Vì sao người quân tử không tranh cãi với kẻ tiểu nhân?
Vì sao người quân tử không tranh cãi với kẻ tiểu nhân?
Khổng Tử có một cậu học trò rất thích tranh luận. Một hôm, người học trò này đến thăm Khổng Tử thì gặp một người đang đứng ở cổng nhà.
Người khách này ngăn vị học trò kia lại hỏi: “Nghe nói thầy dạy của ngài là Khổng thánh nhân, như vậy thì học vấn của ngài chắc phải cao lắm. Ngài cho ta hỏi một năm có mấy mùa? Nếu ngài trả lời đúng, ta sẽ dập đầu quỳ lạy ngài, còn nếu trả lời sai thì ngài phải bái lạy ta.”
Vị đệ tử kia suy nghĩ một lát rồi nói: “Xuân, Hạ, Thu, Đông, có bốn mùa!”
Người khách kia cãi lại: “Sai! Có ba mùa!”
Vị đệ tử cảm thấy thực sự là kỳ quái nói: “Rõ ràng là một năm có bốn mùa, sao ngươi lại nói là có ba mùa?”
Đúng lúc hai người tranh luận không thôi thì Khổng Tử đi ra. Vị khách kia hỏi: “Thánh nhân! Xin ngài hãy phân xử, một năm rốt cuộc là có mấy mùa?”
Khổng Tử nhìn vị khách một lượt rồi nói: “Ba mùa!”
Vị khách vô cùng đắc thắng, quay sang cậu học trò của Khổng Tử: ‘Ngươi nghe đã rõ chưa, còn không bái ta một lạy tạ lỗi sao?’. Nói rồi đắc chí cười ha hả đi thẳng.
Cậu học trò thấy hết sức quái lạ, bèn hỏi Khổng Tử: “Thưa thầy! Một năm rõ ràng là có bốn mùa, sao vừa rồi thầy lại nói là có ba mùa?”
Khổng Tử trả lời: “Con không thấy người kia sao? Đó là một con châu chấu biến hóa mà thành. Một năm, châu chấu chỉ sống có ba mùa, xuân, hạ và thu, nó đâu có biết mùa đông? Con tranh luận với nó chẳng phải là không bao giờ có kết thúc sao?”
Vị đệ tử bừng tỉnh hiểu ra đạo ý cao thâm của bậc Thánh nhân: Tranh cãi với người không cùng cảnh giới là việc phí thời gian vô ích. Lão Tử nói: “Thiện giả bất biện, biện giả bất thiện” (Nghĩa là: người thiện thì không tranh biện, người tranh biện thì không phải thiện). Sự tu dưỡng, trưởng thành trong đời một người thể hiện ở việc làm, không phải ở lời nói, tranh biện. Xưa nay, phàm đã là chân lý thì đâu cần tranh biện?
(Ảnh minh họa)
Kẻ tiểu nhân nhầm tưởng rằng tranh luận không ngớt là khẳng định được chân lý thuộc về mình. Kỳ thực, chân lý vốn không thuộc về người, mà là đạo của vũ trụ. Việc của người quân tử là dụng tâm tu dưỡng đến cảnh giới của chân lý, gọi là giác ngộ, viên mãn. Kẻ tiểu nhân lấy cái ngu xuẩn của mình khăng khăng tranh luận cao thấp với người khác. Trong Đạo đức kinh, Lão Tử viết: “Đạo của bậc Thành nhân là làm mà không tranh”.Một trong ba nguyên lý tu dưỡng tối cao của Phật gia chính là NHẪN. Nhẫn nhịn không tranh biện mới là cảnh giới tu dưỡng cao nhất của đời người.
Phú Bật thời Bắc Tống khi còn trẻ, ông đang đi bộ trên đường phố thành Lạc Dương thì bỗng nhiên có một người mắng chửi ông. Một người đi đường đã ghé tai Phú Bật mà nói nhỏ: “Chàng trai trẻ, có người đang mắng chửi cậu kìa.” Phú Bật nghe xong liền nói: “Hình như là mắng người khác đó.” Người đó lại nói: “Người ta còn gọi tên của cậu mà chửi đó.” Phú Bật suy nghĩ một chút rồi nói: “Có lẽ là mắng người khác, rất có thể người đó trùng tên họ với tôi.” Sau đó, người mắng chửi Phú Bật nghe được phản ứng của ông nên thấy rất hổ thẹn, đến xin lỗi Phú Bật.
Phú Bật chẳng phải chính là đã hành xử như người quân tử, không tranh biện với kẻ tiểu nhận. Đó không phải là nhu nhược mà là không để tâm vào những chuyện vụn vặt, lùi một bước biển rộng trời cao. Cho nên, người xưa cho rằng người thông minh nhưng giả ngốc mới là đạo xử thế của nhà thông thái. Đời người quá ngắn ngủi và quý giá, việc cần làm lại quá nhiều, sao phải vì điều khó chịu mà lãng phí thời gian? Hiểu được cái đạo của người giả ngốc, bạn sẽ thấu một cảnh giới khác của đại trí tuệ.
Trong Luận ngữ, Khổng Tử giảng: “Quân tử thực vô cầu bão, cư vô cầu an, mẫn vu sự nhi thận vu ngôn.” (Tạm dịch: Bậc quân tử ăn nhưng không cầu ăn no, ở không cầu an, nhanh nhẹn, minh mẫn trong việc làm nhưng rất thận trọng về lời nói). Lại thêm: “Quân tử dục nột vu ngôn nhi mẫn vu hành” (Bậc quân tử thường chậm trong lời nói nhưng hành động thì nhanh nhạy).
Rõ ràng là người xưa xem phẩm chất người quân tử là ở hành động, nói ít làm nhiều, lấy hành động chứng minh thay vì xảo biện, có nói cũng lấy khiêm nhường, đúng mực, thậm chí im lặng không nói. Kẻ tiểu nhân ngược lại, nói nhiều nhưng chẳng làm gì cả. Thế nên nhân gian mới có câu: ‘Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo…’
Một lẽ hết sức dễ hiểu là những người nhẫn nhịn không tranh biện bởi họ còn đang phải… miệt mài làm việc. Kẻ tiểu nhân làm ít nên rảnh rỗi nói nhiều, về bản chất thực sự không phải có năng lực. Người tài trí biết trân quý thời gian hữu hạn, một khi qua đi không trở lại nên dốc lòng toàn tâm toàn trí vào công việc, không muốn phí tiếc cho việc tranh cãi đúng sai. Tâm tranh đấu hơn thua cao thấp họ đã buông bỏ từ lâu rồi.
Kẻ tiểu nhân khoa ngôn xảo ngữ nhưng thực ra mọi việc đều để người khác làm cả. Như vậy tranh cãi với kẻ tiểu nhân há chẳng phải hạ mình xuống bằng họ mà phí thời giờ vô ích sao? ‘Người tốt không tranh biện, người tranh biện không tốt. Người biết không học rộng, người học rộng không biết.
Hàm ý là: Người thông minh không nhất định là kẻ học rộng. Người học rộng lại cũng không nhất định là người thông thái trí huệ. Bởi thứ quyết định trí tuệ của một người không phải ở tri thức tích lũy nhiều bao nhiêu mà là ở tâm thái cảnh giới tư tưởng cao bao nhiêu. Kẻ thông minh dùng khoa ngôn xảo ngữ để hùng biện. Bậc trí giả, ngược lại, đã tu dưỡng đến độ hiểu rằng, nói là một loại năng lực, còn im lặng là một loại trí huệ. Vậy há chẳng phải sống trên đời, không cần tranh cãi với kẻ tiểu nhân?
Lam Thư
Anh chị Thụ & Mai gởi
Nền báo chí KHUYẾT TẬT Việt Nam
Nền báo chí KHUYẾT TẬT Việt Nam
(VNTB)
Đó là nền báo chí Việt Nam dưới sự chỉ đạo, định hướng của nhà cầm quyền cộng sản khiến những thông tin trên mặt báo lệch lạc, sai sự thật, còn người làm báo mang tiếng là dân “trí thức” nhưng lại làm việc không khác gì những người thiếu nhận thức, thiếu lương tri…
Báo chí dưới sự cai trị của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam là một nền báo chí méo mó, nửa báo chí nửa “công văn” khi đưa thông tin theo “định hướng”. Nền báo chí sống nhờ dân nhưng lại phục vụ cho nhà cầm quyền… nói đúng hơn thì đây là một nền báo chí khuyết tật, tờ báo, người làm báo chưa hiểu hết nghĩa thật sự của cụm từ Báo chí, truyền thông là gì.
Các hoạt động báo chí ở Việt Nam không phải chịu sự kiểm soát của luật pháp quốc gia, luật báo chí mà là chịu sự kiểm soát của các cơ quan đại diện cho nhà cầm quyền cộng sản đó là người đứng đầu Bộ Thông tin và Truyền thông (Bộ 4T), và nội dung thì do Ban Tuyên giáo Trung ương kiểm duyệt, định hướng. Điều này khiến nhiều thông tin trên mặt báo sai sự thật, còn nhận thức của người làm báo thì lệch lạc, cam chịu, thui chột về ý chí.
