Trầm cảm: Nguyên nhân, đối tượng và cách điều trị

 Trầm cảm là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến nhất trên toàn thế giới. Rối loạn trầm cảm nặng ảnh hưởng đến khoảng 163 triệu người (2% dân số thế giới) vào năm 2017. Đây là rối loạn khá nguy hiểm, tác động nhiều đến mặt tinh thần, thể chất, chức năng sống và cả niềm vui trong đời sống của bệnh nhân.

Trầm cảm là gì?

Trầm cảm là một trong những rối loạn tâm thần. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cứ 20 người bình thường sẽ có một người đã từng bị một giai đoạn trầm cảm trong năm trước. Mỗi năm trung bình 850.000 người chết vì trầm cảm. Rối loạn trầm cảm không phân biệt giới tính hay độ tuổi, nhưng tỷ lệ mắc chứng trầm cảm ở phụ nữ gấp đôi nam giới.

Những người bị trầm cảm có thể đã phải trải qua những biến cố lớn của cuộc đời như: phá sản, thất nghiệp, nợ nần, ly hôn… hoặc cũng có những cá nhân mắc rối loạn trầm cảm nhưng không nhất thiết phải qua những biến cố lớn, mà đó có thể là những thay đổi trong đời sống hằng ngày: thăng chức, thay đổi môi trường sống, đổi công việc, kết hôn… những sự kiện này tác động mạnh đến đời sống cá nhân hoặc tinh thần của họ, thách thức sự thay đổi ở họ.

Rối loạn trầm cảm không chỉ ảnh hưởng tới sức khỏe tinh thần của người bệnh mà còn ảnh hưởng tới các mối quan hệ gia đình và xã hội.

Đối tượng nào dễ mắc rối loạn trầm cảm?

Rối loạn trầm cảm có thể đến với mọi người, tuy nhiên lứa tuổi phổ biến vào khoảng 18-45 tuổi, ngoài ra, độ tuổi trung niên và tuổi già cũng dễ gặp rối loạn này. Đây là nhóm sẽ đối diện với nhiều yêu cầu từ xã hội, và các thay đổi trong cuộc sống (tìm việc làm, kết hôn, sinh con vào độ tuổi vị thành niên, về hưu …). Tuy nhiên, nghiên cứu y khoa thống kê còn rất nhiều đối tượng dễ mắc rối loạn trầm cảm, họ thuộc các nhóm sau:

  • Nhóm người bị sang chấn tâm lý: họ trải qua biến cố lớn, đột ngột của cuộc đời như: phá sản, bị lừa đảo mất hết tiền của, nợ nần, mất đi người thân, hôn nhân đổ vỡ, con cái hư hỏng, áp lực công việc quá lớn…
  • Nhóm phụ nữ vừa sinh con: Đây là giai đoạn nhạy cảm, và nhiều nguy cơ đối với phụ nữ, những thay đổi nhanh chóng về hocmon, vai trò trong gia đình, thay đổi lối sống (thiếu ngủ…) hoặc những bất ổn trong cuộc sống trước đó cũng góp phần làm tăng nguy cơ trầm cảm ở phụ nữ sau sinh.

Phụ nữ có nguy cơ mắc trầm cảm gấp 2 lần nam giới

  • Nhóm học sinh, sinh viên: áp lực học tập quá lớn, thi cử dồn dập, áp lực từ cha mẹ thầy cô, sự đánh giá kết quả học tập.
  • Nhóm người bị tổn thương cơ thể: người bị tai nạn phải cắt bỏ bộ phận cơ thể, chấn thương sọ não, ung thư, mắc bệnh truyền nhiễm nguy hiểm.
  • Nhóm đối tượng lạm dụng rượu bia, chất kích thích trong thời gian dài.
  • Nhóm đối tượng thiếu nguồn lực trong cuộc sống: thiếu các mối quan hệ hỗ trợ, thiếu giao tiếp, thiếu cách ứng phó với stress, hoặc những khó khăn khác: kinh tế, công việc.

Các mức độ trầm cảm

Trầm cảm được chia bởi 3 mức độ: nhẹ- vừa- nặng
Để được chẩn đoán có mắc bệnh trầm cảm hay không phải có ít nhất một trong hai triệu chứng của bệnh trầm cảm cốt lõi đó là:
Trong vòng hai tuần, hầu như mỗi ngày:
Bạn có khí sắc trầm nhược/hoặc mất hứng thú cộng với ít nhất 4 trong các triệu chứng:

  • Giảm hoặc lên cân, giảm hoặc tăng cảm giác ngon miệng.
  • Mất ngủ hoặc ngủ triền miên.
  • Kích động hoặc trở nên chậm chạp.
  • Mệt mỏi hoặc mất sức.
  • Cảm giác vô dụng, vô giá trị hoặc mặc cảm tội lỗi.
  • Giảm khả năng tập trung, do dự.
  • Hay nghĩ đến cái chết, có ý tưởng hoặc hành vi tự sát.

Các triệu chứng trầm cảm ở trẻ em và thanh thiếu niên

  • Tự đánh giá thấp bản thân
  • Có những hành vi gây hấn, kích động
  • Rối loạn giấc ngủ
  • Có các khó chịu, than phiền về cơ thể
  • Mất năng lượng
  • Chán học hoặc học tập sa sút
  • Hay một số trẻ trở nên ngoan quá mức, tách biệt, lãnh đạm

Dựa vào những triệu chứng trên và mức độ mà Bác sĩ tâm thần kinh hoặc Tâm lý gia sẽ phân loại trầm cảm nhẹ, vừa, nặng. Đôi khi họ sẽ mời bệnh nhân làm một số bài test trầm cảm để hỗ trợ chẩn đoán thêm chính xác. Một dạng trầm cảm khác cũng được quan tâm nhiều là rối loạn trầm cảm sau sinh.

Trầm cảm sau sinh: Trầm cảm sau sinh thường gặp ở các bà mẹ lần đầu sinh con, hoặc những bà mẹ sinh quá nhiều con nhưng thiếu sự hỗ trợ từ gia đình hoặc xã hội. Người mẹ rơi vào tâm trạng lo lắng, thiếu ngủ, cáu gắt, hoặc khóc lóc, có thể khó kiểm soát hành vi, làm đau em bé, hoảng sợ khi con khóc… (1)

Nguyên nhân nào gây bệnh trầm cảm ?

Trầm cảm được gọi là rối loạn vì không thể xác định nguyên nhân cụ thể, ta chỉ có thế xác định yếu tố nguy cơ, tức là cá nhân đó trải qua những điều này thì nguy cơ gặp trầm cảm sẽ cao hơn những đối tượng khác. Các nguy cơ trầm cảm có thể bao gồm:

  • Do bệnh lý hoặc chấn thương: Người có tiền sử mắc bệnh não như viêm não, u não, chấn thương sọ não dễ mắc bệnh trầm cảm do tổn thương cấu trúc não.
  • Sử dụng chất kích thích:Người bệnh dễ trầm cảm nếu hút thuốc lá, rượu bia, sử dụng chất kích thích tổn hại thần kinh như ma túy, ma túy đá..
  • Trầm cảm do căng thẳng kéo dài: công việc áp lực kéo dài, áp lực gia đình, xung đột, môi trường sống căng thẳng…
  • Trầm cảm chưa rõ nguyên nhân (nội sinh): Nguyên nhân trầm cảm xảy ra do rối loạn hoạt động của các chất dẫn truyền thần kinh có trong não bộ như Noradrenaline, Serotonin…Nhìn chung, các yếu tố liên quan đến các nhóm sinh học (di truyền, thay đổi chất dẫn truyền ở não…), môi trường (căng thẳng kéo dài, thiếu nguồn lực xã hội…) tâm lý (quá khứ từng có sang chấn….) đều có thể góp phần tăng nguy cơ trầm cảm. (2)

Stress là một trong những nguyên nhân dẫn đến trầm cảm

Nguon: https://tamanhhospital.vn/benh/tram-cam/

 25/07/2021 


 

NHỮNG CHUYẾN XE CUỘC ĐỜI

Sau cơn tai biến mạch máu não, cha tôi yếu đi nhiều, không còn khả năng đi lại nữa. Chúng tôi mang về nhà một chiếc xe lăn tay cho cha. Nhìn cha ngồi tù túng trong chiếc xe với không gian nhỏ hẹp, chúng tôi vừa ái ngại, vừa xót xa.

Cha tôi, một người lính từng vào sinh ra tử, một người luôn hoạt động và mạnh mẽ… Bây giờ cha ngồi im lặng trên chiếc xe lăn hàng giờ liền. Tôi biết lòng cha đau đớn vì bất lực trước tình trạng bệnh tật của mình.

Thấy chúng tôi quấn quít, cha vui lắm, nhưng cha lại bảo:

Tụi con đừng lo cho cha nhiều, đứa nào có việc phải làm, phải học, cứ đi! Cha biết cách thích nghi với hoàn cảnh mà! 

Rồi cha cười nói:

Các con à, cuộc đời con người có nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn gắn với một chiếc xe. Khi sinh ra, con người nằm xe nôi. Nhỏ bé, yếu ớt, con người được yêu thương và chăm sóc bởi cha mẹ, người thân. Lớn lên một chút, con người chập chững bước những bước đi đầu tiên với chiếc xe tập đi. Giã từ thời thơ ấu, chúng ta bắt đầu hòa nhập vào thế giới với bao nhiêu phương tiện: xe đạp, xe máy, xe hơi… Và từ đây, chúng ta cứ luôn ao ước thay đổi chiếc xe đời mình sao cho mới hơn, hiện đại hơn, tốt hơn…

Các con ơi, cha cũng đang ngồi trên một chuyến xe của đời mình. Chiếc xe lăn này là một chiếc xe trong cuộc đời của cha và cha không tuyệt vọng vì điều đó. Cái chính là cha vẫn sống lạc quan, yêu đời trên chuyến xe đời mình.

