Những trợ lý kiếm triệu đô cho quan chức cộng sản

Ba’o Dat Viet

May 6, 2024

Phạm Thái Hà (trái) và Phạm Trung Kiên

Trước khi Vương Đình Huệ mất ghế vì trợ lý Phạm Thái Hà, đã từng có một loạt trợ lý, thư ký lãnh đạo giúp chủ nhận hối lộ hàng triệu đô la trong các vụ án.

Bộ Công an CSVN tiết lộ Phạm Thái Hà đã nộp tiền “khắc phục hậu quả” trong vụ án Thuận An nhưng không cho biết cụ thể Hà và Vương Đình Huệ đã nhận hối lộ bao nhiêu triệu đô trong vụ án này.

Báo đảng hôm 6/5 điểm lại một số thư ký, trợ lý của lãnh đạo “đã không thắng được sự cám dỗ tiền tài vật chất, lợi dụng vị trí, vai trò của mình để trục lợi rồi vướng vào vòng lao lý.”

Cụ thể, Nguyễn Huỳnh, trợ lý của Nguyễn Thanh Long, bộ trưởng Y tế, đòi công ty Việt Á “lại quả” hơn 2 triệu USD trong vụ kit xét nghiệm.

Phạm Trung Kiên, thư ký của Đỗ Xuân Tuyên, thứ trưởng Y tế, nhận “lót tay” 42,6 tỷ đồng trong vụ “chuyến bay giải cứu”.

Điều kỳ lạ là Tuyên vẫn giữ được ghế trong vụ này, dù có “lính” bị kết án chung thân.

Nguyễn Quang Linh, trợ lý Phạm Bình Minh, phó thủ tướng, cũng bị cáo buộc nhận tiền lót tay 4,2 tỷ đồng nên bị kết án 7 năm tù, trong lúc Minh “hạ cánh an toàn.”

Ngoài ra, gần đây là vụ Võ Văn Thưởng mất ghế sau khi Đặng Trung Hoành, chánh Văn phòng Huyện ủy huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long, bị bắt vì nhận 64 tỷ đồng trong vụ Phúc Sơn. Hoành được coi là “cánh tay nhận tiền” của Thưởng do là đồng hương Vĩnh Long.

Báo Dân Việt cho biết: “Cần phải khẳng định, vị trí thư ký, trợ lý có vai trò rất quan trọng trong bộ máy hành chính Nhà nước, là người gác cửa, giúp việc, cánh tay phải hỗ trợ đắc lực cho các vị lãnh đạo trong xử lý công việc hàng ngày. Đa số những người giữ vị trí quan trọng này thời gian qua đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, những trường hợp nêu trên chỉ là “con sâu làm rầu nồi canh”.

Tuy nhiên, với vai trò là người gác cửa cho các vị lãnh đạo cấp cao, những “trợ lý”, “thư ký” cũng rất dễ bị cám dỗ, sa ngã… nếu như không giữ được sự tỉnh táo và bản lĩnh vững vàng.”

Tuy vậy, báo này không dám đề cập về trách nhiệm của các quan chức có những thư ký, trợ lý ăn hối lộ triệu đô.

Cho đến nay, hầu hết các quan chức như Võ Văn Thưởng, Vương Đình Huệ, Phạm Bình Minh… chỉ bị mất ghế sau khi các vụ ăn hối lộ bị lật tẩy. Chỉ có trường hợp “xui rủi” là Nguyễn Thanh Long phải đi tù 18 năm.


 

18 Sự Thật Giúp Bạn Sống Mạnh Mẽ Hơn

18 Sự Thật Giúp Bạn Sống Mạnh Mẽ Hơn

  1. Bầu trời có thể bão bùng, nhưng mưa không thể rơi mãi được đâu. Mạnh mẽ lên, mọi thứ rồi sẽ ổn thôi.
    2.Sự khác biệt duy nhất giữa một ngày tốt đẹp và một ngày tồi tệ nằm ở chính thái độ của bạn.                                                                                                                                                  3. Đừng bao giờ giao bí mật của bạn cho một ai. Bởi vì, tự bạn còn không giữ được thì còn trông mong vào ai kia chứ?                                                                                                      4. Lo lắng chính là điều vô bổ nhất trên đời. Nó giống như việc bạn cầm một chiếc ô và chạy vòng vòng đợi trời mưa xuống.                                                                                                5. Không quan trọng bạn phạm bao nhiêu sai lầm, không quan trọng bạn bước đi chậm chạp đến đâu, bạn vẫn chiến thắng những kẻ không bao giờ biết đến 2 từ “cố gắng”                                                                                                                                                      .6. Thành công không phải là đích đến cuối cùng, thất bại cũng chẳng phải vực sâu thăm thẳm, đó chỉ là động lực để bạn vững vàng hơn trên con đường sắp bước.                           7. Nếu bạn muốn có được những điều chưa bao giờ có, thì hãy                                              làm những điều bạn chưa bao giờ làm                                                                  .8. Khi cuộc sống dồn bạn vào bước đường cùng, đừng hỏi: tại sao là tôi? Mà hãy nói rằng: cứ thử tôi đi!                                                                                                                       9. Đừng bao giờ hối tiếc những gì đã xảy ra trong quá khứ, vì thời điểm ấy, đó chính xác là những gì bạn muốn.10. Giống như hoa dại, hãy học cách sinh tồn trong mọi hoàn cảnh khắc nghiệt nhất, ngay cả khi người đời cho rằng bạn không thể.11. Khi bạn muốn tìm một người thay đổi được cuộc đời bạn, hãy nhìn vào gương.

    12. “Đừng nhầm lẫn tính cách tôi và thái độ tôi. Tính cách của tôi nói lên con người tôi, còn thái độ của tôi tùy thuộc vào con người bạn”.

    13. Nếu người khác tôn trọng bạn, hãy tôn trọng họ. Nếu họ không tôn trọng bạn, vẫn cứ tôn trọng họ, đừng để hành động của người khác ảnh hưởng đến nhân cách tốt đẹp của bạn. Bởi lẽ, bạn chính là bạn chứ không phải là một ai khác.

    14. Đại dương mênh mông sẽ không thể đánh chìm một con tàu nếu nước không tràn vào bên trong nó. Cũng tương tự như thế, những khó khăn sẽ không thể quật ngã bạn nếu bạn không cho phép chúng làm thế.

    15. Cuộc đời chỉ có một, vì thế hãy làm những gì khiến bạn hạnh phúc và ở bên người khiến bạn luôn mỉm cười.

    16. Nếu như bạn mong đợi người đời sẽ tử tế với bạn chỉ vì bạn tử tế với họ, thì cũng giống như việc bạn trông chờ một con sư tử không ăn thịt mình chỉ vì mình không ăn thịt nó. Cuộc sống vốn dĩ không công bằng, hãy học cách thích ứng đi.

    17. Nếu kẻ khác nói xấu bạn, phán xét bạn mặc dù không biết gì về bạn. Đừng buồn, hãy nhớ kĩ một điều: “Chó sủa khi gặp người lạ”.

    18. Đôi khi, không phải là một người đã thay đổi, chỉ là mặt nạ của họ đã rơi xuống mà thôi.

    Sưu tầm

From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen


 

MỘT PHẦN KHÔNG THỂ THIẾU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Họ sẽ khai trừ các con khỏi hội đường!”.

Ngày kia, Paul Rader thăm đấu trường Colosseum, nơi các Kitô hữu đầu tiên bị thú ăn thịt. Ông viết, “Tôi ngước nhìn lên trời, nơi Chúa Cha đang ngồi chứng kiến các con cái Ngài vui mừng chờ đợi cái chết. Các Kitô hữu quỳ ngay trước ngưỡng thiên đàng, bùi ngùi hớn hở khi biết rằng, họ sắp về nhà Cha! Không tài sản nào có thể níu chân họ. Tử đạo, nhất định là ‘một phần không thể thiếu’ trong đời sống của một chứng nhân!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Tử đạo, ‘một phần không thể thiếu’ trong đời sống của một chứng nhân!”. Tin Mừng hôm nay báo trước điều đó! Biết mình sắp về cùng Cha, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ những gì sắp xảy đến, “Họ sẽ khai trừ các con khỏi hội đường!”. Và còn hơn thế!