Thông tin KHUYẾT TẬT
Một trong những nguyên tắc, yêu cầu quan trọng nhất của báo chí chính là SỰ THẬT. Thế nhưng, nhiều cơ quan báo chí ở Việt Nam đã không có được điều này. Chỉ đưa thông tin theo “định hướng”, né tránh những sự việc liên quan đến chính trị, quyền lợi của nhà cầm quyền cộng sản vì “nhạy cảm” (trừ một số thông tin được bật đèn xanh, phục vụ cho việc tranh giành quyền lực, thanh trừng nhau, mà bên có thế lực mạnh hơn sẽ chỉ đạo. Ví dụ như vụ Trịnh Xuân Thanh).
Điển hình nhất chính là vụ Fomosa, nhiều tờ báo, đặc biệt là VTV đã thông tin sai sự thật, khi chỉ thông tin một chiều ý kiến của nhà cầm quyền cộng sản. Trong khi biển đang bị đầu độc nặng, rất nhiều người dân bị nhiễm độc kim loại, nhân dân đói khổ vì thất nghiệp thì nhiều tờ báo liên tục đưa tin theo ý kiến của nhà cầm quyền là biển đã sạch, ngư dân phấn khởi ra khơi… không dừng lại đó, các tờ báo này còn vu vạ cho những ngư dân đi đòi quyền lợi chính đáng của mình là “phản động”, quá khích, gây rối an ninh trật tự…
Không một tờ báo nào dám phỏng vấn, đưa tin về những ngư dân-nạn nhân của thảm họa Fomosa, xem cảm nghĩ của họ như thế nào? Sau khi biển bị đầu độc, họ thất nghiệp và sống ra sao? Tại sao nhiều thanh niên ở vùng thảm họa lại không đạt yêu cầu về sức khỏe (bị nhiễm độc kim loại) khi tham gia đi xuất khẩu lao động? Tại sao người dân không đi làm, không ở nhà chăm lo sức khỏe của mình và gia đình mà lại hành hạ bản thân khi đi chang nắng, chang mưa để biểu tình, rồi bị đánh đập?…
Mặc dù, hơn 99% các tờ báo này đều sống bằng số lượt truy cập của bạn đọc, tức là người dân. Nhưng họ lại thờ ơ với quyền lợi, nỗi đau của nhân dân, thậm chí là vu vạ cho dân để đẩy dân vào đường cùng. Các tờ báo này đang tự giết chính mình, khi chọn con đường đối đầu với nhân dân.
Vâng, một nửa sự thật không phải là sự thật.
Người làm báo thui chột
Phần lớn những người làm báo tại Việt Nam là những người được xem là có trình độ học vấn cao trong xã hội, được xếp vào tầng lớp trí thức. Thế nhưng họ không có tư duy độc lập, khiến nhận thức của họ bị méo mó, cam chịu và chấp nhận làm việc trong một môi trường báo chí KHUYẾT TẬT.
Một trong những yêu cầu quan trọng của báo chí chính là tính KHÁCH QUAN. Thế nhưng, báo chí Việt Nam chịu sự định hướng của nhà cầm quyền cộng sản, nên tính khách quan này trở thành một mỹ từ xa xỉ. Họ sống bằng lượt truy cập của nhân dân nhưng lại chịu sự lệ thuộc từ nhà cầm quyền một cách vô lý!
Ngay trong quy định của “Luật Báo chí” về việc cấp thẻ báo chí đã là 1 sự vô lý đến hài hước. Khi, trước đây, người được cấp thẻ nhà báo phải hoạt động báo chí liên tục tại một tờ báo từ 3 năm trở lên và phải do Bộ 4T cấp thẻ. Điều này khiến nhiều phóng viên khốn đốn trong quá trình tác nghiệp vì chưa có thẻ nhà báo, khi các cơ quan chỉ tiếp nhà báo chứ không tiếp phóng viên… Rồi Bộ 4T thích thì phạt các tờ báo, tước thẻ báo chí của nhà báo. Thích thì dọa khi ra “đề án quy hoạch báo chí” để các chủ tờ báo chạy tiền cho Bộ 4T, trong khi Bộ này vẫn vô tư cấp phép cho tờ báo khác ra đời.
Báo chí hoạt động dựa trên những nền tảng, nguyên tắc về thông tin, chịu sự quản lý của luật pháp, vậy tại sao lại phải chịu sự quản lý vô lý của Bộ 4T, Ban Tuyên giáo Trung ương? Trong khi một tờ báo sống được là nhờ vào người dân. Vậy LUẬT PHÁP đứng ở đâu trong nền báo chí Việt Nam?
Rõ ràng, nền báo chí Việt Nam đang bị cai trị một cách sâu sắc. Mà những người bị cai trị này lại là bộ phận không nhỏ tầng lớp được xem là trí thức, họ đang có rất nhiều lợi thế trong việc tác động đến xã hội. Thế nhưng, họ lại chấp nhận sự cai trị này một cách ngoan ngoãn như những con cừu.
Nhiều người làm báo cho rằng họ đang cần mẫn, họ đang dũng cảm đấu tranh chống lại cái xấu, phơi bày những sự thật của xã hội trên mặt báo, không có họ thì nhiều người dân sẽ không biết được những sự thật này (?!) Và nếu họ đấu tranh cho quyền lợi hợp pháp của mình thì sẽ bị tước giấy phép hoạt động, bị thu thẻ nhà báo… lúc này họ sẽ chẳng làm được gì?
Tôi chỉ mong các bạn tìm hiểu lại nghĩa đúng nhất của cụm từ BÁO CHÍ. Các bạn “dám” đấu tranh cho cái xấu, sự bất công của người dân, vậy tại sao các bạn không dám đấu tranh cho quyền lợi của mình? Quyền tự do báo chí của mình, để chấm dứt những vô lý trong quy định về hoạt động báo chí? Các bạn có dám đấu tranh để tờ báo, nhà cầm quyền cộng sản đưa thông tin chính xác về vụ Fomosa không? Có dám đấu tranh để chấm dứt sự cai trị vô lý không?…
Những quyền lợi, nghĩa vụ hợp pháp của các bạn mà các bạn không dám đòi, chưa đòi được thì các bạn đòi được cho ai? Các bạn có thấy mình đang tự lừa dối mình không? Nếu sự đấu tranh của các bạn không phải vì cái nghề mà mình đang mưu sinh thì các bạn dám đấu tranh không?
Rõ ràng, những người làm báo trong nền báo chí cai trị Việt Nam đã bị nhà cầm quyền cộng sản “đánh” què tư duy, làm thui chột ý chí chiến đấu.
Nền báo chí của nước Việt đã và đang là nền báo chí KHUYẾT TẬT kể cả về mặt thông tin, lẫn con người làm báo.
L.M.
Nguồn: http://www.ijavn.org/2017/04/vntb-nen-bao-chi-khuyet-tat-viet-nam.html
Kẻ gieo rắc sợ hãi cũng biết sợ hãi
Kẻ gieo rắc sợ hãi cũng biết sợ hãi
Vũ Đông Hà (Danlambao) – Ngày 4 tháng 6 năm 1989, quảng trường Thiên An Môn nhuộm máu. Quân đội và xe tăng được lệnh của lãnh đạo đảng CSTQ xả súng vào quần chúng. Trong suốt gần 7 tuần lễ trước đó, bắt đầu từ 15 tháng 4, nửa triệu người dân Trung Hoa, phần lớn là sinh viên, đã vượt qua sợ hãi để làm người tự do đúng nghĩa tại quảng trường có hình chân dung vĩ đại của Mao. Cả ngàn thanh niên thiếu nữ đã chết. Họ đã thắng nỗi sợ hãi nhưng bị dẹp tan trong máu và nước mắt vì một điều đơn giản: họ đã đẩy một guồng máy cai trị tàn ác vào vị trí đường cùng khi thiểu số lãnh đạo và tập đoàn thừa hành của guồng máy ấy chưa biết sợ; vẫn còn những cái đầu điên cuồng tuân lệnh và những ngón tay chưa biết run bấm vào cò súng.
Cuộc cách mạng của sợ hãi không chỉ là một cuộc cách mạng một chiều: làm người dân hết sợ. Nó còn cần được thực hiện theo một tiến trình khôn ngoan, có lượng giá để từng bước: làm cho độc tài bắt đầu biết lo; chùn bước chùng tay; hãi sợ; và cuối cùng là đầu hàng.
Cách mạng chỉ nên được đẩy đến giai đoạn dứt điểm để thành công khi “cán cân sợ hãi” bắt đầu nghiêng về phía độc tài. Nếu không sẽ có nhiều xác suất dẫn đến một cuộc tắm máu vì vũ khí đang nằm trong tay kẻ thống trị. Ngay cả khi buộc phải có “sự thương lượng” với tập đoàn độc tài, cán cân sức mạnh giữa quần chúng và guồng máy lúc đó phải được tương đối cân bằng thì những đòi hỏi chính đáng và lâu dài của nhân dân mới có thể được đáp ứng. Nếu không thì “sự thương lượng” sẽ mở cho độc tài một giải pháp thoát hiểm và công cuộc đấu tranh bị rơi vào một trò chơi chính trị.
