Sài Gòn có những căn ‘nhà siêu nhỏ’

 Sài Gòn có những căn ‘nhà siêu nhỏ’

Bình Lâm/Người Việt

Nguoi-viet.com

“Ngôi nhà” số 9 Lê Thạch (màu xanh lá cây) chiều ngang 80 cm, nằm giữa khe hở của 2 nhà hàng xóm cao tầng. (Hình: Bình Lâm/Người Việt)

SÀI GÒN (NV) – Đất chật người đông, Sài Gòn xuất hiện rất nhiều ngôi nhà nhỏ đến kỳ dị trong lòng thành phố, mà người ta gọi là “nhà siêu nhỏ.”

Những căn nhà này có thể mọc lên trên lề đường, một phần hẻm, trên khoảng không của hẻm, thậm chí là tận dụng khoảng hở rất hẹp giữa 2 ngôi nhà cạnh nhau. Đây hầu hết là nhà lấn chiếm do người nghèo xây dựng trong khoảng thập niên 90 đến nay. Người dân phải nghĩ ra rất nhiều cách để phù hợp với điều kiện sống quá chật chội.

Có thể nói, những ngôi “nhà siêu nhỏ” ở Sài Gòn là ví dụ gần nhất và đầy hình ảnh cho câu nói “tấc đất tấc vàng.” Một trong những ngôi nhà kỳ nhất Sài Gòn nằm tại số 9, đường Lê Thạch, quận 4. Bề ngang của căn nhà chỉ chừng 80 cm nhưng nó cao đến 3 tầng. “Bất động sản” này được hình thành giữa khe hở của 2 ngôi nhà cao tầng kề nhau. Dù vậy, trông nó khá khang trang với vẻ kiên cố, nhiều cửa sổ và lại còn có cả cửa cuốn bấm điện.

Sài Gòn có những căn ‘nhà siêu nhỏ’

Ngôi nhà (bên phải) của ông Huỳnh Quang Trung trên đường Nguyễn Thị Minh Khai. (Hình: Bình Lâm/Người Việt)

Lụp xụp hơn nhưng cũng cao đến 3 tầng, ngôi nhà của ông Trương Minh Tuấn ở hẻm số 178, đường Đoàn Văn Bơ, quận 4, chỉ đủ đi lọt 1 người đi vào. Phần tầng trệt có mỗi nhà vệ sinh, cái bếp và diện tích còn lại dành cho chiếc thang gỗ bắc lên phòng trên.

“Tui đi bán vé số cả ngày bên ngoài, tối về đây chỉ để ngả lưng ngủ. Chật quá, vô nhà là hết đụng cái này sang cái kia. Ngủ thì chỉ nằm dọc, xoay đi xoay lại cũng có một chỗ một,” ông Tuấn kể.

Nơi tập trung hàng loạt ngôi “nhà siêu nhỏ” san sát nhau là đường Nguyễn Thượng Hiền, quận 3. Dọc theo vị trí của đường rầy xe lửa nội ô cũ, từ hàng chục năm qua đã xuất hiện một dãy nhà có kiến trúc kiểu như… chùa một cột hay là hình cây!

Sài Gòn có những căn ‘nhà siêu nhỏ’

Dãy nhà có kiến trúc kiểu “chùa một cột” trên đường Nguyễn Thượng Hiền. (Hình: Bình Lâm/Người Việt)

Do khoảng đất trống quá hẹp, chiều sâu của nền nhà chỉ chừng 1 mét. Và khi xây lầu trên, chủ nhà cho nó phình to ra gấp đôi để có thể làm cái phòng ngủ.

Tuy vậy, phần lớn các sinh hoạt làm ăn, buôn bán thì phải diễn ra ở bên dưới, trên một diện tích bé tí. Đi ngang con đường này, chúng ta có thể thấy cảnh một người nằm trong nhà nhưng chân thì duỗi ra tận… mặt đường. Võng, xe gắn máy, xe đạp và nhiều vật dụng khác cũng phải nằm nửa trong nửa ngoài như vậy.

Người dân ở đây đa số không có nghề nghiệp, họ phải tận dụng lợi thế “mặt tiền” để mưu sinh bằng buôn bán đồ ăn, quán cóc. Nhà dù rất nhỏ, nhưng vừa là nơi ở, vừa là nơi kinh doanh nên cuộc sống đã chật chội lại càng chật chội hơn. Có cảm giác như phần lớn gia sản, vật dụng của họ đều được đưa ra để trên lề đường. Phần dành cho người đi bộ bị chiếm trọn, và lòng đường cũng bị chiếm một phần. Đặc biệt là vào buổi tối, khi nơi này biến thành phố ăn nhậu bình dân, thì thật khó khăn cho những ai qua lại đây bằng xe hơi hay xe gắn máy.

Sài Gòn có những căn ‘nhà siêu nhỏ’

Rất nhiều con đường hẻm chỉ đủ đi lọt 1 chiếc xe 2 bánh. (Hình: Bình Lâm/Người Việt)

Nằm rất gần với nơi này, phía bên kia đường Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1, cũng có hàng loạt ngôi nhà tương tự. Gia đình ông Huỳnh Quang Trung có 4 người trưởng thành sống trong diện tích vỏn vẹn 5 mét vuông. Ngôi nhà được cất lên trên một con hẻm, nép vào hông nhà người khác. Ban ngày, các thành viên trong gia đình luôn tìm cách đi ra khỏi nhà cho bớt chật, chỉ có mỗi ông Trung ở nhà trông coi và làm việc vặt.

“Đồ dùng như ti vi, tủ lạnh, thau chậu, rá rổ… thì mình luôn chọn sắm cái loại nhỏ nhất. Ban ngày tui bỏ giường ra đặt bàn làm việc. Ban đêm thì ưu tiên chỗ ngủ và cất chiếc xe gắn máy. Hai đứa con trai đã đến tuổi lập gia đình, nhưng tui không biết làm sao. Thêm người là không thể ở đủ,” ông Trung nói.

Từ những quận trung tâm cho đến các vùng lân cận, rất nhiều con hẻm bị lấn chiếm đến mức chỉ còn lại bề ngang tối thiểu cho nhu cầu… đi lọt. Có những con đường xe hơi có thể chạy qua, nhưng đã bị ai đó xây nhà chặn gần hết lối. Mọi người vẫn tặc lưỡi vì đã quen thuộc với những kiểu cản trở giao thông như vậy.

Sài Gòn có những căn ‘nhà siêu nhỏ’

Một “căn nhà” làm trên khoảng không của con hẻm. (Hình: Bình Lâm/Người Việt)

Không chỉ chiếm mặt hẻm, có những nơi người ta còn chiếm nốt khoảng không. Dân làm nhà kiểu bắc cầu trên cao, và đi qua những con hẻm như vậy sẽ có cảm giác như lọt vào đường hầm!

Nhiều căn “nhà siêu nhỏ” được làm nên bởi những người Sài Gòn sau khi bị bắt ép đi “kinh tế mới” sau đó bỏ về lại thành phố những năm 80-90 của thế kỷ trước. Cũng có một thời gian, loại nhà lấn chiếm hình thành hàng loạt do chính quyền gần như cho phép hợp thức hóa để tồn tại sau khi đóng tiền phạt.

Dân số Sài Gòn nay đã xấp xỉ 10 triệu người cộng làn sóng di cư ồ ạt và thường xuyên từ khắp các tỉnh đổ về khiến thành phố này đã đông lại càng đông thêm. Và trong hoàn cảnh đó, có một chỗ để trú ngụ hay đơn giản là ngả tấm lưng sau một ngày mưu sinh mệt nhoài cũng là niềm hạnh phúc lớn của người nghèo thành thị.

Đài Loan ‘bắt 40 người Việt’

Đài Loan ‘bắt 40 người Việt’

VOA

Tàu của lực lượng tuần duyên Đài Loan.

Tàu của lực lượng tuần duyên Đài Loan.

Một tàu đánh cá của Đài Loan chở “di dân lậu” người Việt đã bị chặn bắt ngoài khơi bờ biển Nghi Lan hôm 6/1.

CNA dẫn lời lực lượng tuần duyên hôm 7/1 nói rằng 40 người trên tàu là các di dân bất hợp pháp từ Việt Nam gồm 25 đàn ông và 15 phụ nữ. Ngoài ra, trên tàu còn có một thuyền trưởng, thuyền viên Đài Loan và Indonesia.

