Người trên 65 tuổi có nên qua Mỹ định cư không?

 

 

 

 

Người trên 65 tuổi có nên qua Mỹ định cư không? Ba mẹ tôi cũng đã lớn tuổi, nhưng tôi tin chắc rằng nếu hỏi ba về vấn đề này, thì ông sẽ trả lời là có, hãy sang Mỹ mà đừng bận tâm gì.

Chia sẻ của tác giả kênh Youtube BienXanhNangAm.

Nhiều người cũng băn khoăn rằng, khi đã cao tuổi thì có nên qua Mỹ hay không. Vì còn trẻ thì còn học hỏi được nhiều, chứ là người đã có tuổi thì không biết sang đấy có trang trải được cho bản thân hay không.

Ba mẹ tôi cũng đã lớn tuổi, nhưng tôi tin chắc rằng nếu hỏi ba về vấn đề này, thì ông sẽ trả lời là có, hãy sang Mỹ mà đừng bận tâm gì.

Và sau đây là những lý do tôi liệt kê ra để khẳng định lại câu trả lời đó:

Thứ nhất, ở Mỹ, người trên 65 tuổi sẽ được chính phủ chăm lo và bảo đảm cuộc sống. Vậy nên, nếu có cơ hội thì mình nên đi, vì chính sách trợ cấp ở Mỹ thật sự tốt.

Thứ hai, nếu thi quốc tịch, người lớn tuổi sẽ được bảo hiểm sức khỏe như bảo hiểm răng miệng, bảo hiểm mắt,.. đồng nghĩa với việc được khám sức khỏe và chăm sóc sức khỏe miễn phí.

Thứ ba, nếu trong nhà có một người lớn hơn 65 tuổi, chính phủ sẽ cho người đến và tân sửa lại ngôi nhà, mọi chi phí điện, nước, gas đều được giảm xuống một phần.

Với khoản trợ cấp khoảng 800 USD một tháng (nếu đã thi quốc tịch), tôi nghĩ là thoải mái chi tiêu với những người cao tuổi nếu có ý định sang định cư.

Thêm nữa, người cao tuổi sang đây, nếu còn sức khỏe, họ có thể chăm cháu. Và đặc biệt, ở Mỹ, họ rất sòng phẳng. Họ sẽ trích một phần tiền lương của mình để trả công cho sự chăm sóc con cái của bố mẹ. Đây cũng là điều hết sức bình thường.

Đặc biệt, không khí bên Mỹ rất trong lành, thức ăn an toàn và sạch sẽ. Bên Mỹ, họ có thể đi tù nếu bị phát hiện chế tạo thực phẩm bẩn. Kiểm định thực phẩm ở Mỹ rất gắt gao.

Tuy nhiên, sang Mỹ đối với người lớn tuổi cũng có một vài bất lợi.

Về ngôn ngữ, người già sang đây họ phải nói tiếng Anh, nhưng ở Mỹ có một số vùng rất đông người Việt như San Jose hay Santa Ana. Họ sinh sống cùng người Việt nên ra đường gặp nhau chỉ nói tiếng Việt mà thôi.

Về đi lại, như các bạn đều biết, người Mỹ họ không đi xe máy. Tuy nhiên, để làm quen và thích ứng với văn hóa này cũng không phải điều khó khăn. Ở Mỹ, dịch vụ Uber khá phổ biến, bên cạnh đó, người Việt mình cũng có những dịch vụ dành cho những đối tượng cao tuổi không quen với nét văn hóa này.

Và một điều nữa, cuộc sống bên Mỹ khá là vắng vẻ, mọi hoạt động sinh hoạt chủ yếu quây quần trong gia đình chứ không như ở Việt Nam, thân thiện và cởi mở.

Nhưng suy cho cùng, nhiều người khi đã quen với cuộc sống Mỹ, hầu hết họ thường không muốn quay trở lại Việt Nam. Có nhiều lý do: về khí hậu, về dịch vụ chăm sóc sức khỏe hay về tiền trợ cấp người già. Và việc định cư tại Mỹ là một quyết định đáng để cân nhắc.

Biên tập: Hải Vân/ tinnuocmy.com

Em trở về đây với Bướm Xuân,

Suy Tư Tin Mừng tuần 34 thường niên năm A 26/11/2017

Tin Mừng (Mt 25: 31-46)

 Một hôm, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. 

Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? 

Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?” Đức Vua sẽ đáp lại rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng.” 

Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?” Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy.” Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời.”

 &    &   &

“Em trở về đây với Bướm Xuân,”

“Cho tôi mơ ước một đôi lần.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

 Mai Tá lược dịch. 

  Hôm nay đây, Bướm Chúa của Mùa Xuân đã trở về với hình dạng của Đức Vua. Vua vũ trụ, Vua của mọi tâm hồn, như tình tự được thánh sử ghi nhanh ở trình thuật.

Trình thuật, nay có thánh sử rất Mát-thêu ghi về đoạn cuối cuộc sống công khai của Đức Kitô, trước khi Ngài vào với nỗi thống khổ, và rồi sau đó, đã Phục Sinh, để vực dậy hết muôn người.Thánh Mát-thêu làm công việc ấy bằng cung cách của người kể dụ ngôn về ngày sau hết, có phán xét. Đọc trình thuật hôm nay, hẳn rằng người nghe lại liên tưởng đến dụ ngôn của những chiên con và dê hiền. Phụng vụ Hội thánh lại dùng trình thuật hôm nay để mừng kính Đức Kitô Vua, tức Vị Chánh Án vào ngày phán xét cuối cùng.

Nhìn vào ngôn ngữ mà người Công giáo thường sử dụng xưa nay, thì chữ “Vua” không là từ ngữ dễ nghe và dễ chấp nhận cho bằng danh xưng khác. Đã có lúc, danh xưng “Vua” của Đức Chúa được coi như một biểu ngữ nhằm nói lên các giá trị đạo đức hầu đối chọi với ý nghĩa rất chúa của các vua quan ở đời. Thời nay, người người thấy mình không dễ gì thấy được sự khác biệt giữa tính chất rất “vua” của tín hữu Đạo Chúa.

Trình thuật thánh Mát-thêu hôm nay, Đức Giêsu được gán tặng bằng nhiều danh xưng như Con Người, Chúa Chiên (tựa như vua Đavít), Đức Vua, Đức Chúa, Người Con ngự trên ngai vàng cùng Thiên Chúa Cha, vv… Bằng vào các danh xưng ấy, Đức Giêsu Kitô được con dân mọi người tôn kính như vị Chánh Án mọi dân tộc. Và hôm nay, người đọc sẽ thấy Ngài sử dụng quyền tài phán của Chánh Án. Đó là lý do mà thánh sử coi Ngài là “Đức Kitô rất Vua”. Và, điều đó ăn khớp với mọi hiểu biết của chúng ta khi nghĩ về vị Vua của vũ trụ. Bởi, Ngài chính là vị Chánh Án có trọng trách phán xét tất cả những gì con người làm, hoặc không làm.

Kinh Tin Kính của Công Đồng Nicêa có nói Ngài sẽ đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Cũng thế, các bản văn tuyên tín khác cũng có nói dân con mọi người sẽ phải trả lời về những gì mình làm. Thánh Kinh của người Do Thái còn tỏ cho thấy “Ngày của Đức Chúa” là ngày mà vị Chánh án đứng lên để phán và xét. Thêm vào đó, truyền thống giáo hội còn dạy con dân phân biệt việc phán xét vào ngày chung cục cuộc đời của mỗi người với việc phán xét hết mọi người vào ngày thế tận. Nhưng, chẳng một ai, kể cả Đức Kitô, biết được thời điểm với nơi chốn xảy đến công cuộc phán xét chung cuộc ấy. Nên, việc này chỉ được kể bằng ngôn từ rất biểu trưng và thông thường rất dễ sợ.

Kể, bằng biểu trưng hay biểu tượng, là nói trước mọi việc trước khi việc ấy xảy đến. Và, trình thuật về sự việc này được giảng rao khắp nơi và khắp chốn, để người Do thái cũng như dân ngoại sẽ hồi hướng trở về. Cả Enoch lẫn Elijah cũng về lại. Ngày ấy sẽ là ngày Cánh Chung, Phản-Kitô sẽ ngự trị một thời gian.

            Và, không gian vạn vật sẽ chuyển đổi đến rối mù, lửa từ trong/ngoài địa cầu sẽ bốc cháy. Và rồi, có tiếng loa kèn phát lên báo hiệu sự sống lại của muôn loài và khi ấy Con Người cũng sẽ xuất hiện giữa mây trời, rất bảng lảng. Rồi, người người cứ như thể bảo nhau: ngày thế tận đã kề cận. Thế nhưng, lẽ thường tình của con người lại hay chống đối những chuyện như thế. Và, phần đông sẽ không tin rằng chuyện đó là sự thật như đinh đóng cột. Hay nhất là bảo: ta chẳng hiểu gì về việc ấy.

Chẳng hiểu, vì ngôn từ biểu tượng mà thánh Mátthêu sử dụng chỉ để kể về một gặp gỡ rất riêng tư thân tình giữa Đức Kitô và mỗi một người, khi ta chết. Vào lúc ấy, Ngài muốn biết, không chỉ mỗi việc cuộc sống của ta ra thế nào, nhưng còn nhắn nhủ rằng ta đã làm gì cho lịch sử của con người, tức đóng góp được bao nhiêu cho nhân loại. Lúc thánh Mátthêu viết lên trang sử này, lên giấy, ngài muốn tỏ bày lập trường để ta biết, là: mỗi người chúng ta cũng nên cải thiện lối hành xửc ủa chính mình, ở đây. Bây giờ. Thánh nhân không mô tả những gì sắp đến cho bằng ngài muốn xác chứng những gì phải xảy ra, ngay bây giờ.

Thánh Mátthêu diễn tả việc ấy qua ảnh hình và biểu tượng về chiên lành và dê hiền. Ở Do thái thời xưa, chiên lành chịu đựng cơn lạnh hay hơn dê hiền. Bởi thế nên, dê hiền cần được bảo vệ nhiều hơn. Bằng vào mầu sắc, chiên con thường mầu trắng. Còn, dê hiền lại là mầu đen. Ở dụ ngôn, chiên lành đứng bên phải, tức phía rất phải. Còn, dê hiền ở bên trái tức trái rõ đành rành. Đặc biệt hơn, bằng vào biểu tượng thánh sử viết, thì thú đàn ở phiá bên phải, vẫn phải lẽ. Còn dê hiền, là kẻ xấu nên mới trái. Thế nhưng, dưới tầm nhìn của Chúa, thú đàn dù có trái, vẫn rất phải.

Công việc của Chánh án, là tách chiên khỏi dê theo tiêu chuẩn nào đó. Tiêu chuẩn đây, không là 10 điều giáo luật, vì khi bị phán xét không ai bị cật vấn điều đó. Nhưng tiêu chuẩn phán xét, là phán đoán và xét nét về 6 công tác từ thiện rất cổ điển về lòng thương xót mà người Do thái có thói quen gọi đó là hành xử đầy yêu thương.Cũng chỉ là: lo cho cái ăn, thức uống, đón tiếp mời chào, cho áo mặc, trông nom chăm sóc và viếng thăm đỡ đần. Vấn đề là, người người được hỏi có làm thế trong đời mình không?

Thật ra,đó còn là nội qui cuộc sống cộng đoàn do thánh Mátthêu đặt, ở Tin Mừng chương 18: “Không được để con trẻ lạc lõng, mất mát. Không được để thành viên cộng đoàn bị bỏ rơi, cô độc”. Phán và xét, còn là hỏi: anh/chị có tuân giữ nội qui ấy không? Nếu có, anh/chị là chiên lành. Nếu không, anh/chị sẽ là dê hư. Ở đây, thánh Mát-thêu và -Đức Giêsu- đặt tầm quan trọng vào nội qui giản đơn ấy cho cộng đoàn Kitô hữu thời tiên khởi. Để sau này, sẽ không có ai bị án phạt về những gì mình đã làm hoặc định làm; mà về những gì mình quên làm và không bao giờ chịu làm những việc như thế.

Người tốt lành không làm việc đó vì họ thấy người có nhu cầu như chính người anh, người chị của mình. Đức Giêsu nói: nếu người làm điều tốt lành ít là cho người anh, người chị ấy của mình, thì tức là làm cho Chúa. Họ là người thân của Chúa. Ta làm cho người của Chúa, chứ không phải cho người của ta. Thế nên, phán xét tích cực là phán và xét xem ta có mừng đón vào nhà mình, những người của Chúa, thuộc gia đình Ngài, vì họ nhìn ta như là người trong số họ.

Khi nói đến việc phán xét nói chung, ta bao gộp tất cả mọi người. Vậy thì, “nội qui của cộng đoàn” không chỉ là cho người Do thái hoặc cho cộng đoàn Mátthêu thời tiên khởi hoặc những người thuộc giáo phái nào đó, thôi. Mà là, tất cả. Nội qui ấy, là để mọi người biết mà thực hiện. Nội qui được viết trong tâm khảm của mỗi người. Cho mọi văn hóa, sắc tộc. Mọi thời khắc của lịch sử nhân loại. Nội qui rất chung và sẽ có phán xét cũng rất chung như thế.

Chúa có cách để giáo huấn để họ hiểu rằng cuộc sống đích thực không cần lời nói, hoặc thể chế, dù thể chế ấy là Hội thánh. Chúa thiết lập trong ta bản năng riêng của mội người. Cho mỗi người. Bản năng ấy, giúp ta mở lòng ra với người đang thiếu thốn, có nhu cầu. Dù ta là người thế nào đi nữa, Chúa cũng sẽ phán và xét chính ta, về tất cả điều đó. Phán và xét, xem ta có làm những việc giùm giúp như thếkhông. Chính đó là ý nghĩa của phán xét chung.