*
Câu chuyện của một cô gái xuất khẩu lao động một cán bộ công an phường
Hồng Lĩnh là một sinh viên ở một tỉnh miền Tây. Trong khi bạn bè rủ nhau trở thành cô dâu Đài Loan thì Hồng Lĩnh làm đơn xin đi lao động hợp tác. Cán bộ phường là một gã côn đồ, hống hách, xem dân như cỏ rác. Hồng Lĩnh cũng không thoát khỏi hoàn cảnh đó, vừa sợ hãi, vừa căm giận, vừa phải nhịn nhục khi đến xin chữ ký. “Cuối cùng em nghiệm ra rằng em là nô lệ cho sự sợ hãi của chính em và từ đó danh dự, nhân phẩm của em đã trở thành nô lệ cho chúng nó “ – Hồng Lĩnh tâm sự.
3 năm sau, Hồng Lĩnh về nước. Những cảm nhận ở nước ngoài làm em có một nhận thức mới về chính mình. Ngày lên phường để khai báo, cũng tên cán bộ phường đó, cũng thái độ hống hách, coi thường người dân. “Em đã đứng thẳng dậy, nhìn thẳng vào mắt nó và rất nghiêm trang nhưng rất dữ, “quạt” nó cả 10 phút không ngừng nghĩ. Anh biết gì không? Mặt mày nó tái mét, khi em dừng nói nó bối rối dữ lắm, không biết phản ứng ra sao. Cuối cùng nó lí nhí xin lỗi và bỏ tuốt vào bên trong. Từ đó đến nay, thái độ của nó đối với em khác hẳn. Em ngộ ra một điều là qua nhiều năm, tụi em vì thời thế đã tự tạo cho mình khả năng tự vệ khi bị làm khó làm dễ; ngược lại có kẻ quen tấn công người khác thì không có khả năng phản ứng khi bị tấn công vì chưa có kinh nghiệm bao giờ. Tụi nó chỉ biết núp bóng bộ đồng phục ở trên người và cái bóng của hệ thống…”
Nỗi sợ hãi của kẻ bị tách riêng để tấn công
Không riêng gì đảng CSVN, những cá nhân cầm quyền và thuộc hạ của các nước độc tài khác đều núp bóng cơ chế để vừa trốn tránh trách nhiệm vừa mang cảm giác an toàn. Những tấn công vào cơ chế không làm cho cá nhân trong tập đoàn cai trị lo sợ nhiều mà đôi khi lại gia tăng cảm giác an toàn của họ khi chúng ta vô tình kết họ vào một khối.
Viễn ảnh về ngày tàn của chế độ không phải không có trong đầu của một bộ trưởng hay bí thư tỉnh ủy hoặc một tên công an côn đồ. Hình ảnh của Muammar Gaddafi bị lôi ra khỏi ống cống và bị giết không phải không ẩn hiện trong đầu của họ. Nhưng trong viễn ảnh nhiều ác mộng đó, họ tự nhủ rằng, cùng lắm thì cả một thể chế sụp đổ, một vài “đồng chí” cao cấp nhất sẽ bị đem ra xử còn “ta” sẽ hạ cánh an toàn. Từ đó, họ “yên tâm” tiếp tục thủ ác trong khung cảnh toàn cơ chế, hệ thống bị tấn công.
Không ai có thể phản biện được với khuynh hướng lên án toàn bộ, không để sót kẻ gây ra tội ác vì đó là phán xét hợp lý và mang tính công bằng, phù hợp với chuẩn mực của công lý. Tuy nhiên, trong tiến trình tranh đấu, đôi khi cảm xúc, công bằng và công lý đành phải nhường chỗ cho nhu cầu thực tiễn của mục tiêu xóa bỏ độc tài: hiệu quả đạt được. Sẽ không mang lại nhiều hiệu quả mong đợi khi tấn công cả hệ thống tham nhũng, cả tập đoàn công an còn đảng còn mình là ác ôn, trong khi mỗi cá nhân trong tập thể xấu xa đó không có cảm giác cá nhân mình đang bị tấn công. Đối với những kẻ gieo ác, khi một tên sợ hãi sẽ dẫn đến tâm lý sợ hãi của đồng bọn. Bệnh sợ hãi là bệnh hay lây cho dù chúng là những kẻ nắm quyền. Ngược lại, khi lực chúng ta còn mỏng và còn yếu, tập trung tấn công vào một điểm vẫn mang lại nhiều kết quả hơn là tấn công cả một tảng núi.
Khi bắt đầu bằng những kế hoạch, việc nhắm vào một cá nhân, một thành phần đang bị oán ghét nhất trong bộ máy cai trị sẽ có khả năng làm nhiều người tham gia hơn. Nó sẽ tạo ảnh hưởng đến cá nhân kẻ thủ ác. Nỗi sợ hãi sẽ lây lan, ảnh hưởng và làm suy yếu guồng máy. Khi gió bắt đầu xoay chiều, chính những người phục vụ trong guồng máy sẽ xé rào và chạy về phía nhân dân – đó là trường hợp của một số đại sứ, bộ trưởng của chế độ Gaddafi trong thời điểm quyết định của cuộc cách mạng tại Lybia.
Đánh vào những tên cai ngục, nhà tù sẽ đổ.
25.04.2017
Mẹ chết 107 ngày vẫn sinh được con.
Một người mẹ dũng cảm đến từ Bồ Đào Nha quyết định giữ lại đứa trẻ trong bụng dù biết gặp nguy hiểm. Khi cô qua đời 107 ngày, đứa trẻ được sinh ra ở trạng thái khỏe mạnh.
Dù biết trước gặp nguy hiểm nhưng Sandra Pedro quyết định không phá thai mà giữ lại đứa trẻ trong bụng mình.
Vào tháng 2/2016, một cơn chảy máu não đã khiến Sandra trên bờ vực cái chết ở trong phòng chăm sóc đặc biệt Vào thời điểm đó Sandra đã biết giới tính con mình là nam nhưng không thể tiếp tục xem bụng mình phát triển như thế nào. Ngày 20/2, Sandra qua đời. Nhưng cái chết này mở ra những điều chưa bao giờ xảy đến ở Bồ Đào Nha và có lẽ là rất hiếm trên thế giới. Khi người phụ nữ 37 tuổi qua đời, các bác sĩ đã siêu âm và phát hiện dấu hiệu sự sống của đứa bé trong bụng cô là rất tốt. Trái tim của đứa bé mạnh mẽ và đập bình thường.
Người mẹ đã qua đời nhưng dấu hiệu sự sống của đứa bé trong bụng cô là rất tốt.
Quá ngạc nhiên trước hiện tượng này, các bác sĩ đã gửi kết quả xét nghiệm tới Ủy ban đạo đức Bệnh viện St. Joseph ở Lisbon. Ủy ban này cùng với gia đình Sandra và gia đình Michael Angelo Faria (cha của đứa trẻ) đồng ý tiếp tục để cô mang thai nhằm đảm bảo khả năng sống sót của thai nhi.
Đứa trẻ được đặt tên là Lourenço Salvado.
Cơ thể Sandra từ đó được hoạt động bằng máy móc. Đó là khoảng thời gian đáng buồn cho mọi người trong gia đình cô nhưng họ phải mạnh mẽ. Mặc dù Sandra không còn chức năng não và được tuyên bố lâm sàng là đã chết nhưng vẫn còn sự sống phát triển trong cô. Sandra trở thành một vườn ươm sống. Một đội ngũ hơn 80 người đã làm việc ngày đêm để giữ cho cơ thể mẹ hoạt động và duy trì tuần hoàn tử cung.
Em bé trong bụng Sandra được sinh ra ở tuần thứ 32 thai kỳ.
107 ngày sau đó, phép màu đã xảy ra: em bé trong bụng Sandra được sinh ra ở tuần thứ 32 thai kỳ. Đây là tình huống mà không bác sĩ nào tại đó từng gặp phải và rất nhiều người dã khóc. Sau đó, các máy móc được tắt đi, cơ thể mẹ được giao cho gia đình còn em bé thì có sức khỏe hoàn hảo.
Điều thần kỳ xảy ra khi 107 ngày sau cái chết, Sandra vẫn sinh được con.
Sandra là một người mẹ can đảm, từ cái chết của cô, một cuộc sống mới được sinh ra. Lourenço Salvado chính là tên được mọi người đặt cho em bé mà Sandra sinh ra 107 ngày sau khi chết.
nói ” Thượng tôn pháp luật” là xúc phạm ĐCS.
From facebook: Trần Bang shared Manh Dang‘s post.
Có thẩm phán, kiểm sát viên nào không phải là đảng viên đảng cộng sản VN?
