Vài suy nghĩ về giải Nobel- Trịnh Khả Nguyên

Ba’o Tieng Dan

19/10/2024

Trịnh Khả Nguyên

Giải Nobel và chính sách giáo dục

Hằng năm, cứ vào khoảng tháng 10 thì bên Thụy Điển, Na Uy công bố tên các vị được nhận giải Nobel về y học, hóa học, vật lý, kinh tế, văn chương, hòa bình của năm đó.

Đây là một tin vui cho các vị được nhận cái giải cao quý kia và cho các nước liên quan đã đành, mà nó còn là tin vui cho cả thế giới nữa. Nhiều nước cũng bắt chước, đã lập và trao một số loại giải thưởng, nhưng chỉ một thời gian thì các giải này tự động chết mòn, hoặc chẳng ai mặn mà gì. Những người được trao loại ấy cũng chẳng có danh tiếng gì. Còn giải Nobel, dù do một cá nhân, một nhà khoa học, ông Alfred Nobel lập ra, nhưng đó là giải thưởng có uy tín, danh giá, có thể là danh giá nhất trên thế giới, trong các lĩnh vực đã kể.

Chỉ một việc giải Nobel được tôn vinh hơn một trăm năm qua, đủ chứng minh điều ấy. Hầu hết những người đoạt giải là những nhân tài, họ là những “đỉnh cao trí tuệ” của loài người. Đó là nhận xét chung, tuy nhiên trong quá khứ cũng có một vài tranh cãi, tai tiếng khi đề cử, chấm chọn, đặc biêt ở hai lĩnh vực văn chương và hòa bình, ví dụ như giải Nobel văn chương trao cho ông Jean-Paul Sartre năm 1964 và giải Nobel Hòa Bình năm 1973 cho một nhân vật ở Việt Nam, gây tranh cãi.

Thông thường một giải thưởng có hai chiều. Giải Nobel cũng thế, nó vinh danh một hay nhiều cá nhân. Ngược lại, những người đoạt giải, với tài năng, sự đóng góp của mình cũng làm cho giải có uy tín và có giá trị hơn. Còn những loại giải chẳng ra gì thì cũng chẳng làm cho người nhận được thêm tí hãnh diện nào, hoặc những người chẳng ra gì mà được phát một giải nào đấy thì cái giải kia cũng chẳng ra gì cả.

Giải Nobel mang lại danh dự cho một cá nhân và đất nước. Chính vì thế, nước nào cũng mong có người của mình đoạt Nobel. Nhìn lại bảng danh sách những người đến từ các nước đoạt giải Nobel, từ khi giải này được thành lập đến nay, có thể thấy rằng họ đã đóng góp nhiều phát minh, sáng kiến cho thế giới. Nếu không có họ thì thế giới hôm nay như thế nào? Như thế nào thì không biết, nhưng chắc không như thế nầy, nghĩa là thế giới cần đến những con người kia, chứ không phải có hay không những vị đó thì cũng chẳng “chết ai”, kiểu “không mợ chợ cũng đông”. Tương tự như bên thể thao, nếu không có các danh thủ, các “cường quốc thể thao” thì World Cup, Euro Cup… chắc buồn lắm.

Cũng có một số người, một số nước muốn có giải Nobel để có “danh gì với núi sông”, kể cả danh hảo để họ huênh hoang, để tự sướng. Thậm chí, họ chỉ mong được đề cử thôi, cũng đã hãnh diện lắm rồi.

Các nước có người đoạt giải Nobel tất nhiên là các nước đó có nhân tài. Nhưng người tài ở đâu ra? Có sẵn trong nước hay du nhập vào? Các nước đó có cách thu hút người giỏi. Họ có một nền giáo dục tốt, có tự do dân chủ cho người ta thoải mái làm việc, bày tỏ chính kiến. Họ không đầu tư mở trường chuyên, lớp chọn, không có các trại sáng tác, trung tâm luyện “gà đá” để đi thi. Ngoài việc có được người đoạt giải danh giá như giải Nobel, cần có một nền giáo dục tốt, một môi trường sống tốt là yếu tố để phát triển đất nước.

Giải Nobel Văn chương và Hòa bình

Giải Nobel về các lĩnh vực vật lý, hóa học, y học, kinh tế thì cao sâu, chuyên biệt nên khó hiểu đối với đại đa số, nhưng giải Nobel về văn chương và hòa bình là tương đối phổ thông. Trước năm 1975, ở miền Nam có những cuốn sách được dịch ra từ các tác phẩm hay, nếu sách đó được giải Nobel, thì chúng thường được quấn quanh bởi một cái ruy băng có câu “Giải Nobel năm …”, để “câu” người đọc.

Còn nhớ, giải Nobel văn chương năm 1964 định trao cho nhà văn, triết gia hiện sinh Jean-Paul Sartre, nhưng bị ông ta từ chối. Trong thập niên 1960, triết gia, nhà văn Sartre có một thời thiên tả. Có lẽ đây là lý do ông từ chối nhận giải Nobel năm 1964 và việc từ chối này cũng là một cách tự đề cao mình (hơn cả giải Nobel). Vào những năm đó, ông cùng với nhiều nhân vật thiên tả ở châu Âu chống chiến tranh Việt Nam. Họ được gọi là những người yêu chuộng hòa bình, là “loài người tiến bộ” đại diện cho “lương tâm của nhân loại, lương tri của thời đại”. Nhưng sau năm 1975 thì các vị này đổi thái độ. Ngay tại miền Nam Việt Nam vào những năm đó cũng có phong trào tranh thủ hòa bình.

Giải Nobel hòa bình không lạ với người Việt chúng ta; năm 1973 đã có người Việt Nam được đề cử cùng nhận giải này với một người khác, nhưng người Việt đó từ chối, không phải là vì lý do “cùng nhận”, mà vì lý do riêng. “Cùng nhận” là chuyện xảy ra bình thường đối với các vị nhận giải Nobel. Trớ trêu thay, năm 1973 giải Nobel hòa bình cho Việt Nam chỉ có ở Thụy Điển; còn ở Việt Nam lúc đó chẳng có hòa bình, mà ngược lại, chiến tranh còn ác liệt hơn. Phải chăng nhân vật này biết rằng, ông ta đang cùng với lãnh đạo của mình chuẩn bị gây chiến thêm, thay vì kết thúc, cho nên đã từ chối giải thưởng kia?

Cách hơn chục năm, Trung Quốc cũng đã dựng lên giải Nobel Hòa bình Khổng Tử để đối trọng với giải Nobel hòa bình thế giới. Không biết giải hòa bình mang tên vị hiền triết kia phát được mấy lần, tồn tại được bao nhiêu năm và trao cho những ai, nhưng năm 2011 họ đã trao cho Putin, nhân vật đã và đang tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Ukraine gần 3 năm qua, gây bất ổn trong khu vực châu Âu.

Về giải Nobel Hòa bình Khổng Tử, điều mỉa mai là, trước đó tư tưởng của Khổng Tử bị đánh cho lên bờ xuống ruộng, bị phê đến không còn chỗ phê, cái tượng của ông ở quê nhà cũng bị đập phá. Thế mà khi cần, tên ông lại mang ra đặt cho giải thưởng hòa bình.

Giải Nobel Hòa bình năm nay được trao cho tập thể Nihon Hidankyo của Nhật Bản hôm 11/10/2024. Nihon Hidankyo là tổ chức những người Nhật Bản sống sót sau các vụ Mỹ ném bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki hồi Đệ Nhị Thế Chiến. Hiện có người còn sống, còn chịu thương tật nặng nề. Chính vì thế, họ rất sợ vũ khí hạt nhân và họ đang kêu gọi cho một thế giới không sử dụng loại vũ khí nầy. Nguy hiểm đang chực chờ không phải Hiroshima và Nagashaki đã qua, mà là do hiện nay có người mang vũ khí hạt nhân ra hù dọa về thế chiến thứ ba.

Ông Toshiyuki Mimaki, chủ tịch tổ chức Nihon Hidankyo, chủ nhân giải Nobel Hòa bình 2024. Ảnh trên mạng

Ngày 6/8/1945 Mỹ thả một quả bom nguyên tử xuống thành phố Hiroshima, ba ngày sau, ngày 9/8/1945 Mỹ lại thả quả thứ hai xuống Nagasaki. Số người chết và bị thương rất lớn, ước chừng 140.000 người, cả quân nhân và dân thường, nhưng đến nay vẫn chưa thống nhất về con số nạn nhân vì nhiều lý do. Hằng năm, đến ngày 6/8 nước Nhật tổ chức lễ tưởng niệm các nạn nhân kia. Các buổi lễ đều diễn ra ôn hòa, nhằm mục đích kêu gọi không sử dụng vũ khí hạt nhân, chứ không phải mang tính kích động thù hận “đến tận xương tủy”.

Người đại diện cho phía ném bom, Tổng thống Mỹ, cũng đã có lần đến viếng nơi ấy. Ngày 27/5/2016, tại Công viên Tưởng niệm Hòa bình Hiroshima, Nhật Bản, Tổng thống Obama đã đặt vòng hoa trước đài tưởng niệm và nhắm mắt, cúi đầu dành một phút mặc niệm, tưởng nhớ những nạn nhân thiệt mạng sau khi Mỹ thả quả bom nguyên tử thứ nhất xuống Hiroshima vào ngày 6-8-1945. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe cũng đến đặt vòng hoa tưởng niệm tại đây.

