cứu vãn tình hình sau đại dịch.

Thật ra, người đầu tiên phát biểu “tiền trong dân còn nhiều” chính là ông Tô Lâm. Hồi Tháng Bảy năm 2016, khi mới lên ghế bộ trưởng Bộ Công An được ba tháng, ông Lâm nói trước chính phủ rằng “hàng nghìn tỷ đồng cá độ đổ vào mùa bóng đá năm nay, hàng nghìn tỷ đồng các tổ chức kinh doanh đa cấp huy động được dễ dàng… cho thấy lượng tiền tồn đọng trong dân rất lớn.” Từ đó, ông Lâm đã tổ chức nhiều chiến dịch tấn công các đường dây cá độ để gom tiền về cho Bộ Công An. Nổi bật trong các chiến dịch đó là vụ khởi tố đường dây cờ bạc của Phan Sào Nam và Thiếu Tướng Nguyễn Thanh Hoá (cục trưởng Cục Cảnh Sát công nghệ cao).

Ngày 17 Tháng Năm, ông Lâm một lần nữa nhắc: “Tiền trong dân rất nhiều, chỉ số tài chính, số dân gửi tiết kiệm vào ngân hàng rất lớn mà tỉnh không biết cách dựa vào nguồn vốn đó phát triển kinh tế. Nhân dân không biết kinh doanh, không biết sản xuất, không mở được doanh nghiệp thì tỉnh làm sao thu được thuế mà người dân lại rất vất vả.”

Tổng bí thư CSVN thừa nhận rằng người dân đã mất niềm tin vào hệ thống ngân hàng, nên không dám đi gửi tiền nữa, gây khó khăn cho việc huy động tiền trong dân. Báo trong nước dẫn lời ông Lâm: “Tiền vào ngân hàng càng tăng thêm sức mạnh quốc gia. Làm sao phải huy động được toàn bộ sức của dân, không để tiền nhàn rỗi. Nhưng nếu người dân không tin tổ chức tín dụng nữa sẽ để tiền ở nhà. Trong khi hệ thống tín dụng vay rất khó, doanh nghiệp không vay được để kinh doanh, lại sinh ra tín dụng đen, lãi suất cao.”

Ngay sau chỉ đạo của ông Lâm, hôm 18 Tháng Năm, Thủ Tướng Phạm Minh Chính thông báo Chính Phủ đang giao Bộ Nội Vụ xây dựng kịch bản phát động “phong trào cả nước thi đua làm giàu.”

Việc gấp rút huy động tiền trong dân và phát động thi đua làm giàu lần này cho thấy hai chuyện: thứ nhứt, tiền trong nhà nước đã cạn kiệt; thứ hai, các doanh nghiệp nhà nước cũng không thể làm giàu nữa (vì đụng đâu cũng lỗ, ví dụ: than, điện, xăng…). Với tình hình này thì sắp tới, chắc chắn CSVN sẽ in thêm tiền để “chữa cháy.”

Tiền đền bù quan chức nghỉ việc gấp 7 lần tiền miễn học phí

CSVN đang dùng hàng chục ngàn tỷ đồng trả cho quan chức nghỉ việc sớm, nhưng chỉ chi ra vài ngàn tỷ để miễn học phí cho học sinh

Trong kỳ họp Quốc hội CSVN mới đây, có 436/438 dân biểu đã tán thành thông qua Nghị quyết về điều chỉnh, bổ sung dự toán ngân sách Nhà nước năm 2025. Trong đó có việc điều chỉnh, bổ sung dự toán ngân sách Trung ương năm 2025 để chi trả 44,000 tỷ đồng cho cán bộ công chức viên chức nghỉ việc sau khi tinh gọn bộ máy nhà nước.  Đồng thời, chuyển 6,623 tỷ đồng tiền dự toán chi thường xuyên ngân sách Trung ương năm 2024 chưa phân bổ sang năm 2025 để thực hiện chính sách miễn học phí, và thực hiện các nhiệm vụ phát sinh do sắp xếp tổ chức bộ máy theo phê duyệt của các cấp thẩm quyền.

Tính ra thì số tiền bổ sung để đền bù cho cán bộ nghỉ việc sớm gấp 7 lần số tiền chi ra để miễn học phí cho học sinh.  Vấn đề là không phải tất cả các học sinh đều được miễn học phí, mà từ năm học 2025-2026 mới bắt đầu miễn học phí cho học sinh các trường công lập. Trong khi đó lượng học sinh bị đẩy vào trường tư là rất lớn. Vào trường tư không phải do các em học dở, hay gia đình giàu có, dư dả; mà là vì không đủ trường công lập. Không vào trường công được thì chẳng lẽ nghỉ học, cho nên hàng triệu học sinh buộc phải học trường tư.

Ngoài ra, miễn học phí nhưng tiền sách giáo khoa vẫn tăng, kèm theo đó thì các trường công lập vẫn thu tiền điện, nước, máy móc trang thiết bị nhà trường (mỗi năm mỗi đổi và năm nào cũng đóng thêm), tiền ăn uống cho học sinh bán trú, tiền quỹ lớp, quỹ trường, tiền học phụ đạo, bổ sung kiến thức, ngoại khoá, các môn tăng cường ngoài chương trình… Nói là miễn học phí nhưng thực tế là tăng thêm rất nhiều chi phí khác.

Đối với những mầm non của Tổ quốc thì CSVN đối xử như vậy. Nhưng đền bù cho quan chức mất việc thì lại rất ưu ái. Tại sao họ nghỉ hưu sớm, tại sao bị đào thải, tại sao lại nằm trong nhóm bị tinh gọn? Có phải là vì làm không được việc, không đủ năng lực phục vụ người dân, mua chức mua quyền rồi dư thừa quan chức? Tại sao những kẻ vô dụng (thậm chí ăn hại, hối lộ tham nhũng sách nhiễu) mà lại được đền bù tiền tỷ để nghỉ hưu non?

Nhìn vào mức chênh lệch gấp 7 lần kia thì cũng thấy CSVN đãi ngộ ai, muốn xây dựng đất nước như thế nào. Đừng nghĩ rằng sau tinh gọn thì đất nước sẽ vươn mình đi vào kỷ nguyên mới theo lời ông Tô Lâm, người dân phải chuẩn bị tâm thế “gồng mình” để đóng thuế bù đắp vô các khoản đền bù cho lãnh đạo cộng sản. Nếu có vươn mình, thì chỉ có tiền thuế, tiền điện, tiền xăng, tiền phạt vi phạm giao thông, giá cả hàng hoá là chắc chắn sẽ vươn lên thôi.

Ai cũng biết các chỉ số phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP ở Việt nam hầu như là những báo cáo láo, chạy theo thành tích, đảm bảo chỉ tiêu.

Rõ ràng nền kinh tế Việt Nam hiện đang đứng bên bờ vực thẳm.


 

Mâu thuẫn, bác sĩ ở Đồng Nai đâm đồng nghiệp ngay trong phòng khám

Ba’o Nguoi-Viet

May 28, 2025

ĐỒNG NAI, Việt Nam (NV) – Chỉ vì mâu thuẫn trong sinh hoạt, ông bác sĩ ở thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai, đã dùng dao tấn công đồng nghiệp ngay trong phòng khám bệnh.

Hôm 28 Tháng Năm, Công An Tỉnh Đồng Nai đã bắt giữ nghi can Trần Xuân Hiền, bác sĩ Khoa Nội Soi, Phòng Khám Đa Khoa Ái Nghĩa, ở xã Bàu Trâm, thành phố Long Khánh, thuộc hệ thống Y Khoa Ái Nghĩa Đồng Nai, để điều tra về tội “giết người.”

Nghi can Trần Xuân Hiền cầm dao tấn công đồng nghiệp. (Hình: Người Lao Động)

Báo Người Lao Động dẫn điều tra ban đầu cho biết, nghi can Hiền có “mâu thuẫn trong sinh hoạt” với đồng nghiệp là Bác Sĩ Trần Nguyễn H., Khoa Nhi, cùng làm chung tại phòng khám nên nảy sinh ý định đánh “dằn mặt.”

Chiều 23 Tháng Năm, nghi can Hiền lấy hai con dao để vào balô rồi đi vào phòng làm việc riêng của Bác Sĩ Trần Nguyễn H. tại phòng khám trên.

Lúc này, phòng khám không có khách, chỉ có điều dưỡng Nguyễn Thị Diễm My đang làm việc. Thế là nghi can Hiền đề nghị cô My ra ngoài để “hai bác sĩ nói chuyện với nhau.”