Con tàu đăng ký ở Cao Hùng, miền nam Đài Loan, sau đó đã được giao cho văn phòng công tố Nghi Lan để xử lý và điều tra vì vi phạm luật nhập cư.

Một bức ảnh được truyền thông Đài Loan đăng tải cho thấy những người Việt bị bắt mặc áo có đánh số và đeo khẩu trang, và bên cạnh họ là một người lính vũ trang đứng canh.

Kênh Focus Taiwan dẫn lời quan chức cho biết rằng những người Việt bị bắt tới Trung Quốc rồi lên tàu cá đi Đài Loan trong chuyến hải hành mất khoảng 4 ngày.

Theo lực lượng tuần duyên Đài Loan, các công dân Việt Nam phải trả mỗi người từ 4 nghìn cho tới gần 7 nghìn đôla Mỹ cho chuyến đi này.

Một quan chức của cơ quan này được CNA dẫn lời nói rằng trước đây, những người Việt muốn nhập cư trái phép vào Đài Loan thường hùn tiền mua tàu cá ở Trung Quốc rồi sau đó bỏ tàu đó khi họ đặt chân tới Đài Loan.

Vụ việc mới nhất cho thấy các “di dân lậu” người Việt đã “thay đổi chiến thuật”, theo CNA.

Đài Loan là một trong những thị trường thu hút nhiều lao động người Việt. Theo số liệu thống kê được báo trong nước loan tải, có hàng chục nghìn công nhân Việt Nam đang làm việc ở Đài Loan.

Thủ tướng VN: ‘Đất đai là tâm điểm tham nhũng’

Thủ tướng VN: ‘Đất đai là tâm điểm tham nhũng

BBC

Ông Phúc cảnh báo về "sự sụp đổ của nền tài khóa quốc gia".
CHINHPHU.VN
Ông Phúc cảnh báo về “sự sụp đổ của nền tài khóa quốc gia”.

Thủ tướng Việt Nam nói nguồn lực công trong đó có đất đai chưa được định giá chính xác, gây tham nhũng và lợi ích nhóm.

Thông điệp được đưa ra tại một hội nghị đánh giá kết quả tài chính ngân sách năm 2016 hôm 6/01 tại Hà Nội.

Cải cách thể chế ở VN: Dấu ấn 2016

“Nguồn lực công lớn nhất là nguồn lực từ trụ sở, đất đai có quy mô rất lớn nhưng chưa được định giá chính xác, sử dụng có phần tùy tiện, là tâm điểm của tham nhũng, của lợi ích nhóm và cũng là điểm nghẽn tăng trưởng của nền kinh tế,” ông Nguyễn Xuân Phúc nói.

Hội nghị của Bộ Tài chính cũng được nghe Thủ tướng Phúc yêu cầu công khai, minh bạch, làm rõ trách nhiệm cá nhân, tập thể gây thất thoát, lãng phí ngân sách Nhà nước và tài sản công và xử lý nghiêm các sai phạm.

“Chúng ta làm điều này là thể hiện tinh thần trách nhiệm với từng đồng tiền thuế của dân.

“Có chuyên gia cảnh báo, nếu không chấm dứt tình trạng này, sự sụp đổ của nền tài khóa quốc gia là không thể tránh khỏi”, Thủ tướng Phúc nói.

Bàn về thực trạng chi thường xuyên là gánh nặng lớn nhất cho ngân sách, ông Nguyễn Xuân Phúc nói việc “Chi thường xuyên liên tục tăng lên thì phải hãm phanh lại dứt khoát chứ không phải dự toán rồi cứ chi”.

“Xe công cũng chỉ là một hạt ngọc trong kho châu báu là khối tài sản công khổng lồ đang quản lý rất phân tán, kém hiệu quả của chúng ta”.

Nợ công nếu tính đủ, theo Thủ tướng Phúc, đã “vượt trần” và rằng nợ công trong 5 năm qua tăng trung bình gấp ba lần tốc độ tăng trưởng.

Nói về chiến lược cổ phần hóa, ông Phúc mô tả điều ông gọi là “giảm và bán toàn bộ vốn nhà nước ở các doanh nghiệp nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối”.

“PETRUS KÝ – NỖI OAN THẾ KỶ”, MỘT QUYỂN SÁCH NÊN ĐỌC, NHƯNG VẪN CÒN XA SO VỚI KỲ VỌNG CỦA ĐỘC GIẢ

“PETRUS KÝ – NỖI OAN THẾ KỶ”, MỘT QUYỂN SÁCH NÊN ĐỌC, NHƯNG VẪN CÒN XA SO VỚI KỲ VỌNG CỦA ĐỘC GIẢ

FB Đoàn Lê Giang

7-1-2017

Ảnh: FB Đoàn Lê Giang

h1

Quyển sách “Petrus Ký – nỗi oan thế kỷ” của GS Nguyễn Đình Đầu là quyển sách được nói đến đã lâu, đến nay mới ra mắt. Petrus Ký là nhân vật gây tranh cãi – tranh cãi từ khi ông còn sống đến nay, cứ có một người khen lại có một người chê, thậm chí có người đã từng chê rồi, tự mình lại khen; hay có người từng khen rồi, tự mình lại chê… Người Pháp khen ông đến mây xanh, nhưng cũng có người Pháp chê ông thậm tệ; ở miền Bắc giới sử học từng chê ông thậm tệ, bây giờ nhiều người lại khen; trong Nam trước 1975 bên cạnh rất nhiều người khen, lại có không ít nhà nghiên cứu đứng đắn, nghiêm cẩn chê như: GS Nguyễn Văn Trung, Phạm Long Điền, Nguyễn Sinh Duy… Bây giờ ở hải ngoại nhiều người khen, nhưng cũng không ít nhà nghiên cứu nghiêm túc lại chê. Nói chung khen chê họ Trương không là độc quyền của ai.

Vậy vấn đề đặt ra đối với một công trình nghiên cứu về Trương Vĩnh Ký là gì? Đó là phải trình bày tư liệu một cách đấy đủ và khách quan để cho độc giả tự mình suy nghĩ.

1) Độc giả cần một tập sách Trương Vĩnh Ký dày dặn in tất cả các tác phẩm, công trình, bài viết, thư tín của ông có dịch chú cẩn thận. Việc này không đơn giản, vì cho đến nay chưa ai cho biết đích xác Trương Vĩnh Ký đã xuất bản bao nhiêu quyển sách: 108 hay 120 hay 130? Và thế nào là sách? Vì gọi là sách nhưng đến khi cầm lấy trên tay chỉ có 4 trang lại là phiên âm một tác phẩm nổi tiếng của quá khứ. Ví dụ như quyển “Học trò khó phú’ của ông thực ra chỉ là bài “Hàn Nho phong vị phú” của Nguyễn Công Trứ mà gần như ai cũng biết. Đọc Trương Vĩnh Ký không dễ. Tôi đã từng đọc 1 luận án TS về Trương Vĩnh mà người viết dù ngợi ca họ Trương đến mây xanh mà cũng không rõ ông viết gì, và có phải tác phẩm của ông không?

2) Độc giả cần một quyển sưu tầm các bài nghiên cứu nghiêm túc về Trương Vĩnh Ký, đủ mọi quan điểm, từ trước đến nay

3) Độc giả cần một sự giới thiệu đánh giá một cách khách quan về tài năng, học vấn, thái độ chính trị, sự tự phán của Trương Vĩnh Ký, trên cơ sở một thái độ làm việc nghiêm cẩn, dựa trên tư liệu thực chứng, với một tinh thần khoa học, khách quan.

Nếu vậy quyển sách của GS Nguyễn Đình Đầu rất đáng đọc, nhưng vẫn còn xa với kỳ vọng của độc giả.

