Trung Quốc tràn lan thuyết âm mưu về COVID-19 và tình cảm chống Mỹ

(Ảnh chụp/video)

Theo Hãng Thông tấn Trung ương Đài Loan (CNA) đưa tin, trên mạng internet Trung Quốc Đại Lục gần đây xuất hiện lượng lớn thông tin liên quan đến “Mỹ che giấu các ca tử vong thực sự vì virus corona mới 2019”, “Mỹ cần học tập các biện pháp ứng phó của Trung Quốc”, “Nguy cơ toàn cầu tuyệt đối không phải là sai lầm của Trung Quốc”, v.v, trong một tuần qua các thuyết âm mưu và ngôn luận chống Mỹ tăng mạnh trên mạng tiếng Trung.

Tờ Washington Post đưa tin, ông Tiêu Cường, Giáo sư Học viện Thông tin Đại học California-Berkeley đồng thời cũng là người sáng lập Báo Thời Đại Số Trung Quốc (China Digital Times), khi phân tích những ngôn luận trên mạng bên trong Đại Lục cho thấy, từ WeChat, Weibo đến Baidu, đâu đâu cũng là thông tin giả hoặc tự nói của chính quyền, Chính phủ Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đang thông qua các kênh khác nhau để dày công sắp đặt các thuyết âm mưu, mục đích là để chuyển dịch chỉ trích. 

Bản tin chỉ ra, quan sát các trang mạng xã hội tại Trung Quốc trong thời gian gần đây, phương thức mà chính quyền mở rộng truyền thông mạng xã hội, kiểm duyệt tin tức, truyền thông thêu dệt, đều gây nghi ngờ, làm lý luận chống Mỹ ngày càng tăng mạnh. 

Hôm 27/2, trong tình huống không có bất cứ chứng cứ gì, nhưng chuyên gia nổi tiếng về virus của Trung Quốc là ông Chung Nam Sơn đã thông qua truyền thông nhà nước để nói rằng ‘viêm phổi Vũ Hán’ xuất hiện đầu tiên tại Trung Quốc, nhưng không nhất định là bắt nguồn từ Trung Quốc. Dù phát biểu này đã bị một chuyên gia khác là ông Trương Văn Hồng phản bác, nhưng những phát biểu của ông Trương Văn Hồng cũng nhanh chóng bị kiểm duyệt, còn cách nói của ông Chung Nam Sơn lại nhanh chóng lan truyền trên các kênh truyền thông. 

Trang nhất của truyền thông nhà nước Trung Quốc đăng bài viết nghi ngờ về vấn đề nguồn gốc virus, Mạng truyền hình Toàn cầu (CGTN) của Trung Quốc ở nước ngoài cũng đăng tải video nội dung phát biểu của ông Chung Nam Sơn lên YouTube; người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Triệu Lập Kiên cũng công khai trích dẫn phát biểu của ông Chung Nam Sơn; Tân Hoa Xã cũng đăng bài ám chỉ nguồn gốc virus là từ nơi khác, và yêu cầu quan chức và truyền thông Mỹ xin lỗi. 

Điều khoa trương nhất là có người cố ý đăng bài viết trên Weibo, nói quân đội Mỹ lợi dụng virus làm vũ khí sinh học bí mật để tiến hành bố trí trong chuyến đi Vũ Hán vào tháng 10 năm ngoái. 

Ông Dương Đại Lợi (Dali Yang), chuyên gia về vấn đề Trung Quốc thuộc Đại học Chicago chỉ ra, ở Trung Quốc, các bài đăng và những bài viết của Chính phủ đều giống nhau, khiến người dân sinh nghi ngờ về cách nói Trung Quốc là đầu sỏ tai họa gây dịch bệnh, mục đích là để giảm thiểu chú ý của thế giới bên ngoài đến việc Trung Quốc thất bại như thế nào trong ứng phó dịch bệnh và “chuyển dịch chỉ trích”.

Ông Bill Bishop, người phát hành trang báo điện tử “Người nước ngoài nhìn vào Trung Quốc” (Sinocism China Newsletter) chỉ ra, luận thuật “ĐCSTQ chí cao vô thượng” đang được thúc đẩy một cách có hệ thống và có hiệu quả. Sau phong trào biểu tình phản đối Dự luật Dẫn độ tại Hồng Kông, ĐCSTQ đã quyết định tăng cường tuyên truyền giáo dục yêu Đảng, tâng bốc thể chế chuyên chế ưu việt hơn hình thức dân chủ đầy hỗn loạn ở phương Tây.

Ông cho biết, mẹ vợ của ông vẫn luôn thúc giục ông vì an toàn của người nhà hãy rời Mỹ trở về Trung Quốc, bởi vì ĐCSTQ đã chiến thắng virus, còn Mỹ sắp rơi vào hỗn loạn.

Tuyết Mai

TIN BẬT RỄ ĐẢNG CỘNG SẢN NGA ĐỒNG Ý ĐỂ PUTIN ĐƯA THƯỢNG ĐẾ VÀO HIẾN PHÁP

Image may contain: one or more people
Paul Nguyễn Hoàng Đức is with Nguyễn Văn Quân and 29 others.

TIN BẬT RỄ ĐẢNG CỘNG SẢN NGA ĐỒNG Ý

ĐỂ PUTIN ĐƯA THƯỢNG ĐẾ VÀO HIẾN PHÁP

Paul Nguyễn Hoàng Đức

Theo BBC tiếng Việt, thì báo Nga đưa tin Đảng cộng sản Nga đã đồng ý để Tổng thống Putin đưa Thượng Đế vào hiến pháp (tôi định đưa tin cụ thể hơn nhưng bài bị xóa không lấy được tin). Đây thật là tin động trời, mà tôi gọi theo căn tính là “bật rễ”, đã bật rễ thì cây không sống được mà phải thay đổi hay trồng cây mới, bởi lẽ: đảng cộng sản Nga xưa nay vẫn được xem như theo chủ nghĩa duy vật (materialism), và vô thần (atheism), vậy mà giờ đây lại đưa Thượng Đế vào Hiến pháp thì thật kỳ lạ, đúng là “đổi trắng thay đen”?! Tại sao vậy? Nếu Thượng Đế không cần thiết thì làm sao một quốc gia lại phải đưa vào hiến pháp? Thực ra, Thượng Đế là đầu mối của mọi sự, mà không đưa Thượng Đế vào, mọi thứ đều không có khởi nguồn?! Nhưng chúng ta hãy mở to mắt quan sát, và nhìn kỹ đi, ngay cả những con tầu vũ trụ lên tận mặt trăng hay sao Hỏa, đâu cũng có thấy Thượng Đế mày ngang mũi dọc thế nào? Đúng thế! Nhưng chúng ta đâu cũng có nhìn thấy thời gian hay không gian diện mạo ra sao, nhưng chúng luôn tồn tại. Còn cái khởi đầu thuộc về Thượng Đế ư? Đó ít nhất là Lý Tưởng, mà thiếu lý tưởng con người sao ngưỡng vọng tới để làm những gì cao cả vĩ đại. Mà lý tưởng là gì? Theo gốc chữ Latin “Ideal” nó được mở rộng từ chữ Idea – tức Ý tưởng. Lý tưởng luôn luôn là ý tưởng để hướng đến, mà chưa bao giờ là hiện thực, bởi một khi ý tưởng trở thành hiện thực lập tức nó không còn là ý tưởng, cũng như lý tưởng nữa.

