Sự lú lẫn của đảng cộng sản vào cuối thời nặng hơn bao giờ hết.

From facebook:  Hoa Kim Ngo shared Nguyễn Tấn Thành‘s post.
 

Nguyễn Tấn Thành

Hùng hổ từ đương chức tới về hưu, kéo nhau đi kỷ niệm cách mạng tháng 10 Nga, mà chính sứ quán Nga không kỹ niệm, không tham gia.

Nó cho thấy sự lú lẫn của đảng cộng sản vào cuối thời nặng hơn bao giờ hết.

 
Image may contain: 1 person, text

Nguyễn Tấn ThànhFollow

 Hùng hổ từ đương chức tới về hưu, kéo nhau đi kỷ niệm cách mạng tháng 10 Nga, mà chính sứ quán Nga không kỹ niệm, không tham gia.

Nó cho thấy sự lú lẫn của đảng cộng sản vào cuối thời nặng hơn bao giờ hết.

Lý ra họ cần phải giữ khoảng cách với cái chủ nghĩa Cộng sản, tư tưởng Mác Lê để từ từ quay về Thế giới văn minh thì họ lại làm ngược lại, gắn bó hơn, thắt chặt hơn. Kéo cả những người đã về hưu vào.

Thú vị nữa là hành động này của họ không hề lấy lòng được nước nào trước thềm APEC, ngay cả Nga và T+ nhìn thấy cũng ớn huống gì Mỹ và Phương Tây.

Tất nhiên hành động lú tập thể này khiến các doanh nghiệp là lo lắng nhất. Liệu có nên để tiền mình đầu tư vào một đất nước mà các quan chức lú tập thể như vậy không ?

Vùng núi Trà Bồng cũng đã ngập nước

Trần Bang shared Nguyễn Bình Nam‘s post.
 

Vùng núi Trà Bồng cũng đã ngập nước, Tây Trà và Nam Trà My thì sạt lở, Bình Sơn ngập sâu, nhiều nơi đã bị cô lập… thầy cô một số điểm trường vùng cao đang bị chia cắt… và mới chiều nay, Bắc Trà My vừa bị một cơn lũ quét và lở đất kinh hoàng… 
Khổ quá!

 
Image may contain: one or more people
Image may contain: one or more people and outdoor
Image may contain: outdoor and nature
Image may contain: sky, outdoor and nature
Image may contain: sky, tree, outdoor and nature
+9
Nguyễn Bình Nam added 13 new photos.

 

Bạn mình thông tin: Vùng núi Trà Bồng cũng đã ngập nước, Tây Trà và Nam Trà My thì sạt lở, Bình Sơn ngập sâu, nhiều nơi đã bị cô lập… thầy cô một số điểm trường vùng cao đang bị chia cắt… và mới chiều nay, Bắc Trà My vừa bị một cơn lũ quét và lở đất kinh hoàng… Khổ quá! 

Nghề cao quý… đã “chết lâm sàng” (Phần II)

Nghề cao quý… đã “chết lâm sàng” (Phần II)

Nguyễn Thượng Long (Danlambao) – “Bài viết này, xin dành tặng cho các Nhà Giáo U70 vẫn còn quan tâm tới nghề cao quý”

Lênh đênh thân phận người thầy…

Về phương diện nhận thức chung, thời đại nào, chế độ nào cũng vậy, ngoài nhiệm vụ giáo huấn học sinh những tri thức về tự nhiên, về xã hội, về con người, thầy cô giáo còn có thiên chức khơi gợi, giúp học sinh vươn tới những tình cảm cao đẹp phù hợp với những chuẩn mực Chân – Thiện Mỹ của thời đại mà họ đang sống. Trong những tình cảm cao đẹp đó, lòng yêu nước là thứ tình cảm thiêng liêng nhất được mang hình tượng như là một “Ngọn Lửa”. “Ngọn lửa” đó được lưu truyền từ đời này qua đời khác, có lúc âm ỉ cháy, có lúc bùng lên dữ dội… nhưng không bao giờ lụi tàn cùng năm tháng. Hơn các ngành nghề khác, thầy cô giáo có vinh dự được đảm nhận nhiệm vụ thiêng liêng này. Đó cũng là một trong nhiều lý do mà người xưa gọi nghề dậy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý và tiền nhân đã xếp người thầy chỉ đứng sau Vua và trước cả bậc sinh thành trong bộ 3 Quân – Sư – Phụ.

Đó là giáo dục nước Nam thời đạo học thịnh trị. Lịch sử giáo dục thời phong kiến Việt Nam còn khắc ghi hình tượng người thầy vĩ đại Chu Văn An (1292 – 1370). Tài năng và đức độ của ông không chỉ thu phục được đông đảo sĩ tử 4 phương trong nước mà còn có thể cảm hóa được cả các loài Thủy Quái, Ba Ba, Thuồng Luồng… (Thầy giáo Chu Văn An và sự tích đầm Mực). Về cuối đời, trước cảnh đời lụi bại bởi đám gian thần trong triều chính, ông dâng sớ đòi chém 7 tên gian thần rồi khảng khái treo áo mũ từ quan trở về quê hương sống ẩn dật với nghề dậy học và bốc thuốc.

Đến thời mạt nho… qua đôi câu đối treo trong nhà người thầy cũng rất nổi tiếng Cao Bá Quát (1809 – 1855), ta thấy nghề giáo cũng một lần rơi vào thảm cảnh tàn mạt:

“Nhà trống ba gian một thầy, một cô, một Chó cái /

Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngơm, nửa Đười Ươi”(CBQ)

Thời cận đại, kẻ sĩ Việt Nam cũng có lúc chẳng ra gì: “Nhất sĩ nhì nông / Hết gạo chậy rông / Nhất nông nhì sĩ”. Thi sĩ Trần Tế Xương (1870 – 1907) để lại những vần thơ chua chát về thân phận người thầy trước ngọn gió tây học theo chân lính Pháp tràn vào Việt Nam: “Đạo học ngày nay đã chán rồi / Mười người đi học chín người thôi…” và hình ảnh người thầy, người trí thức giai đoạn này là “Sĩ khí rụt rè Gà phải Cáo / Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi”(TTX), sao lại hèn hèn, giống kẻ sĩ đời nay đến thế.

Đến ngày “Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về…” (Văn Cao), thì nghề giáo được ĐCS đưa lên mây xanh: “Mỗi nhà trường là một pháo đài của CNXH – Mối giáo viên là một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng”. Khoa trương và đại ngôn thì thế thôi, thực ra thân phận nhà giáo trong tay những người cộng sản lại lênh đênh chìm nổi kiểu khác. Lứa tuổi U70 trở lên chúng tôi chưa quên những ngày chính quyền mới vào tiếp quản Hà Nội 10 – 1954. Ngày đó có nơi, có lúc học trò gọi thầy giáo là “Anh Giáo” vì theo họ gọi là thầy là cách gọi của thời phong kiến lạc hậu không dân chủ. Rồi lại đến cái thời cả nước ngắc ngoải trong bao cấp phải chia nhau từng cân gạo, mảnh vải. Có lẽ vì thế mà có lúc, có nơi người ta nói thầy cô giáo không phải là cán bộ, thậm chí người ta coi người dậy học cũng chỉ là thứ THỢ… chẳng khác gì anh thợ cạo, chị thợ cấy… tối mắt chỉ để kiếm cơm.

Gần đây nhất, tháng 8 – 2016, ở Thị xã Hồng Lĩnh – Hà Tĩnh, người ta còn coi cô giáo chỉ là thứ thị nữ, tiếp viên đi tiếp rượu cho khách lúc cần thiết. Khi dư luận bắt đầu xôn xao, chủ tịch UBND Thị xã Hồng Lĩnh Hà Tĩnh tỉnh khô đăng đàn: “Việc điều động các nữ giáo viên đến làm lễ tân là công khai và có chủ trương đàng hoàng”.

 

 

 

 

Chủ tịch UBND Thị xã Hồng Lĩnh – Hà Tĩnh

Bất ngờ hơn là đương kim Bộ Trưởng Bộ GD – ĐT, vị tư lệnh cao cấp nhất của ngành nghề cao quý Phùng Xuân Nhạ lại làm dậy sóng dư luận với những phát ngôn có tính “Nhất Biên Đảo”, công khai bênh vực cho cái xấu, cái ác, rất kỳ lạ: “Chưa tới mức độ trầm trọng!”, “Bị ép thì trước hết phải hỏi trách nhiệm của cô giáo đã, sau đó mới tính đến người ép buộc!” và “Cán bộ địa phương cũng là vì vui vẻ thôi, nên đôi khi làm ảnh hưởng đến uy tín nhà giáo!”

“Chưa tới mức độ trầm trọng!” – “Phải hỏi trách nhiệm của các cô giáo đã!”.(PXN)

“…cũng là vì vui vẻ thôi” – (Phùng Xuân Nhạ)

Như thế là nghề dậy học từ bước lên Voi, dù chỉ là Voi giấy “Mỗi trường học là một pháo đài của CNXH – Mỗi thầy cô giáo là một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa giáo dục”, đã rơi thẳng xuống thân phận của đám đánh dậm, những Thị nữ – Ca ve. Chưa hết… hóa ra câu “Chuột chậy cùng sào mới vào sư phạm” có từ những năm 60 – 70 thế kỷ trước nay vẫn nguyên giá trị thời sự khi để đủ chỉ tiêu người ta tuyển vào sư phạm cả những thí sinh 3 điểm cho mỗi môn thi. Đầu vào thấp như thế, nay mai ra trường họ sẽ khai tâm khai trí được cho ai và “Nhóm được lửa” gì trong những tâm hồn trong trắng tuổi học trò và làm sao mà thầy cô tận tâm với sự nghiệp khi động cơ chỉ là vì tiền, đã thế lại khi cần thì dùng, không cần thì sắn sàng sa thải.

Thời tôi đi học và đi dậy, bài giảng có thể bị chê là yếu về nội dung trí dục, không đáng sợ bằng bị chê là yếu về tính tư tưởng. Nhưng tính tư tưởng của một bài giảng thời đó đã có lúc được hiểu một cách hết sức thô sơ, ngô nghê như: “Anh dậy thế nào thì dậy, phải cho học trò thấy: Đảng là đỉnh cao trí tuệ, là mùa xuân bất tận. CNXH luôn luôn là tốt đẹp, là trường tồn, CNTB là xấu là đang giẫy chết. Một đề toán mà cho ra đáp số quân ta lại chết nhiều hơn quân địch thì người ra đề có thể gặp hạn đấy”.

Chính tôi, năm 1969, đi thực tập tốt nghiệp tại Cấp 3 Vân Đình – Ứng Hòa, dậy bài“Kinh tế Nhật Bản những năm cuối thập kỷ 1960”… đã suýt mất nghề vì dại dột cao đàm khoát luận trước học trò: “Chỉ cần hơn 2 thập kỷ sau chiến tranh, bằng nghị lực, sự thông minh và một bản lĩnh phi thường, người Nhật Bản đã tạo lên trên đất nước mặt trời mọc của mình một hiện tượng thần kỳ về kinh tế”. (NTL – 1969)

Lời giảng đó rành rành ghi trong giáo án, tôi bị bắt quả tang ca ngợi phát xít Nhật, hết đường chối cãi, bị trưởng đoàn thực tập là giáo sư Toán Học NĐP của ĐHSP Hà Nội I dự giờ, xếp giờ dậy của tôi là loại yếu về giáo dục tư tưởng. Vì theo vị giáo sư trưởng đoàn, qua bài giảng đó, học sinh của tôi chẳng căm thù phát xít Nhật, lại cứ xuýt xoa trước sự phục hồi kinh tế thần kỳ của người Nhật, lại còn ao ước người Việt Nam cũng sớm được như thế mới chết tôi. Nên đã có thời, để chắc ăn, sau mỗi bài giảng về bọn tư bản giẫy chết, là đến màn thầy trò đứng lên hùng hổ hô to khẩu hiệu “Đả đảo bọn thực dân đế quốc và quân ta muôn năm!”. Nếu vẫn chưa hết giờ thì đến màn hát các ca khúc cách mạng của một thời đạp trên xác thù… Như thế họ coi đó là bài giảng có tư tưởng tính, có tính giáo dục lòng yêu nước.