Ngay sau khi cô My ra ngoài, nghi can Hiền chốt cửa. Trong phòng, cả hai nói về mâu thuẫn cũ. Tức giận, nghi can Hiền rút hai con dao trong balô đâm Bác Sĩ Trần Nguyễn H. nhiều nhát vào đầu, vai…

Hoảng sợ, nạn nhân xô cửa để thoát thân nhưng không mở được cửa.

Nghe tiếng la hét, một số nhân viên phòng khám chạy vào can ngăn nghi can Hiền để nạn nhân chạy ra ngoài.

Một trong những phòng khám thuộc hệ thống Y Khoa Ái Nghĩa ở Đồng Nai, nơi hai bác sĩ đang làm việc. (Hình: DoctorTrust)

Bác Sĩ Trần Nguyễn H. được đồng nghiệp đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Đa Khoa Long Khánh và may mắn không nguy hiểm đến tính mạng.

Gây án xong, nghi can Hiền đến công an nộp hung khí và đầu thú.

Nhận xét sự việc trên báo Thanh Niên, độc giả “nongmanhha 160667” bày tỏ: “Loạn thật, hai ngành đứng đầu gọi là Nhân với Đức là giáo dục và y tế, nhưng giáo viên oánh giáo viên, giờ bác sĩ oánh bác sĩ.”

“Bác sĩ cũng giang hồ như ai. Chạy xe ngoài phố lỡ va chạm cũng lao vào đấm đá. Lực lượng thi hành luật mặc thường phục thì ‘tát dân’ thoải mái. Học sinh đánh bạn hội đồng. Dường như ‘văn hóa đánh lộn’ theo kiểu giang hồ lên ngôi [ở Việt Nam] thì phải,” độc giả “khainguyen091757” ngao ngán viết. (Tr.N)


 

SINH HOẠT VIỆT NAM: TANG MA – Xuân Sương

Xuân Sương

 Dĩ nhiên là “phú quý sinh lễ nghĩa”. Nhưng cái lễ nghĩa do “phú” sinh ra đôi khi lấp lấn hết phần “quý”. Mình có câu “Được voi đòi tiên”. Giờ này làm gì còn tiên, thôi thì tiên giả cũng được, thêm một thứ giả chẳng chết ai.  Pháp có câu “Không thể có mọi thứ được”, thực tế và chí lý, nên “thiệt” hơn.

Hồi anh bạn từ Pháp về Hà nội tình cờ dự đám tang thân nhân, thấy bà chị dâu sướt mướt đúng kiểu cha (chồng) chết: chị nằm xuống đất lăn rất nhiều vòng ngoạn mục, bứt tóc bứt tai, mặt mày diễn tả nỗi đau đớn bi ai cùng cực, nước mắt nước mũi chan hoà đất bụi bám khắp người. Kiểu thiên tai đại nạn cũng chưa ai oán cỡ này. Đã đời rồi đùng một cái chị đứng bật lên như lò xo, nói cười rổn rảng bình thường, sai bảo chồng con làm cái nọ cái kia, nhanh gọn chuẩn mực. Anh bạn ngơ ngác không tin vào mắt mình, cứ như đang xem kịch. Kể lại mà anh còn vẻ bứt rứt xấu hổ. Được một anh khác trấn an Ờ, tục lệ ngoài bắc là vậy đó, mới chứng tỏ con cháu tiếc nuối sự ra đi của cha mẹ, khóc không… ướt đấ⁵t thì sẽ bị hàng xóm quở chúng nó chỉ chờ cho cha mẹ biến đi.

Cho nên nghề khóc mướn trước kia e ấp, bây giờ nhiều người lên hàng trung gia đại gia nên nó biến thành doanh nghiệp rồi, người hành nghề trước kia còn thẹn thùng, bây giờ hiên ngang rồi. Con cháu không khóc, ít khóc hay khóc không bài bản (vì nhà đâu có người chết mỗi tuần mà biết khóc cho bài bản), thì đã có người khóc thay. Cầm mi cà rô nằm lăn ra đất mà gào cho làng trên xóm dưới đều nghe. Phải gào cho thống thiết bi ai, mỗi gia đình mỗi cảnh cho nên thê lương mà phải hạp với tang gia, cha chết đừng réo ối mẹ ôi, con chết đừng rú ối chú thím ôi. Bởi vậy đợi gì “nghề chơi mới lắm công phu”. Mới sinh ra không ai bày cũng biết khóc, nhưng khi hành nghề thì phải tập tành điệu nghệ. Nhiêu khê lắm chớ đùa à. Khóc càng thảm thiết càng như thật thì càng được tiền.

Vì mình có tục “bán bà con xa mua xóm giềng gần”, nên nhà bên cạnh có người ra đi thì láng giềng để trở 3 ngày, chồng cô vợ cậu nửa ngày cũng không (mấy ông dượng bà mợ vô tích sự ấy mà). Có cái đĩa bày ra đấy cứ đặt vào mươi nghìn cho tên mình được xướng lên tỏ lòng tiếc thương ông/bà nhà bên cạnh mặc dù có thể mới gây dữ dội hay ấu đả hôm qua (là cho người bất đắc kỳ tử, chớ bịnh nằm đó thì ấu đả với ai). Đang nằm trong bụng mẹ mà muốn chứng tỏ lòng nuối tiếc ông/bà không kiên nhẫn chờ ngày mình chào đời thì mẹ cứ bỏ tiền vào đĩa là đứa bé trong bụng dù mới tượng hình vài ba tháng cũng rành cách thắm thiết phơi bày gan ruột. (May người viết bài này chưa từng dự đám tang ngoài bắc, chớ nhìn thấy thiên hạ diễn xuất kiểu này mà nín không nổi phải bật cười thì là đại hoạ).

Thôi thì trong lúc tang gia bối rối nước mắt cũng đâm bối rối chẳng biết chạy đàng nào, người chuyên nghiệp bình tĩnh hơn sẽ điều khiển con đường nước mắt cho hạp lẽ trời. Cái nghề bị coi là giả dối này cũng như nghề đóng kịch thôi, khác cái không được cười trên sân khấu. Nghe bên Đài Loan có cô Liu Jun Lin nào đó (xin mở cái ngoặc nhỏ: một số báo đã Việt hoá tên cô là Lưu Quân Linh, nghe còn hiểu là Tàu. Chớ nhiều tên như Trần Thanh…, Lê Văn…, Nguyễn Đức… gì gì, y chang tên Việt, làm sao  phân biệt Ta-Tàu? Vì vậy dám xin quý báo đừng Việt hoá tên ai cả, cho dễ hiểu.  Mạnh Đức Tư Cưu do Tàu phiên âm, rồi từ đó mình phiên âm lần nữa, bố chẳng bảo thì ai biết là Montesquieu cho nổi. Đóng ngoặc), là đời thứ ba hành nghề này, nói cô xúc cảm thật, khóc thật, cho nên rút được nước mắt của tang gia đôi khi điếng người không khóc nổi. Mà nước mắt thường được đựng trong bình thông nhau và đã chảy ra thì dễ lây lan. Cô nổi tiếng nhờ thực thi môn khóc mướn này rất điệu nghệ và sáng tạo, cho là nghề cao quý, bầu đoàn vài chục mạng nhảy cả aerobic trước khi nằm soãi dưới đất nhào tới quan tài trong tiếng nhạc “buồn như đưa đám” do anh cô thực hiện. Đồng ý là vai đào thương có vẻ dễ đóng hơn đào hài, nhưng nước mắt ở đâu mà đổ ra như suối mỗi ngày với vẻ mặt chân thành đứt ruột thì cũng phải cao cường. Bởi vậy nghe nói khách hàng rất hài lòng và túi cô rất ấm.  Có thể dần dần sẽ giống phong tục Phi châu chăng, tang ma nhảy nhót tưng bừng giúp người ra đi cũng vững dạ.