Và mới đây, ngày 20/5/2023 các nước G7 (dĩ nhiên có Mỹ và Nhật) đã chọn Hiroshima để họp bàn về hợp tác toàn cầu, kêu gọi hòa bình, không để chiến tranh hạt nhân xảy ra. Hai “cựu thù” Mỹ – Nhật đều xem sự việc Hiroshima và Nagashaki là “quá vãng nhi bất thuyết”, bây giờ là lúc cần hợp tác “hòa giải, hòa hợp để cùng tiến bộ, nhằm tránh điều đáng tiếc đã xảy ra. Trong khi đó, dư luận tại một số nước thì hành xử ngược lại, hằng năm cứ đến ngày 6/8 họ nhắc lại sự kiện Hiroshima để khoét sâu nỗi đau của người dân Nhật.

Hiện nay, vài nước trên thế giới đang chịu đựng chiến tranh xâm chiếm do sự hiếu chiến, tham vọng phục hồi đế chế của một số lãnh đạo độc tài; các lãnh đạo này đem vũ khí hạt nhân ra hù dọa. Dù chỉ là hù, nhưng thế giới cũng cảm thấy bất an và cảnh giác. Trong bối cảnh đó, giải Nobel hòa bình năm nay vinh danh tổ chức Nihon Hidankyo, nạn nhân của bom nguyên tử năm 1945, thật có ý nghĩa.

Việc làm này không nhằm mục đích nhắc lại chuyện cũ để gây hận thù, chia rẽ, mà là kêu gọi cho một thế giới không dùng vũ khí hạt nhân và cũng là một cách trả lời cho những lời đe dọa dùng bom nguyên tử một cách vô trách nhiệm của một số lãnh đạo độc tài ở một số nước trên thế giới.


 

Trung Quốc gây hấn Biển Đông: Bóng ma quá khứ đang hiện hữu-Sonnie Tran/SGN

Ba’o Nguoi-Viet

October 15, 2024

Sonnie Tran/SGN

Mùa thu năm 2024, lịch sử như “cô đặc lại” thành nỗi uất hận bị kìm nén từ năm 2014  bỗng lại “bùng nổ” và tái diễn trên Biển Đông. Vụ việc tàu Trung Quốc tấn công dã man ngư dân Việt Nam ở vùng biển Hoàng Sa vào cuối Tháng Chín đã khơi dậy những ký ức đau buồn về những ngày Tháng Năm năm 2014, khi Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan 981 trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Căng thẳng leo thang, và bóng ma của quá khứ đang phủ bóng lên hiện tại, đặt ra câu hỏi: Liệu Biển Đông có đang bước vào một giai đoạn bất ổn mới?

Những năm gần đây, Trung Quốc liên tục gia tăng các hành động quyết liệt nhằm khẳng định yêu sách chủ quyền phi lý của mình trên Biển Đông. Bắc Kinh không chỉ đơn thuần tuyên bố chủ quyền với hầu hết diện tích Biển Đông, mà còn tích cực triển khai các hoạt động nhằm hiện thực hóa tham vọng bá quyền này.

Lịch sử quay lại sau 10 năm

Từ ngày thay đổi lãnh đạo trên thượng tầng Ba Đình, người dân Việt Nam vốn ngại đụng chạm đến chính trị vì lo ngại đàn áp bỗng có đôi chút trông chờ một sự thay đổi từ chuyến đi Mỹ và các chuyến công du quốc tế của ông Tô Lâm.

Các cuộc gặp gỡ và phát biểu “thừa nhận sự giúp đỡ của Hoa Kỳ” của ông Tô Lâm, đặc biệt là những là cái bắt tay của ông với Tổng Thống Zelensky đánh dấu một dấu hiệu nhỏ nhoi về thay đổi lập trường trong cuộc xâm lược Ukraine của Nga, tạo ra một số kỳ vọng về lập trường cứng rắn hơn của Việt Nam trước các hành vi xâm phạm chủ quyền biển đảo của Trung Quốc.

Việc Thủ Tướng Trung Quốc Lý Cường tức tốc đến Hà Nội sau chuyến công du “gây xôn xao dư luận” của ông Tô Lâm, đã khiến người dân kỳ vọng vào việc chính quyền Việt Nam sẽ bày tỏ thái độ thẳng thắn và nghiêm khắc trước những vụ việc Trung Quốc đối xử tàn bạo với ngư dân Việt Nam trong những tháng gần đây.

Nhưng rồi mọi mong mỏi lại trở về với thất vọng khi phía Việt Nam hoàn toàn “lờ đi” cơ hội tiếp tục lên tiếng và gây sức ép với Trung Quốc và hành vi gây phẫn nộ cho nhân dân Việt Nam.

Nhớ 10 năm trước, ký ức về những ngày Tháng Năm năm 2014 vẫn còn in đậm trong tâm trí nhiều người Việt Nam, như một vết sẹo không thể nào phai mờ. Vụ việc giàn khoan Hải Dương 981, một minh chứng rõ ràng cho tham vọng bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông, khơi dậy trong lòng người dân Việt Nam một ngọn lửa yêu nước sục sôi, làn sóng biểu tình phản đối Trung Quốc lan rộng trên cả nước. Ngay tại Hà Nội những ngày Tháng Năm năm ấy cũng sục sôi không khí hừng hực khắp nơi. Từ sáng đến trưa, các đoàn biểu tình chia thành từng đợt, nối đuôi nhau diễu hành qua nhiều con phố lớn, từ Đại Sứ Quán Trung Quốc tại Vườn hoa Chí Linh lên tận Nhà Hát Lớn của Hà Nội.

Họ hô vang những khẩu hiệu “Đả đảo Trung Quốc xâm lược!,” “Trung Quốc cút khỏi Biển Đảo của Việt Nam!,” “Vì Biển Đông quên mình, vì Biển Đông hy sinh!,” tiếng hô vang vọng khắp không gian, hòa vào nhau tạo nên một bản hùng ca bất khuất.

Ở phương Nam, tại trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP.HCM, cuộc mít tinh khổng lồ với sự tham gia của đông đảo cán bộ, sinh viên đã khơi dậy và giáo dục cho thế hệ trẻ niềm tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước, trách nhiệm và bổn phận của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc; đồng thời thể hiện lòng quyết tâm bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ Quốc; phản đối Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép Hải Dương – 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

“Chia sẻ Tương lai” nào với Trung Quốc?

Bắc Kinh có những hành động ngang ngược, vi phạm luật pháp quốc tế trên ngư trường truyền thống của Việt Nam, dựa trên những tuyên bố chủ quyền phi lý và các hành vi áp đặt.

Trung Quốc đơn phương tuyên bố quyền thống trị trên thực tế đối với hầu hết diện tích Biển Đông, bao gồm cả vùng đặc quyền kinh tế rộng 370 km của bảy quốc gia ASEAN ven biển, trong đó có Việt Nam.

Theo tờ Asia Sentinel, việc Trung Quốc đầu tư nâng cấp căn cứ hải quân Ream ở Campuchia, biến nơi đây thành một căn cứ quân sự chiến lược, gây ra nhiều lo ngại về việc Trung Quốc có thể sử dụng căn cứ này để triển khai lực lượng quân sự, kiểm soát vùng biển chiến lược, đe dọa an ninh khu vực. Trung Quốc khiến các lực lượng Mỹ khó đi lại tự do hơn và thách thức cấu trúc an ninh hiện tại do Hoa Kỳ lãnh đạo ở khu vực Indo-Pacific.

Bất chấp luật pháp quốc tế và chủ quyền của các quốc gia ven biển, Trung Quốc ban hành luật tuần tra hàng hải mới vào năm 2021, cho phép lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc tự ý định ra luật lệ, quy tắc và quy định quản lý hành vi trong 3.5 triệu km vuông biển – nơi có lượng hàng hóa thương mại ước tính 3 – 5 nghìn tỷ đôla mỗi năm đi qua.

Luật tuần tra hàng hải của Trung Quốc cho phép lực lượng bảo vệ bờ biển nước này có quyền bắt giữ tàu thuyền ngoại quốc và giam giữ các tàu và cá nhân này lên đến 60 ngày nếu nghi ngờ họ xâm nhập trái phép vào vùng biển mà Trung Quốc tự nhận là “lãnh thổ không thể tranh cãi” dựa trên đường chín đoạn phi pháp – yêu sách đã bị Tòa Trọng tài Quốc tế bác bỏ hoàn toàn vào năm 2016.

Vụ tấn công ngư dân Việt Nam gần đây là một minh chứng rõ ràng cho việc Trung Quốc sẵn sàng sử dụng vũ lực để thực thi những luật lệ ngang ngược này, coi thường luật pháp quốc tế và chủ quyền của các quốc gia ven Biển Đông.

Kể từ khi cưỡng chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực vào năm 1974, Trung Quốc nhanh chóng triển khai chiến lược “tằm ăn dâu” trên quần đảo này, từng bước biến nó thành một căn cứ quân sự kiên cố, bất chấp luật pháp quốc tế và chủ quyền của Việt Nam.

Bắc Kinh thiết lập sự hiện diện thường trực trên Hoàng Sa, xây dựng các tiền đồn, cơ sở hạ tầng quân sự, hệ thống radar, đường băng, và các tổ hợp tên lửa, biến quần đảo này thành một “hàng không mẫu hạm” bất khả xâm phạm trên Biển Đông.

Không dừng lại ở đó, Trung Quốc còn ngang nhiên sáp nhập Hoàng Sa vào hệ thống hành chính của tỉnh Hải Nam và chính thức coi Hoàng Sa là một phần lãnh thổ của mình, đồng thời khai thác tài nguyên thiên nhiên tại vùng biển xung quanh, bao gồm ngư trường và các mỏ dầu khí.

Trung Quốc liên tục sử dụng các biện pháp ngoại giao và quân sự để khẳng định quyền kiểm soát Hoàng Sa, bác bỏ phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế năm 2016, phủ nhận các yêu sách biển của các nước láng giềng.

