Thiên tai và ‘quy trình’ không chừa chỗ cho dân (phần 2)

Ba’o Nguoi-Viet

November 25, 2025

Trân Văn/Người Việt

Sau video clip của người phụ nữ cư ngụ tại huyện Sông Hinh, Phú Yên (giờ là xã Ea Ly, Đắk Lắk) như đã tường thuật ở phần trước, trên mạng xã hội xuất hiện thêm những video clip khác.

Mộ một nạn nhân thiệt mạng trong đợt lũ được nhìn thấy vào ngày 24 Tháng Mười Một, năm 2025, tại thôn Phú Hữu, tỉnh Đắk Lắk. (Hình: Thanh Hue/Getty Images)

Ví dụ như video clip có thể tìm xem trên trang Facebook của Nguyễn Huy Vũ ghi lại cuộc trò chuyện của ai đó với hai người đàn ông vừa từ tâm lũ ra ngoài. Trong video clip ấy, hai người đàn ông cũng thuật lại chuyện nước đã giật sập một căn nhà là nơi trú ẩn của mấy chục người, nhưng người ta chỉ cứu được hơn mười người trong khi vẫn còn nhiều người kẹt lại bên trong. Anh Chi TV thì giới thiệu một video clip ghi lại cảnh vài mái tóc từ thi thể của những ai đó chưa rõ nhân dạng dập dềnh trong biển nước… Những video clip như vậy khiến công chúng sôi lên vì giận. Họ đòi câu trả lời cho những câu hỏi như: Hệ thống công quyền ở đâu, đã làm những gì để ngăn chặn thảm họa và cứu những nạn dân mà tính mạng chẳng khác gì chỉ mành treo chuông?

Trước trận bão dư luận càng lúc càng mạnh, nửa ngày sau, trang Facebook của Công An tỉnh Đắk Lắk xuất hiện status có tính chất cảnh cáo: Thông tin ‘sập nhà lầu, hàng chục người chết” tại xã Hòa Thịnh xuất hiện trên mạng xã hội là bịa đặt. Công An Tỉnh Đắk Lắk sẽ sớm vào cuộc xác minh, xử lý nghiêm đối tượng phao tin. Ngoài thông tin có tính chất cảnh cáo ấy, người dùng mạng xã hội bắt đầu được xem những ý kiến biện minh cho thủy điện, cho hệ thống công quyền. Tuy nhiên, cảnh cáo hay biện minh không khác gì đổ thêm dầu vào lửa.

Đã có những người như Đàm Ngọc mắng trên Facebook: Chúng mày ác lắm! Sau khi nêu ra hàng loạt câu hỏi như: Bạn đã bao giờ ngồi co ro vì lạnh và đói, mắt dán vào mực nước ngày càng cao, tay chân tím tái, nước càng dâng, sự lo âu vì sinh mạng của bạn ngắn dần? Bạn đã bao giờ lao vào dòng nước phụ giúp hàng xóm kéo con heo, con bò, kê cao giường tủ, cho chúng đứng trên đó? Bạn đã bao giờ nhìn thấy nhà đối diện bị dòng nước hung hãn đánh bật phần hiên phía trước rồi sập xuống? Bạn đã bao giờ được cha của bạn đặt trên lưng rồi bơi xéo dòng nước đưa bạn thoát đến chỗ cao hơn để bạn được sống rồi ông lại nhảy vào biển nước mênh mông bơi ngược về đưa những thành viên khác trong gia đình đến chỗ của bạn, may mắn là khi người cuối cùng được đưa ra khỏi nhà cũng là lúc nó sập xuống? Chưa đúng không? Còn nhiều hơn những kinh hoàng như thế – Đàm Ngọc lưu ý: Bạn có thể chưa nhưng tôi đã trải qua nhiều lần trong đời, từ khi còn rất nhỏ. Có lẽ chỉ dân miền Trung ở những vùng năm nào cũng có lũ lụt mới hiểu triệt để về tang thương mỗi khi nước về nên xin đừng vội kết luận khi bản thân chưa trải qua.

Theo Đàm Ngọc, với những thông tin, hình ảnh trên báo chí và mạng xã hội, bất kỳ người dân miền Trung nào từng sinh ra, lớn lên trong bão lũ đều thấu hiểu vì sao mọi thứ lại tồi tệ đến vậy, đều thấu hiểu chính quyền đã ở đâu trong thời khắc mà hàng vạn người dân cần họ hơn bao giờ hết nhưng chỉ có tiếng sóng và gió cùng màn đêm âm u như báo trước cho viễn cảnh bất hạnh và tang tóc đang chờ đón. Với lương tri và nhận thức tối thiểu của một con người ai cũng có thể hình dung, nước đã rút 1.5 mét mà chính quyền sở tại vẫn chưa tiếp cận được nạn dân thì khi ở đỉnh, nước lũ dâng lên kinh hoàng thế nào và cuốn phăng mọi thứ ra sao? Trong 48,000 người dân mắc kẹt, chỉ cần 0.1% thiếu may mắn trong mấy ngày ròng rã ấy, vừa đói, vừa khát, chỉ mỏi tay hay trượt chân rơi vào dòng nước hung hãn thì có thể có đến 48 con người mất mạng rồi bị cuốn ra biển và hãy nhớ sự tang thương đó mới chỉ ở một xã. Đàm Ngọc viết thêm: Chưa trầm mình trong nước lũ sẽ không biết rằng nước lũ lạnh như nước đá. Phẫn nộ khi có nhà báo ngoài Bắc khẳng định sẽ không có ai bị chết vì lạnh hay đói khát, hoặc một cô nhà thơ trong Nam cho rằng đợt lũ này chẳng có mấy người chết nên đừng nói quá. Gọi những người như thế là “chúng mày,” Đàm Ngọc mắng: Chúng mày đã nói những lời thất đức và ác lắm!

Đàm Ngọc là một trong những người từng trải nghiệm bão lũ còn Võ Thị Ý Yên là người trong cuộc. Cô cũng đặt câu hỏi: Mọi người biết cảm giác bất lực là gì không? Rồi cô tự trả lời: Là thấy người chết nhưng chỉ lấy dây cột lại ở chỗ nào đó cho đừng trôi mất vì những người cứu nạn còn phải đưa lương thực cho người sống, cứu những người đang kiệt sức đến nơi an toàn bởi họ đã bị dìm trong nước lũ ba, bốn ngày không có đồ ăn, không có quần áo để thay, nước lũ đã cuốn sạch mọi thứ. Đã có rất nhiều người chết đuối hoặc vì đói, lạnh, ngủ quên nên rơi xuống nước mà chết, chạy lũ sụp cầu bị nước cuốn đi… Đó là tình cảnh hiện tại của xã Hòa Thịnh tụi em và một số nơi khác như Đông Hòa, Phú Hòa, Tuy An… Phú Yên đang rất cần trợ giúp. Người có công giúp công, người có của giúp của, người không có gì xin giúp bằng cách chia sẻ cho mọi người biết để mọi người được sống và để chôn cất những người đã mất.

Người dân xếp hàng nhận hàng cứu trợ sau đợt lũ vào ngày 24 Tháng Mười Một, năm 2025, tại thôn Phú Hữu, tỉnh Đắk Lắk. (Hình: Thanh Hue/Getty Images)

Không phải tự nhiên mà nhiều người nhấn mạnh, tô đậm yêu cầu của họ trên mạng xã hội: Hãy nói thật với dân về tổn thất nhân mạng và về hay/dở, đúng/sai trong ứng phó với đợt mưa lũ này. Đáp lại hệ thống truyền thông chính thức loan báo, công an Đắk Lắk đã tìm được người phụ nữ ở huyện Sông Hinh. Việc cô kể lại những điều mắt thấy, tai nghe giữa biển nước bị xác định là “không đúng sự thật,” cô sẽ bị xử lý vì “chưa kiểm chứng thông tin từ cơ quan chức năng” và cô đã “cúi đầu nhận tội” do “không lường trước được mức độ ảnh hưởng của thông tin.”

Sốt ruột, hăm hở đáp lại lời kêu cứu của đồng loại, kể lại những điều mắt thấy, tai nghe để thúc giục người khác tham gia trợ giúp trở thành nguyên nhân bị săn lùng, bị xử lý dẫu vô lý nhưng lại là chuyện có thật. Công an Đắk Lắk cho biết đã tìm ra 52 tài khoản trên Facebook, TikTok có “sai phạm” như người phụ nữ vừa đề cập và đã buộc 17 người viết “cam kết không tái phạm,” phạt hành chính năm người thu 37.5 triệu, yêu cầu 30 tài khoản gỡ bỏ nội dung vi phạm. Tin vừa kể khiến nhiều người như Nhân Võ buột miệng bình: Thật sự “khâm phục” khả năng thống kê, xác minh thông tin bịa đặt của cơ quan chức năng. Theo báo Tuổi Trẻ, chiều 22 Tháng Mười Một, 2025, nhiều khu vực thuộc xã Hòa Thịnh vẫn còn ngập sâu, vậy mà chính quyền đã có thể thống kê đưa ra kết luận!

Sau khi loan báo đã truy tìm và xử lý những người đưa thông tin có tính chất “bịa đặt,” Công An Tỉnh Đắk Lắk khuyến cáo rộng rãi: Trước những thông tin xấu độc, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân cần hết sức tỉnh táo, lựa chọn thông tin tích cực để không bị nhầm tưởng, thay vào đó phải cảnh giác và kiên quyết phản bác những luận điệu xuyên tạc, phá hoại mà các thế lực thù địch tung ra… Vu Hoai Linh bình: Vãi! Không hiểu được logic này! Tại sao lại “lựa chọn thông tin tích cực” chứ không phải là sự thật? Còn nếu chưa biết sự thật thì cần phải có thái độ khách quan, có nơi nào mà “lựa chọn thông tin tích cực” lại được cho là một thái độ đạo đức? Giả dụ “thông tin tích cực” đó sai còn thông tin tiêu cực lại là sự thật thì lựa chọn sao đây? (còn tiếp)


 

 Dưới đây là danh sách các đập thủy điện tại Việt Nam

Quang Nguyen Duy

 Dưới đây là danh sách các đập thủy điện tại Việt Nam, được tổ chức theo 63 tỉnh thành.

Thấy là oải luôn

Dữ liệu được tổng hợp từ các nguồn uy tín như Wikipedia, EVN và các trang chuyên ngành. Nhiều tỉnh/thành phố không có đập thủy điện (chủ yếu là các khu vực đồng bằng, đô thị hoặc không có sông lớn phù hợp), nên tôi chỉ liệt kê các tỉnh có đập. Đối với mỗi đập, tôi bao gồm tên, công suất (MW) và vị trí chi tiết nếu có (dựa trên dữ liệu có sẵn). Danh sách không bao gồm các dự án đang xây dựng hoặc đã ngừng hoạt động.Tôi sử dụng bảng để trình bày rõ ràng, nhóm theo vùng miền để dễ theo dõi.Miền BắcTỉnh/Thành

Danh sách đập thủy điện (Tên – Công suất MW – Vị trí chi tiết)

Điện Biên

– Nậm Mức (44 MW – xã Pú Xi, Tuần Giáo và Mường Mươn, Mường Chà, sông Nậm Mức)

– Trung Thu (30 MW – xã Trung Thu, Tủa Chùa và Pa Ham, Mường Chà, sông Nậm Mức)

– Nậm Núa (10.8 MW – xã Pa Thơm, Điện Biên, sông Nậm Nứa)

– Nậm Pay (7.5 MW – xã Nà Tòng, Tuần Giáo, sông Nậm Pay)

– Sông Mã 3 (29.5 MW – xã Phì Nhừ và Mường Luân, Điện Biên Đông, sông Sông Mã)

– Nà Lơi (9.3 MW – xã Thanh Minh, sông Nậm Rốm)

– Thác Trắng (6 MW – xã Nà Nhạn, sông Nậm Rốm)

Lai Châu

– Lai Châu (1200 MW – Tt. Nậm Nhùn, Nậm Nhùn, sông Sông Đà)

– Pắc Ma (140 MW – xã Mù Cả, Mường Tè và Ka Lăng, Mường Tè, sông Sông Đà)

– Bản Chát (220 MW – xã Mường Kim, Than Uyên, sông Nậm Mu)