Nói về việc giáo dục lòng yêu nước, thế hệ U70 như chúng tôi đặc biệt là giáo viên ngữ văn không ai không nhớ hình tượng kinh điển về một người đàn ông, sau nhiều chục năm bôn tẩu xứ người, khi bước qua đường ranh biên giới để hồi hương, người này đã cúi xuống hôn lên mặt đất dưới chân mình. Qua hình tượng này, nhiều giáo viên giỏi ở mọi thế hệ, đã làm học sinh rơi lệ khi nghĩ về TỔ QUỐC. Vậy mà hôm nay, chính những người thầy và trò ấy, khi đối diện với những thực tế còn mãnh liệt, dữ dội hơn hành vi hôn đất kia rất nhiều, họ lại sẵn sàng vô cảm.

Mẹ con cô Trần Thị Nga.

 

 

 

 

 

Cô Nguyễn Ngọc Như Quỳnh hiên ngang trước Tòa

Chẳng có giọt lệ nào rơi trước những bà mẹ trẻ đơn thân Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trần Thị Nga đang nuôi con nhỏ vừa phải vào vòng lao lý hàng chục năm chỉ vì tham gia biểu tình yêu nước và đấu tranh đòi nhân quyền, đòi được sống trong một môi trường không bị ô nhiễm.

Chẳng thấy ai bận lòng trước cảnh cô Lê Mỹ Hạnh cùng bạn bè bị côn đồ DLV Phan Hùng ở Sài Gòn, giữa ban ngày vô cớ xông vào nhà đánh đập dã man. Năm đó có một nam sinh viên dáng dấp thư sinh, mảnh khảnh, hai tay giơ cao nhiều giờ liền một biểu ngữ phản đối Trung Quốc ngay trước cửa Lãnh Sự Quán của họ tại Thành phố HCM. Sinh viên đó đứng như một tượng đài bằng xương bằng thịt, một biểu tượng của lòng yêu nước vô bờ của lớp trẻ, làm xúc động biết bao người chứng kiến.

Nhưng với những kẻ chỉ quen sống theo tập tính của những con Cừu, luôn đi đứng, nói năng “theo lề…” (Ngô Bảo Châu), thì hình ảnh đó không gây cho họ một xúc động nào, còn những kẻ “cuồng thiêng” lại coi hình ảnh đó là PR, là trình diễn vì theo họ, như thế là ảnh hưởng xấu đến đảng của họ. Nhưng có điều tôi không lý giải được, vì sao mù thiêng mà họ lại vẫn biết rơi lệ trước hình tượng người đàn ông “Hôn Đất” qua lời giảng của giáo viên ngữ Văn? Có lẽ cả thầy cả trò trong trường hợp này họ “MÙ THIÊNG” với giá trị này, lại “cuồng thiêng” với giá trị khác. Đó là dấu hiệu của một căn bệnh nan y khác là hội chứng “đa nhân cách” trong một con người.

Người bệnh đa nhân cách lấy thái độ “bất biến ngu trung…” làm cơ sở để biện minh cho hành vi “đi theo lề…” của họ. Tấm hình dưới đây mô tả những kẻ “cuồng thiêng – đa nhân cách” trong cái gọi là “hội cờ đỏ…” ngày ra mắt với bản năng man dại bị kích động ở mức tối đa đang là hiện tượng rất đáng lo ngại.

Những kẻ “cuồng thiêng – đa nhân cách” trong “hội cờ đỏ”

đang cố tình làm yếu đi sức mạnh đoàn kết Giáo – Lương.

Phần đã đăng: http://danlambaovn.blogspot.com/2017/10/nghe-cao-quy-chet-lam-sang-phan-i.html

Đón đọc: Nghề cao quý… đã “chết lâm sàng” (Phần III) – (NTL)

11 – 2017

Nguyễn Thượng Long

danlambaovn.blogspot.com

_________________________________

Ghi chú:

Tác giả là Nguyên giáo viên dậy Địa Lý của Hòa Bình và Hà Tây. Nơi ở : Nhà số 4 – Ngách 12 – Ngõ 102 – Đường Văn La – Hà Đông – Hà Nội. ĐT 01652323836. Email: nguyenthuonglong571@gmail.com

Ai rồi cũng sẽ đến lúc phải già đi.

Ai rồi cũng sẽ đến lúc phải già đi. Chỉ là hiện tại sức khỏe vẫn còn tốt, đầu óc vẫn còn minh mẫn nên ta cảm thấy mình hãy còn trẻ trung mà thôi. Nhưng tới khi thực sự già đi rồi, bạn biết trông mong vào ai đây?

Nếu bạn có một tổ ấm, thì khi còn chưa nhắm mắt xuôi tay nhất định không được vứt bỏ nó. Nếu bạn có một người bạn đời, hãy bầu bạn và biết trân quý nhau. Nếu bạn có một sức khỏe tốt, hãy bảo trọng lấy mình.

Hãy thử ngẫm xem khi mình già đi, bạn nên làm gì trong chặng đường đời sau cùng ấy…

Giai đoạn 60 – 70 tuổi: Hãy tự biết thu xếp 

Sau khi nghỉ hưu, từ 60 – 70 tuổi, sức khỏe của bạn vẫn còn khá tốt. Nếu có điều kiện, bạn thích ăn thứ gì thì hãy cứ nếm thử một chút, thích mặc thứ gì thì cứ mua về vài bộ, thích chơi thứ gì thì cứ thử xem sao (tất nhiên ngoại trừ những thứ xấu).

Đừng quá hà khắc với bản thân bởi lẽ những ngày tháng như vậy không còn nhiều. Bạn hãy tranh thủ thời gian tận hưởng chúng. Bạn cũng cần học cách quán xuyến tiền bạc. Hãy giữ lại cho mình một căn phòng để ở, sắp xếp cho mình một con đường lui lại về sau.

Con cái hiếu thuận là con cái ngoan. Nhưng dẫu sự nghiệp của con cái có khởi sắc thì tiền bạc vẫn là của con cái.. Bạn không từ chối việc chúng hỗ trợ kinh tế, cũng không từ chối chúng hiếu kính với mình, nhưng vẫn phải dựa vào chính mình để tự thu xếp ổn thỏa cho phần đời còn lại.

Giai đoạn 70 – 80 tuổi: Hãy giữ gìn sức khỏe

Sau tuổi 70, bạn vẫn có thể sống một cuộc đời bình yên, không tai ương hay bệnh tật. Đó là khoảng thời gian bạn vẫn có thể tự chăm sóc bản thân nên cũng chẳng có gì đáng lo ngại.

Nhưng bạn nhất thiết phải biết rằng lúc này mình thực sự đã già, sức khỏe và tinh thần cũng dần suy kiệt, phản ứng cũng ngày càng chậm hơn.

Khi ấy bạn:

Ăn cơm phải nhai chậm để tránh bị nghẹn.

Đi đường phải bước chậm để tránh bị ngã.

Không được thể hiện bản thân mình nữa, phải biết tự lượng sức mình và chăm sóc bản thân.

Hãy thôi lo lắng bao đồng việc nọ việc kia. Quả thực đây là tâm bệnh chung của những người già, có người còn lo lắng cho cả con cháu 3 đời. Bạn đã lo lắng cho người khác suốt cả cuộc đời rồi, giờ là lúc bạn cần nghỉ ngơi, học cách buông tay và thuận theo tự nhiên. Bạn chỉ cần chăm sóc cho bản thân mình thôi!

Hãy làm mọi việc một cách thư thái. Không cần quá câu nệ rằng mọi ngóc ngách trong nhà đều phải tinh tươm, mọi chuyện đều phải hoàn hảo mà hãy để tâm hơn tới sức khỏe. Hãy kéo dài thêm thời gian tự chăm sóc mình, đừng nên làm lụng quá sức để phải đổ bệnh rồi lại chờ người khác đến chăm sóc mình.

Giai đoạn 80 – 90 tuổi:  Chuẩn bị tinh thần thật tốt

Đến tuổi này, nỗi khổ nào bạn cũng đã từng nếm trải nên chắc hẳn chặng đường cuối cùng trong đời cũng sẽ trôi đi êm đềm. Lúc này sức khỏe của bạn không còn tốt nữa và đã phải cầu cứu tới người khác.

Nhất định bạn phải chuẩn bị tâm lý trước. Đa số mọi người đều không tránh khỏi quan ải này. Bạn cần học cách điều chỉnh tốt tâm trạng của mình để có thể thích ứng nhanh nhất.

Sinh, lão, bệnh, tử là chuyện thường tình trong đời người, vậy hãy cứ thản nhiên mà đối mặt với nó. Đây chính là giai đoạn cuối cùng của cuộc đời, không gì có thể khiến bạn sợ hãi cả. Chỉ cần bạn chuẩn bị tâm lý sẵn sàng, mọi chuyện rồi sẽ nhẹ nhàng qua đi mà thôi.

Tùy thuộc vào điều kiện và sở thích, bạn có thể vào viện dưỡng lão, hoặc thuê người giúp việc chăm sóc ở nhà. Nhưng có một nguyên tắc là bạn không được dày vò con cái.

Bạn cũng đừng nên gây áp lực tâm lý, tạo thêm nhiều gánh nặng khác cho những đứa con của mình. Những gì có thể tự mình làm được thì bạn hãy cố gắng tự làm, đừng để con cái phải bận lòng.

Giai đoạn sau tuổi 90:  Hãy dựa vào chính mình

Lúc này có thể đầu óc bạn vẫn còn minh mẫn nhưng bệnh tật lại bám riết lấy mình. Bạn đã không thể tự chăm sóc bản thân được nữa. Khi ấy bạn sẽ có đôi chút hụt hẫng, cảm thấy cuộc sống thật bế tắc.

Nhưng dù thế nào cũng vẫn phải dũng cảm đối mặt với cái chết. Hãy cứ coi như đó là sự khởi đầu một trang mới của kiếp người. Đây chỉ là kết thúc của một hành trình cũ, cũng là bước khởi đầu của một hành trình mới mà thôi.

Chẳng phải một năm có 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông vẫn luôn xoay vần như vậy hay sao? Cứ thuận theo mệnh trời, không phải quá cưỡng cầu, mong đợi người nhà chạy đôn chạy đáo khắp nơi tìm cách chạy chữa cho bạn, đừng để người thân và bè bạn phải thêm nhọc lòng, phiền muộn vì bạn.

Già rồi biết trông mong vào ai đây?”. Câu trả lời là: “Chính mình và vẫn là chính mình”.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

4 việc cần chuẩn bị trước khi già đi

Cứ mỗi một ngày qua đi cuộc sống của ta lại bị rút ngắn thêm 24 giờ. Có người nói, về già cần phải có 3 điều tránh và 1 điều muốn:

Tránh bị sét đánh, tránh bị cắm ống thở bình ô-xy, tránh phải phẫu thuật cắt ống khí quản. Và muốn chiếc quan tài.

Người xưa nói: “Biết quản lý tiền bạc thì không nghèo, có kế hoạch thì không loạn, giỏi chuẩn bị thì không bận”.

Là người cao tuổi, phải chăng chúng ta cần chuẩn bị tốt hơn? Chỉ cần chuẩn bị trước, thì sau này bạn sẽ bớt phải lo lắng hơn. Nhưng cụ thể ta cần chuẩn bị những gì?

Việc đầu tiên chính là già mà vẫn khỏe

Ba việc đơn giản, không phải đụng đến thuốc men mà vẫn đảm bảo sống khỏe chính là: Ăn đủ chất, chú ý giữ gìn sức khỏe và phải có sự tu dưỡng.