Trong bối cảnh đó, liệu Việt Nam có thể đặt niềm tin vào “Cộng đồng chia sẻ tương lai” với Trung Quốc?

Khái niệm này được Bắc Kinh đưa ra như một tầm nhìn về sự hợp tác và thịnh vượng chung cho khu vực, nhưng thực tế lại đang đối nghịch với những hành động gây hấn của Trung Quốc trên Biển Đông.

Trong khi Trung Quốc ra rả tuyên truyền về hợp tác và phát triển, thì họ lại liên tục có những hành động đơn phương, vi phạm luật pháp quốc tế, xâm phạm chủ quyền của các quốc gia láng giềng. Điều này khiến cho “Cộng đồng chia sẻ tương lai” trở thành một khẩu hiệu sáo rỗng, thiếu tính thuyết phục và không tạo được lòng tin từ các quốc gia trong khu vực.

Thời gian gần đây, các động thái gây sức ép của Trung Quốc đối với Việt Nam xem ra có vẻ thô bạo và “phản ngoại giao” hơn thời Tổng Trọng.

Trước chuyến công du New York của ông Tô Lâm, trang Facebook của Tổng Lãnh Sự quán Trung Quốc tại Đà Nẵng đăng lại video vu cáo đại học Fulbright Việt Nam, kèm theo thông điệp cảnh báo về “cách mạng màu.”

Sau đó, Trung Quốc lần đầu tiên cho một thiết bị bay không người lái UAV bay dọc theo lãnh hải Việt Nam mà không gặp bất kỳ sự phản đối nào từ phía Việt Nam. Hành động này được xem là một động thái mang nhiều hàm ý, vừa phô trương sức mạnh, vừa thể hiện rõ ý đồ răn đe của Bắc Kinh, muốn khẳng định Biển Đông vẫn nằm trong tầm kiểm soát của họ và Hà Nội vẫn nằm trong tầm ngắm của Bắc Kinh. Đồng thời cảnh báo liên minh Mỹ – Philippines – những quốc gia đang có xung đột mạnh mẽ với Trung Quốc trên Biển Đông – rằng Trung Quốc vẫn còn nhiều quân bài chiến lược khác.

Ngay sau sau cuộc gặp giữa ông Tô Lâm và Tổng Thống Joe Biden hồi Tháng Chín, Trung Quốc phóng tên lửa hạt nhân như là một lời cảnh cáo gửi đến cả Việt Nam và Mỹ, nhằm thể hiện sức mạnh quân sự và quyết tâm bảo vệ yêu sách chủ quyền phi lý của Trung Quốc trên Biển Đông.

Nhân dịp Bộ Trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên tham dự kỳ họp lần thứ 13 Ủy Ban Hợp Tác Kinh Tế Thương Mại Việt Nam – Trung Quốc ở Bắc Kinh, ngày 30 Tháng Chín, Bộ Trưởng Công Nghiệp và Công Nghệ Trung Quốc kêu gọi Việt Nam hợp tác với Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất và chế tạo máy bay.

Trước “mong muốn” này, Hà Nội sẽ phải đối mặt với áp lực không nhỏ từ các quốc gia phương Tây, đặc biệt là từ Hoa Kỳ. Bất kỳ sự hợp tác quá gần gũi nào với Bắc Kinh trong các lĩnh vực công nghệ cao, chẳng hạn như vũ trụ và hàng không, có thể gây ra những hệ quả đối với quan hệ Việt – Mỹ.

Trước những thách thức to lớn này, Việt Nam đang đối mặt với bài toán khó trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo và lợi ích quốc gia khi phải  duy trì một chiến lược “ngoại giao cân bằng bền,” tiếp tục thu hút đầu tư và hỗ trợ từ phương Tây, đồng thời không để mối quan hệ với Trung Quốc trở nên căng thẳng quá mức.

Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông được cho là chưa đủ hiệu quả để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc. Việc duy trì quan hệ hữu nghị với Trung Quốc trong khi vẫn kiên quyết bảo vệ chủ quyền là một thách thức lớn. Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc về kinh tế và thương mại, khiến cho việc phản ứng mạnh mẽ trước các hành động của Trung Quốc trở nên khó khăn.

Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng chính sách đối ngoại của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông còn thiếu sự linh hoạt và chủ động. Việc quá tập trung vào việc duy trì quan hệ song phương với Trung Quốc, trong khi chưa khai thác hết tiềm năng hợp tác đa phương với các nước lớn khác như Mỹ, Philippines và các nước Đông Á có chung tranh chấp vùng biển với Trung Quốc…, đã vô hình trung tạo điều kiện cho Trung Quốc gia tăng sức ép lên Việt Nam.

Chính sách “bốn không” trong quốc phòng (không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) được một số nhà phân tích cho là đang hạn chế khả năng của Việt Nam trong việc tranh thủ sự ủng hộ của các nước lớn, tạo ra thế cân bằng lực lượng trên Biển Đông.

Việc chưa tận dụng tối đa các diễn đàn quốc tế và khu vực để lên án hành vi sai trái của Trung Quốc, cũng được xem là một điểm yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.

Biển Đông đang trở thành điểm nóng địa chính trị, nơi các cường quốc cạnh tranh ảnh hưởng và lợi ích. Việt Nam cần phải có những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại, tăng cường năng lực quốc phòng, và tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của mình.

Bóng ma của quá khứ đang hiện hữu trên Biển Đông, và tương lai của vùng biển này vẫn còn là một ẩn số.


 

Từ giải thưởng Nobel kinh tế, lại nghĩ đến Việt Nam-Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba đồng sở hữu Nobel kinh tế

“Tiền là Tiên là Phật ». Chẳng ai phản đối câu nói dân dã này của người Việt Nam. Nói tóm lại Kinh tế quyết định tất cả. Sự thành bại của một cá nhân, của một quốc gia phụ thuộc vào kinh tế.

NHƯNG CÁI GÌ QUYẾT ĐỊNH CHO SỰ THÀNH BẠI CỦA KINH TẾ

Câu trả lời nằm trong giải Nobel kinh tế 2024

Giải Nobel Kinh tế năm 2024 đã được trao cho Daron Acemoglu, Simon Johnson và James A. Robinson vì những nghiên cứu của họ về tầm quan trọng của các thể chế đối với sự thịnh vượng của các quốc gia. Họ chỉ ra rằng các thể chế dân chủ, bảo vệ quyền sở hữu và hạn chế lạm dụng quyền lực, giúp thúc đẩy đổi mới và tăng trưởng kinh tế lâu dài. Ngược lại, các thể chế chiếm đoạt, tập trung quyền lực và tài sản vào một số giới nào đó thường kìm hãm sự phát triển kinh tế. Những nghiên cứu của họ được thể hiện trong cuốn sách “Why Nations Fail: The origins of Power, Prosperity, and Poverty”(Tại sao các quốc gia thất bại: Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói).

Tôi không muốn đi sâu vào các chi tiết của cuốn sách, chỉ biết rằng cuốn sách này đã được xuất bản từ năm 2012 được dịch ra hơn 30 thứ tiếng(kể cả tiếng Việt). Cuốn sách đã có 1 ảnh hưởng lớn trên toàn thế giới trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và phát triển.
Đã có biết bao nhiêu bài báo, sách vở chỉ trích chế độ độc tài, nguyên nhân của sự nghèo đói và kém phát triển. Nhưng cuốn sách này là một cuốn nghiên cứu sâu rộng, khoa học với các dẫn chứng cụ thể và nó đã xứng đáng đạt giải Nobel. Như vậy, giải Nobel cũng đã chính thức vạch mặt chỉ tên độc tài.

Bây giờ tôi muốn nói đến sự sụp đổ không thể tránh khỏi của các chế độ độc tài.
Các chế độ độc tài, dù có thể tồn tại trong một khoảng thời gian dài, cuối cùng cũng có xu hướng sụp đổ vì nhiều lý do mang tính cấu trúc. Về bản chất, các chế độ này không ổn định, giống như một thứ cân bằng không bền, mà đã có lần tôi đã dùng đến trong một bài viết trước đây.(Người đi trên dây là một thí dụ cân bằng không bền. Quả lắc đồng hồ là 1 thí dụ về cân bằng bền). Lịch sử của nhân loại đã cho chúng ta nhiều thí dụ về tính không ổn định và sự sụp đổ không tránh khỏi của các chế độ độc tài.

Một cách ngắn gọn nhất, Các chế độ độc tài sụp đổ vì :
1. Điểm yếu đầu tiên là nó thiếu tính chính danh từ nhân dân, tính chính danh dân chủ. Khác với các chế độ dân chủ, các chế độ độc tài thường cướp chính quyền và duy trì quyền lực bằng bạo động và đàn áp. Đây là những nguyên nhân gây ra bất mãn và các phong trào phản kháng của nhân dân. Khi những bất mãn này đạt đến đỉnh điểm, chế độ sẽ sụp đổ dưới áp lực của các cuộc đấu tranh, biểu tình của nhân dân.
2. Điểm yếu thứ hai của độc tài là nó tập trung quyền lực vào tay của một cá nhân hay một nhóm. Điều này dẫn đến lạm dụng quyền lực và tham nhũng tràn lan. Thiếu sự kiểm soát và đối trọng, các chế độ này trở nên mục nát từ bên trong, sẽ đến lúc không thể nào cứu vãn được.
3. Điểm yếu thứ ba chính là điều mà giải thưởng Nobel kinh tế 2024 đã nói đến, Kinh tế kém hiệu quả. Các chế độ độc tài không thể đảm bảo được sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Tự do cá nhân bị bóp nghẹt, tự do sáng tạo sẽ bị hạn chế. Tham nhũng làm bộ máy kinh tế không thể nào hoạt động một cách bình thường.