Chương 28 cuối Tin Mừng, thánh Mathêu viết: Đức Giêsu truyền lệnh cho nhóm người bé nhỏ của Ngài hãy ra đi mà trở nên đồ đệ của Ngài đến với muôn dân. Không cần biết họ thuộc sắc tộc nào, có lý lịch ra sao hoặc họ từ đâu đến. Ngài dạy họ làm những việc như thế bằng cách quan sát xem họ có làm những điều Ngài dạy trong đời mình hay không. Tức, dạy họ sống biết giữ nội qui đề ra cho cộng đoàn của Ngài, như thánh Mátthêu từng ghi lại. Nếu họ làm theo điều Ngài dạy, thì Ngài sẽ ở với họ suốt mọi ngày, cho đến ngày thế tận.

Đọc trình thuật hôm nay, có thể có người nghĩ là thánh Mátthêu muốn tách chia chiên khỏi dê, để dễ bề phân biệt. Nhưng sự thật, đó không là phân và tách mà là đến với nhau như đàn trẻ lạc được tìm thấy. Là, ra đi mà tìm đến với họ. Ra đi, để ở giữa những người từng lỗi phạm nay bị bỏ rơi, quên lãng. Ra đi, giang tay mà chào đón tất cả mọi người, đưa họ về với hòa giải và hòa hoãn. Thế đó, không là tách chia, phân biệt. Mà là, thuộc về nhau, ở với nhau. Mà là, tất cả ràng buộc vào với nhau để tiến vào với cộng đoàn Nước Trời Hội thánh.

Trong tâm tình cảm kích những điều thánh sử ghi về Đức Kitô Vua, ta lại ngâm lên lời rằng:

“Em trở về đây để nắng hồng,

Hồn xưa còn đẹp ý xưa không?

Trăng tình chưa nguyện lời Hoa Bướm,

Em chẳng về đây để ngỏ lòng.”

(Đinh Hùng – Bướm Xuân)

Là Bướm Xuân hay Bướm của Mùa Xuân, Ngài vẫn là Vua Vũ Trụ, nơi lòng người. Nay, Ngài trở về để Bướm và Xuân nên một. Một thân. Một mình. Thứ Mình rất thánh của Chúa Xuân.

            Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –  

             Mai Tá lược dịch. 

Ghi vào đời hình bóng một người

httpv://www.youtube.com/watch?v=-PAUqh4NV58

Chiều Cuối Tuần – Phương Anh (Á Quân Thần Tượng Bolero 2016)

Chuyện Phiếm đọc trong tuần 34 thường niên năm A 26/11/2017

“Ghi vào đời hình bóng một người 
Đôi lúc chân quen giầy khua lối ngõ
Tâm tư bâng khuâng
Nghe chiều biệt ly theo khuất nẻo người đi…!!!”

(Trúc Phương – Chiều Cuối Tuần)

(Mátthêu 19: 10-11)

 “Ghi vào đời, hình bóng một người”, đây không chỉ là câu hát “trống không” chẳng ghi tên cũng chẳng nhắn nhủ một ai. Nhưng, đối với bần đạo là bầy tôi đây thì, câu hát này lại minh-hoạ một câu truyện kể rất dễ nghe sau đây:

Tôi là một người mẹ 71 tuổi đã nghỉ hưu, còn con gái tôi năm nay 35 tuổi. Khi tôi bắt đầu về hưu cũng là lúc con gái tôi lập gia đình. Với vợ chồng tôi, nó luôn là viên ngọc quý được chúng tôi nâng niu chăm bẵm; bởi vậy khi con thành thân, một cách rất tự nhiên tôi thấy mình có trách-nhiệm phải chăm sóc tổ ấm mới này.

 Ban đầu, tôi hy vọng chúng sẽ về ở cùng vợ chồng tôi, nhưng ông nhà tôi lại cho rằng: “Hai đứa cần có khoảng không-gian riêng biệt để tự-lập”. Thế nên, để tiện chăm sóc các con, chúng tôi dọn tới khu cư-dân gần nhà con mình đang sống. Và cứ mỗi sáng tôi đều chạy qua nhà giúp bọn trẻ chuẩn bị đồ ăn và dọn vệ sinh; chiều đến, lo nấu bữa tối và đợi tới khi hai vợ chồng nó đi ngủ tôi mới về nhà mình. 

Cuộc sống của tôi cứ êm đềm trôi qua như vậy, cho đến một ngày… Hôm ấy, tôi dậy sớm đi chợ mua thức ăn mang tới nhà con, nhưng khi đến nơi lại không thể mở cửa để vào nhà. Không phải tôi mang nhầm chìa khóa, mà đơn giản là con rể đã thay ổ khóa khác. Tôi phải gọi mãi con rể mới ra mở cửa và giải thích: “Gần đây toà nhà xảy ra nhiều vụ trộm, nên…”

 Tối hôm đó con gái qua nhà đưa cho tôi chiếc chìa khóa mới. Lúc ấy, trong tâm tôi có đôi chút khó chịu, nhất là khi con gái tôi nói nhỏ: “Mẹ đừng để chồng con biết nhé!”. Tôi hiểu rằng sự việc không còn đơn-thuần như tôi nghĩ lúc trước.

 Ngày hôm sau, tôi tới nhà con gái sớm hơn mọi ngày, lỉnh kỉnh đồ ăn thức uống. Vừa tới cửa, tôi nghe có tiếng tranh-luận vọng ra: “Chắc chắn là em đưa chìa khóa cho mẹ rồi, phải không?” Rồi một tràng những lời phàn-nàn của con rể vang lên sau cửa, khiến tôi đứng mãi như trời trồng.

 Thật không ngờ, là tất cả công sức và tình yêu thương mà người mẹ vợ như tôi đã dành cho chúng, lại được đền đáp bằng những lời chỉ-trích nặng như vậy. Và tôi thấy chua xót hơn, đó là con gái tôi chỉ biết ậm ừ rồi trả lời rằng: “Bà là mẹ em, vậy anh bảo em phải làm thế nào đây?”

 Tôi lủi thủi xách túi thức ăn thẫn-thờ quay trở về. Nhìn thấy ông nhà tôi, tôi tủi thân đến mức nước mắt cứ lăn tràn lên má: “Ông à, sao tôi cực quá sức? Nó là con gái duy-nhất của tôi, tôi toàn tâm toàn ý lo cho chúng từ bữa ăn tới giấc ngủ, vậy mà những thứ tôi nhận được, là thế này đây, tôi đã làm gì sai/trái hả ông?” 

Ông nhà tôi chỉ bật cười rồi vỗ nhẹ vào vai tôi: “Thật là mấy đứa trẻ không hiểu chuyện, bà cứ để đó, có dịp tôi sẽ nói chuyện với chúng. Mà bà này, bà thử nhìn những người bạn già của chúng ta xem, có mấy ai như bà không? Họ đều thong dong, gần thì đi thăm thú tỉnh thành làng mạc, xa thì ra nước ngoài du lịch. Còn bà, bà chỉ loanh quanh chợ búa cả ngày, lọ mọ cơm nước cho con cái, vì chúng mà tôi với bà đã lạc-hậu so với những người bằng tuổi rồi đấy”. 

Từng lời lẽ của ông chồng như cơn mưa mùa hạ trút xuống khiến tôi bừng tỉnh. Chẳng lẽ, tôi lại không muốn ra ngoài du-lịch thăm thú đó đây sao? Nghĩ vậy, tôi gật đầu thuận đồng tình với ông chồng tôi. Sau đó, ông nhà tôi sắp xếp đưa tôi tới một vùng toàn cây cỏ rộng lớn để nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng ít là vài ngày. Ông còn dẫn tôi tới thăm trang-trại nuôi dê và bò lấy sữa. Được xem tận mắt chứng kiến quá-trình dê mẹ sanh con và cho bú, tôi bất giác thấy lòng mình xúc động, nghẹn ngào.

 Chồng tôi vừa nhìn vừa chỉ vào đàn dê đang gặm cỏ. “Dân du-mục quanh năm di-chuyển chỗ này sang chỗ khác. Nếu dê mẹ đây lại giống như bà, việc gì cũng quán-xuyến, không rời tay thì dê con làm sao sống nổi? Hơn nữa, có ai lại muốn gả chồng chú dê chưa cai sữa tinh thần không đấy?”

 Tôi quay sang, thấy ông nhà tôi cười một cách đầy hậu ý, chỉ một câu nói độc-nhất của ông đã giúp tôi hiểu ra được nhiều điều. Chồng tôi tiếp tục: “Tình mẫu-tử chân-chính là quá-trình tự rút lui một cách khéo léo”, nói xong ông mở điện thoại di-động ra xem rồi đọc cho tôi nghe một bài viết có ghi những câu như sau: “Là bậc cha mẹ, không ai muốn tách rời con cái khi chúng trưởng thành. Họ lầm tưởng làm thế là vì yêu con, nhưng thực tế lại đã vô tình điều-khiển con cái một cách toàn-diện…”

 Tôi liếc mắt lườm ông chồng rồi nói: “Có phải ý ông muốn bảo tôi là người mẹ như vậy phải không?” Chồng tôi bật cười vỗ nhẹ lên vai tôi rồi nói: “Bà ý hả, bà thuộc loại có thể còn cứu vãn được!”

 Sau chuyến du-lịch trở về, việc đầu tiên tôi làm là: gọi điện cho con gái và nói với nó rằng: tôi muốn tới nhà nó một chuyến. Hôm ấy, tôi đã chia-sẻ với cháu hành-trình ý-nghĩa nhất trong đời mình, rồi nghiêm túc bảo chúng: 

-Mẹ chuẩn bị lui về nhà để vui hưởng hạnh-phúc vào tháng ngày cuối của tuổi già. Sau này, có lẽ mẹ sẽ không thường-xuyên tới nhà con nữa đâu, mà dù cho mẹ có tới, thì mẹ cũng sẽ gọi điện báo trước cho các con biết.

 Con gái nhìn tôi, lúng túng một hồi lâu rồi hỏi:

-Mẹ, mẹ giận chúng con à?

 Mẹ đâu có giận, chỉ là mẹ đang học cách tận-hưởng tuổi già thôi con à. Con gái ôm chầm lấy tôi làm mắt tôi ươn-ướt, bùi ngùi. Có người đặt ra câu hỏi: 

-Cha mẹ sinh con ra để làm gì? Để có người nối dõi tông đường hay có người chăm sóc khi về già? Có rất nhiều câu trả lời khác nhau, nhưng câu trả lời cuối cùng khiến nhiều người suy nghĩ là: “để trả giá và tận hưởng”.

 Xin các bậc cha mẹ đừng coi con cái mình là mối quan-tâm duy-nhất trong đời; đừng vì con cái mà khép lại cánh cửa giao tiếp xã hội, cũng đừng vì con mà bỏ lỡ các đam mê sở thích của bản thân.

 Có người còn nói:

-Có một kiểu cha mẹ làm tôi vô cùng kính-phục, đó là: những người từng dành cho con mình tình-thương yêu mạnh mẽ khi con còn bé, rồi khi con lớn lên lại học cách buông tay một cách khéo-léo. ‘Chăm sóc’ và ‘chia xa’ đều là nhiệm vụ mà bậc làm cha mẹ cần hoàn thành với con mình”.

 Làm cha mẹ, là cả một chặng dài hành-trình mà đám phụ-huynh chúng ta cần cả lòng bao-dung và trí tuệ nữa, mới phải. Làm cha mẹ, không đơn thuần chỉ mỗi một việc là nuôi dạy con, mà trong hầu hết mọi thời khắc của cuộc sống, ta cần biết lúc nào nên tiến, lúc nào nên thoái lui.

 Ta không mong cầu con cái mình trở nên hoàn-hảo, cũng không cần chúng phải nuôi-dưỡng khi mình về già, mà chỉ cần chúng có thể sống độc-lập và giữ trọn lòng hiếu-thảo với mẹ cha, vậy là bạn đã làm cha, làm mẹ thành-công rồi đó.” (Trích truyện kể có đầu đề: “Câu chuyện buông bỏ”)

Buông bỏ hay giữ rịt, vẫn là tâm-trạng khác-biệt của nhiều người. Có người lại chỉ nhớ giữ “rịt” như ca-từ bài hát trích ở trên, nên trích thêm như sau:

 “Anh ơi tôi lên đường phố cũ tìm anh chiều hẹn hò
Cho nhau niềm vui cuối tuần
Vì hơn mấy lần
Vắng anh trời kinh đô nghe xao xuyến bước cô đơn…
Ai quên ai khi bàn tay trót nằm trong lòng tay rồi
Anh ơi chuyện hai đứa mình mộng xưa khó thành
Biết nhau chiều hôm nay xin nhớ mãi về sau này…
(Trúc Phương – bđd)

Hệt như thế, đấng bậc nhà Đạo ở Sydney này, lại cũng có luồng tư-tưởng trải dài một nhận-định qua lời hỏi/đáp sau đây:

“Thưa cha,

Vừa qua, con có dịp nói chuyện với một người bạn về sự an-sinh của đám con cái trong các mối tương-quan giữ người cùng phái tính và chị ta lại cứ nói rằng chị thích chọn có con được cặp hôn-phối cùng phái tính nuôi-dưỡng hơn là những đứa co cha mẹ khác phái tính tận tình nuôi nấng nhưng lúc nào cũng xảy ra chuyện bạo-động trong gia-đình. Nghe thế, con đây chẳng biết trả lời sao cho hợp lẽ. Xin cha giúp con một tay.” (câu hỏi nhặt được trên báo đạo ở Sydney)

 Giúp con một tay hoặc hai tay một lượt, thì đấng bậc nào lại chẳng muốn giúp. Chí ít, là đấng bậc từng có quá nhiều kinh-nghiệm trong hỏi/đáp thắc mắc của giáo-dân. Và, trợ-giúp của đấng bậc vị vọng hôm nay, như thế này:

“Nếu những điều nói ở trên là biện-pháp duy nhất để thay-thế, thì tốt nhất nên để cho cặp phối-ngẫu nào biết yêu thương nhau nhiều hơn là để những cặp cứ cãi vã hoặc đánh lộn nhau suốt ngày  dài nhiều năm tháng. Thế nhưng, khi đất nước ta đang sống lại tính chuyện thông qua đạo luật hợp-pháp-hoá hôn-nhân đồng phái tính không chỉ cho cá nhân cặp phối ngẫu nào đó, mà cho toàn thể dân nước, mới thành chuyện.

