Tham quan nhà tù để quan chức biết sợ mà khỏi tham nhũng?

From facebook:   Thuong Phan shared Lê Công Định‘s post.
Tham quan nhà tù để quan chức biết sợ mà khỏi tham nhũng?

Ông Đại biểu Quốc hội này có lẽ chưa đặt chân đến nhà tù bao giờ nên chưa biết một thực tế tàn nhẫn ở nước này, rằng nhà tù cộng sản chính là nơi tham nhũng bậc nhất và khốn nạn nhất, vì cán bộ quản giáo lợi dụng sự thiếu thốn tình cảm và vật chất của tù nhân để trấn lột tiền bạc của gia đình họ. Mỗi người tù là một account để cán bộ quản giáo tranh thủ kiếm tiền khi con mồi chẳng may lọt vào tay họ. Quản giáo thực sự là một nghề hái ra tiền ở xứ này mà chẳng cần tài cán gì.

Vậy tham quan nhà tù chỉ để luyện kỹ năng tham nhũng thành nghệ thuật khéo léo và tàn độc hơn mà thôi.

 

TRÍ TRÁ GIỮA NGHỊ TRƯỜNG LỪA DỐI CẢ QUỐC HỘI

From facebook:   Hoa Kim Ngo and 2 others shared Phạm Đình Trọng‘s post.
Image may contain: 2 people
Phạm Đình TrọngFollow

 

TRÍ TRÁ GIỮA NGHỊ TRƯỜNG, LỪA DỐI CẢ QUỐC HỘI

PHẠM ĐÌNH TRỌNG

Từ hơn nửa năm nay, người Việt trên cả nước và người Việt trên khắp thế giới đều biết sự thật vụ việc ở xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội sáng ngày 15.4.2017. Hai sĩ quan quân đội và viên trung tá phó trưởng công an huyện Mỹ Đức nhờ cụ Lê Đình Kình, 82 tuổi, dẫn ra cánh đồng Sênh chỉ mốc giới đất của dân Mỹ Đức. Ra đến cánh đồng, theo yêu cầu của viên sĩ quan quân đội, cụ Kình quay lại bảo mấy người dân đi theo quay về.

Chỉ còn đám võ biền và mấy cụ già đều ở tuổi ngoài 70 đi đến chỗ chiếc ô tô nhà binh đỗ đợi. Lập tức kịch bản triệt hạ thủ lĩnh, triệt hạ ý chí, linh hồn dân Đồng Tâm được triển khai. Một tên mặc đồ dân sự ôm súng từ trong ô tô nhảy ra xả loạt đạn chát chúa thị uy. Mấy ông già nông dân giật mình, sững sờ, còn đang ngơ ngác chưa biết chuyện gì xảy ra thì viên trung tá công an lao đến cụ Kình, tung cú đá làm cụ già mình hạc bay như chiếc lá khô. Thân già da cóc bị ném lên ô tô, tống giẻ vào mồm. Ô tô rồ máy lao hơn 50 cây số từ Cánh đồng Mỹ Đức đến thẳng cơ quan cảnh sát điều tra phố Thiền Quang, Hà Nội, mặc cho sự đau đớn của cụ già 82 tuổi lãnh trọn cú đá trời giáng của kẻ đã dày công luyện võ thuật trong trường công an. Cú đá làm cho hình hài còm cõi vỡ xương hông, gãy xương đùi.

Vậy mà giữa hội trường Diên Hồng của Quốc hội nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ông nghị Đào Thanh Hải, hàm cao đại tá, chức lớn phó giám đốc công an kinh kì lại ráo hoảnh đổi trắng thay đen rằng Cụ Kình bị gãy xương là do người nhà giằng co, lôi kéo!

Người dân muốn đi theo bảo vệ cụ Kình đã bị viên sĩ quan quân đội yêu cầu cụ Kình đuổi họ về. Dù họ có mặt ở đó để giằng kéo giữ lại cụ Kình vì thương yêu, bảo vệ cụ thì cũng không thể giằng kéo thô bạo gây tổn thương cho cụ được. Vỡ xương hông, gãy xương đùi phải do lực lớn giáng vào chứ không thể do lực kéo ra. Lực kéo ra chỉ có thể làm trật khớp xương. Lực kéo mà làm vỡ xương hông, gãy xương đùi thì phải xé rách cả da thịt. Nói rằng cụ Kình bị vỡ xương hông, gãy xương đùi là do người nhà giằng kéo cụ khỏi tay những kẻ bắt giữ là nói lấy được của một nhân cách, đê tiện, vô liêm sỉ. Thật mỉa mai, thật hài hước, nhân cách vô liêm sỉ đó lại là một đại biểu Quốc hội của nhà nước cộng sản Việt Nam!

