Chống Công Giáo

Chống Công Giáo,

                                                                             Thanh Tam (08-02-2012)

Tôi là một tín hửu Công Giáo tầm thường như những tín hửu khác. Qua bao kinh nghiệm về cuộc đời của một con người trên 70 năm lăn lộn; cho đến giờ nầy, lúc viết mấy hàng chữ nầy, tôi vẫn muôn vàn yêu mến Giáo Hội của tôi. Tại sao? Thưa qua nhận xét và thấy rằng không có đạo nào có tỷ số tín hửu hành xữ sai phạm ít như trong đạo Công giáo: Với con số giáo sĩ trên dưới 50 ngàn, giáo dân chiếm 1, 2 tỷ người và cán bộ nam nữ làm việc, phụng sự xã hội thì vô số. Tôi nhớ cách nay lối 5 năm, đã đọc một tờ báo Công giáo cho hay theo thống kê của bộ Xã Hội Nam Hàn, người công giáo chiếm đa số về hoạt động từ thiện và ít phạm pháp nhất.

Những nước văn minh và tiến bộ đều ảnh hưởng sâu đậm nền triết lý Thiên Chúa Giáo. Những nước xa lìa hoặc lăm le bỏ Thiên Chúa Giáo như Nga Sô, Bắc Hàn, Trung Quốc kể cả Việt Nam … thì không bại cũng xuội; dân tình thì sống như trong địa ngục trần gian. Tại sao? Thưa vì chính quyền không có tình thương! Một chế độ thuộc quyền quỷ vương; chẳng ai thiết tha đến vận mạng chung. Sự liên hệ dựa trên tư lợi, ích kỷ và óc tư hửu.

Ông HTA viết và suy nghỉ không phải là sai: Đã là giáo sĩ thì phải thế nầy…phải thế kia…mới đúng. Nhưng đó là lý tưởng mà con người cố thực hiện. Thiên Chúa cho chúng ta bộ óc biết phân biệt tốt xấu, cái nên và không nên làm…Nhưng xem ra khó và có những thời điểm rất khó trong việc thực hiện; vì bản chất con người không chỉ quá yếu kém, dòn mõng mà còn tự do nữa; trong khi thế gian lại quá hấp dẫn. Hãy nhìn đảng Cộng Sản; mọi thành viên đều nói: Không được tham nhũng. Rốt cùng anh nào cũng xe hơi đắt giá, nhà lầu 3,4,5… tầng, bồ nhí hằng tá.

Nhìn lên Thập Giá, nếu ai có quả tim “mềm” sẽ không cầm nỗi giòng lệ. Ôi Giêsu! Người quá dịu hiền! Ngài không muốn Thiên Chúa Cha dùng đến phép công thẳng đối với tội nhân, nên Ngài đã chịu mọi cực hình để đền thay: “Xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm…”

Nói đến đây, lại nhớ lời bà xã tôi trách: Thế thì Đức Chúa Cha ác?! Tôi đã trả lời “Không”! Nếu bảo rằng Đức Chúa Cha ác “1” đối với con người, thì con người đã tỏ ra ác “1” triệu lần hơn đối với Thiên Chúa. Tôi chứng minh: Thiên Chúa cho chúng ta khuynh hướng dục tình; cốt để truyền sinh. Chúa chỉ đòi buộc xữ dụng cho mục đích chính đáng. Chúng ta đã lạm dụng; Nam nữ gần gủi với nhau thiếu chính đáng đã đành, có chữa lại giết bào thai; tức phạm tội sát nhân! Mỗi năm có hằng triệu triệu thai nhi bị giết. Tội phạm lan tràn như thế mà muốn Chúa ngồi nhìn thôi sao?!

Tôi cũng vừa đọc bài viết về tội ác của Công Gíao thời Trung Cổ như giết người phạm tội gọi là dị giáo. Tôi buồn và cũng đau nữa, nhưng rất thông cảm. Tại sao? Vì theo dị giáo là kẻ phản nghịch với Thiên Chúa (thờ ngẫu tượng). Kẻ theo Chúa, vừa có quyền vừa cực đoan thì cái gì họ cũng có thể làm. Có một điều chắc chắn là Thiên Chúa không muốn việc giết người, dù kẻ đó là ai. Tôi quyết đoán như sắt đá là vì tôi tin Thiên Chúa toàn năng; nhưng vì tình yêu mà nhiều sự việc đã không xảy ra như ý muốn của con người. Thiên Chúa vẫn chờ đợi tội nhân sám hối và những gì con cái Chúa gánh chịu sẽ không bao giờ trở nên vô ích. Cũng như cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đã mang lại cái mà những anh em đang chống Công Giáo gọi là “thảm trạng, đại họa”…Không đúng chút nào! Họ đang nghỉ sai và vì đã nghỉ sai nên viết cũng sai luôn. Thế gian quả là giả trá; chẳng ai nói đúng 100%; được 50,60% là quí lắm rồi.  

Tôi thông cảm với các anh em đang viết bài chống, bươi móc đánh phá Công Giáo. Tôi biết quí vị đang hổ trợ chiến dịch bài Công Giáo bên quê nhà, đồng thời “viết” để kiếm sống. Người Công Giáo gọi việc làm của các anh là “bất lương”; nhưng biết làm sao hơn? Tôi chỉ muốn nhắc nhở các anh em đó chớ quên rằng Công Giáo từng bị bách hại qua 2000 năm rồi. Hậu quả là gì? Nhiều anh em bảo: Kẻ bỏ đạo ngày càng đông! Đúng! Nhưng kẻ gia nhập đạo bao nhiêu bạn có biết không? Ngày càng đông hơn kẻ “bỏ”.

Chứng minh: Lúc Chúa Giêsu tắt thở, chỉ có 11 người theo. Giờ đây là 1,2 tỷ.

                                                                                                Thanh Tam (08-02-2012)

LỜI NGUYỆN BAN MAI XIN BẨY ƠN CHÚA THÁNH THẦN.

LỜI NGUYỆN BAN MAI XIN BẨY ƠN CHÚA THÁNH THẦN.

 

http://translate.google.com/translate?hl=en&sl=vi&tl=en&u=http%3A%2F%2Fkeditim.net

Lời nguyện:
Cùng với Mẹ Maria, con nài xin Chúa hãy đổ đầy Thánh Thần Chúa xuống trên con để Người hướng dẫn con trong ngày hôm nay và suốt cả đời con. Xin Chúa cho con luôn được sống trong ơn Thánh Chúa, luôn bước đi trong đường tình yêu và chân lý, đường cứu rỗi và toàn thiện.

Chúa Nhật: Xin Chúa ban cho con ơn KHÔN NGOAN của Thánh Thần Chúa, để con biết tìm Chúa trước tiên, và biết nhìn mọi việc với cái nhìn đầy yêu thương Chúa.

Thứ Hai: Xin Chúa ban cho con ơn THÔNG MINH của Thánh Thần Chúa, để con cảm biết các chân lý đức tin tự đáy lòng, sống theo chân lý ấy và biết cách truyền đạt các chân lý ấy cho tha nhân.

Thứ Ba: Xin Chúa ban cho con ơn BIẾT LO LIỆU của Thánh Thần Chúa, để con biết xếp đặt ngày giờ và công việc đúng theo thánh ý và chương trình yêu thương của Chúa.

Thứ Tư: Xin Chúa ban cho con ơn SỨC MẠNH của Thánh Thần Chúa, để con đủ nhẫn nại chịu đựng những khó khăn thử thách trong cuộc sống, đủ nghị lực và can trường chu toàn những bổn phận Chúa giao phó.

Thứ Năm: Xin Chúa ban cho con ơn HIỂU BIẾT của Thánh Thần Chúa, để con biết nhìn thấy Chúa nơi mọi người, mọi vật, mọi biến cố trong cuộc đời để quy hướng tất cả về Chúa và biết thoát ly mọi sự để được tự do yêu mến Chúa.

Thứ Sáu: Xin Chúa ban cho con ơn ĐẠO ĐỨC của Thánh Thần Chúa để con luôn sống với Chúa trong tình con thảo và sống với mọi người bằng tình huynh đệ chân thành.

Thứ Bảy: Xin Chúa ban cho con ơn KÍNH SỢ Chúa của Thánh Thần Chúa, để con luôn biết sống trong sự hiện diện đầy quyền năng và tình thương của Chúa và thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Về linh địa La Vang

 Về linh địa La Vang

                             tác giả:  Thom. Aq. TRẦM THIÊN THU

 

LA VANG (Quảng Trị, 15-8-2012) – Linh địa La Vang (1) là Trung tâm Thánh Mẫu Quốc gia Việt Nam. Dù chưa một lần đến nhưng chắc hẳn người Việt Công giáo nào cũng đã từng nghe nói và quen với hình ảnh Đức Mẹ La Vang, với trang phục truyền thống Việt Nam là áo dài và khăn đóng, tay bồng Con Trẻ Giêsu. Đặc biệt là linh đài có hình những chiếc nấm. La Vang là nơi không chỉ phải chịu cái nóng như lửa đốt mà còn chịu tang tóc vì lửa đạn một thời chiến cuộc.

Phải nói ngay và phải “thẳng thắn thành thật tự thú” rằng nếu không “dính líu” tới cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót của TGP Saigon thì có thể chẳng bao giờ tôi được đặt chân tới linh địa La Vang (Hải Phú, Hải Lăng, Quảng Trị). Rất có thể đó là sự quan phòng của Thiên Chúa – tôi nghĩ vậy.

Không chỉ vậy, tôi còn được biết một số địa danh lịch sử nổi tiếng khác. Trước tiên là nhà thờ Mằng Lăng, nơi có hang tử đạo của Thánh Anrê Phú Yên (vị tử đạo tiên khởi của Giáo hội Việt Nam), với câu nói để đời của vị thánh trẻ này: “Hãy giữ nghĩa cùng Đức Chúa Giêsu cho đến hết hơi, cho đến hết đời”. Một chủng sinh trẻ 19 tuổi mà có tư tưởng thật lạ và tuyệt vời biết bao! Một câu nói nhẹ nhàng nhưng đủ sức xoáy vào lòng mỗi người Công giáo, phải suy nghĩ nhiều và phải xem lại chính đức tin tôn giáo của mình.

Rồi tôi còn được biết đến nhưng nơi lịch sử và danh lam thắng cảnh khác như Đức Mẹ Sao Biển, thuộc một dòng nữ ở Nha Trang; Cổ thành Quảng Trị âm thầm; dòng sông Thạch Hãn lịch sử; cầu Tràng Tiền danh tiếng; con đường “Mưa Hồng” của cố NS Trịnh Công Sơn; Đại nội (cổ thành Huế) trầm lặng bên dòng Hương giang trôi lững lờ với khu Văn Lâu; Đan viện Thiên An (Dòng Biển Đức) với những con người ẩn tu trong những vách đá để chiêm niệm Thiên Chúa, sống giản dị, chuyên cần cầu nguyện và miệt mài lao động âm thầm trong sự tĩnh lặng của rừng cây thường xanh trên đồi cao; Cáp treo Bà Nà giữa núi rừng tịch mịch; Nhà thờ Trà Kiệu, nơi Đức Mẹ hiện ra ngày 10 và 11-9-1885 với lời động viên: “Này, Mẹ của các con đây! Đừng sợ!”, và Đền Đức Mẹ Trà Kiệu (đồi Bửu Châu); Nhà thờ chính tòa Nha Trang (Nhà thờ Núi) làm bằng đá, nơi an nghỉ của ĐGM Marcel Piquet (1888-1966), tên Việt Nam là Lợi, với khẩu hiệu: “Ut in omnibus maxime ametur Deus” (Để trong mọi sự Thiên Chúa được hết lòng yêu mến), giám mục tiên khởi của GP Nha Trang và sáng lập Hội dòng Khiết Tâm Đức Mẹ; Tháp Thiên Y Thánh Mẫu với nét kiến trúc độc đáo của người Chàm,… Đúng là một chuyến “đạo đời giao duyên”.

Đoàn chúng tôi tới linh địa La Vang ngày 14-8-2012. Vừa bước xuống xe, cái nắng như đổ lửa hắt vào mặt rát nóng. Núi rừng âm u. Đất sỏi đá khô cằn. Do đó mà con người miền đất này cũng phải vất vả lầm than lắm. Tuy nhiên, khi tiếp xúc với họ, tôi thấy họ rất thật thà, chân chất, hiền hòa và nói cười xởi lởi. Những đứa trẻ nhìn người qua lại với ánh mắt ngây thơ mà rất lạ, vẫn ẩn chứa điều gì đó sâu thẳm…

Một rừng người trong khu vực linh địa La Vang. Nắng cứ nắng. Mồ hôi cứ chảy. Tay cứ vuốt mồ hôi, nhưng chân vẫn bước và ai cũng nói cười vui vẻ. Càng lúc càng đông khách hành hương đổ dồn về. Dưới chân linh đài lúc nào cũng có nhiều người đứng cầu nguyện.