Việc thứ hai cần chuẩn bị là một nơi ở khi về già

Nếu ở cùng con cháu mà phải sống một cuộc sống câm nín, nhẫn nhục để dung hòa sự khác biệt giữa các thế hệ chi bằng bạn hãy ra ở riêng, một mình hưởng thụ sự thanh thản, niềm vui đơn thân tuổi già.

Dẫu là nơi đô thành nhộn nhịp hay là vùng ngoại ô yên bình, hãy sống ở nơi bạn cảm thấy phù hợp nhất với mình. Nhưng phải nhớ là gần đó có nhà ăn mà bạn yêu thích, có một nơi thư thái để bạn dưỡng già!

Việc thứ ba là kiếm tiền dưỡng già

Bạn đã nuôi con nên không còn tiền tiết kiệm để dưỡng già? Thực ra là cha là mẹ chúng ta cũng nên tự thân vận động, nên tự lo liệu cho mình lúc tuổi già.

Bạn hãy tiết kiệm một khoản tiền để có thể làm những gì mình muốn, đi những nơi mình thích khi về già. Điều này cũng không có gì đáng xấu hổ cả.. Ngược lại con cái chúng ta còn bớt đi một phần lo toan khi gánh nặng cơm áo gạo tiền vốn đã rất áp lực trong cuộc sống hiện đại này.

Bạn đã nuôi con khôn lớn, dựng vợ gả chồng cho chúng, cũng đã coi như làm tròn trách nhiệm của người làm cha làm mẹ với con cái mình. Nên số tiền dưỡng già nhất định nên phải có một khoản cho mình. Khi chưa vào quan tài thì bạn cũng chưa cần phải phân chia cho ai cả.

Trước khi bạn già hãy chuẩn bị cho mình một tín ngưỡng chân chính mang lại sự bình yên trong tâm hồn của bạn.

Việc thứ tư là tìm cho mình những người bạn già

Hãy mở rộng lòng mình, kết thêm nhiều thiện duyên hơn nữa. Đây cũng là một bí quyết hưởng thụ cuộc sống của những quý tộc đơn thân.

Hình ảnh những đôi vợ chồng luôn yêu thương quấn quýt bên nhau từ thuở còn son tới khi đầu bạc răng long quả thực khiến rất nhiều người phải ngưỡng mộ. Nhưng nếu cuộc hôn nhân không được mỹ mãn như bạn mong muốn thì hãy mỉm cười mà chấp nhận nó. Âu cũng là cái duyên cái nợ từ đời trước, con người cũng chỉ nên vâng mệnh trời mà thôi.

Khi tâm hồn trống trải, ta mới cảm thấy cô đơn. Nhưng nếu bạn có thể lấp đầy trái tim ấy bằng tình yêu cuộc sống, bằng sự biết ơn và quan trọng nhất là tìm cho mình một tín ngưỡng chân chính cho tâm hồn nương tựa, bạn sẽ thấy hạnh phúc tới tận giây phút cuối đời.

Có những điều lỗi thời, không hề đúng đắn nhưng vẫn khiến nhiều người dao động, nào là “Người ở thiên đường, tiền ở ngân hàng”, “Sống một mình rất cô đơn”, “Già rồi sẽ không có người chăm sóc”… Bạn phải nhận thức rõ rằng, tiền tài chỉ là vật ngoài thân, danh lợi chỉ là hư ảo trong chốc lát, trải nghiệm cuộc sống mới là toàn bộ kiếp người.

Nếu buộc phải trải qua những tháng ngày cuối đời một mình, hãy làm một người “độc thân vui vẻ”. Chẳng phải có câu rằng, đời người hai lần trẻ con đó sao? Khi còn thơ bé chúng ta rất ngây ngô, trong sáng, chẳng truy cầu, chẳng phiền muộn. Tới khi bạc đầu, khi đã nhìn thấu sự đời, chúng ta lại học được cách buông bỏ, ít truy cầu, ít buồn khổ. Như vậy chẳng phải ta lại hồn nhiên như một đứa trẻ hay sao?

Cuối cùng, xin hãy nhớ kỹ! Trước khi bạn già hãy chuẩn bị cho mình một sức khỏe tốt, một khoảng tiền, những ngày tháng rảnh rỗi, những người bạn tốt, một không gian dành riêng cho mình và một tín ngưỡng chân chính mang lại sự bình yên trong tâm hồn của bạn.

Minh Nguyệt

‘Từ Thù Đến Bạn’: Những gì còn lại sau cuộc chiến

RFA
2017-11-02   
 
Từ trái qua: Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, ông Phạm Quanh Vinh; Giáo sư Giáo sư Charles R. Bailey; Phó GĐ Trung tâm nghiên cứu chiến lược quốc tế CSIS, ông Murray Hiebert;PGS. TS Lê Kế Sơn; Chuyên viên cấp cao,Thư ký phe thiểu số Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ ông Tim Rieser tại buổi ra mắt sách

Từ trái qua: Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, ông Phạm Quanh Vinh; Giáo sư Giáo sư Charles R. Bailey; Phó GĐ Trung tâm nghiên cứu chiến lược quốc tế CSIS, ông Murray Hiebert;PGS. TS Lê Kế Sơn; Chuyên viên cấp cao,Thư ký phe thiểu số Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ ông Tim Rieser tại buổi ra mắt sách

 RFA
 

Buổi ra mắt quyển sách “From Enemies To Partners”, tạm dịch là “Từ thù đến bạn” được tổ chức tại CSIS Trung Tâm Chiến Lược Và Nghiên Cứu Quốc Tế ở Washington ngày 1 tháng 11 năm 2017.

Những dự án hợp tác khắc phục hậu quả chất độc da cam dioxin đã và đang thực hiện bởi chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam cũng đã được trình bày tại sự kiện.

Cùng nhau khắc phục hậu quả

40 năm sau khi kết thúc chiến tranh, Việt Nam – Hoa Kỳ, hai đất nước từng được gọi là “kẻ thù” của nhau, nay cùng là “bạn” bắt tay nhau, nỗ lực thực hiện những dự án khắc phục hậu quả về sức khoẻ và môi trường do chất dioxin để lại cho người Việt Nam từ những năm tháng chiến tranh.

Đó là nội dung được đề cập trong quyển sách “Từ thù đến bạn” do PGS. TS, Phó chủ tịch Hội Khoa Học kỹ Thuật An Toàn và Vệ Sinh Lao Động Việt Nam, ông Lê Kế Sơn và Giáo sư Charles R. Bailey là đồng tác giả.

Giáo sư Charles R. Bailey cũng chính là Giám đốc của Agent Orange Việt Nam –  Hội nạn nhân chất độc da cam Đà Nẵng, một tổ chức từ thiện và xã hội của các nạn nhân chất độc da cam.

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, từ năm 1962 đến năm 1971, quân đội Hoa Kỳ đã rải gần 20.000.000 US gallon (76.000.000 lít) các chất có chứa thuốc diệt cỏ và chất làm rụng lá hóa học trộn lẫn với nhiên liệu máy bay phản lực ở Việt Nam, Lào và các bộ phận phía đông của Campuchia.

victims
Hình ảnh nạn nhân của chất dioxin được trình dẫn trong buổi ra mắt sách. RFA

Riêng ở Việt Nam, sân bay Biên Hoà, sân bay Đà Nẵng là hai trong ba vùng chịu ảnh hưởng chất độc dioxin nặng nề nhất. Theo nghiên cứu của một công ty Canada, mức ô nhiễm dioxin tại một số điểm ở sân bay Đà Nẵng cao gấp hàng trăm lần mức an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế.

Trả lời câu hỏi của RFA về việc làm sao để xác định chính xác, hỗ trợ ở mức nhiều nhất có cho tất cả nạn nhân của chất độc màu da cam trong và sau chiến tranh, Giáo sư Lê Kế Sơn cho biết.

“Để xác định hậu quả của dioxin ở sân bay Đà Nẵng hay Biên Hoà thì việc đầu tiên là phải xác định nồng độ dioxin trong môi trường đất, bùn, không khí và tính toán được khối lượng đất bùn cần phải xử lý. Đó là khía cạnh môi trường. Nhưng quan trọng hơn nữa là chúng ta phải nghiên cứu xác định là chất độc  da cam dioxin đó ảnh hưởng đến con người trong vùng lân cận như thế nào và có biện pháp phòng bệnh tật cho họ. Để làm cái đó thì có mấy việc cần phải làm. Thứ nhất là giúp người dân hiểu rõ tác hại của chất độc da cam dioxin để có những biện pháp phòng ngừa trong ăn uống sinh hoạt. Thứ hai là cần phải có những chăm sóc y tế cho người ta, nhất là việc theo dõi xem người ta có bị phơi nhiễm dioxin hay không và có những biện pháp hỗ trợ, trong đó có tư vấn sinh sản để làm sao hạn chế sinh ra những đứa trẻ bị dị tật bẩm sinh.”

Nhưng quan trọng hơn nữa là chúng ta phải nghiên cứu xác định là chất độc  da cam dioxin đó ảnh hưởng đến con người trong vùng lân cận như thế nào và có biện pháp phòng bệnh tật cho họ. – PGS/TS Lê Kế Sơn

Vào tháng 5 năm 2016, tại thành phố Đà Nẵng, Bộ Quốc phòng Việt Nam và Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ đã tổ chức lễ công bố hoàn thành giai đoạn 1 xử lý đất nhiễm chất độc dioxin tại sân bay Đà Nẵng.

Theo số liệu được Giáo sư Charles R. Bailey trình bày trong sự kiện, 112 triệu USD là tổng số ngân sách đã được dùng cho dự án khắc phục hậu quả dioxin tại sân bay Đà Nẵng.

Đài RFA đặt câu hỏi về thời gian dự tính có thể hoàn thành, ông Lê Kế Sơn cho biết:

“Như chúng tôi đã dự tính, dự án ở sân bay Đà Nẵng lẽ ra đã hoàn thành cách đây hai năm. Nhưng vì có những vấn đề nảy sinh khá phức tạp nên tôi tin rằng nó không thể hoàn thành cho đến cuối năm 2018.”

Riêng với dự án khắc phục hậu quả dioxin ở sân bay Biên Hoà, theo số liệu Giáo sư Charles R. Bailey đưa ra, ngân sách ước tính sẽ là 800 triệu USD và thời gian dự tính hoàn thành là năm 2030.

Điều này được Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, ông Phạm Quang Vinh có mặt tại buổi ra mắt quyển sách có nhắc đến. Ông Đại sứ nhấn mạnh “Sân bay Biên Hoà có diện tích lớn (more bigger) và hậu quả của chất độc dioxin ở đây phức tạp, nghiêm trọng (more complicated) hơn sân bay Đà Nẵng.” Do đó, ông có đưa ra ý kiến rằng nên có những chuyên gia nghiên cứu kỹ về tình trạng ô nhiễm còn để lại trong bùn, đất.

Dự án khắc phục hậu quả chất độc dioxin ở sân bay Đà Nẵng là một minh chứng rất rõ và ý nghĩa cho mối quan hệ chặt chẽ, toàn diện giữa hai nước Việt Nam – Hoa Kỳ. Chính phủ Việt Nam trong suốt nhiều năm qua rất quan tâm đến dự án này và hỗ trợ Hoa Kỳ trong việc xử lý tồn lưu chất độc hóa học/dioxin, khắc phục hậu quả chiến tranh tại Việt Nam. – Đại sứ VN tại Hoa Kỳ ông Phạm Quang Vinh

Trả lời thêm về dự toán ngân sách dành cho khắc phục hậu quả nhiễm chất độc dioxin tại sân bay Biên Hoà, ông Lê Kế Sơn cho biết.

“Tôi có thể nói rằng không một ai của tổ chức USAID – Cơ quan Phát triển Quốc tế của Hoa Kỳ, là tổ chức thực hiện những dự án khắc phục hậu quả dioxin có thể biết chính xác bao nhiêu diện tích đất, trầm tích, bùn, bao nhiêu tiền, hay bao nhiêu thời gian để hoàn thành dự án sân bay Biên Hoà. 10 năm hoặc cũng có thể hơn.