Xung quanh chúng ta có biết bao mảnh đời vất vả, cực nhọc, những người gắn mình với chiếc xe ba gác chở thuê, xe xích lô, xe đẩy bán hàng rong trên phố, nhưng họ vẫn sống, vẫn vươn lên.

 Có những người đi toàn xe hơi đắt tiền, đời mới, nhưng những chuyến xe cuộc đời họ lại không có bến đỗ phẳng lặng, hạnh phúc…

Ai rồi cũng phải đi chuyến xe cuối cùng của đời mình. Phải làm thế nào để trong chuyến xe đó, chúng ta ra đi trong sự thanh thản, yên bình, trong sự thương tiếc của người thân, bạn bè.

 Làm được điều đó không phải là điều đơn giản, dễ dàng vì những chuyến xe trong cuộc đời mỗi người. Không có vé “khứ hồi”, chúng ta chỉ được đi có một lần!

From: Do Tan Hung & KimBang Nguyen


 

Những người con hoang của J. P. Sartre-Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục 

05/11/2025

Sau chiến tranh thứ hai, nước Pháp hoang tàn, đổ nát. Có một De Gaulle trở về, đem vinh dự và hy vọng cho cả nước Pháp. Nhưng chưa đủ. Nước Pháp cần một biểu tượng văn hóa: J.P. Sartre. J.P. Sartre trở thành đứa con tinh thần của giới trí thức, của cả nước Pháp, nhất là sau khi ông làm giám đốc tờ Les temps modernes. Ít khi nào có một trí thức, nếu không nói là lần đầu tiên, vừa là triết gia, vừa là nhà văn tài hoa đến như ông.

Sau khi xuất bản La nausée (1938), Le Mur (1939), ông thay thế dần chỗ ngồi của A. Malraux, và chẳng bao lâu sau của André Gide, trong văn học Pháp. Ông đã tạo cho mình một chỗ đứng, một thế giới của riêng Sartre, Univers Sartrien… Rồi Sartre cho ra đời Chemins de la liberté, Les mouches, 1943; tác phẩm lớn L’être et le Néant, 1943; Huis clos, 1944; Morts sans sépulture, 1946; La Putain respectueuse, cuốn sách gây xì căng đan ở nước Pháp năm 1946; Critique de la raison dialectique, Les mains sales, 1948; Le diable et le bon Dieu, 1951.

Bên cạnh Sartre là một nhà văn trẻ hơn, A. Camus, sau này trở thành cặp Sartre-Camus; mỗi tác phẩm của A. Camus như thể hiện linh hồn của tư tưởng Sartre. Cả hai đã ảnh hưởng toàn bộ giới trẻ và trí thức Pháp, mặc dầu A.Camus luôn luôn từ chối cái nhãn Hiện Sinh mà người ta gán cho ông.

Tác phẩm của hai nhà văn này đề cập đến những vấn đề con người, chẳng hạn như mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh, vấn đề trách nhiệm, dấn thân, nhập cuộc, hoài nghi, phủ nhận mọi chủ nghĩa, mọi giáo điều… Rồi vấn đề hiện hữu và hư vô, hiện sinh tại thế, hiện hữu và yếu tính… Ðời phi lý, buồn chán, thừa thãi, và con người nổi loạn… Những tư tưởng đó đã gây ra trong văn chương Pháp không biết bao tranh luận, thậm chí cả ngộ nhận, hiểu lầm từ nhiều phía.

Năm 1980, Sartre chết. Nước Pháp đã tiễn đưa một nhà trí thức sáng chói với những lễ nghi vinh dự mà họ đã dành cho Victor Hugo đúng 100 năm trước đó.

1945-1955 là thời kỳ vàng son của Sartre và Camus. Nhưng họ đã chẳng có ảnh hưởng gì tới sinh hoạt văn học Việt Nam. Tình hình Việt Nam lúc đó rối như mớ bòng bong, ai còn bận tâm tới văn chương, triết lý? Ðó cũng là cái khoảng thời gian trống và nghèo nàn nhất của văn học Việt, từ Nam ra Bắc. Các trào lưu văn học Tiền chiến hay Tự Lực Văn Ðoàn đều tắt tiếng. Người tản cư trôi dạt xuống các vùng Hà Ðông, Phủ Lý, Nam Ðịnh, vào đến Thanh Hóa, rồi sau đó quay về dinh tê. Kẻ khác tham gia kháng chiến. Mỗi người tứ tán mỗi nơi…

Nhưng kể từ sau Hiệp định Genève với cuộc di cư từ miền Bắc của một triệu người, Sartre và Camus có cơ hội có mặt ở miền Nam và ảnh hưởng của họ kéo dài hơn một thập niên. Ở đây cần xác định rõ là tư tưởng của họ gây ảnh hưởng trong văn chương, tiểu thuyết, một thứ sản phẩm thị dân, đối tượng là các thành phần thanh niên, trí thức thành thị. Dù sao đi nữa, thành phần này cũng là mặt nổi của một xã hội. Nói tới sinh hoạt văn học, nghệ thuật, là nói tới họ.

Còn phần triết học thì quá ít người được biết tới. Thật vậy, vào thời kỳ từ cuối 50 đến 70, tại các đại học Văn Khoa Sài Gòn, Huế, Ðà Lạt và sau này Vạn Hạnh… triết lý Hiện sinh của Sartre đã không được giảng dạy. Thảng hoặc có dạy đi nữa trong các chứng chỉ Siêu hình và Lịch sử Triết học, các giáo sư thời bấy giờ cũng chọn Nietzsche, Kierkergaard, Merleau-Ponty, và nhất là Heideigger. Cùng lắm là có đả động qua loa đến G. Marcel hay E. Mounier, những triết gia hữu thần, trái ngược hẳn với trào lưu Hiện sinh của J.P. Sartre.

Xét về mặt nghiên cứu thì ngay các trường đại học quốc gia ở Huế, Sài Gòn, cũng không có điều kiện cung cấp đầy đủ tài liệu cho sinh viên sử dụng, ngoại trừ Viện Ðại học Ðà Lạt, một đại học bán công mà thành phần ban Giảng huấn hầu hết là các cha Dòng Tên người ngoại quốc – có thể coi đây là một hình thức du học tại chỗ. Nơi đây, có hơn 5000 ngàn đầu sách đủ loại về văn chương và triết học bằng tiếng Pháp.
Nhưng vì Sartre không có trong học trình, tôi không dám chắc đã có bao nhiêu sinh viên có đủ điều kiện để miệt mài hết cuốn L’être et le Néant hay Critique de la raison dialectique? Cái sự không dám chắc đó, tôi đặt ngay cả vào bản thân thành phần Giáo sư trong ban giảng huấn nữa! Thật khó mà biết được có bao nhiêu người đã đọc?
Vì thế, triết học Hiện sinh ở chiều sâu, ở phần căn cốt sách vở của Sartre, số người biết rành rõi có thể đếm trên đầu ngón tay. [1]

Nhưng âm vang của “hư vô,” “hữu thể,” “tồn thể,” “những xao xuyến siêu hình,” “dấn thân,” “nhập cuộc,” “trách nhiệm,” “người trong cái toàn thể,” “người trong hoàn cảnh,” “tha nhân,” “đời phi lý,” “con người phản kháng”… là những từ ngữ quyến rũ đến độ người ta phải nói tới, phải suy nghĩ. Nó như một thứ ma lực lôi cuốn giới trẻ, sinh viên, trí thức. Những cuốn tiểu thuyết của họ, nhất là của Camus, đặt tâm thức giới trẻ vào những suy nghĩ miên man về ý nghĩa cuộc đời, đặt nghi vấn về tất cả mọi vấn đề, của chính tự thân và của người khác, rồi cuối cùng rơi vào sự trống rỗng không lời giải đáp. Có thể nói, tâm trạng thanh niên trí thức lúc bấy giờ là thử tìm hiểu xem cuộc đời đáng sống hay không đáng sống?! Một câu hỏi đáng lý chẳng nên đặt ra cho một người trẻ tuổi sắp sửa bước vào đời. Cái để lại trong tâm thức người trẻ, sau khi nghi vấn, tra hỏi về đủ mọi vấn đề là tâm trạng trống rỗng, vô nghĩa như người khách lạ. Và có lẽ đó là ảnh hưởng lớn nhất mà triết lý này để lại.

Ví giả J.P. Sartre chỉ là một triết gia thuần túy và không bao giờ là nhà văn; Ví giả A. Camus là một nhà văn không mang trọng trách rao truyền một tư tưởng triết lý. Nếu họ không có chức năng đó, hoặc họ chỉ đảm nhiệm một vai trò, một chức năng nhất định, như các triết gia hiện sinh khác như Heidegger, Kierkergaard, thì hẳn triết lý hiện sinh đã không gây ồn ào, náo nhiệt như thế. Cái ồn ào mà tôi muốn nói ở đây là nó đã làm nảy sinh ra rất nhiều những đứa con hoang đủ loại.

Triết lý hiện sinh vỉa hè là bằng chứng của vô số những nhận định ngộ nhận, hiểu lầm và qui chụp, đẻ ra những đứa con hoang mà chính J.P Sartre cũng chẳng bao giờ có thể nhìn thấy hết được. Bởi vì nó đã trở thành một sản phẩm xã hội và bất cứ một hiện tượng xã hội nào cũng có thể bị đưa lên giàn phóng để tra xét và nguyền rủa.