 Và trong đất nước ta đang sống, đã có rất nhiều cuộc khảo sát hoặc nghiên-cứu cho thấy rằng: con cái sống tốt đẹp hơn khi chúng được cha mẹ khác giới tính nuôi dưỡng, hơn các cặp phối ngẫu đồng tính. Giáo sư Augusto Zimmerman có viết một bài báo nói về vấn-đề này trong tờ “Quadrant” số tháng 8 vừa qua. Tôi xin phép sử-dụng bài này làm nền để đưa ra 5 lý-chứng có liên-quan mà luận-bàn.

 Thứ nhất, mối tương-quan đồng tính luyến ái dính-dự nhiều đến chuyện thất-trung ở các cặp phối ngẫu đồng tính nhiều hơn ở hôn-nhân nam-nữ. Bên Hoa-kỳ, giới chức trong nghề có lập một khảo sát gửi đến 159 cặp phối-ngẫu đồng tính bèn nhận ra rằng phần lớn các cặp này không thể sống chung thuỷ với nhau được đến một năm.

 Và, không cặp nào lại có thể sống bền-bỉ với nhau được 5 năm. Ai cũng biết, con cái chúng có cảm giác bất an khi phải chịu đựng chung sống với người cha hoặc người mẹ, hoặc cả hai không có sự thuỷ-chung.

 Thứ hai, tương-quan đồng tính luyến ái vẫn nổi tiếng là mối tương-quan rất yểu mệnh. Có một khảo sát thiết-lập vào năm 2010 cho thấy là: tính bình-quân thì tương-quan đồng tính chỉ kéo dài được 3 năm mà thôi. Vậy nên, làm sao trở thành chuyện tốt đẹp cho con cái khi bậc “sinh thành” của chúng cứ không ngừng đổ vỡ.

 Thứ ba và có lẽ cũng là điều đác ngạc-nhiên, là: bạo-hành trong gia-đình càng xảy ra cách thường xuyên hơn đối với các cặp phối ngẫu đồng tính hơn các cặp hôn-nhân khác giới tính. Năm 1991, ở Hoa kỳ các nhà nghiên-cứu có mở cuộc khảo-sát dành cho 1099 phụ-nữ đồng tính cho biết những vị này bị đối tác xách-nhiễu thể-xác hơn các phụ nữ có tương-quan khác giới tính.

 Một khảo-sát khác lập ra với 350 phụ nữ đồng tính, khi trước từng có quan-hệ với nam-nhân cho thấy chuyện xách-nhiễu về thể xác và môi miệng cao hơn mối tương-quan đồng tính của họ tính theo tỷ lệ thì: 57% người từng bị phụ-nữ đồng tính lạm-dụng tình dục, 45% trải-nghiệm các vụ xâm-phạm thể xác và 65% trải-nghiệm xâm-phạm thể xác hoặc xúc cảm.

 Một tập-san văn-chương phổ-thông phát hành vào năm 2014 tiết lộ rằng: các vụ bạo-hành trong gia-đình đã ảnh-hưởng lên 75% phụ-nữ đồng tính, nam-nhân đồng-tính và lưỡng tính luyến ái; và một tập san khác xuất bản vào năm 2015 cho thấy chuyện bạo-hành trong gia-đình càng thấy xảy ra nhiều đối với các cặp phối-ngẫu đồng tính hơn các cặp khác. Một lần nữa, ảnh-hưởng trên con cải càng thảm-khốc hơn, thôi. 

Thứ tư là, con cái sống với các cặp phối ngẫu đồng tính càng bị các “bậc sinh thành” của chúng lạm-dụng tình-dục nhiều hơn. Chỉ cần ghi lại một ví dụ tiêu biểu lập vào năm 1996 cho thấy rằng: dù con số nam-nhân ở các cặp hôn nhân khác phái nhiều nhặn hơn giới đồng tính là 36 trên 1, các vụ mơn-trớn/gạ gẫm ở các cặp phối-ngẫu đồng tính xảy ra ở mức 11 trên 1, điều đó có nghĩa là các vụ ấu dâm xảy ra nhiều gấp ba lần ở các cặp phối-ngẫu đồng tính, là chuyện thường.

 Tê hơn nữa, trong nhật báo mang tên The Journal of Homosexuality đăng tải hồi năm 1990 có bài viết cho thấy các tương-quan dục-tình giữa nam-nhân và các bé trai gọi là “tương-quan nhân-ái” đã coi ấu-dâm như chuyện bình thường và tốt lành. Cũng thế, ta đều biết tai-hại về lâu về dài từ các vụ ấu dâm đã ảnh-hưởng lên con trẻ vẫn rất nhiều.

 Thứ năm nữa là, con cái sống chung với các cặp phối ngẫu đồng tính lại cũng lôi cuốn hấp dẫn lẫn nhau cùng một phái tính. Một nghiên-cứu/khảo-sát cho thấy là: trong khi chỉ có 3% người dân sống ở Hoa kỳ là có động-thái lôi cuốn hấp-dẫn người đồng tính, 75% nam-nhân trưởng-thành và 57% nữ-giới trưởng-thành được các cặp hôn-nhân khác phái dưỡng-dục đã phát-triển hành-xử lưỡng phái hoặc đồng tính luyến ái. 

Điều nay lại cũng kéo theo các hệ-luỵ tiêu cựa. Năm 2001, có khảo-sát nghiên cứu gửi đến 6,000 cư-dân sống ở Hoà Lan là đất nước từng nương tay với các vụ đồng tính luyến ái , phát giác ra rằng giới trẻ đồng tính chịu cảnh trầm thống lên gấp 4 lần, con số người đồng tính chịu cảnh rối loạn lo âu lên gấp ba lần, và số người đồng tính này tự-sát lên gấp bốn và số người tuỳ thuộc chất nicôtin lên gấp năm, mắc nhiều chứng bệnh rối loạn khác nhau lên gấp sáu lần, và số những người đồng tính có ý-dịnh tự tử ít là một lần trong đời lên gấp sáu. 

Chẳng thế mà, vào năm 2017, các Trung học y-khoa của Hoa Kỳ có đưa ra một chính-sách nói rõ rằng “thật không thích-hợp và rất nguy hiểm đối với con trẻ và là hành-xử vô trách-nhiệm một cách đầy hiểm nguy để ta có thể thay đổi việc nghiêm cấm kéo dài biết bao năm nay không cho giới đồng tính được phép làm cha làm mẹ trẻ con dù qua hình thức nhận con nuôi, bảo-dưỡng hoặc sinh-sản qua phương-pháp nhân tạo.” (Lm John Flader, Figures show major flaws in same-sex parenting, The Catholic Weekly 15/10/2017 tr. 25)

Hệt như thế, có nghiên-cứu khảo-sát cho nhiều về tệ-hại của hôn-nhân đồng tính đến thế nào đi nữa, tưởng cũng nên nghe lại đôi ca-từ khá da-diết ở bài hát vẫn đánh động nhiều người, rằng:

“Ghi vào đời hình bóng một người.
Đôi lúc chân quen giầy khua lối ngõ.
Tâm tư bâng khuâng.
Nghe chiều biệt ly theo khuất nẻo người đi…!!!

Khi tôi đưa chân người tôi mến tạm xa biệt kinh thành
Mong sao đừng quên mỗi lần chiều qua cuối tuần
Có tôi về trông anh khi phố cũ vừa lên đèn… “

(Trúc Phương – bđd)

“Ghi vào đời hình bóng một người”, phải chăng điều đó vẫn là lời nhắn nhủ từ ai đó, để còn ghi đi ghi lại mãi, những chẳng bao giờ nghĩ chuyện đứng-đắn trong đời, như lời bậc thánh hiền từng biể-tỏ hôm nào ở lời kinh, sau đây:

“Các môn đệ thưa với Ngài:

“Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ,

thì thà đừng lấy vợ còn hơn.”

Nhưng Đức Giêsu nói với các ông:

“Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy,

nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu

mới hiểu, mà thôi!”

(Mt 19: 10-11)

Nói cho cùng, đã hoặc sẽ là vợ chồng chung sống với nhau nhiều năm tháng, tưởng cũng nên nghiên-cứu nhiều lời lẽ của đấng thánh hiền từng bảo ban, để rồi sẽ hiên ngang tiến về phía trước mà sống hung, sống rất mạnh. Như bao giờ.

Trần Ngọc Mười Hai

Luôn chẳng dám

Có ý-nghĩa gì là trái khuấy

Khác-lạ truyền thống

Của cha ông

Rất trong đời.

Mai Tá

NHÂN QUẢ

NHÂN QUẢ

  Lm. Giuse Trần Việt Hùng

“Chiên thì Người cho đứng bên phải, còn dê ở bên trái” (Mt 25,33).

 “Nhân” là nguyên nhân, “Quả” là kết quả.  Nhân là cái mầm.  Quả là cái hạt do mầm ấy phát sinh.  Trong nhân có quả và trong quả có nhân.  Chính trong Nhân hiện tại có hàm chứa cái Quả tương lai.  Nhân thế nào thì Quả thế ấy.  Thưởng phạt ngày sau đều tùy thuộc vào những hành động tốt hoặc xấu của chúng ta thực hiện ngày hôm nay.  Nói chung, ai trong chúng ta cũng muốn được hưởng hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau.  Chúng ta biết con đường lên thiên đàng là thiên đàng mà.  Nếu chúng ta muốn được hưởng an lạc ngày sau, chúng ta phải sống vui tươi và an bình ngày nay.  Biết rằng cuộc đời ai cũng có những sự chen lẫn giữa vui sướng và khổ sầu.  Sự khổ đau trong cuộc sống không phải luôn luôn là sự tiêu cực.  Vì sự đau khổ cần thiết như là những thử thách để giúp ta tinh luyện cho cuộc đời sáng thêm.  Ví như lửa thử vàng, gian nan thử đức vậy.

Kết thúc Năm Phụng Vụ, Giáo Hội mừng Đại Lễ Chúa Kitô Vua, Vua Các Vua, Chúa Các Chúa.  Chúa Giêsu là trung gian giao hòa giữa trời với đất.  Ngài đã nhập thể để rao truyền tin mừng cứu độ.  Chính Ngài là trung tâm và là cốt lõi của tất cả mọi sự hiện hữu.  Ngài mở lối dẫn chúng ta vào hưởng niềm vui hạnh phúc Nước Trời.  Con đường Chúa đi là con đường yêu thương trong khổ giá.  Muốn lãnh nhận ơn cứu độ, chúng ta phải dõi theo lối bước của Ngài.  Hai giới răn nồng cốt tóm kết tất cả lề luật là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, và yêu thương anh chị em như chính mình.  Đức yêu thương được thể hiện qua sự giúp đỡ, chia sẻ, thăm viếng và sống tình bác ái với nhau.  Con đường đức ái là con đường tuyệt hảo dẫn vào quê trời.

Chúa Giêsu dẫn bước chúng ta vào cuộc sống thật ngày sau qua dụ ngôn phân định Chiên và Dê.  Chiên và Dê chỉ là hình ảnh tượng trưng gởi theo một sứ điệp nói về sống bác ái vị tha.  Chiên Dê, phải trái, bên này bên kia, hay thiên đàng hỏa ngục là ranh giới để phân biệt tốt xấu, lành dữ và thưởng phạt.  Phúc thay những ai được xếp vào hàng bên phải: Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ (Mt 25, 34).  Không phải tự nhiên hùa theo đám đông mà được ơn cứu độ.  Mỗi người phải phấn đấu từng ngày để nên trọn lành.  Chúng ta có thể quan sát hình ảnh một thửa ruộng trong đó có lúa và cỏ dại.  Khi chủ ruộng vun xới chăm sóc cả hai lúa và cỏ đều được hưởng phân bón và tưới gội đồng đều.  Lúa và cỏ cùng chung hưởng nắng ban mai, sương sớm và mưa nguồn.  Phát triển tốt nhưng kết quả thì khác nhau, lúa trổ sinh bông hạt, và được thu hoặch cho vào kho lẫm.  Còn cỏ dại bị người ta chà đạp và thu gọn đem thiêu đốt.