Chuyện đó là ngoài bắc. Trong nam thì không thấy nhưng tang ma bây giờ có vẻ “vui” hơn. Cũng còn một ít nhà đòn chuyên bộ kèn bát âm ò í e thảm não, chớ phần đông là tân nhạc. Nói chung thì bài Phật Giáo Việt Nam coi như ban nhạc nào cũng thuộc nằm lòng. Nghe nói bữa nhà kia có đạo Chúa, ban nhạc quen tay vẫn cứ ca tụng Phật Giáo Việt Nam. Đời ai mà chẳng có lúc nhầm, với lại chuyện giận dỗi trách móc chỉ dành cho người còn thở. Và bài Lòng Mẹ thì cũng nằm lòng, bởi có ai từ đất chui lên đâu, nên nếu mình đi trước thì chứng tỏ mình tri ơn và xin lỗi mẹ, nếu mẹ nằm trong đó thì… càng tuyệt chớ sao. Một ít đám dạo bài Riêng Một Góc Trời của Ngô Thụy Miên, riêng Trịnh Công Sơn chiếm giải là nhạc sĩ của tang ma, Một Cõi Đi Về, Cho Một Người Vừa Nằm Xuống… nhất định văng vẳng, bất kể người bên trong quan tài là nam phụ lão ấu vẫn cứ  “anh nằm xuống” cái đã, ít nhất cũng đúng cái tư thế, như Faulner  As I Lay Dying. Tức là tự cổ chí kim từ đông sang tây chỉ một mình ông Thanh Tâm Tài Nhân giở chứng dựng đứng Từ Hải lên, chớ chưa bao giờ nghe ai đã, hay đang dậm chân bước vào quan tài mà ngồi được cả.

Nghi lễ thì nhà càng phú càng “hoành tráng”. Mười tám “nghệ nhân” bận áo dài gấm đỏ, đội mũ cao vài gang tay kiểu mũ quan Tàu. Mở đầu ông trưởng nhóm quỳ lạy bàn thờ với bó nhang nghi ngút, xong lùi ra chia nhang cho từng người và cứ bốn người một quỳ lạy tiếp, cuối cùng là ông phó nhóm (thì cứ tạm gọi vậy) vào lạy cuối cùng. Cũng như cuộc thi Olympic có khai mạc và bế mạc vậy mà. Tất cả đều nhịp nhàng, nghề nghiệp. Rồi tám người khiêng quan tài. Bởi khi liệm thì hai chân hướng ra cửa sẵn sàng bước đi nên họ đảo lại một vòng cho mắt người quá cố hướng vào nhà, phần chân quan tài gục lên xuống ba lần ý là chào vĩnh biệt căn nhà thân yêu lần cuối trước khi lên đường về nơi cư trú mới. Đi một chút còn chào huống chi đi vĩnh viễn.

Hồi xưa, sáu thanh niên con cháu hay hàng xóm giúp ghé vai vào, nặng kể gì vì không quen, mặt mày buồn bã tự nhiên, cảm động. Bây giờ các anh nhà đòn “làm việc” thôi, có gì mà họ phải buồn nếu không ác miệng nói là vai càng bị đè thì túi càng phồng. Hồi xưa người ta gõ cái phách, theo mấy tiếng gõ thì bước đi chầm chậm như mấy cô người mẫu, mấy tiếng gõ thì dừng lại, mấy tiếng gõ thì đưa áo quan xuống huyệt, khẽ khàng tối đa để ly nước đặt trên quan tài không chao đổ. Có lần bên Tây, gia đình kia cũng đặt ly nước trên quan tài, đưa trước cho bốn anh lực lưỡng lo vụ khiêng mỗi người một “bì thư” kiểu bên mình đi hội họp, nói đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn, dặn đừng làm chao ly nước. Mà Tây cóc hiểu chuyện đó, mới rục rịch khiêng là ly nước nhào xuống, đổ như nước mắt.  Bây giờ bên nhà cũng  không còn phách hay ly nước nữa, cứ đặt quan tài xuống, gập ghềnh hả, thì nhấc lên đặt xuống lại. Sai đâu sửa đấy mà.

Xe tang thì đỏ hay đen dát vàng. Không rồng rắn suốt buổi trên đường nữa, đám tang ra ngoại ô có xe ca đưa đi, muốn rượt sát xe tang tài xế tự cho mình cái quyền vượt đèn, bấm còi la người khác dù người đó đi đúng. Inh ỏi nhức óc cho người chết thị oai lần cuối.  Có lần ở Huế tình cờ thấy xe gì gì bên trên nhiều cái dù hay lọng màu hồng tươi chạy ngang tiệm ăn, hỏi con bé dọn bàn “Đám cưới hả chaú”, “Dạ không, đám tang”. Ngạc nhiên quá.  

Đặc biệt ở Việt Nam không có cạc chia buồn, vì nếu có thể thì phải đến tận nơi phúng viếng, ở xa thì điện thoại hay gửi vòng hoa hay gì gì chớ không có lệ gửi cạc. Nhưng cạc tin vui thì đủ kiểu, có cả cạc mừng sinh nhật chó mèo. Bây giờ đại gia thì nhiều, người nào tay cầm củ riềng dẫn chó tới bờ  vực thẳm nước sôi thì khác, mà chó cột nơ bận áo quần đi với bà chủ ra bờ biển hay hồ bơi thì khác, nên cũng phải mừng nó tăng tuổi thọ.

Và ngay từ ngày đầu tang gia bắt đầu bối rối cho đến khi chiếc xe cuối cùng rời nghĩa trang, bao nhiêu là máy hình máy quay phim hăng say hoạt náo ghi lại danh tính trên các vòng hoa phúng điếu, các cảnh trong nhà ngoài ngõ, các gương mặt đã đến chào lần cuối cùng.  Xin cho một người vừa nằm xuống thấy bóng thiên đường cuối trời thênh thang… Con nít bên Tây lấy làm khó chịu về những kỷ niệm này, thường hỏi tại sao những hình ảnh buồn bã đó lại được ghi và giữ lại. Người mình ưa kỷ niệm, càng buồn càng quyến luyến, cho nên một chuyện cười kể lần thứ ba thì dù chọc léc cũng chẳng nhe răng, nhưng chuyện buồn thì cả trăm lần mắt vẫn đỏ hoe được.

Đức Phật đã hoài công dạy ngày hôm qua qua rồi,  ngày mai thì chưa đến, hãy chỉ biết và sống hôm nay thôi: “bây giờ và ở đây”. Nhưng dân Việt Nam lại ưa ngoáy về quá khứ và nâng niu kỷ niệm buồn mà vẫn sống khoẻ, còn được thống kê cho là lạc quan nhất thế giới, đúng là một… dân tộc anh hùng!

Xuân Sương

Paris-NT, mai 2013

“Trong trần thế bon chen lắm nỗi/ Lúc người về thể xác cũng về theo…”

From: Tu-Phung


 

SÀI GÒN KHÔNG CÒN NƠI TRÚ MƯA – Bài của Đỗ Duy Ngọc.

NHỮNG BÀI POST HAY. – Bút Chì Gilbert 

    Bài của Đỗ Duy Ngọc.

Sài gòn đang vào mùa mưa. Mưa Sài Gòn bất chợt và đỏng đảnh như cô gái mới lớn. Chẳng có lịch trình, không một báo trước, muốn là làm cái ào, rồi tạnh, nắng lại lên. Cho nên nhiều khi khách đi đường thường quên mang theo áo. Mà nhiều khi có áo cũng chẳng muốn ngừng lại để mặc. Chỉ cần trú đâu đó một lát, tạnh mưa lại tiếp tục đi.

Sài Gòn có những hàng hiên đụt mưa dễ thương. Mưa rớt ào xuống, chạy tấp vào. Nhìn mưa, nghe gió tạt, đốt điếu thuốc, nhìn người xe lướt thướt giữa giòng nước cũng là điều thú vị. Đứng được chỗ mái hiên có gốc cây già, nghe mưa tí tách rơi trên lá, buổi chiều đẹp hơn một chút, đời lãng mạn hơn một tí cho quên buồn của thực tại.

Mưa hơi lâu một tí nữa, nhìn người bên cạnh, nói bâng quơ vài chuyện là thành một câu chuyện về đủ thứ trên đời. Khi người ta còn trẻ, có thể người ta cùng lúc trú mưa với một cô gái lạ, cười làm quen, vài ba câu qua lại, có khi lại thành một chuyện tình. Những cặp tình nhân đang yêu, vội vã chống xe vào chỗ trú, ríu rít nói cười, những bàn tay che mưa cho nhau, những chiếc  khăn lau tóc cho nhau, tất cả sẽ thành kỷ niệm cho một cuộc tình, sau này lại kể cho con cháu nghe chiều mưa ông bà suýt hôn nhau dưới hàng hiên trong buổi chiều mưa Sài Gòn vì nước mưa đọng đẹp quá trên mái tóc của người yêu, vì giọt nước bám trên má người yêu làm em đẹp bội phần. Có khi gió hơi lạnh, hai người trẻ nắm tay truyền hơi ấm qua bàn tay, hay cái quàng vai làm cho tình thêm đậm.