1) Công trình này sưu tập rất ít công trình và tác phẩm của Trương Vĩnh Ký, các công trình được sưu tập phần nhiều là công trình quen thuộc đã được xuất bản (Tiểu giáo trình địa lý Nam Kỳ, Chuyến đi BK năm Ất hợi, Chuyện đời xưa, Chuyện khôi hài, Một số bài viết cho tạp chí, thư từ…). Nói chung còn thiếu rất nhiều công trình, tác phẩm quan trọng, thiếu nhiều bức thư thân Pháp, yêu cầu quân Pháp đến để cứu giáo dân…Nói chung là thiếu rất nhiều tư liệu bất lợi cho việc đánh giá TVK. Nhiều tên tác phẩm bị viết sai, không biết do soạn giả hay nhà xuất bản, ví dụ: “Thạnh suy bỉ thời phú” (tr.33), là sai, đúng ra là “Thạnh suy bĩ thới phú” (Bài phú về sự thịnh, suy, bĩ, thái); “Hàn Nho phong vị phú” (tr.33), thực ra không có tác phẩm quốc ngữ nào của TVK tên vậy, mà chỉ có “Học trò khó phú”. “Mắc cúm từ” (tr.33) cũng không đúng, mà là “Mắc bệnh cúm từ”… Nói chung công trình cỡ này mà không cẩn trọng thì di hại rất lớn, vì nhiều người tin, cứ nhắm mắt chép theo.

2) Công trình còn dùng những nhận định bốc đồng thiếu kiểm chứng. Ví dụ trong Lời giới thiệu của GS.PHL, có viết: TVK “thông thạo nhiều ngôn ngữ từ Hán, Nôm đến tiếng Latin, Pháp, Anh, Hy Lạp, Ấn, Nhật, Khmer, Thái, Lào”. Tôi biết chắc là TVK biết Hán Nôm khá vừa phải, bằng chứng là bản “Kim Vân Kiều truyện” (1875) của ông tôi không dám đưa cho ai coi để bảo vệ uy tín của ông, vì ông phiên âm, chú thích sai nhiều quá! Ông cũng không biết tiếng Nhật, còn các thứ tiếng Lào, Thái, Ấn kia chỉ ở mức nhập môn, vì ở trường truyền giáo hải ngoại Penang người ta dạy nhiều ngôn ngữ phương Đông nhưng với 3 năm học ở đó, họ Trương chỉ đủ thời gian học vỡ lòng vài thứ tiếng (chào hỏi, hỏi đường…), và các sách dạy tiếng của ông chỉ là kết quả từ nhũng bài học ngôn ngữ ở trường đó. Theo Nguyễn Văn Trung và Vũ Ngự Chiêu, thì TVK biết chừng 7-8 ngoại ngữ, trong đó 3-4 ngôn ngữ thành thục chứ không phải 14-15 ngôn ngữ, thậm chí 26 ngôn ngữ như những huyền thoại về ông. Vũ Ngự Chiêu viết: “Petrus Key có thể biết được năm, sáu thứ tiếng. Sau này, Petrus Key nghiên cứu thêm chữ Hán và chữ Nôm, và có thể biết (đọc, viết hoặc nói) được 7, 8 thứ tiếng là cùng. (Nguyễn Văn Trung, 1993, tr. 138) Nhưng nếu nói thông thạo, thì chỉ khoảng 3, 4 thứ tiếng (Pháp, Việt, Việt Hán và chữ Nôm). Chỉ ngần ấy đã đủ là một học giả trong thế kỷ XIX và XX” (Góp phần nghiên cứu về Trương Vĩnh Ký).

3) Công trình này phần sưu tập các nhận định khác nhau về Trương Vĩnh Ký, chiếm quá nửa, đến hơn 300 trang. Bên cạnh các tư liệu quen thuộc có thể thấy dễ dàng trên mạng hay trong các khóa luận, luận văn đại học cao học, công trình có đưa vào nhiều tư liệu mới, nhất là tư liệu tiếng Pháp. Tuy nhiên những tư liệu bất lợi cho sự đánh giá TVK chưa phong phú, đầy đủ.

Nói tóm lại công trình này nghiêm túc và có nhiều tư liệu mới, đáng đọc, nhưng vẫn còn quá xa so với mong đợi của người đọc. Thực ra với một nhà nghiên cứu ở tuổi cửu thập rồi thì không thể đòi hỏi nhiều. Việc nghiên cứu nghiêm túc, đầy đủ về TVK vẫn là một đòi hỏi phía trước.

Tên quyển sách là “Petrus Ký nỗi oan thế kỷ”, có vẻ tiểu thuyết quá, nó đánh vào tình cảm nhiều hơn là thuyết phục về lý trí và bằng tư liệu.

Trương Vĩnh Ký là một người đáng quý, một học giả đáng tự hào về học vấn của nước ta, nhất là trong buổi đầu tiếp xúc với phương Tây. TVK từng bị hiểu lầm, từng bị huyền thoại hóa theo âm mưu của thực dân, từng bị khen chê theo yêu ghét cá nhân, theo xu hướng chính trị và thời cuộc. Đã đến lúc chấm dứt tình trạng ấy. Chúng ta ủng hộ tự do học thuật, nên rất cần những công trình nghiêm cẩn, chứ không muốn thêm những công trình thiên lệch hay những huyền thoại mới về ông.

Bà lão nghèo bị tố ăn cắp, vị thẩm phán nói 1 câu khiến cả phòng xử án nín lặng

Bà lão nghèo bị tố ăn cắp, vị thẩm phán nói 1 câu khiến cả phòng xử án nín lặng

Albert Einstein: “Thế giới không bị hủy diệt bởi những kẻ làm điều ác, mà bởi những người đứng nhìn mà không làm gì cả”. Nguyên văn: “The world will not be destroyed by those who do evil, but by those who watch them without doing anything.”

_____

Đại Kỷ Nguyên

6-1-2017

Ảnh minh họa. Nguồn: ĐKN/ internet

Dưới đây là giai thoại về một nhân vật có thật trong lịch sử – thị trưởng thành phố New York Fiorello LaGuardia – người được ca ngợi là ‘ngài thị trưởng vĩ đại nhất’ trong lịch sử nước Mỹ.

Mùa đông năm 1935 là khoảng thời gian mà nền kinh tế của nước Mỹ tiêu điều nhất. Không khí ảm đạm bao trùm toàn bộ thành phố New York, nơi cư ngụ của những đứa trẻ lang thang, những mảnh đời vất vưởng, và những gia đình túng thiếu không có bữa ăn no…

Vào một đêm lạnh giá giữa tháng 1/1935, một phiên tòa được tổ chức trong khu phố nghèo nhất New York. Đứng ở vị trí thẩm phán là ngài thị trưởng đáng kính của thành phố, ông Fiorello LaGuardia, và bên dưới bục là một bà lão đã gần 60 tuổi, áo quần cũ rách cùng với dáng vẻ sầu não. Gương mặt tiều tụy của bà hiện lên vẻ xấu hổ, bà đã bị buộc tội vì lỡ ăn cắp một ổ bánh mì.

Ngài thị trưởng Fiorello LaGuardia, cũng đồng thời là quan tòa, hỏi: “Bị cáo, bà bị tố là đã lấy trộm bánh mì, có đúng vậy không?”

Bà lão cúi mặt xuống, ấp úng đáp: “Vâng thưa quan tòa, tôi thật sự đã lấy trộm”.

“Vì sao bà lại lấy trộm? Có phải vì bà đói bụng không?” – quan tòa lại hỏi.

“Thưa quan tòa, tôi đã rất đói. Nhưng nếu chỉ vì đói thì tôi đã không làm như vậy”, bà lão trả lời. “Đứa con rể của tôi đã bỏ ra đi, còn con gái tôi thì ốm liệt giường. Tôi cần chiếc bánh mì này để nuôi hai đứa trẻ đang chết đói… Chúng thực sự rất đói…” Nói đến đây bà bật khóc.

Bà lão nói xong, đám đông trong phòng xử án vang lên tiếng xì xào bàn tán.

Ngài thị trưởng thở dài. Ông nhìn khắp gian phòng một lượt, rồi quay sang bà lão và nói: “Bị cáo, tôi sẽ phải xử phạt bà, luật pháp luôn công bằng và không có ngoại lệ đối với bất kỳ cá nhân nào. Bà phải nộp phạt 10 đô-la hoặc bị giam 10 ngày trong tù. Bà chọn cái nào?”

Trong sự bế tắc tột cùng, bà lão đáp: “Thưa quan tòa, tôi xin bằng lòng chịu phạt. Nếu tôi có 10 đô-la thì đã không lấy cắp bánh mì. Vậy tôi xin được giam 10 ngày. Nhưng còn đứa con gái và hai đứa trẻ, ai sẽ chăm sóc chúng đây?”

Ngài thị trưởng khẽ mỉm cười. Ông rút trong túi ra 10 đô-la và bỏ vào chiếc mũ nổi tiếng của mình.

