BÍ TÍCH THANH TẨY

BÍ TÍCH THANH TẨY
Lể Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, Năm C  13-1-2013
(Isaiah 42: 1-4,6-7 /  40: 1-5,9-11; Acts 10:34-38/Timothy 2:11-14;3:4-7; Luke 3:15-16, 21-22)
Nguyễn Tiến Cảnh, MD

Có người gọi Lễ Hiển Linh là lễ Chúa Kitô khánh thành sứ mạng Thiên Chúa của
Ngài ở trần gian, và được hoàn chỉnh vào lễ Chúa Giêsu chịu phép thanh tẩy. Lễ
Chúa chịu phép Thanh Tẩy coi như kết thúc mùa Giáng Sinh, nhưng thực sự Giáng
Sinh sẽ kết thúc vào lễ Chúa Giêsu dâng mình vào đền thánh vào ngày 2 tháng
Hai.
Bài Tin Mừng hôm nay (Lc 3:15-16, 21-22) cho biết Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của
Ngài ở Galilée sau khi chịu phép thanh tẩy bởi thánh Gioan Tiền Hô. Nói về sự
mong chờ của mọi người (3:15), thánh Luca đã tả quang cảnh thánh Gioan thuyết
giảng giống như tình trạng những người Do Thái thành tâm trong khung cảnh Chúa
Hài Đồng sinh ra (2: 25-26, 37-38). Thánh Gioan Tiền Hô nói về một nhân vật vĩ
đại, cao trọng hơn, có quyền lực thanh tẩy mạnh mẽ hơn thánh nhân nhiều (Lc
3:16; Ga 1:26-27).
Khác hẳn với phép rửa thánh Gioan làm bằng nước, Chúa Giêsu nói  phép rửa
Ngài làm sẽ bằng ơn Chúa Thánh Thần và Lửa (Lc 3:16). Cộng đồng Kito Giáo sơ
khai quan niệm Ánh Sáng Lửa là biểu tượng của Chúa Thánh Thần được đổ ra ngày
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (Cv 2: 1-4). Theo giáo huấn của thánh Gioan,
Thánh Thần và Lửa phải được hiểu là những gì tinh khiết, tinh luyện và trinh
trong (Ez 36: 25-27; Ma 3: 2-3).
Tiếng nói phát ra từ trời khi Chúa Giêsu chịu phép rửa: “Con là Con yêu dấu
của Ta, rất đẹp lòng Ta”
(Mt 3:17) là một xác quyết rõ ràng Chúa Giêsu thành
Nazareth là con-người-thiên-sứ. Đây chính là một tuyên cáo về Tình Yêu của
Thiên Chúa đối với tân dân Israel / Do Thái của Chúa. Đó là cách Thiên Chúa đặt
tên cho một trách nhiệm cao cả. Nó là một bất ngờ đối với thế giới của những ai
hãnh tiến và uy quyền.
Qua phép rửa làm bằng nước sông Jordan bởi thánh Gioan Tẩy giả, chúa Giêsu đã
chấp nhận điều kiện và khả năng của loài người, gồm cả đau khổ và sự chết và
cách nối kết với Thiên Chúa theo cung cách chúng ta muốn. Người đã giang hai
cánh tay ra ở sông Jordan và trên thập giá. Nơi sông Jordan , Chúa đã chấp nhận
nhiệm vụ. Trên thập giá, Chúa đã hoàn thành nhiệm vụ. Để cho thánh Gioan làm
phép rửa tại sông Jordan , Chúa Giêsu đã xác quyết với thế giới Chúa đến thế
gian là để cứu chuộc muôn dân.
CHÚNG TA ĐƯỢC KÊU GỌI ĐỂ TRỞ THÀNH NGÔN SỨ
Khi chúng ta chịu phép rửa trong Chúa Kito là chúng ta được thanh tẩy trong sự
chết của Ngài. Phép thanh tẩy của chúng ta là một bí tích công khai, ngôn sứ và
vương quyền. Chúng ta chấp nhận sự sống của Giáo Hội và được kêu gọi gìn giữ
niềm tin sự sống đó, niềm tin nghĩ đến tha nhân. Niềm tin này là trách nhiệm
chung của mọi người, không của riêng ai cả.
Bí tích Thanh Tẩy là tiếng gọi người Kito hữu trở thành ngôn sứ. Cách thức
chúng ta sống thế nào là tùy từng người. Cách thức đó có thể không bi thương
như những cuộc mạo hiểm của một Isaiah hay một Gioan Tiền Hô. Tuy nhiên nó phải
ở trong cùng một truyền thống ngôn sứ vĩ đại là Đức Giêsu Kitô. Để là ngôn sứ
chúng tôi cần phải nhập cuộc và hành động; tay chân chúng tôi phải bị dơ bẩn,
nghĩa là không trắng muốt, sạch sẽ như những người suốt ngày ngồi trong văn
phòng và huởng thụ.
Qua phép Thanh Tẩy, chúng ta có thể trở thành ánh sáng cho tha nhân, như Chúa
Giêsu là ánh sáng cho chúng ta và toàn thế giới. Cuộc thanh tẩy của chúng ta sẽ
làm cho chúng ta can đảm, tin tưởng và hăng say hồ hỡi. Nó luôn luôn nhắc nhở
chúng ta là Tin Mừng cần phải được tuyên xưng bằng hành động để tỏ lòng tri ân
vì vẻ huy hoàng, tươi đẹp và ơn phúc của nó.
Khi nào chúng ta lần hồi khám phá ra được những đòi hỏi của niềm tin đó, và ở
đâu cách thức thống hối dẫn dắt chúng ta tới, khi nào chúng ta biết phân biệt
thiện với ác; khi nào chúng ta cố gắng tìm kiếm điều Chúa muốn  trong cuộc
sống của chúng ta và  xin Ngài giúp chúng ta hoàn thành nó; khi nào chúng
ta học hỏi thật nhiều hết sức có thể về Thiên Chúa và thế giới của Ngài; khi
nào chúng ta đến gần được Chúa, thì –lúc đó- con người mà bầu trời đã mở ra cho
Ngài sẽ được tỏ lộ cho chúng ta.
PHÉP THANH TẨY TRONG GIÁO HỘI NGÀY NAY
Ở nhiều nơi trên thế giới hiện nay, việc rửa tội trẻ em đã trở thành tùy nghi.
Số hài nhi, trẻ em, thanh niên thiếu nữ và người lớn không rửa tội đang tăng
lên. Việc xuống dốc đó là do tình liên đới gia đình bị soi mòn và xa rời khỏi
Giáo Hội. Tôi đã từng nghe và biết có những linh mục, những cha xứ thắc mắc và
tranh luận về một thực tế là nếu các ngài thấy có những dấu hiệu rõ ràng chứng
tỏ không có thực hành đức tin thì Giáo Hội có quyền từ chối làm các bí tích,
nhất là bí tích thanh tẩy. Đây quả là một vấn nại rất phức tạp.
Tuy nhiên, phải chăng chúng ta không thể một lần nữa, lắng nghe lệnh truyền của
sứ mạng rao giảng Tin Mừng là “Rửa Tội, Truyền Giáo và Giáo
Huấn
không phải là đợi cho người ta đến với mình mà chúng ta phải
đi ra ngoài, thăm hỏi, gặp gỡ, giúp đỡ người ta, ở những nơi mà tình trạng đang
bê bối, tội lỗi, áp bức, truy nã, tù tội, bất công, bất chính đang hoành hành?
Điều chúng ta cần phải có là nhiệt tình hăng say truyền giáo.  Nó không
phải là những cái gì ghê gớm. Nó rất bình thường. Đó là công tác truyền giáo
hàng ngày, là yêu thương, là thăm viếng kẻ đau yếu, thăm hỏi người tù tội, bênh
vực những người bị bạc đãi, bắt bớ, cưỡng đoạt, lên tiếng trước những bất công,
bất chính, đòi hỏi công bằng xã hội, tự do tôn giáo…như chính Chúa Giêsu đã
làm. Ở Hoa Kỳ tôi đã thấy những giám mục, đức ông –linh mục / giáo dân thì là
chuyện bình thường rồi- thường xuyên đi thăm bệnh nhân và tù nhân. PhépThanh
Tẩy chính là nền tảng tuyệt đối của những nhiệt tình hăng say ấy. Nó không phải
là xum xoe, o bế kẻ quyền thế giàu sang và thế quyền, dù họ là những kẻ chống
Chúa và đầu não của tội lỗi, ác quỉ.
Phép bí tích là để dành cho đời sống con người, thanh thiếu niên và người lớn
cả nam lẫn nữ, không phải là chúng ta muốn họ làm điều ta muốn, để cho ta được
yên thân. Chúng ta có thể nghe văng vẳng bên tai lời Chân phước Giáo Hoàng
Gioan Phaolo II kêu gọi chúng ta: “Duc in altum!” Bạn không thể kiếm
ra được những người cần bạn nơi những vũng nước quen thuộc và nông cạn!
Tình trạng khó xử phải từ chối ban phép thanh tẩy và những bí tích khác cho
những người không thích hợp vì đã không hành đạo trong Giáo Hội, đã được chính
Hồng Y Joseph Ratzinger trải nghiệm lúc còn trẻ, nhưng cuối cùng đã được giải
quyết.  Hãy nghe Ratzinger, nay là Giáo Hoàng Biển Đức XVI trả lời thắc
mắc có liên hệ đến chuyện này của một linh mục ở Bressanone tại Bắc Ý, trong
một cuộc vấn-đáp công khai với các giáo sĩ của giáo phận vào ngày 6-8-2008.
Linh mục Paolo Rizzio, là cha xứ và giáo sư thần học, đã hỏi Đức Thánh Cha một
câu hỏi về phép Thanh Tẩy, phép Thêm Sức và Rước Lễ Lần Đầu:
Thưa Đức Thánh Cha,
35 năm về trước, con đã nghĩ là chúng con khởi đầu là một đoàn chiên nhỏ, một
cộng đồng thiểu số, ít nhiều ở đâu đó tại Âu Châu; do đó chúng con đã chỉ thi
hành các bí tích cho những ai thực sự hành đạo mà thôi. Thế rồi, một phần vì
đường lối của triều đại Gioan Phaolo II, con nghĩ là mọi sự rồi cũng được cho
qua. Đức Thánh Cha nghĩ sao và cho chúng con ý kiến để thi hành về sau? Đức
Thánh Cha có thể gợi ý cho chúng con những đường hướng mục vụ nào phải theo?”
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã trả lời câu hỏi này rất thích hợp cho chúng ta về
Phép Thanh Tẩy trong ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa:
“Tôi phải nói rằng, tôi đã đi cùng đường với quí cha. Khi tôi còn trẻ, tôi đã khá nghiêm ngặt. Tôi nói: Các bí tích là bí tích của Niềm Tin, và ở đâu không có Niềm Tin, ở đâu Niềm Tin không được thực hành, thì ở đó Bí Tích cũng không thể ban cho được. Và tôi đã thường nói với các cha xứ của tôi khi tôi làm Tổng Giám Mục Munich là: Đây cũng là hai yếu tố, một thì nghiêm ngặt, một thì rộng rãi cởi mở. Thế rồi, với thời gian, tôi cũng đã nhận thức ra là tôi phải bước theo gương Chúa Giêsu là Thiên
Chúa, là người đã rất cởi mở, ngay cả với dân Do Thái / Israel ở bên lề thời
bấy giờ.  Ngài cũng là Chúa Từ Bi Thương xót và cởi mở -theo như chính
quyền thời đó- với những kẻ tội lỗi, vui vẻ chào đón họ và chấp nhận lời mời
của họ đến nhà họ ăn cơm tối, lôi kéo họ đi theo về với cộng đoàn của Ngài. (…)
“Do đó, tôi có thể nói là, trong cách dạy giáo lý cho con trẻ, làm việc với cha mẹ là điều tối quan trọng.  Đây chính là một trong những cơ hội để tiếp cận với cha mẹ, nó cũng làm cho đời sống đức tin hiện diện nơi người lớn, vì lẽ, đối với tôi, chính họ
có thể học hỏi lại niềm tin nơi con trẻ và hiểu rằng nghi thức trọng thể này
chỉ có ý nghĩa thực và chính danh nếu nó được cử hành trong một khung cảnh /
tình huống của cuộc hành trình cùng với chúa Giêsu, trong tình trạng của đời
sống đức tin. Vậy thì, chúng ta phải cố gắng thuyết phục cha mẹ, qua con trẻ,
về những nhu cầu cần thiết để chuẩn bị cho cuộc hành trình đó, được biểu hiện
bằng cách cộng tác với những mầu nhiệm bí tích và làm cho chúng trở thành đáng
mến đáng yêu. (…)
“Tôi có thể nói rằng chắc chắn đây là một giải đáp chưa đầy đủ, nhưng hiểu theo khoa sư phạm thì đức tin luôn luôn là một cuộc hành trình và chúng ta phải chấp nhận mọi hoàn cảnh của xã hội ngày nay. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải mở rộng chúng cho nhiều người hơn để kết quả không phải chỉ là một ký ức hời hợt bề ngoài mà họ đã trải qua mà còn phải làm cho con tim họ rung động thực sự. Trong khoảnh khắc mà chúng ta bị thu hút để tim ta bị xúc động, như cảm thấy một chút xíu về tình
yêu chúa Giêsu, một chút ít ước muốn chuyển động theo cùng đường cùng hướng,
thì đó là lúc, đối với tôi, có thể nói rằng chúng ta đã thực hiện được một bài
dạy giáo lý thực sự. Ý nghĩa chính của việc dạy giáo lý phải là: mang lại ngọn
lửa tình yêu của Chúa Giêsu -cho dù nó nhỏ bé- xâm nhập trái tim con trẻ, và
qua con trẻ đến với cha mẹ chúng. Vậy là chúng ta đã tái mở cánh cửa niềm tin
của thời đại chúng ta rồi đấy.
“Chớ gì lễ Chúa chịu phép Thanh Tẩy hôm nay là lời mời gọi mỗi người trong  các bạn nhớ tới những lời hứa của mình khi chịu phép rửa và tái xác nhận niềm tin đó với lòng tri ân. Hãy làm sống lại giây phút nước đổ trên đầu các bạn. Hãy cầu nguyện để ân sủng của phép thanh tẩy của bạn giúp bạn trở thành ánh sáng cho tha nhân và thế giới, cho bạn sức mạnh và lòng quả cảm để làm một cái gì khác thường trên thế giới và trong Giáo Hội.”
Fleming Island, Florida
Jan. 10, 2013
NTC