– Nậm Bụm 1 (16 MW – xã Hua Bum, Nậm Nhùn, sông Nậm Bum)

– Nậm Bụm 2 (25 MW – xã Hua Bum, Nậm Nhùn, sông Nậm Bum)

– Nậm Cấu 1 (10 MW – xã Bum Tở, Mường Tè, sông Nậm Cấu)

– Nậm Cấu 2 (10 MW – xã Bum Tở, Mường Tè, sông Nậm Cấu)

– Nậm Củm 4 (54 MW – xã Mường Tè, Mường Tè, sông Nậm Củm)

– Nậm Đích 1 (18 MW – xã Khun Há, Tam Đường, sông Nậm Đích)

– Đông Pao (6.5 MW – xã Bản Hon, Tam Đường, sông Nậm Đích)

– Chu Va 2 (12 MW – xã Sơn Bình, Tam Đường, sông Nậm Giê)

– Nậm He (16 MW – xã Mường Tùng, Mường Chà, sông Nậm He)

– Nậm Cát (5 MW – xã Hoang Thèn, Phong Thổ, sông Nậm Cát)

– Nậm Lụm 2 (18 MW – xã Bản Lang, Phong Thổ, sông Nậm Lụm)

– Mường Kim 2 (10.5 MW – xã Mường Kim, Than Uyên và Hồ Bốn, Mù Cang Chải, Yên Bái, sông Nậm Kim)

– Nậm Mở 2 (12 MW – xã Khoen On, Than Uyên, sông Nậm Mở)

– Nậm Mở 3 (10 MW – xã Khoen On, Than Uyên, sông Nậm Mở)

– Nậm Mu 2 (10.2 MW – xã Mường Mùn)

– Nậm Na 1 (30 MW – xã Hoang Thèn, Phong Thổ, sông Nậm Na)

– Nậm Na 2 (66 MW – xã Huổi Luông, Phong Thổ và Phìn Hồ, Sìn Hồ, sông Nậm Na)

– Nậm Na 3 (84 MW – xã Chăn Nưa, Sìn Hồ, sông Nậm Na)

– Nậm Nghẹ (7.5 MW – xã Hua Bum, Nậm Nhùn, sông Nậm Nghẹ)

– Nậm Sì Lường 1 (30 MW – xã Pa Vệ Sử, Mường Tè, sông Nậm Sì Lường)

– Nậm Sì Lường 3 (21 MW – xã Pa Vệ Sử và Bum Tở, Mường Tè, sông Nậm Sì Lường)

– Nậm Sì Lường 4 (20 MW – xã Pa Vệ Sử và Bum Tở, Mường Tè, sông Nậm Sì Lường)

– Nậm Pạc (34 MW – xã Nậm Xe và Sin Suối Hồ, Phong Thổ, sông Nậm Xe)

Sơn La

– Sơn La (2400 MW – xã Ít Ong, Mường La, sông Sông Đà)

– Nậm Chiến 1 (200 MW – xã Ngọc Chiến, Mường La, sông Nậm Chiến)

– Huội Quảng (520 MW – xã Khoen On, Than Uyên và Chiềng Lao, Mường La, sông Nậm Mu)

– Nậm Chiến 2 (32 MW – xã Chiềng San, Mường La, sông Nậm Chiến)

– Pá Chiến (22 MW – xã Chiềng San, Mường La, sông Nậm Chiến)

– Nậm Giôn (20 MW – xã Nậm Giôn, Mường La và Chiềng Ơn, Quỳnh Nhai, sông Nậm Giôn)

– Nậm Khốt (14 MW – xã Ngọc Chiến, Mường La, sông Nậm Khắt)

– Nậm La (32 MW – xã Chiềng Xôm và Mường Bú, Mường La, sông Nậm La)

– Nậm Pia (15 MW – xã Chiềng Hoa, Mường La, sông Nậm Pia)

– Chiềng Ngàm Thượng (10 MW – xã Chiềng Ngàm, Thuận Châu, sông Suối Muội)

– Nậm Pàn 5 (34.5 MW – xã Mường Bú, Mường La, sông Nậm Pàn)

– Chiềng Công 1&2 (8 MW – xã Chiềng Công, Mường La, sông Nậm Pia)

– Háng Đồng A (16 MW – xã Háng Đồng, Bắc Yên, sông Sập)

– Háng Đồng A1 (8.4 MW – xã Háng Đồng, Bắc Yên, sông Sập)

– Suối Sập 3 (14 MW – xã Phiêng Ban, Bắc Yên và Suối Bau, Phù Yên, sông Sập)

– Sập Việt (21 MW – xã Sặp Vạt, Yên Châu, sông Sập)

– Tô Buông – Đông Khùa (10.1 MW – xã Tú Nang, Yên Châu, sông Tô Buông)

– Nậm Xá (9.6 MW – xã Chiềng Ân, Mường La, sông Nậm Xá)

– Xím Vàng 2 (6.6 MW – xã Xím Vàng và Hang Chú, Bắc Yên, sông Xím Vàng)

– Tà Cọ (30 MW – Tt. Sốp Cộp, Sốp Cộp, sông Nậm Công)

– Nậm Hóa 1 (18 MW – xã Mường Bám, Thuận Châu, sông Nậm Hua)

– Mường Hung (24 MW – xã Mường Hung và Chiềng Cang, Sông Mã, sông Sông Mã)

– Nậm Sọi (10 MW – xã Mường Cai, Sông Mã, sông Nậm Sọi)

Yên Bái

– Thác Bà (120 MW – Tt. Thác Bà, Yên Bình, sông Sông Chảy)

– Nậm Đông (21.4 MW – xã Túc Đán, Trạm Tấu)

– Ngòi Hút 2 (48 MW – xã Nậm Có, Mù Cang Chải)

– Khao Mang Thượng (24.5 MW – xã Khao Mang, Mù Cang Chải)

– Mường Kim (13.5 MW – xã Hồ Bốn, Mù Cang Chải)

– Trạm Tấu (30 MW – xã Trạm Tấu, Trạm Tấu)

– Văn Chấn (57 MW – xã Suối Quyền và An Lương, Văn Chấn)

– Đồng Sung (20 MW – xã Yên Phú và Đại Phác, Văn Yên)

Hòa Bình

– Hòa Bình (1920 MW – Tp. Hòa Bình, sông Sông Đà)

Tuyên Quang

– Tuyên Quang (342 MW – Tt. Na Hang, Na Hang, sông Sông Gâm)

– Chiêm Hóa (48 MW)

– Yên Sơn (90 MW – xã Quý Quân, Yên Sơn)

– Sông Lô 2 (28 MW – xã Yên Thuận, Hàm Yên)

– Sông Lô 6 (48 MW – xã Yên Thuận, Hàm Yên)

– Sông Lô 8A (27 MW – Tt. Tân Yên và xã Tân Thành, Hàm Yên)

– Sông Lô 8B (27 MW – xã Thắng Quân và Phúc Ninh, Yên Sơn)

Hà Giang

– Nho Quế 3 (110 MW – xã Lũng Pù và Sơn Vĩ, Mèo Vạc, sông Nho Quế)

– Nho Quế 1 (32 MW – xã Giàng Chu Phìn và Xín Cái, Mèo Vạc)

– Nho Quế 2 (48 MW – xã Giàng Chu Phìn và Xín Cái, Mèo Vạc)

– Sông Chảy 3 (14 MW – xã Tụ Nhân và Pờ Ly Ngài, Hoàng Su Phì)

– Sông Chảy 5 (16 MW – xã Thèn Phàng và Ngán Chiên, Xín Mần)

– Sông Chảy 6 (16 MW – Tt. Cốc Pài và xã Thèn Phàng, Xín Mần)

– Bắc Mê (45 MW – xã Yên Phong và Phú Nam, Bắc Mê)

– Nậm Lang (12 MW – xã Ngọc Long, Yên Minh)

– Sông Lô 2 (28 MW – xã Đạo Đức và Trung Thành, Vị Xuyên)

– Nậm Ly (5.1 MW – xã Quảng Nguyên, Xín Mần)

– Nậm Mạ (18 MW – xã Tùng Bá, Vị Xuyên)

– Sông Miện 1 (6 MW – xã Bát Đại Sơn, Quản Bạ và Na Khê, Yên Minh)

– Thái An (82 MW – xã Thái An, Quản Bạ)

– Thuận Hòa (38 MW – xã Thuận Hòa, Vị Xuyên)

– Nậm Mu (12 MW – xã Tân Thành, Bắc Quang)

– Sông Chừng (19.5 MW – Tt. Yên Bình, Quang Bình)

Cao Bằng

– Bảo Lạc A (30 MW – xã Cô Ba, Bảo Lạc)

– Bảo Lạc B (18 MW – xã Bảo Toàn, Bảo Lạc)

– Bảo Lâm 1 (30 MW – xã Lý Bôn, Bảo Lâm)

– Mông Ân (30 MW – Tt. Pác Miầu và xã Nam Quang, Bảo Lâm)

– Bảo Lâm 3 (46 MW – xã Đức Hạnh, Bảo Lâm)

– Bảo Lâm 3A (8 MW – xã Đức Hạnh và Lý Bôn, Bảo Lâm)

– Thân Giáp (6 MW – xã Đoài Dương, Trùng Khánh)

– Nà Lòa (6 MW – xã Bế Văn Đàn, Phục Hòa)

– Nà Tẩu (6 MW – xã Cai Bộ, Quảng Hòa)

– Tiên Thành (16.5 MW – xã Tiên Thành, Phục Hòa)

– Bình Long (6.5 MW – xã Bình Long, Hòa An)

– Hoa Thám (5.8 MW – xã Hoa Thám, Nguyên Bình)

Lào Cai

– Pa Ke (26 MW – xã Lùng Sui, Si Ma Cai và Pà Vầy Sủ, Xín Mần, Hà Giang)

– Tà Thàng (60 MW)

– Mường Hum (32 MW)

– Nậm Phàng (36 MW)

– Nậm Toóng (34 MW)

– Ngòi Phát (72 MW)

– Sử Pán 2 (34 MW)

Miền TrungTỉnh/Thành

Danh sách đập thủy điện (Tên – Công suất MW – Vị trí chi tiết)

Thanh Hóa

– Trung Sơn (260 MW – xã Trung Sơn, Quan Hóa, sông Sông Mã)

– Hồi Xuân (102 MW – xã Hồi Xuân và Thanh Xuân, Quan Hóa, sông Sông Mã)

– Sông Âm (13 MW – xã Tam Văn, Lang Chánh, sông Sông Âm)

– Trí Nang (5.4 MW – xã Trí Nang, Lang Chánh, sông Sông Cáy)

– Tam Thanh (7 MW – xã Tam Thanh, Quan Sơn, sông Sông Lò)

– Sơn Lư (7 MW – xã Sơn Lư, Quan Sơn, sông Sông Lò)

– Trung Xuân (10.5 MW – xã Trung Xuân, Quan Sơn, sông Sông Lò)

– Thành Sơn (30 MW – xã Thành Sơn và Trung Thành, Quan Hóa, sông Sông Mã)

– Bá Thước 1 (60 MW – xã Thiết Kế, Bá Thước, sông Sông Mã)

– Bá Thước 2 (80 MW – xã Điền Lư, Bá Thước, sông Sông Mã)

– Cẩm Thủy 1 (28.6 MW – xã Cẩm Thành và Cẩm Lương, Cẩm Thủy, sông Sông Mã)

Nghệ An

– Hủa Na (180 MW – xã Đồng Văn, Quế Phong, sông Sông Chu)

– Bản Vẽ (320 MW – xã Yên Na, Tương Dương, sông Sông Lam)

– Khe Bố (100 MW – xã Tam Quang, Tương Dương, sông Sông Lam)

– Ca Nan (1&2) (23 MW – xã Chiêu Lưu, Hữu Kiệm và Na Ngoi, Kỳ Sơn, sông Ca Nan)

– Nậm Cắn 2 (20 MW – xã Tà Cạ và Nậm Cắn, Kỳ Sơn, sông Nậm Cắn)

– Nậm Mô (18 MW – xã Tà Cạ, Kỳ Sơn, sông Nậm Mô)

– Xoỏng Con (15 MW – xã Tam Thái, Tương Dương, sông Chà Lạp)

– Hương Sơn (33 MW – xã Sơn Kim 1, Hương Sơn, sông Nậm Chốt)