“Đây là 10 đô-la tiền phạt, bà đã được tự do!” Rồi ông lại hướng cặp mắt về phía những người tham dự phiên tòa: “Và bây giờ, mong các vị hãy nộp 50 xu tiền phạt. Tiền phạt để trừng phạt cho sự hờ hững của chúng ta, vì đã để một bà lão khốn khổ phải đi ăn cắp bánh mì nuôi những đứa trẻ đang chết đói. Ngài Baliff, hãy đi thu tiền phạt và đưa tất cả cho bị cáo”.

Tất cả mọi người có mặt tại phiên tòa khi ấy đều không khỏi kinh ngạc. Không khí im lặng đến nỗi một cây kim rơi xuống đất cũng có thể nghe thấy. Trong phút chốc, tất cả mọi người lặng lẽ đứng dậy, lấy ra 50 xu và bỏ vào chiếc mũ của ngài thị trưởng.

Ngày hôm sau, tất cả các tờ báo của thành phố New York đều đồng loạt đưa tin về sự kiện lạ lùng này: 47,5 đô-la tiền phạt đã được trao cho một bà lão nghèo khổ, từng ăn cắp bánh mì để nuôi những đứa cháu đang chết đói của mình. Ngay cả người chủ lò bánh mì, cũng như các quan khách và cảnh sát trong thành phố, đều sẵn lòng nộp phạt 50 xu…

h1Thị trưởng thành phố New York – ông Fiorello LaGuardia (Ảnh: Wikipedia)

Và đó là câu chuyện về ngài thị trưởng Fiorello LaGuardia, người đã đưa New York vượt qua những tháng ngày đen tối nhất của cuộc Đại khủng hoảng. Ông được người dân New York yêu mến gọi bằng cái tên “Bông hoa bé nhỏ” vì chiều cao khiêm tốn 1,57 m và cái tên Fiorello (trong tiếng Ý, “Fiorello” nghĩa là “bông hoa nhỏ”). Ông cũng là người từng lái xe cứu hỏa xông vào các đám cháy lớn, từng đưa trẻ mồ côi ra sân chơi bóng chày, và khi các tờ báo của New York đình công, cũng chính ông bước lên đài phát thanh để đọc ‘truyện cười ngày Chủ Nhật’ cho các em nhi đồng.

Đại Kỷ Nguyên bàn:

Thiên tài Albert Einstein từng nói: “Thế giới không bị hủy diệt bởi những kẻ làm điều ác, mà bởi những người đứng nhìn mà không làm gì cả.” Có lẽ đó là lý do vì sao mà ngài thị trưởng Fiorello LaGuardia đã đứng lên để “trừng phạt” cho sự lãnh đạm và vô tình của những người có mặt trong phiên tòa. Thờ ơ và vô cảm trước nỗi đau khổ của người khác, dù không trực tiếp gây thương tổn, nhưng cũng đủ ngấm ngầm để lại vết thương lòng cho những người trong cuộc.

Và vì sao Phật gia luôn luôn giảng “Thiện”, giảng “Từ bi”, rằng chúng ta phải nghĩ cho người khác trước, phải “lấy thiện đãi người”? Đó là bởi chỉ có tình thương và lòng nhân ái mới đem lại hơi ấm và khiến con người xích lại gần nhau hơn. Tiền bạc, vinh quang, hay danh vọng không thể đem lại hạnh phúc, mà chỉ có hơi ấm tình người mới giúp chúng ta vững bước trên đường đời.

(Hồng Liên sưu tầm và dịch, tham khảo bản dịch của Tinh Hoa)

Lực Lượng C.S.C.Đ & Hội Nhà Văn

Ảnh của tuongnangtien

Dịch giả Phạm Nguyên Trường ví von giới người cầm bút hiện nay “là những anh mù sờ voi,” và chia họ ra làm bốn loại:

1. Đáng trọng là những người sờ được chỗ nào thì mô tả trung thực chỗ đó, to nói là to, dài nói là dài, cứng nói là cứng, mềm nói là mềm… tập hợp mô tả của những người đó có thể cho người ta hình ảnh tương đối trung thực về con voi.
2. Sợ nhất là những người mới sờ được cái chim hay cái bướm voi liền la toáng lên và bắt mọi người tin rằng đấy là cả con voi. Họ là những người thích độc quyền chân lí. Marx, Lenin… thuộc loại những người như thế.
3. Đáng ghét nhất là bọn, ví dụ, sờ được cái tai hay cái vòi, nhưng không chịu mô tả cái mình sờ được mà lại ngoạc mồm ra chửi những người đang mô tả một cách trung thực cái ngà hay cái đuôi voi rằng đấy không phải là voi.
4. Đáng khinh nhất là bọn kí-sinh-trùng-văn-nô-bồi-bút sống bằng mồ hôi nước mắt của các bà nông dân một nắng hai sương, chủ muốn con voi như thế nào thì mô tả như thế ấy.

Ảnh từ FB Phạm Nguyên Trường

Cái “bọn đáng khinh nhất, kí-sinh-trùng-văn-nô-bồi-bút sống bằng mồ hôi nước mắt của các bà nông dân một nắng hai sương” (ngó bộ) hơi đông, và sắp sửa “tan rã” tới nơi rồi – theo như nguyên văn lời than van của ông Hữu Thỉnh, Chủ Tịch Hội Nhà Văn Việt Nam, vào hôm 16 tháng 12 năm 2016:

“… thông thường mỗi nhiệm kỳ năm năm các hội văn học nghệ thuật được nhận khoảng 400 tỉ đồng tiền hỗ trợ sáng tác từ ngân sách nhà nước, trong đó riêng Hội Nhà văn Việt Nam mỗi năm được nhận 4,8 tỉ đồng.

Nhưng năm nay Hội Nhà văn chỉ nhận được một nửa số tiền là 2,4 tỉ đồng và đã phải chi ra 2/3 số tiền đó để trả nợ cho báo Văn Nghệ, tạp chí Thơ, Hồn Việt… (mỗi số ra của mỗi đầu báo, Hội Nhà văn đặt mua 1.000 tờ cho khoảng 1.000 hội viên của mình).

Vì chưa đủ tiền nên hiện Hội Nhà văn vẫn còn nợ lại một số đơn vị tiền mua báo từ đầu năm đến nay.

“Nếu kỳ họp vừa rồi mà Quốc hội nhấn nút thông qua Luật về hội thì không biết chúng ta sẽ khốn đốn thế nào bởi khi đó Hội Nhà văn cũng như các hội khác sẽ không có trụ sở, không biên chế, không được cấp kinh phí. Vậy thì còn gì để hoạt động nữa?

Nếu chúng ta không được cấp kinh phí, không có trụ sở, tự đóng góp hội phí mà nuôi nhau thì Hội Nhà văn sẽ chỉ còn con đường tan rã mà thôi.

Trước viễn tượng đen tối này, ông Hữu Thỉnh bèn có một “đề xuất đột phá” như sau:

Sắp tới Hội Nhà văn sẽ xin ý kiến để tổ chức hội nghị hòa hợp văn học dân tộc với sự tham gia của các nhà văn trong nước và sự trở về của các nhà văn Việt Nam đang sinh sống tại nước ngoài. Cho đến nay, việc hòa hợp dân tộc trong lĩnh vực văn nghệ vẫn dè dặt và lạc hậu nhất so với các lĩnh vực khác”.

Nói các khác là nếu được tiếp tục tài trợ hào phóng như cũ thì Hội Nhà Văn sẽ “tình nguyện” đảm nhận thêm một nhiệm vụ mới nữa: “hòa hợp dân tộc trong lĩnh vực văn nghệ.” Đây là lãnh vực mà N.Q 36 của Bộ Chính Trị (về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài) đã quên lãng hơn chục năm nay.

Ông Hữu Thỉnh quả là một người biến báo, và có tài xoay trở. Tuy thế, “đề xuất” của ông có được chấp nhận hay không thì vẫn còn phải chờ. Trong khi chờ đợi, thử nghe xem giới cầm bút (trong cũng như ngoài nước) nói ra sao về Hội Nhà Văn Việt Nam:

Nguyễn Đức Tùng: Nếu Hội Nhà văn không thể tự mình thay đổi, cứ mãi già nua , bảo thủ, cũ kỹ, trở thành gánh nặng cho xã hội, trở thành lực cản của các nhà văn, thì nên giải tán nó đi và thành lập các hội khác.