Nhưng tôi có thể nói rằng dự án cần phải được tiến hành càng sớm càng tốt. Chính vì vậy cần phải chuẩn bị rất nhiều nguồn tư liệu và quỹ ngân sách.”

book
Trang bìa quyển sách "Từ kẻ thù đến đồng minh" RFA

Theo những số liệu cho biết tại Việt Nam ước tính có 3 triệu người bị ảnh hưởng bởi phơi nhiễm chất dioxin. Năm ngoái, một nhóm nghiên cứu hỗn hợp Việt – Mỹ đã công bố một báo cáo cho rằng cần có 300 triệu USD để tẩy độc và hỗ trợ các nạn nhân chất da cam/dioxin ở Việt Nam.

Khẳng định mối quan hệ song phương

Trung tuần tháng 10 vừa qua, Đoàn nghị sĩ Quốc hội Hoa Kỳ đã đến Việt Nam và có chuyến đi thực tế tại dự án xử lý dioxin sân bay quốc tế Đà Nẵng. Chuyến đi này được truyền thông trong nước ghi nhận là một trong những hoạt động nhằm khẳng định sự tiếp tục đẩy mạnh quan hệ hợp tác song phương giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong nhiều lĩnh vực.

Chính ông Đại sứ Toàn quyền Việt Nam tại Hoa Kỳ, Phạm Quang Vinh đã nhấn mạnh nhiều lần trong buổi ra mắt sách về điều này.

“Dự án khắc phục hậu quả chất độc dioxin ở sân bay Đà Nẵng là một minh chứng rất rõ và ý nghĩa cho mối quan hệ chặt chẽ, toàn diện giữa hai nước Việt Nam – Hoa Kỳ. Chính phủ Việt Nam trong suốt nhiều năm qua rất quan tâm đến dự án này và hỗ trợ Hoa Kỳ trong việc xử lý tồn lưu chất độc hóa học/dioxin, khắc phục hậu quả chiến tranh tại Việt Nam.”

Những dự án khắc phục hậu quả để lại từ cuộc chiến hơn 40 năm trước đã phản chiếu đúng như tiêu đề của quyển sách mà hai tác giả, Giáo sư Lê Kế Sơn và Giáo sư Charles R. Bailey đã chọn, “Từ thù đến bạn”. Cũng như lời ngỏ của quyển sách này: Hậu quả và bi kịch của cuộc chiến chưa bao giờ kết thúc dù đã im tiếng súng, mà đó chính “là trách nhiệm được thể hiện cụ thể như thế nào và kết quả cuối cùng quan trọng nhất là phối hợp cùng nhau để khắc phục hậu quả đó” như lời Giáo sư Lê Kế Sơn chia sẻ với chúng tôi.

TƯỞNG NHỚ NGƯỜI ĐÃ RA ĐI

TƯỞNG NHỚ NGƯỜI ĐÃ RA ĐI

 Lm Đaminh Nguyễn Ngọc Long

Khi tưởng nhớ đến người đã qúa cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn đang sống trên trần gian.  Tâm tình này đạo đức và rất tình người.  Tâm tình này cũng dẫn đưa chúng ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời sống của con người.  Mọi người đều có ngày mở mắt chào đời từ trong cung lòng mẹ đi ra, và ai cũng có ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc trong cỗ áo quan chôn vùi dưới lòng đất.

Những người đã ra đi khỏi cuộc sống trần gian về thế giới bên kia và những người còn đang sống, trước sau vẫn thuộc về nhau.  Tất cả đã cùng chung sống với nhau.  Chúng ta và họ đã cùng chia sẻ cuộc sống niềm tin, cuộc sống tình người với nhau.  Họ đã ra đi, nhưng họ vẫn hằng hiện diện trong trái tim tình yêu mến của chúng ta.  Họ vẫn hằng sống động trong tâm tình biết ơn của chúng ta, cùng trong những kỷ niệm những ngày đã cùng nhau sống qua.

Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ tưởng nhớ đến người quá cố, chúng ta muốn nói lên: không chỉ một mình tôi làm việc này, nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng tưởng nhớ đến thân nhân của họ đã quá cố.  Vì cuộc đời ai mà không có lần đau buồn chia lìa vĩnh biệt người thân của mình đã qua đời.

Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, không chỉ chúng ta người còn đang sống, mà cả những người đã quá cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh cùng thông công.  Tôi tin phép tha tội.  Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.  Tôi tin hằng sống vậy. Amen.

Bánh Thánh, Mình Máu Chúa Giêsu nối kết người còn sống và người đã qua đời lại với nhau trong niềm tin và tình yêu mến.  Với niềm tin và tâm tình yêu mến chúng ta hôm nay:

1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ đã ra đi về cùng Thiên Chúa.  Họ là những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người khôn lớn.  Họ là những người đã không chỉ nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe.  Nhưng họ đã hy sinh suốt cả cuộc đời làm tròn nhiệm vụ làm cha mẹ được Thiên Chúa giao phó, nuôi dạy uốn nắn đời sống đức tin tinh thần đạo đức của chúng ta.  Tình yêu đó, công ơn đó xin muôn đời ghi nhớ, và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến và mang dâng lên bàn thờ Chúa.

2. Tưởng nhớ đến những người thân yêu ruột thịt trong gia đình đã an giấc ngàn thu:   họ là chồng hay vợ; là con cái, cháu chắt, anh chị em, cô cậu, chú bác, cô dì.  Với họ chúng ta đã cùng nhau trải qua những chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau sống những giờ phút thành công cũng như thất bại, hy vọng có, lo âu sợ sệt cũng có.  Một phần đời sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.  Ân nghĩa, tình yêu và những kỷ niệm này luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm người còn đang sống, và xin dâng lên bàn thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh giá.

3. Xin tưởng nhớ đến các linh mục,  những người được Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc tinh thần đạo đức cho các tín hữu trong các xứ đạo.  Sau những năm tháng âm thầm hy sinh làm việc tông đồ, họ đã trở về với Chúa.  Sự hy sinh và lòng quảng đại sống rao giảng, làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của các linh mục là ân đức của Chúa ban tặng cho con người.  Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm thấy an ủi vì có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, là người cùng đồng hành trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa.  Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ vì có Thiên Chúa ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh, và nhất là được cùng chung sống xây dựng phát triển đời sống niềm tin với mọi người tín hữu.  Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu trong lòng đất mẹ.  Những người tín hữu xưa kia đã cùng chung sống trong xứ đạo không quên ơn các cha.  Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa dâng thánh lễ, ngày nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa Giêsu nhớ đến cầu nguyện cho các cha.

4.  Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng các Thầy Dòng  đã chọn đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Dòng, đã được Thiên Chúa gọi về đời sau.  Xưa kia các Thầy, các chị em Nữ Tu đã nghe tiếng Gọi của Chúa từ trời cao từ bỏ mọi sự có thể có, và được phép hưởng dùng, chọn nhận sống đời khiết tịnh nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung của nước Chúa và cho con người.  Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và âm thầm cầu nguyện của các Thầy, các chị em Nữ tu là nhân chứng sống động cho tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian.  Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các thánh lễ cầu cho các Thầy, các anh chị em Nữ tu. 

5.  Xin nhớ đến các Bạn Bè người quen thân, các vị ân nhân  ngày xưa đã cùng nhau trải qua những giờ phút vui buồn, những kỷ niệm êm đẹp.  Giờ đây họ đã thành người thiên cổ.  Xin cám ơn lòng ưu ái tình người chúng ta đã trao cho nhau và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là đời sống và ơn cứu chuộc của con người chúng ta.

6.  Xin nhớ đến những nạn nhân đã qua đời vì thiên tai bão lụt, hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật và những người mồ côi bơ vơ không có ai nhớ đến.  Họ tất cả là con Chúa và niềm tin dạy chúng ta: Họ cũng được Thiên Chúa cứu độ.  Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ có chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.  Xin cùng với ánh nến tình thương liên đới dâng lên bàn thờ Thiên Chúa nguồn tình yêu thương lời kinh cầu nguyện cho linh hồn họ đã về nơi chín suối ngàn thu.

  1. Xin tưởng nhớ đến những thành viên trong Cộng đoànchúng ta đã được Thiên Chúa gọi về.  Cộng đoàn được thành lập cho chúng ta, và do chúng ta cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên từ bao năm qua.  Những hy sinh đóng góp của mỗi người trong cộng đoàn là những viên gạch xây dựng nên ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba ngôi.  Mỗi khi nhớ đến những người xưa kia đã cùng chung vai sát cánh xây dựng nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đã ra đi về với Chúa trước chúng ta, Cộng đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với lòng biết ơn và cảm phục.  Xin cùng dâng lời kinh tiếng hát hòa lẫn trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họ trước bàn thờ Thiên Chúa Ba ngôi.
  2.   Xin nhớ đến các em hài nhi đã qua đời hay bị phá hủy sự sống ngay khi đang còn là thai nhi trong thời kỳ phát triển thành hình nơi cung lòng mẹ.  Các em thai nhi vô tội bị phá hủy hình hài sự sống là những Thiên Thần bé nhỏ của con người trước tòa Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống và lòng nhân lành.  Xin thắp những ngọn nến hồng nhỏ bé nhớ về các Thiên Thần vô tội.  Các Thiên Thần tí hon vô tội là những vị cầu bầu cho chúng ta trước ngai tòa Thiên Chúa tình yêu.
  1. Trước nấm mồ chúng ta muốn đọc lại sứ điệp của những người đã ra đi về đời sau nhắn gửi lại:

–  Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất, hay đã bị thiêu hủy thành tro bụi.  Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Đấng sinh thành ra tôi.

–  Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này.  Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ linh hồn tôi, và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.

–  Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng xi-măng cát đá.  Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi.  Vì Ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.  Và tôi tâm niệm rằng:

–   Những gì ngày xưa tôi xây dựng làm ra, giờ này tôi phải bỏ lại.

–   Những gì ngày xưa tôi thu góp tích lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được.

–   Nhưng những gì ngày xưa tôi cho đi, bây giờ tôi nhận lãnh trở lại.

 Lm Đaminh Nguyễn Ngọc Long

From Langthangchieutim

Nhưng điều gì sẽ xảy ra khi Facebook, Google rời Việt Nam?

From facebook:  Chau Doan‘s post.
Image may contain: 1 person, sitting
Image may contain: 3 people

Chau Doan added 2 new photos.Follow

 

Ông Adam Sitkoff – Giám đốc điều hành Hiệp hội Thương mại Hoa Kỳ tại Hà Nội (AmCham) cho rằng dự thảo luật an ninh mạng với quy định đặt máy chủ tại Việt Nam có thể sẽ khiến Facebook, Google rời Việt Nam.

Tôi không biết việc đặt máy chủ có khiến chi phí tăng lên nhiều không và quy định ấy sẽ kéo theo những vấn đề lớn gì mà có thể khiến họ rời Việt Nam.

Quan sát điều này sẽ là một việc thú vị.

Nhưng điều gì sẽ xảy ra khi Facebook, Google rời Việt Nam?

Cả xã hội sẽ rơi vào một “đêm trường trung cổ”, khi mà nguồn thông tin duy nhất là mấy trăm tờ báo được kiểm duyệt, được chỉ đạo theo vài cái đầu thủ cựu, lạc hậu và áp đặt.

Sự hạn chế về thông tin, tù túng về tư tưởng của báo chí chính thống đã được người đọc nhận rõ trong thời gian quá cũng chính bởi luồng gió đa chiều của mạng xã hội mang lại.

Mạng xã hội đã gắn liền với hơi thở của mỗi người dùng. Mỗi sáng thức dậy, việc đầu tiên mỗi người làm là vào FB, lướt qua tin, thay vì vào những trang báo chính thống. Sự chia sẻ thông tin diễn ra trong từng giây. Ai cũng có thể nói lên tiếng nói của mình. Mà tiếng nói chính là thứ để một cá nhân cảm thấy mình đang tồn tại. Vài cái like xuất hiện, chứng tỏ đâu đấy có người đồng tình, có người nghe tiếng nói của anh/chị ta. Sự kết nối về con người đã bắt đầu.