– Đồng Văn (28 MW – xã Đồng Văn, Quế Phong, sông Sông Chu)

– Dốc Cáy (15 MW – xã Lương Sơn, Thường Xuân, sông Sông Chu)

– Cửa Đạt (97 MW – xã Xuân Mỹ, Thường Xuân, sông Sông Chu)

– Xuân Minh (15 MW – xã Xuân Cẩm, Thường Xuân, sông Sông Chu)

– Bản Cốc (18 MW – xã Châu Kim và Nậm Giải, Quế Phong, sông Nậm Giải)

– Sông Quang (32 MW – xã Châu Thôn, Quế Phong, sông Sông Hiếu)

– Bản Mồng (42 MW – xã Yên Hợp, Quỳ Hợp, sông Sông Hiếu)

– Nậm Nơn (20 MW – xã Lượng Minh, Tương Dương, sông Nậm Lam)

– Chi Khê (41 MW – xã Con Cuông và Tương Dương, sông Sông Lam)

– Nậm Pông (32 MW – xã Châu Hạnh và Châu Phong, Quỳ Châu, sông Nậm Pông)

– Châu Thắng (14 MW – xã Châu Thắng, Quỳ Châu và Tiền Phong, Quế Phong, sông Sông Quàng)

– Nhạn Hạc (59 MW – xã Mường Nọc, Quế Phong, sông Sông Quàng)

– Khe Thơi (12 MW – xã Lạng Khê, Con Cuông, sông Khe Thơi)

– Châu Thôn (27 MW – xã Châu Thôn, Quế Phong, sông Nậm Tột)

Thừa Thiên Huế

– A Lưới (170 MW – xã Hồng Hạ, A Lưới, sông A Sáp)

– Bình Điền (44 MW)

– Hương Điền (81 MW)

Quảng Nam

– A Vương (210 MW – xã Mà Cooih, Đông Giang, sông A Vương)

– Sông Bung 2 (100 MW – xã Zuôih và La Dêê, Nam Giang, sông Sông Bung)

– Sông Bung 4 (156 MW – xã Zuôih và Tà Pơơ, Nam Giang, sông Sông Bung)

– Đăk Mi 4 (190 MW – xã Phước Hiệp, Phước Sơn, sông Đăk Mi)

– Sông Tranh 2 (190 MW – xã Trà Tân, Bắc Trà My, sông Thu Bồn)

– Sông Bung 4A (49 MW)

– Sông Bung 5 (57 MW)

– Sông Tranh 3 (62 MW)

– Đăk Mi 3 (63 MW)

Quảng Ngãi

– Đăk Đrinh (125 MW – xã Sơn Dung và Sơn Mùa, Sơn Tây, sông Đăk Đrinh)

Bình Định

– An Khê – Kanak (173 MW – huyện Kbang và Tx. An Khê, Gia Lai; huyện Tây Sơn, Bình Định, sông Sông Ba)

– Định Bình (9.9 MW – xã Vĩnh Hảo, Vĩnh Thạnh, sông Sông Kôn)

– Văn Phong (6 MW – xã Bình Tường, Tây Sơn, sông Sông Kôn)

– Sông Côn 2 (63 MW)

Phú Yên

– Sông Ba Hạ (220 MW – xã Đức Bình Tây, Sông Hinh và Suối Trai, Sơn Hòa, sông Sông Ba)

– Krông H’năng (64 MW)

Khánh Hòa

– Sông Chò 2 (7 MW – xã Khánh Hiệp, Khánh Vĩnh, sông Sông Chò)

– Sông Giang 2 (37 MW – xã Khánh Trung, Khánh Vĩnh, sông Sông Giang)

– Ea Krông Rou (28 MW – xã Ninh Tây, Ninh Hòa, sông Ea Krông Rou)

Ninh Thuận

– Sông Pha (7.5 MW – xã Lâm Sơn, Ninh Sơn, sông Sông Pha)

– Hạ Sông Pha 1 (5.4 MW – xã Lâm Sơn, Ninh Sơn, sông Sông Pha)

– Hạ Sông Pha 2 (5.1 MW – xã Lâm Sơn, Ninh Sơn, sông Sông Pha)

– Sông Ông (8.1 MW – xã Quảng Sơn, Ninh Sơn, sông Sông Ông)

Bình Thuận

– Hàm Thuận – Đa Mi (475 MW – xã La Ngâu, Tánh Linh và La Dạ, Hàm Thuận Bắc, sông La Ngà)

– Đại Ninh (300 MW – huyện Đức Trọng, Lâm Đồng và Bắc Bình, Bình Thuận, sông Đa Nhim)

– Đan Sách 1 (6 MW – xã Đông Tiến, Hàm Thuận Bắc)

– Bắc Bình (33 MW – xã Phan Sơn và Phan Lâm, Bắc Bình, sông Ma Đế)

– Đan Sách 2&3 (5.5 MW – xã Đông Tiến, Hàm Thuận Bắc, suối Thị)

Miền Nam và Tây NguyênTỉnh/Thành

Danh sách đập thủy điện (Tên – Công suất MW – Vị trí chi tiết)

Kon Tum

– Plei Krông (100 MW – xã Sa Bình, Sa Thầy và Kroong, Tp. Kon Tum, sông Pô Kô)

– Sê San 3A (108 MW – xã Mô Rai, Sa Thầy và Ia Krai, Ia Grai, Gia Lai, sông Sê San)

– Sê San 4 (360 MW – xã Mô Rai, Sa Thầy và Ia O, Ia Grai, Gia Lai, sông Sê San)

– Thượng Kon Tum (220 MW – xã Đăk Kôi, Kon Rẫy và Đăk Tăng, Kon Plông, sông Đăk Snghé)

Gia Lai

– Ialy (720 MW – Tt. Ia Ly, Chư Păh, sông Sê San)

– Sê San 3 (260 MW – huyện Chư Păh, sông Sê San)

– Sê San 4A (63 MW)

– An Khê – Kanak (173 MW – như trên)

Đắk Lắk

– Buôn Kuốp (280 MW – xã Nam Đà, Krông Nô, Đắk Nông và Dray Sáp, Krông Ana, Đắk Lắk, sông Srêpốk)

– Srêpốk 3 (220 MW – xã Ea Nuôl và Tân Hòa, Buôn Đôn, Đắk Lắk và Ea Pô, Cư Jút, Đắk Nông, sông Srêpốk)

– BuônTua Srah (86 MW)

– Krông H’năng (64 MW)

– Srêpok 4 (80 MW)

– Srêpok 4A (64 MW)

– Srok Phu Miêng (51 MW)

Đắk Nông

– Đồng Nai 3 (180 MW – xã Đắk Plao, Đắk Glong và Lộc Lâm, Bảo Lâm, Lâm Đồng, sông Đồng Nai)

– Đồng Nai 4 (340 MW – Tt. Quảng Khê, Đăk GLong và Lộc Bảo, Bảo Lâm, Lâm Đồng, sông Đồng Nai)

– Đồng Nai 5 (150 MW – xã Đắk Sin, Đăk R’Lấp và Lộc Bắc, Bảo Lâm, Lâm Đồng, sông Đồng Nai)

– Đăk R’Tih (144 MW – Tx. Gia Nghĩa và xã Nhân Cơ, Đăk R’lấp, sông Đăk R’tih)

– Đăk Kar (12 MW – xã Đăk Sin, Đăk R’lấp, sông Đăk Kar)

– Đắk Nông 2 (16 MW – phường Nghĩa Tân, Gia Nghĩa, sông Sông Đắk Nông)

– Đăk Sin 1 (28 MW – xã Đăk Sin và Hưng Bình, Đăk R’lấp, sông Đăk R’ Keh)

– Quảng Tín (5 MW – xã Quảng Tín, Đăk R’lấp, sông Đăk R’lấp)

– Đăk Ru (6.9 MW – xã Đăk Ru, Đăk R’lấp, sông Đăk Ru)

– Đăk Rung 1&2 (14 MW – xã Trường Xuân, Đăk Song, sông Đồng Nai)

Lâm Đồng

– Đa Nhim (160 MW – Tt. D’Ran, Đơn Dương và Lâm Sơn, Ninh Sơn, Ninh Thuận, sông Đa Nhim)

– Đồng Nai 2 (70 MW – xã Tân Thượng, Di Linh và Tân Thanh, Lâm Hà, sông Đồng Nai)

– Đa Khai (8.1 MW – xã Đa Nhim, Lạc Dương)

– Đambol (10.2 MW – xã Lộc Bắc, Bảo Lâm)

– Đa M’bri (75 MW – xã Lộc Tân, Bảo Lâm; Phước Lộc, Đạ Huoai; Triệu Hải, Đạ Tẻh)

– Đa Nhim Thượng 2 (7.5 MW – xã Đạ Chais, Lạc Dương)

– Đa Siat (13.5 MW – xã Lộc Bảo, Bảo Lâm)

– Đại Nga (10 MW – xã Lộc Nga, Bảo Lộc và Lộc An, Bảo Lâm, sông Đa R’Nga)

– Đạ Dâng 2 (34 MW – xã Tân Thành, Đức Trọng và Tân Hà, Lâm Hà, sông Đa Dâng)

– Đạ Dâng – Đạ Chomo (23 MW – xã Lát, Lạc Dương và Phi Tô, Lâm Hà, sông Đạ Dâng)

– Bảo Lộc (40 MW – xã Lộc Nam, Bảo Lâm, sông La Ngà)

– Đắc Mê (5 MW – xã Đạ Long, Đam Rông, sông Đăk Mê)

Bình Phước

– Thác Mơ (225 MW – xã Đức Hạnh, Bù Gia Mập, sông Sông Bé)

– Đức Thành (30 MW – xã Thống Nhất, Bù Đăng, sông Đồng Nai)

– Đăk Glun (18 MW – xã Đăk Nhau, Bù Đăng, sông Đăk G’lun)

– Thác Mơ MR (75 MW)

Đồng Nai

– Trị An (400 MW – huyện Vĩnh Cửu, sông Đồng Nai)

Các tỉnh/thành còn lại (như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ, An Giang, Bạc Liêu, v.v.) không có đập thủy điện lớn hoặc nhỏ được ghi nhận trong dữ liệu hiện tại, chủ yếu do địa hình bằng phẳng hoặc không phù hợp cho thủy điện.


 

 Không thể hiểu được…

Tin Mừng Cho Người Nghèo

 Không thể hiểu được…

  1. Một hệ thống…ối dồi ôi!

Xin đọc các thông tin rời rạc nhưng đầy ý nghĩa dưới đây, để thấy cái cách mà hệ thống đang vận hành là kỳ lạ đến như thế nào.

Báo Pháp luật TPHCM sáng nay đăng bài “Phú Yên cũ bị ‘dìm’ trong lũ dữ, trách nhiệm nằm ở đâu?”, trong đó nêu lên nhiều điểm chết người: Chánh văn phòng UBND xã Hòa Mỹ cho biết “có nhận thông báo về mức xả lũ của thủy điện Sông Ba Hạ và gửi thông báo, cảnh báo bà con sơ tán, di dời tài sản”; chủ tịch xã cũng khẳng định “Chúng tôi thông tin bằng cách hệ thống loa phát thanh, cho cán bộ xã đến từng thôn phát loa thông báo, cảnh báo trên hệ thống mạng xã hội, trang thông tin xã… Song nhiều người vẫn rất chủ quan.”

Nhưng người dân lại cho biết “Cứ nói xả lũ mà có nghe ai thông báo gì đâu, không biết xả bao nhiêu, chỉ thấy nước lên ào ào”.

Chủ tịch UBND phường Phú Yên cho hay địa phương được thông báo đầy đủ về hoạt động của thủy điện Sông Ba Hạ trong vòng mỗi giờ. Lúc cao điểm, các thông báo cập nhật diễn ra trong vòng mỗi 15 phút. “Thông tin về xả lũ của thủy điện được chuyển đến người dân cũng bằng các nhóm mạng xã hội, tin nhắn, thông qua các cuộc họp. Những điểm đi lại được thì gặp trực tiếp người dân thông báo” – ông Cảnh thông tin.

Tuy nhiên, khi được hỏi về việc người dân cho rằng họ không được thông báo dẫn đến bị động, ông Cảnh im lặng và ngắt điện thoại.