Việc quan niệm đến Thượng Đế như một khởi đầu của mọi sự, đã được nước Mỹ hùng cường, giầu mạnh và tiên tiến nhất thế giới quan niệm từ lâu, chính Tổng thống Donald Trump mới đây đã tuyên bố: Nước Mỹ hùng mạnh vì dân Mỹ tin tưởng vào Thiên Chúa! Trên đồng đô la của Mỹ trong nhiều thế kỷ đã ghi hàng chữ “In God we trust” – có nghĩa “Chúng ta tin cậy trong Chúa”. Vậy Chúa là gì? Trước hết giá trị của đồng tiền là gì? Giá trị của tiền là ý niệm, cao hay thấp đều do con người ý niệm cho nó, chứ nó không có trọng lượng như vàng, và để đảm bảo giá trị cho tiền, người ta còn phải dùng vàng làm bảo đảm. Và Chúa cũng là một ý niệm, nhưng là ý niệm tuyệt đối để người ta khởi nguồn mọi sự.

Nhân gian nói một câu không cãi được “Vật nhờ tâm mà thông, tâm nhờ vật mà hiện”. Một cây đàn là thân xác nếu không có bầu đàn để vang tiếng của âm thanh thì chỉ là cục gỗ vô tích sự! Một thân xác mà không có linh hồn cũng vậy, nó sẽ chết ngay tức thì chỉ còn là khúc thịt ôi! Mà linh hồn là gì? Nó lại là cái “không gì cả” giống như Thiên Chúa “không thấy gì cả”.

Người Mỹ ghi trên đồng tiền “Chúng ta tin cậy trong Chúa”, tin cậy là gì? Rồi chuẩn mực qui đổi của đồng tiền là gì, tất cả đều không phải là vật chất, giống hiến pháp của mỗi nước cũng chỉ là qui ước giữa người với người, mà không phải là vật chất, nhưng điều đó xác lập nên chuẩn mực đối xử giữa người với người. Mà những chuẩn mực đó đều khởi nguồn từ cái đẹp lý tưởng về sự thiện, và lý tưởng đó từ cội rễ và ánh sáng tối thượng của Thượng Đế mà đến.

Văn hào Dostoievski viết: “Nếu không có Chúa, người ta được phép làm mọi sự!” Không có Chúa, tức không có khởi nguồn và đích đến của lý tưởng, cũng như không có pháp luật mở màn như Mười điều răn của Thiên Chúa tặng cho tổ phụ Moise để nương theo, người ta dám làm bất kể cái gì không cần đạo đức?!

Khi người Việt đi xuất khẩu lao động ở I-rắc, Đại sứ quán Việt Nam tại đó có dặn: “nếu người bản xứ hỏi có đạo không, các vị nhớ trả lời là có đạo, hoặc ít nhất cứ nhận mình là Đạo Phật… nếu không mọi người ở đây sẽ xa lánh, vì với họ vô đạo, đồng nghĩa với vô đạo đức, quân lưu manh, phường trộm cắp…”

Vô thần, rồi đập phá đền chùa trong quá khứ, tranh cướp ấn Đền Trần, rồi trộm cắp như rươi với tỷ lệ bằng nửa thế giới cộng lại (theo số liệu có ảnh, tại Nhật Bản có một nhúm người Việt sang mà gây ra 40% các vụ ăn cắp so với toàn nước Nhật và những người nước ngoài sống tại Nhật) đó là do vấn nạn vô thần, vô đạo quá đông của chúng ta. Ở Việt Nam tỉ lệ theo đạo chỉ chiếm hơn 10%.

Văn chương là giá trị nhân văn hàng đầu của mỗi quốc gia, các nước Âu Mỹ văn chương hay chủ yếu do chủ nghĩa nhân văn của tôn giáo và Ki-tô giáo, trong khi đó các cây bút Việt chủ yếu thơ phú nhạt nhẽo, vô mục đích, yếu ớt, ham vui sinh hoạt lèo tèo do vấn nạn vô thần.

Trong các thành phố lớn luôn luôn có 4 ngôi nhà đẹp nhất. Đó cũng là giá trị của thành phố: 1- tòa thị chính để hành pháp, 2- trường đại học để giáo dục, 3- nhà thờ để đức tin tôn giáo, 4- nhà hát để sinh hoạt nghệ thuật. Nhưng người Việt chủ yếu chỉ có tòa thị chính và chợ… rõ ràng chúng ta mới chỉ loanh quanh quyền lực và gía áo túi cơm.

Hàn Quốc trong vài chục năm khi nhất quyết đưa quốc gia trở thành quốc đạo Ki-tô giáo, đã vọt lớn thành nước hùng cường trong tốp mười thế giới, đó là bài học của chúng ta.

Xin mọi người hãy quan tâm đến đời sống đức tin của mình, đó là đời sống của tinh thần liên kết với Thượng Đế là khởi nguồn của lý tưởng, chứ không phải đó là thứ vu vơ?! “Cờ vô phong” không thể kiêu hãnh bay trong gió. Và gió theo cách chúng ta nhìn không phải giá áo túi cơm đâu?!

Paul Đức 07/3/2020

Chú thích: Tôn giáo của dân tộc đông dân nhất hành tinh “miếu cô hồn”.

“Mỹ nợ TQ một lời xin lỗi, thế giới nợ TQ một lời cảm ơn”?

Le Tu Ngoc and 2 others shared a link.

 

 

Đáp lại lời kêu gọi TQ cần xin lỗi vì che giấu dịch COVID-19, Tân Hoa Xã đăng bài: “Mỹ nợ TQ một lời xin lỗi, thế giới nợ TQ một lời cảm ơn”.

  • Nhằm tẩy trắng việc che giấu dịch bệnh, Tân Hoa Xã đăng lại một bài viết nói: “Trung Quốc vì chống lại dịch viêm phổi corona mới đã hy sinh cự đại, chúng ta nên thản nhiên khí khái biểu thị rằng: ‘Mỹ nợ Trung Quốc một lời xin lỗi, thế giới nợ Trung Quốc một lời cảm ơn’.”

KÍN ĐÁO ĂN CHAY VÀ CẦU NGUYỆN

  
KÍN ĐÁO ĂN CHAY VÀ CẦU NGUYỆN

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Triết gia David Hume từng phân biệt giữa cái ông gọi là đức hạnh chân thật, và cái ông đặt tên là đức hạnh giống tu sĩ.  Ông nói, đức hạnh chân thật là những phẩm chất bên trong chúng ta mà có ích cho người khác và bản thân chúng ta.  Còn các đức hạnh giống tu sĩ là những phẩm chất không nâng cao đời sống con người, đối với xã hội cũng như bản thân người thực hành những phẩm chất đó.  Ông liệt kê các đức hạnh giống tu sĩ như việc sống độc thân, ăn chay, sám hối, hành xác, tiết dục, nhún nhường, thinh lặng và cô tịch.  Ông chứng minh những điều đó chẳng đóng góp gì cho xã hội và thậm chí còn làm giảm đi sự tốt lành thịnh vượng của con người.  Do vậy, ông quả quyết rằng những điều đó bị chối bỏ bởi “những người hiểu biết.”  Điều này xem ra khó nghe đối với người có đạo.