Theo giáo lý Nhà Phật, nhân là năng lực phát động, Quả là sự hình thành của năng lực phát động ấy.  Nhân và quả là hai trạng thái tiếp nối nhau mà có.  Nếu không có Nhân thì không có Quả và nếu không có Quả thì không có Nhân.  Cũng chính trong cái Quả hiện tại, đã có hình bóng của Nhân quá khứ.  Vì thế, mỗi vật đều có thể gọi là nhân hay quả: Đối với quá khứ, thì nó là quả, nhưng đối với tương lai thì nó là nhân.  Nhân và quả tiếp nối nhau và đắp đổi nhau như những vòng trong sợi dây chuyền.  Nhân quả đi đôi và ảnh hưởng tới nhau như gieo gió thì gặt bão.  Việc lành hay việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà thôi.  Đôi khi chúng ta tự hỏi rằng tại sao những người làm ác mà họ vẫn sống phây phây lại giầu có sung sướng, trong khi những người hiền lành, đạo đức lại rơi vào cảnh túng quẫn và khổ đau.  Câu trả lời là đời sống tạm này chưa kết thúc, chúng ta chưa thể kết luận thế nào là hạnh phúc thật.

Một Nhân không thể sinh ra Quả, mà phải nhờ vào môi trường vạn vật chung quanh.  Sự vật trong vũ trụ nầy đều là sự tổ hợp của nhiều nhân duyên.  Cho nên không có một Nhân nào có thể tự tác thành kết quả được, nếu không có sự giúp đỡ của nhiều Nhân khác.  Sự liên đới trùng trùng điệp điệp giữa muôn loài làm thành bước tiến của thiên nhiên vạn vật.  Không có thụ tạo nào đứng riêng biệt một mình trong vũ trụ.  Nói rằng hạt lúa sanh ra cây lúa, là nói một cách giản dị cho dễ hiểu, chứ thật ra hạt lúa không thể sanh ra gì được cả, nếu để một mình nó giữa khoảng trống không, thiếu không khí, ánh sáng, đất nước và nhân công.  Có biết bao nhiêu yêu tố để hình thành một chuỗi Nhân Quả.  Trong bất cứ một loài thụ tạo nào cũng có mỗi liên hệ chằng chịt với thế giới hiện hữu chung quanh.

Về phương diện tinh thần, những tư tưởng và hành vi trong quá khứ, tạo cho ta những tính tình tốt hay xấu trong hiện tại.  Tư tưởng và hành động quá khứ là Nhân, tính tình và nếp sống trong hiện tại là Quả.  Tính tình và nếp sống hiện tại là Nhân, để tiếp tục tạo ra hành động trong tương lai là Quả.  Nhân Quả tiếp nối không ngừng qua những hành vi chúng ta thực hiện hằng ngày.  Chúng ta có thể thay đổi và sửa sai những lầm lỡ trong qúa khứ để tạo thành Nhân tốt.  Không bao giờ trễ, nếu chúng ta biết bắt đầu lại.  Mỗi ngày chúng ta có thể tạo nhân tốt, hậu quả sẽ tốt.  Sống trong xã hội, con người phải tương trợ và có ảnh hưởng lẫn nhau.  Tục ngữ nói: Gần mực thì đen, gần đèn thị rạng.  Một người làm phúc, muôn người đều được hưởng nhờ.  Một cây trổ hoa, cả vườn cây thơm hương.

Sống bác ái vị tha là một bổn phận cao quý của con người.  Chúng ta thường gặp thấy các Tăng Ni Phật Giáo đi khất thực.  Các Tỳ-kheo đi một mình hay từng nhóm, không đứng trước cửa chợ mà đi theo thứ tự, từ nhà này sang nhà khác, không phân biệt, mắt nhìn xuống và yên lặng đứng đợi trước mỗi cửa nhà để xem thức ăn có được đặt vào bình bát không.  Khất thực là xin vật thực của người đời để nuôi thân mà cũng còn có bổn phận nhắc nhở chúng sinh làm việc phúc đức.  Trong Đạo Công Giáo, Kinh Bổn có dạy thương người có mười bốn mối, thương xác bảy mối: Cho kẻ đói ăn.  Cho kẻ khát uống.  Cho kẻ rách rưới ăn mặc.  Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc.  Cho khách đỗ nhà.  Chuộc kẻ làm tôi.  Chôn xác kẻ chết.  Thương linh hồn bảy mối: Lấy lời lành mà khuyên người.  Mở dạy kẻ mê muội.  Yên ủi kẻ âu lo.  Răn bảo kẻ có tội.  Tha kẻ dể ta.  Nhịn kẻ mất lòng ta.  Cầu cho kẻ sống và kẻ chết.  Đây là những mối phúc quan trọng giúp đỡ tha nhân về vật chất và tinh thần.  Thật ngạc nhiên khi chúng ta nghe Chúa Giêsu dùng dụ ngôn nói về ngày phán xét.  Ngài phán xét về thực hành đức yêu thương hơn là về những sa ngã phạm tội khác.  Được thưởng hay bị phạt đều tùy thuộc vào việc thực hành mười bốn mối này.

Con người không thể nên tốt một mình, nhưng phải tương trợ lẫn nhau mà sống.  Người ta thường nói: Thiên thời, địa lợi và nhân hòa.  Ba yếu tố kết thành sự thành công.  Chúng ta cần có tha nhân để cùng chia sẻ nâng đỡ, cần có cuộc sống xã hội để cộng tác xây dựng và cần có người đồng hành để chung vai sát cánh gánh vác công việc.  Ngày phán xét sau cùng, thẩm phán sự sống sẽ hỏi chúng ta về sự liên đới Nhân Quả giữa người với người.  Với những người tạo Nhân tốt qua việc bác ái, sẽ được nghe những lời an ủi: Vì xưa Ta đói, các ngươi cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước (Mt 25, 35).

Bất cứ vị thánh nào cũng có trái tim yêu thương rộng mở.  Các Ngài biết chia sẻ và dâng hiến.  Hiến dâng cuộc đời cho Chúa và phục vụ tha nhân.  Không có sự liên đới với tha nhân, chúng ta khó có thể nên trọn lành.  Tha nhân tốt hoặc xấu vẫn có thể sẽ giúp chúng ta nên tốt lành.  Chúng ta có thể tìm tựa nương đức ái nơi những người khốn cùng, nghèo đói, cô đơn, bệnh hoạn, tù đầy và thất vọng.  Họ chính là hình ảnh của Đấng đã dám thí mạng vì yêu.  Giúp đỡ những kẻ bé mọn và cùng khốn nhất là chúng ta đang làm cho chính Chúa, Chúa Giêsu đã phán: “Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu các ngươi đã viếng thăm; Ta bị tù đày, các ngươi đã đến với Ta”(Mt 25, 36).

Thật đáng phải run rẩy và sợ hãi khi chúng ta phải đối diện với sự phán xét sau cùng.  Thiên Chúa nhân từ nhưng công bằng vô cùng.  Giờ phán xét sẽ không có một ai khác chống lưng cho chúng ta.  Chúng ta cũng không còn điểm tựa nào khác để biện hộ.  Sự thật phơi bầy trước tôn nhan chói lòa của Tạo Hóa.  Chúng ta gieo Nhân nào thì sẽ được gặt Quả đó.  Trong cuộc lữ hành trần thế, biết bao lần chúng ta ngoảnh mặt làm ngơ trước nỗi đau khổ, đói khát và cùng quẫn của anh chị em, giờ đây chúng ta phải đối diện: Rồi Người cũng sẽ nói với những kẻ bên trái rằng: “Hỡi phường bị chúc dữ, hãy lui khỏi mặt Ta mà vào lửa muôn đời đã đốt sẵn cho ma quỷ và kẻ theo chúng” (Mt 25,41).

Ngày phán xét, Chúa sẽ không chất vấn chúng ta về bao nhiêu việc vĩ đại đã thực hiện.  Chúa Giêsu nhắc nhở các môn đệ: “Tuy nhiên, anh em chớ mừng vì quỷ thần phải khuất phục anh em, nhưng hãy mừng vì tên anh em đã được ghi trên trời” (Lc 10,20).  Thiên Chúa không đếm bao nhiêu giờ chúng ta đã đọc kinh, cầu nguyện, lần hạt, tụ họp sinh hoạt…  Chúa sẽ nhìn xem trái tim của chúng ta đã mở rộng yêu thương đến mức nào.  Chúng ta đã chia sẻ gì cho những kẻ bé mọn nhất của Chúa.  Thiên Chúa tạo dựng chúng ta qua ý muốn của Chúa, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Chúa lại dành quyền cho chúng ta lựa chọn.  Hạnh phúc thay những ai được Chúa cho đứng về phía bên phải: “Còn các người lành thì được vào cõi sống ngàn thu” (Mt 25,46).

Lạy Chúa, đã rất nhiều lần chúng con đã thưa rằng: Lạy Chúa có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, khách lạ hay mình trần, yếu đau hay ở tù, mà chúng con chẳng giúp đỡ Chúa đâu? (Mt 25,44).  Chúa trả lời: Ta bảo các ngươi: những gì các ngươi đã làm cho một trong các anh em bé mọn nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta (Mt 25,40).  Xin Chúa khơi dậy lòng yêu thương bác ái nơi tâm hồn, để chúng con biết cùng chia sẻ.  Chúng con cảm tạ danh Chúa muôn ngàn đời.  Amen.

 Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Nguồn: Langthangchieutim

Tôi và những người như tôi không phải Phản Động

 
 
Image may contain: 1 person, smiling

Nguyễn Thủy Tiên to Thích BBC Vietnamese

 

Tôi và những người như tôi không phải Phản Động

– Chúng tôi không tham nhũng ngân sách quốc gia, chúng tôi không ăn chặn tiền thuế của các bạn 1 đồng nào. Nếu chúng tôi có làm những việc đó chúng tôi mới là phản động
– Chúng tôi không  cướp đất của dân, đẩy ng dân ra đường, để cụ già phải ăn xin, em bé phải bán vé số, phụ nữ phải bán dâm. Nếu chúng tôi làm những điều đó chúng tôi mới là phản động
– Chúng tôi ko cấp phép cho những gian thương, cho những doanh nghiệp nước ngoài vào VN kinh doanh nhưng phá hoại môi trường để rừng trơ trọi, để biển ko còn gây ảnh hưởng xấu đến cuộc sống người dân. Nếu chúng tôi có làm những việc đó chúng tôi mới là phản động
– Chúng tôi không  ra đường chặn xe bạn vô cớ, ko vu khống bạn vi phạm luật, ko bắt bạn những lỗi vớ vẩn… rồi tìm cách vòi tiền bạn. Nếu chúng tôi làm việc đó chúng tôi mới là phản động
– Chúng tôi không có quyền kiểm soát việc nhập khẩu hàng hóa vào VN. Chúng tôi ko nhập hàng giả, thức ăn độc hại vào thị trường VN để bạn dùng, vì lợi nhuận hại tất cả mọi con ng VN. Nếu chúng tôi làm điều đó, chúng tôi mới là phản động
– Chúng tôi ko đến cty, tiệm, cửa hàng của bạn để hạch sách, những nhiễu rồi kiếm cớ vòi tiền bạn. Khi nào chúng tôi làm vậy chúng tôi mới là phản động
– Chúng tôi ko tạo ra bất công trong xã hội. Chúng tôi ko bao che những người làm sai, ko nâng đỡ con cháu vô năng lực vào những vị trí cao. Nếu chúng tôi làm điều đó hãy gọi chúng tôi là phản động
– Chúng tôi ko mượn nợ nước ngoài cho con cháu du học, xây biệt thự, sắm xe, tiêu xài hàng hiệu, uống rượu ngoại, nuôi gái… để mỗi ng dân gánh $1200 tiền nợ. Nếu chúng tôi làm thế bạn cứ gọi chúng tôi là phản động
– Chúng tôi ko ăn chặn tiền cứu trợ đồng bào lũ lụt, ko bòn rút tiền từ thiện dành cho bệnh nhân tâm thần, ng già neo đơn. Nếu có làm việc đó, gọi chúng tôi là phản động còn nhẹ… hãy xử bắn chúng tôi ngay

Bạn nói khi tôi và những người giống như tôi chưa có quyền thì kêu gào hay lắm… nhưng đến lúc nắm quyền thì cũng hành xử như những gì chúng tôi lên án thôi. Bạn nói đúng nếu như guồng quay xã hội hiện tại cứ mãi mãi tiếp tục còn kéo dài, thì ai lên nắm quyền cũng sẽ bị biến chất. Và những gì chúng tôi làm chính là muốn thay đổi guồng quay xã hội đó. Chúng tôi muốn tạo ra 1 guồng quay xã hội khác để người nào lên nắm quyền cũng phải tuân thủ luật pháp, làm đúng trách nhiệm cần có… nếu tắc trách, sai phạm, biến chất phải bị đẩy đi cho người có thể tốt hơn thay thế. Chúng tôi muốn xã hội tốt hơn bằng việc thay đổi cái gốc, thay đổi hệ thống vận hành… và bạn gọi chúng tôi là phản động

ƠN ĐẢNG, ƠN NHÀ NƯỚC, ƠN BÁC


 
Image may contain: 1 person, smiling, outdoor and closeup
Nguyễn Thủy Tiên is with Nguyễn Thuỷ Tiên.

 

ƠN ĐẢNG, ƠN NHÀ NƯỚC, ƠN BÁC

Vốn là 1 người có tư duy độc lập, thường dùng lý trí và logic để phân tích vấn đề thì tôi hiểu ra tôi và người dân ko cần biết ơn đảng

– Ba mẹ tôi sinh ra tôi, làm lụng vất vả nuôi tôi từng ngày, dữong dục và nuôi tôi ăn học. Nếu có trả ơn thì tôi cần trả ơn cho bố mẹ nhất chứ ko phải cho đảng.