Chủ tịch tỉnh “thừa nhận công tác dự báo trong trận lũ lịch sử vừa rồi “không có trong kịch bản”, dẫn tới bị động”. PV hỏi là “Vì sao nhiều người dân nói họ không hề được thông báo, cảnh báo về đợt xả lũ với lưu lượng lớn chưa từng có?”. Ông Tuấn đáp: “Có thể trong lúc này nhiều người hoang mang, có người có thể nhận được, có khi không nhận được thông báo”.

Trên báo VnExpress, TS Nguyễn Quốc Dũng (Phó chủ tịch Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam) cho rằng “nếu các hồ thủy điện xả lũ sớm sẽ giảm được ngập, tuy nhiên đang thiếu đội ngũ tư vấn cho chủ tịch tỉnh ra quyết định này”. “Ông Dũng cho rằng “điều đáng lo là ai cũng đúng”, chủ đập khẳng định làm đúng quy trình, Ban Chỉ huy phòng chống thiên tai cũng ra lệnh đúng quy định. Nhưng địa phương lại thiếu đội ngũ tư vấn, đủ chuyên môn thủy văn, thủy lực để tham mưu chủ tịch tỉnh quyết định xả lũ sớm”. (dẫn Báo Thanh Niên).

Cũng trong bài này, ông Dũng đặt câu hỏi “nếu xả lũ sớm nhưng sau đó không mưa, thiếu nước sản xuất điện, ai chịu trách nhiệm? Trong quá khứ đã từng có thủy điện xả sớm khiến hồ cạn, không phát đủ điện và bị phạt nặng vì thiếu công suất”.

Việt Nam hiện đang chống thiên tai như thế nào:

Mỗi hồ vận hành riêng lẻ: Tập đoàn điện lực (EVN) quản lý hồ thuỷ điện của họ; Bộ NN&PTNT quản lý hồ thuỷ lợi; UBND tỉnh chỉ đạo khi có sự cố; Bộ TNMT dự báo mưa nhưng không có quyền chỉ đạo xả lũ.

Theo đó, trạm đo gửi số liệu (30–60 phút/lần) → người trực hồ báo cáo lên tỉnh → tỉnh xin ý kiến liên tỉnh hoặc bộ → ra lệnh xả.

Không có “bộ tổng chỉ huy chung”.

Ngày 22.11, UBND tỉnh Đồng Nai đã phải làm văn bản gửi tới 17 nhà máy thủy điện phối hợp cung cấp thông tin điều tiết xả tràn, xả lũ về hạ lưu của các hồ thủy điện trên lưu vực các sông Đồng Nai, La Ngà, Sông Bé. Đây là điển hình, minh chứng hung hồn cho việc mạnh ai nấy làm, ối a ba phèng, lốc bốc xoảng trước cuộc sống và tính mạng hàng triệu người dân.

  1. Không thể tiếp tục theo cách cũ

TS Nguyễn Quốc Dũng (Phó chủ tịch Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước Việt Nam) nhận định “điều đáng lo là ai cũng đúng”, chủ đập khẳng định làm đúng quy trình, Ban Chỉ huy phòng chống thiên tai cũng ra lệnh đúng quy định. Nhưng địa phương lại thiếu đội ngũ tư vấn, đủ chuyên môn thủy văn, thủy lực để tham mưu chủ tịch tỉnh quyết định xả lũ sớm. Phần lớn cán bộ tham mưu hiện nay thuộc các Sở Nông nghiệp hoặc Công Thương, không phải chuyên gia chuyên sâu.

Sợ quá! Một cỗ máy mà mỗi quyết định được đưa ra sẽ ảnh hưởng đến hàng triệu người nhưng “Phần lớn cán bộ tham mưu hiện nay thuộc các Sở Nông nghiệp hoặc Công Thương, không phải chuyên gia chuyên sâu”!

Chúng ta không thể tiếp tục vận hành một “hệ thống chạy bằng cơm” theo cách này.

Trước tình trạng biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng, số lượng thủy điện vẫn đang ngày càng tăng lên, mà vẫn dùng “nồi đồng cối đá”, nặng tính hành chính quan liêu “chân không bén đất” thì không thảm họa mới là lạ.

Với công nghệ hiện đại như ngày nay phải có một hệ thống điện tử được vận hành hoàn toàn tự động, không thể tiếp tục “chạy bằng cơm” nữa. Hình dung rằng, mọi số liệu về lượng mưa, về lưu lượng dòng chảy, về mực nước trong các hồ… sẽ được thiết bị thông minh tự động truyền trực tiếp về máy chủ, hiển thị trên màn hình lớn của “bộ chỉ huy”. Chiếc máy này cũng tự động phân tích và ra lệnh, ví dụ: 15:00 xả hồ A, di dời dân xã B; 17:15 xả hồ C, di dời dân xã D, E…

Máy chủ sẽ tự động đẩy lệnh về các hồ chứa và các địa phương, hệ thống cảnh báo sẽ lập tức vang lên, người trực “ấn nút”, loa phóng thanh xã/phường phát đi thông báo, toàn bộ lực lượng phòng chống thiên tai được kích hoạt “ra quân”.

Các nước tiên tiến họ làm như vậy đó.

Chủ tịch tỉnh ở ta vốn không có chuyên môn, cơ quan tham mưu cũng không chuyên môn nốt, ngồi chờ nhận thông báo bằng giấy, đọc xong thì hạ du đã trôi nhà mất mạng. Đó là chưa nói còn phải “làm công văn xin các thủy điện ở tỉnh bên cung cấp thông tin xả lũ” nữa thì…chỉ còn nịt!

Phải dùng công nghệ, máy móc sẽ làm việc đó. Cứ ngồi nhìn lên bảng điện tử như nhìn màn hình chứng khoán ấy, các con số được cập nhật từng phút, lệnh được đồng bộ và trực quan, không thể cứ “mo cơm quả cà” mãi thế này được.

Đến bao giờ chúng ta mới thiết kế được một hệ thống tự động như vậy? Bốn chấm không đâu rồi mà cứ để diễn ra mãi tình trạng “chủ đập đúng, chủ tịch tỉnh cũng đúng, chỉ do người dân không kịp chạy”?

Thái Hạo

Nguồn FB Thái Hảo


 

Một bức ảnh xúc động hơn ngàn lời chia buồn!

Vũ Hải Sơn

 Một bức ảnh xúc động hơn ngàn lời chia buồn!

Cuộc chia ly đầy nước mắt trong mênh mông biển nước! Người dân vùng rốn lũ xã Hòa Thịnh, Đắk Lắk (tỉnh Phú Yên cũ) lưu luyến tiễn đưa người thân không may qua đời giữa những ngày mưa lũ…

Từ ngữ nào biểu đạt hết được nỗi đau xé lòng này?

Nguồn: Tuổi Trẻ

Mưa lũ cuốn trôi 2 con nhỏ: Người mẹ gục bên bàn thờ, khóc đến kiệt sức

Đinh Hữu Thoại

“Nước lũ lên quá nhanh, dù dùng ca nô nhưng việc di chuyển vẫn vô cùng khó khăn. Vừa kịp đưa 2 hộ dân ra ngoài an toàn thì chúng tôi quay lại nhà 2 cháu nhưng không kịp cứu…”, anh Triệu tiếc nuối.

thanhnien.vn

Mưa lũ cuốn trôi 2 con nhỏ: Người mẹ gục bên bàn thờ, khóc đến kiệt sức


 

Nhìn tấm ảnh mà đứt ruột, đau xót tận tâm can!

Văn Hóa Việt

Nhìn tấm ảnh mà đứt ruột, đau xót tận tâm can!

Chị Nguyễn Thị Út (xã Hòa Xuân Đông, Đông Hòa, Phú Yên cũ) ngồi lặng lẽ bên chiếc xuồng. Trên đó là thi thể người cha của chị được bọc trong vải bạt và một tấm di ảnh phía trước.

Trong cơn mưa lũ vừa qua, căn nhà của ba mẹ chị nằm trơ trọi giữa cánh đồng mênh mông nước. Khi con nước dữ tràn qua, 2 vợ chồng già vẫn quyết ở lại căn nhà và mảnh vườn bên cánh đồng mà họ đã mưu sinh cả đời.

Suốt mấy ngày mưa lũ lớn, mặc dù rất nóng ruột về tình hình của ba mẹ nhưng chị không thể nào tiếp cận được. Cho đến khi cùng với lực lượng cứu hộ vào được căn nhà thì thật đau đớn khi nhìn thấy thi thể 2 đấng sinh thành nằm kẹt nơi góc nhà.

Sau cơn mưa lũ khủng khiếp mấy ngày qua, không biết đã xảy ra bao nhiêu thảm cảnh như thế.

Nguồn :  Hà Thạch Hãn


 

Vì sao miền Trung cứ mưa là lụt?

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Đàn Chim Việt

24/11/2025 

Thủy điện xả lũ

Miền Trung năm nào cũng lũ, nhưng những năm gần đây mức độ thiệt hại ngày càng nghiêm trọng. Không năm nào như năm nay. Mới vài tuần trước Hội An, Huế, Đà Nẵng nước lên ngập mái nhà chưa kịp rút hết thì giờ nước lại lên và lần này không chỉ từ Quảng Trị tới Hội An nữa mà cả nguyên một dải Nam Trung Bộ cũng đều mênh mông trong biển nước.

Chắc sẽ có nhiều người đặt câu hỏi:

Tại sao chỉ mưa vài ngày mà nhà cửa ngập tận nóc? Tại sao lũ ngày xưa không dữ như bây giờ? Và tại sao thủy điện lại luôn được nhắc đến khi xảy ra ngập lụt? Những hình ảnh ngập lụt luôn đi kèm với những hình ảnh xả lũ ào ạt.

Nếu chỉ nhìn một nhân tố riêng lẻ như mưa nhiều, sạt lở đất, thủy điện xả lũ rồi gán nguyên nhân cho một trong số chúng thì sẽ đều là cách nhìn phiến diện.

Để lý giải được nguyên nhân cho những gì đang xảy ra một cách toàn diện đầy đủ ta cần nhìn miền Trung như một hệ thống phức hợp với nhiều yếu tố liên kết với nhau, mỗi yếu tố thay đổi một chút cũng có thể làm cả hệ thống biến dạng.

Chúng ta sẽ đi qua từng tầng, từng nguyên nhân từ thiên nhiên, con người đến hạ tầng để thấy lũ lụt miền Trung không phải đơn thuần là chuyện “thiên tai” mà còn có cả “nhân họa” nữa. Thực tế những gì chúng ta đang thấy hôm nay là hậu quả của nhiều năm lệch pha giữa hệ sinh thái và cách chúng ta can thiệp vào nó.

  1. Địa hình miền Trung: chiếc phễu hứng nước tự nhiên

Miền Trung là một dải đất hẹp, một bên là biển, một bên là núi. Khoảng cách từ chân núi đến biển chỉ vài chục km. Hãy hình dung một chiếc phễu đặt nghiêng. Nước đổ xuống sẽ chảy thẳng ra đầu nhỏ rất nhanh. Theo logic đó thì với địa hình giống như chiếc phễu của Miền Trung ta sẽ thấy:

Mưa từ núi đổ xuống gần như lập tức. Không có đồng bằng rộng để “giữ nước” như miền Tây hay sông Hồng. Sông ngắn, dốc, dòng chảy mạnh. Nghĩa là nước về nhanh hơn khả năng thoát, tạo ra lũ dồn và lũ quét. Đây là “bản chất tự nhiên” của vùng đất miền Trung dài và hẹp, núi ngay sát biển.

Nhưng tự nhiên vốn có chế độ vận hành và điều hóa riêng của nó. Nếu nhìn lại lịch sử chúng ta sẽ thấy ngày xưa, dù mưa lớn vẫn ít khi ngập sâu như bây giờ. Vấn đề nằm ở những thay đổi chúng ta tạo ra.

Nếu chiếc phễu nghiêng 

  1. Rừng mất, tầng đệm hấp thu biến mất

Nếu chiếc phễu nghiêng đó có tấm mút xốp lót phía trên, thì nước sẽ được thấm từ từ, giảm sốc. Rừng chính là tấm mút đó. Khi rừng dày, nước mưa được giữ lại trên tán lá và thấm vào đất rồi chảy xuống dần dần

Nếu rừng bị khai thác quá mức, hoặc thay thế bằng rừng trồng kinh tế (cây non, tán thưa, đất nghèo), thì nước không còn “bị giữ lại”. Nó đổ thẳng xuống sông.