Quốc hội của nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa đã có người đàn bà sảo quyệt kinh doanh lòng tin, bỏ ra 30 tỉ đồng mua danh nghị sĩ Quốc hội để tạo lòng tin cho khách hàng. Nay lại lòi thêm ra ông nghị Đào Thanh Hải đổi trắng thay đen, lừa dối Quốc hội giữa hội trường mang tên Diên Hồng lịch sử! Đó là thời đen tối nhất, nhem nhuốc nhất của chính trường Việt Nam và cũng là thời đen tối nhât, nhem nhuốc nhất của lịch sử Việt Nam.

Bạo lực với dân, nhục hình với người dân nằm trong tay công an và lừa dối dư luận đã trở thành ngón nghề nghiệp vụ mà công an nhà nước cộng sản Việt Nam thường xuyên thi thố đã gây bao oan khuất cho người dân, đã dẫn đến hàng trăm cái chết thảm thương trong đồn công an như những cái chết của những dân lành Nguyễn Công Nhựt ở Bến Cát, Bình Dương, Ngô Thanh Kiều ở Phú Yên, Nguyễn Mậu Thuận ở Đông Anh, Hà Nội, Nguyễn Hồng Đê ở Phan Rang, Phạm Ngọc Nhung ở Sài Gòn . . . , đã dẫn đến nhiều bản án tử hình oan khiên cho người dân lương thiên, như bản án tử hình cho những công dân vô tội Hàn Đức Long, Nguyễn Thanh Chấn. . . Bạo lực và nhục hình của công an nhà nước cộng sản Việt Nam mặc sức lộng hành làm cho mạng sống của người dân Việt Nam những ngày này mong manh như thân phận con giun, cái kiến.

Người đàn ông đang trẻ khỏe, là trưởng phòng quản lí sản phẩm của một doanh nghiệp nước ngoài ở khu công nghiệp Bến Cát, Bình Dương, bị công an Bến Cát đưa về trụ sở làm việc rồi chết trong đồn công an với những thương tích bầm dập khắp cơ thể. Cổ tay, lòng bàn tay và ngón tay bầm đen, từ bụng trở xuống nhiều chỗ bầm tím. Hai bên háng bị bầm xanh. Dương vật và hai tinh hoàn đều bị dập nát và chảy máu.

Cái chết mang dấu tích của những trận đòn thù gây đau đớn tột cùng đó được công an Bình Dương giải thích là do người đàn ông tự tử bằng cách lấy sợi dây sạc pin điện thoại di động treo cổ lên cửa sổ trụ sở công an! Nói rằng người đàn ông có công việc ổn định, lương khá, có vợ trẻ và gia đình hạnh phúc lại mau lẹ từ bỏ cuộc sống đầy đủ đáng mơ ước tìm đến cái chết treo cổ bằng sợi dây không chịu nổi sức căng mười kilogam lực là lời trí trá của kẻ vô liêm sỉ.

Mạng xã hội tràn ngập clip một nhóm người cao to, cơ bắp chắc nịch hung hãn dồn đánh một thanh niên mảnh mai ngay giữa đường cái quan. Người thanh niên dáng nhỏ nhắn tay khư khư ôm chiếc túi đeo bên sườn trở thành hình nộm trong phòng tập võ hứng chịu những cú đá, những nắm đấm từ những thân hình cao to uốn cong như cánh cung trong thế võ tấn công đầy uy lực phóng tới. Hình nộm sống phải nhận những cú đá, những nắm đấm thôi sơn kể: “Họ chỉ tay, chửi thề quát tháo tôi và hai đồng nghiệp khác rồi đấm đá túi bụi vào mặt và người khiến tôi không kịp đỡ, bị chảy máu miệng, bị thương vùng đầu. Họ tiếp tục dồn tôi ra giữa đường hành hung trong khi xung quanh có rất nhiều ô tô lưu thông tốc độ cao. Ngoài đồng nghiệp và người dân, còn có nhiều công an viên chứng kiến”

Cảnh hành hung man rợ của nhóm người cao to quây đánh anh thanh niên mảnh mai được nhiều nhà báo ghi hình và xác nhận là nhóm công an Đông Anh, Hà Nội đánh phóng viên của báo Tuổi Trẻ. Vậy mà công an Hà Nội vẫn trí trá giải thích với công luận rằng nhóm công an kia chỉ vung tay khi nói chuyện nhưng không may trúng má nhà báo mà thôi!

Bao che cho thói côn đồ của nhóm công an Đông Anh, lãnh đạo công an Hà Nội vừa dung dưỡng sự lộng hành bạo lực, dung dưỡng lối hành xử với dân bằng bạo lực ở thủ đô văn hiến, vừa bộc lộ nhân cách thấp kém, gian dối, trí trá của những người đứng đầu lực lượng công an thủ đô.