LUẬT CỦA ĐẠO CHÚNG TA LÀ LUẬT “YÊU THƯƠNG”

LUẬT CỦA ĐẠO CHÚNG TA LÀ LUẬT “YÊU THƯƠNG”

Tác giả: Jos.Vinc. Ngọc Biển
nguồn: conggiaovietnam.net

“Yêu mến anh em, là sống chu toàn giới
luật. Yêu mến người lành và yêu thương kẻ gian ác, chính do tình yêu mà chúng
ta được cứu độ, thành con Chúa Trời và thành bạn hữu Chúa Kitô”. Đây là lời bài
hát mà có lẽ ai cũng thuộc vì nó được lặp lại nhiều lần trong Mùa Chay.
Đây cũng chính là lệnh truyền của Đức Giêsu cho các môn đệ, đồng thời cũng là
lời mời gọi cho những ai đang bước theo Đức Giêsu trên lộ trình cứu độ.

Qua bài viết này, người viết sẽ trình bày cách
tiệm tiến để làm sáng tỏ đâu là luật yêu thương thời Cựu ước. Đồng thời, cũng
đi xa hơn để làm nổi bật lên tinh thần yêu thương của Tân ước qua khuôn mặt một
vị Thiên Chúa giàu tình thương tới hết mọi người, Ngài cho mưa trên người lành
cũng như kẻ dữ. Thiên Chúa ấy được hiện tại hóa nơi Đức Giêsu và giáo huấn của
Ngài khi nói về luật yêu thương, đồng thời cũng cho thấy tinh thần đó được Giáo
hội sống và rao giảng như thế nào? Tất cả nhằm làm toát lên tính đặc thù, cốt
thiết của Kitô Giáo.

I. Một Số Quan Điểm Trong Cựu Ước Nói về Yêu
Thương

Cựu ước đã nhiều lần nói về luật yêu thương:“Ngươi
không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi
phải yêu đồng loại như chính mình.”
(Lv 19,18). Trong sách Huấn Ca, tác giả
cũng dạy không được oán hờn, giận giữ anh em mình, vì nếu thù ghét đồng loại
mình và không tha thứ cho nhau thì không xứng đáng được Chúa tha thứ cho mình.
Như thế, tác giả lại còn đi xa hơn để nhắc về ngày tận số của mỗi người, nếu
muốn được Thiên Chúa tha thứ cho mình, thì cũng phải sẵn sàng tha thứ cho nhau
(x. Hc 28,1-9). Những tấm gương nổi bật của lòng bao dung vị tha, phải kể đến
tình yêu của Giuse đối anh em của ông, mặc dù đã bị anh em mình bán sang Ai
cập, nhưng khi có nạn đói hoành hành, ông đã sẵn sàng ra tay nâng đỡ cha già và
anh em. Một khuôn mặt khác cũng không thể không nhắc đến, đó là Vua Đavít đối
với những ác ý của Saun.[1]

Tuy nhiên, theo quan niệm của người Do thái,
yêu tha nhân là những người đồng chủng, đồng bào, nghĩa là chỉ người Do thái.
Còn tất cả mọi người khác là ngoại bang, là kẻ thù, không được thương mà cũng
không được giúp. Ngược lại, còn khuyên tránh xa, và nếu cần có thể giết nữa (x.
Đnl 20,13-17; 23,4-5; 25,17-19). Người Do thái từ chối mọi liên đới với người
không cắt bì, vì cho rằng họ không có bổn phận gì về đức công bằng với người
ngoại. Có thể đánh lừa, ăn trộm, mà không phải áy náy gì hết.

Ngày xưa dân Do thái cũng như dân ngoại đối xử
với nhau quá mức trong việc trả thù. Ví dụ: Cain báo thù 7 lần, Lamek báo thù
70 lần 7 (x. St 4,17-24): vì bị thương, ta giết một người; ta trầy da, một nam
nhi toi mạng (Kn 4,23-24). Nhưng khi luật báo thù ra đời, luật này qui
định một hình phạt tương đối với thiệt hại đã gây ra. Mắt đền mắt, răng đền
răng, luật ấy đã trở thành một phần nhỏ của đạo đức Cựu ước. Trong Cựu ước luật
ấy được đề cập không dưới ba lần:“Còn nếu có sự thiệt hại chi, thì ngươi sẽ
lấy mạng đền mạng, lấy mắt đền mắt, lấy răng đền răng, lấy tai đền tai, lấy
chân đền chân, lấy phỏng đền phỏng, lấy bầm đền bầm, lấy thương đền thương”
(Xh
21,23-25). “Khi người nào làm thương tích cho kẻ lân cận mình, thì người ta
phải làm thương tích cho người đó lại như chính người đó đã làm…Người ta sẽ làm
cho người ấy đồng một thương tích như người ấy đã làm cho người khác”
(Lv
24,19-20). “Mắt ngươi chớ có thương xót, mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng
đền răng, tay đền tay, chân đền chân”
(Tl 19,21).