Tuổi chớm già, gặp người cùng thế hệ, nhắc chuyện cũ, tiếc nhớ một thời. Những câu chuyện qua lại làm cơn mưa ngắn lại, đôi khi nối kết thành một tình thân. Cũng có khi, chủ nhà mời vào trong, rót ly trà mời, bàn chuyện thế sự và cơn mưa níu chân người lại, hai kẻ xa lạ hàn huyên như những người bạn cũ. Chỗ trú mưa thành một nối kết. Rồi toả đi khi cơn mưa tạnh, nhưng vẫn sót lại những tình cờ của một cái duyên.

Cái hàng hiên ấy còn là chỗ trú của các chị, các bà gánh hàng rong. Vài tấm nhựa che vội những món hàng linh tinh nhưng nuôi sống cả một gia đình, đôi khi vào trốn mưa, gặp lúc đông người lại bán được vài món ăn chơi chờ mưa tạnh. Những lúc đấy họ lo vì sợ mưa ướt hàng hoá nhưng cũng vui vì bán được thêm mấy món hàng. Đời bán hàng rong sợ nhất là gặp những cơn mưa giữa đường, những chỗ trú mưa là cứu tinh của họ.

Nhưng rồi, những hàng hiên trú mưa của Sài Gòn bỗng một ngày bị đánh mất. Những căn nhà trơ trụi phô mặt ra đường nhìn trống trải và vô duyên như chân dung không tóc. Người Sài Gòn đi đường bắt chợt gặp mưa, loay hoay không chỗ trú, đành làm kẻ đi dưới mưa hay vội vã tấp vào lề mặc áo. Những người bán hàng rong loạng quạng nhìn quanh, rồi ngước mắt buồn đau nhìn trời, còn chỗ nào để nấp những cơn mưa ào ạt, những tấm nilon sao bảo vệ được mấy món hàng.

Bỗng nhiên bị cướp mất chỗ trú dưới mưa, một chút hụt hẫng, một chút tiếc nuối. Làm đẹp cho thành phố, phố vẫn chưa đẹp hơn mà phải ngậm ngùi vì Sài Gòn đã không còn chỗ trú mưa.

Saigon. Chiều 15.5.2017.

Trời đang mưa

DODUYNGOC


 

Mẹ chết, không tiền mai táng, con trai quấn thi thể bỏ ra đường

Ba’o Nguoi-Viet

May 26, 2025

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Hôm 26 Tháng Năm, công an ở Sài Gòn đang điều tra nguyên nhân vụ thi thể một phụ nữ ở phường 2, quận Bình Thạnh, bị con trai quấn trong chăn, mền vứt bỏ ra đường do nghèo khó không có tiền làm đám tang

Theo báo VietNamNet, sáng 25 Tháng Năm, người dân tại hẻm một con hẻm ở đường Bạch Đằng, phường 2, quận Bình Thạnh, nhìn thấy chăn, mền vứt chắn giữa đường nên đến dọn dẹp thì tá hỏa khi phát hiện bên trong là thi thể một phụ nữ.

Hiện trường nơi phát hiện thi thể bà Nguyễn Thị Chung T.. (Hình: B.T/VietNamNet)

Nhận tin báo, Công An Quận Bình Thạnh đến phong tỏa khám nghiệm hiện trường, giảo nghiệm tử thi, lấy lời khai của các nhân chứng.

Xem lại camera an ninh, giới hữu trách ghi nhận khoảng 2 giờ 30 phút rạng sáng cùng ngày, một ông ôm đống chăn, mền đến vứt tại con hẻm trên.

Qua kiểm tra, công an xác định thi thể là bà Nguyễn Thị Chung T., 63 tuổi, người địa phương, còn thanh niên đem bỏ thi thể là ông Nguyễn Ngọc C., 37 tuổi, con trai của bà T., hiện làm nhân viên bảo vệ cho một bệnh viện gần nhà.

Camera ghi lại cảnh ông Nguyễn Ngọc C. mang thi thể của mẹ đến con hẻm ở phường 2, quận Bình Thạnh, Sài Gòn. (Hình: VietNamNet)

Tại cơ quan điều tra ông C. khai báo, tối 24 Tháng Năm, khi vừa đi làm về thì phát hiện mẹ qua đời tại nhà. Do không có tiền lo hậu sự cho mẹ và không biết gọi ai để hỗ trợ nên đành gói ghém thi thể của mẹ trong chăn, mền rồi ôm ra vứt ở đầu hẻm.

Đến sáng, ông C. vẫn đi làm việc như bình thường cho đến khi công an mời làm việc.

Theo người nhà và hàng xóm cho hay, bà T. bị bệnh nằm một chỗ tại nhà từ lâu. Còn ông C. “có dấu hiệu bất thường.” Bước đầu, cơ quan hữu trách nghi bà T. “chết do bệnh lý.” (Tr.N) [kn]


 

Khí chất Giáo sư Đoàn Viết Hoạt trước tòa cộng sản

Tue Doan

Kính chuyển: Đối chất giữa tòa và người tù

Gs Đoàn Viết Hoạt (Ảnh tư liệu gia đình)

Phiên tòa kết án Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt diễn ra vào ngày 29 Tháng Ba 1993, cùng với bảy người khác là Phạm Đức Khâm, Nguyễn Văn Thuận, Lê Đức Vượng, Hoàng Cao Nhã, Nguyễn Xuân Đồng, Nguyễn Thiệu Hùng, Phạm Thái Thủy, với tội danh “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân,” theo điều 73 của Bộ luật Hình sự.

Vụ án có ngày xử không công bố trước trên báo chí, nhưng buổi sáng, trước sân tòa án ở Sài Gòn, đã thấy có vài chục người đứng đợi xe tù đến và xin vào dự tòa. Nhiều gương mặt quen thuộc của giới văn nghệ sĩ trước 1975 cũng có mặt ở đây như nhà văn Hoàng Hải Thủy, Vũ Khắc Mai Anh, Thanh Thương Hoàng, Hồ Nam, ca sĩ Tâm Vấn (vợ bác sĩ Nguyễn Đan Quế)… Dĩ nhiên là những người này không được vào dự tòa, mặc dù theo thông báo đây là phiên tòa xử công khai. Hầu hết đều vẫn đứng trước sân tòa và kiên nhẫn đợi buổi xử kết thúc để chờ kết quả, bao vây chung quanh là vô số công an thường phục và sắc phục.

Chủ tọa phiên tòa là Lê Thúc Anh, một nhân vật nổi tiếng sắt máu, bất cần công lý. Công tố viên là Trương Hoàng Minh, đại tá trưởng phòng điều tra an ninh của Viện Kiểm Sát. Thẩm phán là ông Nguyễn Lâm.

Theo cáo trạng, Đoàn Viết Hoạt và đồng phạm bị khởi tố từ Tháng Tư năm 1990 và bị bắt vào Tháng Mười Một năm 1990, bị truy tố theo điều 73 Bộ luật Hình sự vì hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Chứng cứ quan trọng nhất của “tội trạng” đó là việc những người này đã cho lưu hành nội bộ 4 số báo mang tên Diễn Đàn Tự Do từ Tháng Bảy 1990 đến Tháng Mười 1990.

Trước tòa, công tố viên nói ông Đoàn Viết Hoạt âm mưu lật đổ chính quyền qua việc lập nhóm hoạt động tên Diễn Đàn Tự Do, cùng các tài liệu. Từ lời kết tội này, sự hài hước về tư duy của chế độ được giáo sư Đoàn Viết Hoạt cũng như các nhân vật bị kết án lật ra, chỉ rõ.

Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt quả quyết không chủ trương lật đổ ai, và đòi công tố viên phải chỉ ra cho được điểm nào có thể gọi là “lật đổ.” Ông nói việc cáo buộc lập “nhóm Diễn Đàn Tự Do” là ngụy chứng, mọi thứ chỉ xoay quanh các tập tài liệu Diễn Đàn Tự Do, thể hiện ý kiến chính trị xã hội mà thôi. Giáo sư cũng bác bỏ kết luận của cáo trạng rằng đây không phải là tờ báo, nó chỉ là một tài liệu đánh máy có 4 bản. “Không phát hành rộng rãi, không bán cho ai, thì sao có thể gọi là tờ báo?” Giáo sư Hoạt hỏi ngược công tố viên.