Cái triết lý hiện sinh vỉa hè ấy, qua F. Sagan, đã trở thành sản phẩm tiêu thụ xã hội có tính cách thời thượng mà thực chất không dựa trên một suy lý nghiêm chỉnh nào để có thể quy chiếu vào Sartre hay Camus được. Sản phẩm của đứa con hoang đó được du nhập vào Việt Nam và được đón tiếp ồn ào ở thành thị. Từ kiểu ăn mặc, đi đứng, kiểu lái xe, ngồi lên xe; rồi âm nhạc, điện ảnh với “nouvelle vague,” với James Dean. Sagan một bên, James Dean một bên. Phải chăng đó chính là hai đứa con hoang của Sartre? Từ lối sống, lối nghĩ, lối làm tình, đến cả lối chết… Tại miền Nam, trong thi ca, tiểu thuyết và báo chí, chỗ nào cũng thoáng ẩn hiện bóng dáng của thứ triết lý này. Ðến độ, người ta thấy rằng từ Mai Thảo đến Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền đều là những kẻ truyền thừa của thứ triết lý ấy. Khi mà Quách Thoại chẳng may mệnh yểu, Mai Thảo nói tới sự tự do chọn lựa cái chết, buộc mọi người phải liên hệ tới sự tự do tuyệt đối của triết lý Hiện sinh. Hiện tượng bề ngoài được bao trùm bởi cái không khí hiện sinh đó thật ra chỉ phù phiếm, chẳng có căn bản gì. Tờ Sáng Tạo, được tiếng là cửa ngõ đi vào triết lý hiện sinh, từ đầu tới cuối chỉ có bốn bài viết về hiện sinh, trong khi tờ Ðại Học ở Huế có 21 bài, tờ Bách Khoa có 24 bài.

Một số nhà văn nữ thập niên 60, như Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Lệ Hằng, Chu Tử, Nguyễn đình Toàn v.v… ít nhiều cho thấy bóng dáng của Sagan hiện diện trong truyện của họ. Tôi không dám bảo là họ bắt chước, nhưng có nhiều người cho rằng đó là thứ triết lý thời thượng, một kiểu theo đuôi hay làm dáng trí thức. Vậy thì phải chăng đây cũng là một thứ con hoang của Sartre? Trong giới giáo sư dạy triết thời đó, thế hệ thứ hai với những người như Ðặng Phùng Quân, Nguyễn Quốc Trụ, Huỳnh Phan Anh, Trần Nhựt Tân, Trần Văn Nam… Hầu như tất cả các luận án cao học ngành Triết thời đó đều đề cập đến các triết gia hiện sinh, nhưng đặc biệt không thấy một luận án Triết nào trong số họ đề cập đến triết hiện sinh của Sartre. Cắt nghĩa điều này như thế nào? Huỳnh Phan Anh viết Văn chương và kinh nghiệm hư vô. Nguyễn Quốc Trụ viết Văn chương và sự khả hữu. Trần Công Tiến viết Từ Hiện Tượng luận Husserl đến Hiện tượng luận Heidegger.
Liệu có bao nhiêu độc giả đã đọc họ và có bao nhiêu người hiểu họ?
Tôi chỉ có thể đặt câu hỏi, nhưng không thể trả lời thay cho những người khác. Cách trình bày khó hiểu và đôi khi khúc mắc, tối tăm trong những tác phẩm vừa kể đôi khi cho thấy một trí tuệ phi thường của người viết. Ðộc giả có tâm trạng mặc cảm khi đọc những bài viết như thế.
Nơi đây, triết học thực sự trở thành một món quà mà Thượng đế chỉ dành cho một số người đã được lựa chọn.
Không ai dám truy vấn chính mình đến ngọn nguồn về trình độ đọc sách và truy vấn người viết về khả năng hiểu biết và diễn đạt.
Người viết không cần biết người đọc hiểu được bao nhiêu. Nếu người đọc không hiểu thì lỗi thuộc về họ. Phải chăng nơi các giáo sư triết này thấp thoáng bóng những đứa con hoang của Sartre? Một hình thái theo đuôi, bắt chước, thời thượng? Liệu phê phán như thế có oan cho họ không? Với thiện chí của người trí thức trẻ, cố gắng nghiên cứu triết lý hiện sinh, họ trở thành đứa con hoang của Sartre, bị xếp ngang hàng với những cô cậu hippy choai choai.

Trong nghiên cứu văn chương, người ta đọc thấy những đề tài như Chinh phụ ngâm với tâm thức lãng mạn của kẻ lưu đầy, Nguyễn Công Trứ với cảm thức hư vô, Tản Ðà với khát vọng vĩnh cửu.
Ðến Phật giáo, Lão giáo cũng nhập cuộc. Người ta vào đạo Phật qua lối ngõ của J.P. Sartre. Từ lăng kính Nho, Phật, Lão đến lăng kính Hiện tượng luận.

J.P. Sartre

Công giáo bảo thủ nhập cuộc kiểu khác: hạ bệ và nguyền rủa thứ triết lý này. Ðại loại như “Chúng tôi tố cáo mầm phản loạn trong Văn nghệ”, “Lại một trạng thái cuồng loạn phơi bày trong tiểu thuyết”, “Chúng tôi cực lực phản đối cái thuyết dã thú hóa ra con người của ông Thạch Chương”, “Tiểu thuyết Nguyễn Thị Hoàng, sự buôn lậu tư tưởng trong một con bịnh dân thành phố…” .
Ðấy là những bài viết nhằm phê phán triết học ấy ở bình diện luân lý. Họ không nhằm phê phán Sartre, bởi một lẽ dễ hiểu, họ không có điều kiện để hiểu Sartre. Họ chỉ có thể phê phán những sản phẩm xã hội mà họ nghi ngờ là từ Sartre mà ra, những sản phẩm bị coi là con hoang của Sartre. Vì sự phê phán trên bình diện luân lý của tiểu thuyết đã đi trật đường, liệu có thể xếp sự chống đối của họ cũng vào loại con hoang của Sartre không? Con hoang của những đứa con hoang?

Hết văn chương, tôn giáo lại thêm chính trị nhập cuộc. Những người anh em theo phía bên kia nay chửi thứ triết lý hiện sinh với ẩn ý chính trị ở Lữ Phương, Khải Triều… Chẳng hạn như các bài “Ðọc các tác phẩm của Chu Tử”, “Hiện tượng dâm ô, đồi trụy trong văn học hiện nay”, “Từ văn hóa cải lương đến văn chương đồi trụy và thứ cần sa của ngoại bang”. Ðã hẳn những bài viết như thế không cần đòi hỏi bất cứ một chút kiến thức nào về chủ nghĩa hiện sinh cả.
Ðó chỉ là những thứ con hoang đến hoang tưởng, gán cho Sartre bất cứ cái gì mà họ muốn.

Người ta tưởng rằng những đứa con hoang của J.P Sartre sau ngày 30-04 đã tiêu tan theo cuộc cách mạng ấy. Nhưng không, Sartre vẫn đội mồ sống dậy. Sartre cùng với Camus vẫn còn đó, bằng xương, bằng thịt.

Theo dịch giả nổi tiếng thời 60-70 Trần Thiện Ðạo, cuốn L’étranger của Camus đã có 3 dịch giả dịch rồi. Chuyên gia dịch hàng đầu của miền Bắc, ông Dương Tường, lại cất công dịch một lần thứ tư, 1995. Rồi Nguyễn Văn Dân là người thứ 5 lại mới dịch lại vào năm 2002.
Dịch lại như thế vì tác giả quá nổi tiếng? Vì tác phẩm quá hay? Vì người đọc ham chuộng? Vì người dịch trước dịch dở, tồi tệ? Vì có người dịch rồi thì dịch sau đỡ tốn công sức? Camus có bao nhiêu tác phẩm, tại sao lại cứ nhè cuốn đó mà dịch?
Cái hiện tượng dịch lại sách đã dịch cũng thấy được ở cuốn Bác sĩ Zivago, dịch lần thứ ba. Hay hơn thế nữa, lấy sách dịch in lại mà không cần đề tên dịch giả như trường hợp nạn nhân là Phùng Khánh?

Sự tụt hậu về sinh hoạt dịch ở Việt Nam có đến 50 năm và một thế kỷ.
Sách mới không dịch, cứ nhè sách cũ, sách đã dịch rồi dịch lại như một nhu cầu đọc giải trí, thay vì nhu cầu nghiên cứu. Một hiện tượng quái gở không hiểu được. Tại sao lại dịch lại những cuốn như vừa kể, mà trước đây được xếp vào loại sách phản động, không phản động thì đồi trụy?

Phải chăng vì những đứa con hoang của Sartre vẫn tiếp tục hoành hành trên thị trường chữ nghĩa ở miền Nam?

Ðứa con hoang có thể là cuối cùng của Sartre có lẽ là giáo sư tiến sĩ Trần Trọng Ðăng Ðàn. Ðối với văn học miền Nam nói chung, ông giáo sư này là kẻ chém treo ngành. Ông chém, chặt, nhổ, bứng từng dây mơ rễ má cái văn học, văn hóa đồi trụy ấy. Ông viết cuốn Văn hóa văn nghệ, Nam Việt Nam, 1954-1975 dày hơn ngàn trang mà tôi phải bỏ ra 50 đô la để bê nó về. Sót ruột lắm!
Gọi là nghiên cứu của một tiến sĩ giáo sư mà từ trang đầu đến trang cuối chỉ thấy chửi là chửi.
Ông chửi rất bài bản, nhìn đâu cũng thấy đồi trụy, đĩ điếm, thấy nọc độc của chủ nghĩa thực dân. Ông chửi các nhà văn, nhà văn hóa miền Nam kể như không trừ một ai. Chửi tất cả các sách dịch bất kể tác giả, bất kể loại, trong đó có Camus, Sagan.
Giáo sư đi theo vết chân của Lữ Phương, Khải Triều, mắc bệnh quáng gà mất rồi.