Nhưng những gì tiếp theo đó còn khó nghe hơn.  Những người thực hành những đức hạnh giống tu sĩ phải trả một giá đắt, ông nói, sức khỏe của họ không tốt và họ bị loại ra khỏi cộng đồng con người: con người nhiệt tình nông nổi và ảm đạm đó, sau khi chết, có thể có tên ghi trong cuốn lịch, nhưng khi còn sống thì khó có thể được ai chấp nhận vào vòng thân thuộc và vào xã hội, trừ những người cũng mê sảng và chán ngắt như vậy.

Mặc dù điều này nghe tàn nhẫn, nhưng nó mang một lời cảnh cáo lành mạnh, nhắc lại rõ ràng điều Chúa Giê-su đã nói khi người cảnh cáo chúng ta phải kín đáo ăn chay, cầu nguyện, đừng có mang bộ mặt ảm đạm tu hành khổ hạnh, bảo đảm rằng lòng mộ đạo của chúng ta không quá lộ liễu trước đám đông.  Nếu Chúa Giê-su có nói rõ ràng về điều gì, thì đây chính là điều người đã nói rõ.

Tại sao?  Tại sao chúng ta phải tránh mọi việc phô diễn trước đám đông về việc ăn chay, tu hành khổ hạnh, và cầu nguyện riêng tư của chúng ta?

Một phần cảnh cáo của Chúa Giê-su là chống thói đạo đức giả và giả dối, nhưng còn hơn vậy nữa.  Vấn đề là việc bên ngoài chúng ta trông như thế nào và chúng ta được cảm nhận ra sao.  Khi chúng ta bộc lộ sự khổ hạnh và mộ đạo trước đám đông, dù có chân thành đi nữa, thì điều chúng ta muốn toát ra và điều người khác cảm nhận về chúng ta (mà không chỉ là những David Humes của thế giới này) là hai chuyện hoàn toàn khác nhau.  Chúng ta có thể bày tỏ đức tin vào Chúa và sự trung tín đối với những gì vượt xa hơn kiếp sống này, nhưng những người khác dễ dàng diễn giải quan điểm và hành động của chúng ta như một tình trạng yếu đuối, u sầu, phiền muộn, khinh khi những chuyện thông thường, và là một sự bù đắp chẳng-đáng-kể-gì cho việc phải mất đi sức sống.

Và đó chính xác là điều ngược lại với những gì chúng ta cần tỏ ra.  Tất cả các đức hạnh giống tu sĩ (mà chúng là những đức hạnh thật sự) nhằm làm cho tâm hồn chúng ta mở ra để tiếp cận thân mật sâu sắc hơn với Chúa và vì vậy, nếu lời cầu nguyện và tu hành khổ hạnh là lành mạnh, thì những gì chúng ta sẽ tỏ ra chính là an mạnh, vui vẻ, thương yêu thế giới này, và cảm nhận những niềm vui bình thường của cuộc sống là phước lành Chúa ban.

Nhưng không dễ gì làm được điều đó.  Chúng ta không toát ra được đức tin của mình nơi Chúa và toát ra là đang an mạnh bằng cách chấp nhận một cách không suy xét hay hô hào cổ vũ mọi nỗ lực để vui vẻ của thế giới này, cũng không phải bằng cách gượng cười giả tạo trong khi sâu thẳm bên trong chúng ta đang khó lòng kiểm soát được trầm uất.  Chúng ta toát ra đức tin nơi Chúa và an mạnh qua việc toát ra tình thương, bình an và thanh thản.  Và chúng ta không thể làm điều đó nếu toát ra sự khinh khi đối với cuộc sống hay đối với cái cách những con người bình thường kiếm tìm hạnh phúc trong cuộc sống này.

Và đó là một thách thức khó khăn, đặc biệt ở thời buổi này.  Trong một nền văn hóa như nền văn hóa này, chúng ta dễ dàng nuông chiều bản thân mình, thếu hiểu biết sâu sắc về sự hy sinh, đắm chìm trong đời sống và bản thân đến mức đánh mất tất cả ý thức về cầu nguyện, và sống không hề tiết dục chút nào, đặc biệt về mặt tình cảm.  Bên cạnh những chuyện khác, chúng ta còn thấy điều đó trong căn bệnh bận rộn của mình, trong tình trạng mất khả năng duy trì đời sống cầu nguyện riêng tư, ngày càng mất đi năng lực trung tín với những gì mình cam kết, và với những nỗ lực gắng gỗ chống lại mọi thể loại nghiện ngập: thức ăn, rượu chè, tình dục, thú vui giải trí, công nghệ thông tin.  Khiêu dâm trên internet đã là bệnh nghiện lớn nhất của toàn thế giới.  Cầu nguyện và ăn chay (ít nhất trong tình cảm) đang thiếu hụt.  Những đức hạnh giống tu sĩ giờ đây đang cần có hơn bao giờ hết.

Nhưng chúng ta phải thực hành các đức hạnh đó mà không phô diễn trước đông người, không khinh khi tính chất tốt lành vốn được Chúa ban cho trong mọi thứ của thế giới này, không ám chỉ rằng sự thánh thiện riêng tư là quan trọng đối với chúng ta và với Chúa hơn những điều tốt lành thông thường của thế gian này, và không ngụ ý rằng Chúa không muốn chúng ta vui vẻ với tạo vật của người.  Thực hành khổ hạnh và cầu nguyện của chúng ta phải thực chất, nhưng chúng phải toát ra sự an mạnh, chứ không phải là sự bù đắp cho việc không an mạnh.

Và như vậy, một sự an mạnh chứng tỏ sự tốt lành của Chúa, chính xác là điều tôi thấy ở những ai thực hành các đức hạnh giống tu sĩ theo cách lành mạnh.  Cầu nguyện và ăn chay, nếu làm đúng đắn, sẽ toát lên sự an mạnh, không phải là khinh khi. Nếu David Hume đã chứng kiến sự an mạnh và tình thương yêu của Chúa Giê-su trong việc cầu nguyện và thực hành khổ hạnh của ông thì hẳn là, tôi nghĩ, ông đã viết khác đi về đức hạnh giống tu sĩ.

Vì vậy chúng ta cần xem xét nghiêm túc hơn lời dạy của Chúa Giê-su rằng việc thực hành khổ hạnh và cầu nguyện riêng tư phải được làm “trong kín đáo”, đằng sau cánh cửa đóng kín, để vẻ mặt chúng ta bộc lộ ra trước đông người toát lên an mạnh, vui vẻ, thanh thản và thương yêu những điều tốt lành Chúa đã tạo ra, người mà cầu nguyện và thực hành khổ hạnh đã đưa chúng ta đến gần hơn.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

Con Sư-Tử Đã Thức !

Con Sư-Tử Đã Thức !