Sự phồn thịnh hay đói nghèo của một đất nước hay một dân tộc không phụ thuộc vào vị trí địa lý, chủng tộc hay tôn giáo hay sự ngắn dài của lịch sử mà là kết quả của thể chế chính trị. Nước Mỹ chỉ có hơn 200 năm lịch sử, nước ta trên 4.000 năm…

Tuy nhiên, một số đặc điểm riêng của VN(văn hóa, lịch sử, xã hội…) đã làm cho chế độ cộng sản có thể bám rễ lâu hơn so với các nước khác. Tôi mạo muội đưa ra một số đặc điểm sau:

  1. Chế độ cộng sản không coi trọng cá nhân(trong nhân dân) và luôn luôn đề cao tính tập thể. Đặc điểm này có vẻ như hợp với người VN. Từ ngàn đời, người Vn ta có truyền thống sống trong các làng xã nhỏ bé, nơi mà mọi người biết rõ nhau, thậm chí có quan hệ huyết thống với nhau và cùng hỗ trợ nhau để tồn tại. Sự đoàn kết chặt chẽ này giúp hình thành tinh thần tập thể mạnh mẽ và dễ đồng nhất với tư tưởng cộng sản, vốn coi trọng tập thể và cộng đồng hơn cá nhân. Chế độ cộng sản đã khéo léo khai thác đặc tính này, sử dụng nó như một công cụ để duy trì sự thống nhất và kiểm soát xã hội.
  2. Tinh thần yêu nước và chống ngoại xâm: Người Vn có truyền thống yêu nước, có lịch sử lâu dài chống lại thành công các cuộc xâm lược từ Trung Quốc. Chính quyền cộng sản đã rất thành công trong việc động viên, kích động nhân dân trong các cuộc chiến chống Pháp, Nhật, Mỹ. HỌ KÉO LÉO GẮN KẾT NHỮNG THÀNH CÔNG ĐÓ VỚI TƯ TƯỞNG CỘNG SẢN, kiến nhiều người dân tin rằng Đảng với tư tưởng cộng sản là lực lượng duy nhất có thể bảo vệ đất nước trước sự đe dọa của ngoại bang. Yêu nước trở thành yêu Đảng, Yêu CNXH. Chủ nghĩa yêu nước của VN tự nhiên trở thành một yếu tố quan trọng củng cố tính chính danh của chế độ, hóa giải được điểm yếu chí mạng của một chế độ độc tài.(Yếu tố số 1 nêu trên).
  3. Chấp nhận quyền lực từ trên xuống dưới. Nước ta là một nước nông nghiệp, phong kiến lạc hậu. Người Vn quen với việc chấp nhận quyền lực từ trên xuống dưới. Ngày xưa thì có vua, bây giờ thì có đảng. Trong cấu trúc xã hội VN, sự tuân thủ và tôn trọng quyền lực đã trở thành một phần của văn hóa. Chính quyền cộng sản đã kế thừa và khai thác mô hình quyền lực này, áp đặt quyền lực mạnh mẽ từ trung ương đến địa phương. Điều này khiến cho người dân có xu hướng dễ chấp nhận và ít chống đối sự cai trị từ trên.
  4. Tính linh hoạt, khôn lỏi và thích nghi với hoàn cảnh. Trên đây là tôi tạm thời liệt kê một vài yếu tố có tính chất xã hội, cộng đồng, nói chung. Còn về cá nhân, người Việt có tính khôn lỏi rất cao để thích nghi với hoàn cảnh. Họ có thể chấp nhận điều chỉnh cuộc sống của mình dưới bất kỳ chế độ nào, luồn lách, tìm cái lợi riêng trong một thể chế chung tồi tệ. Người ta có thể nhắm mắt làm ngơ trước những bất công của xã hội, miễn là mình còn có lợi. Hơn nữa, trong xă hội Việt Nam, gia đình là một yếu tố trung tâm rất quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân. Nhiều người tìm cách sống khôn lỏi, an phận để bảo vệ an toàn cho mình và gia đình. Chế độ cộng sản cũng khéo léo lợi dụng yếu tố này để duy trì sự ổn định, thậm chí khuyến khích việc giám sát lẫn nhau giữa các thành viên trong xã hội.
  5. Tính kiên nhẫn và sức chịu đựng. Chắc chắn chúng ta là một dân tộc có tính kiên nhẫn và chịu đựng rất cao. Nói một cách dân dã “thà đói khổ nằm nhà còn hơn là đi đấu tranh đòi hỏi một cái gì đó chống lại chính quyền”.

6 Dân trí. Dưới đây là một đoạn trích trong báo Tiền Phong, Cơ quan trung ương đoàn TNCS Hồ Chí Minh : “Tản Đà đã chỉ ra một vấn nạn vô cùng nặng nề và dai dẳng của dân tộc: Ấy là mối quan hệ giữa dân trí với nạn quan tham lại nhũng: Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn/Cho nên quân nó dễ làm quan”.(trích nguyên văn)

Rõ ràng dân trí của chúng ta vẫn đang là một vấn nạn khổng lồ của ngày hôm nay. Xã hội chỉ thay đổi được trước những đòi hỏi mãnh liệt của quần chúng nhân dân.

Chúng ta đã bước sang thế kỷ 21, nhưng dân trí của ta có thể vẫn ở mức độ cách đây vài trăm năm của Châu Âu. Chế độ độc tài nào rồi cũng phải sụp đổ nhưng nếu dân trí không khá hơn thì chúng ta vẫn tiếp tục “xứng đáng được hưởng” những “thành quả” của CNXH và tiếp tục tiến tới CNCS, thiên đường.

Giải thưởng Nobel là giải thưởng quốc tế danh giá nhất giành cho những công trình nghiên cứu có những đóng góp lớn lao trong việc làm cho xã hội loài người tốt hơn. Phủ nhận các giải thưởng Nobel đồng nghĩa với phủ nhận sự tiến bộ của nhân loại. Vậy mà, theo tôi được biết, cuốn sách “Tại sao các quốc gia thất bại: Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói” do Tiến Sỹ Nguyễn Quang A dịch đầu tiên, sau đó được nhóm khác có bản quyền dịch, xuất bản ở VN đã không được tái bản, thậm chí đang bị âm thầm thu hồi.

(Hình minh hoạ tranh vui của Nga “Cái hoạ không phải là ở chỗ ở bên trên nói láo mà ở chỗ bên dưới lại tin”).


 

Thế Giới Này Có Gì Lạ?

Đến châu Âu mới biết đi shopping không sợ hàng giả

  • Đến Bắc Âu mới biết mặt trời cũng thích ngủ nướng
  • Đến Hong Kong mới biết minh tinh nào cũng đeo Mask
  • Đến Hà Lan mới biết mực nước biển cao hơn mặt đất
  • Đến Thái Lan mới biết thì ra con cú cũng có gai
  • Đến Pháp mới biết trêu hoa ghẹo nguyệt cũng có phong cách
  • Đến Nga mới biết Vodka chỉ là một loại nước giải khát
  • Đến Hawaii mới biết phụ nữ không cần phải mua áo lót (ngực)
  • Đến Nam Hàn mới biết phụ nữ đẹp không phải do bẩm sinh
  • Đến Brazil mới biết mặc đồ thiếu vải cũng chẳng có gì phải thẹn thùng
  • Đến Anh quốc mới biết kết cục hạnh phúc mãi mãi về sau trong truyện cổ tích đều là hư cấu
  • Đến Nhật Bản mới biết ngay cả tội phạm Cảnh sát cũng đối xử vô cùng lịch sự lễ độ
  • Đến Mexico mới biết có thể đi đến Mỹ bằng đường hầm
  • Đến Canada mới biết diện tích lãnh thổ lớn hơn Trung Quốc, nhưng dân số còn kém hơn tiểu bang Cali
  • Đến Trung Quốc mới biết 10 người hết 9 người lừa đảo, người còn lại đang luyện tập ngày đêm
  • Đến Mỹ mới biết bất kể là ai, bạn đều có thể kiện họ ra toà
  • Đến Úc mới biết chuột túi và các loại động vật khác nhiều như đông quân Nguyên, dễ khiến con người phát điên
  • Đến Thuỵ Sĩ mới biết mở tài khoản ngân hàng, nếu có ít hơn 1 triệu USD sẽ bị cười thúi mũi
  • Đến Ý mới biết Gucci & Prada còn ít hơn Trung Quốc
  • Đến Áo mới biết người ăn xin nào cũng có thể đàn ít nhất một bản nhạc
  • Đến Vatican mới biết dù đứng ở bất kỳ vị trí nào trong nước cũng có thể bắn chết chim ở tận nước Ý.
  • Đến thiên đàng xã nghĩa  Việt Nam mới biết có lò đốt quan tham Việt Cộng… nhưng đốt hoài không bao giờ hết !

Kim Hoa 

From: Phi Phuong Nguyen


 

SÔNG CÓ THỂ CẠN-THÁI BÁ TÂN

Nghiem Huynh

Trong “Đèn Cù” có đoạn

Nói về Chu Văn Biên,

Trùm cải cách Nghệ Tĩnh,

Bắc ghế ngồi trên thềm.

 

Hắn chỉ vào mặt mẹ

Đang cúi lạy dưới sân:

“Mày là đứa bóc lột,

Kẻ thù của nhân dân.

 

Không mẹ con gì hết.

Tao phải tiêu diệt mày.”

Vì cái thành tích ấy

Chu Văn Biên sau này

 

Được đề bạt thứ trưởng

Bộ nông nghiệp nước nhà.