Đất miền Trung lại rất mỏng. Khi mất rừng, mưa xuống là trôi bề mặt, chứ không thấm được. Giống như đổ nước lên nền xi măng nước tràn đi ngay.

Kết quả: lũ đến nhanh, mạnh và bất thường.

  1. Sông bị thay đổi dẫn đến mất khả năng tự điều hòa

Nguyên nhân bị sông bị thay đổi thì lý do chính là ở các hệ thống thủy điện và hồ thủy lợi.

Hồi học cấp 2 mình nhớ các thày cô giáo dạy là thủy điện là một phát minh tuyệt vời và chỉ có lợi không có hại, nó là minh chứng cho việc con người cải tạo thiên nhiên vừa làm ra điện, vừa giúp trị thủy điều tiết dòng nước làm giảm lũ lụt. Và đã rất nhiều năm mình cũng tin vào điều đó mà không kiểm chứng lại thông tin cho đến sau này khi đọc báo thấy nhiều nước châu Âu và Mỹ người ta dỡ bỏ dần các công trình thủy điện để trả lại môi trường thì mới thắc mắc và đi tìm câu trả lời.

Và kết quả là sau khi tìm hiểu thì mình biết rằng các nước phát triển bỏ thủy điện đã và đang dỡ bỏ thủy điện không phải vì họ “không cần điện nữa”, mà vì hiểu biết hệ thống của họ đã thay đổi. Họ phát hiện rằng thủy điện mang lại điện rẻ trước mắt nhưng gây chi phí hệ thống rất lớn về lâu dài. Khi tổng chi phí ấy vượt quá lợi ích, họ chọn tháo dỡ. Thủy điện cắt đứt dòng chảy tự nhiên, giữ phù sa, làm nước tù, nhiệt độ thay đổi.

Nhiều nước nhận ra điều này khi thấy cá tuyệt chủng hoặc giảm 80–95%, sông mất khả năng tự làm sạch, đất ngập nước và rừng ven sông biến mất. Chi phí phục hồi hệ sinh thái còn lớn hơn chi phí vận hành thủy điện.

Sông tự nhiên có ba chức năng quan trọng là mang nước, mang phù sa và tự đào sâu, tự bồi để ổn định lòng sông.

Khi hệ thống thủy điện xây dựng dày đặc, những chức năng này bị phá vỡ. Phù sa bị giữ lại trong hồ, khiến lòng sông ở hạ du sâu hơn, yếu hơn. Bờ sông dễ sạt lở không còn phù sa bồi ruộng, dẫn tới đất bạc màu

Tệ hơn, hồ chứa dần bị bồi lắng, giảm dung tích chứa nước. Khi mới xây thì dung tích hồ chứa rất lớn nhưng càng ngày theo thời gian phù sa không chảy theo dòng mà đọng lại trong hồ thành trầm tích chiếm dụng không gian lòng hồ dẫn đến dung tích chứa hồ bị thu hẹp lại. Khi mưa đến, hồ nhanh đầy hơn thì ban quản lý buộc phải xả nước nhanh hơn tạo ra dòng lũ nhân tạo dồn dập.

Sông vốn có nhịp điệu tự nhiên của nó nhưng một khi bị khóa lại bằng đập, nó mất đi khả năng tự điều hòa. Khi phù sa không xuống được hạ du nó bờ sông bị xói, lòng sông sâu và khi chảy ra biển thì làm bờ biển lún, cầu cống, đường sá bị phá hủy nhanh. Ở Mỹ và châu Âu, nhiều cây cầu phải sửa liên tục chỉ vì các đập giữ trầm tích. Chi phí bảo trì này vượt xa tiền bán điện nên họ bỏ thủy điện.

Thủy điện là công trình có vai trò hai mặt đem lại lợi ích lớn nhưng rủi ro hệ thống rất lớn.

Nhiều nước phát triển nhận ra hồ chứa có giới hạn. Thời điểm mưa cực đoan và bão ngày càng khó dự đoán rủi ro vỡ đập ngày càng tăng, rủi ro xả lũ khẩn cấp gây thảm họa hậu quả nếu xảy ra sự cố là không thể chấp nhận được đối với dân cư đông đúc. Tháo dỡ đập sẽ làm giảm các tình huống rủi ro khẩn cấp đến mức thấp nhất.

Nói thế này nhiều người nhầm rằng thủy điện gây lũ. Nguyên nhân sâu xa thì vẫn là từ mưa, lượng nước nhiều. Thực tế, bản thân thủy điện không tạo ra nước nhưng nó làm cho dòng nước trở nên hung dữ hơn. Quả thực thủy điện làm thay đổi cách nước đi qua hệ thống nên có thể làm cho lũ lụt trở nên trầm trọng hơn. Thông thường nếu mọi thứ vận hành theo tự nhiên khi có lũ nước sẽ tăng từ từ và có độ trễ lớn hơn khi chảy về đồng bằng, xuôi ra biển.

Nếu không có đập nước thì đường đi của nước sẽ là: Nước mưa thấm vào đất chảy ra suối đổ ra sông. Quá trình này có thời gian trễ tự nhiên dài, nước lên từ từ, đỉnh lũ tăng dần.

Còn đây là tình trạng của lũ có thủy điện: Nước dâng đột ngột, dồn một cục. Khi hồ đầy sẽ rơi vào tình thế lưỡng nan là

Nếu xả ít thì có nguy cơ vỡ đập mà nếu xả nhiều thì sẽ ngập hạ du. Cuối cùng người ta thường buộc phải chọn “phương án ít tệ hơn” là xả nhiều. Và khi xả thì lưu lượng tăng đột biến làm nước đổ xuống trong vài giờ thay vì vài ngày tạo “cú sốc thủy lực” thay vì một quá trình từ tốn.

Trong khoa học hệ thống, đây gọi là spike shock: cú đột biến phá vỡ mọi cân bằng.

Tại sao thủy điện càng nhiều, lũ càng nặng?

Vì các hồ chứa nối tiếp nhau theo chuỗi. Chỉ cần một hồ đầy và xả, hồ dưới cũng phải xả theo. Toàn bộ chuỗi hồ vận hành như một “dòng domino thủy lực”. Vùng hạ du là nơi đông dân nhất sẽ chịu tất cả hậu quả.

  1. Đô thị hóa bóp nghẹt mọi đường thoát nước

Ngày xưa nước tràn ruộng, tràn ao, tràn cánh đồng, rồi mới vào nhà dân. Ngày nay bê tông hóa, nhà cửa san sát, ruộng biến thành khu dân cư, ao hồ bị san lấp, cống quá nhỏ so với lượng mưa mới. Nước không còn nơi tạm trú. Nó chỉ có một con đường duy nhất: tràn thẳng vào phố.

Hệ thống thoát nước đô thị miền Trung vốn thiết kế theo dữ liệu khí hậu cũ, khi mưa cực đoan còn hiếm. Giờ khí hậu đã đổi nhưng hạ tầng thì chưa. Khi không gian hấp thu biến mất, lũ không còn “đi vòng được”, và mọi nơi thấp đều trở thành hố nước.

  1. Biển chặn đường nước bị dồn nghẽn hai chiều

Các thành phố miền Trung đều nằm ở cửa sông. Khi mưa từ núi đổ xuống, triều biển dâng lên, gió mùa đẩy nước biển vào. Ta có hiện tượng kẹt hai đầu: nước từ thượng nguồn không thoát ra được, nước biển dâng lên chặn ngang như đóng một cái van. Cửa sông tắc nghẽn nước dâng đứng.

Đây là lý do Đà Nẵng, Huế, Hội An… rất dễ ngập dù hệ thống thành phố hiện đại hơn các tỉnh khác.

  1. Biến đổi khí hậu: những trận mưa “không thuộc sách giáo khoa”

Tần suất mưa cực đoan đang tăng. Ngày xưa một trận mưa 300–400 mm phải 10 năm mới gặp. Giờ 1 đến 2 năm lại xuất hiện. Nếu hệ thống thiết kế để chịu “trận lũ 10 năm”, nhưng mỗi năm lại có một trận tương tự, thì hệ thống chắc chắn vỡ. Biến đổi khí hậu không gây lụt trực tiếp. Nó làm mọi rủi ro có sẵn trở nên sắc bén và khó lường hơn.

  1. Tổng hợp lại: Vì sao miền Trung ngập nặng?

Vì nhiều yếu tố lệch pha cùng lúc:

Rừng suy yếu làm mất khả năng thấm. Đất trơ trọi làm nước trôi bề mặt. Sông bị chặn dẫn đến mất cân bằng phù sa. Thủy điện đầy nước mà không có lựa chọn khác luôn xả khẩn cấp khi có áp lực. Đô thị hóa phá hết vùng chứa nước và thủy triều biển dâng chặn đường thoát

Càng ngày càng có nhiều cơn mưa cực đoan dồn toàn bộ năng lượng vào hệ thống đã suy. Lũ không còn là “nhiều nước”, mà là nhiều nước đi vào một hệ thống không còn chỗ cho nó. Hệ thống mất khả năng chống sốc, nên chỉ cần một tác nhân như mưa lớn là đủ gây thảm họa.

GIẢI PHÁP NHƯ THẾ NÀO?

Giải pháp dài hạn để giảm lũ miền Trung: chỉ có thể làm bằng tư duy hệ thống

Muốn miền Trung hết cảnh cứ mưa là ngập, không thể sửa một chỗ. Phải “chỉnh lại cả dàn nhạc” từ rừng, đất, sông, hồ đến đô thị và biển. Mỗi nơi một chút, nhưng khi kết hợp thành mạng lưới, chúng tạo ra sức mạnh lớn hơn rất nhiều.

  1. Khôi phục “tấm mút” tự nhiên: rừng giữ nước, đất giữ nước.

Nếu rừng là cái mút xốp thì ngược lại rừng trọc là nền xi măng. Muốn giảm lũ, bước đầu tiên phải làm cho nước thấm chậm lại.

Các giải pháp căn cơ: phục hồi rừng tự nhiên thay vì chỉ trồng rừng kinh tế, tăng diện tích rừng phòng hộ đầu nguồn ,xây “đê mềm” bằng cây cối và hệ sinh thái thay vì bê tông và hạn chế phá rừng làm nương, làm dự án ngắn hạn

Hiệu quả không thấy ngay. Nhưng chỉ cần 5 đến 7 năm, đất vùng đồi núi sẽ tăng khả năng giữ nước gấp nhiều lần. Khi rừng khỏe, đất ẩm nước xuống sông chậm thì lũ sẽ thấp. Đây là vòng lặp giải nguy đầu tiên.

  1. Trả lại nhịp điệu tự nhiên cho sông

Sông là một sinh vật sống. Nó đào, nó bồi đắp, nó uốn cong để tự điều hòa. Khi bị chặn bằng đập, nó mất chức năng đó.

Giải pháp:

Duy trì lượng xả đáy để đưa phù sa về hạ du, ưu tiên nạo vét hợp lý, khôi phục các nhánh sông cũ. Không bê tông hóa toàn bộ bờ sông, giữ không gian cho sông “thở”. Mở lại một số vùng trũng tự nhiên làm nơi chứa nước tạm thời. Sông được trả lại không gian thì lũ có chỗ tản sẽ làm đỉnh lũ giảm mạnh.

  1. Điều độ thủy điện theo “nguyên lý dòng chảy chậm”

Hiện tại chúng ta vẫn còn cần thủy điện vì chưa đủ điều kiện thay thế như các nước phát triển nhưng cũng cần thay đổi cách vận hành bởi vì cách vận hành hiện nay giống như để hồ đầy gặp mưa lớn xả gấp cho kịp. Đây là cách dùng hồ chứa như một cái cốc tràn: dẫn tới cú sốc nước khổng lồ.

Giải pháp hệ thống là

Bắt buộc hạ mực nước hồ xuống trước mùa mưa (giảm 15–25% dung tích tối đa)

Thiết lập quy trình xả sớm, xả nhỏ, xả theo nhịp tự nhiên

Liên thông dữ liệu giữa các hồ theo chuỗi để tránh domino xả lũ. Mấu chốt không phải “xả ít hay nhiều”, mà là xả theo kiểu từ tốn, giống lũ tự nhiên. Dòng nước chảy từ tốn thì hạ du không vỡ vụn.