Còn google thì đang trở thành một ông thầy uyên bác đang dạy cho mọi người dùng đủ các lĩnh vực của cuộc sống. Nếu không có google, tôi đã không thể là tôi của ngày hôm nay.

Nhiều lý luận cho rằng mạng xã hội, youtube cần được quản lý chặt chẽ bởi có nhiều thông tin xúc phạm lãnh đạo, bôi nhọ chính quyền, bịa đặt thông tin. Tôi quả thực rất ngạc nhiên với lý lẽ này. Tôi viết một dòng trạng thái (stt), chỉ cần dùng một từ không thật là chuẩn, là đã có người sửa, vậy tại sao cả một tin bịa đặt của một vài cá nhân hay một trang mạng nào lại có thể tồn tại và thuyết phục được người đọc?

Tại sao những người cầm quyền lại e ngại những dạng thông tin ấy? Bao nhiêu những bộ óc uyên bác trong chính quyền, 700 tờ báo với nhiệm vụ truyền thông, tuyên truyền thì sợ gì mấy trang mạng vặt vãnh? Đấy là chưa kể tới đội quân DLV hùng hậu.

Phải làm tốt nhiệm vụ của mình chứ. Nếu có thông tin gì không đúng, phải tập trung phản đối, tố cáo sự dối trá ấy chứ, rồi an ninh mạng, những cơ quan bảo vệ chính trị hùng mạnh nữa. Tại sao chỉ vì sợ mà đưa ra những quy định có thể khiến những hoạt động trao đổi về kiến thức, ý kiến và kể cả thương mại bị ảnh hưởng?

Bởi Facebook, youtube đã trở thành cần thiết như cơm ăn nước uống và hơi thở nên một chính sách, quy định nào đấy làm gián đoạn những phương tiện này chắc chắn sẽ gây ra sự phẫn nộ trong dân chúng. Họ sẽ cảm thấy mình bị ném trở lại sự tù túng và điều ấy là bất công và như vậy sự phản kháng là điều chắc chắn sẽ xảy ra.

Tôi nghĩ rằng cắt bỏ Facebook, Google, ấy là một bước lùi khiến về mọi mặt sẽ khiến Việt Nam yếu đi và điều này rất nguy hiểm bởi bên cạch chúng ta là thằng bạn đểu luôn âm mưu nhăm nhe ăn sống nuốt tươi chúng ta.

Tôi đề nghị báo chí quan tâm, phỏng vấn chính những người đã đưa ra dự thảo này để hỏi xem họ đã nghĩ tới điều này chưa? Hay họ muốn người dân chúng ta dùng mạng Webo, Wechat của thằng bạn đểu?

Và các bạn, những người đang dùng Facebook, Youtube, các bạn có thể làm gì để bảo vệ những thành tựu kì diệu này mà thế giới văn minh đã đưa lại cho chúng ta?

Trung Quốc trở về với sự cai trị độc tài

Trung Quốc trở về với sự cai trị độc tài

Nguồn: Minxin Pei: “China’s Return to Strongman Rule”,  Foreign Affairs, 1 November 2017

Người dịch: Huỳnh Hoa

Ý nghĩa việc thâu tóm quyền lực của Tập Cận Bình

Một kỷ nguyên mới đã bắt đầu trong chính trị Trung Quốc. Vào ngày 24 tháng 10, khi đại hội toàn quốc lần thứ 19 của đảng Cộng sản Trung Quốc hạ màn, các đại biểu của đảng đã sửa đổi điều lệ của tổ chức này để thiêng hóa một nguyên tắc ý thức hệ có vai trò dẫn dắt mới: “Tư tưởng Tập Cận Bình” (Xi Jinping). Ít có nhà quan sát nào biết chính xác học thuyết này dẫn tới cái gì – đó là một tập hợp vô hình vô ảnh những ý tưởng về duy trì nhà nước độc đảng của Trung Quốc và chuyển hóa đất nước thành một cường quốc toàn cầu – nhưng đa số đều lập tức nắm được cái biểu trưng chính trị trong sự ra đời học thuyết này. Đảng Cộng sản đã đề cao những đóng góp về ý thức hệ của nhà lãnh đạo Trung Quốc lên ngang tầm với những đóng góp của Mao Trạch Đông (Mao Zedong) và Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping), hai lãnh tụ đảng Cộng sản Trung Quốc duy nhất có ý tưởng được thánh hóa như vậy.

Đây mới chỉ là dấu hiệu đầu tiên rằng ông Tập đã giành được một thắng lợi chính trị quan trọng tại đại hội đảng. Quy mô thực sự của chiến thắng của ông trở nên rõ ràng vào ngày hôm sau, khi các đại biểu đảng chọn ra các ủy viên mới của ủy ban thường vụ bộ chính trị, cơ quan quyết định cấp cao nhất của Trung Quốc. Ông Tập lấp đầy cái ủy ban bảy người này bằng những người trung thành với ông, tất cả đều quá già để có thể có cơ hội lên thay vị trí của ông trong đại hội đảng lần tới vào năm 2022. Kết quả là ông Tập sẽ cai trị 15 năm nữa và có thể lâu hơn.

Tuy có vẻ rất vững mạnh, giờ đây ông Tập phải có đủ vốn chính trị để bảo đảm một nhiệm kỳ kéo dài trong tư cách lãnh tụ Trung Quốc. Trong thực tế, ông sẽ cần thực hiện lời cam kết tái cân bằng và làm cho bền vững đà tăng trưởng kinh tế và tái cơ cấu hệ thống tư pháp của Trung Quốc.

Sự gia tăng quyền lực của ông Tập

Trong số bảy ủy viên thường trực bộ chính trị khóa trước của đảng Cộng sản Trung Quốc, chỉ hai người còn tại nhiệm: ông Tập và người phó của ông, thủ tướng Lý Khắc Cường (Li Keqiang). Năm ủy viên khác của cơ quan này là người mới và bốn trong số họ là thân tín của ông Tập.

Lật Chiến Thư (Li Zhanshu), nhân vật thứ ba và mới của đảng, đã gây dựng một tình bạn thân thiết với ông Tập hơn 30 năm về trước và là chánh văn phòng của ông Tập trong nhiệm kỳ đầu của ông, từ năm 2007. Một thuộc hạ trung thành khác, ông Triệu Lạc Tế (Zhao Leji) sẽ là người chỉ huy mới của công cuộc chống tham nhũng, đóng vai người canh tay chủ lực thực hành chỉ thị của ông Tập. Người lãnh đạo cũ của cơ quan này, ông Vương Kỳ Sơn (Wang Qishan) đã giữ vai trò người xoay chuyển trong việc giúp ông Tập loại bỏ các đối thủ và củng cố quyền lực trong nhiệm kỳ đầu.

Nhiều nhà quan sát Trung Quốc đã nhận ra hai gương mặt mới và khác trong ủy ban thường vụ, ông Vương Hỗ Ninh (Wang Huning) và Hàn Chính (Han Zheng), là thành viên của cái gọi là Nhóm Thượng Hải – một nhóm đầu sỏ câu kết với cựu chủ tịch Giang Trạch Dân (Jiang Zemin) – một lối suy nghĩ nhằm đặt nghi vấn về lòng trung thành của hai ông này đối với ông Tập. Nhưng cách đánh giá như vậy là không chính xác. Ông Vương đã từng là cố vấn chính về ý thức hệ cho cả ba đời lãnh tụ đảng – ông Giang, ông Hồ Cẩm Đào (Hu Jintao) và ông Tập – và không có khả năng ông ta sẽ gắn bó với nhóm của ông Giang để gây nguy hiểm cho mối quan hệ với ông Tập sau khi nhóm ông Giang đã bị tiêu hao nhiều vì đòn phép chống tham nhũng của ông Tập. Ông Hàn cũng vậy, ông ta là người có năng lực, một nhà kỹ trị điềm tĩnh không có sự trung thành vĩnh viễn với Nhóm Thượng Hải. Thực ra, khi ông Tập làm bí thư Thượng Hải trong các năm 2006-2007 thì ông Hàn đã là thị trưởng thành phố và là cánh tay mặt của ông Tập. Ủy viên thứ bảy trong ủy ban thường vụ là ông Uông Dương (Wang Yang), một người có quan hệ với Nhóm Đoàn Thanh niên đối lập. Ông Uông sẽ trở thành lãnh đạo của hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc (Chính hiệp) – một cơ quan tư vấn của đảng.

Ông Tập cũng thành công trong việc lấp đầy bộ chính trị 25 thành viên bằng những đồng minh của mình. Có ít nhất 11 trong số 15 thành viên mới của bộ chính trị nằm trong nhóm của ông Tập. Kết quả là, giờ đây ông có thể giành tới 18 phiếu trong bộ chính trị. Các quyết định của ông sẽ được bộ chính trị và ủy ban thường vụ phê chuẩn với số phiếu áp đảo, từ đó sẽ có quyền lực phi thường. Hơn thế nữa, các đồng minh của ông Tập trong bộ chính trị, một số người còn khá trẻ, sẽ là những ứng viên mạnh để được đưa vào ủy ban thường vụ trong đại hội đảng lần thứ 20 vào năm 2022.

Thắng lợi chính trị lớn lao nhất mà ông Tập giành được tại đại hội là sự chấm dứt thông lệ của đảng, theo đó một nhà lãnh đạo mới sẽ được chính thức đề bạt ít nhất 5 năm trước ngày nhận chuyển giao quyền lực. Truyền thống này có từ năm 1992, khi ông Đặng chọn ông Hồ làm người kế tục ông Giang mười năm trước ngày ông Hồ đảm nhiệm chức vụ. Tương tự như vậy năm 2007 đảng đã chọn ông Tập làm người kế nhiệm ông Hồ. Thông lệ này làm giảm rủi ro tranh giành quyền kế tục trong đảng và giúp thực thi quy định không chính thức về giới hạn số nhiệm kỳ của các lãnh đạo cấp cao nhất là hai nhiệm kỳ, mỗi nhiệm kỳ 5 năm. Nhưng đảng chưa bao giờ pháp chế hóa những truyền thống này trong điều lệ của mình và một lãnh đạo đương nhiệm muốn tìm cách kéo dài sự cai trị của mình sẽ luôn có thể chấm dứt các truyền thống đó nếu như có đủ quyền lực.

Đây rõ ràng là trường hợp của ông Tập; ông và các đồng minh của ông đã đi những nước cờ xuất sắc để thoát ra khỏi tiền lệ. Trước tiên, vào mùa thu năm 2016, đảng Cộng sản Trung Quốc chính thức phong ông Tập là “lãnh tụ hạt nhân” (core leader) của đảng, khiến ông là lãnh tụ duy nhất từ thời ông Đặng tự mình có được cái danh hiệu đáng thèm muốn ấy và gửi một thông điệp cho các nhân vật cao cấp khác rằng vị trí của ông Tập là bất khả xâm phạm. (Ông Giang cũng được làm core leader nhưng do ông Đặng phong, còn ông Hồ không bao giờ nhận được danh hiệu này). Vài tháng sau đó, vào tháng Giêng năm nay, các đặc vụ an ninh Trung Quốc đã bắt cóc nhà tài phiệt Tiểu Kiến Hoa (Xiao Jianhua) tại một căn hộ trong khu Four Seasons ở Hong Kong. Vụ bắt cóc nhằm ngăn chặn những thách thức tiềm tàng đối với kế hoạch của ông Tập: là nhà tài phiệt cung cấp tiền bạc cho nhiều lãnh đạo chóp bu Trung Quốc, ông Tiểu có khả năng nắm giữ nhiều thông tin có thể dùng để buộc tội một số đối thủ của Tập.