Đảng CS nắm cả ba quyền, gọi là “đảng thống nhất lãnh đạo”.
Ông Chung là 1/200 ủy viên BCH trung ương đảng, cơ quan lãnh đạo cao nhất của ĐCSVN giữa hai kỳ Đại hội đảng.
Ông Chung được BCH phân công là Chủ tịch TPHN, và vụ này ông được phân công giải quyết, thương lượng với Dân Đồng Tâm. Nên Toà án, VKS, Công an điều tra HN thực tế đều là cấp dưới (về mặt đảng) của ông Chung, nên họ đều phải chấp hành ông Chung.
Điều 4, Hiến pháp 2013: ” ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo nhà nước và XH”.
Đảng cộng sản đẻ ra pháp luật, luôn đứng trên pháp luật. Pháp luật chỉ là công cụ của đảng, nên nói ” Thượng tôn pháp luật” là xúc phạm ĐCS.
Tết đến vẫn có khẩu hiệu ” Mừng đảng mừng xuân”,
Không có ” Mừng nhà nước, mừng nhân dân VN” đâu?
Nên nói “Đồng Tâm Vô Pháp” không sai, nhưng chưa đủ!
Vì VN vô pháp từ khi đảng cướp chính quyền năm 1945!
Hậu đồng tâm trong bóng đêm & rắn rết
Hậu đồng tâm trong bóng đêm & rắn rết
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến (Danlambao) – Sẽ còn nhiều lươn lẹo, mưu mẹo ở Đồng Tâm. – G.S. Tương Lai
Ngay sau biến động Đồng Tâm, vài trang mạng (Đàn Chim Việt, Vấn Đề…) đã đăng lại “Báo Cáo Về Vụ Nổi Dậy Ở Thái Bình” của G.S. Tương Lai – khi ông còn đảm nhiệm chức vụ Viện Trưởng Viện Xã Hội Học Việt Nam. Đây là một tập tài liệu khả tín, khách quan – dài 53 trang – với phần kết luận hơi (bị) lạc quan:
“Sự kiện Thái Bình, nếu với cái nhìn tỉnh táo, sẽ là một cơ hội để chúng ta có thể nhìn rõ thực trạng chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa của nông thôn nước ta, do vậy mà có những chủ trương đúng sách lược đúng, đưa nông nghiệp và nông thôn đi vào sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa.”
Hai mươi năm sau, trong một cuộc phỏng vấn dành cho Khánh An (VOA) vào hôm 17 tháng 4 năm 2017, G.S. Tương Lai – tiếc thay – đã còn giữ được sự lạc quan và niềm hy vọng (“có những chủ trương đúng sách lược đúng“) như hai thập niên trước nữa. Ông buông thõng: “Sẽ còn nhiều ‘lươn lẹo,’ ‘mưu mẹo’ ở Đồng Tâm.”
Mọi sự “lươn lẹo, cũng như “mưu mẹo” sắp tới – tất nhiên – không đến từ phía những người nông dân Việt Nam chân chất. Nỗi bi quan của G.S. Tương Lai khiến tôi chợt nhớ đến lời tuyên bố của ông, đúng hai năm trước – vào hôm 29/04/2015 – khi trả lời Thụy Mi ( RFI ) về một câu hỏi có liên quan đến vấn đề thời cuộc:
“Chúng tôi khẳng định rằng khả năng tốt nhất, có ý nghĩa lớn nhất là tự những người lãnh đạo trong giới cầm quyền hiện nay tự chuyển biến, để họ biết đặt lợi ích của Tổ quốc, lợi ích của dân tộc lên trên hết. Từ sự chuyển biến đó, dần dần từng bước thay đổi thể chế chính trị, thay đổi cơ cấu kinh tế, thay đổi vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Nếu làm được như thế, họ sẽ lấy lại uy tín.”
Làm thế nào để người dân Việt có thể đặt lại niềm tin vào “giới cầm quyền mưu mẹo” và “lươn lẹo” (rõ ràng) là một nan đề, nhất là riêng với nông dân – giới người vừa lên tiếng kêu than rằng “chúng tôi đã bị lừa quá nhiều rồi.”
Giữa tình cảnh hoang mang, căng thẳng, và lo sợ của hàng vạn con dân chân lấm tay bùn này – tuyệt nhiên – không thấy một vị “lãnh đạo cấp cao” nào “vào cuộc” cả. Chủ Tịch Nước, Chủ Tịch Quốc Hội, Thủ Tướng… đều câm như hến!
Kẻ lên tiếng, mỉa mai thay, chỉ là một thường dân – theo tường thuật của Viễn Đông (VOA) nghe được vào hôm 19 tháng 4 năm 2017:
“Người nông dân nổi dậy” ở Hải Phòng, từng đứng lên chống lực lượng thu hồi đất, cho biết rằng ông “sẵn sàng đứng ra làm trung gian” giữa người dân xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, với chính quyền nhằm giúp làm hạ nhiệt căng thẳng hiện nay…
Người nông dân, từng được hàng xóm láng giềng và người thân ở Hải Phòng đón chào như người hùng sau khi được đặc xá trở về, nhận định tiếp:
“Theo ý kiến cá nhân tôi, chính phủ phải vào cuộc, phải thành lập đoàn thanh tra để làm rõ. Chính phủ phải có kết luận rõ ràng, công bố công khai và xử lý tất cả các quan chức từ xã, huyện, thậm chí cả thành phố Hà Nội. Nếu có dấu hiệu sai phạm phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Sau đó, phải thả khẩn cấp những người mà chính quyền bắt. Cái sai về chính quyền phải xử lý trước”.
Tôi vô cùng trân trọng thiện ý, cũng như thiện chí, của kỹ sư Đoàn Văn Vươn; tuy thế, vẫn không khỏi cảm thấy ái ngại khi đọc lại những sự kiện đã xảy ra tại quê hương ông – theo tường trình của Gia Minh (RFA) vào hôm 2 tháng 10 năm 2012:
“Tin cho biết cuộc làm việc của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại Hải Phòng bắt đầu từ lúc 2 giờ chiều, và đến 5 giờ Chủ nhiệm văn phòng chính phủ Vũ Đức Đam có cuộc họp báo thông tin về kết luận của Thủ tướng tại Trung tâm hội nghị quốc tế.
Theo ông Vũ Đức Đam thì Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kết luận hai quyết định giao đất QĐ447 và QĐ220 của huyện Tiên Lãng đều không đúng pháp luật.
Đến hai quyết định thu hồi 460 và 461 cũng trái pháp luật. Vì quyết định thu hồi không đúng nên việc cưỡng chế cũng không đúng.
Còn về việc hủy hoại tài sản của gia đình ông Đoàn Văn Vươn, thủ tướng yêu cầu xử lý theo đúng qui định của pháp luật.”
Dù Thủ Tướng “kết luận rõ ràng” như trên nhưng rồi anh em ông Đoàn Văn Vươn vẫn cứ phải đi tù, còn người chỉ huy vụ “trận đánh đẹp” (phá hủy nhà cửa của nạn nhân) Đại Tá Đỗ Hữu Ca – Giám Đốc Công An Hải Phòng thì được thăng cấp!
Ông Đỗ Hữu Ca – Giám đốc CA TP HP được thăng hàm Thiếu tướng.
Ảnh & thú thích: báo Pháp Luật
Dù vậy, xét cho cùng, qúi ông Đoàn Văn Vươn và Đoàn Văn Qúi vẫn còn được coi là những người may mắn vì đã được công luận biết đến tên tuổi nên không thể tự nhiên mà “mất hút” trong hệ thống lao tù được.
Rất nhiều người dân Việt đã không có được sự “may mắn” tương tự:
“Cách đây chừng một thập kỷ đã xảy ra vụ nổi loạn của nông dân Thái Bình. Những người dân cày đói ăn biểu tình yêu cầu bọn quan chức địa phương hoàn lại những món tiền bị cưỡng đoạt trái phép. Cuộc khởi loạn thoạt tiên xảy ra trên bảy huyện trong tỉnh, trước hết là Quỳnh Phụ, sau đó lan ra các tỉnh lân cận như Hải Hưng, Vĩnh Phú, Quảng Ninh…
Phóng viên nước ngoài rầm rộ đổ đến Hà Nội… Họ đón tiếp niềm nở, nụ cười thường trực gắn trên môi: trà ngon, gà vườn, quà tặng rẻ tiền nhưng lạ mắt… Kèm theo đó là sự hứa hẹn mềm mỏng: ‘chúng tôi sẽ để các ông các bà xuống tỉnh Thái Bình trong thời gian ngắn nhất, với điều kiện đảm bảo được sự an toàn của quý vị’.
Sự trì hoãn đó có hiệu lực. Một tuần, hai tuần, ba tuần trôi qua. Các ông tây bà đầm không còn đủ kiên nhẫn để chờ đợi. Quỹ thời gian có hạn. Hà Nội chỉ là một quán trọ xoàng. Hành tinh mênh mông còn có biết bao nơi chốn mời gọi… Họ lần lượt ra đi.