Mẹ cắn lưỡi tự tử.

Thật tội nghiệp bà già.

*

Một chính quyền xúi giục

Con cái đấu mẹ cha,

Người ở đấu ông chủ,

Cháu chắt đấu ông bà,

 

Thử hỏi chính quyền ấy

Là thứ chính quyền gì?

Một tội ác man rợ

Thuộc vào hàng tru di.

 

Và sông có thể cạn,

Và núi có thể mòn,

Tội ác man rợ ấy

Sẽ được nhớ, trường tồn.

THÁI BÁ TÂN

BÀ HẰNG, ÔNG VIỆT…- NGUYỄN TIẾN TƯỜNG

Những câu chuyện ý nghĩa

Bà Nguyễn Thị Phương Hằng vừa đi tù về, tự khoác cho mình một “sứ mệnh” vì dân. Tôi không biết bà vì dân là vì điều gì khi rõ ràng rằng bà đi tù vì tội xúc phạm nhân phẩm và vu khống người khác.

Lương dân, nên là những người biết đúng sai phải quấy, không nên là những người vì lòng hiếu kỳ mà tung hê một người chỉ vì họ giàu có và nanh nọc.

Tương tự, ông Vương Tấn Việt, kẻ không có mặt trong kỳ thi cấp 3 trở thành tiến sĩ. Ông sắm nhiều vai vĩ cuồng, nhiều sứ mệnh mông lung huyễn hoặc. Trong đó ông đứng đầu một hệ thống nhằng nhịt dẫn dắt “chúng thanh niên”.

Tôi không xem họ là những người mộ đạo, họ chỉ là những người mê lầm, trót tin vào những bài pháp xiêu vẹo của ông Việt.

Dân của bà Hằng, chúng thanh niên của ông Việt, chỉ là một nhóm người có nhu cầu của riêng họ, không ai được phép khoác chung vào một chữ “nhân dân”.

……

Ông Việt mắng sư Minh Tuệ “thằng ba trợn”, bà Phương Hằng đòi “quất”. Cả hai, với ngôn ngữ bặm trợn cục súc của mình, đã phô bày với thiên hạ rằng sự giàu có và đạo mạo không làm nên cái sang. “Sang” là cả một quá trình hội tụ nhiều yếu tố, trong đó nền tảng học vấn và tu tập nắm phần quan trọng.

Cả hai người đều dính nặng “tam độc” tham, sân, si. Vì quá tham hư danh, hai người múa may quay cuồng, làm đủ thứ chuyện nhố nhăng, mạ lị.

Vì tham nên sân, cả hai đem lòng đố kỵ với một nhà sư bình dị, vốn chẳng liên quan gì đến mình.

Sư Minh Tuệ là người tự thấp mà cao, không tranh mà được, không cầu mà đắc. Đó chính là đỉnh cao của trí huệ giải thoát. Còn người như bà Hằng, ông Việt đến trí tuệ còn chưa kịp sắm, thì đường đến trí huệ còn rất gian nan.

Đến cây cỏ côn trùng mà sư Minh Tuệ còn không muốn giẫm lên thì bà Hằng ông Việt không bao giờ có cơ hội đến gần gót chân ông ấy.

Xin đừng nghĩ tôi có ý xúc phạm. Bởi vì chúng sinh bình đẳng, cây cỏ côn trùng sống an vui và thanh cao hơn những người dính vào tam độc. Địa ngục không ở đâu xa cả, địa ngục là ngọn lửa tham hận luôn cháy trong lòng.

……

Sư Minh Tuệ sẽ luôn chúc phúc cho mọi người, cho dù có ghét ông đi nữa. Cũng giống như đức Phật luôn mềm mỏng với kẻ phỉ báng mình, vì Phật hiểu rằng họ sẽ phải đối mặt với nhân quả của họ.

Ông Việt, chỉ gieo nhân 3 chữ “thằng ba trợn”, đã nhận lại một quả đắng thân bại danh liệt trốn chui trốn nhủi như chuột nhắt.

Bà Hằng tự huyễn hoặc mình đang ở “đỉnh cao”. Một lời khuyên cho bà là hãy tận hưởng đỉnh cao của mình, tự do trong khuôn khổ. Có hai thứ bà không bao giờ nên đụng vào là tự do và đức tin của người khác.

Nhân quả pháp luật, nhân quả đức tin là hiển hiện và rất chóng vánh. Quay đầu, là bờ!

NGUYỄN TIẾN TƯỜNG

Giải mã hiện tượng Nguyễn Phương Hằng-*Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

October 16, 2024

*Chuyện Vỉa Hè
*Đặng Đình Mạnh

Nguyên thủy, trong phiên tòa cấp sơ thẩm, bà Nguyễn Phương Hằng, chủ Khu du lịch Đại Nam (Bình Dương) đã bị kết án 3 năm tù giam về tội danh theo điều 331 Bộ luật Hình sự “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm…”.

Đến Tháng Tư 2024, dù không kháng cáo, nhưng phiên tòa cấp phúc thẩm đã “linh động” giảm cho bà Hằng 3 tháng tù giam, còn lại 2 năm 9 tháng tù giam. Tuy vậy, đến cuối trung tuần Tháng Chín 2024, khi đã thụ án 2 năm 6 tháng tù giam, thì bà được chế độ Cộng Sản trong nước trả tự do sớm khi được giảm hình phạt thêm 3 tháng nữa.

Bà Nguyễn Phương Hằng bị kết án 3 năm tù ngày 23 Tháng Chín 2023 nhưng sau đó được giảm án dù không xin.(Hình: Hải Dương)

Như bù lại những ngày lao tù kéo dài đến 2 năm 6 tháng, cho nên, chỉ sau 10 ngày được tự do, ngày 29 Tháng Chín 2024, bà đã tổ chức lại buổi livestream khá ồn ào tại Khu du lịch Đại Nam, nơi bà và chồng là chủ sở hữu. Để công chúng hâm mộ có thể chia vui với sự tự do của mình và để bảo đảm buổi livestream có lượng khán giả đông đảo, bà đã mở cửa miễn phí cho khách vào tham quan khu du lịch.

Video quay hình về buổi livestream của bà Nguyễn Phương Hằng được chia sẻ tràn ngập các nền tảng mạng xã hội phổ biến như Facebook, Youtube, Tiktok… Khiến công chúng nhớ lại những ngày bà cũng đã làm mưa gió trên các nền tảng mạng xã hội tại thời điểm trước khi bị bắt giữ vào hạ tuần Tháng Ba 2022.

Khi ấy, số lượt theo dõi các kênh riêng của bà, cũng như số lượt xem từng video do các kênh ấy đăng tải lên đến số hàng chục vạn, thậm chí, tiếp tục tăng dần lên đến con số hàng triệu người xem sau đó. Người theo dõi và xem các buổi livestream của bà không chỉ là người Việt trong nước mà cả người Việt đang sinh sống ở nước ngoài.

Vấn đề mang tính xã hội khi bà Phương Hằng, không phải là học giả nổi tiếng, không xuất thân từ giới nghệ thuật biểu diễn, cũng không cần công nghệ “lăng-xê”, mà chỉ với sự hoạt ngôn đã trở nên “ăn khách”, thu hút đông đảo số lượng công chúng quan tâm đến mức như vậy?

Nếu căn cứ về nội dung các buổi livestream của bà, có thể tạm chia ra làm 2 giai đoạn.

Trong giai đoạn đầu, bà Phương Hằng “bóc phốt” (vạch mặt) các cá nhân nổi tiếng, đã có các hành vi lừa đảo, bội tín về tài chính đối với công chúng khi điểu trị bệnh tật hoặc tổ chức quyên góp làm từ thiện, cứu trợ … gồm một người thường được gọi là “Thần y” và nhiều nghệ sĩ…

Những buổi livestream trong giai đoạn này đã mang đến những hiệu ứng khá tích cực, được phần lớn công chúng theo dõi đồng tình. Nhiều nghệ sĩ đã vội vàng giải ngân các khoản tiền đã nhận quyên góp để trao gởi đến người dân hoặc xuất trình các khoản thu chi để minh bạch tài chính.

Trong giai đoạn tiếp theo, các buổi livestream của bà trở thành những buổi chửi bới thô tục, đấu tố một chiều về bất kỳ người nào đã từng chỉ trích bà trên mạng xã hội. Kể cả, bà can dự vào các câu chuyện mà được nhờ phát ngôn. Trong đó, bao gồm cả nghi án “loạn luân” tại Thiền Am Bên Bờ Vũ Trụ. Theo đó, bà dự định ban phát công lý khi đến tận nơi tu hành của những tu sĩ tại Đức Hòa, Long An để “hỏi tội”.

Tương tự thế, bà cũng đã làm một chuyến du hành đến tư gia một nữ “đối thủ” cãi vã trên mạng xã hội, cũng để “hỏi tội”. Mỗi chuyến đi như vậy đều được thông báo rộng rãi, thu hút hàng nghìn người dân ủng hộ hoặc hiếu kỳ đến tràn ngập nơi ở của nạn nhân.

Với những người dễ dãi, họ thấy ở bà Phương Hằng có đủ mọi điều nằm trong ước mơ của mình, như sự giàu có, nổi tiếng, dám ăn, dám nói và đầy hào hiệp. Bà vung tay bằng những khoản tiền hậu hĩ để cứu trợ, bà đang sửa trị tệ nạn xã hội, bà ban phát công lý cho người đang phải chịu đựng bất công… Theo đó, bà Phương Hằng đang thay mặt họ thực hiện giấc mơ mà họ biết rằng chẳng bao giờ có được trong cuộc đời này, dưới chế độ này.