17 giờ ngày 14-8-2012, Đức TGM Leopoldo Girelli (2), Đặc sứ Tòa thánh, chủ tế thánh lễ khai mạc. Trong bài giảng, ngài nhấn mạnh đến sức mạnh, ý nghĩa và tầm quan trọng của đức tin Kitô giáo trong việc định hướng cuộc đời, biến đổi cuộc sống và việc đóng góp xây dựng một xã hội nhân bản hơn.

Ngài giải thích: “Để được như thế, Giáo hội cần có sự tự do tôn giáo căn bản để rao giảng và sống đức tin của mình cách công khai. Sống đức tin cách riêng tư hay công khai là thể hiện sự duy nhất của một người vừa là tín hữu vừa là công dân. Một người Công giáo tốt sẽ là một người công dân tốt. Ở đâu có Chúa Kitô hiện diện thì ở đó con người trở nên nhân đạo hơn”. Ngài còn nhắc đến sông Hồng, sông Hương, sông Cửu Long, là những dòng sông “đại diện” các miền Nam, Trung, Bắc, với ý nói về ý chí kiên cường của người Việt Nam nói chung và người Công giáo nói riêng.

Đêm xuống dần. Bước chân người vẫn không ngừng đổ về từ tứ phía. Có những người thức trắng. Tiếng kinh không ngừng vang lên bên linh đài Đức Mẹ La Vang. 20 giờ là phần diễn nguyện ca tụng Đức Mẹ và vọng mừng Đức Mẹ lên trời ngay chân linh đài. Chỗ nào cũng thấy người, chen chân qua rừng-người-hành-hương cũng khó.

6 giờ sáng ngày 15-8-2012, Đức TGM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn (chủ tịch HĐGMVN) chủ tế thánh lễ mừng Đức Mẹ lên trời, cũng là lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Vương Cung Thánh Đường La Vang với tước hiệu Đức Mẹ Phù hộ các Giáo hữu. Đồng tế có Đức TGM Girelli, gần 20 giám mục trong 26 giáo phận, Đan viện phụ Thiên An (Huế), và khoảng 300 linh mục. Khách hành hương tham dự thánh lễ ước tính khoảng hơn 200.000 người, trong đó có khá nhiều người dân tộc thiểu số trong trang phục đặc trưng.

 

Trong bài giảng, ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh, GP Thanh Hóa, nói:“Chưa một ai đã được tạc tượng tạo ảnh nhiều như Đức Maria. Ở Âu châu, không một ngôi làng nhỏ bé nào không có hình tượng Mẹ; trên thế giới, không một thành phố nào không có nhà nguyện hay linh đài tôn vinh Mẹ. Lời kinh được đọc nhiều nhất trên hành tinh, lời kinh chưa bao giờ ngừng nghỉ trong lịch sử Giáo hội, lời kinh của hàng tỉ người Công giáo, chính là lời chào chị thánh Isave dành cho Mẹ: ‘Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ’. Bài ca được hát nhiều nhất không phải là một bản tình ca lừng danh thế giới, nhưng đáng ngạc nhiên lại là bài ca Magnificat: ‘Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, Thần trí tôi hớn hở vui mừng’, mà tác giả chính là Đức Maria”.

ĐGM Giuse nói tiếp: “Đối với rất nhiều Kitô hữu Việt Nam, một ngày không có Kinh Kính Mừng không phải là một ngày đúng nghĩa, một ngày không có Kinh Lạy Nữ Vương là một ngày trơ vơ chênh vênh, một ngày không có Kinh Mân Côi là một ngày rời rạc không nhựa sống… Tắt một lời, một ngày không có Đức Maria đồng hành thì không phải là ngày”.

Với tâm tình đó, từ ngày Mẹ hiện ra an ủi tín hữu lâm nạn vào cuối thế kỷ 18 (có thể khoảng cuối tháng 8 hoặc đầu tháng 9 năm 1789), hàng hàng lớp lớp khách hành hương đã tuôn về La Vang càng ngày càng đông. Họ đã kêu cầu Đức Mẹ và đã được Đức Mẹ nhậm lời. ĐGM Giuse đặt vấn đề: “Những tấm bia tạ ơn dày đặc đàng kia phải chăng là bằng chứng tình Mẹ La Vang luôn dạt dào lai láng?”.

Năm 1958, La Vang đã được chọn làm địa điểm tổ chức Ðại Hội Thánh Mẫu Toàn Quốc, với sự hiện diện của ÐHY Agagianian, Tổng Trưởng Thánh Bộ Truyền Giáo, đặc sứ của ĐGH Gioan XXIII (nay là chân phước). Và ngày 22-8-1961, ĐGH Gioan XXIII đã chính thức nâng nhà thờ La Vang lên bậc “Vương Cung Thánh Ðường”.

Cuối bài giảng, ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh cầu nguyện: “Lạy Mẹ Maria, chúng con xin Mẹ hãy viếng thăm để cứu chúng con khỏi hận thù thương đau. Ước gì hôm nay, tại linh địa này, viên đá đầu tiên chúng con đặt xuống cũng là viên đá yêu thương, khởi đầu một tương lai yên ấm thuận hòa cho quê hương đất nước thân yêu chúng con. Amen”.

Khi ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh đang giảng, bỗng dưng giáo dân hướng mắt nhìn lên trời và vỗ tay, khiến ngài phải ngưng bài giảng để ổn định cộng đoàn. Đó là một hiện tượng lạ: Mặt trời xoay với đám mây hồng. Điều này có thể nhắc chúng ta nhớ tới “trời mới, đất mới” mà Thánh Gioan Tông đồ nói trong sách Khải huyền (Kh 21:1). Tuy nhiên, nên lưu ý rằng Giáo hội luôn cẩn trọng về các “sự kiện lạ”. Người ta thường cho rằng ai “thấy” thì người đó tốt lành, còn người “không thấy” thì là người “có vấn đề”. Thật ra người ta rất dễ “ảo tưởng” theo kiểu “đạo đức bình dân”. Nên nhớ rằng việc thấy hiện tượng lạ mà chúng ta nói là phép lạ luôn có điểm đặc biệt: Người thấy “sự kiện lạ” hoặc “phép lạ” đều cương quyết thay đổi cách sống, nghĩa là sống thánh thiện hơn. Nếu không thì chỉ là ảo giác, là ngộ nhận, hoặc là cuồng tín (mà cuồng tín là phi tôn giáo), vì bất kỳ phép lạ nào xảy ra cũng đều có mục đích rõ ràng chứ không “xảy ra cho… vui”. Đừng bao giờ quên điều này: “Đức tin quan trọng hơn phép lạ”

 

Nếu được hỏi “yêu thương là gì” thì chắc rằng ai cũng khả dĩ trả lời một cách tương đối. Nhưng đó chỉ là “định nghĩa”. Yêu thương theo Chúa Giêsu dạy là “yêu người NHƯ chính mình” (chứ Chúa không bắt “thương người HƠN mình), là “thương xót nhau”. Muốn “thương xót nhau” thì phải “từ bỏ chính mình” và “vác thập giá theo Chúa” (x. Mt 10:37-39; Lc 9:23; Lc 14:26-27). Nếu chưa biết sống “mình vì mọi người” (từ bỏ mình) thì chưa “vác thập giá”, mà chưa “vác thập giá” thì chưa yêu thương, nghĩa là chưa thực thi “luật yêu” của Chúa Giêsu.

Hệ lụy này dẫn tới hệ lụy khác. Mừng lễ Đức Mẹ lên trời là chúng ta hy vọng được lên trời: “Xin cho con được thưởng cùng Mẹ trên Nước Thiên Đàng” (thứ 5, mùa Mừng). Làm sao được thưởng khi chưa yêu thương đúng ý Đức Kitô? Thế thì không thể lên trời. Rất rõ ràng. Rất mạch lạc. Rất lô-gích. Yêu thương không chỉ là “định nghĩa” hoặc “nói suông”. Chữ “thương xót” rất hay: “Thương” thì phải “thương” làm sao mà thấy “xót” thì mới là “thương” thật, chỉ cảm thấy “thương” mà chưa thấy “xót” thì chưa phải là “thương”.

Tưởng cũng cần nói thêm: Đứng trước tôi là một phụ nữ trung niên, phụ nữ này vừa tham dự thánh lễ vừa lần hạt. Lần chuỗi Mân Côi là việc cần thiết và tốt lành, nhưng lần chuỗi trong thánh lễ thì lại “không đúng nơi, không đúng lúc”. Nhiều người vẫn thường có “thói quen” này, thiết nghĩ phụ nữ này “nhắc nhở” chúng ta nên “xem lại” cách sùng kính của mình. Không chỉ vừa dự lễ vừa lần chuỗi, phụ nữ kia còn ngước nhìn trời mà miệng vẫn “máy môi”, đặc biệt hơn là còn sử dụng điện thoại liên tục. Chắc chắn cách cầu nguyện và cách làm việc đạo đức như vậy là không hợp lý!

Thánh lễ kéo dài khoảng 90 phút. Sau đó là nghi thức làm phép diện tích đất xây dựng Vương cung Thánh đường Đức Mẹ La Vang. Thật ấn tượng với nghi thức thả bay 27 bức phướn biểu hiện cho 26 giáo phận của Giáo hội Việt Nam và cộng đồng người Việt hải ngoại. Mỗi Giáo tỉnh được biểu hiện một màu khác nhau: màu hồng cho TGP Hà Nội, màu đỏ cho TGP Huế và màu vàng cho TGP Saigon, đặc biệt là một chuỗi Mân Côi lớn được kết từ những chiếc bong bóng và được thả bay lên bầu trời La Vang.

Sau khi chết, Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa và Con Yêu Dấu của Đức Mẹ, đã phục sinh khải hoàn và về ngự bên hữu Chúa Cha, đó là cách Thiên Chúa muốn củng cố đức tin để chúng ta can đảm sống “vượt qua chính mình” và vượt qua mọi nghịch cảnh. Việc Đức Mẹ mông triệu, nói bình dân là Đức Mẹ lên trời, là tái xác tín rằng chúng ta chắc chắn cũng sẽ lên trời – nhưng với điều kiện là phải sống theo lời khuyên Phúc Âm. Đó là điều chắc chắn, không thể tự biện hộ theo bất kỳ lý do nào khác!

Được đặt chân tới linh địa La Vang là “điều may mắn”, là hồng ân, nhưng cũng là một trách nhiệm. Đó là bổn phận cầu nguyện cho những người khác, những người không “may mắn” được đến La Vang, những người không có điều kiện để hành hương về La Vang. Biết nhiều thì khổ nhiều vì trách nhiệm nhiều, biết nhiều là nợ nhiều. Nợ Thiên Chúa và nợ tha nhân. Đó là “nợ tình” và “nợ máu”. Nợ tình với Thiên Chúa và với tha nhân, nợ máu với Đại sư phụ Giêsu!

Ai được đặt chân tới đất La Vang còn mắc một món nợ nữa là nợ Đức Mẹ. Tại sao? Đức Mẹ luôn yêu thương những người kém may mắn thì chúng ta cũng phải noi gương yêu thương của Đức Mẹ. Yêu thương là thương xót. Yêu thương phải được qua ánh mắt, thái độ, cử chỉ, hành động, lời nói và lời cầu nguyện. Dọc đường đi về La Vang có nhiều cảnh đẹp thiên nhiên, nhiều cao tầng, nhiều khu dân cư sầm uất, nhưng vẫn còn nhiều khu dân cư nghèo lắm… Nhưng nhìn tổng thể thì thấy dân Việt Nam còn nghèo khó quá, mà NGHÈO thì luôn kèm theo KHỔ. Chúng ta đang mắc nợ người nghèo: “Không cho kẻ nghèo được chia sẻ của cải thuộc về họ là ăn cắp, là cướp lấy mạng sống của họ. Của cải chúng ta đang nắm giữ, không phải là của chúng ta, nhưng là của họ” (Thánh Gioan Kim khẩu). Đó là công bằng, là công lý! Mà khi nào có công lý thì mới có hòa bình đích thực.

Không ai lại không mắc món nợ yêu thương. Đó là món nợ lớn nhất mà chúng ta phải trả cả đời. Quả thật, ai trả xong món nợ này mới “được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng” vậy!