Tòa nói Giáo Sư Hoạt muốn sửa hiến pháp, tức muốn lật đổ chế độ. Ông Hoạt phản đối ngay: “Tòa lên án tôi đòi sửa hiến pháp, nhưng từ trước đến nay, đảng Cộng Sản Việt Nam đã từng sửa hiến pháp tới 3 lần, như vậy đảng Cộng Sản Việt Nam đã lật đổ chính quyền của mình đến 3 lần hay sao?” Cử tọa ở dưới bật cười ồ, làm chủ tọa Lê Thúc Anh cau mày, khó chịu.

Ông Hoạt bị giải tới tòa (Hình do thân hữu ẩn danh trong nuớc, chụp gửi cho bà Thức chuyển ra nước ngoài)

Với lời kết tội là chống chế độ, giáo sư đứng trước tòa chỉ xác nhận duy nhất là ông đã lên tiếng đòi dân chủ và ngay bây giờ vẫn giữ nguyên lập trường đó. Ông nói: “Tôi không chống ai cả, tôi là một người dân chủ và chấp nhận mọi người. Phải nói đảng cộng sản chống tôi thì đúng hơn, vì họ chống lại dân chủ.”

Lần đầu tiên sau 1975, tòa án của Cộng Sản phải đối diện với một trí thức đấu tranh dân chủ, và mọi thứ sắp đặt để kết án tưởng chừng như dễ dàng, thế nhưng việc ông Đoàn Viết Hoạt luôn từ tốn trình bày trước tòa, rõ ràng và khôn khoan nhượng, khiến những ngôn từ dao búa và đen tối được chuẩn bị trước trở nên hết sức hài hước và ấu trĩ.

Giáo Sư Hoạt nói việc làm của ông chỉ là việc làm của người bất đồng chánh kiến, việc làm của người dân bình thường đòi quyền yêu nước trước đảng CSVN. “Tại sao đảng CSVN lại sợ dân có quyền tự do bày tỏ ý kiến của mình, được tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do bầu cử và ứng cử. Tại sao đảng cộng sản lại không chấp nhận một cuộc bầu cử tự do không gian lận, ai được lòng dân thì dân bầu. Đảng CSVN nếu quả là được lòng dân thì dân bầu, tại sao đảng lại sợ?” Giáo Sư Hoạt đặt ta một loạt câu hỏi mà không ai phía tòa án có thể phản ứng.  Đến đây, ông Hoạt bị chủ tọa Lê Thúc Anh ngắt lời không cho nói tiếp. Ông Hoạt trở về chỗ, nhưng những người chung quanh thấy rõ ông mỉm cười.

Ông Nguyễn Văn Thuận, tức biệt danh Châu Sơn, được gọi để trả lời trước tòa sau ông Đoàn Viết Hoạt. Ông Thuận khai rằng ông tâm đắc với đường lối ôn hòa của Diễn Đàn Tự Do và ông cũng chẳng mưu cầu lật đổ ai, mà nhận ra rằng chính người Cộng Sản đang tự lật đổ chế độ của mình. Có thể là do quá kìm nén ở phần bị Giáo Sư Hoạt chất vấn, nên ông Lê Thúc Anh lúc này đã không còn giữ được bình tĩnh, mà đã gầm lên, quát “Láo. Láo. Không được nói bậy. Im ngay!”

Trong 8 bị can ra đứng trước tòa, ai nấy đều có lý lẽ và phong thái hết sức điềm đạm. Duy nhất là bị can Hoàng Cao Nhã thì khai rằng có nhận 2 số Diễn Đàn Tự Do, nhưng đọc xong rồi “xé vì thấy nó quá dở.” Ông Hoàng Cao Nhã thành khẩn khai báo, và tỏ ra ăn năn, nên là người duy nhất được ông chủ tọa Lê Thúc Anh tỏ ra chiếu cố, cho có 8 tháng 20 ngày tù.

Vào phần cuối phiên tòa, khi các bị cáo nói lời cuối cùng trước khi tòa nghị án, ông Đoàn Viết Hoạt nói rằng ông xuất bản tập Diễn Đàn Tự Do là muốn giúp cho Việt Nam đổi mới về chính trị bởi vì theo mục tiêu của đảng CSVN trù tính thì đến năm 2000 thu nhập quốc dân tỉnh theo đầu người là $400, tính như vậy thì tới thời điểm đó, dù mục tiêu của đảng Cộng Sản có đạt được đi nữa, Việt Nam vẫn là một trong những nước nghèo nhất thế giới.

Bài nói ngắn của Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt như một diễn ngôn trước công chúng đang dõi theo, hy vọng cho một tương lai dân chủ, tự do. Chính quyền và tòa án có mặt dù không muốn cũng bị rúng động trước sự ôn hòa và đầy suy tư của một công dân không mang thù oán gì với chế độ, dù đã bị bắt đi tù từ năm 1976 đến 1988 mà không có một lý do nào.

Tóm tắt, Giáo Sư Hoạt nói trước một viễn tượng đất nước cần một giải đáp khác giải đáp cộng sản. Ông nghĩ rằng phải làm sao động viên được mọi người dân Việt Nam trong một cố gắng chung để vươn lên. Muốn như vậy không có giải đáp nào khác hơn là một thể chế dân chủ đa nguyên tôn trọng chỗ đứng, bổn phận và quyền lợi ngang nhau của mọi người. Ông Hoạt nói rằng một chế độ độc tài sẽ trói buộc Việt Nam trong lạc hậu. Chỉ có dân chủ mới bảo đảm được tiến bộ liên tục và mau chóng, điều đó mọi người Việt Nam cần phải hiểu. Và chính vì dân chủ cần thiết nên ông đã sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả khi nói lên nguyện vọng dân chủ.

Ông Hoạt cũng nói rằng trong suốt dòng lịch sử, nhiều anh hùng liệt sĩ đã hy sinh giữ nước và giành độc lập, nhưng vấn đề của đất nước hiện nay là dân chủ hóa và ông không tiếc đã phải chịu mọi gian lao để đất nước có dân chủ.

Tới đây, ông Đoàn Viết Hoạt bị chủ tọa phiên tòa Lê Thúc Anh ngắt lời và nhắc lại luận điểm Việt Nam mà đổi mới về chính trị như Liên Xô cũ là sẽ tan rã. Việt Nam cần ổn định nên cần duy trì đường lối bảo thủ xã hội chủ nghĩa. Ông Hoạt hỏi lại ông Lê Thúc Anh có sẵn sàng thảo luận về vấn đề đổi mới không, nhưng ông Lê Thúc Anh không cho ông Hoạt nói nữa.

Đến 18 giờ chiều, tòa đình nghị án và tuyên bố sẽ tuyên án vào lúc 9 giờ 30 ngày 30-3-1993. Sáng 30-3, các bị can được đưa đến khám Chí Hòa để nghe tuyên án. Giáo sư Đoàn Viết Hoạt bị tuyên 20 năm tù về một tội danh, mà ngay trước tòa, cả hệ thống đã không chứng minh được là ông có tội. Những hình ảnh cuối cùng của phiên tòa đó, là ông Hoạt bận bộ đồ xám cùng ông Phạm Đức Khâm và Nguyễn Văn Thuận bước ra, nở nụ cười với mọi người. Ông Hoạt nhìn thấy vợ là bà Trần Thị Thức đứng gần xe áp giải, ông cười, giơ tay lên chào, nhưng bị tay công an đi cạnh giật xuống và xô lên xe.

Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, đứng giữa, và những tù nhân chính trị trong trại Z-30. Từ trái: Đoàn Thanh Liêm, Lý Trường Trân, Vương Đức Lệ, Đoàn Viết Hoạt, Phạm Đức Khâm, Ngô Văn Thuận, Nguyễn Trì (Ảnh tài liệu của Indochina Journal)

Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt, nhà hoạt động dân chủ nổi tiếng và là cựu tù nhân lương tâm ở Việt Nam, qua đời ngày 14-5-2025, tại quận Cam, California, Hoa Kỳ, hưởng thọ 83 tuổi.

Giáo sư Đoàn Viết Hoạt sinh năm 1942 tại làng Mai Lĩnh, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay là thôn Mai Lĩnh, phường Đồng Mai, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) là một nhà báo người Việt, học hàm giáo sư, nguyên phụ tá viện trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh của Việt Nam Cộng hòa. Ông được trao Giải Tự Do Báo Chí Quốc Tế năm 1993, Giải Nhân Quyền Robert F. Kennedy năm 1995 và Giải Bút Vàng Tự Do năm 1998 vì những thành tích phấn đấu, đóng góp trong việc bênh vực quyền tự do báo chí và các quyền tự do dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Ông Đoàn Viết Hoạt còn là thành viên danh dự của PEN Club Mỹ, Canada, áo, Thụy Sĩ, Pháp và Ba Lan.