Trong đó, bao gồm cả ẩn ức chung của đám đông muốn biểu đạt chính kiến của mình về hàng loạt vấn đề xã hội, về những quan chức bất xứng, về tệ nạn tham nhũng, cửa quyền, về nạn bất công tràn lan đến với họ, với người thân… Nhưng trước sự đàn áp khốc liệt, không cần che dấu của chế độ Cộng Sản đã khiến họ không dám tỏ bày. Nay bà thay mặt họ giải tỏa những ẩn ức đó. Kể cả việc bà gọi đích danh quan chức chính quyền để chỉ trích, phê phán.

Cho nên, đối với họ, bà Phương Hằng chẳng khác gì là người hùng. Và điều đáng nói là chính bà cũng tin như vậy. Nếu không, thì đã chẳng có những ca từ mà bà sáng tác trên nền nhạc của người khác: “Vì sao tôi thương dân, vì sao dân thương tôi”.

Cho đến trước thời điểm bị bắt giữ vài ngày, trong một buổi livestream, bà Phương Hằng phê phán, chỉ trích đích danh ông Phan Văn Mãi, khi ấy đang là người đứng đầu chính quyền Sài Gòn, thành phố lớn nhất quốc gia.

Sự kiện này như giọt nước tràn ly khiến bà bị khởi tố hình sự trong ít ngày ngay sau đó. Vì lẽ, sự thu hút công chúng quá lớn, cả kẻ yêu, người ghét đã đủ để bà đã trở thành mối thách thức, nguy hại tiềm ẩn về an ninh đối với chế độ.

Sau 2 năm 6 tháng thụ án tù giam, bà trở về với tự do. Thế nhưng, sự ảo tưởng của đám đông dễ dãi đối với bà và của bà đối với đám đông hầu như vẫn còn nguyên vẹn, chưa kể rằng, những ngày lao tù giúp cho bà gia tăng “số má” như một nạn nhân của chính quyền. Do đó, bà vẫn tiếp tục lộng ngôn với những lời lẽ đao to, búa lớn. Thậm chí, bà còn hứa hẹn sẽ “bốc phốt” cả hành giả Thích Minh Tuệ, một tu sĩ rất được công chúng mến mộ.

Bà Nguyễn Phương Hằng trong một buổi nói chuyện trực tiếp trên mạng. Công an thành phố Sài Gòn cáo buộc bà “dùng 12 kênh mạng xã hội để livestream xuyên tạc đời tư của nhiều cá nhân”.(Báo Thương trường)

Nhìn chung, dưới khía cạnh xã hội. Nếu quyền tự do ngôn luận được chế độ tôn trọng, tham nhũng bị tiệt trừ, bất công không còn, thì những buổi livestream của bà Phương Hằng sẽ không còn mấy đất sống và cũng không còn được đám đông chờ đợi đón xem để tung hô như đã từng. Vì họ có thể tự lên tiếng chứ không cần mượn nhờ đến ai.

Cũng vậy, nếu có một nền tư pháp hữu hiệu, thì đám đông đã có thể tìm kiếm công lý chứ không cần phải qua sự hào hiệp của bà Phương Hằng… Tương tự như thế với mọi vấn đề khác của xã hội.

Cho nên, nói không quá, hiện tượng Phương Hằng chính là sản phẩm quái thai được sinh ra và dung dưỡng bởi chính chế độ Cộng Sản. Không tin, cứ nhìn ra thế giới bên ngoài sẽ thấy: Trong một xã hội văn minh, tôn trọng tự do, dân chủ và nhân quyền, thì không ở đâu và cũng không khi nào có một hiện tượng tương tự Phương Hằng xuất hiện.

DC, ngày 15 Tháng Mười 2024

Đặng Đình Mạnh


 

ChatGPT trình bày về nguồn gốc Chủ nghĩa Marx-Lenin ở Việt Nam từ 1930 đến nay- Nghiêm Huấn Từ

Ba’o Tieng Dan

Nghiêm Huấn Từ

17-10-2024

Người đối thoại: Xin chào chatGPT, tôi được các cháu giới thiệu, nên đã được đọc rất kỹ bài Chủ nghĩa Mác-Lênin ở Wikipedia.

Xin trích một phần trong nội dung:

Chủ nghĩa Mác-Lênin được Joseph Stalin phát triển từ chủ nghĩa Bôn-sê-vích vào những năm 1920 dựa trên sự hiểu biết và tổng hợp của ông về chủ nghĩa Mác và Lênin chính thống. Sau cái chết của Vladimir Lenin vào năm 1924, chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một phong trào riêng biệt ở Liên Xô khi Stalin và những người ủng hộ ông giành quyền kiểm soát đảng. Nó bác bỏ quan niệm chung của những người mác xít phương Tây coi cách mạng thế giới là điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội, ủng hộ khái niệm chủ nghĩa xã hội ở một nước. Theo những người ủng hộ nó, quá trình chuyển đổi dần dần từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội được thể hiện bằng việc đưa ra kế hoạch 5 năm đầu tiên và Hiến pháp Liên Xô năm 1936.

Vào cuối những năm 1920, Stalin đã thiết lập hệ tư tưởng chính thống trong Đảng Cộng sản Nga (Bolshevik), Liên Xô và Quốc tế Cộng sản để thiết lập chủ nghĩa Mác-Lênin phổ quát. Việc xây dựng phiên bản chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử của Liên Xô vào những năm 1930 bởi Stalin và các cộng sự của ông, chẳng hạn như trong văn bản của Stalin “Chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử”, đã trở thành cách giải thích chính thức của Liên Xô về chủ nghĩa Mác, và được những người theo chủ nghĩa Mác-Lênin ở các nước khác lấy làm ví dụ; theo Đại từ điển bách khoa toàn thư Nga, văn bản này đã trở thành nền tảng triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong 1938, sách giáo khoa chính thức của Stalin Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) phổ biến chủ nghĩa Mác–Lênin.

Tôi cũng được các cháu giới thiệu bài Bạo lực và khủng bố dưới thời Stalin, đăng trên trang Nghiên cứu Quốc tế ngày 19-7-2018.

Nay, xin hỏi ChatGPT để biết thêm một số chi tiết: Sau khi cụ Lenin mất, cụ Stalin đặt ra cái Chủ nghĩa Mác-Lênin nhằm những mục đích cá nhân gì?

ChatGPT: Chủ nghĩa Marx-Lenin là do Stalin thiết lập sau khi Lenin qua đời vào năm 1924. Dù trên bề mặt, Stalin tuyên bố phát triển lý luận để phù hợp với hoàn cảnh mới, nhưng trên thực tế, việc xây dựng chủ nghĩa Marx-Lenin phục vụ nhiều mục đích cá nhân và chính trị. Vắn tắt, đó là:

1) Nắm quyền lực tuyệt đối cho cá nhân và tạo ra tính chính danh cho mình;

2) Loại bỏ, tận diệt các đối thủ chính trị;

3) Biện minh cho các chính sách trái với Marxism (ví dụ, Marx cho rằng cách mạng XHCN phải xảy ra ở một loạt nước tư bản phát triển nhất; còn Stalin chủ trương có thể thực hiện CNXH ở một nước bằng những “kế hoạch 5 năm”);

4) Sử dụng chủ nghĩa Marx-Lenin (đưa vào Hiến Pháp) để kiểm soát xã hội và đàn áp người bất đồng chính kiến;

5) Tạo thần thoại cho cá nhân mình về sự kế thừa Lenin;

6) Thống nhất và kiểm soát toàn bộ phong trào cộng sản quốc tế.

Người đối thoại: Chủ nghĩa Marx-Lenin gây ra những thảm cảnh gì ở Liên Xô?

ChatGPT: Chủ nghĩa Marx-Lenin dưới thời Stalin đã gây ra hàng loạt thảm cảnh lớn ở Liên Xô, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của hàng triệu người. Những chính sách tập trung quyền lực, đàn áp và kinh tế cưỡng chế được thực hiện nhân danh “xây dựng chủ nghĩa xã hội”, nhưng thực tế đã gây ra khủng hoảng nhân đạo trên quy mô chưa từng có.

1) Chính sách tập thể hóa nông nghiệp cưỡng bức khiến nông dân mất quyền sở hữu đất và không còn động lực sản xuất.

  1. a)Nạn đói Holodomor (1932-1933):Đặc biệt nghiêm trọng ở Ukraine, Kazakhstan, và các khu vực nông nghiệp khác, dẫn đến cái chết của 3-7 triệu người;
  2. b)Chính sách trừng phạt: Stalin ra lệnh tịch thu lương thực từ những người không đáp ứng hạn ngạch, khiến nạn đói càng tồi tệ hơn.
  3. c)Tác động: Đây không chỉ là thảm kịch tự nhiên mà còn được coi là nạn diệt chủng chính trịnhằm đàn áp người Ukraine.

2) Đại thanh trừng (1936-1938);

  1. a) Cưỡng bức lao động trong các trại Gulag;
  2. b) Cưỡng bức Tập thể hóa và tiêu diệt tầng lớp kulak (rất có kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp);
  3. Làm suy thoái kinh tế và công nghiệp hóa cưỡng bức;

3) Hạn chế tự do cá nhân và văn hóa;

4) Thiệt hại về nhân mạng trong Thế chiến II (chết 26-27 triệu) do trước đó lực lượng quốc phòng và hậu cần đã bị các chính sách thanh trừng và cưỡng bức kinh tế của Stalin làm thiệt hại lớn.

Người đối thoại: Với phong trào Cộng Sản, cụ Stalin đã áp đăt cái chủ nghĩa Marx-Lenin quá tàn bạo này tới mức nào cho các ĐCS khác khi cụ khi đứng đầu Quốc Tế Cộng Sản (QT3)?