Ra khỏi khuôn viên đại học Văn Khoa đường Nguyễn Trung Trực thời đó, ra khỏi Sài Gòn, người dân miền Nam vẫn sống hiền hòa, vẫn chịu đựng chiến tranh, không có chút nào là triết nọ. Thần tượng của họ là Bà Tùng Long, cùng lắm là Lê Xuyên, là Bạch Tuyết, Hùng Cường, là Kim Dung. Ðổ oan cho toàn miền Nam cái tiếng văn hoá đồi trụy, nọc độc chế độ thực dân mới thật là hồ đồ.

Nếu cho rằng cái văn chương ấy, cái nọc độc ấy, cái âm mưu ấy làm ung thối miền Nam đến toàn là đĩ điếm, đồi trụy thì phải cắt nghĩa thế nào về hiện trạng xã hội Việt Nam hiện giờ?
Nó là do cái nọc độc nào, cái âm mưu nào đã đưa xã hội đất nước con người đến một tình trạng sa đọa được hợp lý hóa, được hợp pháp hóa và nhất là được bình thường hóa.
Cái sa đọa đạo đức, xã hội trầm kha nhất của đất nước hiện nay là bình thường hóa sự sa đọa, mất ý thức về sa đọa. Chữ mà người ta dùng để chỉ về điều này được gọi là thời mạt. Phải chăng đây là thời mạt của Sartre còn sót lại?

________________________________________
Một số dữ kiện về tên các bài viết, các con số đã được trích dẫn ra từ bài viết công phu: “Hiện sinh ở miền Nam 1955-1975,” của Nguyễn Văn Trung, từ trang 346 đến 390, trong bộ sách: Nhìn lại những chặng đường đã qua 1955-1995. Nxb Nam Sơn. Montréal 2000.


 

SUY NGHĨ NHẸ NHÀNG HƠN VỀ MỘT CHỦ ĐỀ NẶNG NỀ- Rev. Ron Rolheiser, OMI 

Rev. Ron Rolheiser, OMI 

Vài năm trước đây, một cô bạn của tôi đang phải đối diện với việc sinh đứa con đầu lòng.  Mặc dù rất vui vì sắp được làm mẹ nhưng cô thú nhận cô rất sợ tiến trình sinh nở này, những cơn đau, những nguy hiểm, những điều chưa biết.  Cô tự an ủi, hàng trăm triệu phụ nữ đã đi qua con đường này và đã vượt qua được.  Chắc chắn, cô cảm thấy mình cũng sẽ vượt qua được.

Đôi khi tôi lấy kinh nghiệm này để áp dụng vào bối cảnh cái chết.  Cái chết là chủ đề đáng sợ, khó chịu và nặng nề nhất, dù chúng ta thường nói một cách giả tạo.  Khi chúng ta nói mình không sợ chết thì phần lớn chúng ta đang huýt sáo trong bóng tối và cả ở đó, líu lo thì dễ dàng hơn khi cái chết của chính mình vẫn là một ý tưởng trừu tượng, một điều gì đó trong tương lai không xác định.  Nói lên trọn vẹn suy nghĩ của tôi về cái chết chắc chắn phù hợp với mô tả đó, huýt sáo trong bóng tối.  Nhưng tại sao không?  Chắc chắn là huýt sáo trong bóng tối tốt hơn là tự hành hạ mình bằng nỗi sợ hãi không cần thiết. 

Vì vậy, tôi dùng phương pháp của bạn tôi khi cô muốn có thêm can đảm để đối diện với việc sinh con và điều chưa từng biết này.  Một cách đơn giản, hàng triệu triệu người đã vượt qua được quá trình chết, vì vậy tôi cũng phải vượt qua được!  Hơn nữa, không giống như việc sinh con, chỉ ảnh hưởng đến một nửa nhân loại, còn cái chết thì ảnh hưởng đến toàn nhân loại, kể cả tôi đều sẽ đi qua.  Một trăm năm nữa, những ai đang đọc bài này sẽ vượt qua cái chết của mình. 

Vì vậy, đây là cách để nhìn nhận về cái chết của chính chúng ta: hàng tỷ tỷ người đã vượt qua được điều này, đàn ông, phụ nữ, trẻ em, kể cả trẻ sơ sinh.  Một số người đã già, một số người còn trẻ; một số đã chuẩn bị, một số thì không; một số đón nhận, một số cay đắng phản kháng; một số chết vì nguyên nhân tự nhiên, một số chết vì bạo lực; một số chết trong vòng tay yêu thương, một số chết cô đơn không có vòng tay yêu thương nào chung quanh; một số chết trong thanh thản, một số chết trong tiếng khóc vì sợ hãi; một số người chết khi đã già, một số ở tuổi thanh xuân; một số bị bệnh mất trí vô nghĩa trong nhiều năm làm cho những người chung quanh hỏi vì sao Chúa và thiên nhiên lại tàn nhẫn khi giữ họ sống; lại có những người khỏe mạnh có đầy đủ để sống nhưng họ lại tự tử; có những người chết trong đức tin và hy vọng, có những người chỉ thấy bóng tối và tuyệt vọng; một số khi chết có lòng biết ơn, một số khi chết lòng đầy oán giận; một số chết trong vòng tay tôn giáo và nhà thờ, một số hoàn toàn ở ngoài vòng tay này; một số chết như Mẹ Têrêxa, một số lại như Hitler.  Nhưng tất cả họ đều làm được điều đó, điều vô danh vĩ đại, điều vô danh vĩ đại nhất.  Có vẻ như có thể làm được. 

Hơn nữa, không ai trở về từ thế giới bên kia với những câu chuyện kinh dị về cái chết, như thế cho thấy tất cả những bộ phim kinh dị của chúng ta về việc bị hành hạ sau khi chết, bị ma quỷ và những ngôi nhà ma ám đều hoàn toàn hư cấu. 

Tôi nghĩ ai cũng có trải nghiệm như tôi khi nghĩ về người chết, đặc biệt là những người tôi biết đã chết.  Nỗi đau buồn và sự mất mát ban đầu của họ cuối cùng cũng qua đi và được thay thế bằng một cảm giác mơ hồ rằng mọi chuyện vẫn ổn, rằng họ ổn, và rằng cái chết theo một cách kỳ lạ nào đó đã rửa sạch mọi thứ.  Cuối cùng, chúng ta có một cảm giác khá tốt về những người thân yêu đã khuất của mình và về những người đã khuất nói chung, ngay cả khi sự ra đi của họ không hề lý tưởng, khi họ chết trong tức giận, thiếu chín chắn, hoặc vì họ đã phạm tội, hoặc tự tử.  Bằng cách nào đó, cuối cùng tất cả đều được rửa sạch và những gì còn lại là một cảm giác mơ hồ, một trực giác vững chắc, rằng bất kể họ đang ở đâu, họ đều ở trong một vòng tay tốt hơn và an toàn hơn chúng ta.

 Khi còn là chủng sinh trẻ, chúng tôi phải dịch chuyên luận của tác giả cổ đại Cicero về tuổi già và về cái chết từ tiếng La-tinh sang tiếng Anh.  Khi đó tôi mười chín tuổi, nhưng rất ấn tượng với những suy nghĩ của Cicero về lý do vì sao chúng ta không nên sợ chết.  Ông là người theo phái khắc kỷ nổi tiếng; nhưng, cuối cùng, việc ông không sợ chết cũng giống như cách bạn tôi đối diện với việc sinh nở, xét theo mức độ phổ biến của nó, chúng ta đều có thể quản lý được! 

Tôi đã đánh mất ghi chép của tôi về Cicero từ lâu nên bây giờ tôi tra cứu chuyên luận này trên Internet.  Đây là một đoạn trích từ chuyên luận này: “Cái chết không nên được cho là quan trọng!  Vì rõ ràng tác động của cái chết là không đáng kể nếu nó hoàn toàn hủy diệt linh hồn, ngay cả là mong muốn, nếu nó dẫn linh hồn đến một nơi nào đó để sống mãi mãi.  Vậy thì, tôi sẽ sợ gì, nếu sau khi chết, tôi được định sẵn là không bất hạnh hoặc hạnh phúc?” 

Đức tin của chúng ta cho chúng ta biết rằng, với tình yêu và với lòng nhân từ của Chúa mà chúng ta tin tưởng, chỉ có lựa chọn thứ hai là hạnh phúc đang chờ chúng ta.  Và chúng ta đã trực giác được điều đó. 

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim


 

HOÀN THIỆN NHÂN CÁCH- LM. ĐAN VINH

LM. ĐAN VINH

LỜI CHÚA: Chúa phán: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu…. Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em ?”  (Lc 16,9.12).

KHÔNG THỂ THOÁT NGHÈO DO THIẾU KIÊN TRÌ.

Có một anh nông dân nghèo sống trong căn nhà lá siêu vẹo giữa một cánh đồng hoang vu. Ngày nọ, một ông phú hộ giàu có tốt bụng trong miền, nghe biết hoàn cảnh của anh, đã đến nhà thăm hỏi và tặng anh một con bò giúp anh khai hoang thửa đất gần nhà, đợi đến mùa xuân ông sẽ quay lại cho thêm hạt giống gieo trồng thì chắc anh sẽ thoát khỏi cảnh nghèo khó.

  Anh nông dân rất mừng khi được vị ân nhân tận tình giúp đỡ như vậy và quyết tâm phấn đấu sẽ vượt qua cảnh nghèo. Nhưng ít ngày sau anh lại gặp hoàn cảnh khó khăn: Ngay từ sáng sớm con bò đã kêu to đòi anh dẫn ra ngoài đồng ăn cỏ. Đang khi trong nhà không còn hạt gạo nấu cơm, khiến anh bị bế tắc.

Bấy giờ anh liền nghĩ: Tại sao ta không bán con bò này đi để mua được ba con dê, và loài dê lại dễ nuôi hơn bò. Sau khi có dê anh đã giết đi một con ăn thịt thỏa thích sau nhiều ngày chịu đựng đói khát. Hai con dê còn lại anh dự tính sẽ nuôi để chúng sinh sản và nếu mang dê con ra chợ bán sẽ kiếm được nhiều tiền.