Đã quen trí trá đến vô liêm sỉ như vậy thì vụ việc viên trung tá công an Mỹ Đức, Hà Nội đá gãy xương đùi cụ Kình, làm cụ tàn phế suốt đời được viên phó giám độc công an Hà Nội trí trá biến báo thành xương đùi cụ Kình gãy là do người người nhà cụ Kình giằng co cũng là điều bình thường. Nhưng không thể bình thường khi sự trí trá đó diễn ra giữa nghị trường Quốc hội. Không thể bình thường khi một nghị sĩ, đại biểu của nhân dân Thủ đô đã trí trá lừa dối cả Quốc hội.

Cũng không còn là Quốc hội bình thường khi Quốc hội chấp nhận sự trí trá, lừa dối đó. Không còn xứng đáng là đại diện cho ý chí nguyện vọng của người dân khi Quốc hội dung nạp kẻ trí trá, lừa dối đó, khi kẻ trí trá lừa dối đó vẫn ung dung, ngạo mạn là nghị sĩ Quốc hội, là đại biểu của nhân dân thủ đô.

Melania Trump, Mẹ Nấm, Donald Trump và Hai Bà Trưng

From facebook: Thuc Tran‘s post.
 
No automatic alt text available.

Thuc Tran

 

Donald Trump đã dậy lịch sử VN cho bọn Ba đình đang bán nước tôn thờ chủ nghĩa phi nhân.
*************************************************************************
Melania Trump, Mẹ Nấm, Donald Trump và Hai Bà Trưng

Vũ Đông Hà (Danlambao) – Việt Nam, nơi tổ chức Hội nghị APEC 2017 và là điểm dừng chính của mọi lãnh đạo quốc gia. Quyết định không tham dự của Đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ là một quyết định chính trị. Đây là hành động tẩy chay, một phản ứng ngoại giao mạnh mẽ của bà Melania Trump đối với việc nhà cầm quyền Hà Nội đã bỏ tù blogger Mẹ Nấm – Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, người mà vào ngày 29/03/2017 Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã cùng với bà vinh danh là một trong những Phụ nữ Quốc tế Can đảm.

Thái độ của bà Trump cho thấy Mẹ Nấm – Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là một vấn đề nổi cộm (dù không được nhắc đến và công bố ra ngoài) trong những thương thảo ngoại giao Hà Nội-Washington. Việc bắt giam Mẹ Nấm; những lá thư của con gái Mẹ Nấm là Nguyễn Bảo Nguyên gửi cho bà trong nhiều tháng qua; tinh thần trách nhiệm và tình cảm đối với người phụ nữ can đảm mà bà góp phần vinh danh; danh dự và thể diện buộc bà Melania Trump phải có một hành xử cần thiết, hợp lý và có thể làm được trong phạm vi quyền hạn của một Đệ nhất phu nhân.

Trong khi đó, kết thúc Bài diễn văn tại APEC 2017, Tổng thống Donald Trump nói:

“…hàng trăm năm sau chiến thắng của chúng tôi trong cuộc Cách mạng Hoa Kỳ, chúng tôi vẫn còn nhớ những lời của John Adam – người sáng lập ra nước Mỹ và là Tổng thống thứ hai của Hoa Kỳ. Trước khi ông qua đời, người yêu nước vĩ đại này được hỏi về những suy nghĩ của ông về kỷ niệm 50 năm tự do của Mỹ. Ông trả lời: Độc lập muôn năm.

Đó là tình cảm cháy bỏng trong tim của tất cả những người yêu nước và mọi quốc gia. Quốc gia tổ chức Hội nghị là Việt Nam đã có tình cảm này không chỉ trong 200 năm, mà trong gần 2000 năm. Vào khoảng năm 40 sau Công nguyên, khi hai chị em người Việt Nam, Hai Bà Trưng, đã đánh thức tinh thần của người dân tại đất nước này. Đó là lần đầu tiên, người dân Việt Nam đã đứng lên cho nền độc lập và niềm tự hào.”

Trong những anh hùng dân tộc của Việt Nam, ông Trump đã chọn để vinh danh 2 người phụ nữ đã đứng lên vì độc lập dân tộc. Đây không phải là một ngẫu nhiên. Việc chọn lựa Hai Bà Trưng là một suy tính cẩn thận như mọi suy tính khác cho nội dung bài diễn văn của tổng thống. Đó là một thông điệp chính trị gửi đến những đầu xỏ Ba Đình đang ngồi chăm chú nghe – những kẻ đã bắt giam phụ nữ Việt Nam can đảm đứng lên tranh đấu và đánh thức tinh thần người dân Việt để bảo vệ nền độc lập của quốc gia.

Không phải ngẫu nhiên mà Bộ Ngoại giao vinh danh Mẹ Nấm – Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, một người phụ nữ Việt Nam chống lại những âm mưu xâm lược, tàn phá môi trường của Bắc Kinh.

Không phải ngẫu nhiên mà Tổng thống Hoa Kỳ kết thúc bài diễn văn bằng hai người phụ nữ Việt Nam từ 2000 năm trước đã đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm phương Bắc.