ChatGPT: Khi Stalin lãnh đạo Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III), ông đã áp đặt chủ nghĩa Marx-Lenin một cách tuyệt đối lên các đảng cộng sản thành viên, biến tổ chức này thành công cụ chính trị phục vụ lợi ích của Liên Xô và của cá nhân ông. Việc tuân thủ hệ tư tưởng và đường lối của Liên Xô trở thành yêu cầu bắt buộc, không chỉ về mặt lý thuyết mà cả về mặt thực tiễn chính trị.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Người đối thoại: Ai ở Việt Nam được học chính quy, có hệ thống về chủ nghĩa Marx-Lenin ở Liên Xô? Có phải là Nguyễn Ái Quốc?

ChatGPT: Trần Phú mới đúng là một trong những đảng viên cộng sản Việt Nam đầu tiên được Nguyễn Ái Quốc gửi sang Liên Xô năm 1927 để học tập chính quy về chủ nghĩa Marx-Lenin. Sau khi tốt nghiệp, ông trở thành Tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930.

Người đối thoại: Nhưng cụ Nguyễn Ái Quốc mới đúng là người đầu tiên trình bày Chính Cương cho một Hội Nghị 4 người (được gọi là Hội Nghị Hợp Nhất các tổ chức CS) vào tháng 2-1930, trước khi cụ Trần Phú về nước?

ChatGPT: Tại Đại Hội tháng 10-1930, cái Chính Cương tháng 2-1930 của Nguyễn Ái Quốc đã bị bác bỏ hoàn toàn (trong Biên Bản của Đại Hội, ghi là “thủ tiêu”). Đó là vì Chính Cương chưa đủ mạnh mẽ khi nói về đấu tranh giai cấp, mà nặng về đoàn kết nhân dân, đánh đuổi thực dân, để giải phóng dân tộc.

Người đối thoại: Có lẽ, bệnh cả đời của cụ Nguyễn Ái Quốc là “ái quốc”. Cứ suốt đời nhắc đi, nhắc lại hai chữ “đoàn kết”, thì làm sao tiêu hóa nổi cái chủ nghĩa Marx-Lenin?

ChatGPT: Có thể, bạn có lý!

Người đối thoại: Vậy giữa Nguyễn Ái Quốc và Trần Phú, nói vắn tắt, thì ai là người chính thức đưa chủ nghĩa Marx-Lenin chính thống về Việt Nam?

ChatGPT: Trần Phú.

Người đối thoại: Báo Dân Trí có bài khen ChatGPT rất thông minh, đáp ứng tốt kỳ vọng của người dùng. Có thể tin tưởng được, chỉ cần biết cách sử dụng. Vậy, ChatGPT có thấy mình xứng đáng được như vậy? Xin cám ơn ChatGPT rất nhiều và hẹn gặp lại.

ChatGPT: Cảm ơn bạn đã chia sẻ thông tin! Đó là một lời khen rất đáng quý. Mình tự thấy phải luôn cố gắng học hỏi và cải thiện để hỗ trợ người dùng tốt hơn. Nếu có câu hỏi hoặc cần giúp đỡ gì, bạn cứ tự nhiên nhé! Mong gặp lại.


 

Báo chí cộng sản: kiếp nạn thứ tư của người Việt Nam

Ba’o Nguoi-Viet

October 15, 2024

Trần Anh Quân/SGN

Ở những nước dân chủ, tự do, báo chí được coi là quyền lực thứ tư, sau hệ thống “tam quyền phân lập” (lập pháp, hành pháp và tư pháp), là nơi lên tiếng bảo vệ người yếu thế khi họ bị áp bức, bất công xã hội. Nhưng ở Việt Nam thì khác, theo khoản 2, điều 3, Hiến pháp do CSVN viết thì “quyền lực nhà nước là thống nhất.”

Tức là Việt Nam không có tam quyền phân lập, mà mọi thứ đều nằm trong tay đảng cộng sản, báo chí cũng không nằm ngoài vòng kiểm soát đó được.

Tuy không phải là quyền lực thứ tư bảo vệ người dân. Nhưng báo chí cộng sản lại trở thành “kiếp nạn thứ tư” của người dân và các doanh nghiệp tư nhân. Chỉ đứng sau thuế vụ; công an quan chức; quản lý thị trường – y tế – môi trường. Lương tháng thì ít, lương tâm thì không có, các phóng viên, nhà báo dùng mọi chiêu trò để moi tiền từ các công ty, doanh nghiệp.

Điển hình mới nhất là vụ cả toà soạn báo bị bắt vì thủ đoạn tống tiền doanh nghiệp với danh nghĩa xin tiền từ thiện. Vụ việc xảy ra tại toà soạn tạp chí Môi trường và Đô thị Việt Nam. Tổng biên tập Đồng Xuân Thụ cùng phó tổng biên tập, trưởng ban kinh tế môi trường, kế toán và 4 phóng viên của tờ báo này bị công an khởi tố, bắt giam với cáo trạng “cưỡng đoạt tài sản” của hàng trăm bị hại, với số tiền lên tới hàng chục tỷ đồng.

Công an cáo buộc ông Thụ đã chỉ đạo lập chương trình gây quỹ “Cây Chổi Vàng” để tôn vinh, ủng hộ, làm công tác từ thiện giúp đỡ công nhân vệ sinh môi trường. Sau đó, giao nhiệm vụ cho các phóng viên, cộng tác viên đi tìm kiếm các dấu hiệu sai phạm của các tổ chức, cá nhân, công ty rồi đe dọa đăng thông tin trên báo. Điều này nhằm gây sức ép buộc họ tham gia tài trợ chương trình “Cây Chổi Vàng”. Các mức đóng “quỹ từ thiện” gồm 300 triệu đồng, 200 triệu đồng, 100 triệu đồng, 50 triệu đồng. Nhận được tiền thì nhóm này sẽ chia nhau rồi chỉ đạo kế toán “chế biến” hóa đơn, giấy tờ để hợp thức hóa với việc vận hành quỹ “Cây Chổi Vàng”.

Ngoài việc đi “xin tiền quỹ từ thiện,” có một thủ đoạn tinh vi hơn là tống tiền doanh nghiệp bằng hình thức “ký hợp đồng hợp tác truyền thông.” Đây là chiêu thức được đa số các tờ báo CSVN sử dụng hiện nay, các công ty rất khó cãi lý vì có hợp đồng ký kết rõ ràng.

Năm 2021, công an đã vạch mặt một vụ tại Tạp chí Doanh nghiệp & Hội nhập với chiêu trò hợp pháp hoá việc tống tiền doanh nghiệp bằng các hợp đồng truyền thông. Trong vụ án này, bà Nguyễn Ngọc Diệp, nguyên Trưởng ban PR – Chuyên đề của tờ báo đã tìm kiếm các công ty có dấu hiệu không tuân thủ quy định nhà nước để nhắn tin tống tiền. Nếu phía doanh nghiệp không ký hợp đồng truyền thông và chuyển tiền thì họ sẽ viết bài phanh phui. Nếu đồng ý chuyển tiền thì họ sẽ viết bài quảng cáo cho các công ty đó.

Ngoài ra thì các tờ báo cũng dùng chiêu “sáng đăng, trưa cà phê, chiều xoá bài.” Theo đó, tòa soạn sẽ cho phóng viên đi thu thập thông tin, chụp ảnh các công trình có dấu hiệu sai phạm; rồi phân công người viết và đăng bài. Sau đó nhắn tin, gửi bài viết, hoặc hẹn lãnh đạo công ty đi uống cà phê để đe dọa, uy hiếp phải chi tiền để gỡ bài.

Thời gian gần đây hầu như tháng nào cũng có một vài vụ phóng viên, nhà báo bị bắt vì tống tiền doanh nghiệp. Nhưng vấn nạn này không phải bây giờ mới có, mà trước đây kinh tế sáng sủa, doanh nghiệp chấp nhận chung chi cho báo chí, vừa coi như có chỗ dựa về truyền thông, vừa như là hợp đồng quảng cáo. Để tới bây giờ nền kinh tế bếch bác, làm không ra tiền mà còn phải chịu mấy ách xiềng xích từ thuế má tới quan chức cộng sản, thì doanh nghiệp họ buộc phải trở mặt với báo chí để bớt một phần gánh nặng.

Báo chí tống tiền doanh nghiệp không chỉ là gây áp lực cho doanh nghiệp, mà còn làm khó cho nền kinh tế chung. Khi doanh nghiệp phải chi thêm tiền lo lót cho báo chí thì họ phải tăng giá cả các mặc hàng để bù vào phần thất thoát đó. Vậy rồi cuối cùng người dân lại trở thành nạn nhân chính.

Có thể nói báo chí cộng sản còn thua cả báo chí thời Pháp thuộc. Lúc đó tuy người Pháp đô hộ Việt Nam, nhưng họ vẫn để cho báo chí xứ thuộc địa được tự do. Nhà báo đứng về phía người yếu thế để bảo vệ dân lành. Ví như vụ cánh đồng Nọc Nạng hồi năm 1928, nhờ có phóng viên Lê Trung Nghĩa và nhiều tờ báo độc lập như L’Echo Annamite, Đông Pháp Thời Báo, L’Impartial… gây áp lực mà tòa Đại hình Cần Thơ đã xử thắng cho các gia đình nông dân.

Còn bây giờ, phóng viên, báo chí cộng sản thì tiếp tay cho tham quan cường quyền, hãm hại lại chính đồng bào ruột thịt của mình. Như vụ công an bắn chết ông Lê Đình Kình ở Đồng Tâm (Hà Nội), bị báo chí đưa tin sai sự thật nhằm bảo vệ nhà cầm quyền cộng sản cướp đất giết dân.