Rất có thể, khi nghe nói về việc sẽ bị khai trừ khỏi hội đường; thậm chí bị giết, thì với các môn đệ, điều này có thể vào tai này, ra tai kia. Hoặc những lời này có thể khiến họ khó chịu đôi chút; cũng rất có thể, họ chỉ nghe mà không quá lo lắng! Đó chính là lý do tại sao Chúa Giêsu nói, “Thầy đã nói với các con những điều ấy, để khi đến giờ họ hành động, các con nhớ lại là Thầy đã nói với các con rồi!”. Và chúng ta có thể tin chắc, vào thời điểm bị bách hại, các môn đệ đã bình tĩnh và can đảm hơn nhiều trước những gì đang chờ đợi họ – thập giá – ‘một phần không thể thiếu’ mà Chúa Giêsu đã báo trước. Để rồi, điều này giúp họ thoát khỏi cám dỗ tuyệt vọng vốn có thể dẫn đến chỗ mất đức tin.

Thế nhưng, điều thú vị ở đây là những gì Chúa Giêsu không nói! Ngài không nói, “Hãy chống trả, bạo động, hoặc chuẩn bị vũ trang!”. Thay vào đó, Ngài nói với họ về một điều gì đó tuyệt vời hơn – Chúa Thánh Thần. Rằng, Thánh Thần sẽ ‘cáng đáng’ mọi sự; Ngài sẽ dẫn dắt, tiếp sức và cho phép họ làm chứng cho Ngài. Làm chứng cho Chúa Giêsu rõ nét nhất, có thể là tù đày, có thể là đổ máu vì Danh Ngài! Chúa Giêsu chuẩn bị trước điều này, bằng cách nói cho họ biết, họ sẽ được Chúa Thánh Thần ở cùng. Và một khi điều này xảy ra, các môn đệ càng cậy trông tuyệt đối vào Đấng Bảo Trợ mà Ngài đã hứa!

Anh Chị em,

“Họ sẽ khai trừ các con khỏi hội đường!”. Chúa Giêsu đã bị khai trừ, bị giết chết, nhưng đó là cơ hội để Ngài chứng tỏ tình yêu và lòng vâng phục Chúa Cha. Cũng vậy, bách hại, bắt bớ là cơ hội để chúng ta chứng tỏ tình yêu và lòng trung thành với niềm tin của mình! Chúa Giêsu đã vượt qua tất cả, Chúa Cha đã cho Ngài phục sinh. Với chúng ta, cuộc chiến giành ưu tiên cho Thiên Chúa và các giá trị Tin Mừng không chỉ là bách hại, bắt bớ bên ngoài; nhưng còn là những gì diễn ra trong chính nội tâm mỗi người, đó cũng là ‘một phần không thể thiếu’ của người môn đệ. Đừng sợ! Thánh Thần ở trong và ở bên chúng ta; Ngài sẽ tiếp sức để chúng ta vượt qua tất cả. Được như thế, mỗi ngày, bạn và tôi khác nào các Kitô hữu sơ khai, mắt đăm đăm “nhìn ngưỡng thiên đàng, bùi ngùi hớn hở”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, mỗi khi con hụt hơi vì thập giá bên ngoài lẫn bên trong, cho con sức mạnh của Thánh Thần; vì biết rằng, đường nên thánh của con không thể thiếu thập giá!”, Amen.

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

From: KimBang Nguyen

**********

Thứ Hai Tuần VI – Mùa Phục Sinh

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.

15 26 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. 27 Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu.

16 1 “Thầy đã nói với anh em các điều ấy, để anh em khỏi bị vấp ngã. 2 Họ sẽ khai trừ anh em khỏi hội đường. Hơn nữa, sẽ đến giờ kẻ nào giết anh em cũng tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa. 3 Họ sẽ làm như thế, bởi vì họ không biết Chúa Cha cũng chẳng biết Thầy. 4a Nhưng Thầy đã nói với anh em những điều ấy, để khi đến giờ họ hành động, anh em nhớ lại là Thầy đã nói với anh em rồi.”


 

Khi Kẻ Thắng Sợ Người Thua – Huy Phương.

 Kimtrong Lam

Huy Phương.

Hơn bốn mươi năm sau khi nhờ làm lính đánh thuê, tay sai bán nước cho bọn ngoại bang Tàu-Nga mà may mắn ăn cướp được Miền Nam Việt Nam ngày 30 Tháng Tư, 1975, thực tế cho thấy rõ ràng bọn phỉ quyền Hà Nội chỉ may mắn chiếm được lãnh thổ Miền Nam nhờ súng đạn viện trợ của bọn quan thầy Tàu-Nga, chứ KHÔNG BAO GIỜ chiếm được lòng người từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam. KHÔNG BAO GIỜ VÀ SẼ KHÔNG BAO GIỜ.

Nhiều trăm ngàn người đã chấp nhận, kể cả cái chết, bỏ làng mạc, quê cha đất tổ, tài sản để ra đi, kể cả những người lớn lên ở miền bắc, khi vào Miền Nam sau 30/ 04/ 1975, đã thấy rõ sự thật ở Miền Nam Tự Do và từ đó nhìn ra bộ mặt dối trá ghê tởm của chế độ cộng phỉ hà khắc, độc tài, tàn ác, toàn trị mà lâu nay họ phải chịu đựng.

Dân chúng, và ngay cả những tên cán bộ cộng phỉ nằm trong gan ruột đảng đã tỏ thái độ bất bình, trở thành những cá nhân hay những thế lực chống đối, điều khiến cho Việt Nam ngày nay có nhiều nhà tù giam giữ những người bất đồng chính kiến, dù họ là những người, hay tập thể chủ trương bất bạo động, không hề có vũ khí trong tay.

Khi không chiếm được lòng dân, thì chính thể cai trị phải sợ lòng dân, như người đi đêm sợ bóng ma. Những bóng ma đó được bọn phỉ quyền Hà Nội vốn tiểu nhân, đê tiện, hèn hạ và yếu bóng vía đặt tên là “thế lực thù địch,” “diễn tiến hòa bình,” “gián điệp nước ngoài.”, nhưng chính bọn phỉ quyền Hà Nội mới đúng là “thế lực thờ địch” và cái-gọi-là “diễn biến hòa bình” lại đang xảy ra ngay trong nội bộ của bọn chúng vốn dĩ luôn tranh ăn các gói vay, các gói thầu và tranh giành quyền lực, sẵn sàng bè phái, lợi ích nhóm, cắn xé và triệt hạ lẫn nhau với cái trò hề “đốt lò” lố bịch, nhảm nhí của tên chúa đảng cướp xảo quyệt, tham quyền cố vị.

Lực lượng tay sai là bọn công an vô giáo dục, với khẩu hiệu “còn đảng, còn mình,” theo Giáo Sư Carl Thayer của Học Viện Quốc Phòng Úc, Việt Nam có lực lượng an ninh ít nhất là 6.9 triệu tên. So sánh với tổng cộng những người đi làm khoảng chừng 43 triệu, thì cứ sáu người thì có một người làm chó săn, tay sai cho các cơ quan an ninh. (Sài Gòn trong tôi/ Huy Phương)

Trang web chính thức của bộ công an cộng phỉ trích lời tên đồ tể Lê Duẩn, cố tổng bí thư đảng cộng phỉ Việt Nam, có câu châm ngôn vuốt ve, dụ ngọt cho bọn công an tay sai “Đảng lựa chọn công an trong những người trung thành nhất với đảng, những người chỉ biết sống chết với đảng, chỉ biết còn đảng thì còn mình!”

Phải chăng bọn cộng phỉ Việt Nam luôn luôn sợ thay đổi, sợ bị lật đổ nên trong xã hội này, nhân viên y tế, thầy cô giáo thì thiếu nhưng công an, chìm, nổi, dân phòng, trật tự khu phố, thì đứng đầy đường để quấy rối và làm tiền người dân.

Ngay khi mới vào Sài Gòn một ngày, bọn cộng phỉ bắc việt hèn hạ và đê tiện đã bắt đầu biết sợ. Sợ người sống, khi họ còn súng đạn trong tay đã đành, bọn cộng phỉ bắc việt còn sợ cả những người đã chết.

Không sợ người chết, cớ sao lại tiểu nhân hèn hạ giật sập bức tượng “Tiếc Thương” và chở đem đi vứt chỗ khác, mồ mả người lính miền Nam thì được rào chắn vây quanh như trại tù, gọi là “Khu Quân Sự” không ai được vào, mà cũng không ai được đem xương cốt ra.