Những người phụ nữ can đảm của Việt Nam và khát vọng độc lập cháy bỏng trong tim những người ái quốc là thông điệp cho sự không có mặt của bà Melania Trump và phần kết thúc diễn văn của Tổng thống Donald Trump tại APEC 2017, Đà Nẵng, Việt Nam.

11.11.2017

Vũ Đông Hà
danlambaovn.blogspot.com

Tổng thống Trump: Phát biểu tại Hội nghị Doanh nghiệp APEC

From facebook:  Huynh Lan

 

Tổng thống Trump: Phát biểu tại Hội nghị Doanh nghiệp APEC

Nêu tinh thần Hai Bà Trưng

Vào khoảng năm 40 sau Công nguyên, Hai Bà Trưng đã đứng lên khởi nghĩa chống ngoại xâm, đánh thức niềm tin của VN. Đó cũng là lần đầu tiên các bạn đứng lên với niềm kiêu hãnh dân tộc để đấu tranh chống xâm lược.
Với sức mạnh của mình, chúng ta hoàn toàn biết mình là ai và phải làm gì cùng nhau. Chúng ta có đủ niềm tin và sức mạnh để cùng nhau đi đến những tầm cao mới. Hãy cùng nhau hướng đến tự do, thịnh vượng và tương lai rộng mở.
Thế giới rất rộng lớn, có nhiều nơi chốn và vùng đất khác nhau với rất nhiều những mơ ước của mọi người nhưng không đâu bằng quê hương. Nên chúng ta hãy xem quê hương là trên hết, bảo vệ nó cho hôm nay và mãi sau này.

Hãy chọn sự giàu có, tự do chối bỏ nghèo nàn nô lệ

Nước Mỹ, cũng như mọi dân tộc khác, muốn bảo vệ chủ quyền của mình và chúng tôi hiểu những di sản mà chúng tôi thừa hưởng chính là độc lập và tự do. Điều này khuyến khích cho chúng tôi những hy sinh, sáng tạo hiện nay. Việt Nam cũng hiểu rõ điều này. 
“Cùng chung tay, chúng ta sẽ có sức mạnh đưa người dân thế giới lên tầm cao mới. Chúng ta hãy chọn sự giàu có, tự do, chối bỏ phận nghèo nàn, tôi tớ. Có rất nhiều giấc mơ ở khu vực này. Trên thế giới không nơi nào tốt hơn gia đình mình, hãy bảo vệ quốc gia, tổ quốc của mình”

4 CÂU CHUYỆN NHỎ GIÚP BẠN THAY ĐỔI NHÂN SINH QUAN …

Đời người là thành hay bại đều phụ thuộc vào thái độ của chính mình. Bạn nhìn đời qua lăng kính nào thì sẽ cho ra màu sắc đó. Vậy hà cớ chi không chọn cho mình những sắc màu tươi sáng, trong trẻo hơn?

Những câu chuyện nhỏ dưới đây hi vọng có thể giúp bạn có được cái nhìn mới hơn, lạc quan hơn về cuộc sống của chính mình.

  1. Thay đổi lập trường, suy nghĩ

Có một người mù đến nhà bạn thân chơi. Sau khi dùng cơm tối xong xuôi, người mù chuẩn bị ra về. Lúc ấy, chủ nhà mới đưa cho anh ta một chiếc đèn pin và nói: “Trời tối không nhìn thấy đường, anh cầm cái đèn này soi đường cho sáng rồi về“.

Người mù chau mày trong giây lát rồi nói: “Anh biết rõ tôi là một người mù còn chuẩn bị đèn soi đường chẳng phải là cười nhạo tôi sao?“.

Vị chủ nhà mỉm cười, đáp: “Anh hiểu nhầm ý tôi rồi. Anh đi đường, nhiều người khác cũng đi đường. Soi đường không phải để cho anh nhìn mà để người khác trông thấy không đâm vào anh“.

Người mù bấy giờ mới ngẩn người ngộ ra.

Suy ngẫm: Cổ nhân nói, người ta đến tuổi 40 thì không còn chuyện gì làm cho mê hoặc, đến tuổi 50 thì đã biết được mệnh Trời. Khi đến tuổi trung niên, hãy suy xét vấn đề một cách trầm tĩnh hơn. Làm người chính là cần phải học cách đứng từ nhiều góc độ khác nhau mà nhìn nhận cuộc đời. Như vậy bạn vừa có thể hiểu thấu được ý tốt của người khác, lại vừa có thể tránh được phiền não trong lòng. 

  1. Biết cách sống lạc quan

Ba người công nhân đang xây một bức tường, có người đi ngang qua hỏi: “Các anh đang làm gì vậy?”

Người thứ nhất cau có trả lời: “Anh không nhìn thấy sao? Xây tường chứ làm gì nữa!“.

Người thứ hai bình thản nói: “Chúng tôi đang xây dựng một cao ốc“.