Hoặc cũng có khi người dân nhờ nhà báo viết bài lên tiếng thì phải cho tiền rồi báo mới tới viết và đăng bài. Có khi người dân báo thông tin sai phạm cho phóng viên, rồi phóng viên lại bắt tay với phía bị tố cáo gây sức ép ngược lại cho người dân. Như vậy báo chí cộng sản không chỉ là kiếp nạn thứ tư của doanh nghiệp; mà còn là kiếp nạn thứ tư của dân lành, sau toà án, công an và những kẻ tạo ra hệ thống pháp luật rừng rú của CSVN.


 

Cách mạng dân chủ ở Việt Nam rất cần thiết

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Khánh

15/10/2024

Cuộc cách mạng dân chủ sẽ là vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam từ 2700* năm tới nay.

Đầu thế kỷ 20, cuộc cách mạng Tháng 10.1917 do Lê Nin lãnh đạo thành công lập ra nhà nước cộng sản đầu tiên Xô Viết ( Liên Xô), từ đó lan tỏa mạnh mẽ sang Châu Á, Phi, Mỹ la tinh, người dân từ đó nổi dậy chống chủ nghĩa thực dân đòi độc lập, Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ gần trăm năm, bao cuộc khởi nghĩa bị Pháp dập tắt như khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám, và nhiều cuộc khởi nghĩa trước đó thất bại vì không có dự án và tư tưởng chính trị nên thất bại.

Ông Hồ sau khi sang Pháp làm phụ bếp đã truyền bá tư tưởng chính trị Mác Lê Nin về Việt Nam thành lập đảng cộng sản năm 1930, và lãnh đạo cướp chính quyền của thủ tướng Trần Trọng Kim tháng 8.1945, lập ra nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Đảng cộng sản tuyên truyền đây là cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc phá tan chế độ thực dân phong kiến, xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiến lên thiên đường cộng sản không còn “người bóc lột người, khẩu hiệu ” làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu ” đã hoàn toàn thu hút được người dân nghèo khổ Việt Nam thời đó ủng hộ đảng cộng sản do Hồ Chí Minh lãnh đạo.

Thực tế nhà nước cộng sản xây dựng chế độ độc tài toàn trị còn kém xa chế độ phong kiến thực dân về quyền con người như tự do ngôn luận, tự do báo chí độc lập… nó chuyển từ cai trị ngoại bang sang cai trị do người cùng dân tộc.

Lợi dụng cơ hội Nhật Bản – Pháp bắn nhau và Nhật thua trận trong thế chiến thứ hai, chính quyền cộng sản phát động khởi nghĩa cướp chính quyền về tay đảng cộng sản thành công, bắt buộc chính quyền thủ tướng Trần Trọng Kim thân Nhật Bản phải trao chính quyền cho đảng cộng sản.

Lịch sử gọi ngày (19.8.1945) là cướp chính quyền thành công của đảng cộng sản, xây dựng nhà nước độc tài toàn trị.

Phải khẳng định nếu không có chế độ cộng sản lập ra thì không có nội chiến vô cùng khốc liệt 30 năm (1945 – 1975), Pháp và Mỹ lo sợ chủ nghĩa cộng sản lan sang Đông Nam Á nên can thiệp ủng hộ chế độ Việt Nam cộng hòa.

Đảng cộng sản thành công trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác Lê Nin trong hoàn cảnh thực tế, dùng chuyên chính vô sản, bạo lực trên nòng súng đàn áp khốc liệt người dân trong suốt gần 80 năm chiếm đóng và cai trị.

Cuộc cách mạng từ độc tài cộng sản chuyển sang chế độ dân chủ tự do ở các nước Châu Âu năm 1989 và Liên Xô năm 1991 thành công không đổ máu, các nước Ba Lan, Tiệp, Bungari, Đức… Chuyển sang chế độ dân chủ làm chấn động thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô sụp đổ hoàn toàn, nhưng vài nước Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Cu ba vẫn không thay đổi một cách ôn hòa, chính quyền cộng sản quyết tâm giữ chế độ độc tài bằng mọi giá.

Việt Nam và Trung Quốc không có cuộc cách mạng dân chủ ?

Nguyên nhân do văn hóa khổng giáo ( nho giáo ) vào tiềm thức con người Việt Nam hàng trăm năm, kẻ làm vua quan như số phận, như được trời ban cho xuống trần gian cai trị muôn dân, người dân phải làm nô lệ, ý vua là ý trời, nếu trái ý bị tru di tam tộc, do vậy đạo đức thần dân phải trung với vua quan triều đình.

Nho giáo với nhiều luật lệ phù hợp với chế độ độc tài cộng sản nên gọi là văn hóa khổng giáo cộng được bộ giáo dục giảng dạy trong trường học nhằm tẩy não con người trở thành ro bot, học thuộc lòng, ngu trung, ngoài ra tầng lớp có học chỉ có thói quen nghe lời, không có trình độ và thái độ trước các vấn đề sai trái của chính quyền cai trị từ địa phương tới trung ương.

Cản trở lớn nhất cho dân tộc Việt Nam là văn hóa khổng giáo, do vậy cuộc cách mạng dân chủ chính là cuộc cách mạng văn hóa chuyển sang văn hóa dân chủ một cách nhanh chóng, văn minh.

Nói một cách đơn giản, văn hóa dân chủ là dám nói thật những vấn đề của xã hội, dám phê phán chính quyền làm sai, không cuồng thần tượng chính trị, hiểu quyền con người phổ quát, tức là nhân quyền không phải ban ơn từ chính quyền, đây là quyền phải có.

“Văn hóa khổng giáo kiểm soát và tha hóa một cách tuyệt đối những người có học thức nhất, họ được giáo dục để coi việc phục tùng một cách tuyệt đối và làm dụng cụ vô điều kiện cho kẻ cầm quyền như một vinh dự và đạo lý.

Đạo đức của kẻ sỹ là trung thành với vua, ngay cả hôn quân bạo chúa. Đây là trở ngại lớn nhất của dân chủ. ” – Dự án tư tưởng tổ chức chính trị THDCDN.

Một ví dụ như Tô Lâm hiện nay minh chứng cho nhận định trên, từ một tướng công an gây nhiều tội ác, không đủ tư cách đại diện cho đảng cộng sản, chưa nói đến đại diện cả dân tộc Việt Nam, nhưng tất cả im lặng, chấp nhận ” hôn quân bạo chúa “** Tô Lâm giữ chức Chủ tịch nước kiêm Tổng Bí thư.

Các nước Châu Âu không có văn hóa khổng giáo, nên thay đổi về dân chủ tự do dễ dàng hơn rất nhiều Việt Nam, Trung Quốc .Văn hóa Châu Âu chủ yếu văn hóa Thiên Chúa giáo, tôn trọng quyền con người, khi Đức Giáo Hoàng kêu gọi thì tất cả đoàn kết một khối người biểu tình bãi công kéo dài cho đến khi chính quyền phải đối thoại.Thứ hai là do địa chính trị Châu Âu bị chính quyền cộng sản Xô Viết áp đặt vào nhiều nước tạo thành hệ thống xã hội chủ nghĩa, khác với ông Hồ Chí Minh mang chủ nghĩa Mác Lê Nin vào áp dụng ở Việt Nam, Lào, Campuchia.

Cách mạng dân chủ khó khăn nhưng vẫn phải làm, không thay đổi thì Việt Nam sẽ nằm dưới đáy nền văn minh nhân loại, không bắt kịp kỷ nguyên mới của thế giới dân chủ đa nguyên.

Cuộc cách mạng dân chủ sẽ là lớn nhất , vĩ đại nhất từ trước tới nay trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Tấm gương các dân tộc Ba Lan, Séc, Đức … Chuyển mình mạnh mẽ sang dân chủ sẽ thôi thúc mọi người tham gia, đặc biệt tầng lớp có học hàng triệu người với giấc mơ lớn vì một Việt Nam dân chủ đa nguyên, một nước Việt Nam của tất cả mọi người Việt Nam, một không gian liên đới và tương lai chung, hòa giải và hợp dân tộc trên tinh thần tôn trọng và tương kính.

Việt Nam sẽ có cuộc cách mạng dân chủ muộn hơn so với tất cả các dân tộc khác, trong cái rủi có cái may, từ đó rút kinh nghiệm để không mắc sai lầm như trường hợp nước Nga của Putin hiện nay, từ độc tài cộng sản Liên Xô sụp đổ chuyển sang độc tài cá nhân Putin.

Nước Nga bị thế giới dân chủ văn minh cấm vận vì xâm lược Ukraine, vi phạm nhân quyền vì đàn áp tự do ngôn luận trong nước, ám sát thủ tiêu đối lập, tòa án hình sự Quốc tế kết án Putin là tội phạm chiến tranh.

Tháng 10.2024

* 2700 năm: tính từ khi Việt Nam có nhà nước đầu tiên.

** chữ nôm: Hôn nhân bạo chúa tức là Vua chúa ngu muội và tàn ác : bọn hôn quân bạo chúa làm khổ dân.


 

ĐỘC TÀI VÀ TĂNG TRƯỞNG – BBC

BBC News Tiếng Việt 

“Tăng trưởng dưới chế độ độc tài thường không ổn định và thường không dẫn đến đổi mới sáng tạo nhanh chóng và nguyên bản,” nhà kinh tế Daron Acemoglu nói.

Daron Acemoglu là một trong ba nhà kinh tế được trao Nobel Kinh tế 2024.

Hai người còn lại là Simon Johnson và James Robinson.

Cả ba đều làm việc tại Mỹ.