Như thế, ta thấy luật Cựu ước là một luật đem
lại công bằng cho người đồng loại, nhưng được phép báo oán kẻ thù của mình. Còn
đến thời Tân ước thì sao? Chúng ta xem Đức Giêsu đến, Ngài dạy
gì?

II. Đức Giêsu Dạy và Sống Luật Yêu Thương

Trong Tân ước: Đức Giêsu đã tuyên bố Ngài đến
không phải để phá bỏ luật cũ nhưng đến để kiện toàn nó, làm cho nó nên hoàn hảo
hơn. Vì thế, theo giáo huấn của Đức Giêsu về luật yêu thương tha nhân, thì sự
bao dung đại lượng còn phải đi tới chỗ yêu thương cả thù địch nữa.

Luân lý của người Do thái xưa chỉ buộc yêu
thương những người gần gũi, nghĩa là những người đồng chủng, đồng bào, đồng tín
ngưỡng với mình. Nhưng nay Đức Giêsu dạy phải yêu thương hết mọi người, vì mọi
người là anh em với nhau. Đức Giêsu đã phán: Các con cũng đã nghe dạy rằng: “Hãy
yêu thương tha nhân, và ghét thù địch”
. Còn Thầy, Thầy bảo các con: “Các
con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”
(Mt
5,43-44). Rõ ràng, Đức Giêsu đã xóa bỏ nguyên tắc “ăn miếng trả miếng”.
Ngài đòi hỏi các môn đệ phải khước từ báo oán, phải tha thứ, yêu thương và cầu
nguyện cho kẻ thù nữa[2].
Trong Tin Mừng, chúng ta cũng thấy Đức Giêsu đã mở lối thoát cho nhưng ai bị
người đời giam hãm cách tuyệt vọng trong tội hay trong những khuyết điểm của
họ. Như với cây vả không có trái mà người ta muốn đốn nó đi, Đức Giêsu yêu cầu
hoãn lại một thời gian nữa và tận tâm chăm sóc nó nhiều hơn. “có lẽ nó sẽ có
trái…”
(x. Lc 13, 6-9). Đối với người phụ nữ bị các Luật sĩ và Biệt
phái giam hãm trong tội ngoại tình của bà và kết án tử hình, Đức Giêsu vạch ra
một con đường hy vọng, con đường sống: “Chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội
nữa”
(x. Ga 8,11)[3].
Khi Đức Giêsu nói như thế, Ngài dạy cho các môn đệ và những người nghe Ngài một
bài học về một tình yêu không biên giới, một tình yêu kiên nhẫn, khi nói “Các
con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”
(Mt
5,43-44). Khi Phêrô hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, khi anh em lỗi phạm đến
con, thì con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có tới bảy lần chăng”:
Đức Giêsu
đáp: “Thầy không nói là bảy lần, nhưng là tới bảy mươi lần bảy”
(Mt 18, 21-22). Ngài nói tiếp: “Nếu mỗi ngày, anh em con xúc phạm đến
con tới bảy lần, và bảy lần nó trở lại với con mà nói: Tôi hối hận thì hãy tha
cho nó”
(Lc 17, 4). Xa hơn nữa: “Khi con đang dâng của lễ nơi
bàn thờ mà sực nhớ người anh em lỗi phạm đến con, thì hãy để của lễ lại đó, đi
làm hòa với người anh em trước đã rồi bấy giờ trở lại dâng của lễ của con”
(Mt 5, 23-24).

Điều đó quả thật không dễ! Khó, nhưng cần
thiết biết bao, vì “tha thứ và xin thứ tha tạo ra một phẩm chất mới
trong quan hệ giữa người với người, bẻ gãy xiềng xích tội lỗi trói buộc trong
tâm tư những người thù hận nhau… không có con đường nào khác hơn là tha thứ
và xin thứ tha”
[4].
Thánh Công đồng Vat. II cũng nhấn mạnh luật yêu thương khi nói: “Giáo Huấn
của Đức Kitô còn đòi ta phải tha thứ những xúc phạm và mở rộng luật yêu thương
tới mức kể luôn cả những kẻ thù của mình nữa”
(Mv 28). Tuy nhiên, cũng
trong đoạn văn ấy, Công đồng lưu ý ta phải phân biệt giữa tội và người có tội.
Ghét tội, nhưng không được ghét kẻ có tội,  phải tìm cách giúp đỡ họ vượt
ra khỏi tình trạng tội lỗi. Như vậy, Công đồng cũng lấy lại tinh thần của Đức
Giêsu để hướng dẫn hành động cụ thể về việc yêu thương qua những cử chỉ rõ ràng
như: giao tiếp, giúp đỡ, bác ái, cầu nguyện…nếu người môn đệ Đức Giêsu chỉ yêu
thương những người đồng đạo thì chưa phải là một môn đệ đích thực. Người đời họ
cũng làm như thế: “Ta bảo các người: nếu đức công chính của các ngươi không
vượt hẳn các Ký Lục và Biệt Phái, các người sẽ không được vào Nước Trời

(Mt 5,20). Ngài đã đi một bước xa hơn để diễn tả một tình yêu không phân biệt
bạn và thù, để hướng tới mọi người ở mức độ tuyệt đối. Bởi vì mức độ của tình
yêu là yêu không mức độ.[5]

III. Yêu Thương Kẻ Thù là Đi Vào Trong Tình Yêu
Thiên Chúa và là Điểm Sáng Của Người Kitô

“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo
nhất của Đức Giêsu. Người đã cắt nghĩa rất cụ thể. Yêu thương kẻ
thù là :- Làm ơn cho kẻ ghét mình.

– Chúc phúc cho người nguyền rủa mình.

– Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.

– Ai vả má nầy thì đưa cả má kia.

– Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong.

– Ai lấy gì thì đừng đòi lại…

Lý do của thái độ nhân ái, lòng yêu thương bao
la ấy, là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời “Người
làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên
kẻ lành cũng như người bất lương…”

“Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt
thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người.
“Yêu thương kẻ thù”
là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái
Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.

Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Đức
Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là đề nêu cao tinh thần
khoan dung hiền từ quảng đại tha thứ.

“Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các
lệnh truyền của Đức Giêsu. Chính Ngài đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho
những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá “lậy Cha, xin tha cho họ vì
nó lầm chẳng biết
”. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu
của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người
đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho
con người cơ may hầu sám hối và canh tân.

Như vậy Đức Giêsu mở ra con đường mới cho nhân
loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu
thương mới làm cho thù hận tiêu tan.

Giới răn của Đức Giêsu “Hãy yêu thương kẻ
thù”
là một sự từ bỏ triệt để bạo lực. Thay thế tình yêu cho thù hận là một
việc khó khăn nhất trên đời. Ý tưởng ấy rất cao và rất khó nhưng nó tạo nên ý
nghĩa.

Là những Kitô hữu, chúng ta đứng về phía bất
bạo động. Tuy nhiên đó không phải là một chọn lựa cho sự nhu nhược hay thụ động
leo thang, nhưng chọn lựa bất bạo động có nghĩa là tin tưởng mạnh mẽ vào sức
mạnh của chân lý, của công bằng và tình yêu hơn là sức mạnh của chiến tranh, vũ
khí và hận thù… Chúng ta phải cố gắng dùng điều tốt nhất để đáp lại điều xấu
nhất.

Là những Kitô hữu, chúng ta phải cố gắng học
theo lòng quảng đại của Thiên Chúa, sẵn sàng tha thứ, không đòi trả thù và oán
hận chống lại người khác.

Khi đến trần gian, Đức Giêsu đã mang ơn cứu độ
từ trời xuống cho nhân loại, nhưng ơn cứu độ này lại được ban cách ưu tiên cho
kẻ tội lỗi như Ngài đã nói: Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, mà
là kêu gọi người tội lỗi [6].
Dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu đã làm nên sự nổi bật của Kitô giáo. Như vậy, nếu
các Kitô hữu không cố gắng bắt chước tình yêu không phân biệt của Thiên Chúa,
họ sẽ không tốt hơn những người khác.

Chính sự tha thứ sẽ giải phóng con người, còn
nếu nuôi lòng hận thù báo oán thì con người sẽ chuốc lấy sự đau khổ. Khi chúng
ta ghét kẻ thù là chúng ta cho họ quyền áp đảo chúng ta.

Nói cách khác, viên đạn căm thù chỉ có thể làm
thương tổn kẻ thù chúng ta sau khi đã xuyên qua thân xác chúng ta trước. Khi
nuôi trong mình sự trả thù thì đồng nghĩa với việc ta đào thêm một cái hố nữa
để chôn chính ta. Người Hy Lạp cổ thường ví von như sau: “Người khôn ngoan
thà chịu đựng sự ác hơn là làm điều ác”.
Chúng ta biết chỉ một mình Thiên
Chúa là Đấng hoàn thiện, tốt lành vô cùng, chúng ta không thể trọn hảo như Ngài
được. Nhưng chúng ta phải nên trọn lành như ý Ngài muốn, theo mẫu gương thánh
thiện của Ngài, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ
dữ.