Tháng Bảy, Tập có thêm một động tác nữa: ra lệnh bắt giam bí thư đảng thành phố Trùng Khánh Tôn Chính Tài (Sun Zhengcai) về tội tham nhũng. Vụ hạ bệ ông Tôn có nhiều ý nghĩa, một phần vì ông này kết giao với nhóm ông Giang và còn vì ông này còn trẻ đến mức nếu để cho ông ta yên thì ông ta sẽ là một người kế nhiệm hợp lý của ông Tập. (Ủy viên bộ chính trị nói chung phải dưới 55 tuổi thì mới đủ điều kiện xem xét làm người kế tục tương lai). Giờ đây sau khi ông Tôn đã bị loại bỏ thì chỉ còn một ủy viên bộ chính trị có tuổi đủ trẻ để có thể làm người kế nhiệm ông Tập vào năm 2022: cựu bí thư tỉnh Quảng Đông Hồ Xuân Hoa (Hu Chunhua). Nhưng ông Hồ 55 tuổi này vừa rồi không được đề bạt vào ủy ban thường vụ bộ chính trị, rõ ràng ông ta không đủ điều kiện để kế nhiệm ông Tập vào năm 2022 nữa. Ông Hồ có khả năng sẽ được bố trí chức phó chủ tịch nặng tính tượng trưng vào tháng Ba năm tới.

Với ít sự lựa chọn như vậy, ông Tập sẽ có cái cớ hoàn hảo để trì hoãn việc đưa ra quyết định ai là người sẽ kế nhiệm ông. Sự thống trị của ông trong bộ chính trị và ủy ban thường vụ sẽ giúp ông có đủ quyền lực để làm như vậy, bảo đảm cho ông có thêm nhiệm kỳ lãnh đạo thứ ba tại đại hội kế tiếp của đảng vào năm 2022.

Ông Tập sẽ sửa đổi điều lệ đảng và hiến pháp Trung Quốc để hợp pháp hóa sự kéo dài quyền lực của ông. Chẳng hạn như ông có thể đảm nhiệm vị trí chủ tịch đảng – khôi phục một chức vụ đã bị bãi bỏ trong điều lệ đảng – và khởi động lại việc tính thời gian lãnh đạo đảng của ông. Còn đối với giới hạn hai nhiệm kỳ ở chức vụ chủ tịch nhà nước Trung Quốc (thường được nói tới “chức chủ tịch” (presidency) trong tiếng Anh nhưng để phù hợp ra phải dịch là “chức chủ tịch hội đồng” (chairmanship)) nó có thể được thay đổi chỉ với một sự điều chỉnh về ngữ nghĩa: các quan chức có thể sửa đổi hiến pháp Trung Quốc để chức danh chính thức của ông Tập trở thành “chủ tịch” (president). Bằng việc bảo đảm thêm hai nhiệm kỳ 5 năm mới với tư cách người đứng đầu cả đảng và nhà nước, ông Tập sẽ có thể cầm quyền cho đến tận năm 2032.

Pháp trị

Những câu hỏi lớn nhất về kỷ nguyên mới của Trung Quốc đều xoay quanh chương trình của ông Tập. Ít ai kỳ vọng ông Tập sẽ trở thành nhà cải cách chính trị do những cuộc đàn áp xã hội dân sự và quyền tự do internet trong suốt nhiệm kỳ đầu của ông. Nhưng những người lạc quan tin rằng, quyền lực tối cao mới giành được của ông Tập sẽ khiến ông được tự do theo đuổi những cuộc cải cách khác nữa, giới thiệu các cải cách kinh tế thân thiện với thị trường và tái cơ cấu hệ thống tư pháp Trung Quốc để bảo vệ quyền tư hữu và thúc đẩy phát triển một cách hiệu quả hơn.

Trong thực tế, ít có điều gì cho thấy rằng một làn sóng mới về cải tổ kinh tế đang hình thành. Ông Tập đã thủ đắc quyền lực to lớn trong suốt nhiệm kỳ đầu, năm 2013 ông đã đưa ra kế hoạch đầy tham vọng nhằm đại tu nền kinh tế Trung Quốc để “[cho phép] các lực lượng thị trường đóng một vai trò quyết định” như kế hoạch đã công bố. Nhưng từ ngày đó, ông chỉ làm được vài bước tiến rất khiêm tốn. Nhờ chính sách tiền tệ lỏng lẻo, mô hình tăng trưởng do đầu tư thúc đẩy và được tín dụng tiếp nhiên liệu vẫn đứng vững, góp phần nâng tỷ lệ nợ so với tổng sản lượng GDP của Trung Quốc từ mức 215% năm 2012 lên 242% năm 2016. Và mặc dù các doanh nghiệp nhà nước nợ nần đầm đìa của Trung Quốc đang trì kéo nền kinh tế quốc gia, chúng vẫn có một vị trí đặc biệt trong tầm nhìn tương lai của ông Tập. Tháng 7-2016, ông lập luận rằng các doanh nghiệp này cần phải trở nên “mạnh hơn, tốt hơn, lớn hơn, không có sự dè dặt nào”.

Niềm tin của các nhà lãnh đạo Trung Quốc vào các chính sách hiện hành là một lý do khác để các nhà quan sát không nên đặt quá nhiều hy vọng vào cải cách kinh tế. Mặc dù đã có những lời cảnh báo rằng nợ nần không chống đỡ được sẽ dẫn tới sụp đổ tài chính, nhưng Bắc Kinh vẫn chưa phải trả một cái giá đắt cho việc bám chặt vào chiến lược bơm tín dụng để hỗ trợ tăng trưởng. Thật vậy, hoạt động kinh tế gần đây của Trung Quốc – tăng trưởng GDP chắc chắn sẽ vượt qua mục tiêu chính thức là từ 6,5-6,7% trong năm nay – đã làm sâu sắc thêm niềm tin của các nhà hoạch định chính sách vào mô hình hiện hành.

Cuối cùng, bởi vì tất cả các cuộc cải cách kinh tế mạnh mẽ trong quá khứ đều được thôi thúc bởi những vụ khủng hoảng, những cú sốc nên các nhà quan sát nên giảm nhẹ cái khả năng Bắc Kinh sẽ theo đuổi những sự cải tổ sâu rộng một khi nền kinh tế vẫn đang vận hành tương đối tốt như ngày hôm nay.

Thay vì vậy, ưu tiên chính trị hàng đầu của ông Tập trong tương lai gần rất có thể là cải tổ toàn diện hệ thống tư pháp Trung Quốc, không phải nhắm tới sự thiết lập nhà nước pháp quyền (rule of law) thật sự mà là thực hiện pháp trị (rule by law), theo đó nhà nước sẽ dùng hệ thống tư pháp để duy trì sự kiểm soát về chính trị, xã hội và kinh tế. Nếu như vậy thì kết quả rất có thể là sự đàn áp chứ không phải là sự tiến bộ.

Có ba dấu hiệu cho thấy ông Tập sẽ tập trung vào cải cách tư pháp. Một là, đại hội đảng đã phê chuẩn kế hoạch của ông Tập cải tổ hệ thống tư pháp qua việc thành lập một “nhóm lãnh đạo về quản trị toàn diện đất nước theo luật pháp”, một cơ quan mà ông Tập là người đứng đầu. Thứ đến, ông Tập đã bổ nhiệm tay chân thân tín nhất của ông, ông Lật Chiến Thư, làm chủ tịch Đại hội Nhân dân toàn quốc, tức Quốc hội Trung Quốc, cơ quan lập pháp của quốc gia, sẽ soạn thảo và thông qua các luật lệ thiết yếu cho việc hiện thực hóa tầm nhìn của ông Tập. Cả hai biện pháp này cho thấy rằng, chẳng bao lâu nữa, cải cách tư pháp sẽ nhận được rất nhiều sự quan tâm ở cấp cao. Cuối cùng, ông Tập là người tin tưởng sâu sắc vào truyền thống pháp trị của Trung Quốc và trọng tâm của nhóm lãnh đạo mới về quản trị “toàn diện” phản ánh tham vọng đó.

Như đã thấy, trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, ông Tập đã ban hành một số luật quan trọng nhằm kiểm soát xã hội, siết chặt hoạt động an ninh mạng của Trung Quốc và hạn chế các tổ chức phi chính phủ nước ngoài. Nhưng để tái xác nhận quyền lực của đảng đối với xã hội và để cung cấp nền tảng pháp lý vững chắc cho chế độ độc tài chuyên chế thì còn nhiều chuyện phải làm. Ví dụ, Trung Quốc có thể áp đặt thêm nhiều hạn chế đối với các tổ chức phi chính phủ nội địa, ban hành những luật lệ mới về giáo dục tư tưởng trong các trường đại học, cao đẳng hoặc viết lại bộ luật hình sự sao cho nó trở thành công cụ ngày càng hiệu quả trong việc trấn áp sự phản kháng trong nước. Mục đích sẽ là biến đổi Trung Quốc từ một chế độ tản quyền hậu toàn trị chủ nghĩa thành một chế độ độc tài chuyên chế được cai trị bởi một đảng Leninist có kỷ luật.

Thói quan liêu

Trong ngắn hạn, các kế hoạch của ông Tập sẽ không gặp nhiều sự phản kháng công khai. Cuộc đàn áp thẳng tay giới bất đồng chính kiến và xã hội dân sự của ông đã có hiệu quả một cách đáng buồn, và đã xóa bỏ mọi mối đe dọa đối với sự cai trị của chế độ trong tương lai gần. Giờ đây, vai trò tối thượng của ông Tập trong đảng Cộng sản đã bao trùm tới mức không thể hình dung được có đồng nghiệp nào của ông dám đứng ra thách thức ông.

Sự phản kháng thật sự đối với tham vọng của ông Tập sẽ đến từ guồng máy hành chính quan liêu to lớn của Trung Quốc. Các quan chức cấp thấp và cấp trung của chế độ, số lượng lên tới hàng triệu người, là những con người có tính tư lợi đầu tiên và cao nhất, và họ quan tâm nhiều tới chuyện gia tăng đặc quyền và của cải của chính mình hơn là thúc đẩy những mục tiêu ý thức hệ trừu tượng. Khi ông Tập giải thể cơ chế chia sẻ quyền lực và bổng lộc từng là đặc trưng của trật tự ở Trung Quốc thời kỳ sau biến cố Thiên An Môn, triển vọng về quyền lực và tiền bạc của những cán bộ trong guồng máy quan liêu này cũng phai mờ dần. Đã không còn những băng nhóm tinh hoa để họ nhập vào, cũng không có nhiều người đỡ đầu để họ phục vụ. Ngày nay, mỗi quan chức đều phải cạnh tranh giành ân huệ của một chế độ do một nhóm duy nhất thống trị, và có rất ít con đường để thăng tiến so với thời kỳ trước khi ông Tập nắm quyền. Tệ hơn nữa, công cuộc trấn áp tham nhũng của ông Tập đã xóa sổ những hành vi hối lộ béo bở, những bổng lộc từng bảo đảm cho lối sống của giới cán bộ trong suốt hai thập kỷ qua. Trừ phi ông Tập bớt nghiêm khắc và cho phép đa số quan chức trong guồng máy được tiếp tục thu vén cho cá nhân họ, lòng trung thành sẽ mất đi sức hấp dẫn của nó.

Tất nhiên phần lớn các cán bộ cấp thấp hơn sẽ không từ bỏ đảng Cộng sản hoặc biểu lộ công khai sự bất mãn của họ. Thay vì vậy họ sẽ làm những gì mà guồng máy quan lại Trung Hoa đã làm trong hàng ngàn năm qua: phản ứng một cách thụ động với những mệnh lệnh từ cấp cao nhất. Mục tiêu của những cán bộ này là làm cho ông Tập phải nhận ra giá trị của họ và tưởng thưởng cho họ một cách tương xứng, có thể bằng cách chấm dứt cuộc trấn áp tham nhũng và yêu cầu thắt lưng buộc bụng. Cách thức duy nhất để đạt được điều này là thông qua sự tránh né, dối gạt của hệ thống quan liêu, làm chậm lại vòng quay của guồng máy hành chính và làm trì trệ cỗ máy kinh tế của Trung Quốc nhằm thu hút sự chú ý của ông Tập. Cho dù quyền lực của ông Tập có sâu rộng đến đâu thì nó cũng bị xói mòn nhanh chóng nếu tăng trưởng kinh tế bị trì trệ vài năm và giới quan chức Trung Quốc biết rõ điều đó.