Người thứ ba mỉm cười rạng rỡ bảo: “Chúng tôi đang xây dựng một thành phố mới”. 

10 năm sau…

Người thứ nhất vẫn đang xây một bức tường khác trên công trường mới. Người thứ hai làm kỹ sư xây dựng, đang ngồi ở văn phòng thiết kế công trình. Còn người thứ ba chính là ông chủ của hai người kia.

Suy ngẫm: Một tinh thần lạc quan sẽ giúp cuộc sống bạn thực sự tươi đẹp hơn. Người càng lạc quan thì thân thể càng khỏe mạnh, tinh thần càng minh mẫn. Khi đối mặt với khó khăn, người lạc quan thường sớm tìm ra được lối thoát. Bởi vì họ nhìn đời bằng một lăng kính tích cực nên những điều may mắn cũng sẽ đến. Nguyễn Du viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” chính là có ý tứ đó. 

  1. Học cách khoan dung 

Có một cậu bé tính khí nóng nảy, hẹp hòi, thường hay cáu giận. Một hôm người cha đưa cho cậu bé một túi đinh, chiếc búa và dẫn đến chiếc bảng gỗ sau nhà. Cha cậu nói: “Sau này mỗi lần con không kiềm chế được cảm xúc hay nổi giận làm tổn thương ai, hãy đóng một chiếc đinh lên bảng“.

Ngày thứ nhất cậu đã đóng rất nhiều đinh lên bảng nhưng qua mỗi ngày số đinh trên bảng đã ít dần đi. Cậu phát hiện rằng tính khí của mình cũng ngày một tốt hơn. Cậu học được cách khống chế cảm xúc và nhận ra chuyện đó còn dễ hơn cả đóng đinh lên bảng.

Sau cùng, cho đến một ngày cậu đã không còn phải đóng chiếc đinh nào lên bảng nữa. Cậu đem sự việc kể với cha mình. Cha cậu lại nói: “Từ nay, cứ mỗi khi con làm được một việc tốt, giúp người khác vui, hãy nhổ một chiếc đinh ra“.

Ngày qua ngày, số đinh trên bảng lại không ngừng ít đi cho đến một hôm tất cả đều đã được nhổ hết. Người cha nắm lấy tay cậu bé, đứng trước chiếc bảng nói: “Con trai ngoan của cha, con đã làm được rất tốt. Nhưng con hãy nhìn những cái lỗ trên tấm bảng này mà xem! Nó vĩnh viễn không thể nào hết được. Cũng giống như khi con làm tổn thương người khác vậy, cũng sẽ để lại những vết thương không thể xóa trong lòng họ”. 

Suy ngẫm: Làm người cần phải học cách khống chế cảm xúc bản thân, ngay cả khi tức giận cũng vẫn phải biết lý lẽ một chút. Mà rốt cuộc tức giận cũng chỉ là làm tổn thương người và tự đả thương mình mà thôi, dù gì cũng đều không có lợi. Nếu có thể khoan dung, độ lượng với những sai sót của người khác, bạn sẽ cảm nhận được chính cuộc sống của mình cũng sẽ tươi đẹp hơn. Tuổi trung niên càng phải độ lượng hơn bởi lúc này bạn đã không còn cái vồn vã, xốc nổi thời thanh xuân, tâm tình đã trầm ổn, đã biết cách nhìn nhận mọi chuyện bình hòa hơn. 

  1. Thay đổi quan niệm

Có người thợ mộc đốn hạ một chiếc cây, sau đó làm ra 3 chiếc thùng gỗ. Một chiếc đựng phân, gọi là thùng phân, ai thấy cũng đều tránh xa. Một chiếc đựng nước, gọi là thùng nước, mọi người đều dùng. Một chiếc đựng rượu, gọi là thùng rượu, là thức uống của nhiều người.

Đều là một chiếc thùng nhưng chứa những thứ khác nhau sẽ có vận mệnh khác nhau, có cái bị xa lánh, ghét bỏ, có cái lại được yêu quý, luôn đặt bên mình. Chẳng phải đời người cũng vậy sao?

Suy ngẫm: Người ta mang trong mình quan niệm thế nào thì số phận cũng sẽ chiểu theo thế đó. Chớ dùng những quan niệm cũ để sống cuộc đời hiện tại. Hãy học cách thích nghi với cuộc sống mới mỗi ngày. 

From: Do Tan Hung & Kim Bang Nguyen

MUỐN LÀM THÁNH PHẢI LÀM NGƯỜI TRƯỚC ĐÃ

 MUỐN LÀM THÁNH PHẢI LÀM NGƯỜI TRƯỚC ĐÃ

Trần Mỹ Duyệt

“Muốn làm thánh phải làm người trước đã” (Th. Gioan Bosco). Qua kinh nghiệm giáo dục, và với nhiệt tâm huấn luyện, chinh phục các thanh thiếu niên bụi đời quay về với cuộc sống đời thường, và cao hơn nữa, vươn tới lý tưởng thánh, thánh Gioan Bosco đã để lại một câu nói rất thực tế, nhưng cũng rất thách đố, đòi hỏi nhiều thiện chí và nghị lực của người nghe.