Đỉnh cao của lời mời gọi yêu thương đó là lời
nguyện tha thứ của Đức Giê su trên Thập Giá: “lậy Cha, xin tha cho chúng, vì
chúng không biết việc chúng làm
” tinh thần ấy đã thúc đẩy tình yêu
đến mức độ anh hùng: đặc biệt là tha thứ cho kẻ thù và lấy ân báo oán. Như vậy “Các
con sẽ là con Cha trên trời, Đấng cho mặt trời chiếu soi kẻ dữ cũng như người
lành, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”
.

Cuối cùng, yêu thương tha thứ phải được định
hướng bởi sự thật. Không có sự thật thì tình thương trở thành mù quáng. Yêu
hoa, không có nghĩa là yêu luôn cả những con sâu ẩn núp trong những cánh hoa.
Đức ái Kitô Giáo đòi hỏi phải đấu tranh tích cực để khử trừ tội ác và cứu vớt
con người , biến kẻ thù thành anh em, biến con người thành con Chúa. Đây là một
lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng phải phấn đấu hằng ngày.

Tóm lại, qua bài viết trên, người viết muốn
trình bầy tổng quát về luật yêu thương của thời Cựu Ước. Dần dần, luật đó được
đề cao và tiến xa hơn trong thời Tân Ước, khi nói phải yêu thương cả kẻ thù,
làm ơn và cầu nguyện cho những người ngược đãi   mình nữa. Luật đó đã
chi phối toàn bộ con người và sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu. Đồng thời cũng là
điều kiện cần phải có của những người môn đệ Đức Giêsu trên lộ trình đón nhận
và loan truyền ơn cứu độ. Chính vì thế, “yêu mến kẻ thù là luật căn bản của
Đạo chúng ta”


Jos.Vinc. Ngọc Biển


[1] Tủ Sách Chuyên Đề, Thần Học Luân Lý Chuyên Biệt, tập
2, tr.40.

[2] Sđd. tr. 40-41.

[3] Th. REY-MERMET, C.SS.R. Tin, Nhãn quan mới về luân
lý, quyển 1, tập 1, tr.227.

[4] Lời khai mạc ngày tha thứ tại Quảng Trường Thánh Phê rô,
nhân dịp năm thánh 2000 của Đức Gioan Phao lô II.

[5] Th. REY-MERMET, C.SS.R. Tin, Nhãn quan mới về luân
lý, quyển 1, tập 1, tr. 102.

[6] Th. REY-MERMET, C.SS.R. Tin, Nhãn quan mới về luân
lý, quyển 1, tập 1, tr. 114.

Tác giả: Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Dáng lụa- Thái Tuấn

Dáng lụa- Thái Tuấn

Với Bộ sưu tập mới cao cấp, đột phá, lần đầu tiên được thiết kế trên công nghệ in hiện đại – Digital, đặc biệt được giới thiệu trong chương trình Paris By Night 106. Trúc và Sen và hai hoa văn được thiết kế, sắp xếp theo bố cục mới trên từng chiếc áo dài. Lấy cảm hứng theo từng dòng thời gian trong ngày: Sáng – Trưa – Chiều – Tối, mỗi bộ trang phục là một cách thể hiện với những cảm xúc khác nhau, mang lại nét độc đáo cho cả Bộ sưu tập.

Bộ sưu tập “Dáng Lụa” còn khắc họa nên bức tranh hòa quyện giữa hiện đại và
truyền thống. Cho dù ở nơi đâu và trong hoàn cảnh nào, giá trị văn hóa truyền
thống dân tộc vẫn luôn tồn tại trong lòng người Việt Nam
.

 

Chiếc áo ngàn năm

Chiếc áo ngàn năm
ÁO DÀI THƯỚT THA
Tóc xõa bờ vai, đôi mắt huyền

Áo dài tha thướt dáng nàng tiên
Hương hoa ngan ngát hòa theo gió
Em đến trần gian xóa muộn phiền.

Hồng Phúc
Một biểu trưng của Việt Nam
Khác với kimono của Nhật Bản hay hanbok
của Hàn Quốc, chiếc áo dài Việt Nam vừa truyền thống lại cũng vừa hiện đại.
Trang phục dành cho nữ này không bị giới hạn chỉ mặc tại một số nơi hay dịp mà
có thể mặc mọi nơi, dùng làm trang phục công sở, đồng phục đi học, mặc đi chơi
hay mặc để tiếp khách một cách trang trọng ở nhà. Việc mặc loại trang phục này
không hề rườm rà hay cầu kỳ, những thứ mặc kèm đơn giản: mặc với một quần lụa
hay vải mềm, dưới chân đi hài, guốc, hay giày gì đều được; nếu cần trang trọng
(như trang phục cô dâu) thì thêm áo choàng và chiếc khăn đóng truyền thống đội
đầu, hoặc một chiếc miện Tây phương tùy thích. Đây chính là điểm đặc biệt của
thứ trang phục truyền thống này.

Gió bay khép nép đôi tà áo.
Hò hẹn lâu rồi em nói đi !

(thơ Đinh Hùng)
Chiếc áo dài hình như có cách riêng để tôn đẹp mọi thân hình. Phần trên ôm sát thân nhưng hai vạt buông thật mềm mại trên đôi ống quần rộng. Hai tà xẻ chít trên vòng eo khiến cho cử chỉ người mặc thật  thoải mái, lại tạo dáng thướt tha, tôn vẻ nữ tính, vừa kín kẽ vì toàn thân được bao bọc bởi lụa mềm, lại cũng vừa khiêu gợi vì chiếc áo làm lộ ra sống eo.

Chiếc áo dài vì vậy mang tính cá nhân hóa  rất cao: mỗi chiếc chỉ may riêng cho một người, dành cho riêng người đó; không thể có một công nghệ “sản xuất đại trà” cho chiếc áo dài. Người đi may phải lấy số đo thật kỹ. Khi may xong phải qua một lần mặc thử để sửa nhỏ nữa mới hoàn thiện.
Tháng giêng em áo dài trang nhã
Tỉnh lỵ còn nguyên nét Việt Nam
Đài các chân ngà ai bước khẽ
Quyện theo tà lụa cả phương đông
(Nguyễn Tất Nhiên)
…Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong,
Hôm xưa em đến, mắt như lòng,
Nở bừng ánh sáng, em đi đến,
Gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng…
(Áo Trắng, thơ Huy Cận)
Có phải em mang trên áo bay
Hai phần gió thổi, một phần mây
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay
(Nguyên Sa)
Ngày nay, áo Dài xuất hiện khắp nơi trên  thế giới. Những phụ nữ Việt Kiều biểu lộ tình cảm với quê hương qua chiếc áo dài. Nhiều du khách nước ngoài đã có những ấn tượng rất tốt về tà áo Dài VN. Họ cảm thấy được đón tiếp rất nồng hậu khi những tà áo Dài bay bay trước gió ở phi trường. Thật tiếc cho những ai đến VN mà không mang về một chiếc áo Dài làm kỷ niệm và để khoe với những ai chưa từng đến VN!
Sưu tầm trên net
Phu Nguyen (504) 722-0115

CUỐI ĐỜI THANH THOÁT

CUỐI ĐỜI THANH THOÁT

Suy ngẫm về cuộc sống

Ngày tuyệt vời nhất chính là NGÀY HÔM NAY

Điều dễ làm nhất chính là BỚI MÓC LỖI LẦM CỦA NGƯỜI KHÁC

Điều xấu hổ nhất chính là TỰ MÃN QUÁ ĐÁNG

Trở ngại lớn nhất của cuộc đời chính là NỖI LO SỢ

Sai lầm lớn nhất chính là TỪ BỎ MỤC ĐÍCH CAO ĐẸP CỦA MÌNH

Chướng ngại lớn nhất ngăn cản bạn đến thành công là CÁI TÔI ÍCH KỶ

Cảm giác mãn nguyện nhất là khi LÀM HẾT LÒNG VỚI CÔNG VIỆC CỦA MÌNH

Người hay bất hòa nhất là NGƯỜI HAY PHÀN NÀN

Sự vỡ nợ tồi tệ nhất là ĐÁNH MẤT NHIỆT HUYẾT, NIỀM TIN CỦA MÌNH

Nhu cầu lớn nhất của con người là CẢM NHẬN CUỘC SỐNG

Quà tặng quý giá nhất bạn có thể trao tặng cho mọi người chính là LÒNG KHOAN DUNG

Điều đáng để bạn phải suy nghĩ nhiều nhất bây giờ không phải CÁI CHẾT mà là SỐNG NHƯ THẾ NÀO?

Điều vô giá mà bạn cần và có thể chia sẻ là TÌNH YÊU THƯƠNG…

Anh Trần Quang Minh gởi

Tình yêu cứu thế

Tình yêu cứu thế

(Lc 3,15-16, 21-22)

Thiên Phúc

Một vị quan lớn mở tiệc mời nhiều người đến dự. Tất cả các người được mời đều ăn mặc sang trọng và dùng xe đi đến. Trong số ấy có một người khách già. Rủi thay, vì già yếu nên ông cụ này khi xuống xe đã trượt chân té vào vũng bùn. Khách đến dự tiệc thấy vậy phá lên cười.

Xấu hổ và cảm thấy mình không xứng đáng, ông quyết định quay về. Gia nhân nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc. Khi đó vị quan chủ tiệc bước ra sân, đi tới chỗ vũng nước đó, rồi cũng cố tình té ngã vào vũng nước. Thế là áo quần của ông quan cũng dơ dáy y như cụ già kia. Mọi người chung quanh chẳng ai dám cười
nhạo nữa. Sau đó, vị quan lớn cầm tay ông cụ đưa vào phòng tiệc. Ông cụ chẳng
còn lý do nào để chối từ.