Tạ Duy Anh: “Chưa khi nào nhà văn xứng đáng coi thường như hiện nay.”

Thận Nhiên: “Ăn bám, mua vui bằng tiền của nhân dân.”

Hoàng Xuân Sơn: Không có “đảng”, đố mầy làm văn!

Đỗ Trung Quân: “Nói thật nhá! Hội Nhà văn Việt Nam và báo Văn Nghệ đã thành cái ao làng lâu rồi. Tôi ước: Lấp đi cái ao làng. Cái ao làng phải thật sự bị lấp để thách thức chính những kẻ quen sống trong ao.”

Nguyễn Viện: “Tôi chỉ ước một điều thôi: Cái hội ấy (cũng như một số hội khác) biến cho nhanh. Uổng tiền nhân dân quá.”

Võ Thị Hảo: “Hội Nhà văn Việt Nam ngày càng có thêm nhiều hành động tỏ ra thù địch với quyền tự do tư tưởng, tự do sáng tác và nhân quyền của nhà văn.”

Nguyễn Duy: “Ở đây nó có những gương mặt rất là lộn xộn. Cái thứ hai là trong cương lĩnh của nó có cái là đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng nên tôi thấy nó thế nào ấy!”

Trần Mạnh Hảo: “Về mặt tinh thần những nhà văn bị bắt thì Hội có bao giờ đứng ra nói một lời nào đâu. Gần một chục ông trong Hội Nhà văn bị giam cầm, tù tội mà Ban lãnh đạo hội đâu có nói gì chỉ có điều là họ vỗ tay tán thành bắt thằng đó là đúng thôi chứ họ có nói một lời nào bênh vực cho hội viên của họ bao giờ đâu.

Phạm Thành: “Hội nhà văn Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hội là người đã sử dụng tác phẩm dự thi của tôi là cuốn ‘Cò hồn xã nghĩa’ để giao nộp cho cơ quan công an thành phố Hà Nội”

Sống dưới thể chế công an trị thì việc không ai dám lên tiếng bênh vực cho ai (vốn) là chuyện tất nhiên, và đã trở thành truyền thống nên cũng không có gì đáng để phàn nàn hay trách móc nhưng “giao nộp” tác phẩm của hội viên cho công an thì e là ông Hữu Thỉnh đã đi quá xa phần vụ của mình. Với thành tích (bất hảo) này thì việc “tổ chức hội nghị hòa hợp văn học dân tộc với sự tham gia của các nhà văn trong nước và sự trở về của các nhà văn Việt Nam đang sinh sống tại nước ngoài” e hơi bị khó.

Khối cán bộ chiến sĩ thuộc Trung đoàn cảnh sát cơ động, Công an Hà Nội được trang bị súng tiểu liên AK đảm nhận nhiệm vụ triển khai phương án bảo vệ các sự kiện chính trị, văn hóa, thể thao…và bắt kẻ khủng bố, giải cứu con tin, phòng chống bạo loạn, tụ tập trái pháp luật. Ảnh & chú thích: news.zing

Điều khó khăn hơn nữa là chế độ hiện hành đang “chuyển đổi” chính sách để đáp ứng với tình thế mới. Giữa Thời Đại Thông Tin, và ở giai đoạn số đông quần chúng đã có điều kiện tiếp cận với internet, mặt trận truyền thông (kể như) đã vỡ. Việc viết lách tuyên truyền trí trá chỉ mang lại tác dụng ngược thôi nên Đảng và Nhà Nước đã chuẩn bị chuyển sang “khâu” trấn áp – theo như tin của Báo Dân Trí, số ra ngày 8 tháng 9 năm 2016:

Trong buổi triển khai mô hình tổ chức bộ máy mới sáng nay, 8/9, Trung đoàn Cảnh sát cơ động (CATP Hà Nội) đã diễu binh, diễu hành, phô diễn sức mạnh. Tổ chức bộ máy của Trung đoàn Cảnh sát cơ động (CSCĐ – Công an TP Hà Nội) gồm 10 đầu mối trực thuộc, trong đó có 5 Tiểu đoàn CSCĐ (Ban Tham mưu, Ban Chính trị, Ban Hậu cần, Ban Huấn luyện, Đội Nghi Lễ Công an Thủ đô, Tiểu đoàn Cảnh sát đặc nhiệm và 4 Tiểu đoàn CSCĐ). Đặc biệt, Tiểu đoàn Cảnh sát đặc nhiệm (CSĐN) được tập trung đầu tư trang thiết bị, phương tiện, vũ khí… đủ mạnh để chủ động ngăn chặn, trấn áp các vụ gây rối.

Các loại xe vũ khí, phương tiện hiện đại cũng được phô diễn. Ảnh & chú thích: news.zing

Cái thời trị an bằng cách huy động bộ đội đến Quỳnh Lưu, và xe tăng vào Budapest hay Thiên An Môn (nay) đã qua. Bây giờ chỉ riêng Hà Nội mà phải cần đến “5 Tiểu đoàn CSCĐ … được tập trung đầu tư trang thiết bị, phương tiện, vũ khí đủ mạnh để chủ động ngăn chặn, trấn áp các vụ gây rối” thì kể như là sắp tàn cuộc đến nơi.

Hơn nữa, quốc khố cũng cạn kiệt rồi. Dành để mua sắm dùi cui, cho nó chắc ăn, chứ bút viết giờ đã hết thời. Chả còn sơ múi gì nữa đâu, ông Hữu Thỉnh ạ. Thôi về đi, cứ nấn ná làm chi, cho chúng nó khi!

Made in China sắp kết thúc.

From facebook:  Kimtrong Lam
Made in China sắp kết thúc.

i Today News – Ngót nghét bốn mươi năm qua kể từ khi Đặng Tiểu Bình chính thức đổi mới nền kinh tế của Trung Cộng bằng cách chấp nhận “mở cửa” để đón nhận nền kinh tế thị trường vào nước này qua chính sách Bốn Hiện Đại Hóa đưa Trung Cộng đã thăng tiến nhanh.
Tuy nhiên nền kinh tế Trung Cộng vươn lên được nhờ vào những yếu tính sau:
– Sức lao động nhiều và rẻ
– Sự ma mãnh trong hối đoái
– Hỗ trợ (trợ giá) của nhà nước tuy đã vào WTO
– Chấp nhận làm đại công xưởng chế tạo cho thế giới Tây phương (great manufacturing) để hấp thụ đầu tư và thu hút việc làm về với Tàu
Cán cân thuơng mãi của Mỹ bị thâm hụt đối với Trung Cộng tăng quá cao nhất là sau khi Tàu vào Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới WTO.
Từ cuối thập niên 1990 đến nay số thâm thủng càng về sau càng tăng cao không kéo xuống được. Cho đến nay hàng triệu công ăn việc làm ở Mỹ bị mất do hàng chục ngàn hãng xưởng trong khu vực chế xuất (manufacturing sectors) của Mỹ bị đóng cửa.

Sự kiện thâm thủng ngoại thuơng của Mỹ đối với Trung Cộng đẩy con số thặng dư ngoại tệ của Bắc Kinh riêng tại Mỹ lên đến 3 trillions. Chính đây là lý do tại sao Trung Cộng là chủ nợ lớn đối với công phiếu Hoa Kỳ.
Hàng hóa xuất cảng của Trung Cộng chủ yếu là hàng hóa tiêu dùng giá rẻ, sản xuất bằng công lao động tại các khu vực chế xuất đang chiếm lĩnh dần thị trường thế giới với cái ‘mác’ Made in China.
Dấu hiệu thời đại huy hoàng của hàng hoá chế xuất của Trung Cộng sắp kết thúc

Hiện nay chính phủ Hoa Kỳ liên tục chỉ đích danh Trung Cộng là thủ phạm về vấn đề xâm nhập và đánh cắp sở hữu trí tuệ của Hoa kỳ, mức độ xâm phạm về phía Trung Cộng từ tỷ lệ 50% đến con số không ngờ là 80%. Trị giá mất mát về việc đánh cắp cùng xâm nhập vùng – miền Internet Protocol làm thiệt hại cho Mỹ lên ngót 300 tỷ đô la hàng năm!
Vấn đề này đang làm cho các công ty trọng yếu của Mỹ như Dow Chemicals, Caterpillar, GE, và Ford đang rục rịch chuyển các cơ xưởng về lại Hoa kỳ

Ngay Google cũng loan báo rằng kỹ thuật công nghệ giải trí Nexus Q phải sản xuất tại Hoa Kỳ và chuyện này bắt buộc Apple phải rục rịch đi theo.
Sự mất cắp an toàn thông tin kỹ thuật làm thiệt hại kinh tế cho Mỹ khiến các đại công ty Mỹ phải “hồi hương” chưa hẳn là vấn đề chính cho NGÀY TÀN CỦA NỀN KINH TẾ HÀNG RẺ CỦA TÀU.