Lạy Chúa, xin thương xót và tha thứ những động thái mà chúng con đã thể hiện không đúng Ý Ngài, đồng thời xin giúp chúng con can đảm sống trọn Luật Yêu của Ngài. Lạy Mẹ Maria, xin thương xót và chúc lành cho những người không đủ điều kiện đến linh địa La Vang để tâm sự và bày tỏ nỗi lòng với Mẹ, vì họ nghèo lắm. Mẹ ơi! Xin giúp chúng con biết mau mắn “xin vâng” trong mọi hoàn cảnh và kiên tâm theo bước Anh Hai Giêsu, Con Mẹ, để xứng đáng cùng lên trời và đồng hưởng thiên phúc với Mẹ muôn đời. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

Thom. Aq. TRẦM THIÊN THU

(1) Theo truyền thuyết, dưới thời vua Cảnh Thịnh, nhà Tây Sơn có chính sách chống đạo Công giáo. Để tránh sự trừng phạt của nhà Tây Sơn, nhiều giáo dân vùng Quảng Trị đã chạy lên vùng đất này. Đây là khu vực đồi núi hẻo lánh nên để liên lạc với nhau được thì họ phải “la” lớn, mà “la” lớn thì “vang”. Thế là có tên La Vang.

Một truyền thuyết tương tự về chữ La Vang có từ đặc tính của âm thanh chuyển thành địa danh, người ta nói rằng nơi chốn rừng rú này xưa kia có nhiều cọp beo hại người. Do đó, những người đi rừng nếu ở lại đêm thường phải chia phiên nhau thức canh, thấy động thì “la vang” lên để mọi người đến tiếp cứu.

Cách giải thích khác là khi giáo dân chạy lên vùng đất này thì bị dịch bệnh, lúc đó Đức Mẹ đã hiện ra và chỉ dẫn họ đi tìm một loại lá gọi là “lá vằng” – uống vào sẽ khỏi bệnh. Viết “lá vằng” không dấu thành La Vang.

Truyền thuyết khác cho là địa danh “phường Lá Vắng” đã có từ trước đó, thuộc làng Cổ Vưu, nằm về phía Tây cách đồn Dinh Cát, về sau là tỉnh Quảng Trị, cách 4 cây số, và cách Phú Xuân (Kinh đô Huế) 58 km về phía Bắc.

Đền thờ La Vang được xây dựng năm 1925, hoàn tất dịp Đại hội La Vang IX (1928).

(2) TGM Leopoldo Girelli (sinh 13-31953) hiện đảm nhận nhiều chức vụ ngoại giao của Tòa Thánh tại khu vực Đông Nam Á. Ngài sinh tại Predore, tỉnh Bergamo (Ý), thụ phong linh mục ngày 17-6-1978 thuộc giáo phận Bergamo, tốt nghiệp thần học và gia nhập Học viện Ngoại giao Tòa Thánh sau khi đã học tập xong tại Học viện Giáo hoàng về Giáo hội.

Ngài bước vào ngành ngoại giao Tòa Thánh từ ngày 13-7-1987 và làm việc trong các cơ quan ngoại giao của Tòa Thánh tại Cameroon và New Zealand, Phòng Nội vụ Quốc vụ Khanh, và Khâm Sứ Tòa Thánh tại Hoa Kỳ, rồi được phong hàm tham tán viên tại đây.

Ngày 13-42006ĐGH Bênêđictô XVI bổ nhiệm ngài làm Sứ thần Tòa Thánh tại Indonesia, hiệu tòa Capreae, được tấn phong giám mục ngày 17-6-2006 do Hồng y Angelo Sodano chủ phong, được kiêm nhiệm Sứ thần Tòa Thánh tại Đông Timor ngày 10-10-2006.

Đến ngày 13-12011, TGM Girelli rời nhiệm tại Indonesia và Đông Timor vì được bổ nhiệm làm Sứ thần Tòa Thánh tại Singapore, kiêm Khâm sứ Tòa Thánh tại Malaysia và Brunei, kiêm đại diện không thường trú tại Việt Nam. TGM Girelli là vị đại diện đầu tiên của Tòa Thánh được bổ nhiệm phụ trách Việt Nam từ sau năm 1975.

Ngày 18-6-2011, ngài tiếp tục được bổ nhiệm làm Sứ thần Tòa Thánh tại Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Sau đó không lâu, ngài được nâng từ chức vị Khâm sứ lên chức Sứ thần tại Malaysia khi Tòa Thánh và quốc gia này thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ từ ngày 27-7-2011.

nguồn : Maria Thanh Mai gởi

TRIẾT LÝ SỐNG ĐƠN GIẢN VÀ HIỆN THỰC CỦA MẸ TÊRESA CALCUTA !

QUÁ TUYỆT VỜI TRIẾT LÝ
SỐNG ĐƠN GIẢN VÀ HIỆN THỰC CỦA
MẸ TÊRESA CALCUTA !

Thế nhưng sao mình vẫn cứ u u mê mê, loanh quanh tìm kiếm cái gì đâu đâu – trong khi mà ngọn “đèn đời” của mình thì ngày càng “lụi” dần !

Ui chao ! Phải quanh co nguỵ biện bào chữa cho mình làm sao đây, khi ngọn “đèn đời” mình phụt tẳt và đơn thân độc mã “trần trụi” trình diện trước SỰ THẬT VĨNH HẰNG?

Mẹ Têrêsa Calcutta nói về tình yêu

“Nếu bạn xét đoán ai, bạn sẽ không còn thì giờ để yêu thương họ”

“Bạn phải cho đi những gì làm bạn bị thiệt thòi. Như thế, cho đi không chỉ những gì dư thừa, nhưng những gì bạn không thể sống nếu không có, những gì bạn thật sự yêu thích. Như thế, món quà của bạn trở thành một hy sinh, có giá trị trước mặt Thiên Chúa.”

“Tôi luôn luôn nói rằng, tình yêu khởi sự từ gia đình trước đã, và sau đó mới đến thành phố hay đô thị. Yêu thương những người ở xa chúng ta thì dễ, nhưng yêu thương những người sống với chúng ta hay ngay cạnh chúng ta thì không luôn dễ dàng.”

Mẹ Têrêsa Calcutta nói về nghèo đói

“SỰ NGHÈO ĐÓI KHỦNG KHIẾP NHẤT CHÍNH LÀ SỰ CÔ ĐƠN,
BỊ BỎ RƠI VÀ CẢM NHẬN KHÔNG ĐƯỢC YÊU THƯƠNG”

“Căn bệnh trầm trọng nhất của thời nay không phải là bệnh phong hủi hay bệnh lao, mà là sự cảm nhận bị ruồng bỏ”

“Trên thế giới, người đói khát tình yêu thì nhiều hơn người đói khát cơm bánh”

“Nhiều khi chúng ta cứ nghĩ rằng nghèo đói là đói khát, thiếu áo quần, không nhà ở. Sự nghèo đói lớn nhất là bị bỏ rơi, không ai chăm sóc, không được hưởng sự yêu thương. Loại nghèo đói này cần được giải quyết ngay từ những tổ ấm gia đình”

Mẹ Têrêsa Calcutta nói về chiến tranh

“Tôi chưa bao giờ sống trong cảnh chiến tranh nhưng tôi đã chứng kiến nạn đói và sự chết chóc.
Tôi tự hỏi : ‘Họ đã cảm nhận điều gì khi họ gây ra chiến tranh?’
Tôi không thể hiểu nổi. Họ đều là con cái Thiên Chúa. Tại sao họ lại làm như vậy ? Tôi không hiểu nổi”

“Hãy làm ơn chọn lựa đường lối hòa bình…!
vì trong chỉ một khoảng thời gian ngắn ngủi, sẽ có người thắng kẻ thua trong cái cuộc chiến mà chúng ta đều sợ hãi, nhưng rồi chẳng thể và chẳng bao giờ có thể biện minh cho những nỗi đau và chết chóc do bom đạn gây ra”

Mẹ Têrêsa Calcutta nói về phá thai

“Phá thai chính là giết người. Trẻ nhỏ là quà tặng của Thiên Chúa.

Nếu bạn không muốn có nó, hãy giao em bé cho tôi !”

“Sự phá hoại nền hoà bình kinh khủng nhất chính là việc phá thai,vì nếu người mẹ nhẫn tâm giết chính con mình thì bạn cũng có thể giết tôi và tôi có thể giết bạn, vì giữa chúng ta chẳng có mối liên hệ nào”

“Chính thật là sự nghèo nàn khi quyết định đứa trẻ phải chết để bạn được sống theo ý bạn”

Mẹ Têrêsa Calcutta nói về phục vụ Chúa

Tôi chỉ là cây bút chì của Chúa, để Ngài gởi bức thư tình yêu của Ngài cho thế giới”

“Tôi không cầu nguyện cho sự thành công, tôi cầu nguyện cho sự trung tín”

“Nhiều người lầm lẫn công việc và ơn gọi. Ơn gọi của chúng ta là yêu mến Chúa Giêsu”

“Mỗi người trong số họ, chính là Chúa Giêsu cải trang”

“Cần phải nói ít đi, vì điều rao giảng chưa phải là điều được đón nhận. Vậy ta phải làm gì ?
Hãy cầm lấy cây chổi để quét nhà cho một ai đó, công việc ấy đã đủ để rao giảng”

Mẹ Têrêsa Calcutta nói về cầu nguyện

Không cầu nguyện, tôi không thể làm việc dù chỉ nửa giờ. Tôi có được sức mạnh của Thiên Chúa qua việc cầu nguyện”

“Có quá nhiều đau khổ trong các gia đình ngày nay trên toàn thế giới, nên cầu nguyện thật là quan trọng, và tha thứ cũng thật quan trọng. Người ta hỏi tôi phải khuyên bảo thế nào cho đôi vợ chồng đang gặp khó khăn, tôi luôn luôn trả lời ‘Cầu nguyện và tha thứ’; và cho những thanh thiếu niên từ những mái nhà đầy hung bạo: ‘Cầu nguyện và tha thứ’; và cho những người mẹ cô độc không được gia đình hỗ trợ: ‘Cầu nguyện và tha thứ’. Hãy nói : ‘Lạy Chúa, con yêu Chúa. Lạy Chúa, con hối lỗi. Lạy Chúa, con tin ở Chúa. Lạy Chúa, con tín thác vào Chúa. Xin giúp con yêu thương nhau như Chúa yêu thương chúng con’.”

nguồn: chị Nguyễn Kim Bằng gởi

YÊU KẺ THÙ

YÊU KẺ THÙ

Martin Luther King

Martin L King JrHãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.
Như vậy anh em mới trở nên con cái của Cha anh em, Ðấng ngự trên trời
“.

Mt 5,44-45

Có lẽ không có lời khuyên nào của Ðức Giêsu lại khó đem ra thực hành cho bằng lời khuyên “Hãy yêu kẻ thù”. Một số người chân thành nghĩ rằng, trong thực tế, không ai có thể giữ được lời khuyên này. Yêu người yêu mình thì dễ, còn ai lại đi yêu kẻ tìm cách làm hại mình một cách công khai hay âm thầm? Ðối với một số người khác như triết gia Nietzsche chẳng hạn, lời khuyên “Hãy yêu kẻ thù” cũng đủ để chứng minh rằng đạo đức Kitô giáo chỉ dành cho những kẻ bạc nhược, nhát đảm, chứ không phải cho những người can đảm, dũng mạnh. Họ cho rằng Ðức Giêsu là người quá lý tưởng và thiếu thực tế.

Mặc dầu các câu hỏi này có được nhấn mạnh đến đâu chăng nữa và các thắc mắc có được lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần, lời khuyên của Ðức Giêsu vẫn tra vấn chúng ta hơn bao giờ hết. Hết biến động này đến biến động khác không ngừng nhắc nhở chúng ta rằng con người thời đại ngày nay đang đi trên con đường hận thù dẫn đến diệt vong và trầm luân. Thay vì là lời khuyên đạo đức của một kẻ mộng tưởng, thì lời khuyên “Hãy yêu kẻ thù” lại là một điều cần thiết tuyệt đối, nếu chúng ta muốn sống còn. “Hãy yêu kẻ thù” là chìa khóa giúp chúng ta giải quyết các vấn đề trong thế giới ngày nay. Ðức Giêsu không phải là con người quá lý tưởng để quên mất thực tế; Người là con người thực tế đích thực.

Tôi tin rằng Ðức Giêsu biết rõ khó khăn khi nói phải “yêu kẻ thù”. Người không toa rập với những kẻ cho rằng sống đúng theo các đòi hỏi luân lý là chuyện dễ. Người biết rõ rằng mọi biểu hiện của tình yêu đích thực đều xuất phát từ sự phó thác hoàn toàn và dứt khoát vào Thiên Chúa. Khi Ðức Giêsu nói: “Hãy yêu kẻ thù”, thì không phải là Người không biết đến các đòi hỏi của lời khuyên này. Mỗi từ trong câu này đều có nghĩa của nó. Các Kitô hữu có trách nhiệm khám phá ý nghĩa của lời khuyên này và đem ra thực hành trong đời sống hàng ngày.

I

Chúng ta hãy tỏ ra thực tế và đặt cho mình câu hỏi sau đây: Làm thế nào chúng ta yêu kẻ thù được?