***

Chỉ có hành động cố tình té ngã của vị quan lớn kia, mới có thể đưa ông cụ vào bàn tiệc.

Con Thiên Chúa trên tầng trời cao thẳm, lại hạ mình xuống làm kiếp phàm nhân.

Đấng thánh thiện vô cùng, lại khiêm nhu đứng xếp hàng bên những tội nhân.

Đấng xoá tội trần gian, lại hoà mình trong đoàn người tội lỗi.

Đấng thanh sạch vô biên, lại chịu dìm mình trong dòng sông “sám hối”.

Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần, lại xin chịu phép rửa của Gioan.

Chính hành vi rất mực khiêm hạ của Đấng Cứu Thế đã cho thấy tình yêu sâu nặng của Thiên Chúa dành cho con người.

Chính thái độ tự huỷ tột cùng của Đấng Cứu Thế đã cho thấy tình yêu dấn thân của Thiên Chúa đối với con người cát bụi chúng ta.

Vâng, chính Thiên Chúa đã có sáng kiến tuyệt vời là tình nguyện hoá thân làm kiếp phàm nhân:

Để chia sẻ thân phận đói nghèo, khổ đau, bệnh hoạn của con người.

Để nếm cảm nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân.

Để thấu hiểu niềm khao khát đổi mới trong lòng người tội lỗi.

Vâng, chính Con Thiên Chúa đã thực hiện những phép lạ thật ngoạn
mục ngay trước mắt con người,

Người đã muốn nên anh em với chúng ta để chia sẻ những gì Người đã nhận
từ Cha: “Mọi sự của Cha là của Con”.

Người đã muốn chung phận con người để chia sẻ phận Con Thiên Chúa:
“Phàm là con cái thì chung huyết nhục, nên Người cũng chung phần huyết
nhục với chúng ta” (Dt 2,14).

Người đã muốn chung phần khổ đau, để có thể cứu giúp những ai đau khổ: “Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách”(Dt 2,18).

Chiêm ngắm Đấng Cứu Thế cúi mình chịu phép rửa, chúng ta hiểu được thế nào là Tình Yêu: Một Tình Yêu vui lòng tự huỷ để cùng đồng hành với anh em cho đến cùng, một Tình Yêu sẵn sàng chia sẻ trọn vẹn cho anh em, một Tình Yêu chấp nhận cúi xuống để nâng anh em chỗi dậy cùng bước về nhà Cha.

Chiêm ngắm Đấng Cứu Thế cầu nguyện với Cha nơi dòng sông Giođan, chúng ta hiểu được thế nào là Hiệp Thông: Chính trong giây phút Hiệp Thông sâu đậm này mà Người cảm nhận được đầy tràn Thánh Thần và nghe được tiếng Cha âu yếm: “Con là Con của Cha. Hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22).

Ngày nay, chúng ta đã chịu phép Rửa của Đức Kitô trong Thánh Thần, chúng ta được mời gọi Hiệp Thông thân mật với Ba Ngôi Chí Thánh, chúng ta cũng được mời gọi lên đường phục vụ anh em, nhất là những anh em đang cần một Tình Yêu chia sẻ, đỡ nâng và trao ban trọn vẹn: Tình Yêu Cứu Thế!

***

Lạy Chúa, trong con mắt Chúa chúng con là tất cả. Xin cho chúng con luôn nhìn anh em bằng cái nhìn của Chúa, và yêu thương anh em chúng con bằng tình yêu trọn vẹn của Người. Amen.

 

SƯỚNG và KHỔ

SƯỚNG và KHỔ

Có một đề thi dành cho các thí sinh đau khổ thuộc mọi lứa tuổi như sau: “Bạn
hãy chứng minh bạn khổ.

http://www.vncentral.com/news/wp-content/uploads/2012/05/Cuong-hiep-nguoi-minh-yeu-toi-dau-kho-tuyet-vong.jpg

 

Thí sinh thứ nhất, một người đàn ông chừng sáu mươi, chứng minh: Tôi lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo. Bố mẹ tôi quanh năm ‘bán mặt cho đất – bán lưng cho trời’. Vì nhà nghèo nên tôi phải nghỉ học sớm để đi làm kiếm tiền mưu sinh. Nghĩ mà tủi thân!…

Thí sinh thứ hai, một phụ nữ trẻ, dẫn chứng: Tôi là người kém sức khoẻ. Từ nhỏ đã hay đau yếu. Mỗi lần trái gió trở trời là tôi lại xụt xịt. Rất khó chịu!…

Thí sinh thứ ba, một thanh niên tuổi chừng hăm mấy, viết ngay không chần chừ: Tôi chẳng có tài cán gì. Giữa đám đông bạn bè, tôi chẳng biết ca hát. Mấy đứa bạn cứ trêu chọc bảo tôi giọng ngang như cua bò. Bực tức và chán ghê!…

Thí sinh thứ tư toan đặt bút xuống viết thì khựng lại. Rồi anh suy nghĩ có vẻ rất căng thẳng. Cuối cùng, quyết định nộp giấy trắng.

Kết quả cuộc thi: Ba thí sinh đầu tiên được 1 điểm an ủi vì đã có… công viết. Còn thí sinh thứ tư thì phải lên gặp thầy để trình bày rõ lý do tại sao lại để giấy trắng.

Trong giờ sửa bài, giáo sư nhận xét chung:

+ Các bạn không được điểm cao vì bài các bạn không thể hiện được tư duy sâu sắc. Các bạn chỉ liệt kê những điều không như ý xảy ra trong cuộc đời. Ai cũng làm được như thế. Thực ra nó không đủ chứng minh rằng các bạn khổ vì góc nhìn đó quá hẹp.

Rồi giáo sư quay sang thí sinh thứ tư và hỏi:

+ Tại sao bạn để giấy trắng?

– Thưa giáo sư, thoạt đầu tôi cũng có khuynh hướng vội vàng liệt kê như các bạn kia. Nhưng tôi chợt giật mình…

+ Sao bạn lại giật mình?

– Dạ, xin cho phép tôi đứng lên trước mọi người để trình bày được dễ dàng hơn.

Thế rồi cậu khập khiễng bước lên trên. Quay xuống nhìn mọi người, cậu nở một nụ cười thân thiện. Người ta thấy mặt cậu một bên bị nám đen. Cậu nói:

– Hồi tôi còn nhỏ, bố mẹ phải đi làm ngoài đồng, chỉ có chị tôi và tôi ở nhà. Một hôm, chị đang nấu cơm thì bị cháy nhà. Như quý vị thấy, tôi bị phỏng nặng, bây giờ vẫn còn dấu cháy trên mặt. Năm tôi lên bảy, bố tôi qua đời. Một buổi tôi đi học, một buổi tôi phải đi bán vé số ở khu chợ gần nhà để phụ mẹ. Cách đây ít năm, trên đường đi nhà thờ về, có một chú kia nhậu say lái xe tông vào tôi khiến chân tôi bị tật từ hồi đó. Bây giờ mỗi khi trời trở lạnh, chân tôi cũng khá đau. Gần đây, tôi thú thật là tôi yêu một
người con gái, nhưng tôi thế này thì làm sao xứng với người ta được!

Trong phòng lúc ấy có nhiều người. Giọng cậu yếu ớt nhưng ai cũng nghe rõ vì bầu khí lặng im đến lạ thường.

+ Nhưng sao bạn không viết những điều đau khổ này vào bài thi?

– Dạ không, vì tôi giật mình. Tôi giật mình khi tôi chợt nhớ lại lời của bạn tôi trong nhà thờ hôm Chúa Nhật. Anh ấy nói với mấy người nghèo khổ rằng: “Anh em thật có phúc.” Thế là tôi khựng lại để suy nghĩ.

Rồi tôi nhận ra: để chứng minh tôi thực sự khổ thì tôi phải chứng minh cho được rằng tôi không có gì để hạnh phúc.

Mọi người càng chăm chú. Vị giáo sư lên tiếng:

+ Hay! Xin lỗi bạn, tôi không phải là Kitô hữu, vậy cho tôi hỏi anh bạn gì gì đó của bạn nói như thế nào về việc may phúc khiến bạn thay đổi cách nhìn như thế?

http://img.tamtay.vn/files/photo2/2009/12/2/21/348544/4b1677ae_4d9a2289_jesus-children.jpg

– Dạ thưa giáo sư, bạn tôi tên là Giêsu. Anh ấy nói: “Mắt anh em thật có phúc vì được thấy những điều đang thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe những điều đang nghe. Nhiều người mong mỏi được như anh em mà không được.” (Mt 13:16-17).

Thưa giáo sư, lúc ấy tôi chợt nhìn thấy và nghe được nhiều điều may mắn trong cuộc sống của tôi.

Tôi có mẹ có chị. Nhà chúng tôi tuy chẳng kín cổng cao tường nhưng đùm bọc nhau
ấm áp. Tôi có trái tim biết rung động. Tôi có lòng quảng đại. Tôi có lương tâm. Tôi có bạn bè nói chuyện. Tôi có nhiều người cầu nguyện cho tôi. Tôi được đi học. Tôi có trí khôn để nhận ra trong cái xui có cái hên, tức là trong nghịch cảnh có ân sủng.