Khi phóng viên nước ngoài cuối cùng lên máy bay và các ống kính đã chĩa về hướng khác là lúc cuộc đàn áp bắt đầu. Trong một đêm, hàng nghìn cựu chiến binh đã bị bắt…
Cuộc vây bắt diễn ra êm nhẹ. Hoàn toàn trong bóng đêm. Sót lại là tiếng kêu khóc của đám dân quê đói khổ, thất học, thân nhân của những người bị cùm trói và tống vào xe thùng sắt.
Các cựu chiến binh Thái Bình, những người đã hiến dâng toàn bộ tuổi thanh xuân trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, những thương bệnh binh nạn nhân của chất độc da cam, những người thường được ca ngợi véo von là anh hùng cứu nước. Họ sẽ được đảng Cộng sản thân yêu đối xử ra sao?
Họ bị phân tán vào khắp các trại tù, sống trà trộn giữa đám tội phạm thật sự. Ở đó, họ sẽ chết trong một thời gian rất ngắn bởi chính các bạn tù này. Bọn tội phạm được lệnh thủ tiêu họ. Đương nhiên, ‘lệnh mồm’ và ban bố một cách thì thầm đến tận từng cá nhân.
Đây chính là ‘phương thức châu Á’, nhóm danh từ tôi tạm mượn ông Karl Marx tôn kính ở phương Tây. Bọn tội phạm được hứa hẹn giảm án theo thành tích: giết một người án 20 năm giảm xuống 18 năm. Giết hai người, 18 năm còn lại 16… Cứ thế mà thực thi.
Khởi sự là các cuộc khiêu khích, gây hấn. Sau đấy là cuộc tàn sát bằng các hình thức khác biệt, trong đó một hình thức đặc biệt hiệu nghiệm và rất ấn tượng: giết người bằng đũa ăn. Người châu Á ăn cơm bằng đũa. Dụng cụ ẩm thực biến thành vũ khí sát nhân là sự ứng biến tuyệt vời.
Người ta vót những chiếc đũa bằng gốc tre đực, thứ tre cứng như sắt, một đầu đũa được chuốt nhọn như kim đan. Khi các cựu chiến binh Thái Bình đang ngủ, bọn tội phạm bất thình lình đóng chiếc đũa này vào lỗ tai của họ. Với độ dài 25cm, đũa xuyên suốt từ tai nọ sang tai kia. Nạn nhân chết tức khắc không kịp bật một tiếng kêu.
Như thế, trong bóng đêm và trong sự im lặng, những người cầm đầu cuộc biểu tình của dân cày Thái Bình đã chết theo kiểu ấy.” (Dương Thu Hương – “Bóng Đêm Rắn Rết & Nước Mắt.” Paris, tháng 4/2007).
Mai hậu, liệu có cách nào để tránh cho những người dân cầy ở Đồng Tâm khỏi phải “chết theo kiểu ấy,” trong “bóng đêm” đang bao phủ Việt Nam không?
24/4/2017
Học chữ để làm gì?
Học chữ để làm gì?
Tạp ghi Huy Phương
Chưa bao giờ cái học trở nên vất vả cho nhiều học sinh như ở Việt Nam ngày nay. Phải đi bộ mất cả nửa ngày đường mới đến được trường để học “cái chữ,” các học sinh ở các vùng cao nguyên của Bình Định vẫn phải đến trường.
Ai cũng mủi lòng khi trời trở lạnh, mà thấy các em đến trường mong manh trong chiếc áo mỏng, chân đất không giày dép, đầy bùn đất, đỏ ửng. Trường thì bốn bề gió lộng, không có vách che chắn. Phần ăn trưa mang theo chỉ có nắm cơm với muối.
Đến trường, học sinh phải tự đu dây kéo bè, ghe tự vượt sông đến trường và về đến nhà khi trời đã tối mịt. Trong một trường hợp “bi thảm,” 19 em học sinh trong 57 em học sinh trường Lãng Khê, Nghệ An, phần lớn là gái, chết không tìm được xác, trong buổi sáng mùa mưa năm 2007, nước sông chảy xiết, thuyền nhỏ, chở nặng chết máy, bị sóng đánh chìm.
Cha mẹ như vậy, ai không khỏi xót xa chạnh lòng vì thương con, không cho con đến trường thì ngu dốt, mà cho con đi học, mạng treo sợi tóc, khốn khổ trăm bề, trong khi việc đồng áng không ai làm phụ, cơm ngày hai bữa không đủ ăn, tiền trường không đóng đủ, không áo quần cho con trẻ, lấy gì ăn để cho các con đi học.
Kỳ Anh là một trong những địa phương chịu thiệt hại nặng nề do thảm họa cá chết và đổ chất thải do công ty Formosa gây ra, cả nghìn học sinh tại địa phương này không đến trường trong năm học mới. Các phụ huynh cho biết nguyên do là họ không đủ tiền đóng học phí cho con. Mức học phí cho mỗi em là 1.7 triệu đồng, chính quyền cho giảm miễn 400,000 đồng, nhưng lấy đâu ra 1.3 triệu đồng để đóng cho con em, vì ngư dân không kiếm ra tiền, ngay hạt muối làm ra cũng không bán được.
Ở những nơi khác thì không thiếu những tệ nạn vô đạo đức của các giới chức trong ngành giáo dục, từ giáo viên đổi điểm lấy tính dục, hiệu trưởng khai gian, lạm thu nhiều khoản ngoài quy định của học sinh nghèo, cắt xén tiền ăn trưa của học sinh…
Trong tình trạng khó khăn của đời sống và hoàn cảnh xã hội như thế, nhiều phụ huynh học sinh nản chí, không muốn cho con đến trường để kiếm “cái chữ” như cách nói của người thiểu số vùng cao.
Vào thời buổi này, học chữ để làm gì?
Hơn 200,000 cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp đang được Bộ Lao Động xây dựng đề án xuất khẩu lao động kiếm việc làm ở nước ngoài.
Hàng chục nghìn thanh niên cần có tiếng Triều Tiên, tiếng Nhật, tiếng Anh… để xuất ngoại kiếm việc làm, liệu có cần học tiếng Việt?
Quyền cao chức trọng trong xã hội này, chỉ cần lươn lẹo, luồn lọt, mềm lưng, phe đảng, hiến vợ, đâu cần đến kiến thức chuyên môn hay văn bằng thích hợp. Hoạn lợn như Đỗ Mười, bẻ ghi đường ray như Lê Duẫn gặp thời cũng là bậc Đế Vương, học luật trong rừng, đọc một tiếng Anh cơ bản “Made” chưa xong, cũng làm được Tể Tướng.
Thời nay có nên dạy con chữ trung tín, thật thà, để con chết đói không, hay nên dạy con mánh mung, luồn lọt!
Thời buổi sản sinh ra nhiều bí thư, chủ tịch, đại gia, thì đàn bà con gái, Trời cho có cái nọ, chẳng cần có thêm “cái chữ” làm gì!
Ở xứ “địa linh nhân kiệt” như đất Thanh Hóa, cô Trần Quỳnh Anh xuất thân chỉ là nhân viên tạp vụ (lao công tạp dịch) của liên đoàn lao động tỉnh, học vấn cỡ lớp Ba trường làng, nhờ nghệ thuật “lên giường” cũng được bí thư tỉnh ủy bổ nhiệm làm trưởng phòng nhà và bất động sản Sở Xây Dựng Thanh Hóa, một chức vụ dành cho những ứng viên có bằng đại học, tài sản không dưới triệu đô la. Nhờ thân xác Quỳnh Anh lại được ưu ái học thạc sĩ “tại chức,” được cử đi học lớp cao cấp lý luận chính trị để “làm hạt giống đỏ,” “cán bộ nguồn” và sắp sẵn vào vị trí phó rồi giám đốc Sở Xây Dựng Thanh Hóa nay mai, mà chẳng thấy đảng nói gì.
Ngay một tờ báo mang tên là Giáo Dục Việt Nam cũng công nhận: “Dù là do gì đi nữa thì phải thấy rằng, từ khi vòng 1 của các kiều nữ Việt căng tròn và đẫy đà hơn thì tên tuổi của họ cũng lên như ‘diều gặp gió.’ Một nhân vật ‘lừng danh’ của Việt Nam là Ngọc Trinh, xuất thân từ thị trấn Tiểu Cầu, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nghèo, học hành dở dang, nhưng nhờ cao 1m72, nhờ vòng số 1, số 3 phổng phao, eo thon, da trắng cũng trở thành “Nữ Hoàng Nội Y,” “Hoa Hậu Trang Sức,” “Người Đẹp Ăn Ảnh,” “ Siêu Mẫu Việt Nam.” Dù thiên hạ có ganh ghét gọi cô là” “chân dài não ngắn” hay “hoa hậu ao làng” gì gì đi nữa, giờ đây Ngọc Trinh cũng là chủ nhân khối tài sản hàng trăm tỷ đồng, nghĩa là có trong tay hằng triệu đô la, có đủ mọi thứ mà mỗi cô thiếu nữ Việt Nam lớn lên đều mơ ước.