Tháng Bảy 1976, ông bị chế độ CSVN đưa đi tù cải tạo 12 năm. Tháng Mười Một 1990, ông bị bắt do viết và tập hợp các tiểu luận chính trị tên Diễn Đàn Tự Do, bị kêu án 20 năm tù. Năm 1998, ông được ra tù và đi tỵ nạn ở Hoa Kỳ, từ sự can thiệp của nhiều tổ chức quốc tế, trong đó PEN Club Poland.

Nam Việt – 20 tháng 5, 2025


 

LY HƯƠNG, SỰ LỰA CHỌN NGHIỆT NGÃ

Xuyên Sơn

Cuối cùng cũng đến ngày em gái út cùng chồng và con sang Mỹ định cư. Thế là lại thêm một gia đình người thân nữa của tôi rời bỏ đất nước này.

43 tuổi, em đang có việc làm ổn định ở một doanh nghiệp với mức thu nhập vài chục triệu đồng mỗi tháng.

Hai vợ chồng có biệt thự, xe hơi và chồng còn sở hữu một cơ ngơi làm ăn riêng, tuy nhỏ nhưng cũng đáng để cho nhiều người phải mơ ước.

Vậy mà điều gì đã khiến các em bỏ hết mọi thứ và dắt díu ba đứa con nhỏ dại từ giã quê hương để bắt đầu làm lại cuộc sống nơi xứ người cách đây nửa vòng trái đất?

Câu trả lời nghe vẫn quen thuộc như nhiều lần tôi đã từng nghe:

“Vì tương lai con cái!”.

Vâng! Đó là lý do mà rất nhiều người Việt trong dòng chảy nhập cư nước ngoài những năm gần đây thường nêu lên để giải thích cho việc ra đi của mình.

Thật chua chát khi hơn 40 năm sau ngày 30-4-1975, ký ức “thuyền nhân” lại trở về dưới một dạng thức khác.

Lần này, các “thuyền nhân” ra đi không phải trong tâm thế trốn chạy hoảng loạn, vội vã mà là được cân nhắc, chuẩn bị cẩn thận.

Không phải trên những chiếc thuyền lênh đênh đầy bất trắc mà là trên những chuyến bay tiện nghi, an toàn.

Không phải lén lút, vô định mà là công khai và được chuẩn bị sẵn mọi thứ cho đến khi cầm visa trong tay mới lên đường.

Các công ty tư vấn nhập cư dạo này nhan nhản khắp nơi với những chương trình mời gọi đi định cư châu Âu, Mỹ, Canada, Úc…

Giờ gặp nhau, người ta hỏi thăm đã có PR (permanent resident) của nước nọ nước kia chưa, như một điều bình thường!

Người có tài tìm đường đi theo dạng skill worker hoặc doanh nhân khởi nghiệp.

Người có tiền thì bỏ tiền ra mua quốc tịch hoặc “thẻ xanh” cho nhanh.

Người ít cả tiền và tài thì hy vọng kiếm được một suất đi lao động nước ngoài rồi tìm đường ở lại bằng đủ cách.

Lớp trẻ đi du học hầu hết cũng không muốn trở về.

Năm 2014, báo chí thông tin có 12/13 quán quân của cuộc thi “Đường lên đỉnh Olympia”

không trở về nước sau khi kết thúc thời gian du học ở Úc với học bổng toàn phần cho người chiến thắng chung cuộc.

Con số đó đến nay chắc đã tăng thêm sau.

Tháng 7-2017, Hiệp hội Quốc gia chuyên viên địa ốc Hoa Kỳ công bố báo cáo hằng năm cho thấy Việt Nam đứng trong top 10 nước hàng đầu mua nhà tại Mỹ.

Trả lời BBC, tổ chức này cho biết chỉ trong thời gian từ tháng 4-2016 đến tháng 3-2017, công dân Việt Nam đã mua bất động sản tại Mỹ trị giá lên tới 3,06 tỷ USD.

Đó là mới tính số tiền chuyển đi để mua nhà tại Mỹ chứ chưa tính ở các nước khác và tất nhiên, đó cũng chỉ là phần nổi của tảng băng!

Đất nước như một bao gạo bị thủng để trí lực, tài lực cứ chảy dần ra nước ngoài cho đến khi rỗng ruột.

Quê hương chôn rau cắt rốn ở đây mà dường như chỉ là chốn dừng chân tạm bợ với rất nhiều người Việt bây giờ…

Làm sao có thể trách em tôi cũng như hàng triệu người dân khác đã và đang tính bỏ nước ra đi?

Bởi cái lý do “vì tương lai con cái” nghe nhẹ bâng vậy mà trĩu nặng quá chừng!

Sự lo toan và hy sinh vô bờ cho con cái vốn là nét văn hoá đặc trưng của người Việt.

Những bậc cha mẹ thuộc nhiều thế hệ đã trải qua các cuộc chiến tranh trên đất nước nhỏ bé này, càng khổ cực nhiều ở đời mình lại càng thấm thía sâu sắc ước mơ về một cuộc sống bình yên và hạnh phúc cho đời con cháu.

Nhưng nỗi lo bây giờ không còn là chuyện cơm ăn áo mặc hàng ngày cho phần “con”, như trong thời kỳ phải thắt lưng buộc bụng vì chiến tranh và sự mông muội.

Nỗi lo bây giờ là về chất lượng cuộc sống cho nhu cầu của phần “người”.

Có thể nào sống an yên khi môi trường bị phá hoại tàn khốc, tài nguyên đất nước bị khai thác tới cạn kiệt, thực phẩm bẩn tràn lan khắp nơi và tham nhũng thì như ổ dịch bệnh hoành hành từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài?

Có thể nào sống hạnh phúc khi nền giáo dục và y tế ngày càng xuống cấp,

các phúc lợi xã hội không chỉ kém chất lượng mà còn tiếp tục giảm sút,

các giá trị văn hoá – đạo đức bị tha hoá và đảo lộn?…

Bây giờ, bước ra đường là thấy lo:

Lo nạn cướp giật, móc túi;

lo tai nạn giao thông;

lo ăn uống bị ngộ độc thực phẩm;

lo hít khói bụi bị ung thư;

lo bọn trẻ bị dụ dỗ sa vào ma túy hoặc bị xâm hại, bắt cóc…

Cứ thế mà ngút ngàn triền miên lo.

Thà chỉ phải lo cơm áo như ngày xưa còn dễ hơn bội phần!

Xã hội càng bất ổn, lòng người càng bất an.

Làm sao có thể yên tâm để con cái lớn lên trong một môi trường sống như vậy?

Chưa kể, những lời đồn đoán về một tương lai xám xịt của đất nước gắn với những thỏa thuận của Việt Nam và Trung Quốc trong Hội nghị Thành Đô năm 1990 cũng là một trong những nguyên nhân gây hoang mang khiến cho nhiều người phải tính đường tháo chạy trước.

28 năm qua, Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam vẫn giữ bí mật, nhất quyết không công khai những nội dung đã ký kết với Đảng cộng sản và Nhà nước Trung Quốc trong Hội nghị Thành Đô.

Vì thế, những đồn đãi càng ngày càng lan rộng, bất chấp mọi nỗ lực trấn an dân chúng của chính quyền.

Và dù đã bước sang thế kỷ 21, thế nhưng nhà nước Việt Nam vẫn chủ trương quản lý, định hướng về tư tưởng và bưng bít thông tin không khác gì ở trong thế kỷ trước.

Hôm biết tin Quốc hội đã thông qua Luật An ninh mạng, một người quen của tôi là tiến sĩ trong lĩnh vực tài chính từng hăm hở từ Mỹ trở về nước cách đây 10 năm ngậm ngùi chia sẻ:

“Em đã hoàn tất thủ tục cho cả gia đình trở lại Mỹ cách đây mấy tháng,

Znhưng vẫn còn cố nấn ná…Giờ thì phải ra đi thôi chị ạ, không thể để bọn trẻ lớn lên trong bầu không khí ngày càng ngột ngạt thế này…”.

Bao nhiêu người trẻ có tri thức và nặng tình với quê hương đã “vội vã trở về, vội vã ra đi”

như thế?