Ví dụ: Vì lớn lên trong cảnh khó khăn, tôi thấy mình biết cảm thương với người nghèo hơn. Vì mang tật nguyền trên mình, tôi hiểu được nỗi đau của tha nhân. Vì thấy mình giới hạn, tôi đặt niềm tin vào Chúa nhiều hơn. À, cuối tuần nào tôi cũng được cùng mẹ và chị đi Lễ với bà con chòm xóm để nghe Lời Chúa.

Vì thế tôi không thể chứng minh là tôi khổ.

nguồn: Anh Nguyễn v Thập gởi

__._,_._

S O S Á N H

S O  S Á N H
Khỏe không phải là nhấc lên Mạnh , mà là để Nhẹ xuống
Kính không phải là đối với Trên , mà là xử với Dưới .
Đẹp không phải là Hút người vào , mà là giữ người ở lại .
Xấu không phải là tại gương mặt , mà ở tại Cách sống
Khéo không phải là tạo điều To, mà là làm tốt điều Nhỏ .
Hay không phải là Ngạc nhiên , mà là sự Thú vị .
Buồn không phải là Bên ngoài , mà là ẩn Bên trong .
Mười nghịch lý thời đại .
1/- Ngày nay ta có nhà cửa to hơn, nhưng gia đình bé lại.
2/- Bây giờ là thời “thức ăn nhanh”, nhưng tiêu hóa chậm.

3/- Ta có nhiều hiểu biết hơn, nhưng kém xử sự.
4/- Thân xác to hơn, nhưng tâm hồn nhỏ lại.
5/- Ta có nội thất cao cấp, nhưng đạo đức thấp tè.
6/- Ta lên Cung trăng và trở lại, nhưng ngại băng qua đường thăm hàng xóm.
7/- Chúng ta quá vô tư và quá ít cười.
8/- Nhà cửa khang trang hơn, nhưng nhiều tổ ấm tan vở.
9/- Ta học kiếm sống, nhưng không có cuộc sống.
10/- Ta bận lo nhiều về số lượng, nhưng ít về chất lượng.

S.T.
Anh Nguyễn Chí Hoà gởi

MINH TRIẾT CUỘC ĐỜI

MINH TRIẾT CUỘC ĐỜI

“Con đừng nhút nhát khi cầu nguyện,

và đừng coi thường việc làm phúc bố thí.”

(Huấn ca 7:10)

Đây là minh triết cuộc đời

Những bài học sống tuyệt vời biết bao

Tương lai ai biết ra sao?

Chỉ còn có thể ước ao nồng nàn

Khó khăn quyết chẳng đầu hàng

Êm đềm không thỏa mơ màng phiêu du

Mọi người đều phải thiền tu

Chan hòa từ thiện khiêm nhu hiền lành

Giê-su huấn giáo ngọn ngành

Gọi mời xây dựng viên thành phận thân

Sẻ chia huynh đệ vang ngân

Cùng nhau cất bước phù vân cõi phàm

Hy sinh quảng đại hãy làm

Trái tim rộng mở luận đàm hợp hoan

Gia đình chăm chỉ lo toan

Phước ân Chúa đổ nhịp khoan diễm tình!

* Nguyễn Sông Núi

(Tv Thánh Gioan Neumann, Dallas, TX, Jan. 8, 2013)

Anh chị Thụ & Mai gởi

Chúa làm tất cả!

Chúa làm tất cả!

Lm. Vĩnh Sang, DCCT

 

WGPSG — Gần đây tôi có tham gia vào một công trình khoa học kỹ thuật khá lớn. Vì qui mô lớn của công trình, chúng tôi phải tìm kiếm những chuyên viên có trình độ và kinh nghiệm trong nhiều lãnh vực để cộng tác.

Vì là công trình của Giáo Hội nên thường thì các cộng tác viên sẽ phải là người Công Giáo, không phải chúng tôi có sự phân biệt gì giữa lương với giáo, nhưng trong quá trình nghiên cứu và sáng tác, vai trò Lòng Tin đóng một vị trí quan trọng cùng với những kiến thức cần thiết về tôn giáo, không kể trong khi làm việc sinh hoạt với nhau, đồng đạo sẽ dễ nói chuyện và dễ tổ chức chương trình chung hơn. Dù vậy, cũng có một vài lãnh vực không nhất thiết phải là người có Lòng Tin mới làm được, vì nó đơn thuần khách quan khoa học.

Có một vị tiến sĩ khoa học rất trẻ, tốt nghiệp từ nước ngoài về, làm giảng viên của một trường đại học công uy tín trong cả nước, anh không phải là Công Giáo nhưng lại nhận lời cộng tác với chúng tôi. Anh không tham gia từ đầu (công trình đã khởi sự ba năm nay) nhưng chỉ tham gia khi công trình bước vào phần chuyên môn của anh. Chúng tôi quen nhau và làm việc với nhau đến này cũng gần tròn một năm.

Trong một chuyến đi khảo sát vùng cao nguyên, chúng tôi được Đức Cha Kontum tiếp đặc biệt. Sau buổi nói chuyện, khảo sát công trình và bữa ăn, Đức Cha có tặng đoàn chúng tôi mỗi người hai cuốn sách về công cuộc truyền giáo ở Giáo Phận Kontum.

Lưu lại Kontum và Pleiku hai ngày, trên đường ra phi trường trở lại Sàigòn, anh hỏi tôi nhiều điều về những vấn đề tôn giáo, tôi ngạc nhiên về những câu hỏi này, anh cho biết hai ngày qua, từ khi được Đức Cha tặng sách, anh đã đọc ngay và đọc xong trọn vẹn hai cuốn sách ấy, trong khi cũng hai cuốn sách này vẫn còn nằm nguyên trong balô của tôi và của mọi người “có đạo” trong đoàn, chưa ai mở ra đọc và đọc tới nơi tới chốn như anh. Tôi e rằng tính đến hôm nay đã hai tháng, chắc cũng chưa có ai đọc hết hai cuốn sách đó ngoại trừ anh.

Cách đây hai ngày khi chúng tôi cần phải làm việc với nhau, một ngày làm thí nghiệm, mọi việc êm ả trôi qua, kết quả khả quan. Hôm sau, chúng tôi ngồi làm việc trong phòng, bầu khí căng thẳng, nhiều tranh cãi và nhiều bất đồng. Khi trời đã xế chiều, tôi mệt mỏi tỏ vẻ thất vọng và buồn phiền về những kết quả ít ỏi trong ngày, anh nhìn tôi và nói với mọi người: “Cha đừng lo, Chúa sẽ giải quyết hết cho chúng ta”. Tôi ngạc nhiên về lời nói của anh, một cộng tác viên duy nhất trong nhóm là người không Công Giáo, một cộng tác viên duy nhất nói lời… phó thác cho Chúa! Anh, một người bị coi là “ngoại đạo”, chứ không phải là tôi, một Linh Mục Công Giáo.

Chiều tối ấy, trên bàn ăn vui vẻ với nhau, một cộng tác viên Công Giáo nói với tôi: “Từ hôm qua đến hôm nay, con đếm được anh ta nói đến năm lần câu: Chỉ có Chúa làm được thôi! Và cũng chỉ có mỗi mình anh ta nói câu ấy!”

Từ ngày làm việc với nhau, máu nhiệt thành tự nhiên khuyến khích tôi tìm cách giới thiệu Đạo với anh, tôi mong muốn qua cơ hội này anh biết Chúa và tôi cũng nhớ cầu nguyện cho anh nữa. Nhưng bất ngờ hôm nay, anh củng cố niềm tin của tôi, anh truyền cho tôi và những anh chị em “có đạo” niềm tin của anh, niềm tin rất đơn giản và nguyên sơ, niềm tin chưa hề qua Bí Tích. Tôi tự hỏi “Ai truyền niềm tin cho ai?”

Một lần nữa trong nhiều lần, tôi có bài học Chúa làm tất cả! Chẳng phải tôi, chẳng phải ai, mà là Chúa, Chúa làm việc của Chúa. Đừng ai nghĩ là chính mình làm, đừng ai tự hào vô duyên, kiêu căng lố bịch, vênh vang như là không hề chịu lấy!

Bài học Máng Cỏ là bài học gì trong Mùa Giáng Sinh này?

Maria Thanh Mai gởi

Sứ Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới Năm 2013 (tiếp theo)

Sứ Điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới Năm 2013

(tiếp theo)

“Phúc cho những ai kiến tạo hòa bình”