Không sợ người chết, tại sao trong khi tro cốt của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam được để ở chùa Quảng Hương Già Lam, Gò Vấp, lại bị bọn phỉ quyền mọi rợ vô nhân tính bắt phải di đời đi nơi khác, vì sợ đồng bào đến hương khói, chiêm bái, và thờ cúng. (Sài Gòn trong tôi/ Huy Phương)

Không những hèn hạ sợ người chết mà bọn chúng vốn dĩ bất nhân và đê tiện còn sợ cả cái tên người chết, dưới thời cộng phỉ, sau khi thân nhân dời mộ cố Tổng Thống Ngô Đình Điệm và bào đệ của ông là ông Ngô Đình Nhu về Nghĩa Trang Gò Vấp, khi lập bia mộ, bọn cộng phỉ chỉ cho phép được đề “Huynh” và “Đệ,” mà không được phép đề tên thật của hai ông. Qủa thật là không ai tiểu nhân, đê tiện và hèn hạ cho bằng bọn phỉ quyền Hà Nội.

Bọn phỉ quyền Hà Nội còn không biết nhục vì hèn hạ mà còn dám trơ trẽn và lố bịch nói láo rằng đây là ý kiến của thân nhân Việt Kiều về xây mộ, nhưng thử hỏi ai lại muốn bia mộ của thân nhân mình không tên, không tuổi.

Kẻ thắng sợ cả người thương binh bên thua trận, nếu không những lần phát quà, giúp đỡ cho thương binh VNCH ở chùa Liên Trì, nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, Sài Gòn, vì sao lại bị bọn công an chó săn, chặn đường, quấy nhiễu và cuối cùng phải chấm dứt công việc đầy tính nhân đạo này.

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, sinh viên phản chiến biểu tình đã trương lá cờ của bọn thổ phỉ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mà chính quyền Mỹ chưa sợ, sao ngày nay cộng phỉ bắc việt lại khiếp sợ lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của VNCH trong khi chiến tranh qua đã lâu và cuộc đối đầu không còn nữa.

Rõ ràng, bởi bọn cộng phỉ bắc việt không hề có chính nghĩa trong cuộc chiến tranh xâm lăng ăn cướp Miền Nam Việt Nam nên lúc nào cũng sợ Sự Thật và sợ Chính Nghĩa Việt Nam Cộng Hòa. (Sài Gòn trong tôi/ Huy Phương)

Phỉ quyền Hà Nội đê tiện hèn hạ sợ luôn cả những bộ quân phục rằn ri của Người Lính Miền Nam. Bởi nếu không hèn hạ và sợ sự thật thì làm sao lại có vụ kết án Nguyễn Viết Dũng, bị 12 tháng tù vì tội “gây rối trật tự công cộng” trong khi Dũng chỉ tham gia cùng với người dân ở Hà Nội phản đối việc chặt cây xanh, mà chỉ riêng mình anh bị bắt và đưa ra tòa đơn giản chỉ vì Dũng mặc đồ rằn ri hôm đó.

Bọn phỉ quyền Hà Nội vốn có bản chất tiểu nhân, đê tiện, lưu manh và gian xảo nên luôn luôn sợ những người có ảnh hưởng đến quần chúng, có đám đông hỗ trợ, tức là bọn phỉ quyền Hà Nội luôn lo sợ bị lật đổ. Do vậy các vị lãnh đạo tôn giáo của Cao Đài, Hòa Hảo, Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành luôn luôn bị bọn chúng cho những con chó săn theo dõi và cô lập, gây khó dễ trong cuộc sống.

Không những bọn phỉ quyền Hà Nội vốn không có chính nghĩa nên không bao giờ được lòng dân mà luôn luôn đứng đối lập với dân, coi dân như kẻ thù, thậm chí coi dân như con cháu trong nhà, hoàn toàn láo xược và trái ngược với cái khẩu hiệu lố bịch và nhố nhăng “đảng là đầy tớ của dân,” như cái giọng khinh bạc của tên phỉ cái vô giáo dục Tôn Nữ Thị Ninh:

“Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi.” Phải chăng là theo cách đàn áp, bịt miệng, khủng bố tinh thần, bắt bớ tù đày.

Hồ Chí Minh vốn là một tay lưu manh, điếm đàng, xảo trá, quỷ quyệt, tàn ác, mị dân đã từng nói “Nước lấy dân làm gốc,” nhưng thực sự bọn phỉ quyền Hà Nội đã hy sinh hạnh phúc của toàn dân cho sự tồn vong của đảng cướp của bọn chúng. (Sài Gòn trong tôi/ Huy Phương)

Xưa Nguyễn Trãi từng nói: “Đẩy thuyền đi là dân mà lật thuyền cũng là dân!” Ngày nay, dưới chế độ man rợ và tàn bạo của bọn phỉ quyền Hà Nội, người dân đã hết sợ kẻ cai trị dân rồi, nhưng bọn phỉ quyền Hà Nội này đã bắt đầu run sợ trước những cơn sóng ngầm chống đối của người dân đang chỉ chờ có cơ hội là bùng nổ và tiêu diệt bọn chúng.

Một thể chế mà lúc nào cũng run sợ người dân trước sau gì cũng sẽ đi đến chỗ bị tan rã và bị diệt vong bởi xưa nay chưa bao giờ có chế độ nào tồn tại mãi với thời gian; kể cả những tên bạo chúa một thời hung ác như Tần Thủy Hoàng, Hitler, Benito Mussolini, Saddam Hussein, Muammar Gaddafi, ……

Ngày nay, tuy bọn phỉ quyền Hà Nội – vốn bản chất chỉ là một lũ tay sai, lính đánh thuê cho bọn đàn anh là bọn cộng sản quốc tế Tàu-Nga – đã may mắn nhờ được bọn chúng chi viện, hỗ trợ mà ăn cướp được Miền Nam Việt Nam, và thống trị được toàn bộ Việt Nam, nhưng trên thế giới ngày nay, lá cờ đỏ sao vàng bẩn thỉu và tanh tưởi vốn xuất phát từ Trung Quốc của bọn chúng chỉ thấy được treo, hay dám treo trước cổng tòa đại sứ cộng phỉ Việt Nam ở các nước, mà lá cờ này không dám và không thể treo bất kỳ ở đâu, dù ở một xó xỉnh nào.

Bọn phỉ quyền Hà Nội sợ hãi cả những người thua trận, ngày nay đã bỏ nước ra đi. Ở thủ đô Hoa Kỳ Washington DC, đám nhân viên tòa đại sứ cộng phỉ hèn hạ đến mức không bao giờ dám dùng xe ngoại giao (mang bảng số CD) đi vào khu Eden, hay khi về Orange County, bọn chúng chưa dám công khai đi uống cà phê hay ăn phở ở khu Bolsa.

Người ta còn nhớ, ngày Thứ Bảy, 23 Tháng Sáu, 2007, tên Nguyễn Minh Triết khi tham dự một cuộc họp tại thành phố Dana Point, miền Nam California, đã phải hèn hạ và nhục nhã vào phòng họp bằng… cửa sau.

Vào ngày 17 Tháng Ba, 2015, tên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng được mời đến Quốc Hội New South Wales để dự họp, nhưng không dám dùng cửa trước vì sợ trứng thối, cà chua, cũng đành hèn hạ nhục nhã phải nhờ cảnh sát dẫn đi cửa sau.

Còn vô số những sự việc khác nói lên sự sợ hãi của bọn phỉ quyền Hà Nội trước những biểu tượng của Chính Thể Việt Nam Cộng Hòa như Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của Dân Tộc, những bộ quân phục rằn ri của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH), những bản nhạc ca ngợi Người Lính VNCH, các tác phẩm văn học nghệ thuật của Miền Nam Việt Nam, và ngay cả đến những kiến trúc xưa, dấu tích của Miền Nam Việt Nam như bùng binh Cây Liễu, các tượng đài, và cả đến việc đổi tên đường các danh nhân lịch sử dân tộc bằng tên của những tên khủng bố khát máu cộng phỉ, ….

Vậy những chuyện này không gọi bằng “sợ”, “hèn hạ”, “tiểu nhân”, thì nên gọi bằng gì nhỉ ? –

(Sài Gòn trong tôi/ Huy Phương).


 

 Buổi ra mắt sách ‘Con Gái Thợ Nail’ đầy cảm xúc về gia đình Mỹ gốc Việt

 Ba’o Nguoi-Viet

May 3, 2024

Thiện Lê/Người Việt

GARDEN GROVE, California (NV) – Đông người dự buổi ra mắt của sách hồi ký “The Manicurist’s Daughter” (Con Gái Thợ Nail) ở Little Saigon vào tối Thứ Năm, 25 Tháng Tư, nói về nhiều điều liên quan đến văn hóa của người Mỹ gốc Việt.