***

Hồi đi thăm Israel, tôi thường đứng lặng thật lâu trước hình ảnh những con tàu hồi hương hiện diện khắp mọi nơi, như một niềm kiêu hãnh trong lịch sử lập quốc của đất nước này.

Đó là những chuyến tàu từ châu Âu, châu Mỹ… đưa hàng triệu người Do Thái ở khắp nơi trên thế giới trở về xây dựng quê hương sau khi Israel chính thức được thành lập vào năm 1948.

Những gương mặt người Do Thái hồi hương khi ấy còn vương nét nhọc nhằn sau Thế chiến, nhưng vẫn bừng sáng niềm hy vọng vào tương lai và ý chí quyết tâm kiến thiết quốc gia.

70 năm sau khi lập quốc, ngày nay Israel đã trở thành một trong số các quốc gia phát triển hàng đầu và là nền kinh tế lớn thứ 34 thế giới (tính theo GDP danh nghĩa năm 2016). Những chuyến tàu hồi hương ngày đó đã mang về cho quốc gia này vốn liếng quý nhất là những con người tinh hoa để xây dựng thành công một đất nước đã từng không có tên trên bản đồ thế giới.

Còn chúng ta?

Sau hơn 73 năm thành lập và thống nhất đất nước (dài hơn thời gian lập quốc của Israel),

những chuyến tàu (cả tàu thuỷ và tàu bay) sao lại chỉ mang dân ta ra đi mà không có trở về?

Lịch sử dân tộc Việt Nam dường như gắn liền với các cuộc di dân, nhưng chua xót hơn là cho tới tận bây giờ, những cuộc di dân ra nước ngoài vẫn chưa biết bao giờ mới dừng lại?

Bao câu hỏi cứ quay quắt trong tôi khi nghĩ đến em gái.

Ngoài kia, trời Sài Gòn vẫn vần vũ mưa.

Tiếng hát Thái Thanh vọng từ nhà ai đó nghe nức nở:

“Tiếng nước tôi! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui, khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi…”.

Và trong tôi, không hiểu sao cứ thấp thoáng khôn nguôi hình ảnh những con tàu hồi hương về Israel cùng những con tàu ly hương rời Việt Nam…

Chúa Nhật, 12 tháng Tư năm 2020 20:37

Tác Giả: Nguyễn Thị Oanh


 

Tù Nhân Lương Tâm Tuyệt Thực Trong Bóng Tối Để Đòi Công Lý

Ba’o Dat Viet

May 17, 2025

VIỆT NAM – Trong những bức tường ngột ngạt của hệ thống trại giam Cộng Sản Việt Nam, những tiếng nói phản kháng lại tiếp tục vang lên bằng cách thầm lặng và đau đớn nhất: tuyệt thực.

Tù nhân lương tâm Lê Đình Lượng, 60 tuổi, hiện đang bước sang ngày tuyệt thực thứ năm trong trại giam, theo lời kêu cứu của con trai ông, anh Lê Đình Hiếu, đăng tải trên mạng xã hội hôm 15 Tháng Năm. “Sức khỏe và tinh thần của bố tôi đang suy kiệt nghiêm trọng,” anh Hiếu viết. “Ông đã nhiều lần xin được khám bệnh, nhưng tất cả đều bị từ chối.”

Bị bắt từ năm 2017 với cáo buộc “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền,” ông Lượng – một giáo dân và nhà hoạt động nhân quyền nổi bật trong các cuộc đấu tranh phản đối Formosa xả thải đầu độc biển miền Trung – bị kết án 20 năm tù giam và 5 năm quản chế. Sự im lặng của hệ thống tư pháp trước tình trạng giam giữ ông kéo dài trong biệt giam, cấm đoán sinh hoạt tôn giáo, và từ chối chăm sóc y tế là một bản cáo trạng về sự vô cảm của nhà cầm quyền đối với những người dám nói thật.

Cuộc gọi ngắn ngủi từ ông Lượng đến người vợ hôm 15 Tháng Năm chỉ đủ để ông thều thào “như lời kêu cứu cuối cùng,” theo lời gia đình.

Không riêng gì ông Lượng. Cùng thời điểm, một tù nhân lương tâm khác – ông Lê Trọng Hùng – bắt đầu cuộc tuyệt thực 30 ngày để phản đối việc chính quyền Hà Nội tìm cách sửa đổi hiến pháp mà không hỏi ý kiến thực sự từ người dân. Là một nhà báo độc lập từng ra ứng cử đại biểu Quốc hội, ông Hùng bị kết án 5 năm tù với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” vào năm 2021. Trong tù, ông đã nhiều lần dùng hình thức tuyệt thực để phản kháng.

Câu chuyện của họ chỉ là hai trong hàng loạt trường hợp tuyệt thực từng diễn ra trong các trại giam từ Bắc chí Nam. Những cái tên như Trịnh Bá Phương, Trịnh Bá Tư, Bùi Tuấn Lâm, Đặng Đình Bách hay Bùi Văn Thuận – những người đấu tranh vì môi trường, đất đai, tự do ngôn luận – đều đã phải dùng đến biện pháp cuối cùng: lấy thân thể và mạng sống của mình để buộc chế độ phải lắng nghe.

Trường hợp ông Trần Huỳnh Duy Thức, người từng tuyệt thực đến gần 4 tháng trước khi được thả vào Tháng Chín năm 2024, là một minh chứng cho cái giá đắt của tự do trong một thể chế mà nhân quyền vẫn là một khái niệm xa xỉ.

Tuyệt thực trong nhà tù cộng sản không phải là hành vi tự hành xác, mà là lời kháng cự cuối cùng – khi không còn một công cụ pháp lý nào để đấu tranh. Đó là khi thân thể gầy mòn trở thành biểu tượng cho sự bất khuất, khi từng hơi thở là một tiếng gào trong câm lặng.

Và trong sự câm lặng ấy, có cả tiếng gọi chúng ta – những người còn tự do – hãy lên tiếng thay họ.


 

NGUYÊN NHÂN CÔNG AN TỈNH LONG AN TRUY BỨC THIỀN AM

Việt Tân 

– Luật sư Mạnh Đăng-

Tôi đã nhiều lần bắt gặp câu hỏi rằng “Tại sao Thiền Am lại bị công an Long An truy bức đến mức độ như vậy?”. Vì thật khó hiểu khi Thiền Am chỉ là một cơ sở tu tại gia và một số thành viên có hoạt động văn nghệ giải trí cho công chúng mà thôi…

Thật ra, chỉ những ai đã từng quan tâm theo dõi đến các hoạt động của Thiền Am, từ cách họ mưu sinh bằng tài năng văn nghệ của mình, cũng như cách họ vụng về đối phó với những thị phi ập đến… mới có thể có câu trả lời đúng đắn và đầy đủ. Vì lẽ, nguyên nhân của sự việc đã trải dài theo nhiều năm.

Qua đó, theo nhận xét của tôi, có 6 nguyên nhân chính khiến cho Thiền Am bị truy bức:

– Sự nổi tiếng của Thiền Am, một cơ sở tu hành từ chối sự quản lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tiềm ẩn thách thức an ninh đối với chính quyền địa phương;

– Thiền Am từ chối cộng tác với Thích Nhật Từ và từ chối vào Giáo hội Phật Giáo Việt Nam khiến cho Thích Nhật Từ tố cáo trả đũa;

– Công an trả đũa vụ tai tiếng hối lộ 300 triệu bất thành làm mất uy tín ngành công an tại địa phương;

– Công an che dấu tội phạm trong vụ 50 côn đồ xâm nhập vào Thiền Am để hành hung người, đập phá, trộm cắp tài sản;

– Công an che dấu sự lạm quyền trong việc cưỡngbức đưa cô Bùi Ngọc Trâm đi khám phụ khoa;

– Công an che dấu sự lạm quyền khi bắt cóc cô Diễm My, một phụ nữ đã thành niên trái với ý muốn của cô ấy;

Cụ thể như sau:

  1. Đánh giá an ninh mang tính truyền thống của chế độ vốn không cho phép cá nhân, tổ chức được phép tồn tại nếu nổi tiếng và có khả năng hiệu triệu được công chúng. Cho dù hoạt động của các cá nhân, tổ chức đó không liên quan gì đến chính trị cả.

Sự tiềm ẩn về thách thức an ninh đối với chính quyền phải được triệt tiêu từ trong trứng nước.