Có nhan sắc như hoa hậu Lưu Thị Diễm Hương, thì dù trong thời gian ở Đại Học Hoa Sen, học hành quá tệ, bị 7 môn thi với điểm 0 và nhiều điểm 3, bị báo chí “lắm chuyện, ganh tỵ” phanh phui ra, thì cũng có sao đâu? Hoa hậu Thùy Dung chưa tốt nghiệp phổ thông, làm học bạ giả, cũng có sao đâu? Cái dốt không làm cho vòng eo con gái lớn ra, cũng không làm cho vòng ngực nhỏ lại kia mà.
Học chữ để làm gì, rốt cuộc sinh viên cũng… lên giường!
Các cụ ta ngày xưa vẫn khuyến học con cái bằng lời khuyên: “Ấu bất học, lão hà vi?” (nhỏ không học, lớn lên làm gì!). Ngày nay, dưới chế độ này, “Trí thức không bằng cục phân, chẳng bằng năm năm thẻ đảng!”
Xin các cụ đừng lo, ca dao thời đại lại có câu: “Học cho lắm tắm cũng ở truồng, học bình thường cũng cởi truồng rồi mới tắm!” Thời nay nghề ở truồng lại làm ra nhiều tiền hơn nghề mặc quần áo!
Số Báo Cuối Cùng – S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Số Báo Cuối Cùng – S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Tuongnangtien
Trong một thời gian không lâu nữa, chúng tôi sẽ phổ biến rộng rãi nguyên bộ Bách Khoa trong dạng điện tử để mọi người khắp nơi có thể đọc dễ dàng.
Diễn Đàn Thế Kỷ (ngày 2 tháng 4 năm 1917)
Với thời gian, trí nhớ của tôi mỗi lúc một thêm bạc bẽo. Tháng 11 năm 1989, Bức Tường Ô Nhục Bá Linh (“Wall of Shame”) sụp đổ. Qua năm sau, tạp chí Reader’s Digest (dường như là số tháng 5) có đăng một mẩu chuyện ngăn ngắn – liên quan đến biến cố này – mà tôi chỉ còn nhớ được loáng thoáng như sau:
Giữa đám đông đang hăm hở và hớn hở lũ lượt vượt rào đi từ Đông qua Tây là một ông già, dáng lầm lũi và đơn độc. Ông không dừng chân ở bất cứ quán bar nào, dù tất cả đều mở rộng cửa – và cung cấp rượu bia miễn phí – để chào đón những kẻ vừa đặt chân đến phần đất tự do.
Và trong khi mọi người đều náo nức xếp hàng chờ được lãnh tiền (gọi là “tiền chào mừng”, khá hậu hĩnh) do chính phủ Cộng Hoà Liên Bang Đức cấp phát thì ông già lặng lẽ tìm đến thư viện để gửi trả một cuốn sách mượn từ tháng Tám năm 1961, cùng với lời trần tình: Tôi chỉ định giữ tác phẩm này vài ngày thôi nhưng không ngờ bị kẹt ở bên kia bức tường tới hai mươi tám năm trời! Để trễ hạn lâu quá, tôi rất lấy làm tiếc và xin được thứ lỗi.
Câu xin lỗi vừa ghi khiến tôi lại nhớ (và cũng chỉ nhớ mang máng thôi) đến lời than thở của học giả Nguyễn Hiến Lê, trong một tác phẩm nào đó của ông: Thưở nhiễu nhương và loạn lạc thì ngay đến sách báo cũng phải chịu cảnh phong trần, lưu lạc!
Thời gian “lưu lạc” kéo dài gần ba mươi năm của một cuốn sách kể cũng khá dài nhưng so với số phận long đong của một tờ báo (tạp chí Bách Khoa, số cuối cùng – 426 – phát hành vào ngày 20 tháng 4 năm 1975) thì xem ra vẫn còn hơi ngắn, theo như “tin mừng” vừa được nhà văn Phạm Xuân Đài (chủ bút trang Diễn Đàn Thế Kỷ) hân hoan loan báo:
“Trong công cuộc sưu tầm những tài liệu cũ của miền Nam trước 1975, lâu nay chúng tôi đã hết sức cố gắng tìm kiếm bộ tạp chí Bách Khoa, một tờ báo đã đi gần suốt chiều dài 20 năm của Việt Nam Cộng Hòa. Và xin báo tin mừng với quý độc giả và bè bạn gần xa: cách đây mới hai ngày thôi, chúng tôi đã có được số Bách Khoa cuối cùng còn thiếu, đó là số phát hành 20 tháng 4 năm 1975. Trong một thời gian không lâu nữa, chúng tôi sẽ phổ biến rộng rãi nguyên bộ Bách Khoa trong dạng điện tử để mọi người khắp nơi có thể đọc dễ dàng.
Việc số báo Bách Khoa cuối cùng đến với chúng tôi vào những ngày cuối tháng Ba năm 2017 vừa rồi đã gây cho chúng tôi một xúc động mãnh liệt, vì đó chính là một trong những hình ảnh còn sót lại một cách cụ thể của một miền Nam đang hấp hối, cách đây 42 năm.”
Bìa Giai Phẩm Bách Khoa Số Cuối Cùng. Nguồn ảnh: Diễn Đàn Thế Kỷ
Chúng ta đang sống trong một thế thẳng băng, cùng với những phương tiện giao thông và truyền thông tân kỳ chưa từng thấy trong lịch sử. Cớ sao một số báo Bách Khoa (BK) lại phải “phong trần lưu lạc” đến gần nửa thế kỷ vậy cà?
Đây không phải là một câu hỏi khó nhưng cũng không dễ trả lời ngắn gọn nên tôi xin phép được thưa thêm năm điều/ba chuyện cho nó ngọn ngành:
Từ BK số 1 đến số 425, chắc chắn, đều được gửi đi và lưu giữ trong những thư viện ở Âu Mỹ nên việc sưu tập chả khó khăn gì. Nhưng với số báo cuối cùng, 426, phát hành 10 ngày trước khi miền Nam thất thủ thì số phận của nó lại hoàn toàn khác. Toà soạn BK – vào thời điểm này – chắc chẳng có ai còn lòng dạ nào để lo lắng đến chuyện phát hành, hay gửi báo đến cho độc giả (dài hạn) qua bưu điện nữa.
Giữa lúc “xẩy đàn tan nghé” thì tai họa chả bỏ sót ai, và cũng chả chừa một thứ gì ráo trọi:
“Bởi vì sách vở thời ấy, số phận nó như số phận người. Nó cũng phải trốn chạy, chui rúc, ẩn náu. Chúng cũng rơi vào cảnh mồ côi cha mẹ, cảnh lạc đàn, cảnh tan nát, cảnh tan hoang mất còn. Vận người dân miền Nam thế nào, vận chúng như thế…
Đài phát thanh thành phố ra lệnh phải thu nộp tất cả các sách vở, báo chí, phim ảnh, tài liệu in ấn trước ngày 30 tháng tư được coi là đồi trụy. Nhiều người tiếc rẻ đem bán kilô. Các gói xôi bán buổi sáng, nay có tên Nguyễn Thụy Long, Nhã Ca, Thanh Tâm Tuyền. Vừa ăn, vừa đọc kể cũng vui. Nhiều chỗ mang sách vở cũ ra đốt… Đứa may trốn thoát… Đứa yểu tử thì làm mồi cho cuộc phần thư. Đứa không may làm giấy gói sôi buổi sáng. Đứa bất hạnh làm giấy chùi đít. Đó là cuộc trốn chạy vô tiền khoáng hậu mà những kẻ đi truy lùng chỉ là các trẻ con lên 12, 13 tuổi. Các cháu ngoan bác Hồ. Họ xô những đứa trẻ con vô tội đó ra đường. Chúng quàng khăn đỏ hô hoán, reo hò như trong một vụ đi bắt trộm, hay đi bắt kẻ gian. Chúng lục soát tận tình, chúng đánh trống, chúng hát hò như một cuộc ra quân của một đoàn quân chiến thắng. Gia đình nào cũng sợ hãi cái quang cảnh đó nên kẻ mà phải hy sinh đầu tiên chính là sách vở.” (Nguyễn Văn Lục, “Sách cũ Miền Nam 1954 – 1975”).