Tác giả Susan Liễu (thứ hai từ trái) chụp hình với những người có mặt tại buổi ra mắt sách. (Hình: Thiện Lê/Người Việt)

Buổi ra mắt sách được tổ chức tại trường thẩm mỹ Advanced Beauty College ở Garden Grove. Với chủ đề nói về gia đình trong ngành nail, có thể nói không có nơi nào thích hợp hơn vì đây là trường đào tạo rất nhiều thợ nail ở Little Saigon.

Ông Tâm Nguyễn, chủ nhân Advanced Beauty College, chào mừng quan khách có mặt để dự buổi ra mắt sách của tác giả Susan Liễu, một nhà soạn kịch kiêm diễn viên kịch.

Cô được sinh ra trong một gia đình làm nghề nail, từng có chương trình kịch độc diễn có nội dung tự sự là “140 LBS: How Beauty Killed My Mother” tại 10 thành phố khắp Hoa Kỳ, được nhiều tờ báo như The Los Angeles Times, đài NPR, và tạp chí American Theatre đánh giá rất cao.

Chương trình kịch này nhận được nhiều giải thưởng, và còn được chiếu tại nhiều chương trình văn hóa, trong đó có Viet Film Fest ở Little Saigon, và cô từng được mời thuyết trình tại mấy chục đại học khắp nước.

Tác giả Susan Liễu đọc một đoạn trong sách. (Hình: Thiện Lê/Người Việt)

Để lan truyền câu chuyện về cái chết của thân mẫu, về câu chuyện của gia đình, cô Susan quyết định viết quyển sách đầu tay là “The Manicurist’s Daughter.” Sách này là một hồi ký đầy cảm xúc nói về câu chuyện của một người con gái thuộc gia đình Việt Nam tị nạn tìm nhiều câu trả lời về cái chết của mẹ mình vì giải phẫu thẩm mỹ.

Gia đình cô đến Hoa Kỳ vào thập niên 1980 sau năm lần vượt biên không thành công. Khi đến được Hoa Kỳ, mẹ cô là người dẫn đầu gia đình, mở được hai tiệm nail thành công và là người đứng sau mọi thành công của gia đình. Đến khi cô được 11 tuổi, bà quyết định đi giải phẩu thẩm mỹ thắt chặt bụng, nhưng sau đó cuộc giải phẫu thất bại, và bà qua đời sau vài ngày hôn mê. Sau tang lễ, không ai trong gia đình được nói về mẹ mình hay những gì đã xảy ra.

Trong 20 năm tiếp theo, cô Susan quyết định tự đi tìm câu trả lời, muốn biết tại sao người hoàn hảo nhất trong gia đình lại muốn sửa đổi thân thể, và tại sao không ai nói cuộc sống của mẹ mình ở Việt Nam ra sao.

Bìa sách “The Manicurist’s Daughter.” (Hình: Thiện Lê/Người Việt)

Một câu trả lời khác mà cô muốn biết là tại sao bác sĩ kia làm mẹ mình mất mạng vẫn được hành nghề và vẫn tiếp tục nhắm vào cộng đồng gốc Việt. Qua nhiều đau đớn, nhiều khó khăn, và thậm chí phải qua các vấn đề về tâm linh, cô phát hiện được nhiều điều về thân mẫu, về bản thân và vẻ đẹp lý tưởng gần như không ai có được.

Đó là nội dung của “The Manicurist’s Daughter” mà cô Susan Liễu muốn trình bày với độc giả ở Little Saigon, Orange County.

Buổi ra mắt sách là một cuộc đối thoại giữa tác giả với người dẫn chương trình là cô Elizabeth Ái, đạo diễn kiêm nhà sản xuất của phim tài liệu “NEW WAVE,” nói về văn hóa của người Mỹ gốc Việt trong thập niên 1980, cũng như đối thoại với những người tham dự.

Cô mở đầu buổi trò chuyện bằng cách kể lại cái chết của mẹ khi mình mới 11 tuổi vào năm 1996, và bà qua đời chỉ ở tuổi 38 sau khi bị mất khí oxy trong não bộ sau khi vào phòng mổ hai tiếng, sau đó hôn mê năm ngày rồi qua đời. Cô cho hay sau đó mới biết người bác sĩ giải phẫu cho mẹ mình lúc đó đang bị treo bằng, không có bảo hiểm sai suất trong y tế, bị kiện 19 lần, những vẫn quảng cáo trong cộng đồng Việt Nam ở vùng vịnh San Francisco.

Tác giả Susan Liễu (phải) và người dẫn chương trình Elizabeth Ái. (Hình: Thiện Lê/Người Việt)

Trong 20 năm, gia đình cô không hề đề cập đến người mẹ tuy bà luôn được coi như là sao Bắc Đẩu của gia đình. Điều đó khiến cô muốn đối mặt với nhiều điều cấm kỵ trong gia đình, cũng như trong cộng đồng gốc Việt, và cho rằng mẹ mình thật sự không còn trên cõi đời này nữa nếu không ai nhắc đến bà.

Cô kể cô phải tìm đủ mọi cách để vượt qua nỗi đau, thậm chí còn tham gia một giáo phái về yoga của người Nam Hàn, rồi quyết định đối mặt với quá khứ bằng chương trình kịch độc diễn “140 LBS: How Beauty Killed My Mother” để kể lại câu chuyện của gia đình, rồi biết được hàng ngàn khán giả đến xem đều có những nỗi đau mà họ giấu kín trong lòng.

Tác giả Susan Liễu còn nói về nhiều tranh cãi với gia đình trong 20 năm về cái chết của mẹ mình, kể lại cô cố gắng làm hài lòng gia đình qua học vấn vì cô tốt nghiệp hai đại học danh tiếng là Harvard University và Yale University. Cô còn kể về những chuyện khó tin xảy ra vào ngày cưới từ thời tiết thay đổi thất thường, đến những chuyện tâm linh trong gia đình như đi coi bói và lên đồng.

Cô kể cô sinh con vào ngày 30 Tháng Ba, 2020, lúc Hoa Kỳ đang đóng cửa mọi thứ vì đại dịch COVID-19, và không thể kiếm tiền bằng diễn kịch được nữa, nhưng sau đó may mắn có hợp đồng viết sách, và trong mấy năm vừa qua, cô bỏ nhiều công sức viết “The Manicurist’s Daughter.”

Ngoài mục đích tìm câu trả lời cho bản thân, cô Susan nói quyển sách này còn là một cách hàn gắn các thế hệ, chia sẻ nhiều câu chuyện với nhau để giúp thế hệ sau có cuộc sống tốt hơn.

Buổi nói chuyện đầy những chủ đề có thể khó nghe đối với nhiều người, nhưng với cách ăn nói đầy cuốn hút và hài hước của tác giả Susan Liễu làm mọi chủ đề dễ nghe hơn. Cô còn thể hiện nhiều cảm xúc rất thật, làm ai lắng nghe cũng thông cảm được, và đó là những cảm xúc mà cô muốn gửi đến độc giả trong 300 trang sách của “The Manicurist’s Daughter.”

Cô Susan Liễu ký tặng sách cho một độc giả. (Hình: Thiện Lê/Người Việt)

Qua những cảm xúc đó, quyển hồi ký đầu tay của cô được khen ngợi rất nhiều, như tờ báo The Los Angeles Times đánh giá là một trong sáu sách phải đọc cho Tết Nguyen Đán. Tạp chí Goodreads and Elle đánh giá đó là một trong những sách đáng trông đợi nhất của năm 2024. Tạp chí V đánh giá “đó là một hồi ký dũng cảm, đầy cảm xúc đến mức không thể buông ra được.”

Với chủ đề về gia đình trong nghề nail, về văn hóa và những điều cấm kỵ trong gia đình Việt Nam, “The Manicurist’s Daughter” có thể là một sách vô cùng đáng đọc với nhiều độc giả người Mỹ gốc Việt. [đ.d.]

Liên lạc tác giả: le.thien@nguoi-viet.com


 

 Hòa hợp và hòa giải trong- ngoài và Nam- Bắc

 Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Tường Tâm

04/05/2024

Ý chính: “Kêu gọi người Việt hải ngoại hòa hợp & hòa giải với người Việt trong nước; và người miền Nam hòa hợp & hòa giải với người miền Bắc” là vô tình rơi vào chiêu thức lừa bịp, tránh né thực chất vấn đề của cộng sản.”