Nguyễn-Cao-Quyền

Mến chuyển

­­

   Cách đây 200 năm (1816), Napoleon Bonaparte, vị hoàng đế trẻ nhất của nước Pháp đã nói về nước Tầu bằng một nhận xét như sau: “Hãy để con sư tử này ngủ yên, vỉ nếu thức tỉnh, nó sẽ làm cả thế giới run sợ”. Câu nói này ngày nay đã trở thành sự thật và sự thật đó sẽ được trình bày trong những đoạn viết tiếp theo.

   Biến cải “lục địa đen” thành thuộc địa.

   Tàu Cộng đang biến cải Phi Châu thành thuộc địa. Các lãnh đạo Tàu muốn Phi Châu là chư hầu ở xa để vừa giải quyết nạn nhân mãn vừa chiếm được tài nguyên thiên nhiên. Trong khi Hoa Kỳ và cả thế giới im lặng trước hành động này, Tàu cứ tiến tới.

   Một triệu quân Tàu di chuyền ngang dọc Phi Châu và Nam Mỹ để chiếm các nguyên liệu chiến lược và chiếm các thị trường mới nổi, trước Mỹ, Nhật và Âu Châu. Thế giới cần phải coi chừng con sư tử đói thức giấc này.

   Đế quốc Tàu là một nước tham lam vô độ.. Nó tiêu thụ nửa số xi măng và nửa số thép của thế giới, một phần ba số đồng, một phần tư số aluminium, và những số lượng vĩ đại antimony, chronium, cobalt, lithium, zinc và gỗ.

   Những nguyên liệu này, quốc gia nào trên thế giới cũng cần, nhất là Hoa Kỳ và các quốc gia kỹ nghệ Âu Châu. Bauxite và sắt của Guinea và Tanzania dùng để sản xuất phi cơ ở Seattle (Mỹ), đóng tàu ờ Bath (Maine – Mỹ), đồng của Chile dùng làm giây điện, cobalt của Congo dùng trong các sở cơ khí ở Michigan (Mỹ), lithium của Bolivia dùng để chế tạo xe hơi, manganese của Gabon dùng trong kỹ nghệ nhựa, titanium của Mozambique, Madagascar, Paraguay dùng để sản xuất thép tốt trong kỹ nghệ máy bay, làm đầu gối và hông người nhân tạo trong y tế. Tầu cộng đang lăn xả vào các đống nguyên liệu này để giữ làm của riêng. Hậu quả sẽ không thể nào lường trước được cho các nền kinh tế khác ngoài lục địa Trung Hoa.

   Thủ thuật cướp tài nguyên thiên nhiên bằng sức mạnh mềm.

   Việc khai thác dầu hỏa ở Phi Châu cần sự tiến bộ. Nhưng Tàu đến đây không phài để giúp mà để cướp. Thù thuật cướp bằng sức mạnh mềm là giơ cao tấm chi phiếu to và hứa hẹn cho vay rộng rãi với lãi suất thấp để xây dựng hạ tầng cơ sở, hoặc dinh tổng thống, hoặc mua vũ khí AK 47. Đổi lại phía đi vay chỉ cần chấp nhận hai điều kiện : 1/ khi nhận tiền phải giao nộp ngay tài nguyên thiên nhiên; 2/ phải mở cửa cho hàng TC đã chế biến vào thị trường thuộc địa.

   Thủ thuật này tạo công ăn việc làm cho đế quốc Tàu và giúp các công ty đế quốc thịnh vượng. Quảng Châu, Thành Đô, Thượng Hải tiếp tục phát triển trong khi các thuộc địa mới của Tàu tiếp tục lụn bại.

   Sức mạnh mềm trở thành công cụ bành trướng

   Ai đến Phi Châu cũng thấy ngay là toàn thể lục địa này đang bị Tàu xâm chiếm bằng sức mạnh mềm. Thủ thuật ngoại giao bằng sức mạnh mềm (nghĩa là cho vay) đang được Bắc Kinh áp dụng khắp mọi nơi trên mặt lục địa này. Angola trả nợ Tàu bằng dầu, Ghana trả nợ Tàu bằng hạt cacao, Nigeria trả nợ Tàu bằng khí đốt…Không một nước nào được hưởng lợi với đế quốc Trung Hoa.

   Ở Zimbabue, Tàu bóc lột còn tàn nhẫn hơn. Tàu bỏ ra 5 tỳ đô la mua một mỏ platinum đáng giá 40 tỷ đô la. Với 5 tỷ đô la đó, nhà độc tài Robert Mugabe xây lâu đài mới, mua trực thăng vũ trang và phi cơ phản lực cùng với rất nhiều vũ khí khác để đàn áp dân lành.

   Hiện tượng này, không chi xảy ra tại Phi Châu mà còn ở khắp nơi trên thế giới.. Tại Peru, Tàu đã làm chủ một ngọn núi đồng. Tàu chỉ mua ngọn núi này với 3 tỳ đô la mà bây giờ đang hưởng lợi tới 2000%. Trong khi đó dân Peru vẫn tiếp tục đói khát, mù chữ và phải đối mặt với đủ thứ tai nạn lao động.

   Khi Tàu kiểm soát bauxite ở Brazil, Guinea, Malawi, đồng ở Congo, Kazahkstan, Namibia, sắt ở Liberia, Somalia, manganese ở Burkina Fasco, Campuchia, Gabon, chì ở Cuba, Tanzania, kẽm ở Algeria, Nigeria, Zambia…thì còn đâu cho các xưởng ở Cincinatti, Memphis, Pittsburg của Mỹ và các xưởng của các quốc gia khác như Đức, Nhật, Seoul.

   Người ta có nhiều lý do để sợ rằng xe hơi tương lai sẽ sản xuất ở Lan Châu (Lanzhou) và Vũ Hồ (Wuhu) thay vì ở Detroit và Huntsville, máy bay sẽ sản xuất ở Binzhou và Thẩm Dương thay vì ở Seattle và Wichita, chip cho máy vi tính sẽ làm tại Đại Liên (Daliem) và Thiên Tân thay vì tại Silicon Valley, thép cùa thế kỹ 21 sẽ được sản xuất nhiều hơn tại Đường Sơn (Tangshan) và Vũ Hán (Wuhan) thay vì ở Birmingham.. Alabama và Illinois của Hoa Kỳ.

   Chắc chắn đây không phải là thị trường tự do và hợp tác thương mại quốc tế nữa. Ai cũng phài rùng mình với chuyện đang xảy ra này. Nhưng không hiểu sao trong các phòng họp chính trị ở Washington, Berlin, Tokyo các chính khách vẫn giữ thái độ “sống chết mặc bay” và chẳng thèm để ý.

   Nếu cảnh này cứ tiếp tục thì rồi đây Tàu cộng sẽ ở vị thế độc quyền về tài nguyên với giá thấp nhất và như vậy Tàu có thể cạnh tranh với Mỹ và cả thế giới. Kế hoạch thâu tóm tài nguyên cùa Tàu tương đương với việc cấm vận tài nguyên đối với các quốc gia khác trên mặt địa cầu.