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
Người kiến tạo hòa bình là người yêu mến,

bảo vệ và thăng tiến sự sống trong sự toàn vẹn của nó

4. Con đường đạt đến thiện ích chung và hòa bình trên hết cần phải tôn trọng phẩm giá con người trong mọi chiều kích, bắt đầu từ khi thụ thai, thông qua sự phát triển cho đến cái chết tự nhiên của nó. Người kiến tạo hòa bình đích thực phải là người yêu mến, bảo vệ và thăng tiến sự sống con người trong sự toàn vẹn của nó, cá nhân, cộng đoàn và siêu việt. Sự sống trong ý nghĩa trọn vẹn nhất chính là đỉnh cao của hòa bình. Bất cứ ai yêu mến hòa bình thì không thể xem nhẹ những tấn công và tội ác chống lại sự sống.
Những ai không tôn trọng sự sống con người, và hệ quả là, trong số  những điều khác, cổ võ việc tự do phá thai, những người này không nhận ra rằng, khi làm như vậy, họ đang theo đuổi một thứ hòa bình giả tạo. Sự chối bỏ trách nhiệm, hạ thấp phẩm giá con người, và thậm chí giết chết những trẻ em vô tội và không có khả năng tự vệ, sẽ không bao giờ có thể đem lại hạnh phúc và bình an. Thực vậy, làm sao một người có thể tuyên bố mình đang kiến tạo hòa bình, mang lại sự phát triển toàn diện cho con người hay bảo vệ môi trường trong khi không bảo vệ những con người yếu thế nhất, những con người chưa cất tiếng khóc chào đời. Mọi xúc phạm chống lại sự sống, đặc biệt trong giai đoạn đầu của nó, sẽ gây ra những thiệt hại không thể sửa chữa được cho sự phát triển, hòa bình và môi trường. Người ta không chỉ khôn khéo đưa vào luật những quyền và những thứ tự do giả tạo mà, dựa trên nền tảng của quan điểm giản lược và tương đối về con người, họ còn khéo léo sử dụng những diễn tả mập mờ nhắm đến việc thăng tiến quyền ủng hộ việc phá thai và chết êm dịu. Những mánh khóe đó đang đe dọa quyền cơ bản của sự sống.
Cũng cần phải nhìn nhận và thăng tiến cơ cấu tự nhiên của gia đình, là sự kết hợp của một người nam và một người nữ, chống lại những toan tính đồng hóa về mặt pháp lý cơ cấu tự nhiên này với những hình thức hoàn toàn khác biệt; những nỗ lực đồng hóa như thế thực sự làm thương tổn và góp phần làm xáo trộn nền tảng của hôn nhân, che khuất bản chất đặc biệt và làm lu mờ vai trò của nó trong đời sống xã hội.
Những nguyên lý này vốn không phải là những chân lý đức tin, và nó cũng không đơn thuần là kết quả của quyền về tự do tôn giáo. Chúng được ghi khắc trong bản chất con người, có thể tiếp cận bởi lý trí và chung cho tất cả mọi người. Do đó, những nỗ lực của Giáo hội để thăng tiến chúng không mang đặc nét của niềm tin, nhưng muốn ngỏ lời với tất cả mọi người, không kể nguồn gốc tôn giáo của họ. Những nỗ lực như thế càng cần thiết hơn khi những nguyên lý này bị khước từ hay hiểu lầm, vì điều này tạo nên một sự xúc phạm chống lại chân lý về con người, và gây nên một thiệt hại nghiêm trọng cho công lý và hòa bình.
Một phương thế quan trọng khác để kiến tạo hòa bình là các hệ thống pháp luật và việc thực thi công lý nhìn nhận quyền được sử dụng nguyên tắc phản kháng lương tâm trước những luật lệ và biện pháp của chính quyền chống lại phẩm giá con người như phá thai và làm cho chết êm dịu. Cũng liên quan đến hòa bình thế giới, một trong những quyền nền tảng của con người là quyền của cá nhân và cộng đoàn đối với tự do tôn giáo. Vào thời điểm này của lịch sử, điều có tầm quan trọng khẩn thiết là phải thăng tiến quyền này, không chỉ từ khía cạnh tiêu cực, nghĩa là tự do khỏi – ví dụ, khỏi những ràng buộc và những giới hạn liên quan đến việc chọn lựa tôn giáo – nhưng còn ở khía cạnh tích cực, trong những diễn tả khác nhau của nó, nghĩa là tự do để, ví dụ, tự do để làm chứng và loan báo, thực hiện những hoạt động giáo dục và từ thiện, hiện hữu và hành động như một tổ chức xã hội hợp với những nguyên lý học thuyết và mục đích của nó. Đáng buồn thay, tình trạng áp bức tôn giáo vẫn gia tăng kể cả ở những nước có truyền thông Kitô giáo lâu đời, đặc biệt liên quan đến Kitô giáo và những
người mang những dấu hiệu nói lên căn tính tôn giáo của mình.
Những người kiến tạo hòa bình cũng cần nhớ rằng, trong sự phát triển của quan điểm công chúng, những ý thức hệ về tự do cực đoan và chế độ kỹ trị đang cố gắng thuyết phục người ta rằng sự phát triển kinh tế nên được theo đuổi kể cả khi nó phương hại đến trách nhiệm xã hội của một quốc gia và những mạng lưới liên đới của xã hội dân sự, cũng như các quyền và nghĩa vụ mang tính  xã hội. Nên nhớ rằng, các quyền và nghĩa vụ này vốn là nền tảng để hiện thực hóa những quyền và nghĩa vụ khác, khởi đi từ những quyền dân sự và chính trị.
Một trong những quyền và nhiệm vụ cơ bản nhất đang bị đe dọa trong thế giới ngày nay là quyền làm việc. Lý do là vì sự thừa nhận quyền lợi về tình trạng pháp lý của công nhân đang không ngừng bị xem nhẹ. Vì sự phát triển kinh  tế được xem là một yếu tố phụ thuộc hoàn toàn và chính yếu vào những thị trường tự do. Trong khi đó, lực lượng lao động bị coi là một biến số phụ thuộc vào cơ chế kinh tế và tài chính. Liên quan đến điều này, tôi xác nhận rằng phẩm giá con người và các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội, đòi hỏi chúng ta tiếp tục “ưu tiên mục tiêu tạo ra việc làm ổn định cho mọi người” [4]. Để thực hiện được  mục tiêu đầy tham vọng này, điều kiện tiên quyết là phải đổi mới cái nhìn về lao động, dựa trên những nguyên tắc đạo đức và những giá trị tinh thần vốn xem khái niệm lao động là một thiện ích cơ bản đối với cá nhân, gia đình và xã hội. Điều này đòi phải nghiên cứu và thực hiện những chính sách can đảm và mới mẻ để mọi người có công ăn việc làm.
Xây dựng thiện ích hòa bình ngang qua một mô hình mới về phát triển và kinh tế
5. Ngày nay, ở nhiều nơi người ta thấy cần một mô hình phát triển mới, cũng như một cách thế tiếp cận mới đối với lĩnh vực kinh tế. Sự phát triển bền vững và hội nhất trong tình liên đới và thiện ích chung đòi hỏi một bậc thang đúng đắn về giá trị và thiện ích, một cấu trúc nhìn nhận Thiên Chúa như  là điểm tham chiếu tối hậu của mình. Việc sẵn có các phương tiện và chọn lựa cho dẫu là một điều tốt nhưng chưa đủ. Sự đa dạng các thiện ích cổ võ sự phát triển cũng như sự sẵn sàng của những chọn lựa khác nhau phải được sử dụng nhắm đến việc đảm bảo cho một đời sống tốt, một cách hành xử đúng đắn vốn ý thức về vị trí ưu việt của giá trị thiêng liêng và lời mời gọi lao tác cho thiện ích chung. Nếu không chúng sẽ đánh mất đi ý nghĩa đích thực của mình, và cuối cùng là trở nên những thứ ngẫu tượng mới.
Để có thể thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài kinh tế và tài chính hiện nay – vốn đưa đến sự bất bình đẳng ngày càng lớn hơn – chúng ta cần những con người, nhóm người và các thể chế thăng tiến sự sống, cổ võ cho sự sáng tạo của con người. Họ có thể rút ra từ chính cuộc khủng hoảng này một cơ hội nhận định và tìm kiếm một mô hình kinh tế mới. Mô hình kinh tế thịnh hành trong những thập niên gần đây thường tìm kiếm lợi nhuận và tiêu thụ tối đa, dựa trên nền tảng của não trạng cá nhân và ích kỷ, nhắm đến việc đánh giá con người chỉ  dựa trên khả năng của họ trong việc đáp ứng những đòi hỏi của cạnh tranh. Nhưng xét trên một quan điểm khác, sự thành công đích thực và lâu dài chỉ đạt được ngang qua món quà là chính chúng ta. Vì bên cạnh khả năng tri thức và kỹ năng nghề nghiệp, sự phát triển kinh tế nhân bản đích thực và “sống động” còn đòi hỏi nguyên tắc nhưng không và lô-gích của quà tặng hiểu như cách biểu lộ tình huynh đệ[5]. Cụ thể, trong lĩnh vực kinh tế, người kiến tạo hòa bình là người
thiết  lập nên mối dây công bình và tương trợ lẫn nhau nơi các công ty, công nhân, khách hàng và người tiêu thụ. Họ dấn thân vào hoạt động kinh tế vì thiện ích chung. Họ kinh nghiệm sự dấn thân này như là một điều gì đó vượt lên trên lợi ích cá nhân mình, vì lợi ích của các thế hệ hiện tại và tương lai. Thực thế, họ làm việc không chỉ cho bản thân, nhưng còn để đảm bảo cho người khác có tương lai và một công việc xứng đáng.
Trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là các quốc gia cần đưa ra các chính sách phát triển nông nghiệp và công nghiệp quan tâm đến sự thăng tiến xã hội và phát triển của các quốc gia lập hiến cũng như dân chủ. Việc tạo ra các cấu trúc đạo đức cho thị trường tiền tệ, tài chính và thương mại cũng là một yếu tố nền tảng và không thể bỏ qua; những hệ thống này cần được ổn định, phối hợp và kiểm soát tốt hơn để tránh phương hại đến những người nghèo.
Người kiến tạo hòa bình cũng cần phải tập trung vào cuộc khủng  hoảng lương thực, vốn còn nghiêm trọng hơn cuộc khủng hoảng tài chính. Vấn đề an toàn lương thực luôn là vấn đề trọng yếu của các chính sách quốc tế, như một hệ luận của các cuộc khủng hoảng, vấn đề gia tăng đột biến trong giá cả của các lương thực thiết yếu, những hành vi thiếu trách nhiệm của một vài tổ chức kinh tế, và về phần mình, các chính phủ và các tổ chức cộng đồng quốc tế thiếu sự kiểm soát cần thiết. Để đối diện với cuộc khủng hoảng này, những người kiến tạo hòa bình được mời gọi làm việc với nhau trong tinh thần liên đới, từ mức độ địa phương tới cộng đồng quốc tế, với mục đích là giúp người nông dân, đặc đặc biệt cho những nông dân nhỏ bé, thực hiện các công việc của mình trong một cách thức cao quý và bền vững xét từ quan điểm kinh tế, môi trường và xã hội.
Giáo dục một nền văn hóa hòa bình:

vai trò của gia đình và các thể chế

6. Tôi mạnh mẽ xác nhận rằng những người kiến tạo hòa bình được mời gọi để nuôi dưỡng một lòng khao khát dành cho thiện ích chung của gia đình và công bình xã hội đồng thời dấn thân một cách hiệu quả vào lãnh vực giáo dục xã hội.
Không nên phớt lờ hay đánh giá thấp vai trò tiên quyết của gia đình, vốn là tế bào nền tảng của xã hội xét từ quan điểm nhân khẩu học, đạo đức, kinh tế, giáo dục và văn hóa. Ơn gọi tự nhiên của gia đình là thăng tiến đời sống: Gia đình đồng hành với mỗi cá nhân cho đến khi họ trưởng thành và khuyến khích một sự phát triển hỗ tương và phong phú ngang qua sự chăm sóc và sẻ chia. Cụ thể, gia đình Kitô giáo phục vụ như là một vườn ươm cho sự trưởng  thành của cá nhân theo tiêu chuẩn tình yêu Thiên Chúa. Gia đình là một trong những chủ thể xã hội không thể thay thế được trong việc đạt được một nền văn  hóa hòa bình. Quyền của các bậc cha mẹ và vai trò chính yếu của họ trong giáo dục con em mình trong lĩnh vực luân lý và tôn giáo phải được bảo vệ. Chính trong gia đình mà những con người kiến tạo hòa bình tương lai, những người thăng tiến nền văn hóa tình yêu và sự sống, được sinh ra và được dưỡng dục. [6]
Các cộng đoàn tôn giáo cũng dấn thân trong một cách thế đặc biệt trong nhiệm vụ giáo dục hòa bình. Giáo hội tin rằng mình đang chia sẻ trách nhiệm lớn lao này ngang qua sứ mạng Tân Phúc Âm Hóa vốn đặt trọng tâm vào trong việc hoán cải để đến với chân lý và tình yêu của Đức Kitô và, kết quả là sẽ dẫn đến một cuộc tái sinh về luân lý và thiêng liêng nơi các cá nhân và cộng đoàn xã hội. Việc gặp gỡ Đức Kitô khuôn đúc nên những con người kiến tạo hòa bình, những con người biết dấn thân cho cộng đồng
và vượt qua mọi bất công.
Các thể chế văn hóa, trường học và các trường đại học có một sứ mạng đặc biệt về giáo dục hòa bình. Họ được mời gọi để đưa ra những đóng góp quý giá không chỉ ngang qua việc huấn luyện các thế hệ lãnh đạo tương lai, nhưng còn đổi mới các thể chế công cộng, ở cấp độ quốc gia cũng như quốc tế. Họ có thể góp phần vào những phản tỉnh mang tính khoa học vốn sẽ là nền tảng cho các hoạt động kinh tế và tài chính dựa trên một nền tảng nhân học và đạo đức vững chắc. Thế giới hôm nay, đặc biệt là thế giới chính trị, cần được hỗ trợ bởi một lối tư duy mới và một sự tổng hợp văn hóa mới để có thể vượt qua những phương pháp tiếp cận thuần kỹ thuật và hòa hợp những khuynh hướng chính trị khác nhau với quan điểm về thiện ích chung. Thiện ích chung, được xem như là một toàn thể những mối tương quan liên vị tích cực và có tính cơ cấu trong việc phục vụ cho sự phát triển hội nhất của các cá nhân và nhóm, chính là nền tảng của một nền giáo dục hòa bình đích thực.
Một khoa sư phạm cho những người kiến tạo hòa bình
7. Cuối cùng, chúng ta thấy cần phải đề nghị và thăng tiến một khoa sư phạm về hòa bình. Điều này đòi hỏi một đời sống nội tâm phong phú, những quan điểm luân lý rõ ràng và giá trị, cùng với những thái độ và lối sống thích hợp. Những hoạt động kiến tạo hòa bình thường kéo theo những thành tựu về thiện ích chung; những hoạt động này tạo ra những lợi ích cho hòa bình và dưỡng nuôi nó. Những suy nghĩ, lời nói và cử chỉ hòa bình thường tạo ra một tâm thức và một nền văn hóa hòa bình cùng với một bầu khí tôn trọng, yêu thương và thân ái. Vì vậy, cần dạy người ta biết yêu thương nhau, nuôi dưỡng hòa bình và sống cách nhân từ chứ không chỉ bao dung. Một sự khích lệ căn bản đối với thái độ sống này là “nói không với hận thù, nhận ra những bất công và chấp nhận những lời xin lỗi cho dù không tìm kiếm nó, và cuối cùng là biết thứ tha” [7]. Trong cách thức này, những lỗi lầm và những thù hận có thể được nhận ra trong chân lý, để cùng nhau đi đến sự hòa giải. Điều này cũng đòi hỏi phải không ngừng lớn lên trong khoa sư phạm tha thứ. Thực vậy, sự dữ chỉ có thể vượt qua nhờ sự
thiện, và công bình chỉ có thể tìm thấy ngang qua việc bắt chước Thiên Chúa là
Cha yêu thương tất cả con cái mình (xem Mt 5, 21-48). Đây chắc chắn là một tiến
trình lâu dài, vì nó giả thiết một sự tiến triển thiêng liêng, một nền giáo dục
về những giá trị cao quý và một cái nhìn mới về lịch sử nhân loại. Cũng cần biết từ bỏ thứ bình an giả tạo mà những ngẫu tượng thế gian hứa ban, cùng với những nguy hiểm luôn đi kèm với nó. Thứ bình an giả tạo này chỉ làm lu mờ lương tâm và đưa người ta đến một lối sống ích kỷ và dửng dưng. Trái lại, khoa sư phạm về hòa bình ám chỉ đến hoạt động, tình yêu thương, sự liên đới, lòng can đảm và sự kiên định.
Chính Đức Giêsu là hiện thân cho tất cả thái độ sống này trong đời sống của Ngài, thậm chí Ngài đã tự hiến mình, đến nỗi từ bỏ chính mạng sống mình (xem Mt 13,39; Lc 17,33; Ga 12,25). Ngài đã hứa với các môn đệ rằng sớm muộn gì họ cũng khám phá ra những điều tuyệt diệu mà tôi đã nói ở trên, nghĩa là Thiên Chúa ở trong thế giới và Thiên Chúa của Đức Giêsu là Đấng luôn hiện diện với con người. Ở đây, tôi muốn nhắc lại lời cầu nguyện, lời nguyện xin Thiên Chúa biến chúng ta thành những khí cụ bình an của Ngài, để chúng ta có thể mang tình yêu đến nơi hận thù, đem tình thương đến với người đau khổ, chân lý đức tin vào chốn lỗi lầm. Về phần mình, chúng ta hãy cùng chân phước Gioan 23 cầu xin Thiên Chúa soi sáng cho các vị lãnh đạo, để ngoài việc quan tâm đến lợi ích vật chất của dân tộc mình, họ còn biết đảm bảo cho người dân món quà quý giá là sự bình an, phá vỡ những bức tường chia cắt, đẩy mạnh mối dây yêu thương lẫn nhau, lớn lên trong sự hiểu biết và sẵn sàng thứ tha cho kẻ làm hại
mình. Nhờ đó, ngang qua sức mạnh và thần hứng của Thiên Chúa, mọi người dân
trên trái đất sẽ kinh nghiệm được tình huynh đệ, và sự hòa bình mà họ hằng mong
mỏi, sẽ nở hoa và cư ngụ giữa họ.
Với lời nguyện này, tôi muốn bày tỏ niềm hy vọng của mình rằng tất cả mọi người sẽ trở thành người kiến tạo hòa bình đích thực, nhờ đó thành đô của nhân loại sẽ lớn lên trong sự hòa hợp huynh đệ, trong thịnh vượng và hòa bình.
Từ Vatican 8 tháng 12 năm 2012

+ Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

Nguyễn Minh Triệu SJ chuyển ngữ
————
[1] Xem, Công Đồng Vaticano II, Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong
Thế Giới Ngày Nay, Gaudium Et Spes, số 1.
[2] Xem Thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), 11
tháng 4 năm 1963: AAS 55(1963), 265-266.
[3] Xem, Ibid.: AAS 55 (1963), 266.
[4] Beneditto XVI, Thông Điệp Đức Ái Trong Chân Lý (29 – 06
-2009), 32: AAS 101 (2009), 666-667.
[5] Xem ibid, 34 và 36: AAS 101 (2009), 668-670 và 671-672.
[6] Đức Gioan Phaolo II, Sứ Điệp Nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới Năm
1994 (3.12.1993) AAS 86 (1994), 156-162.
[7]Đức Thánh Cha Biển Đức, Bài Nói trong cuộc gặp với các thành
viên chính phủ Lenbanon (15 tháng 9 năm 2012) báo Quan Sát Viên Roma
(16-9-2012), trang 7.
[8] Xem Thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), 11
tháng 4 năm 1963: AAS 55(1963), 304.
Nguồn: VCN
Maria Thanh Mai gởi