Ông Tập không phải là nhà lãnh đạo đầy quyền năng đầu tiên của Trung Quốc phải đối mặt với guồng máy quan liêu cứng đầu cứng cổ. Ông Mao cũng đã đương đầu với một thách thức tương tự vào đầu thập niên 1960, khi ông nghĩ rằng các cán bộ đảng không có đủ nhiệt tình cách mạng. Một trong những động cơ để ông Mao phát động cuộc Cách mạng Văn hóa là sử dụng khủng bố của đám đông để đưa guồng máy quan liêu vào kỷ luật và phục hồi tinh thần cách mạng.

Nhưng ông Tập không phải là người tin tưởng vào các phong trào quần chúng và ông cũng không có cái uy tín tuyệt đối của ông Mao, người có thể huy động hàng trăm triệu thường dân Trung Quốc vào một hành động chung. Thay vì vậy, ông Tập phải tìm cách mở rộng phạm vi quyền lực của ông từ cấp ủy ban trung ương xuống tới các tỉnh thành quận huyện. Đó là một công việc nặng nhọc và tốn nhiều thời gian, chẳng hạn như nỗ lực xem xét và tuyển dụng cán bộ có triển vọng ở cấp địa phương.

Nhiều viên chức cấp thấp và cấp trung sẽ gia nhập phe của ông Tập. Nhưng khi cơ sở của ông mở rộng, nó cũng có thể gieo những hạt mầm tranh chấp trong nội bộ đảng. Biết rằng trận chiến kế tiếp để giành quyền lực tối thượng sẽ diễn ra trong 10, 15 năm nữa, khi ông Tập tiến tới ngày ra khỏi quyền lực, những thủ hạ bề ngoài có vẻ trung thành của ông sẽ quan tâm nhiều tới việc xây dựng quyền lực của riêng họ hơn là thực thi chương trình của ông Tập. Đây là chuyện đã xảy ra trong thời Cách mạng Văn hóa: sau khi Mao diệt xong các đối thủ thì những thủ hạ trung thành của ông ta, nhóm Lâm Bưu (Lin Biao) và nhóm Tứ Nhân Bang (Gang of Four) đã nhanh chóng đối địch với nhau vì lo sợ rằng nhóm kia sẽ tự đặt mình vào vị thế nối nghiệp vị chủ tịch già nua ấy.

Trong bàn tay của Tập

Trong những năm tháng sau khi Mao Trạch Đông qua đời, các nhà lãnh đạo Trung Quốc bắt đầu hiểu rằng, tập trung quyền lực vào tay một nhân vật đơn lẻ có thể gây thảm họa cho đảng. Đó là lý do tại sao những người sống sót sau cuộc Cách mạng Văn hóa đã tập hợp lại trong thập niên 1980 để bảo đảm rằng không bao giờ một lãnh tụ như Mao lại có thể cai trị Trung Quốc. Những sự thay đổi mà nhóm này đưa ra – chẳng hạn như cơ chế lãnh đạo tập thể, những luật lệ không chính thức về sự kế nhiệm, và những sự bảo đảm ngầm về an ninh cho các lãnh đạo cấp cao – đã sinh ra một sự ổn định của giới tinh hoa trước đây chưa từng thấy trong lịch sử của đảng. Chúng cũng giúp cho chế độ tránh được những sai lầm nguy hiểm phát sinh từ sự giao phó quyền lực vào tay một cá nhân.

Các quan chức Trung Quốc dường như đã quên những bài học này. Giờ đây đảng Cộng sản đã quay lại với sự cai trị chuyên chế của một nhà độc tài, tương lai của nó sẽ phụ thuộc phần lớn vào phẩm chất những quyết định của ông Tập. Sẽ có rất ít hạn chế về cách thức ông này đưa ra quyết định. Lần cuối cùng mà đảng có một lãnh tụ với quyền lực không bị kiểm soát như thế thì hậu quả là thảm họa. Chỉ có thể hy vọng rằng, lần này các nhà lãnh đạo Trung Quốc biết những gì mà họ đang làm – và rằng kết quả sẽ không giống trước.

Nguồn bài dịch: Viet-studies 

TQ được coi là một trong những nước thù nghịch của internet.

From facebook:  Trần Bang‘s post
 
 
 
Image may contain: 2 people, text

Trần Bang

 

Facebook tại Trung Quốc. ( CS Việt Nam định theo đuôi CSTQ, Dân VN có cho theo không? )

TQ được coi là một trong những nước thù nghịch của internet. Sau khi lập ra cái gọi là Vạn lí trường thành trên mạng (Great Firewall) từ năm 1997, chính quyền nước này đã chặn fb từ năm 2009. Riêng google thì mãi đến 2014 mới bị chặn hoàn toàn. Để làm được điều đó, các sản phẩm nội địa của TQ phải thừa nhận là khá mạnh.

Các công ty thuần “tàu” này đã thay thế được cho hầu hết các ứng dụng của các hãng tên tuổi trên thế giới. Ví dụ, mạng nội địa Weibo đã thay cho facebook, Baidu thay cho Google, Youku thì thay cho Youtube, WeChat cũng thay cho Viber hoặc Whatsapp với những tính năng đa dạng hơn nguyên bản,…

Chính quyền TQ kiểm duyệt internet và mạng xã hội (MXH) khá hiệu quả bởi họ nắm trong tay các nhà cung cấp dịch vụ. Muốn cung cấp được sản phẩm cho thị trường đông dân nhất thế giới này, các công ty phần mềm buộc phải cấp quyền truy cập máy chủ cho cơ quan hữu trách.

Ngoài ra họ còn phải cài đặt phần mềm chặn từ khóa, phần mềm “tìm và diệt” chủ tài khoản có dấu hiệu “phản động”, phần mềm theo dõi “thế lực thù địch”,… Ví dụ như nếu bạn là một người sử dụng mạng xã hội tại TQ, bạn chỉ cần nhắc đến từ Pháp luân công hay Cách mạng văn hóa,… thì ngay lập tức bạn sẽ nằm trong diện theo dõi của an ninh mạng (ANM).

Đương nhiên là nếu gõ từ khóa “biến cố Thiên An môn” trong công cụ tìm kiếm Baidu, bạn không những nhận được cảnh báo lỗi mà còn rơi vào danh sách đen của ANM. Vì những từ khóa và sự kiện nhạy cảm ngày càng nhiều lên do những bất công trong xã hội gây ra nên đội ngũ lập trình viên và an ninh mạng TQ phải hoạt động hết công suất để cập nhập hàng ngày.

Như vậy ở TQ cũng có MXH nhưng nó chỉ để phục vụ cho việc hẹn hò, du hí, chụp ảnh tự sướng, bán hàng online,… Tôi coi MXH như vậy là một mạng chết. Vì các thành viên trên mạng xã hội made in China không được phép nói khác, nghĩ khác chính quyền.

Họ có thể ca ngợi Tập Cận Bình nhưng không được khen Lưu Hiểu Ba, họ được quyền nói thành phố Huế là của TQ chứ không được phép nghi ngờ về tính pháp lí đường “lưỡi bò” tham lam, đê tiện.

Lâu dần thành quen, điều giả dối được nhắc lại hàng triệu lần thì sẽ thành chân lí, cả tỷ người tàu đều tin rằng 90% diện tích biển đông là thuộc về họ, thậm chí từ thời hồng hoang ra khơi bằng thuyền thúng.

Chính quyền TQ tiếp tục quản lí tư tưởng của người dân để biến giấc mơ TQ thành ác mộng của toàn nhân loại.

Tại những quốc gia không có tự do ngôn luận, MXH là một cứu cánh cho người dân thấp cổ bé họng. Nó tựa như một khoảng trời nhỏ để người ta được hít thở chút khí trời hiếm hoi trong một bầu không khí ngột ngạt, ngục tù.

Nếu như cái quyền biểu đạt cuối cùng của người dân trên MXH cũng bị cấm cản thì sẽ là một sự thụt lùi khủng khiếp của đất nước, cho dù họ có cố gắng tăng cái GDP đến mức nào đi chăng nữa.

3.11.2017
FB Kenny Vu

( Bài Copy FB Chinh Le , ảnh Thanh Duong )

Việt Nam với 55 triệu lao động nuôi 11 triệu cán bộ đảng viên,

From facebook:   Nguyễn Hiếu‘s post.
 
 
Image may contain: 3 people, people smiling, text
Nguyễn Hiếu is with Nguyễn Hiếu.

 

 

Việt Nam với 55 triệu lao động nuôi 11 triệu cán bộ đảng viên, nghĩa là cứ 5 người dân thường lao động phải 1 cán bộ đảng viên …

Nay số tiêu xài quá lớn của cán bộ đảng viên ,người dân nuôi quá nhiều quan chức mà nay họ không đòi chiếc xe đạp, căn nhà che nắng che mưa, mà họ đòi xe Mẹc, biệt thự, nhà nghỉ tại các khu du lịch, v.v…..

Từ đó sinh ra nạn cướp bóc …bóc lột người dân tận xương tủy… người dânn ta đến khi nào mới tĩnh lại thôi làm công cụ cho sự bóc lột tột cùng của sự dã man ..?

“Condition Of Slavery”

Nếu thể chế này thay đổi, nó để lại điều gì khủng khiếp nhứt?

From facebook:   Bổn Đình Nguyễn‘s post.
 

Nếu thể chế này thay đổi, nó để lại điều gì khủng khiếp nhứt?

Giả sử rằng trong vài năm tới, vì một “cơ may” nào đó, VN chuyển đổi thành một quốc gia dân chủ, thiết lập nền tảng như các quốc gia dân chủ hàng đầu thế giới, thì điều gì khủng khiếp nhứt mà ta nhìn thấy?

Tất nhiên kinh tế suy sụp, tài nguyên cạn kiệt, môi trường ô nhiễm là thứ tác động hằng ngày đến đời sống người dân, nhưng đó chưa phải là vấn nạn hàng đầu, bởi tôi tin người Việt một khi thoát khỏi trói buộc sẽ đủ thông minh giải quyết các vấn đề trên, và còn đó hàng triệu đồng bào hải ngoại tài năng, giàu có, luôn canh cánh nỗi lòng với cố quốc.

Cái mất mát khủng khiếp nhứt theo tôi đó là sự băng hoại của một nền văn hóa, sự tha hóa về nhân cách của người Việt đương đại. Sống trong một xã hội bất công, con người trở nên hung dữ, phi nhân. Chúng ta dễ dàng nghe tiếng chửi thề hơn là lời cám ơn, xin lỗi. Chúng ta dễ dàng thấy đâm chém nhau hơn là giúp một người qua đường, nhường ghế cho một cụ bà, phụ nữ mang thai, em bé… trên xe bus.

Quy luật thay đổi là tất yếu, chỉ là vấn đề thời gian, vì vậy những ai còn muốn là người Việt, còn yêu thương đất nước này, ngay từ bây giờ hãy chú trọng giáo dục nhân cách cho chính mình, cho chính con cái mình, đừng để nỗi bức xức biến chúng ta thành kẻ vô văn hóa, kẻ có thể chửi một tổng thống là thằng này, con nọ, như chúng ta từng lên án!

Nếu không nhìn lại, mình sẽ mất quá khứ và tương lai .

 Nếu không nhìn lại, mình sẽ mất quá khứ và tương lai .

 Châu Hiển Lý ( Bộ đội tập kết 1954 ).