Có hệ dự báo thời tiết chính xác tới từng giờ và từng lưu vực, cần sớm ứng dụng AI vào dự báo thời tiết, các nước khác đã có dự báo chính xác hơn nhiều khi áp dụng AI.

  1. Mở lại không gian cho đồng bằng: cần chỗ trữ nước khi lũ về

Đồng bằng miền Trung hẹp, nhưng vẫn có những vùng trũng, ao hồ, đầm phá từng làm “túi chứa nước” tự nhiên. Khi đô thị hóa lột mất các vùng trũng đó, thì nước không có chỗ đứng.

Giải pháp:

Đào các “hồ sinh thái”, “hồ điều hòa” xen trong đô thị để chứa nước. Không san lấp ao hồ, mà kết nối chúng thành hệ thống chứa lũ.

Khôi phục vùng ngập lũ tự nhiên (floodplain) đưa những khu dân cư trũng thấp vào kế hoạch giãn dân hoặc nâng nền

Một thành phố có đủ không gian chứa nước thì lũ đến chỉ là “nước mưa nhiều”, không phải thảm họa.

  1. Thoát nước đô thị phải dựa trên nhận thức về tình hình khí hậu mới, không phải dựa trên nhận thức về tình trạng khí hậu cũ.

Cống thoát nước ở nhiều TP miền Trung được thiết kế cho cường độ mưa của 30–40 năm trước. Nhưng khí hậu đã đổi nhanh hơn hạ tầng.

Giải pháp:

Nâng chuẩn thiết kế thoát nước theo mưa cực đoan 300–500 mm/24h

Làm mương hở và hành lang thoát nước thay vì cống nhỏ

Tăng diện tích bê tông thấm nước và vật liệu thấm

Làm “đường thoát lũ” khẩn cấp trong đô thị

Không có hệ thống thoát nước mới, mọi giải pháp khác chỉ chữa phần ngọn.

  1. Quản lý sông, rừng, hồ theo một mạng lưới duy nhất

Lũ không đi theo ranh giới hành chính. Nó đi theo độ dốc, lưu vực và đường dòng chảy nhưng có một khó khăn là hiện nay:

Rừng do lâm nghiệp quản, hồ do thủy điện quản còn lũ do chính quyền tỉnh xử lý. Chúng ta không có một mạng lưới chung. Đây là điểm nghẽn lớn nhất.

Giải pháp:

Lập cơ quan quản lý lưu vực thống nhất theo từng sông

Hồ chứa được vận hành theo mục tiêu an toàn hệ thống, không chỉ theo doanh thu điện

Dữ liệu thời tiết, mực nước, xả lũ kết nối realtime cho mọi bên

Khi cả hệ thống nhìn chung 1 bản đồ, lũ sẽ dễ kiểm soát hơn rất nhiều.

  1. Chuẩn bị cho tương lai: mưa cực đoan sẽ còn tăng

Biến đổi khí hậu làm miền Trung thành “điểm nóng mưa lớn ngắn hạn” của khu vực. Cần chấp nhận rằng mưa 300–400 mm/24h giờ đã là bình thường. Bão ít đi nhưng mưa sau bão mạnh hơn. Dải hội tụ nhiệt đới xuất hiện bất thường và chúng ta không thể dựa vào kinh nghiệm cũ để đoán lũ mới

Giải pháp:

Xây bản đồ rủi ro nước theo năm, theo mùa. Có hệ thống cảnh báo sớm từng giờ mô phỏng lũ bằng mô hình số 3D. Cũng cần đưa giáo dục an toàn nước vào trường học để nâng cấp dần kỹ năng “sống chung với lũ” cho người dân để không ai bị bất ngờ.

Lũ không bao giờ biến mất. Nhưng thiệt hại có thể giảm xuống 10 lần nếu chuẩn bị đúng cách.

Tổng kết lại nguyên nhân của tình trạng hiện nay là

Thiên tai + Hệ thống suy kiệt dễ tổn thương = Thảm họa.

Nhưng chúng ta vẫn có lựa chọn khác nếu hành động đúng.

Thiên tai + Hệ thống khỏe = Thử thách có thể vượt qua

Nói tóm lại là: Muốn bớt lũ, phải thuận theo tự nhiên, theo ông trời. Ngôn ngữ hệ thống gọi là phải bớt lệch pha với tự nhiên, cố gắng đồng bộ với hệ sinh thái.

FB Thành Nguyễn


 

Nghị lực phi thường không phải là mạnh mẽ từ đầu

Vạn Điều Hay

Nghị lực phi thường không phải là mạnh mẽ từ đầu, mà là vẫn kiên cường dù không còn chút sức lực nào

Chiều hôm ấy, nước lũ bất ngờ dâng cao. Giữa cánh đồng heo hút, căn nhà nhỏ của chị đứng chơ vơ trong tiếng gió rít và trời sầm tối. Một linh cảm chẳng lành len vào tim chị khi thấy nước mỗi lúc một dữ dội. Không kịp nghĩ ngợi, chị chỉ kịp đưa hai đứa nhỏ leo lên mái nhà, mặc cho toàn bộ đồ đạc bị dòng nước cuốn trôi trong khoảnh khắc.

Cha chồng đã gần 80 tuổi. Khi nước bắt đầu dâng, ông cụ cố đi tìm chỗ trú vì sức yếu, không thể leo lên mái nhà.

Mưa như dội thẳng từ trời xuống. Trong tích tắc, căn nhà chìm sâu trong biển nước. Ba mẹ con co ro trên tấm mái tôn lạnh buốt, bốn bề chẳng còn bóng người. Không điện, không đèn, không ai qua lại, chỉ có bóng tối và tiếng mưa gào thét. Chị vừa run vừa khóc, nhưng vẫn cố gắng ôm chặt hai con vào lòng, dỗ dành trong tuyệt vọng. Hai đứa nhỏ chỉ biết co cụm bên mẹ, run bần bật. Hình ảnh ấy khiến bất cứ ai nhìn thấy cũng nhói lòng.

“Ban đầu nước chỉ ngập thấp, tôi còn ráng kê đồ lên cao. Ai ngờ nước lên nhanh quá, không kịp trở tay. Cửa bật tung, mọi thứ trôi theo dòng nước. Tôi chỉ ôm được hai đứa trèo lên nóc nhà, mang theo đúng hai lốc sữa để tụi nhỏ cầm cự”, chị kể, giọng còn run rẩy.

Trên nóc nhà trần trụi, chiếc áo mưa mỏng chẳng đủ che mưa gió. Ba mẹ con trải trọn đêm dài, vừa lạnh vừa đói, vừa sợ hãi. Chị gửi lời cầu cứu lên mạng; dòng tin nhắn của chị được chia sẻ khắp nơi, nhưng nhiều giờ trôi qua vẫn chưa có hồi đáp.

“Tôi sợ hai đứa nhỏ không chịu nổi. Tụi nhỏ lạnh xanh mặt. Tôi chỉ biết ôm con mà khóc. Mỗi giờ trên mái nhà dài như một ngày”, chị nói.

Sau 27 tiếng chênh vênh giữa trời nước, cuối cùng lực lượng cứu hộ cũng tìm đến. Ba mẹ con được đưa đến vùng cao an toàn. Hai đứa trẻ được ủ ấm, cho ăn, tinh thần dần ổn định sau ký ức kinh hoàng.

Ở trong Nam, chồng chị như “ngồi trên lửa”. Đường sá tê liệt, xe cộ không lưu thông, anh không thể mua nổi một tấm vé về quê. Anh đành mượn xe máy của người quen, vượt gần 400 km giữa mưa gió, chỉ với một ý nghĩ duy nhất: phải về với vợ con. Trên đường trở về quê, anh nhận được cuộc gọi báo tin cha mình đã bị nước cuốn và ra đi mãi mãi.

Khi đặt chân về đến quê, nhìn thấy vợ và hai con bình an, anh chỉ kịp ôm chầm lấy ba mẹ con mà nghẹn ngào:

“Còn người là mừng rồi…”

Cơn lũ đi qua, họ mất cha già, mất nhà cửa, mất sạch tài sản tích cóp bấy lâu. Anh ở lại quê, cùng vợ dọn dẹp và cúng thất cho cha. Lòng anh rối bời, chưa biết tương lai sẽ ra sao. Nhưng trong phút giây này, với anh, việc còn vợ con ở bên là điều quý giá nhất.

Giữa hoang tàn, còn lại một điều không gì đánh đổi được – Đó là sự sống.

Và cũng trong những ngày nghiệt ngã ấy, người ta thấy rõ một điều:

Nghị lực phi thường không phải là mạnh mẽ từ đầu. Mà là, dù sợ hãi, dù kiệt sức, dù tưởng như chẳng còn chút hơi tàn — người mẹ ấy vẫn không buông tay con, vẫn tiếp tục sống, tiếp tục kiên cường.

(Câu chuyện của chị Đỗ Thị Hồng Đào (SN 1994) ở xóm Bầu Trạnh, xã Hòa Mỹ, Đắk Lắk.)

Khai Tâm biên tập

(Ảnh và tư liệu lấy từ trang Dân Trí)


 

Chị Diễm bám lấy cây nhàu suốt hai ngày hai đêm.

Nguyễn Thị Bích Hậu

 Nhà báo Lê Anh Đủ đang ở Tuy An, Phú Yên. Một xã mà anh nói với mình có rất nhiều suối, một vùng trũng. Lũ về vừa rồi có nhiều người tử vong.

Những hình ảnh dưới đây là của anh chụp tại Tuy An. Người phụ nữ trong hình là chị Nguyễn Thị Diễm ở thôn Tuy An Đông.

Cơn lũ vừa qua, nhà tan cửa nát, chị sống sót được là vì trèo lên cây nhàu trong sân nhà, rồi ở trên đó 2 ngày 2 đêm trong mưa lũ ngút trời trước khi được giải cứu. Trong thời gian đó, chị kiên cường bám víu sự sống và tụng chú Đại Bi.

Có lẽ Trời Phật đã nghe thấu tiếng kêu cứu tuyệt vọng trong tâm tưởng người phụ nữ đó mà cho chị được sống.

______________________

Anh Lê Anh Đủ viết trên trang của TT BSA những dòng rất xúc động:

“Từ trên cao, chị nhìn thấy mái nhà của mình nghiêng dần rồi đổ sập. Khoảng cách đến nhà hàng xóm chỉ vài chục mét, nhưng sức nước không cho ai tới gần.

Người dân đứng trên mái nhà bên kia dòng nước chỉ có thể dùng đèn pin ra hiệu và hét sang trong tiếng gió: “Bà ôm cây cho chắc. Ráng lên. Buông tay là chết đó”.

Dưới ánh sáng chập chờn, Diễm chứng kiến những gì chưa từng thấy trong đời: một con bò bị cuốn trôi, vừa rống lên vừa xoay vòng giữa dòng nước. Vài giây sau, tiếng rống tắt lịm. Một con nữa. Rồi một con nữa. Đàn bò bị nước nhấn chìm, tiếng kêu vang qua màn đêm khiến chị chỉ biết ôm chặt cành cây mà bất lực nhìn theo.

Lũ ập đến như muốn xé toạc làng mạc. Nước dội mạnh vào tường những ngôi nhà còn sót lại, kéo sập từng mảng lớn.

Chị Diễm bám lấy cây nhàu suốt hai ngày hai đêm. Không thức ăn. Không nước uống. Chỉ có âm thanh của dòng nước và cảm giác cái lạnh bám lấy từng thớ thịt.

Tô mì nóng đầu tiên sau khi được cứu khiến chị bật khóc. Giữ được mạng, nhưng tất cả những gì dành dụm qua hàng chục năm mưu sinh – chiếc bếp gas, tủ lạnh nhỏ, vài bộ quần áo – đều đã theo con nước trôi đi.

Mâý ngày sau, chị được nhà chùa gần đó cưu mang, rồi phải điều trị vì suy kiệt…

Chị nói với chúng tôi: “Giờ tui mới thấy mạng sống giá trị. Tui sẽ chăm sóc cái cây nhàu cứu mạng tui”.

_________________

Mình đọc những dòng này từ chiều nay và nghĩ miên man về chị Diễm, về những người nông dân kiên cường miền Trung.