Câu hỏi đối với nhiều người không chấp nhận quan điểm của thánh nhân sẽ là: “Nói vậy thì tôi không phải là người hay sao?” Và “Tại sao để làm một thánh nhân thì tôi cần phải làm một con người trước?”

Điều đó đúng nếu ta chỉ quan niệm con người là một tạo vật có thân xác, có khối óc, có tài năng, biết làm giầu, biết hưởng thụ, thành đạt, và có quyền lực. Nhưng với những đặc điểm vừa kể thực ra chưa làm nên một người; nhất là một con người “tốt”, một con người “tử tế”.  

Theo phân tâm học, con người được kết hợp rất mật thiết do ba yếu tố, gồm bản năng (Id), bản ngã (Ego) và siêu ngã (Superego). Bản năng, thôi thúc con người hành động theo những nhu cầu và đòi hỏi tự nhiên. Thí dụ, bản năng sinh tồn, mách bảo cho con người biết đói phải ăn, khát phải uống, và buồn ngủ thì phải ngủ. Trong khi bản ngã thể hiện cái tôi của mỗi người như nóng nảy, ích kỷ, quảng đại, tình cảm, hay đam mê… được quan sát thấy qua lãnh vực tâm lý. Sau cùng là siêu ngã. Từ nơi sâu thẳm và tầng cao của trí tuệ, của hiểu biết, con người biết phải ăn như thế nào, phải vui như thế nào, phải buồn như thế nào, và làm sao để sống, để suy nghĩ, để hành động đúng với tư cách, phẩm giá của một con người.

Khi ba yếu tố hay ba đặc tính căn bản ấy bổ túc cho nhau và phát triển đồng đều lúc đó con người sẽ trở thành một người. Một con người để qua đó, nó có thể trở thành người đàng hoàng, tử tế, lịch sự, biết phải trái, biết hòa đồng, biết sống chung với mọi người. Một con người tốt. Một con người mà những ai thường ngày giao tíếp, gặp gỡ đều quí mến, và cảm thấy từ nơi nó toát ra một sức hấp dẫn có thể chinh phục và cải hóa được ngay cả những cái xấu, cái bất toàn nơi họ. Những thánh nhân, những bậc quân tử, hay những người tốt đều có những sức thu hút và hấp dẫn này. 

Khác với con người bản năng, con người bản ngã với cái tôi của mình. Một cái tôi biết vui, biết buồn, biết sướng, biết khổ, biết yêu, biết ghét, biết giận hờn. Ở điểm này, hành động con người bắt đầu tách rời và không lệ thuộc vào những đòi hỏi theo bản năng tức là những hành động chỉ thuộc về loài vật. Nơi tầng cao trong sinh hoạt tự nhiên ấy, đời sống tâm lý, tình cảm được thể hiện qua nụ cười, ánh mắt, bờ môi, qua những cử chỉ âu yếm, săn đón, và nhất là biết hy sinh cho người khác. Và cũng như con người bản năng, con người siêu ngã có thể làm chủ và điều khiển được con người “tâm lý” của mình. Đây là điều mà chỉ có con người với lý trí, hiểu biết mới có và mới có thể làm được, qua những chọn lựa hành vi nhân tính một cách tự do.

Nhưng làm sao để có thể kìm hãm được bản năng, thăng hoa được tình cảm, và phát triển được lý trí, nếu nó suy nghĩ, sống và hành động như một kẻ vô thần. Và vì thế, con người bắt buộc phải tiến đến sự hiểu biết và qui hướng về một Đấng Toàn Năng. Do sự nhận thức và hiểu biết này, con người biết mình phải làm gì, và làm như thế nào dựa theo những định luật của lương tâm, của niềm tin tôn giáo. Với những suy nghĩ tâm linh này, con người mới trở nên một tạo vật vượt trên mọi thụ tạo hữu hình, “Nhân linh ư vạn vật”. 

Như vậy làm người không đơn giản, và không dễ dàng, nhất là làm người tốt, người đàng hoàng, tử tế, người đức hạnh. Vì những cái gọi là đàng hoàng, tử tế, và đạo đức ấy chính là những “nhân đức”, hay những hành động tốt được lập đi, lập lại trong nhiều hoàn cảnh khác nhau trong cuộc sống. Và đó là lý do tại sao phải “làm người” trước rồi mới “làm thánh”.