Nhưng cặp dê lại không sinh sản, nên cuộc sống của anh vẫn bế tắc. Anh nghĩ: “Nếu cứ tiếp tục thế này thì không ổn. Sao ta không bán hai con dê này đi, rồi mua một đàn gà. Gà lại mau đẻ trứng và hằng ngày ta vừa có trứng ăn, lại có thể bán trứng lấy tiền chi tiêu thì chắc cuộc sống sẽ ổn định”.

 Nhưng rồi sau đó cuộc sống của anh vẫn không khá hơn. Vài ba ngày không có gì ăn, anh lại thịt một con gà. Cuối cùng đàn gà chỉ còn lại một con. Ước muốn làm giàu của anh nông dân hoàn toàn thất bại. Anh tự nhủ: “Ôi ! Làm giàu sao khó thế ! Thôi thì hôm nay ta đành đem con gà cuối cùng này đi bán, lấy tiền mua một bình rượu và uống rượu cho thoả thích rồi đành phó mặc tương lai cho ông trời vậy !
 

Hôm ấy đã sang mùa Xuân, ông phú hộ tốt bụng giữ đúng lời hứa với anh nông dân. Ông cùng một người đầy tớ, mang theo một bao hạt giống lúa mì đi đến nhà anh nông dân để giúp anh gieo trồng lúa đúng thời vụ. Nhưng ông rất thất vọng khi thấy anh ta không ra đồng làm việc, mà ngồi uống rượu giải sầu với đĩa dưa muối trước mặt. Con bò ông cho trước đây không thấy đâu. Trong căn nhà siêu vẹo vẫn trống trơn giống như mấy tháng trước đó.

  Ông phú hộ tốt bụng đành chịu bất lực và cùng người đầy tớ trở về nhà, mặc cho anh nông dân tiếp tục sống trong cảnh nghèo khổ như trước.

SUY NIỆM:  Rất nhiều người nghèo đã từng có cơ hội thoát nghèo, nhưng chính họ lại lười biếng không chịu làm việc, hoặc thiếu khôn ngoan và không quyết tâm vượt qua hoàn cảnh nên cuối cùng đành buông xuôi theo số phận.

    Trái lại, một nhà đầu tư thành công đã chia sẻ bí quyết làm giàu: “Lúc không có tiền, cho dù gặp nhiều khó khăn về tài chánh, nhưng tôi quyết tâm áp dụng phương pháp làm giàu như sau:

Luôn chăm chỉ làm việc và không mất thời giờ vào việc ăn chơi lãng phí.
Luôn chi tiêu tiết kiệm tiền bạc để khi có cơ hội là có thể đầu tư ngay.
Dù gặp khó khăn vẫn không chán nản nhụt chí, nhưng biết khiêm tốn học tập kinh nghiệm của những người thành đạt và kịp thời nắm bắt thời cơ…
nên cuối cùng tôi đã thành công và gây dựng được sự nghiệp lớn lao hiện nay”.

LỜI CẦU:  Lạy Chúa Giê-su. Xin cho chúng con ý thức về giá trị tích cực của đồng tiền như người đời thường nói: “Phú quý sinh lễ nghĩa; Bần cùng sinh đạo tặc !”. Cho chúng con không quá đề cao giá trị của đồng tiền như nhiều người đã nói: “Đồng tiền là Tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý…

    Xin cho chúng con biết tín thác vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa… Nhất là xin cho chúng con đừng vì tiền mà bán rẻ lương tâm làm điều thất nhân ác đức như: buôn bán hàng cấm, sản xuất hàng giả lừa gạt người khác…tuy có đem lại cái lợi trước mắt, nhưng không được bền lâu và sẽ bị tác hại lâu dài. – AMEN.

CHA ĐA MINH ĐINH VĂN VÃNG,
BÚT HIỆU LM. ĐAN VINH, HHTM (HIỆP HỘI THÁNH MẪU)

From: Ngoc Bich  & KimBang Nguyen


 

ĐỀN THỜ TÂM HỒN – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21).  Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại.  Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa. 

  1. Giới thiệu Đền Thờ Latêranô

Vương cung Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô là một trong những thánh đường đầu tiên được xây cất sau những cuộc bách đạo ban đầu.  Thánh đường được Hoàng Đế Constantinô xây và được ĐTC Sylvester thánh hiến năm 324.  Thánh Đường này tiếp tục là Nhà Thờ Chánh Tòa của Giám Mục Rôma, Đức Thánh Cha.  Thánh Đường này được gọi là ‘Mater Ecclesiae Romae Urbis et Orbis’, Mẹ của tất cả các thánh đường ở Rôma và trên thế giới. 

Năm 313, sau khi ra chiếu chỉ ở Milano cho Giáo hội được tự do hành đạo, Hoàng Đế Constantine cho xây đền thờ ở Laterano trong thời gian 313-318 để dâng kính Chúa Cứu Thế.  Thời Đức Giáo Hoàng Gregorio I (590-604) đền thờ được dâng kính cả Thánh Gioan Tẩy Giả và Thánh Gioan Tông Đồ.  ĐGH Lucio II đã ấn định tên đền thờ như hiện nay, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano, năm 1144.  Từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 14, đền thờ này là trung tâm của giáo hội Roma, trụ sở và biểu tượng của Đức Giáo Hoàng. 

Như các đền thờ khác, Đền Thờ Thánh Gioan ở Laterano nhiều lần bị tàn phá, hỏa hoạn, hoang tàn sau hơn 73 năm vắng chủ khi giáo triều dời về Avignon, Pháp, được xây lại như ngày nay thời ĐGH Sisto V (1585-1590). 

Thánh đường dài 130m, có 5 gian.  Gian chính dài 87m, rộng 16m, có tượng 12 Thánh Tông Đồ bằng đá cẩm thạch trắng.  Bước vào đền thờ, bên phải có đàn phong cầm vĩ đại với hai ngàn ống.  Sau tòa giám quản có Giếng Rửa Tội (theo truyền thuyết, chính Hoàng Đế Constantine được ĐGH Silvestro rửa tội nơi đây).  Ngoài nhà thờ, bên hông trái, có tháp bút cao nhất (47m) và cổ kính nhất ở Roma bằng đá hoa cương đỏ của Ai Cập có từ thế kỷ 14 trước Chúa KiTô.  Là Mẹ của các nhà thờ và là nhà thờ chánh tòa của giáo phận Roma, đền thờ Thánh Gioan ở Laterano nhắc nhở các tín hữu “hồng ân rửa tội” với tất cả ý nghĩa của ơn này và mời gọi các tín hữu cảm tạ Thiên Chúa bằng chính cuộc sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. (x.BGCN 2008). 

2. Chúa Giêsu thánh tẩy đền thờ

 Đối với Do thái giáo, Lễ Vượt Qua là một đại lễ, tưởng niệm cuộc vượt qua Biển Đỏ tiến về Đất Hứa.  Lễ Vượt qua được tổ chức vào ngày 15 tháng Nissan, tức là tháng 4 dương lịch. 

Mọi người trong đất nước Palestin đều về Giêrusalem dự lễ.  Cả những người tản mác khắp thế giới không bao giờ quên tôn giáo, tổ tiên cũng về dự đại lễ quan trọng nhất này. 

Dầu sống ở xứ nào, người Do thái vẫn ước mơ và hy vọng được dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem ít nhất là một lần trong đời. 

Trong dịp này Chúa Giêsu cùng đi dự lễ Vượt qua với các môn đệ. 

Thuế Đền Thờ là một sắc thuế mà mỗi người Do thái từ 9 tuổi trở lên đều phải đóng.  Tiền thuế là ½ siếc-lơ, tương đương với 2 ngày công nhật. 

Trong việc giao dịch thương mại, mọi loại tiền đều co giá trị tại Palestin.  Nhưng tiền thuế Đền thờ phải nộp bằng đồng siếc-lơ Galilê hoặc siếc-lơ của Đền Thờ. 

Khách hành hương đến Đền Thờ phải đổi tiền siếc-lơ.  Vì vậy trong sân Đền Thờ có nhiều người làm nghề đổi tiền.  Tiền huê hồng khi đổi là ¼ ngày công cho 1 đồng.  4 đồng siếc-lơ thì người đổi được lợi một ngày công.  Do đó số tiền thuế Đền thờ và lợi tức đổi tiền thật là lớn. 

Điều khiến Chúa Giêsu nổi giận là khách hành hương phải chịu những tệ nạn của bọn đổi tiền bóc lột với giá cắt cổ.  Thật là bất công và càng tệ hơn nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục lợi. 

Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành hương mua làm lễ vật toàn thiêu.  Điều hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua đựơc các con vật ở sân Đền Thờ.  Luật quy định các con vật làm của lễ phải lành lặn không tỳ vết.  Có những chức sắc kiểm tra khám xét con vật.  Mỗi lần khám xét phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua vật ở ngoài Đền thờ.  Khốn nỗi, mỗi con vật mua trong đền thờ đắt gấp 15 lần ở bên ngoài.  Khách hành hương nghèo bị bóc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ vật.  Sự bất công này lại càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo. 

Chính vì những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng bừng nổi giận.  Chúa lấy dây thừng bện thành roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ.

 Trong Phúc âm hiếm khi ta thấy Chúa Giêsu nổi giận.  Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa; lặng lẽ trước những lời cáo gian buộc tội; xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh mình vì họ không biết việc họ làm.  Chính Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta học lấy nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm nhường.  Vậy mà ở đây, Chúa đã nổi giận đùng đùng, lật tung bàn ghế, lấy dây thừng làm roi xua đuổi tất cả. 