Phần thư. Nguồn ảnh: thbl6869
Trong khi đám trẻ con quàng khăn đỏ hét hò đốt sách thì qúi vị trí thức, nhân sĩ, nhà văn, nhà báo cũng cần mẫn ghi chép và hoàn thành những “công trình biên khảo” để đưa bọn cầm bút (thuộc bên bại cuộc) ra … trước toà án dư luận:
- Nọc độc văn hóa nô dịch,Trần Trọng Đăng Đàn, gồm 2 cuốn:
Nọc độc văn hóa thực dân mới Mỹ, NXB TPHCM 1983
b. Lại bàn về nọc độc văn hóa thực dân mới Mỹ, NXB TPHCM 1987 - Văn hóa văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ ngụy (2 tập) nhiều tác giả, NXB Văn Hóa 1977
- Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa/ tư tưởng (2 tập) Nhiều tác giả, NXB Thông tin lý luận 1980
- Tiếp tục đấu tranh xóa bỏ tàn dư văn hóa thực dân mới,Hà Xuân Trường, NXB Sự Thật 1979
- Nhìn lại tư tưởng văn nghệ thời Mỹ ngụy, Lê Đình Kỵ, NXB TPHCM 1987
- Cuộc xâm lăng văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam VN, Lữ Phương, NXB Văn Hoá 1985
Đó là một “thời nông nỗi” đã qua chăng ? Không đâu, làm gì có chuyện đó! Cuộc “Cách Mạng Văn Hoá” chưa bao giờ ngưng nghỉ cả. Chủ trương “bài trừ văn hóa nô dịch, lai căng” là chính sách triệt để, xuyên suốt và nhất quán của Đảng Cộng Sản và Nhà Nước Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ qua mà.
Ngày 20 tháng 3 năm 2017 vừa qua, T.T (đương nhiệm) Nguyễn Xuân Phúc lại vừa ký Nghị Định 28/2017/NĐ-CP: “Phạt tiền từ 20-25 triệu đồng đối với hành vi tàng trữ, phổ biến trái phép bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu có nội dung đã quyết định cấm phổ biến hoặc quyết định thu hồi, tịch thu, tiêu hủy.”
Vậy bằng cách nào mà cuốn tạp chí BK, số cuối cùng (phát hành vào ngày 20 tháng 4 năm 1975) đã không bị ném vào mồi lửa, không trở thành giấy gói xôi, không bị thu hồi, tịch thu, tiêu hủy” và vẫn có thể xuất hiện “nguyên con” trên trang web của Tạp Chí Thế Kỷ 21 vào ngày 2 tháng 4 năm 2017 vừa qua? Đây là câu hỏi mà qúi vị lãnh đạo của chính phủ hiện hành … cần “suy ngẫm” để có thể ban hành những nghị quyết, hay nghị định đỡ ngớ ngẩn (và lạc hậu) hơn chút xíu.
Cuộc Đời Là Một Chuyến Đi
“Đời tôi là một chuyến đi, đi tìm hạnh phúc vô biên”.
Có lẽ mỗi người chúng ta cũng có cảm tưởng như bài ca ở trên: cảm thấy đời mình là một chuyến đi. Đi từ ngày này sang ngày khác, đi từ khát vọng này sang khát vọng khác. Chẳng lúc nào chúng ta không ước mơ, và không điều gì làm chúng ta thỏa mãn hoàn toàn. Trong những ước muốn nhỏ to đó, chúng ta đi tìm một hạnh phúc vô biên, ban đầu chúng ta không hiểu là Thiên Chúa. Như thế dù muốn hay không, suốt đời chúng ta đi tìm Thiên Chúa. Chúng ta có thể tìm Thiên Chúa bằng nhiều cách: Có người đi tìm Thiên Chúa qua việc đọc kinh, xưng tội, rước lễ, suy gẫm và nhiều cách khác nữa, nhưng thử hỏi họ đã gặp được Thiên Chúa chưa? Không phải một vị Thiên Chúa xa lạ mơ hồ, nhưng là một Thiên Chúa thân mật sống động, một Thiên Chúa tình yêu. Thử hỏi có cách nào tốt nhất để gặp được Thiên Chúa hay không? Để giải đáp cho câu hỏi này chúng ta thử nhìn lên ảnh Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên đồi Golgotha, nơi đó ta có thể nhìn thấy nhiều hạng người đến nhìn xem Chúa, nhưng họ không gặp được Ngài.
Hạng người thứ nhất đã không gặp được Chúa là những kẻ qua đường. Phúc Âm ghi lại rằng: “Có những kẻ qua đường thấy Chúa bị đóng đinh thì cười chê và nói: ông này có tiếng hay làm phép lạ, ông bảo: hãy phá đền thờ đi, và ông sẽ xây lại trong ba ngày, sao lúc này ông không tự cứu mình đi. Nghe thế Đức Giêsu làm thinh không trả lời gì và những kẻ qua đường chỉ nhìn thấy Chúa như là một kẻ đáng khinh, họ không nhận ra Ngài là một Thiên Chúa”. Tại sao vậy? Thưa vì họ nhẫn tâm. Gặp một người đang đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần mà họ không biết xót thương lại còn nỡ lòng chế nhạo. Thái độ nhẫn tâm này cản trở họ gặp được Thiên Chúa.
Hạng người thứ hai không gặp được Chúa là những tư tế và luật sĩ. Theo Phúc Âm, thì các trưởng tế và luật sĩ đã thách thức rằng: “Nếu ông là vua Israel thì hãy xuống khỏi thập giá đi rồi chúng ta sẽ tin”. Những người này đã không gặp được Chúa vì họ có ác tâm.
Và hạng người thứ ba không gặp được Chúa là những binh lính Roma thi hành án lệnh giết Chúa. Họ nhìn thấy Chúa như một tử tội và không gặp được Ngài như một vị Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế, vì họ có dã tâm. Đành rằng họ phải hành động theo lệnh của thượng cấp, nhưng họ đã đi quá giới hạn của mình. Không ai buộc họ phải khích bác Chúa, nhưng họ đã làm như thế vì mị dân và dã tâm. Thái độ này đã cản trở họ gặp Chúa.
Hạng người thứ tư đã không gặp được Chúa đó là người trộm bên tay tả Chúa Giêsu. Anh ta đã nói khích Chúa rằng: “Nếu ông là con Thiên Chúa thì hãy cứu mình đi và cứu tôi với”. Anh ta đã không gặp được Chúa vì anh ta có lòng tiểu tâm, ích kỷ.
Có một người đã gặp được Chúa, đó là anh trộm bị đóng đinh phía bên tay hữu Chúa Giêsu. Bí quyết giúp anh gặp được Chúa là chính tâm hồn biết thương người. Anh thấy bên cạnh mình có một người bị kết án oan nên lên tiếng bênh vực, cả khi đám đông gần đó hò reo lên án. Anh dám nói trong khi không một ai, dù các người thân tình nhất của Chúa cũng không dám hé môi nói nửa lời an ủi Chúa. Thấy anh có lòng thương người như vậy, Chúa Giêsu liền ban ơn và đáp lại rằng: “Hôm nay anh sẽ về Thiên đàng với Ta”. Thế là anh trộm lành đã gặp được Chúa.
Mùa chay mời gọi mọi người trở về với Thiên Chúa, trở về với chính cõi lòng thâm sâu của mình. Hãy nhìn lại thái độ sống của mình trong những tháng ngày qua, mình là ai trong bốn hạng người trên? Có thể xưa nay ta cũng đã thoải mái sống như họ? Nghĩa là nhìn thấy Chúa bên cạnh nhưng không gặp được Ngài. Mỗi khi ta đối xử tệ bạc với người khác, đó là lúc ta đối xử tệ bạc với Chúa, đó là lý do tại sao ta không gặp được Chúa.
***
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết thương người, vì đó là con đường dẫn chúng con đến gặp Chúa. Chúa đang chờ đợi chúng con đằng sau những con người đau khổ. Xin giúp chúng con yêu thương họ và gặp được Chúa nơi họ. Amen!
Ngọc Nga Sưu Tầm
Vượt biên, 87 người bị giết chết.
From facebook: Dominic Pham‘s post.

Vượt biên, 87 người bị giết chết.
Vì đâu nên nỗi.
Bà Nguyễn Thị Thương, 36 tuổi, tốt nghiệp Đại Học Hoa Kỳ, tu nghiệp tại Paris, Pháp. Trước 1975 Bà là Giáo Sư Đại Học Bách Khoa Thủ Đức. Bà Thương vượt biển cùng chồng là Giáo Sư Trần Quang Huy, Phân Khoa Trưởng Văn Khoa Đại Học Sài Gòn, cùng với Mẹ ruột, cậu, 2 em trai, 2 em dâu, 4 cháu gái và một con gái nhỏ 3 tuổi. Nhưng chỉ còn Bà, con gái nhỏ của bà, một người em trai của Bà và một em gái của chồng sống sót.
Ghe mang số SS0646 IA dài 13,5 m, chở 107 người khởi hành từ Rạch Giá ngày 01/12/1979. Ra khơi được 3 ngày, thuyền chạy về hướng Thái Lan, khi đã gần tới đất liền thì gặp bọn cướp biển vào ngày 03/12/1979. Hai tàu cướp Thái Lan cặp 2 bên hông thuyền tỵ nạn, bọn cướp đã ùa sang với súng và dao. Vì ghe thuyền Việt Nam quá chật hẹp, bọn hải tặc đã lùa 27 người sang tàu của chúng cho dễ lục soát vàng bạc của cải.