Thứ nhất, chúng ta phải phát huy và củng cố khả năng tha thứ. Không biết tha thứ thì cũng không biết yêu thương. Không thể bắt đầu yêu kẻ thù mà trước đó không chấp nhận cần phải không ngừng tha thứ cho những kẻ làm hại chúng ta. Cũng cần phải hiểu rõ rằng người tha thứ trước tiên phải là người đã bị lừa gạt và bị ám hại, người bị áp bức và gánh chịu bất công. Kẻ phạm tội có thể xin tha thứ, có thể quay về với chính mình và, như đứa con hoang đàng, đang rảo bước trên con đường đầy gió bụi nào đó, với lòng ao ước được tha thứ. Nhưng chỉ có người thân cận đã bị xúc phạm, người cha giàu lòng thương xót mới có thể đưa kẻ có tội vào ngôi nhà ấm áp và mới có thể tha thứ.

Tha thứ không phải là không biết điều đã phạm là một hành vi xấu hay gọi hành vi xấu này bằng một tên gọi không đúng với thực chất của nó. Ðúng hơn, tha thứ là xem hành vi xấu này không còn là một chướng ngại để thiết lập những quan hệ mới. Tha thứ là một chất xúc tác tạo nên một bầu khí cần thiết cho một cuộc lên đường, một khởi đầu mới. Tha thứ là cất đi một gánh nặng, hay xóa bỏ một món nợ. Chúng ta có thể nói: “Tôi tha thứ cho anh, nhưng tôi sẽ không bao giờ quên điều anh làm cho tôi”. Nói như vậy không phải là tha thứ thật. Ðành rằng chúng ta không bao giờ quên, nghĩa là xóa bỏ hoàn toàn trong tâm trí điều người khác đã làm cho mình. Nhưng nếu chúng ta tha thứ, thì chúng ta cũng quên, nghĩa là điều người khác đã làm cho chúng ta không còn là một chướng ngại khả dĩ ngăn cản các quan hệ mới. Cũng không bao giờ chúng ta có thể nói: “Tôi tha thứ cho anh, nhưng tôi không muốn quan hệ với anh nữa”. Tha thứ là hòa giải, là gặp lại nhau. Nếu không, chẳng có ai có thể yêu kẻ thù. Mức độ chúng ta có thể tha thứ là thước đo mức độ chúng ta có thể yêu kẻ thù vậy.

Thứ hai, người thân cận làm tổn thương chúng ta chính là kẻ thù. Nhưng phải nhìn nhận rằng hành vi xấu của con người đó không bộc lộ hết toàn diện con người đó. Nơi kẻ thù tệ nhất, chúng ta có thể khám phá ra những điểm tốt lành. Nhân cách của mỗi người chúng ta có cái gì đó mang dáng dấp tâm thần phân lập, làm chúng ta tự chựng lại một cách bi thảm. Một cuộc chiến trường kỳ luôn diễn ra nơi mỗi cuộc sống, và có cái gì đó làm chúng ta phải thốt lên như thi sĩ Ovide: “Tôi nhận biết sự thiện, tôi chấp nhận sự thiện nhưng tôi lại làm sự ác”, hay như triết gia Platon khi nghĩ rằng con người giống như một cỗ xe song mã, nhưng mỗi con kéo theo một hướng, hoặc như thánh Phaolô: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7,19).
Ðiều này đơn giản có nghĩa là nơi người xấu nhất vẫn có cái tốt và nơi người tốt nhất vẫn có cái xấu. Một khi khám phá ra chân lý này, chúng ta sẽ ít chiều theo khuynh hướng tự nhiên là ghét kẻ thù. Nếu nhìn kỹ bên dưới bề mặt, bên dưới những hành vi xung động, chúng ta có thể tìm thấy nơi kẻ thù một điều tốt lành, đồng thời chúng ta cũng nhận thấy rằng điều ác họ làm cũng không biểu lộ hết con người họ. Nhìn kẻ thù trong một ánh sáng mới, chúng ta mau chóng nhận thấy rằng hận thù nơi họ xuất phát từ sợ hãi, kiêu căng, ngu dốt, tiên kiến, hiểu lầm. Nhưng, dù sao, hình ảnh Thiên Chúa nơi họ không thể bị xóa nhòa. Như thế, chúng ta yêu kẻ thù vì biết rằng họ không hoàn toàn xấu về mọi phương diện và họ cũng không ở ngoài tầm tác động của tình yêu cứu chuộc mà Thiên Chúa dành cho họ.

Thứ ba, chúng ta phải tránh làm nhục kẻ thù. Trái lại, phải tìm cách gây thiện cảm và cảm thông với họ. Có thể chúng ta có thừa khả năng cũng như các điều kiện thuận lợi để làm nhục kẻ thù. Ðiều không thể tránh được là họ cũng có những sơ hở, những giây phút yếu đuối và chúng ta có thể tận dụng các cơ hội này để thẳng tay tiêu diệt họ. Nhưng đây lại là điều chúng ta không bao giờ được phép làm. Trái lại, mỗi lời nói, mỗi hành vi của chúng ta phải góp phần làm tăng thêm sự hiểu biết, cảm thông với kẻ thù, đồng thời tạo điều kiện để khai mở dòng thiện chí đã bị ngăn chặn bởi bức tường hận thù.

Chúng ta đừng lầm lẫn tình yêu chân thành với tình cảm ướt át. Tình yêu có cái gì đó sâu lắng hơn cảm xúc. Ở đây có lẽ tiếng Hy Lạp sẽ giúp chúng ta làm sáng tỏ ý nghĩa của tình yêu. Trong Tân Ước, tiếng Hy Lạp sử dụng ba từ để nói về tình yêu. Eros là tình yêu mang tính cách thẩm mỹ lãng mạn. Trong các đối thoại của Platon, eros là sự vươn lên của linh hồn tới lãnh vực thần linh. Philia là tình yêu liên kết cách mật thiết các bạn hữu. Chúng ta yêu người chúng ta ưa thích, và chúng ta yêu vì được người khác yêu. Agapè là tình yêu đặt nền tảng trên hiểu biết và cảm thông, ước muốn sáng tạo và cứu chuộc dành cho tất cả mọi người. Là tình yêu đầy tràn, không chờ đợi điều gì cho mình từ phía người khác, agapè là tình yêu Thiên Chúa tác động lòng trí con người. Ở mức độ này, chúng ta yêu mọi người không phải vì họ làm vừa lòng chúng ta, hay vì chính họ lôi kéo chúng ta, cũng không phải vì nơi họ có cái gì đó thuộc thần linh. Chúng ta yêu mỗi người chỉ vì Thiên Chúa yêu họ. Ở mức độ này, chúng ta yêu kẻ làm điều ác trong khi vẫn ghê tởm điều ác họ làm.

Bây giờ, chúng ta có thể nói gì khi nói “Hãy yêu kẻ thù”. Có lẽ chúng ta hãy vui mừng vì Ðức Giêsu đã không nói “Hãy quý trọng kẻ khác”, vì đây quả là điều chúng ta không thể làm được đối với một số người nào đó. Làm sao chúng ta có thể quý trọng một người muốn tiêu diệt chúng ta bằng cách đặt các chướng ngại trên đường đời chúng ta? Làm sao chúng ta có thể quý trọng một người đang đe dọa mạng sống con cái chúng ta, phá hoại nhà cửa chúng ta? Quả thật, đây là điều không thể làm được. Nhưng Ðức Giêsu cho chúng ta biết tình yêu thì ở một mức độ cao hơn quý trọng. Khi khuyên chúng ta yêu kẻ thù, Ðức Giêsu không nói đến tình yêu theo nghĩa eros hay philia; nhưng Người muốn nói tình yêu theo nghĩa agapè – một tình yêu đặt nền tảng trên cảm thông và ước muốn sáng tạo cứu chuộc dành cho mọi người. Chỉ bằng cách đi theo con đường này và dấn thân vào tình yêu này, chúng ta mới có thể trở thành con cái Cha chúng ta, Ðấng ngự trên trời vậy.

II

Bây giờ, chúng ta hãy từ thực tế sang lý thuyết, từ làm thế nào sang tại sao. Tại sao chúng ta phải yêu kẻ thù?

Lý do thứ nhất thật là hiển nhiên. Lấy oán báo oán chỉ có thể làm tăng thêm hận thù, chỉ có thể làm cho đêm tối lại càng thêm tối tăm mù mịt bởi thiếu vắng ánh sáng các vì sao. Bóng tối không thể nào xóa tan bóng tối. Chỉ có ánh sáng xóa tan bóng tối. Hận thù tăng thêm hận thù; bạo lực kéo theo bạo lực; tàn nhẫn nhân thêm tàn nhẫn, như một cơn gió xoáy ập tới tiêu diệt tất cả. Như vậy, khi khuyên chúng ta yêu kẻ thù, Ðức Giêsu đưa ra một lời cảnh giác mạnh mẽ về cái chung cuộc cuối cùng mà chúng ta không thoát khỏi, nếu không đem lời Người ra thực hành. Trong thế giới ngày nay, phải chăng chúng ta đang bị dồn vào chân tường là yêu kẻ thù, nếu không… thì điều gì sẽ xảy ra? Phản ứng dây chuyền của sự ác – hận thù tăng thêm hận thù, chiến tranh kéo theo chiến tranh, chúng ta phải chận đứng phản ứng này, nếu không tất cả chúng ta sẽ rơi vào hố diệt vong.

Lý do thứ hai chúng ta phải yêu kẻ thù là vì hận thù làm tổn thương tinh thần và hủy diệt nhân cách. Quá nhấn mạnh đến hận thù như là một sức mạnh xấu, nguy hiểm, chúng ta thường quan tâm đến các tác hại nơi người bị oán ghét. Ðây là điều dễ hiểu vì hận thù gây nhiều tác hại không thể cứu vãn nỗi nơi các nạn nhân. Chúng ta đã chứng kiến các tội ác ghê tởm khi thấy hơn sáu triệu người Do Thái bị tiêu diệt man rợ bởi một tên điên rồ có tên là Hitler, khi thấy các người anh em da đen bị đọa đày bởi một tầng lớp người da trắng, khi thấy cảnh điêu tàn đổ nát do chiến tranh gây nên, khi thấy các bất công khổ nhục mà con cái Thiên Chúa phải gánh chịu.

Nhưng cũng có một điều mà chúng ta không bao giờ được phép quên, đó là hận thù cũng gây tác hại cho chính con người oán ghét kẻ khác. Như một căn bệnh ung thư tiềm ẩn, hận thù làm tổn thương và phá vỡ thế thống nhất của nhân cách. Hận thù làm con người không còn biết nhận thức các giá trị khách quan, coi cái đẹp là xấu, cái xấu là đẹp, lầm lẫn cái thật với cái giả và cái giả với cái thật.

Trong một cuốn sách về tính cách bệnh hoạn của nạn kỳ thị chủng tộc, E. Franklin Frazier cho chúng ta thấy một số trường hợp người da trắng bình thường, dễ mến trong quan hệ hàng ngày với những người da trắng khác, nhưng lại có những phản ứng rất phi lý, bất bình thường khi được mời gọi xem các người da đen là những người bình đẳng với mình hoặc chỉ thảo luận về các bất công do nạn kỳ thị chủng tộc gây nên. Ðây là điều xảy ra khi hận thù ngự trị lòng người. Các nhà phân tâm học cho biết rằng có những điều kỳ lạ như thế tồn tại và phát triển nơi tiềm thức, có những cuộc xung đột ác liệt diễn ra nơi nội tâm con người: đa số những điều này thường phát xuất từ hận thù. Họ đặt chúng ta trước một sự lựa chọn: “Yêu thương hoặc tiêu diệt”. Tâm lý học hiện đại nhìn nhận điều Ðức Giêsu đã dạy thuở xưa: hận thù hủy diệt còn tình yêu phát triển và thống nhất nhân cách một cách lạ lùng và hữu hiệu.

Lý do thứ ba chúng ta phải yêu kẻ thù là vì tình yêu là sức mạnh duy nhất có khả năng biến thù thành bạn. Chúng ta không bao giờ có thể loại bỏ kẻ thù bằng cách lấy hận thù đối lại hận thù. Chúng ta chỉ có thể loại bỏ kẻ thù bằng cách loại bỏ hận thù chiếm ngự lòng chúng ta. Tự bản chất, hận thù phá hoại, hủy diệt; còn tự bản chất, tình yêu sáng tạo và xây dựng. Tình yêu đổi mới bằng sức mạnh cứu chuộc.