Sức ép chính trị, sự đòi hỏi lấy lại cân bằng công ăn việc làm cho dân từ quốc hội Mỹ, không phải là nguyên nhân chính cho NGÀY TÀN của thời đại hoàng kim “hàng rẻ dỗm” của Trung Cộng mà sự khai sinh những phát minh kỹ thuật tân kỳ sẽ là cái dao “sát thủ” nền kinh tế Đại Sản Xuất của một nứơc Trung Hoa ma đạo về thương mãi.

BA PHÁT KIẾN VỀ KỸ THUẬT TÂN KỲ làm hồi sinh khu vực kinh tế chế xuất của Mỹ

Thời gian qua hàng triệu việc làm đã mất ở nước Mỹ nhưng thứ công việc này lại xuất hiện ở Trung Cộng (hay một số nước khác), xong đem ngược lại Mỹ. Quy trình này sẽ không còn nữa.

Chậm nhất là đầu thập niên tới (1920) Kỹ thuật cao của Mỹ sẽ ứng dụng 3 công nghệ vượt trội
1- Robotics / người máy để hạ giá thành phẩm,
2- thông minh nhân tạo /Artificial Intelligence-AI
3- kỹ thuật ba chiều /3D Printing.
Những phát triển kỹ thuật này sẽ làm nhu cầu xử dụng nhân công và xí nghiệp tại Trung Hoa không cần nữa vì ở Mỹ không cần xí nghiệp và nhân công loại này.

1- ROBOTICS- NGƯỜI MÁY
Vào năm 2011 chính phủ TT Obama đã tài trợ thành công chương trình Phát Kiến Người máy Quốc gia (National Robotics Initiative), một nỗ lực to lớn nhằm đưa người máy giúp nhiều cho công nhân tại Mỹ giúp gia tăng năng suất, an toàn, và tránh nguy hiểm ngộ độc cho công nhân.

Ngay trong lĩnh vực nông nghiệp thế hệ robotics này sẽ giúp nông dân Hoa Kỳ tăng nông phẩm, tránh bệnh cây, tránh độc tố và ô nhiễm môi sinh nhất là gia tăng năng suất cho nông nghiệp Mỹ Hiện tại và trong vài năm nữa vai trò người máy lãnh nhiệm vụ thay thế con người rất nhiều.
Người máy thật đa năng. Vắt sữa bò cũng người máy, giải phẫu trong y học cũng người máy, chiến đấu trong quân sự và ngay cả lái máy bay phản lực…

Chúng ta đừng cho rằng giá thành nguòi máy làm ra sản phẩm trong thế hệ robotics này là cao hơn giá thành người thợ hiện nay đang quần quật làm tại các xí nghiệp chế xuất tại Trung Cộng.

Đối với người máy, thành phẩm người thợ của CS Tàu làm ra chỉ là “trò chơi trẻ nít”. Đối với thế hệ người máy mới này, nó sẽ làm dễ hơn, nhanh hơn và giá thành rẻ hơn người làm.
Ngay tổ hợp Foxconn Technology Group Đài Loan sẽ cho ra đời một triệu người máy trong 3 năm để làm một khối lượng công việc mà cả toàn khối nhân công tại Trung Cộng làm hiện tại

Sự thay thế như thế làm người ta so sánh giá nhân công tại của Trung Hoa lục địa trở nên đắt hơn. Ngay cả những đời xe hiện đại nhất hiện nay ví dụ Tesla Model S, được chế tạo tại Silicon Valley một nơi ở đắt địa nhất tại Hoa kỳ, thì robots sẽ đảm nhiệm việc lắp ráp sẽ hạ giá thành.

2. SỰ THÔNG MINH NHÂN TẠO (ARTIFICIAL INTELLIGENCE-AI)
Giả sử, bạn đang ngồi trước computer, phác họa ra một mốt quần áo hợp thời trang nào đó, hay họa ra một kiến trúc bắt mắt hợp với thị trường vân vân, tuy có dùng computer nhưng đây là sự thông minh của bạn, của con người vì bạn dùng trí óc phán xét- quyết định -chọn lựa trên computer để phác họa. Giờ đây trí thông minh nhân tạo là những software sẽ thế trí óc của bạn làm chuyện này; có nghĩa là những bộ óc nhân tạo này sẽ thế bộ não bạn điều khiển computer.

Phát minh này thật ra bị lãng quên trong thập niên 1980s. Những công ty khổng lồ điện toán như IBM ứng dụng nó và thấy rõ hiệu năng đáng kinh ngạc của “trí thông minh nhân tạo” như vừa nói ở trên

Chúng ta thấy ứng dụng hiện nay của AI nằm ở khả năng những chiếc xe tự lái, ngay cả khả năng nhận ra giọng nói hay nhận ra khuôn mặt đang ứng dụng hiện nay trên facebook. Làm việc tại nhà sẽ có sự giúp đỡ về những bộ não nhân tạo thế con người trong tạo thành sản phẩm.
Khi Mỹ sở hữu được những thế hệ những “bộ não nhân tạo AI ” này thì họ không cần đưa các hãng điện toán qua tận Trung Cộng để thuê mướn các kỹ sư Trung Hoa với giá lương thấp. AI sẽ giúp Mỹ có nhiều sản phẩm giá thành hạ và tinh xảo hơn cùng ít hư hao hơn.

3- SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KỸ THUẬT IN 3 CHIỀU- 3D Printing
Định nghĩa ban sơ của 3D Printing là kỹ thuật ứng dụng trong chế tạo, sự xử lý một thành phẩm qua 3 chiều của vật thể thông qua những thông số từ máy điện toán. Tiến trình xử lý 3D là một tiến trình đồ họa điện toán khối vật thể nay được chia ra nhiều lớp phẳng kế tiếp rất mỏng chồng nhau cho đến khi thành hình dạng của vật thể.

Kỹ thuật 3D printing rất phong phú, nó có khả năng kiến tạo bất cứ thứ gì, từ nghệ thuật tới đồ chơi ngay chuyện nó phác hoạ ra các bộ phận cơ thể giả cho con người như tai, mũi, da, gân… cho con người
Trong quá trình làm ra thành phẩm hiện nay, thật ra còn nhiều vấn đề khá bất hợp lý, uổng phí vật chất, thời gian trong chờ đợi.

Chúng ta lấy ví dụ thô thiển nhất- nào gọt một thanh gỗ, nào đẽo một khối sắt, nào xay nào chà để có vật liệu trước khi bị uốn nắn thành một sản phẩm dùng được.

Chuyện này là nguyên nhân tạo ra sự tăng giá thành do hao phí thời gian cùng nguyên vật liệu mà ra. Nói theo cách khác, càng nhiều phức tạp thì càng nhiều công lao động và nỗ lực đầu tư vào trong một sản phẩm
Hiện nay kỹ nghệ 3D Printing có thể tạo ra các dụng cụ cơ khí, trang bị y khoa, trang sức và ngay cả áo quần, thậm chí còn tạo kiểu cho nhiều robot mới khác.
Khoảng cuối thập niên này, nền kinh tế Hoa kỳ sẽ có thừa kỹ thuật 3D tân tiến sản xuất những mặt hàng trước đây từng đầu tư nhiều công lao động trong nghề nghiệp.

Không còn là chuyện viễn tưởng, vào thập niên tới kỹ thuật 3D Printing sẽ nắm phần chủ động trong xây dựng hàng loạt nhà cửa, thiết bị điện tử v v… với giá thành hạ hơn nếu so làm tại Trung Cộng mang về lại Mỹ.
Trong thập niên tới Hoa kỳ sẽ thấy sự xuất hiện của nhiều vật liệu làm từ kỹ nghệ cao cấp như carbon nanotubes,(sợi carbon siêu nhỏ), ceramic-matrix nanocomposites, (sợi carbon thế hệ mới) . Tựu trung, chúng sẽ cho ra đời những sản phẩm mới có tính chịu đựng lâu dài, bền với năng suất rất cao so với hiện nay.