Đã hơn 3 thập kỷ trôi qua, làm ăn cực nhọc là thế, thành tựu không thể nói là nhỏ, thế mà khoảng cách phát triển của VN so với thế giới sao vẫn xa vời! Không định thần nhìn nhận lại tất cả, không khéo chúng ta sẽ ngày càng đi sâu vào con đường đi làm thuê, đất nước có nguy cơ trở thành đất nước cho thuê với triển vọng là bãi thải công nghiệp của các quốc gia khác! Giữa lúc thế giới đang bước vào thời kỳ kinh tế trí thức!

150 năm đã trôi qua, nhưng bài học này còn nguyên vẹn. Đó là 80 năm nô lệ, 40 năm với 4 cuộc chiến tranh lớn (Pháp, Mỹ, Cam Bốt, Tàu) – trong đó 3 thế hệ liên tiếp gánh chịu những hy sinh khốc liệt, 37 năm xây dựng trong hòa bình với biết bao nhiêu lận đận, và hôm nay VN vẫn còn là một nước chậm tiến.

  •         Thảm kịch của đảng cộng sản thực ra đã bắt đầu ngay từ ngày 30-4-1975. Sự bẽ bàng còn lớn hơn vinh quang chiến thắng. Hòa bình và thống nhất đã chỉ phơi bày một miền Bắc xã hội chủ nghĩa thua kém miền Nam, xô bồ và thối nát, về mọi mặt.
     
    “Tính hơn hẳn” của chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một trò cười. Sự tồi dở của nó được phơi bày rõ rệt cùng với sự nghèo khổ cùng cực của đồng bào miền Bắc.

    Nhìn lại sau hơn nửa thế kỷ dưới chế độ CS, hàng loạt các câu hỏi được đặt ra :

    _ Năm 1954 sau khi thắng Pháp, tại sao hơn 1 triệu người Bắc phải bỏ lại nhà cửa ruộng vườn di cư vào miền Nam ?

    _ Sau năm 1975 , tại sao dân miền Nam không ồ ạt di cư ra Bắc sinh sống để được hưởng những thành quả của CNXH mà chỉ thấy hàng triệu người Bắc lũ lượt kéo nhau vào Nam lập nghiệp ?

    _ Tại sao sau khi được “giải phóng” khỏi gông cùm của Mỹ-Ngụy, hàng triệu người phải vượt biên tìm tự do trong cái chết gần kề, ngoài biển cả mênh mông ?

    _ Tại sao nhân viên trong các phái đoàn CS đi công tác thường hay trốn lại ở các nước tư bản dưới hình thức tị nạn chính trị ?


    Tất cả những thành phần nêu trên, họ muốn trốn chạy cái gì?

    _ Tại sao đàn ông? của các nước tư bản Châu á có thể đến VN để chọn vợ như người ta đi mua một món hàng?

    _ Tại sao Liên Xô và các nước Đông âu bị sụp đổ?

    _ Tại sao lại có sự cách biệt một trời một vực giữa Đông Đức và Tây Đức, giữa Nam Hàn và Bắc Hàn?

    Tại sao nước ta ngày nay phải quay trở lại với kinh tế thị trường, phải đi làm công cho các nước tư bản?

    _ Tại sao các lãnh tụ CS lại gởi con đi du học tại các nước tư bản thù nghịch?


             Hỏi tức là trả lời, người VN đã bỏ phiếu bằng chân từ bỏ một xã hội phi nhân tính. Mọi lý luận phản biện và tuyên truyền của nhà nước cộng sản đều trở thành vô nghĩa.

    Sự thực đã quá hiển nhiên nhưng đảng cộng sản không thể công khai nhìn nhận. Họ không thể nhìn nhận là đã hy sinh bốn triệu sinh mệnh trong một cuộc chiến cho một sai lầm. Nếu thế thì họ không còn tư cách gì để nắm chính quyền, ngay cả để hiện diện trong sinh hoạt quốc gia một cách bình thường.

    Nhìn nhận một sai lầm kinh khủng như vậy đòi hỏi một lòng yêu nước, một tinh thần trách nhiệm và một sự lương thiện ở mức độ quá cao đối với những người lãnh đạo cộng sản. Hơn nữa họ đã được đào tạo để chỉ biết có bài bản cộng sản, bỏ chủ nghĩa này họ chỉ là những con số không về kiến thức. Cũng phải nói là trong bản chất con người ít ai chịu từ bỏ quyền lực khi đã nắm được.

    Thế là sau cuộc cách mạng long trời lở đất với hơn ba chục năm khói lửa, máu chảy thành sông, xương cao hơn núi, Cộng Sản Hà Nội lại phải đi theo những gì trước đây họ từng hô hào phá bỏ tiêu diệt. Từ ba dòng thác cách mạng chuyên chính vô sản, hy sinh hơn bốn triệu mạng người, đi lòng dòng gần nửa thế kỷ, Cộng Sản Hà Nội lại phải rập khuôn theo mô hình tư bản để tồn tại .


     Hiện tượng “Mửa ra rồi nuốt lại” này là một cái tát vào mặt các nhà tuyên giáo trung ương.

    Cách mạng cộng sản đã đưa ra những lí tưởng tuyệt vời nhất, cao cả nhất, đã thực hiện những hành động anh hùng vô song, đồng thời cũng gieo vào lòng người những ảo tưởng bền vững nhất.

    Nhưng thực tế chuyên chính vô sản đã diễn ra vô cùng bạo liệt, tàn khốc, chà đạp man rợ lên đạo lý, văn hóa và quyền con người ở tất cả các nước cộng sản nắm chính quyền. Sự dã man quỷ quyệt mánh lới và sự bất nhân khéo che đậy của Cộng sản chưa hề thấy trong lịch sử loài người.

    Con người có thể sống trong nghèo nàn, thiếu thốn. Nhưng người ta không thể sống mà không nghĩ, không nói lên ý nghĩ của mình. Không có gì đau khổ hơn là buộc phải im lăng, không có sự đàn áp nào dã man hơn việc bắt người ta phải từ bỏ các tư tưởng của mình và “nhai lại” suy nghĩ của kẻ khác.
    Nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của một dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở thành những con rối, những kẻ mù chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo thủ giáo điều…

    Công dân của nhà nước cộng sản luôn luôn sợ hãi, luôn luôn lo lắng không biết mình có làm gì sai để khỏi phải chứng minh rằng mình không phải là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội.

    Cơ chế quyền lực cộng sản tạo ra những hình thức đàn áp tinh vi nhất và bóc lột dã man nhất. Vì vậy công dân trong các hệ thống cộng sản hiểu ngay điều gì được phép làm, còn điều gì thì không. Không phải là luật pháp mà là quan hệ bất thành văn giữa chính quyền và thần dân của nó đã trở thành “phương hướng hành động” chung cho tất cả mọi người.

    Cơ chế hiện nay đang tạo kẽ hở cho tham nhũng, vơ vét tiền của của Nhà nước. Nhưng cái mà chúng ta mất lớn nhất lại không phải là mất tiền, mất của, dù số tiền đó là hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ. Cái lớn nhất bị mất, đó là suy đồi đạo đức. Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống…


               Bác và đảng đã gần hoàn thành việc vô sản hóa và lưu manh hóa con người VN (vô sản lưu manh là lời của Lê Nin). Vô sản chuyên chính (đảng viên) thì chuyển sang làm tư bản đỏ, còn vô sản bình thường (người dân) trở thành lưu manh do thất nghiệp, nghèo đói.

    Nền kinh tế Việt Nam bây giờ chủ yếu là dựa trên việc vơ vét tài nguyên quốc gia , bán rẻ sức lao động của công nhân và nông dân cho các tập đoàn kinh tế ngoại bang, vay nước ngoài do nhà nước CS làm trung gian.

    Huyền thoại giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp do cộng sản Việt Nam dày công dàn dựng đã tan thành mây khói khi giai cấp “vô sản” âm thầm lột xác trở thành các nhà Tư bản đỏ đầy quyền lực và đô la.

    Do vậy, lý thuyết CS dần dần mất đi tính quyến rũ hoang dại. Nó trở nên trần trụi và lai căng. Tất cả điều đó đã làm cho các ĐCS trên toàn thế giới dần dần chết đi. Dù GDP có tăng lên, nhiều công trình lớn được khánh thành do vay mượn quỹ tiền tệ Quốc Tế nhưng đạo đức xã hội cạn dần. Thực tế cho thấy rằng sức mạnh không nằm ở cơ bắp. Vũ khí, cảnh sát và hơi cay chỉ là muỗi mòng giữa bầu trời rộng lớn nếu như lòng dân đã hết niềm tin vào chính quyền.

               Học thuyết về xây dựng một xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa chỉ là một loại lý tưởng hóa, nó là chiếc bánh vẽ để lừa gạt dân, không hơn không kém; đảng nói một đằng, làm một nẻo.

    Chẳng hạn đảng nói “xây dựng xã hội không có bóc lột” thì chính những đảng viên lại là những người trực tiếp tham nhũng bóc lột người ; đảng nói ” một xã hội có nền dân chủ gấp triệu lần xã hội tư bản” thì chính xã hội ta đang mất dân chủ trầm trọng; đảng nói “đảng bao gồm những người tiên phong nhất, tiên tiến nhất” nhưng thực tế thì đảng đầy rẫy những người xấu xa nhất, đó là những kẻ đục khoét tiền bạc của nhân dân.


               Sở dĩ ĐCSVN còn cố giương cao ngọn cờ XHCN đã bị thiêu rụi ở tất cả các nước sản sinh ra nó vì chúng đang còn nhờ vào miếng võ độc “vô sản chuyên chính” là… còng số 8, nhà tù và họng súng để tồn tại !

    Nhân dân đang hy vọng rằng Đảng sớm tự ý thức về tội lỗi tầy trời của mình. Đảng sẽ phải thẳng thắn sám hối từ trong sâu thẳm chứ không chỉ thay đổi bề ngoài rồi lại tiếp tục ngụy biện, chắp vá một cách trơ trẻn.
    Người dân chẳng còn một tí ti lòng tin vào bất cứ trò ma giáo nào mà chính phủ bé, chính phủ lớn, chính phủ gần, chính phủ xa đưa ra nữa. Họ nhìn vào ngôi nhà to tướng của ông chủ tịch xã, chú công an khu vực, bà thẩm phán, ông chánh án, bác hải quan, chị quản lý thị trường, kể cả các vị “đại biểu của dân” ở các cơ quan lập pháp “vừa đá bóng vừa thổi còi” mà kết luận: “Tất cả đều là lừa bịp!”

    Do đó XHCN sẽ được đánh giá như một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử VN. Con, cháu, chút, chít chúng ta nhắc lại nó như một thời kỳ… đồ đểu ! vết nhơ muôn đời của nhân loại.

    Một thời kỳ mà tâm trạng của người dân được thi sĩ cách mạng Bùi Minh Quốc tóm tắt qua 2 vần thơ :

             “Quay mặt phía nào cũng phải ghìm cơn mửa !

               Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi!”

    Chẳng lẽ tuổi thanh xuân của bao người con nước Việt dâng hiến cho cách mạng để cuối cùng phải chấp nhận một kết quả thảm thương như thế hay sao ?

    Chẳng lẽ máu của bao nhiêu người đổ xuống, vàng bạc tài sản của bao nhiêu kẻ hảo tâm đóng góp để cuối cùng tạo dựng nên một chính thể đê tiện và phi nhân như vậy?

    Tương lai nào sẽ dành cho dân tộc và đất nước Việt Nam nếu cái tốt phải nhường chỗ cho cái xấu?

    Một xã hội mà cái xấu, cái ác nghênh ngang, công khai dương dương tự đắc trong khi cái tốt, cái thiện phải lẩn tránh, phải rút vào bóng tối thì dân tộc đó không thể có tương lai!
    Một kết cục đau buồn và đổ vỡ là điều không tránh khỏi.


    Châu Hiển Lý

    (Bộ đội tập kết 1954)