Chiến tranh huynh đệ tương tàn đã chấm dứt cách nay 49 năm, nhưng trong cuộc sống hàng ngày cũng như trên dư luận, thông tin, báo chí, người ta vẫn thấy sự thù hận giữa những người Việt Nam. Từ đó, nhiều người kêu gọi sự hòa hợp & hòa giải giữa người Việt hải ngoại và người Việt trong nước; giữa người miền Nam và người miền Bắc. Lời kêu gọi đó có thể từ những người Việt có thiện chí, mà cũng có thể do chủ trương của đảng cộng sản Việt nam. Nhưng lời kêu gọi đó đã đặt sai vấn đề; mà một khi đã đặt sai vấn đề thì không thể có giãi pháp đúng. Vấn đề từ 49 năm qua là, những người miền Nam nạn nhân cộng sản vẫn tiếp tục chống đối chính quyền và kỳ thị những kẻ vẫn còn ngu muội tin theo cộng sản.

Kể từ ngày 30-4-1975, ngoại trừ một số tên nằm vùng, toàn thể dân miền Nam đều là nạn nhân cộng sản. Suốt từ khi chiếm được miền Nam tới nay, trong mọi chinh sách, chính quyền cộng sản đều áp dụng phân biệt đối xử và tìm cách triệt hạ mọi đường sống, đường thăng tiến của con em miền Nam, những người không có liên hệ bà con với cộng sản miền Bắc. Ngoài việc bắt bỏ tù nhiều  năm tất cả thành phần tinh hoa nhất (the most elites) của miền Nam, cộng sản có chủ trương thâm độc là phá vỡ  hạnh phúc gia đình của những người tù đó để sau khi ra tù họ không còn nơi nương tựa. Chính sách này đã từng được áp dụng ở miền Bắc đối với các thành phần bị cho là chống đối chế độ. Cộng sản còn đuổi gia đình các người tù cải tạo rời khỏi thành phố, đi kinh tế mới hoặc về quê, để chiếm đoạt nhà cửa. Cái gọi là vùng “kinh tế mới” dành cho người miền Nam thực chất là những khu vực xa xôi, cằn cỗi, không thể canh tác. Họ bị cưỡng ép chở tới đó với hai bàn tay không, không trợ cấp ban đầu. Thực chất đó là khu vực đầy ải, khác hẳn với các vùng kinh tế mới đất đai trù phú dành cho đoàn người từ miền Bắc vô xâm chiếm, cùng với mọi trợ cấp cần thiết để xây dựng cuộc đời mới. Cộng sản lại chiếm đoạt tất cả các cơ  xưởng sản xuất sau khi bắt bỏ tù các chủ nhân và đuổi gia đình họ ra khỏi thành phố. Tất cả con cái các người tù học từ lớp 9 trở lên đều bị đuổi khỏi nhà trường, dưới chính sách họ gọi là “cách mạng xã hội chủ nghĩa trong học đường”. Mỗi tối vợ các người tù bị bắt tập trung lên trụ sở phường khóm để bị xỉ vả, nhục mạ trước sự chứng kiến của bà con cô bác trong phường cũng do chính quyền triệu tập tới…Còn vô vàn tội ác của cộng sản đối với các gia đình miền Nam đã khiến cả triệu người phải liều chết vượt biên tìm đường sống xa quê hương. Đã vậy, mặc dù đang phải sống bám vào số đô lạ do các nạn nhận cộng sản ở hải ngoại gửi về, hàng năm dịp 30-4, cộng sản lại tổ chức lễ lạc đình đám, ăn mừng, nhân đó có những văn bản và những ngôn từ xúc phạm người dân miền Nam.

Bởi thế, những người miền Nam, nạn nhân cộng sản, còn ở trong nước, đã âm thầm chống đối thụ động (passive opposition) bằng cách biểu lộ sự khinh bỉ, kỳ thị, xa lánh thành phần Bắc kỳ 12 nút nào vẫn còn tin tưởng vào đảng. Sự chống đối tuy âm thầm nhưng cũng rất mạnh mẽ khiến thành phần Bắc kỳ 12 nút định cư trong Nam đã phải vội vã học nói tiếng Nam để dễ lẩn vào cộng đồng người miền Nam. Vào năm 1954, người Bắc di cư vào Nam không bị ghét bỏ khinh khi như vậy, mà trái lại dân Nam còn mở rộng vòng tay đón nhận, giúp đỡ. Bởi thế, sống chung 21 năm nhưng người Bắc di cư 9 nút vẫn giữ được giọng nói riêng, không phải vội vàng tập nói tiếng Nam để che dấu nhân thân như nhóm Bắc kỳ 12 nút bây giờ.

Ngoại trừ số gia đình bọn quan chức ăn cướp, tham nhũng khai man lý lịch (khai chưa từng là đảng viên cộng sản, hoặc khai gian dối là đã bỏ đảng.) để được định cư ở Mỹ khoảng hơn chục năm nay (từ thập niên 2010s), người Việt hải ngoại sau 1975 toàn là nạn nhân cộng sản. Nên giữa họ với số người miền Nam nạn nhân cộng sản đang sống trong nước là cùng chung một cộng đồng; giữa họ với nhau không có kỳ thị nên không cần hòa hợp & hòa giải. Những nạn nhân cộng sản ở hải ngoại cũng như  đang ở trong nước cũng không kỳ thị những người Bắc Kỳ đã từ bỏ cộng sản. Con số này rất đông. Một số người Bắc Kỳ nổi tiếng từ bỏ chủ nghĩa cộng sản đã vui sống hòa hợp với cộng đồng người Việt hải ngoại như cựu Đại tá Bùi Tín, nhà văn Vũ Thư Hiên, nhà văn Đỗ Trường (Đức), nhà báo Lê Trung Khoa (Đức), nhà văn Võ Thị Hảo (Đức), nhà báo Mạc Việt Hồng (Ba Lan), Tiến sĩ Luật Cù Huy Hà Vũ và LS Dương Hà (Mỹ), cựu sĩ quan công an Tạ Phong Tần (Mỹ), LS Nguyễn Văn Đài (Đức), facebooker Dương Mạnh Trí (Pháp), Kỹ sư Phùng Ngọc Khoa (Pháp), Kỹ Sư Hoàng Quốc Dũng (Pháp), nhà văn Nguyễn Quang Lập (VN), nhà văn Trần Mạnh Hảo (VN)…và khoảng trên dưới 40 người Bắc kỳ nổi tiếng đã mặc nhiên từ bỏ cộng sản khi tham gia ký vào bản đề nghị do Phó Giáo Sư Tiến Sĩ Mạc Văn Trang công bố trên một số báo mạng hôm 29-4-24 “49 NĂM SAU NGÀY 30-4-1975: CON ĐƯỜNG NÀO CHO VIỆT NAM”, ngoài ra còn nhiều lắm. Nói tóm lại hoàn toàn không cần phải thực hiện hòa hợp & hòa giải giữa những người miền Nam, dù đang sống trong nước hay đang ở hải ngoại, với những người đã trưởng thành, hay phục vụ trong chế dộ cộng sản nhưng đã từ bỏ chủ nghĩa phi nhân tàn ác này.

Tội ác của cộng sản đối với người miền Nam là không thể tha thứ được. Cộng sản toàn thế giới có chung bản chất là tàn ác, gian dối, lừa bịp, không thể tin được. Cho nên không bao giờ những người miền Nam có thể tha thứ cho cộng sản, chứ đừng nói là hòa hợp & hòa giải với cộng sản. Kêu gọi “người Việt hải ngoại hòa hợp & hòa giải với người Việt trong nước; và người miền Nam hòa hợp &  hòa giải với người miền Bắc” là vô tình rơi vào chiêu thức lừa bịp, tránh né thực chất vấn đề của cộng sản.

Con đường duy nhất để tạo tình đoàn kết toàn dân là đảng cộng sản phải từ bỏ vị trí độc tôn trong xã hội Việt Nam, trả lại mọi quyền tự do cho người dân, trong đó có quyền tự do lựa chọn nhân vật lãnh đạo họ.

Nguyễn Tường Tâm


 

 Ông Nguyễn Phú Trọng và ‘Trách nhiệm chính trị’

Ba’o Tieng Dan

VOA

Lê Quốc Quân

2-5-2024

Ông Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại cuộc họp báo ở Hà Nội ngày 1 tháng Hai, 2021. Sau hơn 13 năm cầm quyền, thực tiễn phơi bày ra trước mắt người dân là nỗ lực chống tham nhũng của ông không khả thi. Nguồn: Reuters

Ngày 26/4 Trung ương Đảng đồng ý để ông Vương Đình Huệ “thôi giữ các chức vụ” với lý do ông Huệ đã vi phạm“Những điều đảng viên không được làm… và chịu trách nhiệm người đứng đầu”, sau khi có vụ bắt giữ ông Phạm Thái Hà và những quan chức tập đoàn Thuận An.