Thật ra, người đức hạnh, người đạo đức đã là một người tốt theo nghĩa tự nhiên. Họ chỉ cần siêu nhiên hóa đời sống của họ bằng một tâm tình qui hướng về Đấng Tối Cao, đồng thời vươn tới và phản chiếu tâm tình ấy qua việc đối xử nhân ái, công bằng, tôn trọng và phục vụ tốt với đồng loại. Được vậy họ chính là những thánh nhân trong cuộc đời này. Là những người rất đáng được tôn trọng dù họ không mang dáng vẻ đáng kính, nổi trội bằng những hành động lớn lao đi nữa. Theo Thánh Têrêsa Calcutta, chúng ta không có nhiều cơ hội làm những việc lớn lao, cao cả, nhưng chúng ta luôn có những cơ hội làm những việc tầm thường, nhỏ bé với tấm lòng và trái tim lớn lao, cao cả.

“Muốn làm thánh thì phải làm người trước đã”. Chúng ta ai cũng đã là người rồi, chỉ còn lại là người như thế nào. Đời sống thánh thiện không quá xa rời thực tế, không vượt quá sức con người, và cũng không phải là một lý tưởng trừu tượng. Sống thánh thiện, sống đạo đức, sống tốt lành là điều mà mọi người có thể làm được trong tin tưởng và cậy trông vào sức mạnh của Thiên Chúa, cùng với việc tận dụng tất cả những điều kiện đã có sẵn trong con người của chính mình. “Ông kia bà nọ nên thánh được tại sao tôi không được?” (Th. Augustine)

TƯỞNG NHỚ NGƯỜI ĐÃ RA ĐI

TƯỞNG NHỚ NGƯỜI ĐÃ RA ĐI

 

Khi tưởng nhớ đến người đã qúa cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn đang sống trên trần gian.  Tâm tình này đạo đức và rất tình người.  Tâm tình này cũng dẫn đưa chúng ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời sống của con người.  Mọi người đều có ngày mở mắt chào đời từ trong cung lòng mẹ đi ra, và ai cũng có ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc trong cỗ áo quan chôn vùi dưới lòng đất.           

 

Những người đã ra đi khỏi cuộc sống trần gian về thế giới bên kia và những người còn đang sống, trước sau vẫn thuộc về nhau.  Tất cả đã cùng chung sống với nhau.  Chúng ta và họ đã cùng chia sẻ cuộc sống niềm tin, cuộc sống tình người với nhau.  Họ đã ra đi, nhưng họ vẫn hằng hiện diện trong trái tim tình yêu mến của chúng ta.  Họ vẫn hằng sống động trong tâm tình biết ơn của chúng ta, cùng trong những kỷ niệm những ngày đã cùng nhau sống qua.

 

Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ tưởng nhớ đến người quá cố, chúng ta muốn nói lên: không chỉ một mình tôi làm việc này, nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng tưởng nhớ đến thân nhân của họ đã quá cố.  Vì cuộc đời ai mà không có lần đau buồn chia lìa vĩnh biệt người thân của mình đã qua đời.

 

Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, không chỉ chúng ta người còn đang sống, mà cả những người đã quá cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh cùng thông công.  Tôi tin phép tha tội.  Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại.  Tôi tin hằng sống vậy. Amen.

 

Bánh Thánh, Mình Máu Chúa Giêsu nối kết người còn sống và người đã qua đời lại với nhau trong niềm tin và tình yêu mến.  Với niềm tin và tâm tình yêu mến chúng ta hôm nay:

 

  1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ đã ra đi về cùng Thiên Chúa.  Họ là những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người khôn lớn.  Họ là những người đã không chỉ nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe.  Nhưng họ đã hy sinh suốt cả cuộc đời làm tròn nhiệm vụ làm cha mẹ được Thiên Chúa giao phó, nuôi dạy uốn nắn đời sống đức tin tinh thần đạo đức của chúng ta.  Tình yêu đó, công ơn đó xin muôn đời ghi nhớ, và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến và mang dâng lên bàn thờ Chúa.

 

  1. Tưởng nhớ đến những người thân yêu ruột thịt trong gia đình đã an giấc ngàn thu: họ là chồng hay vợ; là con cái, cháu chắt, anh chị em, cô cậu, chú bác, cô dì.  Với họ chúng ta đã cùng nhau trải qua những chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau sống những giờ phút thành công cũng như thất bại, hy vọng có, lo âu sợ sệt cũng có.  Một phần đời sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.  Ân nghĩa, tình yêu và những kỷ niệm này luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm người còn đang sống, và xin dâng lên bàn thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh giá.

 

  1. Xin tưởng nhớ đến các linh mục, những người được Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc tinh thần đạo đức cho các tín hữu trong các xứ đạo.  Sau những năm tháng âm thầm hy sinh làm việc tông đồ, họ đã trở về với Chúa.  Sự hy sinh và lòng quảng đại sống rao giảng, làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của các linh mục là ân đức của Chúa ban tặng cho con người.  Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm thấy an ủi vì có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, là người cùng đồng hành trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa.  Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ vì có Thiên Chúa ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh, và nhất là được cùng chung sống xây dựng phát triển đời sống niềm tin với mọi người tín hữu.  Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu trong lòng đất mẹ.  Những người tín hữu xưa kia đã cùng chung sống trong xứ đạo không quên ơn các cha.  Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa dâng thánh lễ, ngày nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa Giêsu nhớ đến cầu nguyện cho các cha.