Một cuộc di-dân trá hình:

   Trên thực tế không phải chỉ có kỹ sư và kiến trúc sư Tàu đến Phi Châu. Nông dân cũng đến luôn. Lúc đầu Tàu hứa hẹn cho vay tiền để xây dựng hạ tầng cơ sở, tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương, nhưng khi khởi công xây cất thì Tàu lại mang cả triệu công nhân sang để mặc nhiên tranh chỗ. Tàu đưa dân mình qua tối đa và chỉ thuê dân địa phương ở mức tối thiểu. Cho nên người dân của các thuộc địa mới của Tàu như Angola và Zimbabue vẫn bị nghèo đói và thường bị nội chiến vì sự tráo trở của Tàu.

   Ngoài mục đích thâu tóm tài nguyên và chiếm lĩnh thị trường mới, Tàu còn có kế hoạch xuất cảng nhiều triệu dân qua Phi Châu và Nam Mỹ để giải quyết nạn nhân mãn. Trên lục địa Trung Hoa có 600 con sông thì 400 sông đã kể như chết vì quá ô nhiễm. Wikeleaks tiết lộ Bắc Kinh muốn dời 300 triệu dân sang Phi Châu. Khi các chính quyền Phi Châu không thể trả nợ thì chắc chắn hiện tượng di tản này sẽ xảy ra. Mỹ hiện tại đang nợ Tàu khoảng hai ngàn tỷ đô la: Các tiểu bang Montana và Wyoming vắng dân có thể đang là những điểm ngắm của Bắc Kinh.

   Trong thập niên qua 700.000 dân Tầu đã định cư tại Phi Châu. Kế hoạch vẫn còn tiếp tục. Cờ Tầu bay phấp phới khắp mọi nơi trên lục địa đen. Các tòa đại sứ mới của Tàu đang tiếp tục được xây cất, các sân bay mới đang được hoàn tất.

   Dân Tàu tràn sang Phi Châu như cơn nước lũ. Các khu đô thị biệt lập với hàng rào bao bọc mọc lên khắp nơi, nhưng không cho người da đen bén mảng. Hơn một triệu nông dân Tàu đang cầy cấy đất Phi Châu, sản xuất thực phẩm để xuất cảng ngược về Hoa Lục trong khi dân địa phương vẫn thiếu thực phẩm tiêu thụ.

   Theo tuần báo The Economist, Tàu đã chiếm bảy triệu mẫu dầu cọ (palm oil) của Congo để làm xăng hữu cơ. Hình thức “nông trại hữu nghị” đang được sử dụng tại các xứ Gabon, Ghana, Guinea, Mali, Mauritania và Tanzania.

Dùng gái điếm để thu-hút di-dân tới những nơi vắng-vẻ:

   Tầu mang sang Phi Châu cả gái điếm, để họ kiếm ăn ớ những nơi xa xôi có những công trình của Tầu đang xây cất. Tại Cameroon gái điếm Tàu chỉ đòi có 2000 CFA (4.25 đô la) trong khi các cô gái địa phương thì nhất định đòi 5000 CFA mới chịu lên giừờng. Tại Congo Brazaville có một chuyện khá buồn cười cần kể lại. Các cô gái điếm khi được giải thoát lại không chịu trở về Trung Quốc. Lý do là ở̉ lại đất Phi Châu các cô kiếm được nhiều tiền hơn và được đối xử tốt hơn là ở quê nhà tại Tứ Xuyên (Sichuan).

   Hệ sinh thái của nước Tàu bi tàn phá khủng khiếp vì quá trình hiện đại hóa nhanh chóng. Giờ đây Tàu lại đang tàn phá hệ sinh thái của các nước chư hầu mới. Nỗi thống khổ của dân bản xứ nói sao cho siết vì sư trâng tráo của các nhà độc tài địa phương là vô giới hạn. Ngoài việc hệ sinh thái bị tàn phá, các khoản tiền khác kiếm được từ việc khai thác cảc mỏ kim cương và việc bán gỗ rừng đều đã được các nhà độc tài này dùng để mua vũ khí đàn áp dân lành, gây ra những cuộc nội chiến đẫm máu.

Quyền-lực mềm của Tàu đang hoành-hành cả tại Úc và Nam Mỹ:

   Trong số 640 riệu vũ khí nhẹ đang lưu hành trên thế giới thì 100 triệu lưu hành tại Phi Châu. Những chế độ độc tài khát máu như Angola, Sudan, Zimbabue là những chế độ đứng đầu bảng giết hại dân lành.

   Có một lần, Ôn Gia Bảo tuyên bố ở nghị viện Gabon rằng : “Chỉ buôn bán thôi, không có điều kiện chính trị gì cả”. Với chủ trương này, Tàu làm ăn với bất cứ một chính quyền địa phương nào dù tàn bạo đến đâu, thối nát đến đâu. Trong khi các nước văn minh như Mỹ, Anh Pháp, cố gắng tạo áp lực lên bạo chúa , bạo quyền thì Tàu gian manh đi luồn cửa hậu.

   Vào lúc này Tàu đang tìm cách tiếp cận với Úc để nâng cao các liên lạc ngoại giao. Tàu muốn đầu tư lớn vào nhiều khu vực khai thác mỏ ớ Úc. Điều đáng ngạc nhiên là các nền kinh tế có cơ cấu dân chủ như Úc, Brazil, Nam Phi… vẫn bị tiền Tàu cuốn hút.

   Tại Úc trong vài năm qua một số công ty Tàu như China Minmetals, Hunan Valin Steel & Iron, Shangai Baosteel đã ký được những hợp đồng khai thác tài nguyên ví đại. Trong ngắn hạn vài trăm gia đình thượng lưu Úc sẽ giàu to, nhưng trong tương lai nước Úc sẽ lâm vào cảnh nghèo khó vì các mỏ bị vét sạch. Trong trung hạn sự thâm thủng mậ̣u dịch với Tàu sẽ xảy ra vì Tàu dùng nguyên liệu của Úc rồi lại đem các chế phẩm hoàn tất bán ngược trở lại trên đất Úc..

   Tại Brazil và Nam Mỹ Tàu cũng có những chính sách tương tự nhưng yếu hơn. Việc làm ăn giữa Tàu và Brazil được báo Washington Post mô tả như sau: “ Trên bãi cát vàng dài 175 dặm ở bờ Đại Tây Dương, phía Bắc Rio De Janeiro, Tàu đang xây dựng một thực thể kinh tế mới. Tại đây người ta thấy những con tàu khổng lồ đang lấy quặng sắt hoặc lấy dầu trở về Bắc Kinh. Nhìn chung thành phố này lớn gấp đôi Manhattan với nhiều hãng xưởng hoạt động tấp nập…”. Sự đầu tư của Tầu vào Brazil sẽ làm chậm sự phát triễn của các công ty thuộc chính quyền địa phương.

Kết-luận:

   Trong bài diễn văn đọc tại Paris khi đến tham dự lễ kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Pháp-Trung, Tập Cận Bình có nhắc lại câu nói của Napoleon Bonaparte, nhưng y đã thêm một lời khuyến dụ như sau: “Con sư tử Trung Quốc giờ đây đã thức dậy nhưng đây là một con sư tử hòa bỉnh, dễ mến và văn minh”.