Cũng tương tự như vậy, ngày 20/3/2024, ông Võ Văn Thưởng đã thôi giữ các chức vụ vì những lùm xùm liên quan đến tập đoàn Phúc Sơn và các quan chức địa phương ở tỉnh Vĩnh Phúc. Trong tháng 1/2024, trưởng ban kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh buộc phải rời nhiệm sở.

Hơn một năm trước, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và hai phó thủ tướng là Vũ Đức Đam và Phạm Bình Minh cũng ngậm ngùi ra đi vì “chịu trách nhiệm chính trị”. Bộ chính trị của Đảng Cộng sản từ đầu nhiệm kỳ có 18 người, nay chỉ còn lại 13.

“Trách nhiệm pháp lý” và “Trách nhiệm chính trị”

Trách nhiệm pháp lý, năng lực chịu trách nhiệm pháp lý và cơ sở truy cứu trách nhiệm pháp lý là những thuật ngữ pháp luật phức tạp. Nhưng tóm lại thì: Trách nhiệm pháp lý là hậu quả mà công dân phải gánh chịu khi vi phạm hoặc không thực hiện các hành vi mà pháp luật quy định.

Tuy vậy, không phải ai cũng phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý vì nó còn thể hiện ở “năng lực chịu trách nhiệm pháp lý”. Một người được coi là không chịu trách nhiệm pháp lý khi: “Mắc bệnh tâm thần và không nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi”.

Một trong những nguyên tắc quan trọng trong pháp lý là cá biệt hoá trách nhiệm, nghĩa là ai làm người đó chịu, nhưng xã hội còn có nhiều loại trách nhiệm khác như: Trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm chính trị… thể hiện sự liên đới giữa các chủ thể với nhau.

Trách nhiệm chính trị là một khái niệm không rõ ràng và chưa có một văn bản nào quy định cụ thể nhưng gần đây nó được bàn thảo sôi nổi trên khắp các diễn đàn. Các cuộc bàn thảo kéo dài từ trung ương đến địa phương, từ đảng bộ tỉnh xuống chi bộ thôn. Nó còn xuất hiện trong mọi ngành nghề, lĩnh vực mà có nhân tố “đảng” lãnh đạo.

Trong một bài báo đăng trên báo Nhân dân, tiến sỹ Nguyễn Sỹ Dũng cho rằng “Trách nhiệm chính trị là chế độ trách nhiệm đòi hỏi các quan chức chính trị phải có được sự tín nhiệm của nhân dân hoặc của những người đại diện cho nhân dân. Còn tín nhiệm thì còn chức quyền, hết tín nhiệm thì hết chức quyền”.

Luật pháp và Đảng quy không có điều khoản nào phản bác cũng như ủng hộ quan điểm này của tiến sỹ Dũng, nhưng Đảng CSVN có Quy định số 08/QĐ-TW để về “Trách nhiệm nêu gương” và tại Điều 1 ghi rõ là “Cán bộ, đảng viên giữ chức vụ càng cao thì càng phải gương mẫu nêu gương”, mà muốn nêu gương được thì phải có tín nhiệm. Vậy ai đo mức độ tín nhiệm?

“Lấy phiếu tín nhiệm” và “Bỏ phiếu tín nhiệm”

Để đo mức độ tín nhiệm, Quốc hội dựa vào Nghị Quyết số 85/2014/QH13 ban hành vào năm 2014 về việc “Lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn”.

Điều thú vị là Việt Nam luôn có cách làm “khác” với thế giới bằng những ngôn từ rất lạ mà đến các nhà ngôn ngữ học cũng phải đau đầu khó hiểu. Nghị Quyết này của Quốc hội đưa ra 2 khái niệm: “Lấy phiếu tín nhiệm’ và “Bỏ phiếu tín nhiệm”.

Trong “lấy phiếu” thì có 3 mức là: “tín nhiệm cao, tín nhiệm và tín nhiệm thấp”. Còn “bỏ phiếu” thì chỉ có 2 mức là: “tín nhiệm hoặc không tín nhiệm”. Cùng một người, một sự việc có khi là “lấy phiếu” có lúc phải “bỏ phiếu”.

Việc đo lường mức độ tín nhiệm thì luôn phải có 3 chủ thể tham gia: Nhân dân, Người thay mặt nhân dân (Quốc hội) và Đảng cộng sản.

Trong mối quan hệ tay ba này, Đảng đã đặt nhân dân ra ngoài cuộc chơi. Đảng thao túng toàn bộ Người đại diện của dân bằng việc cài cắm hơn 97% đảng viên làm Đại biểu quốc hội, rồi qua đó, Đảng giành lấy quyền quyết định vào những thời điểm nhất định, ai là người có tín nhiệm, ai là người không.

Đảng chưa bao giờ có một cuộc trưng cầu dân ý để xác định sự tín nhiệm của Đảng và sự đồng nhất giữa mong muốn của người dân và ý chí của Đảng. Sự tín nhiệm của nhân dân chưa chắc đã là sự tín nhiệm của Đảng; ngược lại, sự bất tín nhiệm của nhân dân cũng có thể không nhất thiết là sự bất tín nhiệm của Đảng.

Độ tín nhiệm “mong manh”

Ví dụ như ông Võ Văn Thưởng đã được Quốc hội bầu làm chủ tịch nước với số phiếu tín nhiệm rất cao (487/488 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành). Ông Vương Đình Huệ thì 100% đại biểu tham gia tán thành bầu làm chủ tịch quốc hội.

Chúng ta còn nhớ hình ảnh Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đi giữa 2 bên là Võ Văn Thưởng và Vương Đình Huệ. Ông nắm chặt tay Võ Văn Thưởng và nhân dân được dịp đồn đoán về một người kế vị cùng nghiên cứu “triết học Mác Lê Nin”.

Sau khi ông Thưởng về vườn, nhân dân lại xôn xao về ông Vương Đình Huệ như là người có khả năng thay thế Tổng bí thư vì đã “cơ cấu từ lâu” và chủ tịch Quốc hội thường là bước đệm để tiến lên chức Tổng bí thư, giống như ông Nông Đức Mạnh và ông Nguyễn Phú Trọng.

Cả hai ông đã đạt được phiếu tín nhiệm cao nhất để chọn làm chủ tịch nước và Chủ tịch quốc hội. Nhưng đây là sự tín nhiệm vô cùng mong manh vì không phản ánh đúng ý chí và nguyện vọng thực sự của dân hoặc người đại diện của dân.

Bởi thế cho nên, chỉ một thời gian sau, Đảng lại công bố họ “Vi phạm quy định và làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước”. Mọi sự là do đảng, thậm chí một số rất ít người trong đảng.

Có rất nhiều lời đồn đoán phía sau nhưng xét về mặt hình thức thì không có một bằng chứng rõ ràng minh bạch nào được đưa ra. Nhân dân không có quyền và không có cách nào để xác định mức độ tín nhiệm thật đã có và quá trình mất tín nhiệm của các ông như thế nào.

Nhân dân chỉ biết một cách chắc chắn rằng chỉ đảng viên mới được làm quan chức, và chỉ có quan chức mới có quyền lực để tham nhũng và hiện nay càng chống càng tăng, càng phơi bày một thực tế suy đồi nghiêm trọng. Niềm tin về mức độ tín nhiệm như đang vữa ra từng mảng.

Pandora Box và Hy vọng cuối cùng

Tổng bí thư, ông Nguyễn Phú Trọng xác định tham nhũng là giặc nội xâm và quyết tâm đánh nó để tạo ra được sự “trong sạch” và vững mạnh cho đảng và chế độ. Sau hơn 13 năm cầm quyền, thực tiễn phơi bày ra trước mắt người dân rằng nỗ lực chống tham nhũng của ông là không khả thi.

Ông đã tự mở chiếc “Pandora Box” ra và nay thì nhân dân đã thấy thật sự bộ máy của Nhà nước do Đảng cộng sản lãnh đạo là một tập hợp của những ổ tham nhũng lớn với sự băng hoại từ cấp cao nhất đến cấp thấp nhất. Trùm cuối được nhiều người xác định chính là thể chế và không bao giờ đập được chuột mà không vỡ bình vì chính cái bình đó là môi trường sinh ra chuột.

Một mặt, ta thấy “sự dữ” từ chiếc hộp Pandora do chính ông Trọng mở ra đang “bay là là” và phủ kín cả bầu trời vô minh, giống như bầu khí khuyển Hà Nội đang ô nhiễm nặng, đem đến viễn cảnh tồi tệ của tương lai dân tộc Việt Nam.