Dù cho Trung Cộng có được kỹ thuật tự hành từ robotics, Trí Thông Minh Nhân AI và kỹ thuật 3D chăng nữa, quan niệm tải nguyên liệu tới Trung Hoa làm xong chở lại qua Mỹ sẽ không còn hiện hữu

Kết Luận

Trung Cộng hiện nay có nhiều lý do để lo âu cho nền kinh tế với vô số công xưởng chế xuất đại công xửong xử dụng nhân công đại loạt như hiện nay. Nền kinh tế quá nóng của dạng này hiện nay đã có đáp số. Khi nền kinh tế Mỹ đang ý thức “về ngưồn” cộng với những phát minh kỹ thuật cao cấp nhất trong đó có 3 kỹ thuật Robotics, AI và 3D như vừa nói ở trên là một trong những nguyên do làm nguyên do làm kinh tế của Bắc Kinh đang khựng lại

Trung Hoa đang lo ngại các khu vực chế xuất sẽ trở lại Mỹ chậm lắm là trong thời gian tới sau bầu cử 2016 này.

Chúng ta tiên liệu sẽ có những công việc ra đi từ Mỹ nhưng không trở lại vì những công việc đó không còn tồn tại nữa do nền sản xuất mới Hoa Kỳ đang lên lại với sự phát triển 3 ngành kỹ thuật hiện đại vừa trình bày ở trên.
Kỹ thuật mới đang tạo ra hàng loạt công việc mới, mức lương cao hơn tại Mỹ.Thời gian này chúng ta sẽ chứng kiến ngày tàn của nền kinh tế HÀNG “DỔM” của Bắc Kinh.

Đinh hoa Lư

Lệnh miệng

Lệnh miệng

FB Nguyễn Thông

7-1-2017

Ảnh cụ Trương Vĩnh Ký. Nguồn: internet

Mấy bữa ni, thiên hạ đồn rầm chuyện cuốn “Trương Vĩnh Ký – nỗi oan thế kỷ” của nhà sử học Nguyễn Đình Đầu bị cấm lưu hành trên đường sách Sài Gòn, xuất phát từ một cái lệnh miệng.

Tôi chưa rõ đầu đuôi việc này (có bị cấm hay không) nhưng thiên hạ đồn ran như thế mà chả thấy nhà chức việc có trách nhiệm nào lên tiếng, chứng tỏ các bố chỉ ăn ngủ là giỏi, khi có việc cần đến thì lẩn như trạch, mất hút con mẹ hàng lươn.

Nếu thực sự có cấm, thì ai ra lệnh cấm, vì sao cấm. Một cuốn sách nói chung, một công trình của nhà nghiên cứu có uy tín nói riêng, để được ra đời thường phải trải qua rất nhiều khâu thẩm định, xét duyệt, cho phép, cấp phép, vậy khi nó đã thành sản phẩm hoàn chình rồi, lại cấm là cớ làm sao. Làm gì cũng phải có pháp luật, chứ muốn cho xuất bản thì xuất bản, muốn cấm thì cấm, thứ đâu có thứ lạ đời, nhố nhăng thế.

Phải làm rõ thứ lệnh miệng ấy xuất phát từ kẻ nào. Tất cả phải được rõ ràng theo pháp luật. Chấm dứt ngay cái thói lệnh miệng ba vạ, tào lao; đến khi cần truy ra lại không biết là ai, cứ đổ qua đổ lại, lờ tít tìn tịt, không biết con ma nào.

Vụ cấm sách của cụ giáo sư Đầu làm tôi nhớ đến vụ Z30 hồi năm 1983. Tự dưng có một thứ chỉ thị, bảo là tối mật, chỉ đạo bí thư các thành phố lớn phải đánh tư sản, tịch thu nhà cửa, tài sản của những gia đình có nhà 2 tầng trở lên (2 tầng ở miền Bắc, tức là 1 trệt 1 lầu ở miền Nam). Sau này rất nhiều bài viết, kể cả sách của ông Đoàn Duy Thành, lời kể của ông Nguyễn Văn An… đều tường thuật vụ này, nhưng đều nói đó là lệnh miệng. Lệnh miệng là thế đéo nào, lời nói gió bay, phải có chỉ thị cụ thể từ ai đó thì các bố mới dám làm chứ. Mà giả dụ lệnh miệng có thực, thì phải của kẻ rất có thế lực, nó nói mà không làm là nó giết, thì mới sợ thế chứ. Các bố biết tỏng tòng tong đó là kẻ nào, lại còn dập dờn như lúa xuân trước gió, nửa kín nửa hở. Sao không nói toẹt ra. Phải chỉ mặt đặt tên những kẻ làm hại đất nước cho dân chúng lên án, cho nó chừa cái thói tùy tiện làm khổ dân chứ không thể nhân nhượng, bao che cho chúng mãi được.

Đề nghị các nhà nghiên cứu, nhà báo tìm hiểu cặn kẽ, phanh phui kẻ cụ thể nào đã ra cái lệnh miệng khốn nạn Z30 cướp đoạt trắng trợn tài sản mồ hôi nước mắt của nhân dân. Ai chưa rõ chuyện này, cứ đến hỏi gia đình ông vua lốp Nguyễn Văn Chẩn, gia đình ông Núi Điện ở Hà Nội, hoặc hỏi nhà văn Trần Huy Quang, cùng rất nhiều người còn sống là rõ ngay.

Tôi không bao giờ tin chuyện có lệnh miệng. Kẻ nắm quyền khi biết mình tà đạo thì mới sợ sự công khai chứ thực ra nó cũng biết không có văn bản chỉ thị cụ thể thì cấp dưới nó không thi hành. Bọn chúng bao che, giấu cho nhau thôi.

Theo tôi, mọi thứ lệnh miệng đều không có giá trị. Người dân cần dứt khoát với mọi thứ lệnh miệng, không có gì phải sợ nó cả.

Chảy máu chất xám – bao giờ chấm dứt?

Lan Hương, phóng viên RFA

Sinh viên cầm bằng cử nhân mới nhận tại Hà Nội ngày 20 tháng 11 năm 2014.

Sinh viên cầm bằng cử nhân mới nhận tại Hà Nội ngày 20 tháng 11 năm 2014.

AFP photo
 Nhiều bạn trẻ Việt Nam không muốn công tác trong nước mà tìm cách định cư ở nước ngoài để sinh sống, làm việc.

Số liệu thống kê mới nhất của bộ Giáo dục và Đào tạo cho thấy hiện có khoảng 60.000 du học sinh Việt Nam trên khắp thế giới. Trong số này có đến khoảng 70% không trở lại Việt Nam để làm việc mà quyết định phát triển sự nghiệp của bản thân nơi xứ người.

Về tình trạng này, chuyên gia kinh tế- tiến sĩ Lê Đăng Doanh, lý giải nguyên nhân:

Tình hình chảy máu chất xám và những học sinh giỏi ở Việt Nam khi đi học ở nước ngoài thì tỷ lệ quay trở lại Việt Nam là thấp. Lý do thì có thể có nhiều, có thể nêu vài lý do như sau: thứ nhất là tiền lương cho người trí thức quá thấp, tiền lương cho một ông tiến sĩ ở nước ngoài học về thì cũng chỉ khoảng 3,5 – 4 triệu, không thể đủ sống ở những thành phố như Hồ Chí Minh và ở Hà Nội. Đấy là một lý do.

Việc quản lý tiền lương không thể áp dụng được cho tất cả mọi nơi bởi vì nguồn nhân sách không cho phép.
– Tiến sĩ Lê Đăng Doanh

Cũng có những người thì sẵn sàng chấp nhận tiền lương thấp, họ vẫn sẵn sàng làm việc, nhưng lý do thứ hai có thể nghiêm trọng hơn, đó là khả năng phát triển và phát huy kiến thức và tài năng của họ là thấp. Có những trường hợp những người tiến sỹ đó về không được phân công, không được tận dụng, không được cho phát huy năng lực để giảng dạy. Có người thì được phân công làm thư ký khoa, tức là một chức hành chính chỉ nhận công văn giấy tờ, thế rồi những người đó sau đó cũng bỏ đi. Thứ ba, là điều kiện vật chất cũng như điều kiện nghiên cứu chưa đáp ứng được nhu cầu nghiên cứu của họ. Phòng thí nghiệm thì chưa được trang bị đáp ứng nhu cầu, còn tài liệu và cách tiếp cận thông tin, khả năng đi dự các hội thảo nước ngoài, tiếp xúc các hội nghị quốc tế cũng hạn chế.