Trên gương mặt có họ có biết bao nhiêu sự chịu đựng, biết bao sự dồn nén để gắng sống sót qua mọi thiên tai địch họa, qua mọi biến cố của kiếp người.

Họ là đồng bào của chúng ta.


 

CHUYỆN NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH VNCH

Xuyên Sơn

 CHUYỆN NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH VNCH

1.Vợ Lính Thời Chinh Chiến…

Thôn Nữ Bàu Trai

Lời Giới Thiệu:

Tác giả bài viết này là một phụ nữ sinh trưởng ở Bàu Trai, miền Đông Nam Phần.

Đây là một địa danh mà các quân nhân từng hành quân ở vùng 3 chiến thuật đều quen biết.

Từ câu chuyện tình đơn sơ, một thiếu nữ hiền lành trở thành người vợ lính thời chiến. Đời sống gia binh, người chồng chuẩn bị đi hành quân, tiếng khóc của góa phụ nhà kế bên, tiếng xe Jeep của chàng trở về chạy trên sân sỏi, tiếng súng đêm đêm vọng lại, những lần từ biệt vội vàng, các chuyến về thăm nhà bất chợt giữa các trận đánh.

Người vợ lính với 20 năm khắc khoải, hạnh phúc đếm từng ngày để đến lúc tan hàng lại tiếp tục lo cho chồng đi cải tạo.

Chúng ta đã từng đọc các trang sử chiến tranh của nam nhi thời binh lửa. Bây giờ xin một lần đọc để thông cảm cho những giọt lệ của phụ nữ VN trong vai trò vợ lính thời chinh chiến.*

      Trong các chị em gái của gia đình, tôi là đứa con gái nhút nhát nhất.

Tôi không thích xem phim chiến tranh, sợ nghe tiếng súng nổ, nên tôi không mong muốn lấy chồng nhà binh như phần đông các cô gái khác thích những chàng trai trong bộ quân phục oai hùng. Có lẽ tôi chịu ảnh hưởng của Ba tôi.

Ba tôi là viên chức hành chánh, ông thường than phiền một số sĩ quan trẻ ngang tàng và lái xe ẩu.

     Một đêm khuya sau Tết Mậu Thân năm 1968, chúng tôi nghe tiếng gõ cửa, Ba tôi cẩn thận đuổi chị em tôi vào phòng, đóng cửa kỹ lại.

Ông bỏ cây súng nhỏ vào túi quần và ra mở cửa. Một sĩ quan trẻ tuổi mặc rằn ri vào xin cho binh sĩ đóng quân trong khu vườn nhà tôi và cho cấp chỉ huy của họ ở tạm trong phòng khách.

Lúc đó Ba tôi mới yên tâm biết là đơn vị đi hành quân về đến đây tìm chỗ nghỉ quân.

      Lính ở đầy trong khu vườn nhà tôi nhưng không phá phách gì như một số người đồn đại.

Riêng vị sĩ quan ở trong phòng khách nhà tôi với cái ghế bố nhà binh nhỏ bé, nằm khiêm nhượng ở một góc phòng. Cuộc sống gia đình tôi không có gì thay đổi khi có mặt vị sĩ quan này.

Chúng tôi lịch sự không đi tới lui trong phòng khách.

Ban đêm thỉnh thoảng chúng tôi nghe những câu hát vu vơ hoặc vài câu vọng cổ của các người lính trẻ than thở nhớ gia đình và người yêu.

Chúng tôi thông cảm và thương mến họ hơn.

 Dần dần ba mẹ tôi có cảm tình với vị sĩ quan chỉ huy. Những lúc rảnh rỗi, ông đến nói chuyện hoặc được ba tôi mời ăn cơm gia đình.

Ông sĩ quan này mượn phòng khách để làm nơi hội họp của bộ chỉ huy, nhờ thế gia đình tôi quen biết thêm vài sĩ quan nữa.

Câu “quân dân như cá nước” là đúng, chúng tôi thân tình rất mau,

có những bữa ăn hoặc những buổi tối ngồi chung để xem ti vi thật vui vẻ. Quan niệm không tốt về nhà binh, cảm giác sợ sệt những người lính chiến trong bộ quân phục rằn ri không còn nữa.

      Cũng nhờ dịp đơn vị dừng quân, tôi đã gặp nhà tôi sau này.

Anh là một trong các sĩ quan trẻ của đơn vị. Chúng tôi biết nhau qua sự giới thiệu của vị sĩ quan quen thân với gia đình như đã kể trên.

Một thời gian sau chúng tôi thương nhau và anh xin làm đám hỏi sớm để còn lên đường đi hành quân.

Có lần anh nói, gia đình hối thúc cưới vợ, nhưng “Đời lính tác chiến xa nhà, ra đi không chắc có ngày trở lại, cưới vợ chỉ làm khổ cho người đàn bà.”

Và anh không muốn vướng bận thê nhi trong thời ly loạn.

Sau đó anh đi hành quân liên tục, thỉnh thoảng tôi chỉ nhận được thư.

Hơn một năm sau đơn vị anh về đóng quân tại Biên Hòa gần Sài Gòn,

đây là dịp tiện lợi để chúng tôi tổ chức đám cưới.

      Tôi theo chồng về ở căn nhà trong trại quân đội. Bây giờ tôi cảm thấy hạnh phúc nhất, ngoài gia đình cha mẹ thương yêu, tôi còn có người chồng tính tình trầm tĩnh, hòa nhã với mọi người.

Sau những ngày nghỉ phép cưới vợ, anh trở lại cuộc sống nay đây mai đó, anh đi ba bốn tháng mới về một lần hoặc lâu hơn tùy tình hình chiến sự.

       Khi anh chuẩn bị đi hành quân tôi không hề biết trước nhưng dễ nhận ra ngay.

Tôi thấy những binh sĩ làm việc với anh lăng xăng dọn dẹp chuẩn bị quân trang. Nhưng tôi vẫn mong mình nghĩ lầm.

Anh trở về nhà gương mặt đượm nét quan trọng, ít nói với tôi hơn.

Bận rộn với giấy tờ, điện thoại và dặn dò người này người kia liên tục.

Tôi hiểu anh không có thì giờ để nghĩ đến gia đình. Tôi không quấy rầy anh, tôi luôn luôn nhớ lời dạy bảo của ba tôi trước khi tôi đi theo chồng: 

“Con đừng bao giờ xen vào công việc của chồng con.”

Ăn cơm tối xong anh tiếp tục chuẩn bị tài liệu. Tôi buồn vì sắp phải xa chồng, không biết làm gì hơn là ngồi sau lưng anh, áp má vào sau lưng anh im lặng. Anh làm việc đến gần nửa đêm, xong anh kêu tôi lại ghế salon ngồi, anh dặn dò mọi việc ở trong nhà, có buồn trở về nhà cha mẹ chơi, nhất là phải cất kỹ tờ giấy hôn thú.

Tôi hiểu anh muốn ám chỉ điều gì, tôi nghe lòng tê tái.

Tôi có bao giờ nghĩ đến mười hai tháng lương tử tuất để thành góa phụ!

Không, tôi chỉ cần chồng tôi. 

     Sau đó chúng tôi chỉ ngủ được vài giờ. Ba giờ sáng trong sân trại rầm rộ tiếng xe, tiếng nói ồn ào của lính.

Trong cảnh lờ mờ tối, tôi nhìn ra sân thấy những người lính, lưng đeo ba lô nặng nề, đầu đội nón sắt.

Trong số đó sẽ có người không trở lại. Quang cảnh này trái hẳn với những ngày đại lễ, những người lính trong bộ quân phục thẳng nếp, tay cầm súng đi diễn hành rất đẹp.

    Khi chồng tôi bắt đầu mặc áo giáp, đeo súng ngang hông, lòng tôi tê tái, có một cái gì đó làm cho tôi bất động, chỉ biết nhìn anh và im lặng.

Sau cùng anh đội nón sắt và đưa tay vỗ vào má tôi nói: 

“Thôi anh đi”.

Anh không có những cử chỉ âu yếm hơn, những lời từ giã nhiều hơn như những lần anh đi làm việc bình thường hay đi ăn cơm với bạn bè.

    Anh sợ làm tôi khóc.

Tôi muốn nói anh cố sớm trở về với em, nhưng càng dặn dò càng đau lòng trong buổi chia tay.

Tôi cố gắng không cho nước mắt trào ra. Tôi nhìn anh thật kỹ, để hình ảnh anh in sâu mãi trong lòng tôi.

Tôi thầm nghĩ, không biết lần này anh có còn trở về không?

Không thể chờ xe anh khuất bóng, tôi chạy vội vào giường khóc nức nở. Cảnh này cứ diễn đi diễn lại trong cuộc đời làm vợ lính của tôi.

Có lần tôi nói với anh, khi đi hành quân cho em biết trước để em chuẩn bị tư tưởng cho đỡ sợ. Nhưng có lẽ vì bí mật quân sự hoặc cuộc hành quân gấp rút, anh chẳng bao giờ chiều tôi chuyện đó.

       Mỗi lần nghe có tin đơn vị anh đụng độ lớn tôi chỉ biết vào phòng âm thầm cầu nguyện, lo sợ gặp những sĩ quan đến báo tin buồn.

Có lúc anh về thăm tôi thình lình. Mừng rỡ không được kéo dài bao lâu lại nghẹn ngào vì anh ra đi sớm hơn lời hứa. Một buổi chiều anh về và nói chiều mai mới đi.

Tôi vui mừng vì trưa mai vợ chồng tôi sẽ có chung bữa cơm với nhau.

Nhưng đến tối có tiếng điện thoại, anh nghe xong nói với tôi sáng sớm mai anh phải đi.

Thế là mất một đêm hạnh phúc, chỉ có tiếng than thở và tiếng nức nở của tôi.

       Khi tôi có thai được sáu tháng, lúc đó anh đóng quân tại Bến Tre,

anh biết gia đình tôi có quen thân với ông bà bác sĩ tại Mỹ Tho.

Anh hẹn gặp tôi tại đó để anh đến thăm vì từ Bến Tre chỉ qua một cái phà là đến Mỹ Tho. Anh cho biết sẽ ở chơi từ trưa đến chiều mới đi.

Sáng ngày ấy ba tôi chở tôi xuống Mỹ Tho, sẵn ba tôi thăm lại người bạn cũ. Tôi gặp anh ngượng ngùng mắc cỡ với cái áo bầu khoác ngoài. Tuy là vợ chồng nhưng ít khi sống gần gũi nhau nên đối với anh đôi khi tôi vẫn còn e thẹn.

Sau khi chúng tôi hàn huyên được nửa giờ, chúng tôi dùng cơm trưa, tuy có mặt ba tôi và hai ông bà bác sĩ nhưng tôi cũng cảm thấy hạnh phúc lắm.

Bữa cơm chưa xong, chồng tôi có máy truyền tin gọi trở về đơn vị, vậy là anh lại đi ngay.

Tôi tiếp tục dùng cơm, nhưng món ăn trở nên lạt lẽo, dầu bà bác sĩ nấu rất ngon. Thương con, ba tôi cáo biệt về Sài Gòn sau buổi cơm.

Trên xe ông nhìn tôi và vuốt tóc thông cảm.

       Một đêm tôi đang ngủ bỗng giật mình thức giấc bởi tiếng khóc thảm thiết của bà hàng xóm, tôi vội đến cửa sổ nhìn ra ngoài để xem chuyện gì xẩy ra. Bên ngoài đêm tối yên tĩnh bị đánh tan bởi tiếng khóc của người vợ trẻ vừa được tin chồng tử trận ngoài chiến trường, cùng đi hành quân chung đơn vị với chồng tôi.

Chị khóc lóc, kêu gào, gọi tên chồng nhưng chồng chị sẽ mãi mãi không trở về nữa.

Tôi trở lại giường nằm nhưng không ngủ được, tôi thương cho người đàn bà góa phụ kia và lo sợ cho bản thân mình.

       Sáng hôm sau người vợ trẻ đầu phủ khăn tang, gương mặt xanh xao cùng với bà mẹ già đi lãnh xác chồng theo sau hai đứa con khoảng ba, bốn tuổi, đầu chít khăn trắng.