Abraham Lincoln đã có một kinh nghiệm như thế về tình yêu và đã trở thành một gương mẫu tuyệt vời cho hậu thế. Trong cuộc vận động tranh cử chức vụ Tổng Thống Hoa Kỳ, Stanton là người chống đối Lincoln kịch liệt nhất. Vì một lý do nào đó, Stanton thù ghét và tìm hết mọi cách để hạ nhục Lincoln trước công chúng. Stanton chế diễu dáng điệu của Lincoln với lời lẽ khiếm nhã, đả kích mãnh liệt và gây bối rối cho Lincoln. Nhưng các cố gắng của Stanton đã không ngăn cản Lincoln đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ. Khi lập nội các, Tổng Thống Lincoln đã chọn một số cộng sự viên thân tín nắm giữ các bộ trong chính phủ nhằm thực hiện chương trình đã được đề ra. Ðến ngày phải chọn người giữ chức vụ quan trọng nhất là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng, các bạn có biết Tổng Thống Lincoln đã chọn ai không? Không ai khác ngoài Stanton! Quyết định này đã làm dư luận xôn xao và các cố vấn thân tín đã phải lên tiếng can gián Tổng Thống: “Ngài đã phạm sai lầm. Ngài có biết Stanton là ai không? Và đã chống lại ngài quyết liệt như thế nào không? Stanton là kẻ thù của ngài và sẽ tìm cách phá hoại chương trình ngài đã đề ra. Ngài đã suy nghĩ kỹ chưa?” Tổng Thống Lincoln đã trả lời một cách lịch sự và thẳng thắn: “Tôi biết Stanton cũng như những điều Stanton đã nói và đã làm để chống lại tôi. Nhưng, tại quốc gia này, nhìn kỹ, tôi thấy Stanton là người thích hợp nhất để giữ chức Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng”. Và trong cương vị của mình, Stanton đã tận tình phục vụ Tổng Thống và Quốc Gia mình. Vài năm sau, Tổng Thống Lincoln bị ám sát. Nhiều người đã hết lời ca ngợi Lincoln. H. G. Wells xem Abraham Lincoln là một trong sáu người vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Nhưng một trong số những lời đã được nói để ca ngợi Tổng Thống Lincoln, không một lời nào có thế sánh được với những lời Stanton đã nói. Ðứng trước thi hài của người một thời đã là kẻ thù của mình, Stanton đã nói về Abraham Lincoln như một con người vĩ đại nhất đã sinh ra trên trái đất này, và ông tuyên bố: “Từ nay, Abraham Lincoln thuộc về lịch sử”.

Nếu Lincoln thù ghét Stanton, thì cả hai đều xuống mồ như kẻ thù. Nhưng nhờ sức mạnh tình yêu, Lincoln đã biến thù thành bạn. Ông cũng đã có một thái độ tương tự như vậy đối với Miền Nam trong cuộc nội chiến, khi chiến sự đến hồi ác liệt nhất. Một trong số quý bà nghe ông diễn thuyết, đã tỏ thái độ bất bình về cách phát biểu của Tổng Thống. Ông nói: “Biến thù thành bạn, phải chăng đã là tiêu diệt được kẻ thù rồi?” Ðây chính là sức mạnh của tình yêu có sức cứu độ.

Tuy vậy, chúng ta phải nói ngay rằng các lý do trên khiến chúng ta yêu kẻ thù cũng chưa phải là lý do quyết định. Lý do căn bản nhất và được diễn tả rõ ràng nhất chính là lý do Ðức Giêsu đã nêu lên khi nói: “Anh em hãy yêu kẻ thù ?. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Ðấng ngự trên trời”. Chúng ta được mời gọi làm công việc khó khăn này cốt là để cùng với Thiên Chúa tạo nên được một mối tương quan độc nhất vô nhị. Chúng ta có thể trở thành con cái Thiên Chúa. Nhờ yêu thương, chúng ta có thể biến khả năng này thành hiện thực. Chúng ta phải yêu kẻ thù vì, như vậy, chúng ta mới có thể biết được Thiên Chúa và nhận biết Thiên Chúa là Ðấng Thánh.

Hiển nhiên là những điều tôi vừa nói có liên quan đến vấn đề phân biệt chủng tộc. Sẽ không bao giờ có được một giải pháp lâu dài cho vấn đề này bao lâu các người bị áp bức chưa yêu kẻ thù. Bóng tối của nạn kỳ thị chủng tộc chỉ có thể bị xóa tan bởi ánh sáng của tình yêu tha thứ. Hơn ba thế kỷ, các người Mỹ da đen đã bị ngược đãi, ban ngày thì chịu đòn vọt, ban đêm thì bị ức hiếp một cách bất công và tàn nhẫn. Sống trong tủi nhục, hẳn chúng ta cũng muốn lấy ác báo ác, lấy hận thù đối lại hận thù. Nhưng nếu điều này xảy ra, thì trật tự mới chúng ta muốn xây dựng chẳng qua cũng chỉ là bản sao của trật tự cũ. Với tất cả sức mạnh và lòng khiêm nhường, chúng ta phải lấy tình yêu đối lại hận thù.

Dĩ nhiên làm như vậy quả là không thực tế. Sống là chiến đấu, cạnh tranh, giành giật, ăn miếng trả miếng. Thế mà tôi lại nói với các bạn rằng Ðức Giêsu dạy chúng ta phải yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ đã ngược đãi các bạn. Cũng như đa số các nhà giảng thuyết, phải chăng tôi cũng chỉ là một người quá lý tưởng để quên mất thực tế? Các bạn có thể nghĩ rằng, trong một thế giới mộng tưởng nào đó, thì điều tôi nói còn có thể nghe được, còn trong thế giới lạnh lùng, nghiệt ngã như thế giới chúng ta, thì hẳn là không nghe được rồi.

Thưa các bạn, trong quá khứ, chúng ta đã đánh mất quá nhiều thời gian khi đi theo một đường lối tạm gọi là thực tế, và nó đã dẫn chúng ta đến xáo trộn sâu xa và hỗn loạn. Nhiều cộng đồng đã lún sâu vào hận thù và bạo lực. Vì lợi ích của quốc gia chúng ta, vì lợi ích của toàn thể nhân loại, chúng ta phải từ bỏ đường lối này. Làm như vậy không có nghĩa là chúng ta không còn cố gắng đấu tranh cho công lý. Còn chút sức lực nào, chúng ta sẽ dùng nó để giải thoát quốc gia này khỏi cơn ác mộng của nạn kỳ thị chủng tộc. Nhưng trong quá trình đấu tranh, chúng ta không bao giờ từ bỏ bổn phận phải yêu kẻ thù. Dấn thân chống lại nạn kỳ thị chủng tộc, chúng ta hết lòng yêu thương những kẻ kỳ thị chủng tộc. Không có cách nào khác để chúng ta tạo nên một cộng đồng trong đó mọi người yêu thương nhau. Với những người thù ghét chúng ta nhất, chúng ta nói: “Quý vị làm chúng tôi đau khổ; để chống lại, chúng tôi chịu đựng đau khổ. Quý vị dùng bạo lực; để chống lại, chúng tôi dùng sức mạnh tinh thần. Ðối với chúng tôi, quý vị muốn làm gì tùy ý; chúng tôi vẫn hết lòng yêu thương quý vị. Theo lương tâm, chúng tôi không thể tuân theo những luật lệ quý vị áp đặt, vì không cộng tác làm điều ác cũng quan trọng như cộng tác làm điều lành. Quý vị tống chúng tôi vào ngục, chúng tôi vẫn yêu thương quý vị. Quý vị sai các tên khủng bố gieo rắc khiếp sợ trong các cộng đồng chúng tôi vào ban đêm, chúng tôi vẫn yêu thương quý vị. Xin quý vị biết cho rằng khả năng chịu đựng đau khổ của chúng tôi sẽ làm quý vị nản lòng, kiệt sức. Một ngày kia chúng tôi sẽ giành được tự do, nhưng không chỉ cho chúng tôi mà thôi. Chúng tôi sẽ gửi đến quý vị một lời kêu gọi đủ sức thức tỉnh lương tâm, lay chuyển con tim và biến đổi quý vị thành những người anh em trong khi chúng ta cùng nhau tiến bước trên đường đời. Như vậy, chúng tôi đã chiến thắng hai lần rồi vậy”.

Tình yêu là sức mạnh tồn tại lâu dài nhất ở thế gian này. Như được minh chứng một cách rõ ràng nơi đời sống Ðức Giêsu, tình yêu sáng tạo là công cụ hữu hiệu nhất mà nhân loại có thể sử dụng trong công cuộc tìm kiếm hòa bình và an toàn. Napoléon Bonaparte là một thiên tài quân sự vĩ đại. Người ta kể lại rằng, sau nhiều năm chinh chiến, ông đã nhận định như sau: “Alexandre, César, Charlemagne và tôi đã lập được những đế quốc rộng lớn. Nhưng nhờ vào gì? Nhờ sức mạnh. Thế mà, nhiều thế kỷ trước đây, Ðức Giêsu đã lập một đế quốc đặt nền tảng trên tình yêu và, cho đến ngày nay, hàng triệu người vẫn sẵn sàng chịu chết vì Người”. Ai có thể nghi ngờ tính xác thực của lời nhận định này? Các thiên tài quân sự đã biến mất; các đế quốc rộng lớn đã sụp đổ. Còn đế quốc mà Ðức Giêsu đã lập và đặt nền tảng vững chắc trên tình yêu thì vẫn tồn tại và không ngừng phát triển rộng lớn. Ðức Giêsu đã bắt đầu với một nhóm người dấn thân, thấm nhuần tinh thần của Người. Nhờ vậy, họ đã mở toang cánh cửa đế quốc Rôma, và rao giảng Tin Mừng khắp mọi nơi. Ngày nay, đế quốc trần thế của Ðức Kitô gồm hơn chín trăm triệu người, sinh sống khắp trên mặt đất. Ngày nay, chúng ta lại nghe nhắc lại lời hứa về một cuộc chiến thắng:

Ðức Giêsu ngự trị khắp nơi
bao lâu mặt trời chiếu soi ban ngày;
Triều đại Người lan rộng khắp nơi
bao lâu mặt trăng chiếu soi ban đêm
.”

Và một đoàn hợp xướng khác hân hoan đáp lại:
Nơi Ðức Kitô chẳng có Ðông và chẳng có Tây,
chẳng có Nam và chẳng có Bắc.
Nơi Ðức Kitô tình yêu huynh đệ
liên kết mọi người trên toàn cõi đất
.”

Ðức Giêsu luôn có lý. Lịch sử để lại biết bao cánh đồng đầy ắp xương khô tại những quốc gia đã từ chối nghe lời Người. Thế kỷ XX này, ước gì chúng ta biết nghe lời Người và đem ra thực hành, trước khi quá trễ! Ước gì chúng ta ý thức được rằng chúng ta sẽ không bao giờ là con cái đích thực của Cha chúng ta ở trên trời, trừ khi chúng ta yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi chúng ta.

Martin Luther King: “Aimer les ennemis” trong “La Force d’aimer”, Ed. Casterman, Paris 1965, trg.63-74. Tóm tắt

Những cụ già VN không ai nuôi dưỡng thì kiếm sống như thế này đây

Những cụ già VN không ai nuôi dưỡng thì kiếm sống như thế này đây . Thật kính phục thay lòng tự trọng của các cụ vì nếu các cụ chỉ ra ngồi bên chợ , vỉa hè thì chỉ trong chốc lát , tiền bố thí sẽ gấp nhiều lần tiền các cụ kiếm được trong một ngày .

80 tuổi còm cõi, gồng mình gánh hàng rong đi bán đã khiến tôi rơi nước mắt.

Các bà tuổi đã cao, lưng đã còng, tóc đã bạc nhưng đôi chân vẫn sớm hôm đều bước giữa dòng đời…

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Gánh những bó rau từ lúc trời tờ mờ sáng

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Bán hàng tới lúc 1h đêm

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Đôi chân trần mải miết bước đi

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Gánh nặng trên vai những thứ quà lặt vặt

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Là 2 chiếc làn nhựa chỉ chứa được mấy đôi giày

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Dù cả ngày chỉ kiếm thêm được vài ba đồng vẫn còn hơn không có

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Dù những món hàng đem bán chỉ là mớ rau muống, bó dọc khoai.

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Số tiền lãi chỉ được tính bằng 1-2 nghìn lẻ.

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

Các cụ vẫn rất yêu đời, vẫn cười tươi…

 Xúc thương những cụ bà lặn lội gánh hàng rong

….Tuổi già đè nặng trên vai nhưng không có ai chia sẻ nên dù tuổi cao, dù lưng mỏi, các cụ vẫn phải lặn lội sớm khuya để kiếm thêm miếng cơm ăn, kiếm manh áo mặc…

 Xót lòng trước cảnh cụ bà còng lưng đi nhặt rác

Hình ảnh cụ bà nhặt rác

nguồn: Từ Đặng Thịnh gởi

Những cây cầu độc đáo trên khắp thế giới

Những cây cầu độc đáo trên khắp thế giới
  
  1. Henderson Wave 
 
 
 
 
Như một con trăn đang bò giữa không trung, Henderson Wave là cầu dành cho người đi bộ cao nhất ở Singapore . Đặc biệt, vào buổi tối, nơi đây quả là lý tưởng để thỏa sức ngắm cảnh của 2 khu vườn nổi tiếng, Mount Faber Garden và Telok Blangah Mount Garden.
 