   Lời khuyến dụ của Đặng Tiểu Bình không được nhiều người tin tường. Giáo Sư Jean Pierre Cabestan của trường Đại Học Hong Kong nhận xét : “Sư tử là một con vật to lớn, hoang dại, chuyên ăn thịt những con thú khác, khá giống Trung Quốc trong mối quan hệ của họ với các nước xung quanh”.

   Nhà báo Trần Thế Diệu, chủ bút tờ Thế Giới Nhật Báo tại New York viết thêm rằng: “Rõ ràng câu nói đó chỉ dành cho người Trung Quốc nghe mà thôi chứ người ngoài không ai tin nổi”.

   Giáo Sư Richard Rigby của Đại Học Quốc Gia Úc tóm lược cách tiếp cận của Trung Quốc hiện nay là: “Cứ lấn tới ở bất cứ nơi nào chùng ta có thể !”. Nhận xét này của Rigby cũng được Giáo Sư Hoàng Tĩnh của Đại Học Quốc Gia Tân Gia Ba đồng ý và nói theo cùng một chiều hướng: “Họ là những người làm những gì có thể, bất kể là có nên hay không”.

   Đã đến lúc Hoa Kỳ và thế giới dân chủ phải có thái độ và hành động quyết liệt hơn với cáí đế quốc thực dân mới đang hoành hành như chỗ không người. Cái giây thòng lọng mà Bắc Kinh quàng vào cổ nền kinh tế thế giới đang từ từ siết chặt. Kinh nghiệm này Hoa Kỳ đã trải qua kể từ khi Washington lỏng tay cho Đặng Tiểu Bình tác yêu tác quái.

   Bài này cũng viết cho người dân Việt Nam đọc để có một thái độ thích ứng và cương quyết với bọn tà quyền Cộng Sản Hà Nội. Lúc này là lúc mọi người Việt Nam yêu nước phải đứng lên đập bỏ cái cơ cấu độc tài toàn trị bán nước đang đưa dân tộc đến họa diệt vong.

   Cái chiến lược “tầm ăn dâu” mà bọn Tàu nham hiểm đang áp dụng trên thế giới và cả tại nước ta, từ ngày hiệp định Thành Đô được ký kết, phải được dập tắt ngay.

   Cả nước phải sáng suốt nhận định được thế nào là “họa cộng sản” và can đảm đứng lên làm cách mạng dân chủ nếu không tổ quốc sẽ tiêu vong. Thời gian để hành động không còn nhiều nửa. Cộng Sản đã dồn dân tộc vào dưới chân tường và chiến trận này phải là trận chiến “một mất một còn”..

        Nguyễn-Cao-Quyền

From: van hanh phung  & Chi Phan

NÚI TABOR HÔM NAY

NÚI TABOR HÔM NAY

 ĐGM Cosma Hoàng Văn Đạt

Chúa Giêsu dẫn các môn đệ đi Giêrusalem. Trên đường, Chúa lên một ngọn núi để cầu nguyện. Có lẽ đó là núi Tabor ở Galilê. Có ba môn đệ thân tín theo Chúa. Chúa đã hiển dung trước mặt các ông.

Trước núi Tabor, Chúa Giêsu đã từng lên hai ngọn núi khác. Trước hết là Chúa giảng Hiến Chương Nước Trời trên núi quen gọi là núi Bát Phúc. Sau khi cho hoá bánh ra nhiều nuôi dân, họ muốn tôn Chúa làm vua, Chúa đã lên núi cầu nguyện một mình. Sau núi Tabor, Chúa cũng lên hai ngọn núi khác: núi Sọ là nơi Chúa chịu chết trên thập giá và núi Ôliu là nơi Chúa từ biệt các môn đệ mà lên trời. Có thể nói núi Tabor đã được chuẩn bị bằng hai ngọn núi trước và chuẩn bị cho hai ngọn núi sau. Hiển Dung là cao điểm của cuộc đời rao giảng và là khởi điểm của cuộc Vượt Qua.

Người xưa tin rằng Thiên Chúa ở trên trời; núi cao, nên gần trời; vì thế người ta lên núi sẽ dễ gặp Chúa hơn. Tổ phụ Abraham lên núi hiến tế Isaac. Ông Môsê lên núi nhận bia giao ước. Ngôn sứ Êlia lên núi gặp Thiên Chúa.  Thực tế là lên núi dễ gặp Chúa hơn thật:

– Thanh vắng, yên tĩnh, xa gia đình, bạn bè, phố chợ;

– Trên cao, thấy rõ công trình của Thiên Chúa trong thiên nhiên hùng vĩ hơn: mặt trời, bầu trời, trăng sao, núi sông, bình minh, hoàng hôn…

– Trên cao, thấy công trình của con người nhỏ bé hơn, vì thế dễ từ bỏ hơn.

Lên núi là điều không dễ, nhưng đem lại cho chúng ta những niềm vui mà chỉ những ai lên núi mới cảm nghiệm được. Hôm nay Chúa Giêsu vẫn mời gọi chúng ta lên núi để chiêm ngắm Chúa hiển dung: ngay bên cạnh chúng ta, Chúa vẫn đang yêu thương người đau khổ, tha thứ cho kẻ tội lỗi, hy sinh cho người mình yêu.  Đồng thời Chúa cũng mời gọi chúng ta trở nên núi Tabor mới để Chúa hiển dung. Thánh Phaolô kêu gọi các tín hữu mặc lấy Đức Kitô, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô.  Trong cuộc Vượt Qua, khuôn mặt thể lý của Chúa không còn hình dạng con người, nhưng khuôn mặt của Thiên Chúa tình yêu lại chói sáng trước mắt mọi người trong mọi thời đại.

Một thường dân Nhật Bản được Nhật Hoàng mời vào hoàng cung dùng cơm chung vì đã lấy máu mình vẽ chân dung Nhật Hoàng. Chúa Giêsu lấy máu mình để vẽ chân dung Thiên Chúa và được hưởng vinh quang Phục Sinh. Xin Chúa giúp chúng ta dùng cuộc sống của mình để vẽ chân dung Chúa trong thế giới hôm nay.

 ĐGM Cosma Hoàng Văn Đạt

Tinh thần quý tộc biến mất và ý thức lưu manh phát triển

tinh than quy toc

Quý tộc, bình dân và lưu manh

Nhân loại là một quần thể to lớn và phức tạp nhất trên thế giới. Nói về tính chất vốn có của tinh thần và ý thức, có thể phân thành 3 thứ bậc khác nhau: quý tộc, bình dân và lưu manh. Ba thứ bậc này được phân theo dạng hình thoi đứng, ở giữa phình to là tầng lớp bình dân, đầu nhỏ ở trên cùng là tầng lớp quý tộc, còn đầu nhỏ dưới cùng là lưu manh. Từ bình dân tới quý tộc thì không có giới hạn rõ rệt, từ bình dân tới lưu manh cũng không có giới hạn rõ rệt, nhưng lưu manh và quý tộc thì có sự khác biệt một trời một vực.