Chúng nó vô tư không biết gì, thật ra ba chúng đi hành quân luôn, ít khi ở nhà. Bây giờ không có lời an ủi nào làm chị vơi được nỗi buồn, chỉ mong thời gian sẽ hàn gắn vết thương lòng của chị mà thôi.

Sau này chị kể, chị nghe tiếng chim cú kêu chiều hôm đó, chị nghĩ có điều xui rồi. Tôi không bao giờ tin dị đoan, tôi không xem bói vì thầy bói nói vui tôi không tin, nói buồn tôi phải bận tâm lo lắng, nhưng bây giờ tôi lại sợ tiếng cú kêu.

       Một chị bạn quen, chồng cũng là bạn thân với chồng tôi, nhà ở trong

cư xá đối diện, với ba đứa con nhỏ. Chồng đi hành quân không chắc có ngày về, tinh thần của chị ngày càng suy nhược, cộng thêm những lần thay mặt gia đình đi dự đám tang quá nhiều bạn bè thân thiết bị tử trận.

Tinh thần đã sẵn yếu, ngày càng trở nên suy sụp.

Lúc ở Việt Nam, bác sĩ phải cho uống thuốc an thần. Sau này may mắn được di tản qua sống ở Mỹ nhưng rồi cũng không tránh khỏi bệnh nan y Alzheimer, chị hoàn toàn mất trí, thể xác trông cậy vào người chồng thủy chung, ngày xưa là người chỉ huy chiến trận tài ba, bay giờ biến thành người y tá tận tụy và hy sinh nhẫn nại cho người vợ tào khang, quen biết từ thuở còn niên thiếu.

       Ngày tôi sanh cháu bé, chồng tôi được nghỉ phép, anh ở hẳn trong nhà thương với tôi, mặc cho những lời dị nghị của các cô bác theo xưa cho như vậy là không tốt là bị “mắc phong long”. Mấy ngày sau tôi rời nhà thương, anh được lệnh đi hành quân tại Campuchia.

Nhìn anh đi tôi khóc mãi vì nghe tin đồn ở Campuchia thường bị “Cáp duồn”.

Mẹ tôi khuyên “Con mới sanh khóc như thế không tốt đâu”.

Nhưng tôi đâu nào nghĩ đến sức khoẻ của tôi, tôi lo cho anh và không muốn con tôi mất cha. Hàng ngày bận bịu nuôi con, nghĩ đến anh tôi chỉ biết cầu nguyện.

           Đến năm 1973 chồng tôi chuyển sang làm việc hành chánh, mặc dù ở đâu cũng là phục vụ cho nước nhà, nhưng anh không thích lắm.

Riêng tôi vui vẻ hơn vì đây là dịp mẹ con tôi được sống với anh hàng ngày.

Tại đây anh vẫn phải đi xuống thăm các quận thường xuyên. Đã có các sĩ quan thỉnh thoảng bị chết vì địch phục kích dọc đường, cho nên tôi vẫn tiếp tục lo lắng cho anh.

Ngày này qua ngày khác, mỗi buổi chiều tôi nghe chiếc xe lăn bánh trên con đường đá sỏi vào cổng là tôi biết anh đã bình yên trở về.

Có những chiều anh về rất muộn, tôi không yên tâm được, vào phòng ngồi bất động âm thầm cầu nguyện.

Tình thương đã khiến tôi rất thính tai, tiếng cổng mở cửa từ xa tôi đã nghe được, lúc đó tôi mới thở phào nhẹ nhõm, đi ra ôm lấy con và cùng nhau ra đón ba nó.

            Có những đêm pháo kích tôi sợ quá, một tay ôm choàng lấy con,

một tay nắm chặt tay anh, nhưng sau khi đợt pháo kích đầu tiên đã chấm dứt, anh phải vội vã từ giã mẹ con tôi để băng qua cửa hông nhà đi xuống hầm trung tâm hành quân, hầu tiện việc chỉ huy yểm trợ các đơn vị đồn trú địa phương.

Muốn cho chồng luôn được bình yên và tôi bớt đi nỗi lo âu để yên tâm làm việc nội trợ, một hôm tôi đưa cho anh xâu chuỗi mà vị linh mục đỡ đầu đã cho anh ngày rửa tội.

Tôi nói “Anh nhớ luôn bỏ xâu chuỗi này vào túi áo mỗi ngày anh đi làm việc, để có Chúa phù hộ anh và em đỡ lo lắng cho anh.” Tôi biết đàn ông tánh không chu đáo lắm nên tôi nói thêm “Anh thương em hãy nhớ lời em dặn.”

     Ngày tháng cứ thế trôi qua, chiến sự càng ngày càng sôi động,

cho đến một ngày mẹ con tôi từ giã anh, trở về ở với ngoại, để anh không phải bận tâm gia đình. Chúng tôi từ giã đời sống gia binh. Lần này tôi cũng nhìn anh rất kỹ và niềm hy vọng gặp lại anh ít hơn.

     Khi cuộc sống của người vợ lính thời chiến chấm dứt thì những ngày nghiệt ngã mới lại bắt đầu.

30/04/75 đã chấm dứt cuộc đời binh nghiệp của chồng tôi và anh đi tù với mười ba năm cải tạo.

Riêng tôi, ngoài trách nhiệm nuôi chồng, nuôi con, nỗi lo âu vẫn còn và sự mong đợi chồng về mỏi mòn hơn.

Sau cùng, nhờ ơn trên, nhà tôi đã trở về. Anh vẫn còn giữ xâu chuỗi ngày xưa đã cùng anh sống trong ngục tù với những chỗ bị đứt đã nối lại và rơi mất một hạt.

Hơn hai mươi năm làm vợ lính thời chiến, 13 năm vợ tù cải tạo của thời bình, là người con gái ở miền quê Bàu Trai, tôi có làm gì đâu mà suốt đời chỉ sống với nước mắt.

Chiến tranh đã cướp mất tuổi thanh xuân của bao nhiêu người vợ trẻ.

Chỉ còn lại Việt Nam, một quê hương điêu linh, một dân tộc bất hạnh triền miên trong chiến tranh và nghèo khó.

Thôn Nữ Bàu Trai

nguồn: Email của TH

(còn tiếp)


 

Nhà thờ Mằng Lăng ở tỉnh Phú Yên…va` Cuốn sách Phép Giảng Tám Ngày…

My Lan Pham

Nhà thờ Mằng Lăng ở tỉnh Phú Yên, nơi lưu giữ cuốn sách đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ (Phép Giảng Tám Ngày) đang bị nước lũ bao vây tứ phía. Cho đến giờ vẫn chưa biết được số phận cuốn sách có được đảm bảo hay không.

Cuốn sách Phép Giảng Tám Ngày được cha Alexandre de Rhodes biên soạn và in ấn tại Roma vào năm 1651. Đây được xem là quyển sách tiếng Việt đầu tiên được in bằng chữ Quốc ngữ.

Do cuốn sách nằm dưới hầm có nhà nguyện nhỏ của Chân Phước (Á Thánh) Andre Phú Yên, cho nên khả năng bị ngập chìm là rất cao. Tuy vậy cuốn sách được đặt trong một hộp kính và hy vọng Cha quản nhiệm hoặc các vị hữu trách đã bảo vệ cận thận.

Ngôi nhà thờ cổ này, bản thân đã là một di tích lịch sử vô cùng giá trị, đang chứa trong mình cuốn sách bằng chữ viết đầu tiên mà chính tôi đang dùng để gõ những dòng này.

Khi gõ những dòng này lòng tôi vô cùng biết ơn tiền nhân đã cho ra một phương tiện để biểu đạt được hầu hết những suy nghĩ của mình, và cũng không khỏi lo âu liệu những tài liệu quý giá như vậy có tiếp tục gìn giữ được cho thế hệ mai sau hay không?

Lũ, lũ, và bão lũ… mãi mãi trên quê hương tôi vậy sao?

Lê Quốc Quân


 

Công an triệu tập hơn 50 Facebooker loan tin về số người chết ở Phú Yên

Ba’o Nguoi-Viet

November 23, 2025

ĐẮK LẮK, Việt Nam (NV) – Công An Đắk Lắk loan báo triệu tập 52 Facebooker với cáo buộc đưa tin số người chết do thủy điện xả lũ tại xã Hòa Thịnh, trước đây thuộc tỉnh Phú Yên, nhiều hơn tuyên truyền trên báo nhà nước.

Nhà chức trách công bố chỉ có 23 người tại xã Hòa Thịnh thiệt mạng do mưa lũ, trong lúc các Facebooker đưa tin “hàng trăm người.”

Một phụ nữ bị Công An Đắk Lắk triệu tập vì bài đăng không theo tuyên truyền về số người chết do thủy điện xả lũ tại tỉnh Phú Yên trước đây. (Hình: Công An Đắk Lắk)

Theo tờ Người Lao Động hôm 23 Tháng Mười Một, Công An Đắk Lắk quy chụp rằng 52 danh khoản mạng xã hội “đăng tải nội dung chưa kiểm chứng, sai sự thật về tình hình mưa lũ.”

Có năm trong số 52 Facebooker bị xử phạt 37.5 triệu đồng ($1,422), 17 trường hợp bị triệu tập, răn đe và yêu cầu viết cam kết “không tái phạm,” những người còn lại bị ép buộc “gỡ bỏ bài viết vi phạm.”

Đáng nói, ngoài việc đe dọa các Facebooker, Công An Đắk Lắk còn triệu tập những “KOLs” (người có sức ảnh hưởng), quản trị viên các hội nhóm Facebook tại địa phương, ra lệnh cho họ “tăng cường kiểm duyệt, gỡ bỏ các bình luận, hình ảnh tiêu cực, sai lệch gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự và nỗ lực cứu trợ.”

Trong hai ngày qua, một số báo ở Việt Nam đưa tin úp mở về việc không đủ quan tài cho những người chết tại xã Hòa Thịnh.

Tờ Thanh Niên hôm 23 Tháng Mười Một kể về trường hợp bà Lê Thị Hằng, 50 tuổi, ở xã Hòa Thịnh, có người mẹ thiệt mạng, thi thể ngâm trong nước lũ bốn ngày, bắt đầu phân hủy, mùi tử khí nặng nề nhưng không có quan tài để lo hậu sự.

Bà Hằng kể rằng mình đã báo với chính quyền nhưng cán bộ thôn trả lời: “Giờ tiếp nhận thì tiếp nhận, nhưng để đó…”

Phóng viên báo Thanh Niên cám cảnh trước sự việc, liên hệ đội cứu hộ “Ghềnh Chè Thái Nguyên” để thu xếp một chiếc xe bán tải và ca nô chở quan tài đến tận nhà bà Hằng.

Trên mạng xã hội xuất hiện nhiều lời kêu gọi góp quan tài cho những người chết do thủy điện xả lũ tại xã Hòa Thịnh, trước đây thuộc tỉnh Phú Yên. (Hình: Công An Đắk Lắk)

Một ngày trước, tờ Tuổi Trẻ dẫn lời ông Lâm Sư Thắng, một người dân ở xã Hòa Thịnh có cha thiệt mạng nhưng chưa có quan tài để chôn.

Ông Thắng kể lũ rút, ông về nhà cha mẹ thì phát hiện ông Sanh bị tủ đè, chết chìm dưới nước.

“Tôi nghe mẹ nói ngày 20 Tháng Mười Một, nước rút tới bụng, cha bước xuống thì bị tủ ngã đè. Giờ chờ quan tài mà mãi chẳng thấy. Không biết có quan tài để chôn không, dịch vụ mai táng ở đây họ làm không xuể,” ông Thắng nói.

Cùng thời điểm, ông Nguyễn Văn Tiến, người làm dịch vụ mai táng ở xã Hòa Thịnh, được nhìn thấy liên tục nghe điện thoại nhờ lo hậu sự, trước quay qua nói với phóng viên: “Gia đình tôi làm dịch vụ mai táng mấy chục năm ở Hòa Thịnh, nhưng chưa khi nào thấy thảm kịch như lần này. Hôm qua làm 13 đám [ma], hôm nay đến giờ này chín đám. Chẳng biết còn nữa không, mong là dừng, quá khổ.”

Đang nói thì điện thoại đổ chuông, ông Tiến vừa thò tay vào túi quần, vừa nói: “Gì nữa đây, không lẽ còn nữa hả trời…” (N.H.K) [kn]