2. Aiola Island
 
 
Cây cầu có hình dáng kỳ lạ này bắc qua sông Moore ở Australia và ngay lập tức trở thành điểm thu hút sự chú ý. Được xây dựng từ năm 2003 do họa sĩ người Mỹ Vito Acconnci phác họa, cây cầu ghi điểm trong mắt khách du lịch ở chỗ nó có khu tắm nắng, quán bar thời trang và nhà uống cafe ngay chính giữa cầu.
 
3. Langkawi Sky
 
 
Được hoàn thành năm 2004 ở Malaysia, cây cầu Langkawi Sky ngoằn nghèo như chú rắn uốn mình qua núi. Nó cao tới 700m so với mực nước biển và dải trên ngọn núi cao 125m.
 
4. Magdeburg Water
 
 
 
 
Một con sông ở giữa cầu, đó chỉ có thể là cây cầu Magdeburg Water cao 918m ở Đức mà thôi. Thiết kế độc đáo của Magdeburg Water cho phép tàu du lịch chở khách để ngao du ngắm cảnh.
 
5. Rolling Bridge
 
 
Một chú sâu cuộn tròn mình lại – bạn có thể hình dung hành động này để hiểu cơ chế hoạt động đặc biệt của cây cầu Rolling Bridge ở London , Anh.
 
6. Cầu phun nước Banpo tại Hàn Quốc
 
 
Lung linh và huyền ảo! Ai cũng phải thốt lên như vậy khi ngắm nhìn cây cầu này bắc qua sông Hàn, thủ đô Seoul , Hàn Quốc vào buổi tối. Nơi đây thường diễn ra những màn biểu diễn nước và ánh sáng trong những sự kiện lớn của xứ sở Kim chi.
 
7. Cầu Tianjin Eye
 
 
Cây cầu này nằm ở sông Haihe, Trung Quốc, nó có thể đưa người qua đường lên không trung qua bánh quay Ferris. Nhiều người cho rằng trên thế giới, đây là lần đầu tiên xuất hiện chiếc cầu có kiến trúc lạ như thế. Cây cầu được bắt đầu xây dựng từ năm 2007 và đi vào sử dụng ngày 7/4/2008. Các bánh quay được trang bị thiết bị điện, nên cây cầu có công suất chở được 768 người/giờ.
 
8. Python Bridge
 
 
Cây cầu Python hiện đại nằm trên cảng phía Tây của thành phố Amsterdam . Thật dễ để nhận thấy cây cầu này có hình dáng giống như một con mãng xà, và đó cũng là lý giải cho cái tên đặc biệt của nó. Được thiết kế do công ty West 8 và xây dựng năm 2001, cầu Python nối bán đảo Sporenburg với hòn đảo Borneo .
 
9. Cầu đi bộ ở La Roche-sur-Yon
 
 
Chiếc cầu hình trụ có màu sắc rực rỡ dành cho người đi bộ này nằm ở La Choche-sue-Yon, Pháp, và được xây dựng từ sự hợp tác giữa hai đội kiến trúc và kỹ sư ở New York và Paris, đứng đầu là Bernard Tschumi và Hugh Dutton. Cầu có cấu trúc hình trụ nhằm đảm bảo khả năng chống đỡ, khi được xây dựng gần các khu resort ở vùng biển phía Tây nước Pháp và có nhiều người qua lại. Có thể nói, chiếc cầu là liên kết giữa thành phố lịch sử “the Pentagon” (do Napoléon xây dựng) và các vùng lân cận, giúp cho người dân tiện qua lại đường quốc lộ và dễ dàng di chuyển từ thành phố vào thị trấn.
 
10. Cầu Kintaikyo, Iwakuni, Nhật Bản
 
Đây là chiếc cầu đời thứ 3 bắc qua sông Nishiki, Nhật Bản sau khi trải qua nhiều trận bão lớn và lũ lụt khủng khiếp. Trước kia, cây cầu gốc được xây dựng từ năm 1673 rồi bị hư hại nặng do lũ lụt. Sau đó, nó được xây dựng lại và tồn tại hơn 200 năm, cho đến khi một cơn bão ập xuống đánh sập hoàn toàn vào năm 1950. Điểm đặc biệt của cây cầu này nằm ở chỗ nó có 5 vòm gỗ với những chi tiết đáng kinh ngạc về nghệ thuật đóng tàu thủ công của người dân Nhật Bản, chỉ sử dụng kẹp và dây điện để xây dựng.
 
nguồn: Bryan Đỗ gởi

Kinh Nghiệm Phải Sống Tốt

Kinh Nghiệm Phải Sống Tốt
(Hạnh Phúc Gia Đình)
 

 

                                                                                                  Tuyết Mai
 

Hổm rày cả tuần lễ nay vợ chồng chúng tôi thấy có một khuôn mặt lạ thường lai vãng đến chơi với thằng con trai của chúng tôi, và ở lại chơi rất khuya.   Ông nhà tôi thì không biết nhưng tôi thì biết rất rõ vì có vài lần nửa đêm tôi đi xuống xem thằng con trai tôi đã ngủ chưa, để tôi còn tắt router, đèn đóm, cửa nẻo trước và sau nhà.   Có lần gần 4 giờ sáng mà chăn gối mùng mền còn gấp chưa thấy thằng cháu nó tung ra nằm, tôi liền ra garage xem thằng con tôi đâu thì thấy hai thằng vẫn còn đứng xớ rớ đó chơi với computer mà chưa chịu đi ngủ.   Tôi chỉ la cháu bảo rằng phải đi ngủ ngay kẻo bố cháu xuống thấy là chết với ổng.

 

Khuôn mặt mới này thì tôi thấy cũng hiền lành chứ không ra vẻ dữ tợn hay bậm trợn.   Tôi có hỏi cháu thằng bạn này con quen ở đâu? Và tại sao không chịu về nhà mà ngủ mà tìm ngủ lại nơi hồ tắm của chung cư?.   Vì tôi phải trở lại ngủ nên cháu chỉ trả lời vắn tắt là thằng bạn nó bỏ trốn nhà và chúng con 4 đứa đang cố gắng thay phiên nhau giúp nó chỗ ăn và chỗ ở, mà hôm nay là ngày trách nhiệm của con để lo cho nó.   Thằng con trai tôi chỉ nói gọn lỏn và muốn cho tôi an tâm, nên cháu bảo con đang cố gắng làm chuyện tốt là chuyện này đây! “Mom, I am trying to do a good deed is to help a friend who is in need and in trouble”.   Tạm dịch: “Mẹ ơi, con đang cố gắng giúp bạn con nó đang cần chỗ ở và nó đang có vấn đề”.

Khi nghe con có tấm lòng thương người nhất là muốn giúp bạn của nó trong thời gian bạn nó cần, tôi cũng mủi lòng và cảm tạ Chúa cho con trai tôi có trái tim tốt.   Sáng nay tôi có rảnh chút thời giờ để hỏi con cho rõ tình cảnh của bạn nó, chứa chấp hổm rày là lý do tại sao nó không về nhà nó ở?.   Nó có cha mẹ hay không? Tại sao lại bỏ trốn nhà? Sắp đi học rồi mà có lo chuẩn bị để đi học hay không? Thế nó có tiền để sống hay không?.   Con trai tôi nói cách tỉnh bơ như không phải là chuyện lớn hay là vấn nạn để tôi phải lo.  

Chuyện là con trai tôi và cùng nhóm hết thảy có 4 đứa chơi nhau rất thân, 3 Mỹ vàng và một Mỹ trắng, thường hẹn nhau gặp tại công viên (park) để chơi nhảy xe đạp.   Vô tình cả nhóm chúng quen biết thêm người bạn VN mới này cũng được 4,5 tháng nay rồi!.   Người bạn mới này thường hay bỏ trốn nhà đi chơi lang bang lắm!.   Hôm thì đến ở nhờ người bạn này, mai thì đến ở nhờ nhà người bạn khác, nếu có ai chịu chứa nó.   Hỏi ra thì biết người bạn mới này không có cả cha lẫn mẹ.   Ở với người anh trai duy nhất không biết bao nhiêu tuổi, nhưng hiện đang thuộc ở trong băng đảng.   Thường đánh đập và chửi rủa em, nên nó sợ và hay thường bỏ nhà đi rong là vậy!.  

Người bạn mới này sở dĩ được nhóm bạn đối xử hết lòng vì tánh tình cũng hiền lành, nhát, và không muốn bị anh đánh đập.   Nghe qua tôi cũng bị xúc động và ngấm ngầm muốn giúp bạn của con, nhưng phải khôn khéo không cho ông nhà tôi biết.   Tôi cũng được biết là người bạn mới này không nghèo, có nghĩa là có tiền để ăn, và không phải là không có chỗ để ở.   Nhưng ra khỏi nhà đây là vì muốn tránh những trận đòn mà người anh có thể giáng xuống tấm thân nó bất kỳ giờ phút nào??.   Con tôi bảo vì là đang hè nên nó có thời giờ mà chơi với thằng bạn mới chứ nhập học rồi thì nó cũng không có thời giờ rảnh để thức khuya như vậy nữa đâu mà mẹ lo!.

Ở địa vị của chúng tôi làm cha mẹ thì không gì vui sướng cho bằng là biết con trai mình có trái tim biết đập nhịp của yêu thương và rất người.   Đó là món quà quý giá nhất mà Chúa ban cho vợ chồng chúng tôi.   Tuy hiện giờ cháu nó ham chơi nên học dở lắm! Dở đến độ mà không đủ điểm để thầy cô ký cho giấy để được đi làm bán thời gian.   Cháu hứa là khóa học năm mới này, cháu sẽ cố gắng học cho có điểm cao, để có thể đi làm mà phụ cha mẹ những tiền xài vặt vẵn mà cháu rất cần.   Như ăn vặt, tiêu vặt, phụ tùng sửa xe đạp cũ của nó, nhất là vỏ và ruột bánh xe bị bể rất thường, v.v……

Sự cháu học dở hay học giỏi tôi chỉ biết dâng tất cả cho Chúa, nhưng tôi hiểu rằng cháu không học dở mà vì rất ham chơi.   Hy vọng cháu sẽ lớn ra, trưởng thành hơn, và sẽ hiểu tận tường hơn khi nào sự học mới là quan trọng cho tương lai của cháu thì lúc bấy giờ cháu sẽ có sự cố gắng và tích cực hơn.   Các con của chúng tôi chẳng có đứa nào học hành xuất sắc cả, đó là điều chắc chắn là như vậy, nhưng tôi chỉ cầu mong Chúa ban cho chúng nó có được tấm bằng tối thiểu để ra sống với đời là đủ.   Nhưng có phải điều quan trọng và cần thiết nhất cho các con của chúng tôi là hết thảy chúng có trái tim lớn.   Bởi làm con cái của Chúa, chúng ta chỉ cần sự khôn ngoan Chúa ban cho là đủ, còn mọi thứ mọi điều Chúa sẽ định liệu và sắp xếp cho từng người của chúng ta, cách riêng.

Sự khôn ngoan của Thiên Chúa mới chỉ vẽ cho hết thảy chúng ta Con Đường để có Hạnh Phúc Đích Thực và Vĩnh Cửu trên Quê Trời.   Còn cuộc sống trần gian chỉ là những thời gian rất tạm bợ rất chóng qua.   Lãng phí thời gian cho chuyện vô bổ và chìu cho thân xác hay chết này, có là khôn ngoan hay không khi chúng ta có mọi thứ trên thế trần nhưng linh hồn sống đời đời sẽ chịu mọi cực hình, tra tấn, giam cần, trong Hỏa Ngục Đời Đời Kiếp Kiếp không có ngày ra????.  

 
 
** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:
     (Hãy Tìm Chúa Vì Kiếp Người Sống Là Bao)       
 
      
Y Tá Của Chúa,
Tuyết Mai
08-16-12

Thịt Ta là của ăn

Thịt Ta là của ăn

                                                                    ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.


 

Nói đến máu thịt là nói đến những gì thâm sâu nhất trong con người. Thâm sâu vì máu thịt chính là sự sống. Thâm sâu vì máu huyết thuộc hệ di truyền. Ta thường nói: máu huyết của cha, thịt xương của mẹ. Yếu tố “gen” là thứ sâu xa trong bản tính con người. Là lực lượng âm thầm điều hướng định mệnh con người. Như thế máu thịt không những làm thành con người thể lý bên ngoài mà còn làm thành con người ở chiều sâu tâm sinh lý nữa.