80 người còn lại bị khám xét cướp hết vàng bạc, vật quý. Sau đó bọn cướp buộc giây vào ghe Việt Nam vào đuôi tàu của chúng và kéo chạy. Chúng xả hết tốc lực, chạy lượn vòng qua lại làm ghe tỵ nạn nghiêng chìm như một trò chơi. Dân tỵ nạn la khóc, lạy van cho tới khi ghe chìm hẳn. Bọn cướp biển cắt giây nối và chạy bỏ mặc 80 người vùng vẫy tuyệt vọng, trong khi 27 người tỵ nạn trên tàu của chúng vật vã khóc ngất nhìn xuống biển chứng kiến người thân đang dãy dụa chết chìm.
Bọn hải tặc chạy thẳng về đảo sào huyệt KO KRA của chúng mang theo 27 người mà chúng đã tách đem lên thuyền chúng trước đó. Nhưng gần tới đảo, chúng xô đẩy tất cả đàn ông xuống biển, buộc họ bơi vào đảo. 7 người dàn ông này đều bị chết đuối vì không đủ sức bơi hoặc không biết bơi để có thể vào đến bờ, trong số này có Giáo Sư Trần Quang Huy. Còn lại 20 người sống sót sau cùng đã bị bọn cướp đưa lên đảo và lập tức chúng lại lục soát, sờ nắn khắp thân thể để tìm kiếm vật quý con cất giấu trong người. Bà BTD (xin viết tắt, giấu tên) 26 tuổi có con 4 tuổi, bị dẫn ngay vào bụi hãm hiếp mặc dù Bà đang mệt lả không đứng dậy nổi vì đói khát, kinh hoàng.
Sau đó, trong suốt 8 ngày liền bị giam giữ trên đảo, 20 thuyền nhân còn lại này đã bị quần thảo hành hạ bởi nhiều toán cướp biển khác nhau hàng ngày đổ bộ lên đảo. Các phụ nữ, cô gái phải chạy vào rừng hoặc leo lên hốc ẩn tránh. Nhưng vẫn không thoát khỏi tay bọn dâm tặc. Một lần Bà BTD quá mệt mỏi không còn sức chạy trốn nổi, đang nằm ngất ngư và được mọi người săn sóc thì bọn hải tặc lại ùa đến, đuổi tất cả mọi người chung quanh đi chỗ khác và 4 tên Thái man rợ luân phiên hãm hiếp tàn nhẫn ngay tại chỗ, khiến bà ta bị kiệt lực nằm im lìm không nhúc nhích được nữa.
Đến ngày thứ 3 trên đảo, một tàu Thái, bên hông có ghi chữ POLICE số 513 tới đảo. Bọn cướp rút lui, chạy tàu ra xa. Chiếc tàu Cảnh Sát neo sát bờ biển, họ chỉ nhìn vô bờ nhưng không lên đảo. Những người tỵ nạn Việt Nam mừng rỡ tưởng được cứu thoát, một thanh niên tỵ nạn bơi ra mang theo một lá thư cầu cứu bằng tiếng Anh để gởi cho giới chức Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc. Nhưng chưa bơi tới nơi đã bị tàu Cảnh Sát Thái nổ súng bắn xuống biển cảnh cáo. Anh ta hoảng hốt bơi quay trở vào bờ. Sau đó mọi người lại đề cử một thiếu niên 15 tuổi liều mình bơi ra cầu cứu lần nữa. Cậu này đã được Cảnh Sát cho lên tàu, nhưng chỉ cho vài gói mì và đuổi xuống biển ngay. Cuối cùng tàu Cảnh Sát này bỏ đi. Sau này mới biết họ đã không hề báo tin vào đất liền.
Ngay sau khi tàu Cảnh Sát bỏ đi bọn hải tặc lại lên đảo và tình trạng tồi tệ tiếp tục diễn ra. Đến ngày thứ 5, một tàu Hải Quân Thái Lan đi ngang qua đảo, nhóm người tỵ nạn chạy ra sát bờ vẫy gọi, làm hiệu và lần này chiếc tàu Hải Quân đã cho người lên đảo tiếp xúc và nhận bức thư nhờ chuyển về cho Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan. Ngày thứ tám, Ông SCHWEITZER Đại diện Liên Hiệp Quốc tại Thái Lan ra đón họ vào đất liền.
Không lâu sau đó Bà Nguyễn Thị Thương sinh thêm đứa con gái út trong trại tỵ nạn Song Khla và Bà sống tại đó với một đứa con gái 3 tuổi và người em trai của Bà và một em gái của Ông Trần Quang Huy. Lúc bắt đầu rời Việt Nam Bà Thương đã có thai gần 9 tháng, chính nhờ vậy trong những ngày trên đảo KO KRA, Bà đã không bị hải tặc hãm hiếp.
Bà Nguyễn Thị Thương kể lại câu chuyện trên rồi khóc lặng lẽ và nói : “Chồng tôi và tôi đã đoán trước những thảm cảnh có thể xảy ra trên biển. Nhưng chúng tôi vẫn chấp nhận ra đi vì chúng tôi đã nghĩ rằng, dù thế nào cũng ít tệ hại hơn là sống dưới chế độ Cộng sản. Nhưng những đau khổ tôi đang phải chịu đã vượt qua dự đoán của chúng tôi”.
st
Phần lớn hải tặc Thái xuất phát từ Phuket và phần lớn người dân Phuket theo đạo Hồi !!!
Gởi con ngục tù & Phố Dân Oan
Gởi con ngục tù
Bên biển vắng hôm nay
tóc trắng mẹ tung bay
lưng còng mẹ cúi xuống
mong manh tấm thân gầy
Trên đôi mi sầu đầy
nỗi buồn mẹ không khuây
nhớ con trong ngục tối
xót thân con tù đày
Nhớ mới ngày đâu đây
con thanh niên hăng say
đấu tranh cho đất nước
nay run rẩy hao gầy
Cai ngục đánh hằng ngày
chịu muôn ngàn đắng cay
vẫn không sờn chí khí
tấm lòng vẫn thẳng ngay
Uất khí mãi còn đây
sóng biển buồn theo mây
cuốn trôi ngày mộng đẹp
dẫu nhiệt huyết tràn đầy
Chắp tay mẹ kêu nài
Thượng Đế hãy lắng tai
nghe dân oan rên siết
thấu ước nguyện người ngay
Xin cho có một ngày
chim trắng đậu trên tay
thanh bình trên đất nước
lúa chín vàng rợn bay
Mẹ con được xum vầy
Tự Do về nơi đây
líu lo bài hát mới
trên môi em thơ ngây….
Trịnh Tây Ninh
—- —– —–
Phố Dân Oan
Tôi rộn rã trở về thăm quê ngoại
mong tìm về nơi chốn cũ vườn xưa
bên hiên nhà có bụi chuối đong đưa
có ao sen thời nhỏ thơ vụng dại
Tôi xuống máy bay, chân vui bước chạy
miệng cười tươi, ôm chào đón người thân
bao năm rồi không gặp tưởng phân vân
nhưng nghĩa cũ, tình xưa không ngần ngại
Rồi tôi nghĩ mình sẽ vui ở lại
hưởng những ngày thân ái, cảnh yêu thương
bất ngờ thay tôi thấy ở cuối đường
nước mắt rơi, khắc hẳn điều trong mộng
Em bé đói, người nghèo, xóm lao động
quá khổ đau nên gian dối dẫy đầy
khắp mọi nơi tiếng hờn oán không khuây
chán chế độ, chống bất công – muốn vùng dậy
Gió trưa hè, lung lay hàng lau sậy
tim não nề, đi phố chẳng thấy vui
nét ưu tư, còn đâu những nụ cười
không mua sắm, phố bán toàn gian dối
Nóng như thiêu, dẫu mặt trời mau tối
không thấy phố phường, mà là phố Dân Oan
vắng tiếng nhạc vàng, chỉ nghe tiếng oán than
người la liệt, chờ tới phiên khiếu kiện
Tôi cúi mặt, bây giờ đã hiểu chuyện
những vinh hoa, phú quý chỉ giả hình
chỉ riêng dành lãnh đạo Đảng quang vinh
còn dân đen, đành cúi đầu chịu khổ
Nuốt ưu tư, nỗi buồn như vỡ lỡ
thương dân mình, giận giả trá bất công
Ước một ngày, mẹ già hết ngóng trông
hết phố Dân Oan, người người cùng vui sống
Trong thanh bình, trong tự do no ấm
nguời rất hiền, máu đỏ thấm da thơm
để tình người cao hơn cả áo cơm
Hoa Dân Chủ nở khắp nơi tươi thắm
Tôi trở về hải ngoại ngày nắng ấm
nhưng lòng buồn, nên thấy lạnh trong tim
bao năm rồi tôi đã mãi lặng im
nay chợt hiểu, dân oan cần bênh vực
Tôi sẽ cố gắng góp phần thiết thực
cho người dân, cho đất nước điêu tàn
từ hôm nay, tôi bắt đầu hiên ngang
sẽ lên tiếng, biết vì người hơn trước…
Nguyễn Ngọc Duy Hân