Thiền Am đã trở nên rất nổi tiếng ở trong nước và nhất là ở ngoài nước, với những sản phảm video thu hút đến hàng chục vạn, thậm chí hàng triệu lượt xem và theo dõi đã vô tình trở thành mối tiềm ẩn về thách thức an ninh đối với chính quyền địa phương. Để triệt tiêu sự thách thức này, họ truy bức Thiền Am.

  1. Thiền Am đã thẳng thừng từ chối 2 lời mời của Thích Nhật Từ, trụ trì chùa Giác Ngộ và là một chức sắc thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, gồm:

– Sau những thành công của Thiền Am qua việc đoạt các giải thưởng cao trong game show truyền hình và trên trang mạng xã hội, Thích Nhật Từ đã mời Thiền Am cộng tác để cùng tham gia vào các hoạt động kinh doanh của chùa Giác Ngộ do Thích Nhật Từ trụ trì. Nhưng Thiền Am đã từ chối.

– Thích Nhật Từ cũng mời Thiền Am tham gia vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nhưng Thiền Am cũng từ chối. Theo lời ông cụ Lê Tùng Vân: “Vì Giáo hội Phật Giáo Việt Nam không xứng đáng để tôi tham gia”!.

Sĩ diện, “Ăn không được thì đạp đổ”, Thích Nhật Từ đã trả đũa bằng cách trở mặt, liên tục xúc phạm, bôi nhọ, đặt điều gây tổn hại đến thanh danh của Thiền Am trong một thời gian dài. Sau khi Thiền Am khiếu nại, tố cáo không được giải quyết, đã có lời xúc phạm trả đũa liền bị Thích Nhật Từ tố cáo yêu cầu công an xử lý.

Sự tố cáo của Thích Nhật Từ phù hợp với ý đồ của Công an tỉnh Long An, do đó, họ đã truy bức Thiền Am.

  1. Công an địa phương đã đòi hối lộ 300 triệu đồng để làm chứng minh nhân dân cho một số thành viên của Thiền Am. Sự việc bị tố cáo khiến cho công an mất mặt, mất uy tín.

Để trả đũa, họ truy bức Thiền Am.

  1. Như chính Võ Văn Thắng thừa nhận, với sự gợi ý của công an địa phương, Võ Văn Thắng đã huy động 50 tên côn đồ tự tiện xâm nhập vào Thiền Am, hành hung người gây thương tích, trộm cướp, đập phá tài sản… Tất cả đều có clip ghi ảnh, ghi hình đầy đủ.

Dù Thiền Am đã tố cáo, nhưng công an tỉnh Long An đã làm ngơ, không điều tra, không khởi tố vụ án với lý do đã làm mất hồ sơ và chứng cứ vụ án.

Để chạy tội cho 50 tên tội phạm và để che dấu sự bao che tội phạm của chính mình, họ truy bức Thiền Am.

  1. Cô Bùi Ngọc Trâm là một nữ tu tại Thiền Am và chưa từng lập gia đình. Cô ấy tố cáo luật sư Trần Quốc Dũ có phát ngôn trên mạng xã hội xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm.

Đổi lại, công an địa phương cưỡng chế đưa cô ấy đi khám phụ khoa để chứng minh lời luật sư Trần Quốc Dũ xúc phạm cô Trâm là đúng. Như là cách để cứu ông Dũ!

Từ tư cách người tố cáo, cô Bùi Ngọc Trâm bị công an tỉnh Long An ngang nhiên xúc phạm thân thể, danh dự. Cho dù sau đó luật sư Trần Quốc Dũ đã thừa nhận lỗi của mình.

Để che đậy cho sự lạm quyền của mình, họ truy bức Thiền Am.

  1. Cô Diễm My là một thiếu nữ đã thành niên. Cô ấy có toàn quyền quyết định chọn nơi cư trú ở nhà cha mẹ hoặc ở Thiền Am mà cô ấy mong muốn.

Nhưng Công an địa phương đã lừa gạt, dùng xe cứu thương đưa cô ấy về giao cho cha mẹ.

Do Thiền Am không biết sự lừa gạt này nên đã có phát ngôn cho rằng công an bắt cóc Diễm My là có lý do và hoàn toàn bình thường.

Để che đậy hành vi lừa gạt, bắt cóc một thiếu nữ đã thành niên trái với ý muốn của cô ấy và trả đũa phát ngôn “công an bắt cóc người”, họ truy bức Thiền Am.

KẾT LUẬN :

Truy bức Thiền Am là cách công an tỉnh Long An trả đũa và đang tự cứu lấy mình để: Che dấu các hành vi lạm quyền cùng các hành vi che dấu tội phạm của chính công an tỉnh.

Trong một xã hội bất công, lực lượng công an thay vì là giải pháp lại trở thành nguồn gốc gây ra bất công. Nó khiến cho mọi quan hệ xã hội trở nên méo mó. Theo đó, thì ngay cả việc dân lành chọn cách sống lương thiện cũng trở thành khó khăn.

Manh Dang

——-///——-

Ảnh: Đại tá Văn Công Minh, Phó Giám đốc công an tỉnh, người chủ trương xóa sổ Thiền Am


 

CÁI NƯỚC MÌNH NÓ THẾ ..

Hắn đưa ông bố viêm túi mật đi cấp cứu nhà thương. Bệnh cụ căng quá. Bác sỹ bảo phải mổ ngay.

“Gia đình mình cho cụ mổ CÔNG NGHỆ CAO nhé ?!”

“Ngoài công nghệ cao còn có mổ gì, thưa bác sỹ ?!” – Hắn hỏi một cách cầu thị.

Tay bác sỹ nhìn hắn như nhìn một thằng ngố lạc loài, đáp: “Mổ thường chứ còn mổ gì !”.

Vì lơ mơ không hiểu nên hắn định hỏi thêm về “Mổ Công nghệ cao” và “Mổ thường” khác nhau thế nào nhưng rồi kinh nghiệm đi viện khiến hắn ngậm miệng.

Hắn gọi điện nhờ tư vấn. Ông bạn thân quát lên trong máy: “Lăn tăn gì nữa! Công nghệ cao! Nhanh và luôn !”.

Ca mổ thành công rực rỡ. Tất nhiên chi phí “công nghệ cao” cũng… cao hơn vài chục triệu đồng. Mổ xong ắt phải nằm hồi sức.

“Gia đình cho cụ nằm hồi sức TÍCH CỰC hay hồi sức thường ?!”

Kinh nghiệm của “công nghệ cao” cho hắn quyết định nhanh gọn: “Vâng! Xin theo hồi sức tích cực”.

Quyết định của hắn thật sáng suốt. Phòng “Hồi sức tích cực” nằm ngay gần cầu thang chứ không xa xôi heo hắt như “hồi sức thường”. Phòng có cả… dép tổ ong đỏ thắm, cắt cụt mũi cho người nhà bệnh nhân. Ở đây đủ loại máy móc, thầy thuốc ra vào chăm sóc tận tình. Vì “tích cực” nên mấy cô osin cũng có vẻ sang chảnh hơn, móng chân, móng tay, điện thoại đều đời mới. Các cô đi lại chộn rộn và thường nhìn mấy cô osin “hồi sức thường” với con mắt rất… thường.

Chưa hết, ngày đầu ở phòng “tích cực” hắn bối rối khi bác sỹ hỏi:

“Gia đình mình cho cụ dùng THUỐC TỐT nhé ?!”;

Hắn giật mình: “Sao nhỉ! Đã tích cực thì thuốc phải tốt chứ ?!”. Dù thắc mắc vậy, trước mặt anh chị em, họ hàng, bạn bè, hắn vẫn dõng dạc tuyên bố: “Thuốc tốt tất nhiên !”

Tiếc rằng, dù mổ công nghệ cao, hồi sức tích cực và dùng thuốc tốt, bố hắn vẫn qua đời không lâu sau khi nhập viện.

Tưởng chết là hết ai ngờ khi gọi điện tìm nhà tang lễ, đầu dây bên kia có người hỏi:

“Gia đình mình dùng DỊCH VỤ TRỌN GÓI hay dịch vụ thường ?”.

Đang sẵn đau thương bối rối nên hắn trả lời cho xong: “Bình thường thôi !”. Hắn không ngờ không dùng “trọn gói”, dịch vụ bình thường lại không… bình thường chút nào. Nhưng chuyện đã dài rồi, để lúc khác kể tiếp…

Thực lòng chuyện này viết ra không phải để đau thương căm hận mà để hài hước đồng ý với danh ngôn: “Cái nước mình nó thế !…”

Nguồn: Tào lao kẻ chợ