Nhưng mặt khác, thực tiễn cũng cho chúng ta những hy vọng giống như truyền thuyết về niềm hy vọng còn sót lại trong hộp Pandora. Chúng ta biết rằng tham nhũng luôn gắn liền “khuyết tật” của quyền lực và nếu giải quyết được thì có thể giúp quốc gia cất cánh.

Tham nhũng quan hệ hữu cơ với việc tạo dựng, tổ chức và sử dụng quyền lực. Vì vậy, nếu vì tương lai đất nước, Ông Nguyễn Phú Trọng nên tự nhận “Trách nhiệm chính trị”, rồi cho phép tự do báo chí, mở rộng không gian dân sự, xây dựng nhà nước pháp quyền, nâng cao trách nhiệm giải trình, minh bạch hoá chính sách, từng bước “nhốt quyền lực lại” trong một cơ chế “Check & Balance” (Kiềm chế và đối trọng) thì tự nó theo thời gian sẽ sửa chữa được khuyết tật của hệ thống.

Nếu được vậy, dân tộc Việt Nam sẽ tìm thấy niềm hy vọng để bình an đi tiếp vào tương lai.

 


 

Về nạn ‘bảo hoàng hơn vua’

Ba’o Tieng Dan

Thái Hạo

2-5-2024

Thật không ngờ, khi tôi viết “anh em trong nhà đánh nhau” mà lại khiến nhiều người, trong đó có cả những người là nhà báo như ông Trần Quang Đại (báo Lao Động) lại tỏ ra khó chịu và hằn học đến thế. Không bàn đến việc ông Đại chỉ lên Wikipedia đọc lõm bõm vài thông tin méo mó rồi copy rất tự tin mà không hiểu về lịch sử của Hoa Kỳ cũng như lịch sử của chế độ nô lệ (ví dụ, ông Đại nói “Nước Mỹ đã tự đẻ ra tệ nạn nô lệ”!!!).

Cũng xin lưu ý, đây không phải là bài viết trao đổi với ông Trần Quang Đại, tôi chỉ nhân tiện một ý kiến mà viết bài nhằm chia sẻ với đông đảo những ai quan tâm. Bây giờ xin trở lại câu hỏi “Có chuyện anh em trong nhà đánh nhau hay không?”.

Ảnh chụp màn hình status của tác giả Thái Hạo

Không gì “thuyết phục” những người cuồng tín cho bằng phát biểu của chính nhà nước. Vì thế, có lẽ không cần và không nên dẫn chứng hay phân tích dài dòng, cũng không cần thiết đến cả việc nêu quan điểm cá nhân, tôi chỉ cần dẫn lại đây quan điểm chính thống của nhà nước từ bộ “Lịch sử Việt Nam” do Viện Sử học Việt Nam biên soạn và các phát biểu của các tác giả về bộ lịch sử này được báo Tuổi Trẻ tường thuật lại năm 2017, khi bộ sách ra đời. Đó là việc chính thức từ bỏ tên gọi “Ngụy quyền Sài Gòn” và thay bằng “Việt Nam Cộng Hòa, Chính quyền Sài Gòn, Chính thể Việt Nam Cộng Hòa”.

45 năm sau cuộc chiến tranh, sự thay đổi cách gọi này có ý nghĩa gì và vì sao? Xin trích ra đây phát biểu của một số tác giả trong bài báo đã nói trên: “Thừa nhận Việt Nam cộng hòa là bước tiến quan trọng”.

Ảnh chụp màn hình bài báo Tuổi Trẻ

– “TS Nguyễn Nhã cho rằng, về pháp lý quốc tế cũng như về mặt lịch sử, Việt Nam cộng hòa là một thực thể chính trị rất hiển nhiên không thể chối cãi. Có thể khi còn đấu tranh chính trị vì lợi ích chính trị thì không công nhận nhau cũng là chuyện thường tình. Song chính trị thì có thể thay đổi, nhất là khi đất nước đã được thống nhất và đang có nhu cầu thống nhất lòng người, đoàn kết dân tộc để phát triển hùng cường và đấu tranh chống các nguy cơ từ nguy cơ trở thành thuộc quốc hay nguy cơ tụt hậu”.

– “Từ năm 1954 – 1975 chỉ có chính quyền ở miền Nam Việt Nam mới có quyền quản lý Hoàng Sa và Trường Sa vì hai quần đảo này ở vị trí dưới vĩ tuyến 17, cũng đã từng được rất nhiều nước thừa nhận, nên chính quyền Việt Nam cộng hòa phải được chính thức thừa nhận mới bảo đảm tính pháp lý quốc tế liên tục”.

– “Ông Nhã cũng lưu ý rằng “Hiện nay có hơn 4 triệu Việt kiều trong đó các thành phần trong chính quyền Việt Nam cộng hòa cũng rất quan trọng. Công nhận Việt Nam cộng hòa sẽ tạo sự đoàn kết, hòa hợp hòa giải dân tộc, như ý nguyện lúc sinh thời của Thủ tướng Võ Văn Kiệt”.

Không chỉ thế, theo ông Nhã, “… Thừa nhận Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam chúng ta hiện nay có thể chính thức thừa hưởng gia tài rất quý báu về văn hóa giáo dục, kinh tế với cơ chế mà gần như cả thế giới hiện nay đang thực hiện. Đặc biệt như tôi đã phát biểu trong Đại hội kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Khoa học lịch sử Việt Nam rằng giới sử học ở miền Nam trước đây không bị ảnh hưởng về chính trị, hay quan điểm. Bất cứ nước nào tôn trọng giới học thuật, khoa học, nghiên cứu, nước ấy sẽ phát triển và ngược lại rất khó phát triển”.

– “Việc từ bỏ cách gọi “ngụy quân”, “ngụy quyền” và công nhận Việt Nam cộng hòa như một chính quyền độc lập là một bước tiến quan trọng trong việc hàn gắn những vết thương của người Việt sau chiến tranh. Mặt khác điều này có những tác động tích cực đối với việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông, cụ thể là hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa bằng công pháp quốc tế”.

– “Các nghiên cứu này đã so sánh các cách thức, quan điểm khác nhau và đi đến kết luận rằng việc công nhận hai quốc gia Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975 có lợi trong việc tranh biện pháp lý cho chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa trước Trung Quốc.

Và đó cũng là quan điểm có thể chấp nhận về mặt chính trị hiện nay, so với việc chỉ công nhận một quốc gia tại miền Bắc hay tại miền Nam.

Nhận định Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa là hai quốc gia cũng là điều được chấp nhận dưới góc độ luật pháp quốc tế theo nghiên cứu của nhiều luật gia quốc tế nổi tiếng”. (Hết trích).

[…]

Đến đây, tôi băn khoăn là có cần phải tiếp tục giải thích để ông Trần Quang Đại và những người như ông hiểu bản chất của vấn đề hay không, vì nó đã quá rõ ràng đối với bất cứ ai có chút tư duy lành mạnh. Thừa nhận chính thể VNCH và tất nhiên là phải từ bỏ “Ngụy quyền Sài Gòn” thì có nghĩa rằng ở đó có một chính quyền độc lập. Xin lưu ý hai chữ “độc lập”. Và cũng tất nhiên sẽ dẫn đến một sự thừa nhận rằng Mỹ hay bất cứ nước nào hiện diện tại miền Nam Việt Nam và được VNCH chấp thuận trong giai đoạn đó thì đều là ĐỒNG MINH của VNCH.

Sách sử chính thống của nhà nước đã thừa nhận VNCH bởi đó không chỉ là một thực tế lịch sử mà nó còn có ý nghĩa tiên quyết đến việc đòi lại chủ quyền của Việt Nam đối với biển đảo của chúng ta. Và còn hơn thế nữa, như đã lần lượt dẫn ra trong các trích dẫn ở trên. Ông Trần Quang Đại và những người như ông có hiểu được rằng chối bỏ chính quyền VNCH (không thừa nhận việc anh em đánh nhau) là đang tự lấy đá ghè chân mình?

Đáng ngạc nhiên là trong khi ở “thượng tầng”, vì biết đặt lợi ích quốc gia lên trên, nên đã rất hiểu vấn đề và có những thay đổi cần thiết trong quan điểm đối với VNCH, thì bên dưới, những người đang phục cho cái thượng tầng ấy như ông nhà báo Trần Quang Đại, lại tỏ ra sốt sắng và nhiệt tình đúng với tinh thần “bảo hoàng hơn vua”. Ông Trần Quang Đại đang muốn chứng tỏ điều gì? Tôi chợt nhớ đến câu “Làm tớ thằng khôn còn hơn làm thầy thằng dại”.