 Máu thịt là thứ thiết thân nhất trong con người. Thiết thân vì nó gắn bó chặt chẽ với bản thân ta, gắn bó với sự sống của ta. Lấy nó ra khỏi con người thì đau đớn lắm. Thiết thân vì ta yêu mến nó. Yêu máu thịt của mình cũng như yêu mạng sống mình là một điều hết sức tự nhiên.

 Hôm nay khi nói ban Máu Thịt cho chúng ta, Chúa Giêsu ban cho ta những gì thâm sâu nhất trong bản thân Người. Người không chỉ ban Máu Thịt mà còn ban cho ta cốt lõi của bản tính Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ định nghĩa: “Thiên Chúa là tình yêu”. Khi ban cho ta Máu Thịt, Chúa Giêsu ban cho ta chính tình yêu của Người.

 Khi ban Máu Thịt cho ta, Chúa Giêsu phải chịu đau đớn. Mạng sống là quý nhất. Nhưng Người yêu ta còn hơn yêu mạng sống của mình. Vì thế, Người hiến mạng sống cho ta như lời Người nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Mạng sống là thiết thân. Nhưng đối với Người, ta còn thiết thân với Người hơn cả mạng sống của Người nữa. Người chịu tiêu hủy mình đi để trở nên thiết thân với ta. Khi hiến mình làm lương thực, Người chấp nhận chịu nghiền tán, chịu đớn đau để trở thành thịt máu của ta, để trở thành thiết thân với ta, đến nỗi ta không thể tách Người ra khỏi ta được nữa. Thật là một tình yêu lạ lùng. Thật là một sáng kiến tuyệt vời.

 Khi ban Mình Máu Thánh cho ta, Chúa Giêsu mong ước ta sống kết hiệp mật thiết với Người. Khi chịu lấy Mình máu Thánh Chúa thì Chúa ở trong ta và ta được ở trong Chúa. Đây là một biến đổi sâu xa. Chúa Giêsu đã làm người để ở với ta, làm tấm bánh để ở lại trong ta. Chúa mong ước ta ở lại trong Chúa. Vì thế khi rước lễ, ta phải biến đổi đời sống cho xứng đáng và phù hợp với Chúa. Ở trong Chúa không phải là ở trong không gian vật lý nhưng ở trong không gian thiêng liêng, trong ảnh hưởng của Chúa, trong tình yêu của Chúa, trong lề luật của Chúa, trong tinh thần của Chúa. Như thế ở trong Chúa có nghĩa là sống như Chúa, suy nghĩ như Chúa, hành động như Chúa, yêu thương như Chúa.

 Khi mời gọi ta đến kết hiệp với Người, Chúa mong muốn cho ta được sống. Chúa chính là nguồn mạch sự sống. Ở trong Người là ở trong sự sống. Kết hiệp với Người là kết hiệp với sự sống. Sống nhờ Người là hít thở sự sống của Người, hấp thu sự sống của Người. Người là sự sống vĩnh cửu, sự sống sung mãn, sự sống hạnh phúc. Được sống bằng sự sống của Người ta sẽ được sự sống dồi dào, hạnh phúc không bao giờ tàn phai.

 Lạy Chúa, xin cho con hiểu biết, yêu mến và sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời con. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1.    Bạn hiểu thịt máu có ý nghĩa gì?

2.    Chúa ban Thịt Máu Chúa cho ta. Điều này có ý nghĩa gì?

3.    Thế nào là ở trong Chúa? Muốn ở trong Chúa bạn phải làm gì?

4.    Thế nào là sống nhờ Chúa? Muốn sống nhờ Chúa bạn phải làm gì?

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

BẤT AN

BẤT AN                                             

                                                                             Huỳnh Ngọc Chênh

Trước 75, ngay khi sống trong thời chiến, tôi vẫn luôn cảm thấy an lành. Những năm chiến tranh ác liệt ấy, gia đình tôi tách ra làm hai. Ba tôi xuống thành phố, còn mẹ tôi vẫn ở lại quê bám trụ. Tôi đi đi về về cả hai nơi. Đêm ngủ ở quê, thường xuyên nghe tiếng đại bác nổ ven rìa làng do lính Mỹ bắn cầm canh từ phi trường Đà Nẵng. Thỉnh thoảng cũng có vài quả đại bác bay lạc vào nhà dân gây ra cảnh tang thương chết chóc thế nhưng không hiểu vì sao tôi vẫn không cảm thấy bất an. Đêm ngủ ở Đà Nẵng thỉnh thoảng lại nghe hú còi báo động có pháo kích của Việt Cộng bắn về thành phố, nhiều người phải chạy vào nấp dưới hầm, riêng tôi vẫn nằm tỉnh queo trên giường, không chút lo sợ.
Bây giờ sống trong hòa bình, mà hòa bình đã gần 40 năm rồi sao trong lòng cứ thắc thỏm bất an. Do tuổi già ư? Không phải như vậy.
 
Làm sao mà yên ổn được khi bước ra đường phải lo sợ trước bao nhiêu điều hiểm nguy đang rình rập. kẹt xe, khói bụi ô nhiễm, tai nạn giao thông, đinh tặc, cướp giật, va quẹt xe đưa đến bị hành hung, cây đổ, dây điện đứt, sụp hố cống…. Một ngày ở thành phố lớn như Sài Gòn, xảy ra không biết bao nhiêu vụ tai nạn giao thông, bao nhiêu vụ cướp giật, hành hung, đâm chém…thấy tận mắt hoặc đọc báo, nghe đài mà oải cả người.
Hầu như mọi thứ thức ăn đều có nguy cơ chứa chất độc hại do dư lượng thuốc trừ sâu, dư lượng kháng sinh, do chất kích thích hoặc do làm ra gian dối. Không thể nào yên tâm với thức ăn ở các hàng quán. Cà phê hóa chất, phở ngâm formol, dầu ăn từ cống rãnh, chế biến thức ăn bên cạnh nhà vệ sinh… Thực phẩm mua ở chợ về tự chế biến cũng hoàn toàn không yên tâm. Rau, giá, trái cây đầy rẫy chất kích thích cực độc (nhất là trái cây Trung cộng), cá thì bị ướp hàn the, thịt thì không kiểm định hoặc thịt bị dùng chất tăng trưởng độc hại. Bất an với món ăn ở hàng quán nhưng cũng không thể nào an tâm với bửa ăn tự nấu nướng ở nhà.
Tình trạng ô nhiểm thì kinh hồn. Đường xá thì khí thải và bụi bẩn bay mù mịt, cống rãnh và kênh rạch thì đen ngòm vì chất thải bẩn. Rồi ô nhiểm âm thanh mới kinh hồn.
Trong công việc mưu sinh, bất an khắp mọi nơi. Vật giá liên tục leo thang, quá nhiều công ty nợ nần phá sản, chiếm dụng vốn và lừa đảo khắp mọi nơi. Khuyến mãi lừa đảo, bán hàng đa cấp lừa đảo, thế chấp vay lừa đảo…Sụ bất an do suy thoái kinh tế làm người có vốn không dám bỏ tiền ra đâu tư, người làm công cứ thắc thỏm lo mất việc từng ngày.
Khi bị ngã bệnh, phải đến bệnh viện thì người dân hoàn toàn không yên tâm. Chỗ nằm thiếu, phương tiện y tế lạc hậu, tay nghề cũng như lương tâm thấp kém của y bác sĩ có thể làm cho bệnh nhân không những không được cứu chữa thích đáng mà còn gây ra tử vong vô lý nữa. Biết bao nhiêu cái chết oan khiên được nêu ra và không được nêu ra do sự tắc trách của bệnh viện.
Hành chính thì nhũng nhiễu, thường gây ra sự phiền hà cho dân để công chức ăn hối lộ thay vì tận tụy phục vụ dân. Có việc đến cơ quan công quyền như thuế vụ, hải quan, nhà đất, ủy ban các cấp, công an…người dân phải khúm núm quỵ lụy và lo lót thì sự việc mới trơn tru. Có lỗi bị tạm giữ trong đồn công an, người bị tạm giữ hoàn toàn không yên tâm. Chuyện bị chết trong đồn công an đã trở nên quá phổ biến.
Chuyện an ninh quốc phòng thì được nghe nói đã có đảng và nhà nước lo nhưng người dân hoàn toàn thấy bất an. Ngư dân ra khơi là bị Trung cộng đuổi bắt hoặc đâm chìm tàu. Tàu chiến, tàu hải giám, tàu cá của Trung Cộng hầu như đã chiếm lĩnh toàn bộ biển Đông. Trong đất liền thì chỗ nào, lãnh vực nào cũng có mặt người Tàu.
Cơ quan chức năng và ban bệ rất nhiều, người dân phải è lưng ra đóng thuế để nuôi một bộ máy nhà nước vô cùng cồng kềnh, nhưng bộ máy ấy hoàn toàn không làm cho người dân an tâm.Bất ngờ đau ốm không dễ dàng có xe cấp cứu đến, bị cướp bóc trấn lột không dễ gì gọi được công an. Thức ăn nhiểm bẩn hầu như không có cơ quan nào quan tâm….Người dân cảm thấy bị bơ vơ đơn độc giữa cuộc đời.
Một nhà nước yếu kém, bất lực và vô trách nhiệm  như vậy mà sao vẫn tồn tại lâu vậy nhỉ? Đây có lẽ là nỗi bất an lớn nhất mà người dân phải mang nặng trong lòng.

Chuyện khôn, dại

Chuyện khôn, dại

 lúc 12:09 Sáng 16/08/12

VRNs (16.08.2012) – Sài Gòn – Ngay trong cuộc sống đời thường cũng luôn có nhiều “chuyện lạ”, nhưng mỗi chuyện đều có những mức độ “lạ” khác nhau, thậm chí là khác hẳn. Tốt cũng “lạ”, xấu cũng “lạ”. Vì vậy mà cần phải tỉnh táo, biết phân biệt cái gì đúng hoặc cái gì sai. Đó là người thông minh và khôn ngoan. Chúa Giêsu dạy cách xử sự: “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt 10:16).

Sự khôn ngoan rất quan trọng trong mọi trường hợp. Kinh thánh cho biết: Đức Khôn Ngoan đã xây cất nhà mình, dựng lên bảy cây cột, hạ thú vật, pha chế rượu, dọn bàn ăn và sai các nữ tỳ ra đi. Đức Khôn Ngoan còn lên các nơi cao trong thành phố và kêu gọi: “Hỡi người ngây thơ, hãy lại đây!” (Cn 9:4). Với người ngu si, Đức Khôn Ngoan bảo: “Hãy đến mà ăn bánh của ta và uống rượu do ta pha chế! Đừng ngây thơ khờ dại nữa, và các con sẽ được sống; hãy bước đi trên con đường hiểu biết” (Cn 9:5-6).

Đường lối Chúa luôn cao siêu và kỳ diệu, vượt ngoài tầm hiểu biết của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải thầm nhủ: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Ngài chẳng ngớt trên môi” [Tv 33 (34):2], đồng thời còn nói cho người khác biết: “Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Ngài” [Tv 33 (34):3-4], rồi giải thích lý do: “Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Ngài đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng” [Tv 33 (34):5]. Tình yêu của Thiên Chúa bao la, lòng thương xót của Ngài vô biên, chắc chắn rằng “ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi” [Tv 33 (34):6]. Sự thường thì “vô tri, bất mộ”. Nhưng một khi đã “nếm thử” sự ngọt ngào của Ngài rồi, người ta sẽ khiêm nhường khi làm chứng về Ngài: “Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn” [Tv 33 (34):7].

Thánh vịnh 33 (34) muốn nhắc nhở chúng ta một điều: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” [Tv 33 (34):9]. Nghiệm ra Chúa rồi thì người ta sẽ thêm khôn ngoan, biết sống theo lời khuyên tốt lành: “Phải giữ mồm giữ miệng, đừng nói lời gian ác điêu ngoa; hãy làm lành, lánh dữ;, tìm kiếm bình an, ăn ở thuận hoà” [Tv 33 (34):14-15].

Tục ngữ Việt Nam khuyên: “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Đó là phép lịch sự cơ bản nhưng lại thể hiện sự ý tứ, tinh tế và khôn khéo. Thánh Phaolô khuyên: “Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình, đừng sống như kẻ khờ dại, nhưng hãy sống như người khôn ngoan, biết tận dụng thời buổi hiện tại, vì chúng ta đang sống những ngày đen tối” (Ep 5:15-16). Thánh nhân “vuốt mặt” mà không cần “nể mũi”, cứ nói thẳng nói thật: “Anh em đừng hoá ra ngu xuẩn, nhưng hãy tìm hiểu đâu là Ý Chúa. Chớ say sưa rượu chè, vì rượu chè đưa tới truỵ lạc, nhưng hãy thấm nhuần Thần Khí” (Ep 5:17-18). Đó mới là cách sống khôn ngoan, mà người nào có “sống khôn” thì mới có thể “chết thiêng”. Hệ lụy lô-gích!