Khung cảnh đền thờ phải là nơi yên tĩnh, thánh thiêng.  Thế mà nay lại ồn ào huyên náo, mua bán đổi chác, tranh giành, cãi cọ, đôi co như là một cái chợ buôn bán sầm uất.  “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16).  “Nhà của Ta là nhà cầu nguyện, còn các ngươi làm thành hang trộm cướp” ( Mt 21,12-13).  Chúa Giêsu thất vọng biết bao trong tiếng than thở ấy.  “Nơi buôn bán”, “Hang trộm cướp”, Đền thờ nơi tôn nghiêm thờ phượng Đức Chúa, nay lại quá bất kính, quá bát nháo khiến Chúa Giêsu phải đau lòng.  Lời ngôn sứ Giêrêmia quở trách dân Do thái xưa đã nên ứng nghiệm ( x Gr 7,11). 

Thế là Chúa Giêsu thực hiện một cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến Đền thờ.  “Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69,10).  Lòng nhiệt thành với Đền thờ sẽ dẫn Đức Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x Ga 15,5). 

3. Tại sao Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ? 

– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì nhà Thiên Chúa đã bị xúc phạm.

 Trong sân đền thờ có thờ phượng mà không có lòng tôn kính.  Thờ phượng mà không có lòng tôn kính là việc bất xứng.  Đó là việc thờ phượng hình thức chiếu lệ.  Trong sân Đền thờ người ta cãi vã về giá cả, tiếng ồn ào huyên náo tạo thành một cái chợ chứ không phải là Đền thờ. 

– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ để chứng minh rằng việc dâng thú vật làm lễ tế không còn thích đáng nữa. 

Các ngôn sứ đã loan báo: “Đức Chúa phán, ngần ấy hy lễ của các ngươi đối với Ta nào có nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta chán ngấy.  Máu chiên dê Ta chẳng thèm.” (Is 1,11).  “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” (Tv 50,16). 

Thái độ thanh tẩy Đền thờ của Chúa Giêsu chứng tỏ Chúa đòi hỏi lòng thành kính.  Lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa là tấm lòng chân thành. 

– Chúa Giêsu thanh tẩy đền thờ vì “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện” 

Đền thờ là nơi Thánh, là chốn Thiên Chúa hiện diện tiếp nhận phụng tự của người dâng lễ và thông ban cho họ sự sống và các ân huệ của Người.

 Các chức sắc Đền thờ, các con buôn người Do thái đã biến Đền thờ thành nơi huyên náo, nổi loạn. Tiếng bò rống, tiếng chiên kêu, tiếng rao hàng, lời qua tiếng lại mặc cả, cãi cọ mua bán làm cho khách hành hương không thể cầu nguyện được. 

4. Xây dựng đền thờ tâm hồn. 

Chúa Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ Giêrusalem.  Chúa muốn chúng ta thanh tẩy Đền thờ tâm hồn mình. 

Đền thờ tâm hồn không xây dựng bằng vật liệu cao cấp của các thứ kim loại, bằng những loại gỗ quý giá.  Đền thờ tâm hồn được xây bằng các bí tích, các việc lành thánh thiện, những hy sinh, lòng yêu mến Thiên Chúa.

 Trong Đức Kitô, chúng ta đã trở nên đền thờ sống động và đã được cung hiến ngày lãnh nhận phép Thánh Tẩy.  Thánh Phaolô minh định: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong đền thờ ấy.”  Đó là một hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho mỗi tín hữu qua Đức Giêsu Kitô.  Thiên Chúa yêu thích ngự nơi đền thờ tâm hồn chúng ta hơn là đền thờ bằng gỗ đá, dù là gỗ thơm đá quý.  Bởi lẽ đền thờ bằng gỗ đá, dẫu có xinh đẹp và đồ sộ như đền thờ Latêranô đi chăng nữa thì một ngày kia, cũng sẽ tiêu tan.  Không có đền thờ nào đẹp bằng đền thờ Giêrusalem.  Một công trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm.  Khi đi qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa Giêsu thấy sự huy hoàng của Đền thờ, nhưng Người lại nói rằng: sẽ có ngày không còn hòn đá nào trên hòn đá nào.  Khi người Do thái chất vấn: Ông lấy quyền nào mà làm như vậy?  Chúa Giêsu bảo: cứ phá Đền thờ này đi, trong 3 ngày Ta sẽ xây dựng lại.  Chúa ám chỉ đến cái chết và sự phục sinh của Người.  Đền thờ ở đây chính là thân thể Đức Giêsu mà mỗi người Kitô hữu là một viên đá sống động xây dựng nên đền thờ ấy.  Thân thể phục sinh của Chúa là đền thờ mới, nơi con người thờ phượng Thiên Chúa cách đích thực, trong tinh thần và trong chân lý.  Chỉ có Thân thể Chúa Kitô và tâm hồn chúng ta mới là đền thờ vững bền. 

Kỷ niệm ngày cung hiến Vương cung thánh đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, là chính thân thể Đức Giêsu Kitô (Ga 2,21).  Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền năng cứu độ nhân loại.  Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới được dâng lên Thiên Chúa.  Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Đức Giêsu.   Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2 Tm 2:5; Dt 9:15; 12:24).  Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của vương cung thánh đường Latêranô cũng như mọi thánh đường khác đều phải bắt nguồn từ đền thờ này.  Thật vậy, “không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô.” (1Cr 3,11).  Máu và nước từ cạnh sườn Đức Giêsu tuôn chảy như giòng sông.  “Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống.” (Ed 47,9).  Người được phúc đón nhận sự sống đó là Kitô hữu.  Vì họ là “thân thể Đức Kitô.” (2 Cr 12, 27).  Bởi đó, họ cũng là “Đền Thờ của Thiên Chúa.” (1 Cr 3,16).

 Lạy Chúa Giêsu Kitô,

Chúa đã đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ vì họ đã đem đền thờ biến thành nơi buôn bán, đổi chác.  Xin Chúa xua đuổi nhưng thói hư tật xấu ra khỏi tâm hồn chúng con, để tâm hồn chúng con xứng đáng là đền thờ sống động của Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị.  Amen. 

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

From: Langthangchieutim


 

LÒNG TRẮC ẨN….!

Xuyên Sơn

LÒNG TRẮC ẨN….!

Có một cụm danh từ rất hay trong tiếng Việt mà ở thời đại này không mấy khi được sử dụng nữa…!

Đó là “lòng trắc ẩn”.

Trắc ẩn, tức là những gì cảm nhận được những điều mắt không thể thấy, tai không thể nghe…

Nếu bạn bắt được một đứa bé ăn cắp hai ổ bánh mì vì quá đói, thay vì bỏ tù nó, bạn chỉ cho nó đến xin làm việc ở đâu đấy, đưa lại cho nó một ổ để ăn cầm hơi qua cơn đói, rồi dặn nó cả đời tuyệt đối không bao giờ được làm những việc như trộm cắp nữa…

Nếu bảo vệ cửa hàng sách bắt gặp một trẻ con ăn cắp và dấu cuốn sách, thay vì báo cảnh sát hay cha mẹ đứa bé…, bảo vệ “có thể” không thấy hay cho tiền để mua cuốn sách.

Biết đâu sau này, lòng đam mê đọc sách và những lời dặn dò đừng trộm sách sẽ giúp đứa trẻ trở thành người thành đạt.

Đó là lòng trắc ẩn…!

Câu chuyện Edison thuở nhỏ đã dạy các bạn học cách đánh morse để “qua mặt” thầy Hiệu trưởng khiến bị đuổi học khỏi trường.

Người mẹ thương xót cho con đã dời nhà đi để tìm trường cho con học.

Và Edison đã trở thành nhà bác học vĩ đại của nhân loại với hơn một ngàn phát minh đem hữu ích cho mọi người…!

Đó là lòng trắc ẩn của người mẹ…!

Người có lòng trắc ẩn, chính là người có tấm lòng bao dung, biết đặt mình vào hoàn cảnh của người khác, cảm thông cho nỗi khổ của họ.

Nếu con người không có lòng trắc ẩn, thì cũng sẽ không có những thứ như nhân cách, hay tình thương giữa người với người….!

“Lòng trắc ẩn” cũng là con đường đi trong cuộc sống, là cái chủ đích để đạt được ” cái thứ cao nhất mà người xưa coi là nếu có được thì sẽ có cả thiên hạ và lòng người-đắc nhân tâm…!

Vậy muốn được “lòng trắc ẩn” con người cần có điều gì..?

Chính là Nhân-Văn…!

*Nhân là người hướng thiện, bao dung và có trái tim quãng đại…!

*Văn là phát triển chủ yếu hai việc: một là khả năng trắc ẩn, hai là kỹ năng diễn đạt hành động.

Trước đây, Văn là công cụ duy nhất để một người được đặt mình vào trong cuộc đời của rất nhiều người khác và học những bài học làm người từ những người đó…!

Hôm nay, ngoài Văn thì đã có điện ảnh, Internet, các phương tiện nghe nhìn,…

Do đó, Văn không còn là phương tiện duy nhất nữa…!

“Lòng trắc ẩn” là công cụ và là phượng tiện giúp con người gần nhau hơn, biết chia sẻ, giúp đỡ và cưu mang cho nhau…!

“Lòng trắc ẩn” không chỉ là cảm thấy tiếc nuối, đau buồn hay thương hại người khác.

“Lòng trắc ẩn” cũng không có nghĩa là bạn phải chấp nhận mọi đau khổ của thế mọi người vào tâm trí bạn.

“Lòng trắc ẩn” là cảm giác hòa hợp với tâm trạng của người khác và có ý định hành động để giảm bớt đau khổ hay chia sẻ niềm vui với người ấy…

“Lòng trắc ẩn” đơn giản chỉ là dấu hiệu, biểu hiện của tâm từ bi nhân ái….!