– Những thứ ko phải “từ trên trời rơi xuống” như trợ giá xăng dầu, tiền trợ giúp đồng bào lũ lụt, nhà tình nghĩa tình thương, học bổng cho học sinh nghèo hiếu học, chi phí xây dựng cầu cống, đường sá, các công trình phục vụ cho đất nước, và các khoản mà đảng nói là “miễn phí” cho dân đều là từ tiền thuế dân đóng mà ra chứ có phải tiền túi của các quan chức nhà nước hay công quỹ của đảng trích ra đâu mà phải ơn với chả nghĩa

– Tôi nhìn thấy Hàn Quốc nhờ ko có đảng cộng sản và cũng may mắn ko đc đảng cộng sản Bắc Hàn giải phóng hay thống nhất giùm, mà người dân miền nam thịnh vượng, phát triển hơn hẳn về mọi mặt so với miền bắc. Nếu Bắc Việt có Hồ Chí Minh, thì Bắc Hàn có Kim Nhật Thành.

Ngược lại tôi thấy đảng mới là cần biết ơn người dân
– Trước hết là tiền, từ lương căn bản cho đến lậu (hay nói thẳng ra là tham nhũng, bòn rút của công) là từ ngân sách mà ra, ngân sách thì đầy lên là nhờ nhân dân đều đặn đóng qua 1 lô 1 lốc khoản thuế và phí bởi đảng đẻ ra, đào tài nguyên đất nước đem bán ăn xài cũng phải biết ơn dân, vì đó cũng là tài sản toàn dân

– Giành đc chính quyền, chễm chệ ngồi trên đầu cai trị ng dân là cũng nhờ hồi đó dân gánh từng thúng gạo nuôi đảng, đào hầm giấu đảng, và hơn cả là hi sinh biết bao nhiêu xương máu để mang lại tiếng “yêu nước” cho đảng nhưng đảng cũng ko ngại cướp nhà cướp đất gia đình thương binh liệt sĩ, rất là vô ơn… ko nhiều ng biết rằng án tử đầu tiên của chính quyền Việt Minh là dành cho bà 5 Cát Hanh Long (mẹ nuôi của 1 số lãnh đạo cấp cao) và cũng là ng góp nhiều vàng nhất cho Việt Minh những ngày đầu đói rách

– Thế giới, nước ngoài chịu viện trợ, đầu tư cho VN, đến VN làm ăn là vì họ nhận thấy ở VN có 1 thị trường… mà thị trường cũng từ nhân dân hay toàn dân cấu thành, chứ chả phải do chính sách của đảng tài giỏi, sáng suốt con khỉ khô gì cả

Và cuối cùng nếu tôi đã nói thẳng như thế mà đảng vẫn còn cưỡng ép tôi phải chịu ơn… thì tôi cũng ko ngần ngại mà nói rằng: ma cô đĩ điếm, ăn mày đầy đường, tham nhũng tràn lan, giao thông tắc nghẽn liên tục, phố xá ngập lụt liên miên, đạo đức xã hội xuống cấp, trẻ trâu đông như quân Nguyên, phụ nữ bán mình cho ngoại bang, gần như mất hết công lý, công bằng… tất tần tật đều là nhở ơn bác, ơn đảng, ơn nhà nước mà ra... vì tất cả hưng thịnh, hèn kém đều chẳng phải do 1 tay đảng, bác mà ra còn gì

*Nhũng thông tin cơ bản này chẳng có gì mới, nhưng còn ko ít trẻ trâu suốt ngày ca bài ca ơn đảng, ơn bác… nên nếu ai thấy bài này có thể dùng đc, thì lưu tạm ở 1 nơi nào đó, khi nào gặp trẻ trâu ca bài ơn nghĩa thì share cho chúng xem

Ngoài ra mình còn thường nghe ba hay nói 1 câu chua chát “đảng cũng có 1 công lao, công lao đẩy hàng triệu ng Việt ruột thịt ra biển, vu cho cái tội phản quốc… thế là sau này VN có 1 lực lượng hùng hậu ng Việt lưu vong ở nc ngoài, mỗi năm gửi mấy tỉ USD về mà làm đẹp con số tăng trưởng kinh tế hàng năm cho VN”

Chiếc Lá Nào Sẽ Là Con .

Chiếc Lá Nào Sẽ Là Con .

 Trần Mộng Tú

Cô cháu, con của em ruột tôi. Cô bị ung thư gan, chạy Chemo cả 7 tháng không có kết quả gì. Cục bướu ở trong gan vẫn càng ngày càng to ra. Bây giờ Bác Sĩ nói ngưng chạy Chemo vì không có hiệu lực, sẽ chuyển sang uống thuốc viên. Những viên thuốc này chỉ có tính cách kéo dài thời gian được ngày nào biết ngày đó.

Từ khi cháu bệnh tôi vẫn thỉnh thoảng nấu ăn cho cháu, vì cháu không còn thích thú gì trong việc ăn uống, nên mẹ cháu và tôi cứ phải nghĩ ra món gì lạ miệng rồi nấu chút một cho cháu nếm. Bố cháu thì xay đủ loại rau và trái cây thay đổi, nhưng cái gì cũng chỉ nếm một chút rồi thôi. Người cứ mỏng dần và da mặt xanh như lá. Nhìn cháu thương lắm mà không dám tỏ lộ ra mặt sợ cháu buồn.

Bác sĩ nói thời gian của cháu còn lại không nhiều. Cả gia đình đi chung quanh cháu, nhìn cháu, ôm cháu…Không làm thêm được điều gì giúp cháu. Vì không có cái gì hiện hữu để giành giật.  Đau lòng mà không dám khóc trước mặt cháu. Trưa nay tôi mang thức ăn sang nhà cháu. Con đường từ ngoài lộ chính vào tới nhà cháu qua một con đường đất nhỏ có cỏ úa và hai hàng phong hai bên. Nắng thu mong manh chiếu qua những tán lá nâu vàng, gió thổi rất nhẹ như không thổi. Tôi dừng xe lại và nước mắt trào ra. Con đường này sắp vĩnh viễn mất cháu. Rồi đây chồng con, cha mẹ, vẫn qua lại trên đường này, chỉ có cháu là rẽ sang một con đường khác. Cháu đi một mình. Tôi hình dung ra cháu đi tới cuối đường rồi mất hút, cháu có quay đầu nhìn lại nuối tiếc gì không? Chắc là có. Chồng đấy, con đấy, làm sao mà không nuối tiếc. Rồi còn cha mẹ, anh em, họ hàng, suốt bao năm làm người lúc nào cũng quấn quít nhau.. Gia đình anh chị em tôi là một đại gia đình.

Từ lúc cháu sinh ra, lúc nào cô bé ấy cũng có những người thân yêu bên cạnh. Cô có tới 7 anh chị em, cô là Út. Cô có ba người mẹ.. Mẹ sanh ra cô và hai chị của mẹ, cô cũng gọi là Mẹ. Gia đình chúng tôi không có ai là Bác, là Dì. Tất cả ba chị em đều là Mẹ của cả đàn con ba nhà cộng lại.

Làm sao tôi không đau khi ôm Út vào lòng và biết là mình đang ôm một đứa con sắp bỏ mình mà đi về một nơi miên viễn, một miền hoang vu như khói như sương nào đó. Nơi mà mình không thể nào đến tìm lại được. Thượng Đế không bán cho ai một cái vé khứ hồi. Út tới đó và Út ở lại, mặc dù nơi đó không phải là lựa chọn của Út. Rồi một ngày rất gần đây, những người thân yêu của Út chỉ biết đứng nhìn theo. Đặt vào tay Út một đóa hoa và nhìn Út quay lưng đi.

Từ khi Út bệnh tôi hay mất ngủ, tôi biết như thế là không tốt, tôi cần khỏe mạnh để giúp Út và cha mẹ Út khi cần tới mình. Tôi dỗ giấc ngủ mình bằng đọc sách. Tôi mang cuốn The Tibetan Book of Living and Dying (Tạng Thư Sống Chết) của Sogyal Rinpoche ra đọc. Tôi đọc  để tìm trong sách những hướng dẫn mình phải giúp đỡ người thân yêu cuối đời như thế nào.

Là người Công Giáo tôi tin sau cái chết linh hồn của mình sẽ đi tới một nơi nào đó tốt đẹp hay xấu hơn ở thế gian này. Tôi cũng tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa với tất cả mọi linh hồn, dù xấu hay tốt. Người sẽ phán xét với lòng bao dung. Tôi tin cô cháu tốt lành của tôi sẽ được hưởng những điều tốt lành ở nơi chốn thiêng liêng đó. Điều quan trọng là khi đối diện với cái chết cô có sẵn sàng sửa soạn để đón nhận không?

Nếu mình chấp nhận và tự giúp cho hồn mình thanh thản thì mình sẽ được đón nhận một sự ra đi êm ả. Nếu mình chống lại, tiếc nuối thì rất tội nghiệp cho phần xác cũng như phần hồn của mình. Chống chọi với tử thần là một điều không thắng nổi bao giờ.

Người Công Giáo tin rằng: Cái chết là cuối cùng của sự tồn tại cá nhân và sự khởi đầu của vĩnh cửu, khi cơ thể và tâm hồn được tách ra. Nhưng đối diện với cái chết là chuyện rất khó khăn với người đang đi vào cái chết và những người thân yêu chung quanh.“Thiên cổ gian nan duy nhất tử.”  Gian nan với người chết và cả với người sống.

Trong buổi trưa vắng lặng, tôi ngồi một mình với Út, tôi cầm tay Út nói:

Mẹ nói cũng thấy khó khăn và mẹ biết cũng khó cho con chấp nhận những lời mẹ nói. Nhưng con biết rồi đấy, khi con ra nghĩa trang thăm ông bà, con đôi khi đọc những tấm bia chung quanh, con chắc cũng nhìn thấy nhiều người chết trẻ. Họ chết vì bất cứ lý do gì: Chiến tranh, bệnh tật, tai nạn…Họ chết ở những tuổi khác nhau, nhưng con thấy rõ ràng là có nhiều người rất trẻ, trẻ hơn con hay bằng tuổi con hoặc lớn hơn con vài ba tuổi. Người ta chết ở bất cứ tuổi nào con ạ. Điều này chỉ giữa Thượng Đế và người chết biết với nhau thôi.

“Con biết”, Út vừa chậm nước mắt vừa nói. Tôi cũng nhắc cho Út biết rõ ràng là những đứa con của Út sẽ được cha của chúng và cả đại gia đình ông bà, họ hàng săn sóc thương yêu, nhất là hai người chị còn trẻ của Út.

Con nhớ là Chúa không bỏ ai. Cánh cửa này đóng sẽ có cánh cửa khác Chúa mở ra. Hai đứa con nhỏ của con khi lớn lên Chúa sẽ xếp đặt cho chúng gặp những điều tốt lành may mắn để bù lại sự thiếu thốn của người mẹ. Con cứ tin như thế thì con sẽ có cái tâm an.

Út khóc lặng lẽ, nhưng Út gật đầu.

Hai mẹ con cầm tay nhau cùng đọc lời cầu nguyện, cùng thổn thức. Điều khó khăn trong lồng ngực tôi đã mang ra chia sẻ được với con. Tôi tin là ít nhất trong khoảng khắc ngăn ngủi này Út thấy lòng thanh thản hơn một chút. Tôi ra về, ngực tôi có nhẹ hơn một chút, nhưng lòng tôi vẫn đau như cắt. Đối diện với sự mất mát quá nghiêm trọng này quả thật không dễ, vì chẳng làm thế nào mà đặt một cái gì đó có thể thay thế vào cái ghế trống của đứa con thân yêu trong gia đình sắp rời bỏ.

Không có Út, tôi gục mặt vào tay lái để mặc nước mắt mình chẩy ra đầm đìa. Con đường tôi đang đi lá vàng vẫn rơi và gió vẫn thổi nhè nhẹ như là không thổi.

Út ơi chiếc lá nào sẽ là con!

Mẹ Tú

Anh chị Thụ & Mai gởi

Cảm Nghĩ Cuối Thu …

Nguyen Thi Kim Hong to Lương Văn Can 75.

 

Cảm Nghĩ Cuối Thu …

Cuối Thu … Gió lành lạnh vào buổi sớm mai. Xa xa, bầu trời phủ nhẹ màn sương mù xám đục. Ngồi một mình bên ly cà phê đắng, buồn một nỗi buồn tồn tại dai dẳng, ẩn nấp phía sau nụ cười mà ai đó đã nói rằng, em mãi là vậy thôi em nhé! Sáu mươi năm cuộc đời, mà quá nửa thời gian là muộn phiền và nước mắt, cái khó nhất của người sống nội tâm; là người ta cứ luôn bị dằn xé , luôn che giấu những đau khổ, lo âu, nước mắt chỉ rơi khi họ đối diện với chính mình! Và khi nghĩ về kiếp nhân sinh, chợt nghe lòng tê tái!