Sở dĩ được gọi là quý tộc không phải vì có nhiều của cải, cũng không phải vì có nhiều quyền lực, mà là vì họ có một tinh thần cao quý, sử sách gọi đây là tinh thần quý tộc. Người thiếu tinh thần quý tộc, thì dù giàu có không ai sánh bằng cũng chỉ là mang bản tính lưu manh mà giàu có; dù có quyền lực to đến mấy, thì cũng chỉ là kẻ độc tài chuyên chế mang bản tính lưu manh.

Sở dĩ gọi là lưu manh không phải là vì không có gì trong tay, mà là ý thức lưu manh ở bên trong nội tâm. Giai cấp vô sản không đồng nghĩa với lưu manh, giai cấp vô sản đa số là người bình dân an phận thủ thường. Trong quần thể lưu manh, có người giàu, có kẻ nghèo; có bình dân, có quyền quý; có người ngốc nghếch, cũng có kẻ thiên tài.

Tinh thần quý tộc đại diện cho đỉnh cao của văn minh nhân loại, ý thức lưu manh đại diện cho sự thấp kém nhất của nhân loại. Dường như tất cả mọi người đều có suy nghĩ hướng tới sự cao thượng, và cũng có những ham muốn dục vọng thấp kém, đây chính là cuộc chiến giữa nhân tính và thú tính. Nhân tính chiến thắng thú tính, thì con người hướng tới sự cao thượng; thú tính chiến thắng nhân tính, con người sẽ hướng tới sự hèn hạ bỉ ổi. Đối với đa số người bình dân, nhân tính và thú tính vẫn đang giằng co chưa có hồi kết, nên nó làm cho cả một đời vẫn cứ loay hoay quanh cao thượng và thấp kém. Đa số người dân đều là an phận thủ thường nên cả đời sẽ không có gì nổi bật. Bình dân nếu muốn siêu phàm thoát tục, thì phải hướng tới cao thượng để có hy vọng trở thành quý tộc. Còn nếu hướng tới sự thấp kém hèn mọn thì sẽ trở thành lưu manh. Con người vươn tới sự cao thượng thì rất khó, và để trở thành quý tộc thì lại càng khó hơn; còn hướng tới sự thấp kém hèn mọn thì rất dễ, trở thành lưu manh thì dễ như trở bàn tay. Cũng chính vì nguyên nhân này mà xã hội nhân loại hiện nay quý tộc thì ít mà lưu manh thì nhiều.

Cao thượng và cao quý không khác nhau về bản chất, nhưng cao thượng và cao quý lại có khoảng cách, đó là mức độ khác nhau, trạng thái khác nhau. Bình dân cũng biết cao thượng, nhưng thường chỉ có thể cao thượng trong thuận cảnh, chứ không thể “cố thủ” cao thượng trong nghịch cảnh. Nếu như trong nghịch cảnh mà có thể giữ được cao thượng, thì đó chính là trạng thái cao quý, cũng tức là đã thành quý tộc.

Nếu cao thượng đã  đạt đến trạng thái cao quý, thì tức là “phú quý mà không dâm, dưới áp lực mà không chịu khuất phục”. Đây chính là trạng thái của tinh thần quý tộc. Câu trên có hai tầng ý nghĩa. Tầng thứ nhất là giải thích đối với phú hào quyền quý: Anh giàu có rồi thì không thể dâm đãng, anh có quyền rồi thì anh không thể lấy quyền đấy để bắt người khác khuất phục. Tầng thứ hai là giải thích với tầng lớp bình dân: Anh không giàu có, nhưng anh không thể bị phú quý dụ dỗ mê hoặc để rồi từ bỏ cao thượng; anh không có quyền lực nhưng anh không thể khuất phục trước quyền lực, anh chỉ có thể tâm phục khẩu phục trước sự công bằng và chân lý. Đạt đến trạng thái này rồi, thì dù có là bình dân nhưng anh vẫn có tinh thần quý tộc.

Tinh thần quý tộc là gì?

Tinh thần quý tộc có 3 nội hàm cao quý đó là: thành tín, đạo nghĩa, ý thức trách nhiệm.

Thành tín là linh hồn của văn minh nhân loại, không có thành tín, thì không có đạo đức, cũng không có văn minh; thành tín cũng là linh hồn của phẩm cách cá nhân, không có thành tín, thì không thể có phẩm cách cao thượng. Người thiếu sự thành tín, thì hoặc là người vô lại hoặc là kẻ lưu manh. Dân tộc thiếu sự thành tín, thì chắc chắn là dân tộc ngu muội không có văn hóa. Thành tín cũng là gốc rễ của chế độ dân chủ, vì không có thành tín, thì không có dân chủ đúng nghĩa. Cụ thể, dân chủ dựa vào hiến pháp, và hiến pháp chính là khế ước của xã hội. Thành tín chính là gốc rễ của khế ước, không có thành tín thì khế ước cũng chỉ là tờ giấy vứt đi.

Quý tộc sở dĩ là quý tộc, là bởi vì quý tộc coi thành tín quan trọng hơn cả mạng sống, thành tín mang đến sự cao thượng, sự tôn nghiêm và giá trị cao quý của sinh mệnh. Ví dụ, quý tộc châu Âu thà dùng quyết đấu sòng phẳng thẳng thắn để phân thắng thua, chứ  không muốn dùng âm mưu quỷ kế để tranh cao thấp. Đây thực chất chính là thà chết để giữ lấy giá trị của thành tín. Sử quan thời Trung Quốc cổ đại thà chết chứ không muốn vì đế vương thay đổi lịch sử, cũng chính là thà chết để giữ lấy giá trị của sự thành tín.

Đạo nghĩa bao hàm nhân đạo và công đạo. Nhân đạo là tiền đề của công đạo, chính là sự tôn trọng đối với sinh mệnh của con người. Người ngay cả ý thức nhân đạo cũng không có, thì về cơ bản không thể có công đạo. Tôn thờ bạo lực chính là coi thường nhân đạo. Nhân đạo và công đạo hòa quyện sinh ra chủ nghĩa nhân quyền của nền văn minh hiện đại, sở dĩ châu Âu có thể sinh ra Công ước Nhân quyền, thực chất chính là do sự thúc đẩy của tinh thần quý tộc.

Tinh thần đạo nghĩa mang tới nhân từ, mang tới khoan dung, mang tới sự quan tâm, mang tới sự công chính. Quý tộc quan tâm tới những người yếu, các sự nghiệp từ thiện trên thế giới dường như đều do quý tộc đầu tư xây dựng, và cái mà họ dựa vào chính là tinh thần đạo nghĩa.

Tinh thần trách nhiệm chính là tinh thần dám gánh vác. Chịu trách nhiệm với lương tri của xã hội nhân loại, chịu trách nhiệm với văn hóa truyền thống của nhân loại, bảo vệ đạo đức, duy trì công bằng xã hội, bảo vệ sự phát triển hòa bình của xã hội.

Chính tinh thần trách nhiệm mang tới lòng tin và sức mạnh không gì lay chuyển được của quý tộc, một khi dân tộc rơi vào khủng hoảng, quý tộc sẽ đứng phía trước dân tộc, bảo vệ an toàn cho dân tộc. Chính tinh thần trách nhiệm này mang đến cho họ tinh thần “Prometheus cướp lửa thần trao cho nhân loại”, và tinh thần “ta không vào địa ngục thì còn ai vào nữa”. Cũng chính tinh thần này đã bảo vệ và thúc đẩy văn minh nhân loại phát triển hơn.