***

Tôi không muốn tiếp tục bàn về bản chất cuộc chiến 1954 – 1975 vì nó đã được mổ xẻ quá nhiều, bởi chung quy có mấy quan điểm sau: Chiến tranh xâm lược/ chiến tranh ủy nhiệm/ nội chiến. Dù là quan điểm nào, thì như cách thay đổi tên gọi từ “Ngụy quyền Sài Gòn” thành “Chính thể VNCH” mà bộ Lịch Sử Việt Nam đã chính thức ghi nhận, thì nó cũng đã gián tiếp thừa nhận một cách hiển nhiên rằng có tính chất nội chiến. Và như đã dẫn, sự thừa nhận này có ý nghĩa lớn lao đối với việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước, bên cạnh đó là hàn gắn lòng người và kế thừa các thành tựu của chế độ VNCH về nhiều mặt, những điều sẽ góp phần vào sự phát triển của đất nước trong bối cảnh hiện nay.

Ở đây, tôi chỉ muốn nhấn mạnh một điều rằng, những người vì thiếu sự cập nhật hay vì giàu tính thể hiện để mong lấy lòng bề trên như nhà báo Trần Quang Đại, hãy: Thứ nhất, đừng đi ngược lại với “chủ trương” của chính nơi mà các anh đang phục vụ; thứ hai, phải biết tôn trọng lịch sử và đặt lợi ích của quốc gia dân tộc lên trên bằng một cái nhìn rộng mở, sẵn sàng từ bỏ những lối nghĩ thủ cựu và hẹp hòi.

Thời gian đã lùi xa nửa thế kỷ, chừng đó có lẽ đã quá đủ để nhìn lại quá khứ và nhìn thẳng vào thực tế trước mắt để có những ứng xử phù hợp. Và như chúng ta đã thấy, vì lợi ích quốc gia, chính nhà nước đã “xóa bỏ hận thù” với Mỹ, bắt tay làm thân, nâng tầm đối tác chiến lược toàn diện, nhưng ông Trần Quang Đại vẫn muốn giữ mối hận thù, đặc biệt là thâm thù với VNCH, là vì sao thế?

Tiếp tục khoét sâu và gieo rắc thù hận, đó là sự nông cạn và có tội với dân tộc. Là những người có học thì nỗ lực hàn gắn và xây dựng tình đồng bào để cùng hi vọng cho một Việt Nam phú cường, thịnh vượng, phải là ý chí bao trùm lên tất cả. Nhưng trước hết, để có được tinh thần ấy, cần vượt qua những nhỏ nhen và toan tính cá nhân.

Trên đây hoàn toàn là “quan điểm chính thống” được phát biểu từ Viện Sử học Việt Nam mà tôi chỉ là người dẫn lại. Những ai quan tâm thì có thể đọc toàn văn bài báo trên Tuổi Trẻ tại đây, và xin nhớ cho đừng “bảo hoàng hơn vua” mà kéo lùi sự phát triển của đất nước.

_______

* Bài của nhà báo Trần Quang Đại: NGƯỜI MỸ ĐÃ “NHÂN VĂN VÀ QUẢNG ĐẠI” NHƯ THẾ NÀO?

– Ngày 29/4/2024, ông Thái Hạo viết trên Facebook cá nhân: “Anh em trong nhà, đánh nhau một trận, năm mươi năm sau còn ăn mừng chiến thắng. Đó là tiểu khí của người nhỏ nhen.

Người Mỹ đánh nhau, hai miền đều hạ vũ khí, không ai là kẻ thua trận, không ai bị sỉ nhục. Đó là phong độ của người quân tử: nhân văn và quảng đại. Không lạ khi Mỹ thành siêu cường.

Hòa giải chỉ có thể đến từ bên thắng cuộc. Thù hận hay ăn mừng, cả hai đều bít lối tương lai. Cờ quạt và lễ lạt chỉ chứng tỏ bụng dạ hẹp hòi, dân tộc không bao giờ lớn nổi”.

– Xin có vài lời thưa cùng ông:

+ So sánh khập khiễng: Nội chiến Mỹ (1861-1865) hoàn toàn khác với Chiến tranh Việt Nam (1954-1975). Một bên là cuộc chiến giữa 2 miền Nam Bắc Mỹ để xóa bỏ chế độ nô lệ, 1 vết nhơ trong lịch sử Mỹ.

Nước Mỹ đã tự đẻ ra tệ nạn nô lệ tàn khốc và vô nhân đạo, họ đã phải tự giải quyết bằng máu, sinh mạng của khoảng 750.000 binh lính cả hai miền (chưa tính thương vong của dân thường). Đây là 1 con số thương vong khủng khiếp so với dân số Mỹ lúc đó. Sử gia John Huddleston ước tính số người chết chiếm 10% toàn bộ số nam giới miền Bắc từ 20 đến 45 tuổi, và 30% đàn ông da trắng miền Nam trong độ tuổi từ 18-40.

– Còn Việt Nam, dân tộc này đã phải gồng mình để chiến đấu chống ngoại xâm, với sự hiện diện của ít nhất 500 nghìn lính Mỹ trên chiến trường miền Nam với những vũ khí và phương tiện chiến tranh tối tân. Người Mỹ đã “ban phát” cho Việt Nam 15 triệu tấn bom đạn, cùng với khoảng 80 triệu lít chất độc hóa học, đến nay bao nhiêu nạn nhân vẫn quằn quại đau khổ. Họ “nhân văn và quảng đại” như thế đó, thưa ông Thái Hạo.

– Người Mỹ không muốn nhắc lại nội chiến 1861-1865 là đúng, vì đó là vết nhơ đáng xấu hổ trong lịch sử của họ. Còn Việt Nam thì ngược lại, chúng ta có quyền mãi mãi tự hào về võ công oanh liệt chống ngoại xâm trong lịch sử dân tộc. Kỷ niệm chiến thắng để có động lực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đó là điều đương nhiên của mọi dân tộc.

+ Thông tin sai lệch về lịch sử: Có phải sau nội chiến, nước Mỹ “không ai là kẻ thua trận, không ai bị sỉ nhục” như ông Thái Hạo viết?

– Không, sự thực hoàn toàn khác:

“Sau chiến thắng, Chính phủ Mỹ trấn áp mạnh tay tàn dư của quân đội miền Nam để đảm bảo dập tắt mầm mống ly khai. Tất cả binh sỹ của quân đội miền Nam đều bị giam giữ trong khoảng 2-4 năm cho tới khi một đạo luật ân xá được thông qua vào tháng 5/1866, và phải thêm 6 năm sau đó thì lính miền Nam mới được trao lại quyền công dân theo đạo luật ân xá năm 1872, tuy nhiên luật ân xá này không áp dụng với 500 chỉ huy quân sự cao cấp của Hợp bang miền Nam.

Các lực lượng tàn dư của Liên minh miền Nam cũng không chịu thất bại, họ tổ chức ám sát các quan chức miền Bắc để trả thù, mở màn bằng việc với sự kiện tổng thống Abraham Lincoln bị ám sát ngày 14/4/1865, tiếp đó là sự ra đời tổ chức Ku Klux Klan vào 24/12/1865, một tổ chức chuyên khủng bố người da đen và cả một số người da trắng chống chế độ nô lệ…” (Wikipedia, mục “Nội chiến Mỹ”).

– P/s: Không rõ, ông Thái Hạo đã đọc qua những thông tin nói trên, ông không đọc hay ông đã đọc và đã quên, hoặc cố tình quên? Có những điều khắc cốt ghi tâm mà 1 công dân trong mối quan hệ với đất nước không được phép quên, thưa ông Thái Hạo!

 


 

Tiểu khí của người nhỏ nhen

 Thái Hạo

Anh em trong nhà, đánh nhau một trận, năm mươi năm sau còn ăn mừng chiến thắng. Đó là tiểu khí của người nhỏ nhen.

Người Mỹ đánh nhau, hai miền đều hạ vũ khí, không ai là kẻ thua trận, không ai bị sỉ nhục. Đó là phong độ của người quân tử: nhân văn và quảng đại. Không lạ khi Mỹ thành siêu cường.

Hòa giải chỉ có thể đến từ bên thắng cuộc. Thù hận hay ăn mừng, cả hai đều bít lối tương lai. Cờ quạt và lễ lạt chỉ chứng tỏ bụng dạ hẹp hòi, dân tộc không bao giờ lớn nổi.