Em xin lỗi Thầy Hiệu Trưởng, nếu em có nói điều chi không phải. Số là, một người bạn đã chia sẻ hình ảnh chuyến đi thăm Cô Khắc, trong đó có tấm ảnh Thầy cùng Cô Khắc và các bạn, thưa Thầy em đã khóc khi xem tấm ảnh nầy, tấm lòng của Thầy cao quý quá! Tình người với người thể hiện thật xúc động hay là tại em lạc lòng quá ở đây! Em không trực tiếp được Cô giảng dạy, nhưng lúc còn đi học, lớp của em nằm ở phòng đầu tiên, lớp A1 và Cô dạy lớp A2, mỗi buổi học em âm thầm ngắm Cô trong tà áo dài tha thướt, Cô đẹp dù không kiêu sa, ở nơi Cô toát lên vẻ đằm thắm, dịu dàng! Rồi biến cố xảy ra , Thầy trò mỗi người mỗi cảnh , đau thương và mất mát , không ai có thể biết tương lai mình rồi sẽ ra sao ! Thế sự dần xoay , sau bao nhiêu tơi tả của cuộc đời , cuối cùng thì mỗi người đều có sự an bài của Đấng tối cao ! Em có được diễm phúc tới thăm Cô một lần , nhìn Cô lạc quan mà thương làm sao , đó là tình Cô trò , còn hôm nay khi nhìn Thầy tới thăm Cô , đây là tình người trong kiếp nhân sinh , em cảm phục Thầy vô cùng , tấm lòng của Thầy rộng lớn quá , đó sẽ là chút ấm lòng cho một người , đã hiến phần đời còn lại của mình nơi cửa Phật …

Thu sắp qua , mùa lạnh lại sắp về . Trời Sài Gòn không rõ nét màu lá vàng rơi , chia tay với cái buồn man mác , đón hờ hững một mùa Đông cô độc , mang nỗi buồn riêng không nói được , nghe cay cay nơi đầu mũi , hình như là có giọt nước mắt vừa rơi …

23.11.2017

Có khoảng 180 chục triệu cuốn sách đủ loại ở miền Nam nằm trong vùng định chế sách bị tiêu hủy,

 Dung Dang‘s photo.

 

 
Image may contain: one or more people, people sitting and shoes

Dung Dang is with ViVi Hung Vo and 3 others.

Có khoảng 180 chục triệu cuốn sách đủ loại ở miền Nam nằm trong vùng định chế sách bị tiêu hủy, vẫn có một số sách không nhỏ trên thoát nạn do sự cất dấu của những người có lòng với văn học và do cả óc trục lợi của một số người. Dù cho có trục lợi đi nữa thì cũng vẫn là một điều đáng làm vì gián tiếp giúp cho sinh mệnh chữ nghĩa miền Nam vẫn có cơ hội sống lại.

Chính trong cái khung cảnh sinh hoạt sách báo miền Nam bị vây khốn khó khăn như thế đã làm nảy ra một nghề mới: Nghề bán sách dạo, sách bán ở vỉa hè. Nghề này từ nay thay thế công việc của ông Khai Trí cũng như cho khoảng 2500 nhà sách trên toàn miền Nam đã phải tự động đóng cửa sau 1975. Nó tiêu biểu cho nghề buôn bán chui dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Xã hội tạo ra một lớp người làm ăn bất hợp pháp. Cái gì cũng thành chui cả. Sách chui, gạo chui, thuốc tây chui, đi chui và ngay cả việc đi tu cũng trở thành tu chui. Sách càng bị cấm, càng nhiều người tìm đọc.

Có lẽ người có lòng nhất với sách vở miền Nam là ông Khai Trí. Từ người bán sách lẻ lề dường, ông xây dựng nên cơ nghiệp là nhà sách Khai Trí, số 60- 62 đường Lê Lợi. Tôi đã đứng bên kia đường Lê Lợi sau 1975 để chứng kiến cảnh hôi sách, đốt sách của nhà Khai Trí. Cảnh tượng ấy còn như in vào đầu tôi. Sách của nhà Khai Trí vứt tung tóe, bừa bãi trên mặt đường phố Lê Lợi trong nỗi bất lực của nhiểu người miền nam cách đây 40 năm.

Tôi không biết lúc bấy giờ ông Khai Trí đứng ở đâu… Nhưng cái cảnh ấy nó bộc lộ hết cái bản chất bạo tàn của những kẻ chiến thắng.

Khi cơ sở nhà sách Khai Trí bị tịch thâu. Theo nhà văn Nhật Tiến, một lần nữa, ông Khai Trí lại ra ngồi lề đường, trải một tấm nhựa ni lông bán vài cuốn sách thiếu nhi còn sót lại. Đây lại là một hoạt cảnh đau lòng và ngược đời bầy ra trước mắt. Từ một chủ nhân bề thế, uy tín mà trong kho chứa hàng triệu cuốn sách, nay ông trở thành người bán sách dạo đầu đường.

Cảnh tượng này giúp ta nhớ lại như hoạt cảnh đấu tố trong Cải cách ruộng đất.

(Trích: “Hiện trạng văn học miền Nam sau 1975 ở miền Nam…” của Nguyễn Văn Lục.)

HÌnh: Chợ trời sách miền nam trên đường Đặng Thị Nhu Q1 năm 1979

 

Số lượng người Việt Nam bỏ chạy khỏi đất nước đang ngày càng nhiều

 Nguyen Lan Thang‘s post.
 Bài cũ nhưng vẫn còn giá trị thời sự.
 
Image may contain: 5 people, people standing and outdoor

Nguyen Lan ThangFollow

 

Số lượng người Việt Nam bỏ chạy khỏi đất nước đang ngày càng nhiều, nếu tính chục năm gần đây thì có lẽ còn nhiều hơn cả số thuyền nhân vượt biển năm xưa. Bạn bè tôi, người thân tôi, người mà tôi quen biết cứ lần lượt từng người âm thầm ra đi. Ai có tiền thì định cư dạng đầu tư, ai có học hành thì định cư dạng du học, còn ai chỉ có sức thì cũng chạy bằng được suất đi lao động nước ngoài… Một cuộc bỏ chạy vĩ đại.

Tôi có thằng em họ bên đằng nhà dì. Nó học giỏi lắm, thuộc loại nhân tài đất nước. Nó sang Úc cũng mấy năm rồi. Hồi nó đến trường đại học bên đó, chả có ai là người Việt. Giờ nó đi dạy đại học đàng hoàng, vợ con ổn định, nhà cửa xênh xang, cuộc sống thanh bình, chỉ lo đi làm chứ không phải bon chen gì với bất cứ ai. Và chỗ nó ở giờ có hàng trăm người Việt thuộc dạng nhân tài nước Việt sang đó.

Đảng cộng sản Việt Nam, các người làm gì mà dân cứ bỏ đất nước mà chạy đi. Đối đãi với chính dân mình, chính những người thuộc dạng gia đình công thần xây dựng chế độ mà còn bố láo thì đòi đi hoà giải hoà hợp với ai…?

3 GIỜ VỚI LS NGUYỄN MẠNH TƯỜNG

Nguồn:  Thuong Phan shared Mac Văn Trang‘s post.
 
Image may contain: 2 people
Image may contain: 1 person, closeup
Mac Văn Trang added 2 new photos.

 

3 GIỜ VỚI LS NGUYỄN MẠNH TƯỜNG 

Các bạn ở Viện KHGDVN cần đọc bài này để biết, ở Viện vào những năm 70 TK20, một trí thức lớn đã âm thầm ngồi làm việc ở đó. Nhưng lúc ấy và đến nay, Viện hầu như chẳng quan tâm gì về ông. Năm 1997, khi Bộ GD báo về Cụ Nguyễn Mạnh Tường mất, Viện Đại học nháo nhác, tưởng ông Bùi Tường mất! May mình biết, đưa giấy sang Viện KHGD…Một trí thức lớn mà âm thầm, lẩn khuất giữa những viện nghiên cứu. Đời thật trớ trêu!

Tác giả: Hòa Khánh (Quê Mẹ)

FB Loc Pham: Luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1996), người Việt Nam duy nhất đậu hai bằng Tiến sĩ Luật khoa và Tiến sĩ Văn chương năm 23 tuổi ở Đại học Montpellier (Pháp). Ông tham gia kháng chiến chống Pháp đến khi hòa bình lập lại (1954) thì trở về Hà Nội và làm giáo sư trường Đại học Văn khoa (nay là Đại học Quốc gia Hà Nội). Ngày 30 tháng 10 năm 1956 tại một phiên họp của Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội, LS Nguyễn Mạnh Tường, với tư cách thành viên của Mặt trận Tổ quốc, đã đọc một bài diễn văn phân tích sâu sắc những sai lầm trong cải cách ruộng đất và đề ra phương hướng để tránh mắc lại sai lầm. Vì phát biểu này, LS Nguyễn Mạnh Tường đã bị tước hết mọi chức vụ và danh vị nghề nghiệp và phải sống khó khăn thiếu thốn như một “kẻ bị khai trừ” (tên cuốn sách tự thuật của ông xuất bản năm 1992 tại Pháp). Ông mất năm 1996 tại Hà Nội, hưởng thọ 87 tuổi.)
.
Lâu nay, tôi cứ đinh ninh là luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã mất. Sau vụ Nhân văn Giai phẩm, tên tuổi của ông bặt đi. Có tin đồn là ông đã chết đâu đó ở một góc khuất tối tăm nào ở Hà nội.
Thế rồi, bỗng dưng tôi lại nghe là ông vẫn còn sống, hơn nữa, đang có mặt tại Paris : ông được phép sang Pháp ba tháng để thăm viếng một số bạn bè cũ của ông.

Được sự giới thiệu của một người quen, tôi và một anh bạn đã được luật sư Nguyễn Mạnh Tường tiếp trọn cả buổi chiều ngày thứ hai 27.11.1989.
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường năm nay đúng 80 tuổi. Dáng người tầm thước, lưng hơi gù, da dẻ nhăn nheo, nhưng sức khoẻ khá tốt, đi đứng vững vàng, đặc biệt trí tuệ còn rất minh mẫn. Suốt hơn ba tiếng đồng hồ chuyện trò, chúng tôi không hề bắt gặp ở ông một dấu hiệu nào của sự đãng trí vốn thường xuất hiện ở người cao niên. Ông nói năng lưu loát, đôi khi hùng hồn. Ông nhớ chính xác chi tiết những sự kiện cũ hoặc mới. Cách lý luận rành mạch.

Điều chúng tôi thích nhất ở ông là sự thành thật. Ở vào hoàn cảnh của ông, thành thật cũng có nghĩa là can đảm. Hơn ba chục năm bị đày đoạ, luôn luôn sống trong tâm trạng phập phồng chờ đón những thảm kịch thảm khốc nhất, ông không khiếp sợ đến nổi phải tự biến mình thành một con vẹt chỉ biết lải nhải lập lại những câu nói đã thành khẩu hiệu của chế độ hoặc co rút lại trong câm lặng, từ khước đối thoại để tránh khỏi nguy cơ bị hớ hênh, bị chụp mũ,.

Luật sư Nguyễn Mạnh Tường là một người đầu tiên tôi gặp, từ chế độ công sản, vẫn giữ được cái sĩ khí của một người trí thức, “uy vũ bất năng khuất”. Ông không hề từ chối bất cứ câu hỏi nào của chúng tôi dù những câu hỏi đó bắt ông phải công khai bày tỏ thái độ với cái chế độ đã, đang, và có lẽ sẽ tiếp tục dập vùi ông.

Chúng tôi xin phép ghi âm buổi nói chuyện với một sự thiếu tự tin rõ rệt. Chúng tôi nghĩ là ông sẽ từ chối. Nhưng, không. Ông đã vui vẻ chấp nhận. Để bảo đảm sự trung thực, những chi tiết dưới đây, chúng tôi đều dựa vào bản ghi âm này.

Tưởng cũng nên nhắc lại, trước năm 1945, luật sư Nguyễn Mạnh Tường là một trí thức xuất sắc nhất của Việt Nam với thành tích đến nay tại Việt Nam dường như chưa có ai theo kịp : 22 tuổi đậu hai bằng tiến sĩ quốc gia tại Pháp, một bằng về luật và một bằng về văn chương. Về nước, ông hành nghề luật sư và dạy học. Ở cả hai lãnh vực, ông đều thành công và tạo được một uy tín to lớn.

Chúng tôi hỏi luật sư Nguyễn Mạnh Tường :
– Luật sư có thể cho biết luật sư đã tham gia phong trào Việt Minh và sau đó, tham gia kháng chiến như thế nào ?
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đáp :
– Thật ra tôi không hề tham gia Mặt trân Việt Minh. Bao giờ tôi cũng là một người yêu nước, ưu tư đến việc giành lại độc lập cho đất nước. Tuy nhiên tôi tự xác định cho mình một vị trí là làm một người trí thức. Mà người trí thức, muốn độc lập, thì không nên tham chính. Do đó tôi đã từng từ chối nhiều lời mời ra làm bộ trưởng của nhiều chính phủ. Người trí thức phải đứng về phía dân chứ không đứng về phía chính quyền. Người trí thức chỉ nên đứng ở lãnh vực thuần lý chính trị (politique spéculative). Nghiên cứu, thúc đẩy các trào lưu.

Cách mạng tháng Tám làm tôi rất vui mừng. Tôi mong muốn đóng góp vào việc xây dựng đất nước trong hai lãnh vực sở trường của mình : luật học và nghiên cứu văn học.