Ba loại tinh thần này đều đến từ tín ngưỡng tôn giáo, chỉ có tín ngưỡng tôn giáo mới có thể chuyển hóa thành sức mạnh tinh thần kiên định và bền bỉ, đạt đến trạng thái cao quý.

Dù cá nhân quý tộc có tồn tại khuyết điểm này khuyết điểm nọ, nhưng quần thể quý tộc vẫn là lực lượng chủ đạo thúc đẩy văn minh nhân loại phát triển.

Tinh thần quý tộc thúc đẩy văn minh nhân loại phát triển

Trong mỗi cá nhân đều tồn tại cuộc chiến nhân tính và thú tính, và nó làm cho cả một đời cứ loay hoay giữa cao thượng và thấp kém: thượng đế kêu gọi con người hướng đến cao thượng, ma quỷ dụ dỗ con người hướng đến sự thấp kém; người cao quý cao thượng thì gần quý tộc hơn, người hướng tới thấp kém bỉ ổi thì gần với lưu manh hơn; hoặc có thể nói, người gần với quý tộc thì trở nên cao thượng, kẻ gần với lưu manh thì trở nên thấp kém. Tục ngữ gọi hiện tượng này là “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.

Mở rộng ra, một dân tộc cũng tồn tại cuộc chiến giữa nhân tính và thú tính, điều này thực chất là cuộc chiến giữa văn minh và vô văn hóa, cũng là cuộc chiến giữa quý tộc và lưu manh. Một dân tộc do quý tộc chủ đạo, thì sẽ mang đến sự tiến bộ cho nền văn minh; do lưu manh chủ đạo thì sẽ lùi lại về không có văn minh, đây không phải là sức sản xuất vật chất bị thụt lùi, mà là sự thụt lùi về văn minh tinh thần, về văn hóa, đạo đức. Điều này đã được chứng minh bởi lịch sử.

Lịch sử phát triển của nhân loại là do quý tộc chủ đạo, do đó nhân loại mới từ không văn minh mà hướng đến văn minh, nhưng trong quá trình lịch sử phát triển lâu dài, có lúc cũng bị lưu manh kiểm soát, lưu manh chiếm cứ địa vị chủ đạo, kết quả làm cho văn minh bị thụt lùi, do đó, tiến trình phát triển của văn minh nhân loại mới xuất hiện nhiều khúc khuỷu, tiến lùi.

Ý thức tinh thần của con người là thể đa diện phức tạp, tức có ý thức giữ gìn cao thượng, thì cũng có ham muốn tình cảm thấp kém. Tuy nhiên, con người hướng tới cao thượng lại giống như leo núi, rất khó; còn hướng tới thấp kém lại rất dễ, giống như đang ngồi cầu trượt. Do đó mà xã hội nhân loại từ trước đến nay lưu manh vẫn nhiều hơn quý tộc.

Xã hội nhân loại trước giờ lưu manh vẫn nhiều hơn quý tộc, vậy sao quý tộc có thể chiếm địa vị chủ đạo trong sự phát triển của xã hội? Điều này quyết định bởi thái độ của tầng lớp bình dân: tầng lớp bình dân ủng hộ quý tộc, thì quý tộc chiếm thượng phong, tức chiếm vị trí chủ đạo, và dân tộc này sẽ duy trì nền văn minh cao thượng; tầng lớp bình dân mà ủng hộ lưu manh, lưu manh chiếm thượng phong, tức lưu manh chiếm vị trí chủ đạo, thì dân tộc này sẽ duy trì sự thấp kém không văn minh. Đây chính là nguyên nhân cơ bản các dân tộc khác nhau có tiến trình văn minh và mức độ văn minh khác nhau.

Dân tộc ủng hộ quý tộc, quý tộc dễ chiếm thượng phong; dân tộc ủng hộ lưu manh, lưu manh dễ chiếm thượng phong. Nếu lưu manh chiếm thế thượng phong, chiếm vị trí chủ đạo, thì tất nhiên sẽ mê hoặc và dụ dỗ nhiều người hơn nữa biến thành lưu manh, ép buộc nhiều người hơn nữa biến thành lưu manh, cuối cùng biến thành một đại quốc lưu manh, văn hóa đạo đức sẽ bị thoái lui toàn diện, xã hội sẽ đổ vỡ.

Sáng tạo văn minh và sáng tạo lịch sử

Thành tựu văn minh nhân loại dường như đều là quý tộc sáng tạo, từ tư tưởng triết học thời viễn cổ, tín ngưỡng tôn giáo, lòng tin đạo đức, đến văn hóa nghệ thuật thời trung cổ,  đến khoa học tự nhiên thời cận đại, cho đến cơ chế dân chủ thời hiện đại, tư tưởng mở ra thời đại mới của lịch sử nhân loại, dường như đều là quý tộc sáng tạo ra. Có thể nói thế này, không có quý tộc, thì không có văn minh nhân loại. Không cần tìm đâu xa, chỉ cần tìm những nhà triết học, văn học, nghệ thuật, tư tưởng, thần học, khoa học vĩ đại trên thế giới, có ai không phải là quý tộc?

Quý tộc không chỉ sáng tạo văn minh, mà còn sáng tạo ra lịch sử. Những nhà quý tộc thời cận đại của châu Âu, họ đã sáng tạo ra “Quân chủ lập hiến”, sáng tạo “Tuyên ngôn độc lập”, sáng tạo “Tuyên ngôn nhân quyền”, anh hùng  dân tộc Ấn Độ Mahatma Gandhi đã sáng tạo ra “Cách mạng phi bạo lực”, Martin Luther King của Mỹ sáng tạo ra “Tôi có một ước mơ”, họ đem những tư tưởng văn minh này vào thực tế, sáng tạo ra lịch sử huy hoàng, trở thành những cột mốc cho nhân loại hướng tới văn minh.

Sáng tạo lịch sử khác sáng tạo văn minh

Từ trước tới nay, lưu manh không biết sáng tạo văn minh, chỉ biết sáng tạo sự ngang tàn bạo ngược. Tuy vậy lưu manh cũng có thể sáng tạo lịch sử, nhưng lưu manh không thể sáng tạo lịch sử của văn minh, chỉ có thể sáng tạo lịch sử của sự phá hoại, sáng tạo lịch sử tàn sát. Lưu manh từ trước giờ chỉ biết sáng tạo bạo lực, sáng tạo chiến tranh, sáng tạo sự hoang đường, sáng tạo tai nạn.

Nếu một dân tộc mà nhóm người lưu manh giữ vai trò chính trong thời gian dài, thì sẽ trở thành dân tộc “ỷ mạnh hiếp yếu”, trở thành một dân tộc hung bạo, trở thành một dân tộc hủ bại biến chất.

Đạo lý như thế này, lẽ nào còn cần ai chứng minh sao?

Hoàng Hà (biên dịch từ 360doc.com)