Một câu nói thật hay:

“Tình yêu thương từ trái tim sẽ nhận lại lại vô vàn yêu thương của những trái tim…!”

Đó chính là “LÒNG TRẮC ẨN…!”

(sưu tầm)


 

Hãy Im Lặng !!!

Hãy Im Lặng !!!

  1. Im lặng – trong cơn nóng giận.
  2. Im lặng – khi bạn không có đầy đủ thông tin.
  3. Im lặng – khi bạn chưa kiểm chứng được câu chuyện.
  4. Im lặng – nếu lời nói của bạn làm mất lòng một người yếu đuối hơn.
  5. Im lặng – khi đến lúc cần lắng nghe.
  6. Im lặng – khi bạn bị cám dỗ xem thường những điều thánh thiện.
  7. Im lặng – khi bạn bị cám dỗ nói đùa về tội lỗi.
  8. Im lặng – nếu sau này bạn phải xấu hổ vì lời nói của mình.
  9. Im lặng – nếu lời nói của bạn gây ra ấn tượng sai lầm.
  10. Im lặng – nếu vấn đề không liên quan đến bạn.
  11. Im lặng – khi bạn bị cám dỗ nói dối trắng trợn.
  12. Im lặng – nếu lời nói của bạn làm tổn hại đến danh tiếng của người khác.
  13. Im lặng – nếu lời nói của bạn làm tổn hại đến tình bạn.
  14. Hãy im lặng – khi bạn cảm thấy bị chỉ trích.
  15. Hãy im lặng – nếu bạn không thể nói ra mà không hét lên.
  16. Hãy im lặng – nếu lời nói của bạn sẽ phản ánh không tốt về bạn bè và gia đình bạn.
  17. Hãy im lặng – nếu sau này bạn có thể phải hối hận.
  18. Hãy im lặng – nếu bạn đã nói điều đó nhiều hơn một lần.
  19. Hãy im lặng – khi bạn bị cám dỗ nịnh hót một kẻ xấu.
  20. Hãy im lặng – khi đáng lẽ bạn phải làm việc!!

“AI GIỮ MIỆNG LỬA MÌNH THÌ GIỮ LINH HỒN MÌNH KHỎI RỐI LOẠN”

From: Tu-Phung

KHOẢNG TRỜI XÁM

Luân Lê

KHOẢNG TRỜI XÁM

Sau 5 ngày cấp cứu, nam sinh lớp 10 tử vong sau khi bị nhóm bạn đánh hội đồng; trước đó nữa thì một nam sinh lớp 11 đâm chết kẻ truy đuổi mình từ nhóm học sinh lớp trên đang tìm cách quây đánh; và giờ đây một nữ sinh lớp 8 bị đánh gãy 3 xương sườn sau bởi một nhóm bạn kéo vào nhà vệ sinh tấn công dữ dội, trong khi nhiều bạn nam đứng nhìn rất đông xung quanh mà không ai can ngăn hay có hành động nào đáng kể để bảo vệ nạn nhân cũng như ngăn chặn sự côn đồ của đám bạn thủ phạm.

Làm sao có thể nói hết về nỗi bất hạnh này, khi nó hoàn toàn vượt qua tính gia đình hay cá thể đơn lẻ, nó trở thành một tình trạng ngày càng lan rộng, mang tính giáo dục và nền tảng xã hội sâu sắc trước hành vi và tính hậu quả của nó. Không thể hình dung được rằng điều gì đang xảy ra với những thế hệ trẻ măng đang mặc những tấm áo trắng tinh thế này? Tương lai như một bầu trời giăng đầy mây xám vậy. Thực sự đáng lo và buồn thảm quá.


 

Tâm hồn Nga – Tâm hồn đế quốc – Cơ chế của những đau thương

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Trần Gia Huấn

02/11/2025

Trước giữa thế kỷ XIX, không ai nói tới “Tâm hồn Nga”cả. Khoảng 1842, văn hào Gogol, người Ukraine viết cuốn tiểu thuyết lừng danh “Những Linh Hồn Chết” (Dead Souls) bằng tiếng Nga trong đó ông dùng “Linh hồn” ám chỉ số nông nô đã chết, nhưng các chủ nô dùng danh sách ma để mua bán, trao đổi, thế chấp, trốn thuế kiếm lời. Dần dần, Nga tìm kiếm mọi cách định nghĩa “Tâm hồn Nga” như một bằng chứng khẳng định Nga khác phần còn lại của Âu châu: Nga có linh hồn; Âu châu vô hồn. Nga tự hào; Âu châu tự ty. Nga văn minh; Âu châu man rợ. Nga kiêm tốn; Âu châu hãnh tiến. Nga thánh thiện; Âu châu tội lỗi. Nga cao thượng; Âu châu nhỏ nhen. Nga nhân hậu; Âu châu tàn nhẫn… Trong đó, văn hào Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky, và thi hào Alexander Pushkin là những môn đệ toàn tòng cho “Tâm hồn Nga” một cách cuồng nhiệt nhất.

Khoảng 13 tuổi, trên đường tới St Peterburg, Dostoyevsky chứng kiến tại một trạm bưu điện. Một gã đưa thư, mặc đồng phục, nhảy vào cỗ xe ngựa đậu gần đó, không nói không rằng, tung những quả đấm như trời giáng vào mặt vào cổ người đánh xe. Ngay lập tức, người đánh xe, điên cuồng vung roi quất vào mông ngựa. Cỗ xe lao đi trong khói bụi mịt mờ. Dostoyevsky, ngất ngây, tưởng tượng ra cảnh, người đánh xe ngựa trở về làng đêm đó, trong cơn say túy lúy, cũng thụi túi bụi vào mặt vào cổ vợ, như người ta đã thụi mình.

Không ngạc nhiên, Dostoyevsky đã kết hợp những ký ức vào nghệ thuật lãng mạn, với tâm linh, cảm xúc tuyệt vời nuôi dưỡng những hoang tưởng bạo lực và tàn ác của con người trong từng trang viết. Trong tiểu thuyết “Tội ác và Trừng phạt” nhân vật Raskolnikov nằm mơ thấy một nông dân đập chết một con ngựa. Khi tỉnh dậy, gã kết nối giấc mơ với một kế hoạch đập chết người bằng rìu. Gã nhảy ra khỏi giường, thực hiện giấc mơ giết người. Những chuỗi dài bạo lực tiếp nối bạo lực, mà không ai thoát ra khỏi.

Raskolnikov là sinh viên nghèo, giết chủ tiệm cầm đồ, để lấy tiền đi học. Gã bảo Napoleon đã giết hàng ngàn người Ai Cập, cướp kho báu khảo cổ, để thiết lập lên bộ môn Ai Cập học cho nhân loại. Vậy, gã giết người để hoàn thành một lý tưởng, giết người để hiện thực một giấc mơ, giết người để học tập, giết người để tiến bộ, là phi thường, là anh hùng. Lập luận của Raskolnikov là một dạng của “Tâm hồn Nga” tâm hồn đế quốc. Đó là cơn thịnh nộ của độc ác được chắt lọc từ lòng căm thù, đố kị, ganh tị đã dồn nén từ lâu.

Dostoyevsky bị đi đầy ở Siberia chỉ vì đọc cuốn sách cấm. Một người bạn tù gốc Ba Lan đã viết trong hồi ký: Dostoyevsky nguyền rủa đám Estonia, Litvia, Lithuania, và Ba Lan rằng đất đai của chúng mày mãi mãi là đất đai, tài sản của Nga. Nếu không nhờ Nga khai sáng thì bọn mày chỉ biết vùng vẫy trong tối tăm, đói nghèo, cơ cực, mù chữ, và man rợ.

Pushkin, được mệnh danh là “Mặt trời của thi ca Nga” là người đóng góp quan trọng vào ngôi đền thiêng “Tâm hồn Nga”. Khoảng 1820 Pushkin bị đày đi Kavkaz như một kẻ lưu vong chính trị. Ông đã viết bản trường ca “Người tù Kavkaz, trong đó kể lại câu chuyện người con gái miền sơn cước, ở tuổi dậy thì, duyên dáng nồng nàn, ngây thơ đắm đuối, phải lòng một tù nhân chiến tranh Nga. Nàng liều mình giải thoát cho chàng. Rồi, chàng rủ nàng trốn đến nước Nga. Nàng từ chối, giận hờn bảo anh đi đi, đừng bận tâm đến số phận tàn khốc u sầu của em. Lòng nàng vò xé, nước mắt lưng tròng, nàng đưa chàng tới bờ sông, để chàng xuôi dòng về lại quê hương. Rồi, nàng tự tử.

Nhưng khổ cuối của bản trường ca, Pushkin viết “Hỡi Kaskaz, hãy đầu hàng đi. Ermolov đang tới.” Alexei Ermolov là tướng Nga, tư lệnh cuộc chiến giữa Nga và Thượng Kaskaz ở thế kỷ XIX. Ermolov cực kỳ tàn nhẫn, giết 9/10 dân số Thượng Kaskaz. Ermolov tuyên bố: “Ta khao khát những nỗi kinh hoàng mang tên ta.” Chính Pushkin đã ủng hộ những tư tưởng đế quộc tàn bạo này. Những gì xảy ra ở Bucha, Ukraine, 2022, cho ta thấy “Tâm hồn Nga” man rợ tới cỡ nào.

Năm 1837, Pushkin công bố bài thơ “The Bronze Horseman” – Kỵ sỹ Đồng, hết lòng ca ngợi Peter Đại đế, cưỡi ngựa đi thị sát đầm lầy, những túp lều khốn khổ và hèn mọn của lũ Phần Lan lúp xúp dưới vó ngựa của Ngài. Peter Đại đế xây thành St. Petersburg hướng về Tây âu, lối ra biển Baltic. Ngài tuyên bố: Từ nơi này, ta sẽ uy hiếp Thụy Điển và nuốt cả Âu châu. Những ý tưởng này không thể nào không gợi nhớ tới Putin đang đe dọa Âu châu, và tàn phá phương Tây.