Năm 1946, một hôm, ông Nguyễn Hữu Đang, người sau này tham gia Nhân văn Giai phẩm và bị cộng sản kết án 15 năm tù, đến văn phòng luật sư của tôi nói là Cụ Hồ mời tôi đến gặp Cụ có việc cần. Nguyễn Hữu Đang chở tôi đến cái chỗ sau này gọi là Phủ Chủ tịch. Ở đó Vũ Đình Huỳnh, Vụ trưởng Vụ Lễ tân, ra tiếp và đưa vào gặp Cụ Hồ. Cụ gọi tôi là Ngài. Cụ nói : “Như Ngài đã biết, chính phủ vừa ký kết với Pháp một bản tạm ước. Theo bản tạm ước ấy, sắp tới, giữa ta và Pháp sẽ có một hội nghị quan trọng. Xin Ngài giúp soạn giùm cho một bản lập trường của chính phủ (thèse gouvernemental) để sử dụng như một cương lĩnh chỉ đạo cuộc hội nghị”. Tôi đáp : “Công việc này quan trọng quá, xin Cụ nhờ một người nào giỏi và có kinh nghiệm hơn tôi”. Cụ Hồ nói : “Tôi đã hỏi ý kiến nhiều người và ai cũng bảo là chỉ có Ngài mới có thể làm được thôi”. Cuối cùng tôi nhhận lời, về nhà, đóng cửa văn phòng luật sư, vận dụng tất cả kiến thức về luật pháp quốc tế cũng như những điều khoản căn bản của tạm ước để soạn bản lập trường. Đến khi đem trình, được Cụ Hồ chấp thuận và do đó, buộc tôi phải tham dự Hội nghị Đà Lạt.
Chúng tôi hỏi:
– Luật sư giữ vai trò gì tại Hội nghị này ?
– Tôi là trưởng ban văn hóa và là uỷ viên trong ban chính trị.
– Cuộc hội nghị thành công tốt đẹp ?
– Vâng, về cuộc hôi nghị này, đã có nhiều ngườ viết. Chỉ có một điều ít ai biết là, kết thúc cuộc hôi nghị, hai bên đã tổ chức một bữa tiệc chung. Trong bữa tiệc ấy, tên tuỳ viên của thuỷ sư đô đốc Argenlieu đến cạnh tôi, nói là thuỷ sư đô đốc muốn gặp tôi để nói chuyện. Tôi bảo là tôi không phải trưởng đoàn do đó không có tư cách gì để gặp gỡ thuỷ sư đô đốc cả. Tên tuỳ viên lại bảo đây là sự gặp gỡ thân mật có tính cách cá nhân thôi chứ không phải để bàn bạc điều gì quan trọng cả. Nghe thế, tôi đứng dậy, rời bàn tiệc ra ngoài hành lang gặp Argenlieu. Lúc ấy trong bàn tiệc ai cũng thấy cả. Và cuộc nói chuyện cũng rất vu vơ, thăm hỏi xã giao về công ăn việc làm thôi. Thế nhưng, về Hà Nội bỗng dưng lại có tin đồn là Nguyễn Mạnh Tường thông đồng với giặc, là Nguyễn Mạnh Tường bán nước…
Chúng tôi hỏi:
– Luật sư có biết tin đồn đó xuất phát từ đâu không ?
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường cười:
– Thì cũng phải có người phát thì nó mới động chứ. Tin đồn đó là cả một chiến dịch được tổ chức hẳn hoi. Anh Hoàng Xuân Hãn lúc ấy phải đến gặp hình như là Võ Nguyên Giáp thì phải, bảo Tường làm cái gì mà người ta lại tung tin đồn là nó bán nước, theo giặc ghê quá vậy. Nguy cho nó lắm. Mà nguy thật, chỉ cần một phát súng, một mũi dao là xong đời chứ gì. Từ khi anh Hãn can thiệp, tin đồn ấy mới lắng xuống rồi biến mất.
Chúng tôi hỏi:
– Có thể coi đó là nguyên nhân khiến cho về sau cộng sản bạc đãi luật sư chăng ?
– Không phải. Cộng sản, những người tham dự hội nghị cùng với tôi, họ biết thực hư, đầu đuôi thế nào hết chứ. Đâu có phải vì tin đồn ấy mà ngườ ta bạc đãi tôi. Đối với trí thức, nói chung cộng sản dùng thì dùng, nhưng bảo là họ có mến yêu không thì tôi… không dám nói là có.
Chúng tôi hướng câu chuyện vào vấn đề chúng tôi quan tâm nhất và có lẽ nhiều người cũng quan tâm đến nhất:
– Theo các tài liệu được phổ biến tại miền Nam trước đây cũng như ở ngoại quốc, luật sư có tham gia vụ Nhân văn Giai phẩm vào những năm 56, 57 ?
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đáp nhanh:
– Thật ra tôi không hề tham gia nhóm Nhân văn Giai phẩm. Mãi sau này khi người ta kết án nhóm Nhân văn Giai phẩm, tôi mới biết đó là một tổ chức chống đảng với những tên tuổi như Trần Dần, Trần Duy, Hoàng Cầm… gì đó.
– Thế nhưng luật sư cũng có mấy bài viết cùng chung lập trường với họ.
– Vâng, tôi có cả thảy hai bài viết mà ông Hoàng Văn Chí có đăng lại trong quyển Trăm hoa đua nở trên đất Bắc ấy mà. Nguyên là, một hôm ông Nguyễn Hữu Đang và ông Trần Thiếu Bảo, chủ nhà xuất bản Minh Đức đến gặp tôi để xin bài. Cả hai đều quen biết với tôi từ trước. Chuyện gặp ông Nguyễn Hữu Đang tôi có kể qua lúc nãy. Còn ông Trần Thiếu Bảo thì tôi gặp ở Thái Bình thời kháng chiến chống Pháp. Lúc ấy, ông Bảo cũng làm nhà xuất bản. Tôi có đưa cho ông ấy xuất bản quyển “Một cuộc hành trình”, quyển sách đầu tiên của tôi bằng tiếng Việt.
– Đó là một quyển hồi ký ?
– Không. À mà cũng có thể gọi là nửa hồi ký, nửa nghị luận. Đại khái tôi kể chuyện cuộc đời mình, từ một người trí thức tham gia kháng chiến chống Pháp giành độc lập cho đất nước như thế nào…
– Xin trở lại vụ Nhân văn Giai phẩm…
– Vâng, thì cái bài đăng trên Giai phẩm mùa thu năm 1956 là thế. Còn bài viết về vụ cải cách ruộng đất thì là thế này: đó là bài tôi nói chuyện trong một cuộc hội nghị của Mặt trận Tổ quốc. Các anh cũng biết là vụ cải cách ruộng đất đã thất bại nặng nề đến nổi ông Trường Chinh đã phải mất chức Tổng bí thư đảng cơ mà. Lúc đó có phong trào sửa sai ghê lắm. Trong cái cuộc vận động sửa sai như thế, ông Tố Hữu rồi ông Trường Chinh rồi ông Xuân Thuỷ đã lần lượt gọi tôi đến nhà riêng của các ông ấy để yêu cầu tôi, trong hội nghị của Mặt trận Tổ quốc, trình bầy cho mọi người biết thế nào là dân chủ. Các ông ấy nói là sau sai lầm của cải cách ruộng đất, chúng ta phải cố làm sao cho chế độ xã hội chủ nghĩa trở thành một chế độ thực sự dân chủ. Nghe thế, tôi mừng quá nên nhận lời ngay. Thế rồi hội nghị được tổ chức. Tôi thuyết trình trọn cả ngày, ba giờ buổi sáng, ba giờ buổi chiều. Thuyết trình xong, người ta khen ghê lắm. Ông Trường Chinh, Ông Xuân Thuỷ, ông Dương Bạch Mai sau đó lại yêu cầu tôi viết lại bài nói chuyện đó để đưa mấy ông xem.
– Thế, trong hội nghị, luật sư chỉ nói miệng chứ không đọc bài viết đã soạn sẵn ?
– Không, thì giờ đâu. Chính mấy ông ấy bảo thì tôi mới viết lại chứ. Tôi đánh máy bài viết thành hai bản, nộp hết cho mấy ông. Thế mà, không biết tại sao, bài viết đó lại lọt ra nước ngoài, bọn báo chí ngoại quốc làm ầm ỉ lên thế mới chết chứ.
– Luật sư có nhớ chắc là không hề đưa bài viết ấy cho ai khác ?
– Chắc chắn. Cả hai bản đánh máy tôi đều nộp hết cho ông Trường Chinh và ông Xuân Thuỷ. Tôi chỉ giữ lại bản nháp viết tay thôi.
– Thế thì luật sư có thể đoán được là tại sao, từ nguồn nào, bài viết của luật sư lại lọt ra nước ngoài được không ?
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường cười lắc đầu:
– Chịu thôi. Ở đời vẫn có những bí mật mật như thế đó, các anh ạ.
Chúng tôi lại hỏi:
– Thế sau khi bài viết bị tiết lộ ra ngoài thì cộng sản đối xử với luật sư như thế nào ?
– Thì còn đối xử như thế nào nữa. Kiểm điểm rồi đuổi việc thôi.
– Luật sư có thể cho biệt nội dung của nhửng cuộc kiểm điểm ấy được không ạ ?
– Được chứ. Thì ở đâu cũng giống nhau thôi. Cứ khăng khăng buộc tội tôi chống đảng.
– Khi buộc tội như vậy người ta dựa vào nôi dung bài thuyết trình của luật sư hay dựa vào sự kiện bài tham luận được chuyển ra nước ngoài ?
– Dựa vào nội dung bài thuyết trình mới chết chứ. Còn chuyện tại sao bài ấy lọt ra nước ngoài thì tôi có biết đâu. Và cũng không ai ghép tội tôi được : bằng chứng đâu ?
– Nhưng nội dung bài thuyết trình, như luật sư cho biết là được soạn theo yêu cầu của ông Trường Chinh, Xuân Thuỷ, Tố Hữu mà…
– Thì đấy…
– Tại sao luật sư không nói cho họ biết điều đó ?
– Có. Tôi có nói chứ. Nhưng ai nghe ? Người ta bảo cán bộ yêu cầu tôi phát biểu về nội dung khái niệm dân chủ chứ đâu có yêu cầu tôi chống lại đảng ?
– Thế luật sư có chống lại đảng không ?
– Ít ra, trong cuộc thuyết trình tại Hội nghị của Mặt trận Tổ quốc cũng như trong bài viết lại mà tôi nộp cho ông Trường Chinh, ông Xuân Thuỷ… thì tuyệt đối không có một câu, một chữ nào chống đảng cả. Tôi chỉ phê phán những sai lầm trong cải cách ruộng đất thôi. Mà những sai lầm ấy thì quá hiển nhiên, ngay cả đảng cũng nhìn nhận mà, chứ đâu phải mình tôi.
– Luật sư có đi tham gia cải cách ruộng đất ?
– Có. Hồi ấy tất cả mọi cán bộ đều phải về các địa phương để tham gia cải cách ruộng đất cả. Tôi cũng phải đi
– Luật sư về địa phương nào ?
– Phủ Nho Quan
– Công việc của các cán bộ cụ thể là làm gì ?
– Để phụ với nhân dân tổ chức các cuộc cải cách ruộng đất thôi.
Trầm ngâm một lát, luật sư Nguyễn Mạnh Tường kể tiếp :
– Chính trong những đợt đi xuống điạ phương ấy tôi mới thấy rõ, thấy hết sự tàn bạo của nó.
Lại im lặng. Chúng tôi cũng im lặng chờ đợi. Giọng của luật sư Nguyễn Mạnh Tường trầm trầm, buồn buồn :
– Đầu tiên, về Phủ Nho Quan, chúng tôi được học tập là theo lệnh từ trên, tại điạ phương này có cả thảy 80% dân chúng thuộc thành phần địa chủ. Tôi điếng cả người. Phẩn nộ thấy ngay cách làm việc như vậy là rất trái khoa học. Khoa học nào cũng phải sử dụng phương pháp quy nạp, phải căn cứ trên quá trình điều tra thực tế cẩn thận, từ thực tế mà đúc kết thành nhận định. Đằng này thì mấy ông từ Trung ương cứ tưởng tượng ra các chỉ tiêu rồi ra lệnh xuống bắt các địa phương phải thực hiện. Cán bộ địa phương muốn hoàn thành công tác thì phải kích thôi. Có nhiều gia đình nghèo xơ nghèo xác, ở trong một căn nhà hẹp có hai gian, tài sản đâu chỉ được một hai mẫu ruộng, thế mà cũng bị khép vào thành phần địa chủ. Để cho đủ số lượng ấy mà ! Tội lắm. Oan ức nhiều không sao kể hết được.
– Luật sư có tham gia vào cuộc xử án nào không ?
– Không. Người ta đâu có cần luật sư. Mình đi cốt là để rèn luyện quan điểm, rèn luyện lập trường thôi chứ đâu phải để xử án hay để biện hộ cho ai.
– Thế thì ai làm chánh án, luật sư trong các vụ đấu tố ?
– Chẳng có chánh án, luật sư gì cả. Phiên toà được tổ chức ở một bãi sân rộng đâu đó trong làng. Mấy anh thuộc thành phần bần cố nông ngồi ngất ngưởng trân bàn để luận tội, còn mấy người bị gọi là địa chủ thì bị xích cổ, trói chân, trói tay quỳ mọp giữa sân…
– Có cả chuyện xích cổ ư ?
– Có. Suốt “phiên toà”, hết bần cố nông này lên tiếng chửi thì bần cố nông khác lên chửi tiếp. Xong rồi thì đến lượt hành hình địa chủ, vậy thôi.
– Luật sư có bao giờ can thiệp vào những vụ đấu tố dã man như vậy không ?
– Có mà muốn chết à ? Không. Có chảy nước mắt thì cũng ráng mà giấu đi.
– Có địa chủ nào được quyền tự biện hộ, tự thanh minh cho mình không ?
– Không. Lúc đó ai cũng hồn kinh phách tán cả rồi, mặt mũi xanh rờn, đứng còn không nổi nữa thì nói gì đến chuyện tự biện hộ. Mà ai cho ? Cứ bị khép vào thành phần địa chủ là coi như đã chết.
– Luật sư có phỏng đoán được số lượng những người bị giết chết trong đợt cải cách ruộng đất ở miền Bắc vào hồi ấy là bao nhiêu không ?
– Không. Chỉ biết được ở cái điạ phương mình về thôi.
– Cụ thể, ở Phủ Nho Quan là bao nhiêu người bị giết chết ?
– Tôi không nắm con số. Nhưng nhiều, nhiều lắm. Hơn nữa, sau các đợt cải cách ruộng đất còn có các đợt chỉnh phong trong hàng ngũ cán bộ cũng làm cho nhiều người bị oan ức lắm.
– Nội dung các cuộc chỉnh phong là sao ?
– Là trừng phạt những đảng viên, những cán bộ có quan hệ ít nhiều với điạ chủ, với phản động. Thậm chí, có nhiều người lúc trẻ là đảng viên Quốc dân đảng, từ năm 45, 46, đã theo kháng chiến rồi vào đảng cộng sản, vậy mà người ta còn truy quá khứ ra để hành tội.
– Sau mấy chục năm, nhìn lại, luật sư đánh giá thế nào về cải cách ruộng đất ?
– Dĩ nhiên là nó sai rồi. Không những sai, nó còn ác, cực ác nữa. Tôi nghĩ nó không có chút gì Việt Nam cả. Người Việt Nam, trong suốt lịch sử mấy ngàn năm, chưa bao giờ tàn bạo đến như vậy. Nó là dấu ấn của Mao…
– Dấu ấn trực tiếp hay gián tiếp ?
– Tôi không biết. Ngay thời kháng chiến chống Pháp, tôi có gặp Đại sứ Trung Quốc trên các chiến khu. Bận một bộ đồ trắng toát, cưỡi ngựa, trông oai quyền ghê lắm. Ông ấy tên Lã Quý Ba. Người ta nói ông ấy chính là kẻ chỉ huy, vạch kế hoạch cho các phong trào cải cách ruộng đất tại Việt Nam.
– Nhưng Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền kia mà ?
– Thì đấy. Ngay cái chuyện bắt chước Liên Xô, bắt chước Trung Quốc đã sai rồi thì những chuyện khác theo đó sai theo…
Chúng tôi trở lại chuyện Nhân văn Giai phẩm :
– Xin luật sư kể tiếp về những hình phạt đối với luật sư ?
– Kiểm điểm rồi đuổi việc. Tôi có kể khi nãy.
– Cụ thể, trước đó, luật sư làm gì ?
– Tôi làm giám đốc Đại học Luật, phó giám đốc Đại học Sư phạm, chủ nhiệm Câu lạc bộ trí thức và nằm trong ban chấp hành của 10 tổ chức quần chúng ở miền Bắc.
– Đó là những tổ chức gì ?
– Uỷ ban Hoà bình thế giới; Hội hữu nghị Việt Xô; Hội hữu nghị VIệt Pháp; Hội Luật gia Việt Nam…
– Luật sư có bị bắt, có bị giam cầm gì không ?
– Không. Chỉ bị đuổi ra khỏi tất cả những nơi đang làm việc. Và độc ác nhất là bị cô lập hoàn toàn. Các anh cứ tưởng tượng suốt mấy chục năm trời, không ai dám đến gặp tôi cả. Họ sợ bị liên luỵ đến bản thân, đến gia đình của họ. Có khi, đi ngoài đường, nhìn thấy tôi từ xa, là bạn bè, học trò cũ của tôi phải tránh đi chổ khác. Tôi cũng không trách gì họ. Vì sự an toàn của họ, họ phải làm thế thôi. Nhưng đau xót lắm.
– Trong thời gian suốt mấy chục năm trời như vậy, luật sư làm gì để sống ?
– Không làm gì cả. Xin việc gì người ta cũng không nhận. Thoạt đầu, cứ bán dần đồ đạc trong nhà mà ăn tiêu. Bán bàn ghế, giường tủ, rồi bán quần áo, giầy dép… cuối cùng phải bán đến cả sách vở tôi dành dụm thu thập sắm trong hai mươi năm. Bán theo giá bán giấy ký thôi. Rẻ mạt. Nhưng cần sống thì phải bán. Cứ mỗi lần bán sách là mỗi lần tôi có cảm tưởng như có ai lấy dao găm đâm vào tim của mình. Rồi tất cả đồ đạc cạn dần, cạn dần. Tôi lại sống bằng sự bố thí của anh em, bạn bè. Lâu lâu người này cho cái đồng hồ, người khác cho một ít tiền.
– Những người giúp luật sư thuộc thành phần nào ?
– Một số là học trò cũ của tôi; một số là những bạn bè cuả tôi lúc tôi còn ở Pháp và một số khác nữa là những người hoàn toàn xa lạ vì nghe tiếng tôi, thương cho hoàn cảnh của tôi, từ Pháp thỉnh thoảng cho một ít quà.
– Họ là người Việt Nam hay người Pháp ?
– Người Việt có, người Pháp có.
Thấy cuộc nói chuyện đã khá thân mật, chúng tôi dè dặt nêu ra câu hỏi khác, một câu hỏi thú thật chúng tôi rất tò mò :
– Ba mươi lăm năm sống dưới chế độ cộng sản, luật sư nhận xét gì về cái chế độ này ?
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đắn đo một lát rồi đáp :
– Mình nên khách quan. Người cộng sản họ vừa có công lại vừa có tội.
– Luật sư nghĩ gì khi có người gọi chế độ cộng sản tại Việt Nam là một nhà nước công an trị (état policier) ?
– Đồng ý thôi. Điều đó thì rõ quá.
– Có người còn phân tích thêm, cái nhà nước công an trị ấy tồn tại bằng ba cơ chế : thứ nhất là công an khu vực; thứ hai là hộ khẩu; thứ ba là chế độ quản lý lương thực. Luật sư nghĩ sao ?
– Đúng. Từ khi bị thất sủng, tôi vô cùng thấm thía những cái chuyện đó. Không đi làm được, sống bằng cách bán đồ đạc hoặc bằng sự bố thí của người khác mà phải mua lương thực tự do giá cao gấp trăm lần giá chính thức thì khó khăn ghê lắm. Có lúc tưởng không vượt qua được. Còn chuyện hộ khẩu và công an khu vực thì khỏi phải nói. Những chuyện ấy bây giờ vẫn còn đấy nhé
– Luật sư qua Pháp đã gấn hai tháng nay, luật sư có theo dõi tình hình tại các nước Đông Âu không ?
– Có chứ.
– Luật sư nghĩ sao ?
– Mừng. Mừng lắm.
– Tình hình Việt Nam hiện nay thì sao ?
– Khó khăn lắm.
– Phong trào đổi mới rồi sẽ tới đâu ?
– Chưa biết được. Nhưng có điều chắc chắn là sẽ không có gì đổi mới cả nếu chưa có dân chủ, trước hết là chưa tôn trọng luật pháp . Vì luật pháp không anh minh cho nên có kêu gào đầu tư đến mấy cũng không có ai dám liều lĩnh đầu tư cả. Kinh tế vẫn kiệt quệ mải.
– Tại sao cộng sản lại cho một người như luật sư sang Pháp ?
– Tôi nộp đơn xin xuất cảnh đúng vào thời điểm họ tuyên bố đổi mới. Chứ nếu bây giờ, chưa chắc đã đi được.
– Luật sư nộp đơn xin xuất cảnh từ lúc nào ?
– Năm ngoái. Hai tháng sau thì cầm được giấp phép của Việt Nam Nhưng nộp vào Toà đại sứ Pháp thì phải chờ đúng tám tháng.
– Luật sư có ý định ở lại Pháp luôn không ?
– Không. Tháng 12 tới tôi sẽ về lại. Trong thần thoại Hy Lạp có chuyện một vị thần chỉ mạnh mẽ khi đứng trên mặt đất, hễ ai nhấc lên khỏi mặt đất thì thành ra yếu ngay. Tôi nghĩ một người trí thức hay một văn nghệ sĩ cũng vậy. Phải ở trong nước, giữa những thử thách mới tìm ra được sức mạnh.
– Có một số anh em trí thức yêu nước, muốn về Việt Nam để canh tân đất nước, luật sư nghĩ là có nên hay không ?
– Không. Cứ ở đây làm việc. Đừng về. Về sẽ bị kẹt.
– Tại sao ?
– Tôi có nhiều kinh nghiệm về chuyện này. Thế hệ của tôi, bao nhiêu người tài giỏi, Trần Đại Nghĩa, Trần Hữu Tước… Về nước họ có làm được gì đâu ? Thì cũng có một vài đóng góp đấy, nhưng tôi nghĩ, hoàn toàn không tương xứng với khả năng của họ. Đó là chưa kể đến những người kém may mắn hơn. Như tôi chẳng hạn. Có làm gì được đâu ?
– Lâu nay, luật sư có viết lách gì không ?
– Có. Mấy chục năm qua, tôi hoàn thành được bốn công trình nghiên cứu. Môt là “Lý luận giáo dục” (ở châu Âu từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18); hai là “Eschylle và bi kịch cổ đại Hy Lạp”; ba là “Virgile và anh hùng ca latin”; bốn là dịch vở kịch của Eschylle.
– Luật sư viết bằng tiếng Việt hay tiếng Pháp ?
– Tất cả đều bằng tiếng Việt. Dụng ý của tôi là để cho người Việt đọc. Tôi mượn những vấn đề trên để cho người Việt đặc biệt là những người lãnh đạo hiểu thế nào là con người, thế nào là dân chủ, tự do, thế nào là quan hệ giữa chính trị và văn nghệ, v.v…
– Những quyển sách ấy có được in ra chưa ?
– Chưa. Tôi có gửi lên Ban khoa giáo Trung ương. Người ta khen là nghiên cứu công phu. Nhưng đến nay không ai chịu in cả. Người ta bảo là không có giấy.
Nhìn đồng hồ thấy đã hơn 6 giờ chiều. Mùa đông trời tối sớm. Chúng tôi cám ơn luật sư Nguyễn Mạnh Tường để chấm dứt câu chuyện đã kéo dài hơn ba giờ liền. Và hỏi :
– Thưa luật sư, chúng tôi ghi âm buổi nói chuyện hôm nay với mục đích giữ làm kỷ niệm. Tuy nhiên không biết luật sư có đồng ý cho phép chúng tôi công bố những điều luật sư phát biểu chăng ?
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường cười dễ dãi :
– Các anh cứ tự nhiên. Những điều tôi nói toàn là sự thật cả.
– Sắp về lại Việt Nam, luật sư không sợ sao ?
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường cười to :
– Các anh nhớ là tôi đã 80 tuổi rồi. Tính theo tuổi ta là 81 đấy.
Chúng tôi ra về, lòng phơi phới vui. Vui vì được gặp một người lâu nay mình ngỡ đã chết. Vui hơn nữa, vì thấy Nguyễn Mạnh Tường, cái tên tuổi mình từng kính phục từ thưở bùng nổ vụ Nhân văn Giai phẩm ở miền Bắc, sau bao nhiêu đoạ đầy, vùi dập, vẫn giữ nguyên cái sĩ khí của một người trí thức uy vũ bất năng khuất. Ở Việt Nam giờ đây, còn được bao nhiêu người như thế nhỉ ?