Ngày xưa, những người có “máu nhạc” bị coi là “xướng ca vô loài”, nghĩa là “không giống ai” theo dạng “kỳ quặc”, kiểu như “con giáp thứ 13” không hề có trong số các con giáp. Thế nhưng Thánh Phaolô lại khuyên: “Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa” (Ep 5:19). Đặc biệt hơn, thánh nhân nhấn mạnh: “Trong mọi hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ Thiên Chúa là Cha” (Ep 5:20). Tạ ơn khi vui mừng và may mắn thì đó là điều dễ dàng, không có gì đáng nói; nhưng tạ ơn khi buồn rầu và kém may mắn thì đó mới là điều đáng nói. Khó lắm! Nhưng Thánh Gióp đã làm được điều đó, dù đời ông là bản “trường ca đau khổ”. Chúng ta phải nỗ lực noi gương Thánh Gióp vậy!

Nếu lần đầu nghe Chúa Giêsu nói: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống” (Ga 6:51). Liệu chúng ta có thể tin “chuyện động trời” như vậy? Chắc là không! Người Do-thái khi nghe Chúa Giêsu nói vậy, họ liền tranh luận sôi nổi với nhau: “Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?” (Ga 6:52). Ăn thịt sống của động vật đã là “điều lạ”, huống chi là “ăn thịt và uống máu người”. Phải nói là kinh dị! Chắc là Chúa Giêsu cười thầm trong bụng. Biết họ không thể tin vì “chói tai”, nhưng Ngài vẫn xác quyết: “Thật, Tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì được sống muôn đời, và Tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt Tôi thật là của ăn, và máu Tôi thật là của uống” (Ga 6:53-55). Chắc là lúc đó ai cũng trố mắt ngạc nhiên, nhưng vẫn há hốc mồm miệng và vểnh tai nghe “điều lạ”. Chúa Giêsu nói tiếp: “Ai ăn thịt và uống máu Tôi, thì ở lại trong Tôi, và Tôi ở lại trong người ấy. Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy” (Ga 6:56-57).

Chúa Giêsu là nhà hùng biện vĩ đại. Họ im lặng tức là có cảm giác “khác” rồi. Đúng là “lời nói lung lay, gương lành lôi kéo”. Ngài tiếp tục tái xác định: “Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6:58).

Có lý lắm. Chắc hẳn lúc đó có nhiều người đang “mềm” lòng như sáp nến gặp lửa nóng vậy. Trong số những người khôn thì chắc cũng không thiếu những người dại. Họ dại vì họ cố chấp, biết đúng mà cứ muốn chứng tỏ “bản lĩnh” của mình; họ dại vì quá tự ái, cái “tôi” lớn hơn cái “chúng ta”; họ dại vì không muốn tin vào quyền năng của “chàng trai trẻ” Giêsu.

Và chúng ta ngày nay cũng thế thôi, có người khôn và cũng có người dại!

Lạy Chúa, xin giúp chúng con được đức khôn ngoan và đức khiêm nhường để sống tốt lành ngay trên trần gian này, để chúng con được mãi mãi “ở lại trong tình thương của Chúa” (Ga 15:9). Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Hãy Luôn Cảm Tạ Thiên Chúa!

Hãy Luôn Cảm Tạ Thiên Chúa!

(CN 20TN, Năm B)

                                                                                    Tuyết Mai

“anh em hãy xét coi phải ăn ở thế nào cho thận trọng, đừng như những kẻ dại dột, song như những người khôn ngoan: biết lợi dụng thời giờ, vì thời buổi này đen tối. Vì thế anh em chớ ăn ở bất cẩn, nhưng hãy hiểu biết thế nào là thánh ý Thiên Chúa. Anh em chớ say sưa rượu chè, vì rượu sinh ra dâm dục, nhưng hãy tiếp nhận dồi dào Chúa Thánh Thần, cùng nhau hát lên những thánh vịnh, những ca vãn và những bài ca đạo đức và hết lòng ca tụng Chúa. Hãy luôn luôn cảm tạ Thiên Chúa là Cha trong mọi nơi mọi sự”. (Ep 5, 15-20).

Suốt hai ngày hôm nay tinh thần và cơ thể của tôi nó ra mệt nhoài, thưa vì con gái lớn của tôi, cháu bị người ta ăn cắp xe, đó là tôi đã cầu nguyện thật nhiều và trao mọi sự việc cho Chúa định liệu.   Sau giờ nghỉ ăn cơm trưa và cũng xong giờ làm việc trong ngày của cháu thì bạn đồng nghiệp cùng rủ nhau đi ăn trưa, sau đó cháu có chương trình phải đi tập Coast Guard đến khuya mới về nhà.   Ra khỏi nhà hàng ở Garden Grove thì cháu phát giác xe cháu đã bị ăn cắp.   Thưa lạ lắm anh chị em ạ! Vì không ai có thể nghĩ rằng xe của cháu ai lại muốn phiền hà mà lấy cắp xe của cháu, trong khi chung quanh là những xe tốt và đẹp hơn của cháu rất nhiều.

Xe của cháu thuộc loại cổ lỗ xĩ lắm rồi! Xe đời “91” đã 20 tuổi già.   Xe già thì mọi thứ cũng già, ai lại lấy cắp làm chi để lỡ có gặp anh cảnh nào thì vừa vào tù ngồi mà lại chẳng bõ cho cái công ăn cắp?.   Nhưng ở đời đôi khi cái cũ rích của người lại là cái kho tàng cho người khác; thật đúng vậy, tuy cái xe cũ rích cũ rơ, nhưng cháu nhà tôi không có tiền để đi mua liền chiếc xe cũ khác, thưa có phải?.   Ngẫm nghĩ ra chắc Chúa tránh dùm cho cháu tai nạn gì đó tối hôm qua chăng?.   Như người mình thường nói “của đi thay người” là vậy?.   Cháu mất cả giấy tờ vì để trên xe.   Thẻ tín dụng thì nhờ bố gọi dùm để bỏ (cancel).

Cháu nhà tôi vì có tâm hồn rất trẻ thơ, tôi không nghĩ rằng cháu khổ sở vì cái xe đã mất, nhưng chắc hiểu rằng sau đó không có cái chân để đi làm, và mùa nhập học cũng sẽ nhanh chóng đến nội trong tuần tới đây!.   Cháu chỉ tiếc vì có thể mất bộ đồ đồng phục mặc đi Coast Guard mỗi tuần.   Trong khi hai bố mẹ đang lo lắng để làm những gì sau đó?.   Mua xe khác cho cháu để nó đi làm và đi học, nhưng tiền đâu mà có ngay để mua xe?.   Đưa xe của hai vợ chồng tôi cho cháu đi đỡ, rồi hai vợ chồng cùng cụt chân hay sao?.   Cháu bắt buộc phải đi xe buýt một ngày mấy chuyến vừa đi vừa về, sợ không kịp giờ làm và giờ đến trường?.   Rồi thì bao nhiêu thủ tục trình báo mất xe, rồi thì bao nhiêu phiền phức sẽ xẩy đến khi mất xe?.   Có sẽ tìm được không?   Tìm được rồi thì cái xe có còn chạy được không hay chỉ còn lại cái sườn, mà tiền lãnh xe ra vẫn phải trả, gần 200 đô la???.

Trao mặc mọi sự cho Chúa thì là lẽ đương nhiên đó, nhưng không tránh được những phiền muộn và những giấy tờ phải khai báo.   Sau thời gian khai báo là những giờ đồng hồ cháu gái nói chuyện với cảnh sát và chờ tin tức của chiếc xe, cũng làm hao mòn và hao tổn sức khỏe của vợ chồng chúng tôi rất nhiều.   Thật may cho chúng tôi không phải chờ lâu! Qua một đêm thì gần trưa hôm nay, có một nữ cảnh sát người Việt gọi điện thoại cho chúng tôi, báo rằng chiếc xe đã tìm thấy, hiện đang nằm trong nghĩa địa xe bảo quản của cảnh sát ở thành phố Santa Ana, và bình điện xe đã bị lấy cắp.   Thế là chúng tôi vợ chồng con cái đến lãnh xe ngay, không quên đem theo một bình điện mượn của bạn con trai của chúng tôi.  

Tôi bảo tất cả hãy cầu nguyện cùng Chúa đi cho cái xe nó còn đầy đủ và còn chạy được, chứ không thì tiền mất tật mang, vì họ không cho mình xem cái xe mà bắt phải trả tiền trước mới được coi xe và làm gì thì làm???.   Ôi lậy Chúa, sau khi trả tiền để lấy xe là gần $ 200 đô la, tôi hồi hộp chờ đợi, họ mới kéo cái xe ra hẳn ngoài đường mà trao cho chúng tôi.   Nhìn cái xe mà tôi không khỏi không cảm tạ Chúa rất nhân lành.   Ngoài cái bình điện xe ra thì ở góc của xe có bị cọ quẹt bể cái bóng đèn nhưng xe vẫn chạy được và không hề mất gì khác thuộc về chiếc xe nữa cả!.   Sau khi cài bình điện mượn vào và charge điện thì xe đã nổ ngon lành.   Bây giờ thì mọi việc kể như đã xong và đã trở lại trạng thái bình thường, vì chúng tôi đã ghé mua bình điện mới và lắp vào chạy ngon lành rồi!.

Lời khuyên nhủ trên của Thánh Phao lô gởi các anh em tín hữu rất chí lí chí tình là luôn sống cảm tạ Thiên Chúa của chúng ta, có thế chúng ta sẽ luôn tiếp nhận Ơn Chúa Thánh Thần, hướng dẫn chúng ta làm những điều tốt lành để luôn đẹp lòng Chúa.   Nhờ Ơn Chúa Thánh Thần soi sáng nên chúng ta hết thảy biết những điều gì là tốt cần nên làm và những điều gì là xấu để tránh xa, nhất là dịp tội.   Tôi luôn dậy con cái hãy luôn sống một ngày tràn đầy yêu thương và cho người sự vui vẻ.   Vì cho người sự vui vẻ ấy, thực tình là muốn cho chính mình được vui vẻ.   Vì điều gì mình cho, sẽ nhận lại được gấp đôi hay gấp ba.   Có thể sự nhận lại đó nó đến rất từ từ như hạt giống chúng ta chôn vùi trong lòng đất vậy!.   Có hạt sau này sẽ cho 100, 50, 20, 10, hay ngay cả 1 cũng là công lao và mộng ước của người trồng trọt mong cho cây sẽ cho sai trái để mọi người cùng được hưởng lộc.   Lộc đây là cây cho bóng rợp để che nắng, cho có trái để ăn, và vườn trái cây đó sẽ muôn đời được nhắc đến tên người trồng như câu “Ăn trái nhớ kẻ trồng cây” …. Như mẹ thánh Têrêsa bên nước Ấn và như tất cả các thánh đã sống đẹp lòng Chúa qua mọi thời đại ….

Bởi thế nếu chúng ta để sự khôn ngoan của Chúa đâm rễ trong tâm hồn chúng ta thì đừng như những kẻ dại dột, song như những người khôn ngoan: biết lợi dụng thời giờ, vì thời buổi này đen tối. Vì thế anh em chớ ăn ở bất cẩn, nhưng hãy hiểu biết thế nào là thánh ý Thiên Chúa. Anh em chớ say sưa rượu chè, vì rượu sinh ra dâm dục, nhưng hãy tiếp nhận dồi dào Chúa Thánh Thần, cùng nhau hát lên những thánh vịnh, những ca vãn và những bài ca đạo đức và hết lòng ca tụng Chúa. Hãy luôn luôn cảm tạ Thiên Chúa là Cha trong mọi nơi mọi sự”.    

Có Chúa trong cuộc đời có phải là điều khôn ngoan cần thiết nhất mà chúng ta luôn chọn lựa để Chúa làm trung tâm và là chủ trong cuộc sống ngày qua ngày của chúng ta?.   Sống theo Thánh Ý Chúa có phải là điều khôn ngoan để chúng ta có được Bình An thật sự?.   Tri Ân, Cảm tạ Thiên Chúa từng giờ từng phút một là điều không thể thiếu và rất nên làm; để chúng ta luôn cảm thấy cần phải mang ơn Người cho ta cuộc sống dư đầy và trọn hảo trong suốt cuộc đời làm người của chúng ta hôm qua, hôm nay, và mãi mãi.   Amen.

** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

     http://www.youtube.com/watch?v=CILVKqh7urQ

     (Cảm Tạ Chúa Đến Muôn Đời)

      

      

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

08-15-12