Pushkin đã viết những lời hoa mỹ, vô cảm trong cuộc chiến Nga -Thổ: “Người Circassia căm ghét chúng tôi (lính Nga) vì chúng tôi đã buộc họ phải phải rời khỏi những đồng cỏ mênh mông. Nhiều làng mạc bị tàn phá. Cả bộ lạc bị xóa sổ. Người làng phải từ bỏ tất cả để gia nhập Đế chế Nga.”

Ở tuổi 20, Pushkin bị lưu đày khắp nơi từ Kaskaz, tới Crimea, từ Kamianka tới Bessarabia chỉ vì những bài thơ viết ở tuổi 15. Sau năm tháng sống kiếp lưu vong, Pushkin trở về St. Petersburg, không bao giờ dám chỉ trích Sa hoàng nữa. Ngược lại, Pushkin làm thơ ca ngợi, tôn vinh những hành động đế quốc của Nga với các dân tộc láng giềng. Đó là vì sao Đế chế Nga và sau này là Liên Xô cùng cho dựng tượng Pushkin, công viên Pushkin, đường phố Pushkin, quảng trường Pushkin khắp nơi nơi.

Phong trào “Pushkinopad – Пушкинопад”– nghĩa đen là hạ bệ Pushkin tại Ukraine, sau cuộc xâm lược do Putin phát động. Người Ukraine xác định Pushkin và Dostoyevsky là những kẻ cổ xúy cho chủ nghĩa sô vanh (chauvinism) Nga, không xứng đáng được đặt tượng, đặt tên trên quê hương của họ.

Pushkin qua đời năm 37 tuổi sau cuộc đấu súng do ghen tuông ái tình. Dostoyevsky chết năm 59 tuổi, do nhồi máu phổi, động kinh kinh niên không thuốc chữa, đói nghèo, nghiện ngập, cờ bạc, nợ nần chồng chất.
Ukraine không muốn đọc Dostoyevsky nữa, không muốn ngắm tượng Pushkin nữa vì trong từng trang viết chan chứa tư tưởng bành trướng, đế quốc, bạo lực, man rợ, được Putin tuyên truyền biện minh cho hành vi xâm lược hôm nay.

Nỗi mặc cảm tự ti chỉ là một đế chế thứ cấp, bên rìa Âu châu, Putin nhìn phương Tây là lũ suy đồi, trụy lạc, không thể nào đè bẹp được lòng kiêu hãnh Nga – Tâm hồn Nga đã dẫn dắt nước Nga lao vào những cuộc chiến tranh liên miên, không hồi kết, và luôn gây sự với người khác.

Tiến sỹ Henry Kissinger nhấn mạnh: Để hiểu Putin, phải đọc Dostoyevsky. Putin bước ra từ tiểu thuyết viết cách nay đã hai thế kỷ. Tiến sỹ Timothy Snyder nói: Để hiểu được Putin phải đọc 1984: “Chiến tranh là hòa bình. Tự do là nô lệ. Ngu dốt là sức mạnh.” Cựu tổng thống Mỹ George W. Bush bảo nhìn vào mắt Vladimir Putin và “hiểu được tâm hồn Putin”.

Tâm hồn Putin – tâm hồn điệp viên, tâm hồn sát thủ.
Tâm hồn Nga – tâm hồn đế quốc – cơ chế của những đau thương.

Canada

November 2, 2025


 

ĐẦU TƯ TỐT – Lm. Minh Anh Tgp. Huế

Lm. Minh Anh Tgp. Huế

“Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được!”.

Tháng 10/2021, công chúa Mako, Nhật Bản, từ bỏ hoàng gia và 1,3 triệu Mỹ kim hồi môn để xe duyên với Komuro, một luật sư nghèo. Theo luật hoàng gia, kết hôn với một thường dân, các thành viên nữ phải từ bỏ tước vị và không có nghi lễ truyền thống. Mako chia sẻ, “Chúng tôi nghĩ, mình đã tìm được người bạn đời quý giá. Tôi muốn một cuộc sống yên ả trong môi trường mới của mình!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Nếu Mako đã hy sinh tất cả để “đầu tư cho tiếng gọi con tim”, thì người môn đệ Kitô cũng được mời gọi ‘đầu tư tốt’ cho ơn gọi nên thánh. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói rõ, ‘vốn’ đầu tư không chỉ là “hết những gì mình có”, mà còn là “cha mẹ”, thậm chí “mạng sống!”.

Ngài minh hoạ bằng kế hoạch xây tháp và cuộc chinh chiến của một vị vua: cả hai đều đòi hy sinh, tính toán và can đảm. Với sự thánh thiện cũng vậy, sẽ có những “trận chiến” cần đối đầu, cũng có những “trận” chỉ có thể tránh. Vì thế, khôn ngoan thiêng liêng nhiều khi không nằm ở sức mạnh, mà ở khả năng rút lui. Đôi khi, ‘đầu tư tốt’ không phải là dấn thân thêm, mà là biết thối lui trước cám dỗ, và nhất là biết “chạy trốn tội lỗi”. “Can đảm thật đôi khi là biết rút lui khôn ngoan, hơn là tiến bước liều lĩnh!” – G. K. Chesterton.

Chúa Giêsu cho thấy sức mạnh thực sự không nằm ở của cải hay danh vọng, mà ở con tim được tự do. Người môn đệ không thể để bất cứ điều gì – dù là “cha mẹ”, “tài sản” hay “mạng sống” – chiếm vị trí của Thiên Chúa. Bởi nơi trái tim ấy, chỉ có một ‘Chủ đầu tư’ duy nhất – chính Chúa; Ngài đã để Chúa Cha chiếm hữu hoàn toàn, Ngài vâng phục cho đến chết. Nhờ đó, Ngài trở nên khuôn mẫu cho tất cả những ai muốn đi theo Ngài. Và tuyệt vời thay! Ai chọn Chúa Giêsu làm mẫu mực cũng là hướng đầu tư của mình, sẽ không bao giờ lỗ lã, “Họ sẽ được gấp trăm ở đời này và sự sống muôn đời ở đời sau!”. “Ai trao đi điều mình không thể giữ để nhận lại điều mình không thể mất, người ấy không hề dại dột!” – Jim Elliot.

Anh Chị em,

“Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được!”. Đầu tư cho sự thánh thiện quả không rẻ, cũng không dễ! Không ai làm được điều đó nếu không có ân sủng. Chúng ta yếu đuối, nhưng ân sủng Chúa không bao giờ thiếu cho ai dám bước đi trong đức tin. Hãy để Thiên Chúa chiếm trọn con người mình và tiếp tục thực hành yêu thương. Phaolô nhắc, “Yêu thương là chu toàn lề luật” – bài đọc một; Thánh Vịnh đáp ca thì nói, “Phúc thay người biết cảm thương và cho vay mượn!”. Như vậy, từ bỏ không là mất mát, mà là mở ra khoảng trống cho Thiên Chúa, “Càng buông bỏ, chúng ta càng tự do để được Thiên Chúa lấp đầy!” – Henri Nouwen. Ai sống được như thế, chắc chắn đã ‘đầu tư tốt’ – không chỉ cho hôm nay, mà cho cả đời đời.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, khi con do dự trước những mất mát, xin nhắc con rằng, mọi điều con trao đi vì Chúa sẽ hoá thành đôi cánh nâng con bay vào thinh không của sự thánh thiện!”, Amen.

Lm. Minh Anh Tgp. Huế

*****************************************************

Lời Chúa Thứ Tư Tuần XXXI Thường Niên, Năm Lẻ 

Ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 14,25-33

25 Khi ấy, có rất đông người cùng đi đường với Đức Giê-su. Người quay lại bảo họ :

26 “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. 27 Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.

28 “Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có hoàn thành nổi không ? 29 Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi, lại không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chế giễu mà bảo : 30 ‘Anh ta đã khởi công xây, nhưng chẳng có sức làm cho xong việc.’ 31 Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng ? 32 Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hoà. 33 Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.”


 

Nếu tôi chọn suy nghĩ hạnh phúc, tâm trạng của tôi sẽ hạnh phúc

Lời Hay Ý Đẹp 

Nếu tôi chọn suy nghĩ hạnh phúc, tâm trạng của tôi sẽ hạnh phúc sướng vui. Nếu tôi chọn suy nghĩ tiêu cực, tâm trạng của tôi sẽ trở nên tồi tệ. Suy nghĩ của tôi tạo ra tâm trạng. Điều đó thật đơn giản, hãy thử bạn nhé.

Đừng nghĩ mãi về quá khứ. Nó chỉ mang tới những giọt nước mắt. Đừng nghĩ nhiều về tương lai. Nó chỉ mang lại lo sợ. SỐNG Ở HIỆN TẠI VỚI NỤ CƯỜI TRÊN MÔI. Nó sẽ mang lại niềm vui cho bạn.

Đừng mơ trong cuộc sống…mà hãy sống cho giấc mơ.

Cuộc sống không có nghĩa là dễ dàng. Nó luôn luôn biến động.

Đôi lúc hạnh phúc, có lúc lại khổ đau… Nhưng với tất cả những bước“THĂNG TRẦM” trong cuộc sống, bạn lại học được những bài học làm cho bạn MẠNH MẼ LÊN.

Đôi lúc bạn đối mặt với khó khăn không phải vì bạn làm điều gì đó sai mà bởi vì bạn đang đi đúng hướng.

Những điều tốt đẹp đến với ai tin tưởng, những điều tốt hơn đến với ai kiên nhẫn và… những điều tốt nhất chỉ đến với người không bỏ cuộc.

Không quan trọng quá khứ bạn khắc nghiệt thế nào, bạn luôn luôn có thể bắt đầu lại.

Sưu Tầm