Nhà hoạt động xã hội, tiến sĩ Nguyễn Quang A bổ sung thêm rằng Việt Nam cũng như các nước chậm phát triển khác ở châu Á đều bị nạn chảy máu chất xám gây ảnh hưởng rất nhiều. Nguyên nhân một phần còn là do những người có tài không được trọng dụng.

Thực tế ở các nước phát triển, chính phủ luôn khuyến khích những người tài giỏi và tạo điều kiện cho họ phát triển thêm kỹ năng, thậm chí là khuyến khích những người như vậy nhập cư vào đất nước của họ.

Chủ trương chưa thành công

000_HW88V-400.jpg
Sinh viên Việt Nam đi ngang một tấm áp phích trong đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội ngày 09 tháng 11 năm 2016. AFP photo

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh ghi nhận chính phủ Việt Nam đã nhận rõ được tình trạng chảy máu chất xám và đưa ra nhiều chủ trương, chính sách để thu hút nhân tài, đưa ra những đặc cách hấp dẫn hơn chẳng hạn như mức lương cao vượt hơn hẳn mức bình thường, sẵn sàng trả lương ngàn đô cho những nhân tố tài năng, hay những người từng du học nước ngoài. Tuy nhiên việc thực hiện những biện pháp như thế đến nay có thể nói là chưa thực sự hiệu quả bởi nguồn ngân quỹ của Nhà nước hạn hẹp; trong khi đó thì quá trình để phát triển hệ thống phục vụ nghiên cứu cho nhân tài đòi hỏi nhiều thời gian:

Việc quản lý tiền lương không thể áp dụng được cho tất cả mọi nơi bởi vì nguồn nhân sách không cho phép. Điều quan trọng là khả năng phát triển, tức là những người đó phải được sử dụng vào đúng vị trí, tạo điều kiện có phòng thí nghiệm, có cơ sở nghiên cứu, có cộng tác viên, có một môi trường nghiên cứu khoa học dân chủ, cầu thị, tôn trọng ý kiến khác nhau, không quy chụp, thành kiến với những người có ý kiến khác mình. Tất cả những cái đó cần phải có thời gian, và quan trọng nhất là cần phải có người đứng đầu đơn vị khoa học đó có trình độ, thái độ cầu thị, ủng hộ tranh luận dân chủ, ủng hộ ý kiến đa chiều. Đó là điều quan trọng hơn rất nhiều.

Tiến sĩ Nguyễn Quang A cũng có nhận định về các chủ trương, chính sách khuyến khích nhân tài của chính phủ Việt Nam:

Việt Nam nói thì nhiều nhưng mà họ làm thì không được mấy cả. Chúng ta nhìn thấy từ thời Hồ Chí Minh, những người tài như Trần Đại Minh, Lý Đức Thảo, theo phục vụ cho chính quyền thì hoạt động cũng luôn cầm chừng. Những người có tư tưởng độc lập, nhất là về vấn đề xã hội. Đấy là sáu, bảy chục năm trước cũng như thế. Cho đến thời gian vừa rồi họ cũng hô hào nhiều nhưng mà bản thân nhà nước về cơ bản không làm được cái gì cả. Cải thiện môi trường là một việc, họa chăng ra thời gian vừa qua hoặc trong thời gian tới thì khu vực tư nhân là khu vực có thể thu hút nhân tài. Chứ còn bản thân khu vực nhà nước với một chính quyền như thế này thì tôi nghĩ không thể thu hút được nhân tài bởi vì những nhà khoa học người ta không quen với kiểu của các quan chức nhà nước là, thường ăn bổng lộc là chính chứ không phải bằng thù lao hay lương.

Mong mỏi gì trong tương lai

Trước vấn nạn chảy máu chất xám của Việt Nam, các chuyên gia chỉ ra rằng rằng cần phải có những chuyển biến, đổi mới trong chính sách đãi ngộ nhân tài của Chính phủ, và những thay đổi trong hệ thống doanh nghiệp trong nước để biến Việt Nam thành một môi trường thực sự hấp dẫn, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp cho những con người tài năng. Ông Lê Đăng Doanh đề ra một số gợi ý:

Nhà nước và doanh nghiệp phải vận dụng khoa học công nghệ nhiều hơn, vận dụng các chất xám của các chuyên gia, nhà trí thức nhiều hơn, do đó có thể sẽ có sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa.
– Tiến sĩ Lê Đăng Doanh

Hiện nay đã có một số nhà khoa học về nước và thành lập một số doanh nghiệp tư nhân như các công phần mềm hay các công ty về khoa học. Ví dụ như tiến sĩ Nguyễn Thành Mỹ đã thành lập công ty Mỹ Lan hoạt động rất có kết quả ở Trà Vinh, rồi ở Hà Nội thì có công ty cổ phần phích nước Rạng Đông đã thiết lập một trung tâm nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ và đã thu hút được nhiều giáo sư, các chuyên gia trong nước và đã mời các giáo sư Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc sang làm việc.

Tôi nghĩ rằng trong thời gian tới đây, yêu cầu phải phát triển một cách bền vững, nâng cao hiệu quả, năng suất lao động sẽ đòi hỏi nhà nước và doanh nghiệp phải vận dụng khoa học công nghệ nhiều hơn, vận dụng các chất xám của các chuyên gia, nhà trí thức nhiều hơn, do đó có thể sẽ có sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa.

Môi trường làm việc là một nhân tố hết sức quan trọng trong việc quyết định nơi sinh sống, công tác của đội ngũ nhân tài. Nhận thấy môi trường làm việc ở Việt Nam chưa thực sự thân thiện, cởi mở để thu hút nguồn chất xám, chuyên gia Lê Đăng Doanh đã cho đó là một điểm yếu mà chính phủ, doanh nghiệp Việt Nam cần xem xét để thay đổi tình hình trong tương lai.

Tấn công ở sân bay Florida

Tấn công ở sân bay Florida

Nạn nhân bị thương được đưa đến bệnh viện
AP
Nạn nhân bị thương được đưa đến bệnh viện

Năm người bị một tay súng bắn chết tại sân bay Fort Lauderdale, Florida, Hoa Kỳ.

Tường thuật ban đầu nói một tay súng nhắm vào khu vực lấy hành lý ở sân bay.

Một nghi phạm bị tạm giữ.

Vụ bắn súng xảy ra ở khu vực lấy hành lý ở Ga số 2, lúc 1800 giờ GMT.

Cảnh sát nói năm người chết, một người đang bị tạm giữ.

13 người khác bị thương và được đưa vào bệnh viện địa phương.

Tổng thống tân cử Donald Trump viết trên Twitter rằng ông đang “theo dõi tình hình kinh khủng ở Florida” và ông đã nói chuyện với thống đốc Florida.

Cảnh ở sân bay

Cảnh ở sân bay

Tin chấn động: Wikileaks tiết lộ có tới 65% lãnh đạo VN chuẩn bị đủ điều kiện bỏ chạy ra nước ngoài

Tin chấn động: Wikileaks tiết lộ có tới 65% lãnh đạo VN chuẩn bị đủ điều kiện bỏ chạy ra nước ngoài

Một Báo cáo mật của Wikileak vừa rò rỉ đã cho biết, hiện nay đã có khoảng 65% lãnh đạo Nhà nước Việt Nam cũng như những người làm giàu bất chính đã chuẩn bị mọi điều kiện để có thể bỏ trốn ra nước ngoài để định cư bất cứ lúc nào.

Điều này trùng hợp với một báo cáo tuyệt mật của Viện Nghiên cứu Dư luận xã hội – Ban Tuyên giáo Trung ương cho biết, kết quả điều tra nội bộ đã cho thấy, có tới 65% quan chức lãnh đạo cấp tỉnh và tương đương ở Việt Nam đã chuẩn bị mọi điều kiện để chạy trốn bất cứ lúc nào.

httpv://www.youtube.com/watch?v=a2uOcdbv_00