Dân Bắc Hàn Đào Tị: Chế Độ Kim Sẽ Sụp Vì Tư Bản Mỹ

 

SEOUL  –    Kinh tế thị trường sẽ tước bớt quyền hạn của chế độ Pyongyang và giới trẻ Bắc Hàn không luôn luôn tuân phục nhóm lãnh đạo trong khi viên chức đào tị tiên đoán chế độ Kim Jong-un không sống sót 10 năm nữa – đó là thẩm định của giới phân tích.

Chế độ toàn trị đối đầu siêu cường Hoa Kỳ, kết cuộc sẽ là kinh tế, không là giải pháp quân sự, như thế giới đã thấy hệ thống Liên Xô sụp đổ.

Vũ khí nguyên tử của Hoa Kỳ và nhiều đợt trừng phạt không ngăn cản Pyongyang tiếp tục chương trình phi đạn và bom nguyên tử – nhưng vũ khí mạnh nhất của Hoa Kỳ là chủ nghĩa tư bản, sẽ giải quyết.

Phóng viên của Post đã trò chuyện với 25 nguời Bắc Hàn sinh sống tại châu Á về cuộc sống dưới triều đại Kim – họ xác nhận: dân bỏ đi vì đói hơn và vì ách toàn trị. Khuynh hướng tư bản bắt đầu nổi lên trong dân thường và kinh tế thị trường du nhập thông tin về phương tây cùng lúc lao động Bắc Hàn từ Hoa Lục trở về mô tả thực tế ngoài chế độ Kim là tốt đẹp hơn.

Hơn nữa, thanh niên Bắc Hàn hiện có khuynh hướng phát âm theo giọng miền nam. 1 sinh viên đào tị năm 2013 xác nhận: kinh tế Bắc Hàn vẫn là kinh tế chỉ huy nhưng dân chúng ứng biến với thị trường, mọi người phải tìm kế sống còn vì không ai trông đợi nhà nước cung cấp.

Cựu viên chức ngoại giao Bắc Hàn đào tị là Thae Yong-ho tin rằng chế độ Kim có thể dùng chiến xa đàn áp biểu tình, nhưng thông tin từ bên ngoài và “quyền lực mềm” có thể hạ bệ chế độ – nhưng, ông Thae tin rằng điều đó không xẩy ra trước 10 năm.