 

  1. Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng các Thầy Dòng đã chọn đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Dòng, đã được Thiên Chúa gọi về đời sau.  Xưa kia các Thầy, các chị em Nữ Tu đã nghe tiếng Gọi của Chúa từ trời cao từ bỏ mọi sự có thể có, và được phép hưởng dùng, chọn nhận sống đời khiết tịnh nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung của nước Chúa và cho con người.  Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và âm thầm cầu nguyện của các Thầy, các chị em Nữ tu là nhân chứng sống động cho tình yêu Thiên Chúa giữa trần gian.  Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các thánh lễ cầu cho các Thầy, các anh chị em Nữ tu.

 

  1. Xin nhớ đến các Bạn Bè người quen thân, các vị ân nhânngày xưa đã cùng nhau trải qua những giờ phụt vui buồn, những kỷ niệm êm đẹp.  Giờ đây họ đã thành người thiên cổ.  Xin cám ơn lòng ưu ái tình người chúng ta đã trao cho nhau và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là đời sống và ơn cứu chuộc của con người chúng ta.

 

  1. Xin nhớ đến những nạn nhân đã qua đời vì thiên tai bão lụt, hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật và những người mồ côi bơ vơ không có ai nhớ đến.  Họ tất cả là con Chúa và niềm tin dạy chúng ta: Họ cũng được Thiên Chúa cứu độ.  Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ có chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.  Xin cùng với ánh nến tình thương liên đới dâng lên bàn thờ Thiên Chúa nguồn tình yêu thương lời kinh cầu nguyện cho linh hồn họ đã về nơi chín suối ngàn thu.

 

  1. Xin tưởng nhớ đến những thành viên trong Cộng đoànchúng ta đã được Thiên Chúa gọi về.  Cộng đoàn được thành lập cho chúng ta, và do chúng ta cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên từ bao năm qua.  Những hy sinh đóng góp của mỗi người trong cộng đoàn là những viên gạch xây dựng nên ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba ngôi.  Mỗi khi nhớ đến những người xưa kia đã cùng chung vai sát cánh xây dựng nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đã ra đi về với Chúa trước chúng ta, Cộng đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với lòng biết ơn và cảm phục.  Xin cùng dâng lời kinh tiếng hát hòa lẫn trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họ trước bàn thờ Thiên Chúa Ba ngôi.

 

  1. Xin nhớ đến các em hài nhi đã qua đời hay bị phá hủy sự sống ngay khi đang còn là thai nhi trong thời kỳ phát triển thành hình nơi cung lòng mẹ.  Các em thai nhi vô tội bị phá hủy hình hài sự sống là những Thiên Thần bé nhỏ của con người trước tòa Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống và lòng nhân lành.  Xin thắp những ngọn nến hồng nhỏ bé nhớ về các Thiên Thần vô tội.  Các Thiên Thần tí hon vô tội là những vị cầu bầu cho chúng ta trước ngai tòa Thiên Chúa tình yêu.

 

  1. Trước nấm mồ chúng ta muốn đọc lại sứ điệp của những người đã ra đi về đời sau nhắn gửi lại:

–  Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất, hay đã bị thiêu hủy thành tro bụi.  Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Đấng sinh thành ra tôi.

–  Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này.  Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ linh hồn tôi, và sẽ cho tôi sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.

–  Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng xi-măng cát đá.  Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi.  Vì Ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.  Và tôi tâm niệm rằng:

–   Những gì ngày xưa tôi xây dựng làm ra, giờ này tôi phải bỏ lại.

–   Những gì ngày xưa tôi thu góp tích lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được.

–   Nhưng những gì ngày xưa tôi cho đi, bây giờ tôi nhận lãnh trở lại.

 Lm Đaminh Nguyễn Ngọc Long

 From: KittyThiênKim & Kim Bang Nguyen

09/11/1956: Jean-Paul Sartre từ bỏ chủ nghĩa cộng sản

 

09/11/1956: Jean-Paul Sartre từ bỏ chủ nghĩa cộng sản

Nguồn: Sartre renounces communistsHistory.com

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Vào ngày này năm 1956, nhà triết học và nhà văn người Pháp Jean-Paul Sartre – trước đây từng là một người ngưỡng mộ Liên Xô – giờ lại lên tiếng tố cáo cả Liên Xô lẫn hệ thống cộng sản của nước này sau cuộc xâm lược tàn bạo của Liên Xô vào Hungary.

Jean-Paul Sartre, sinh ra ở Paris vào năm 1905, là một trong những đại diện hàng đầu cho chủ nghĩa hiện sinh, một phong trào triết học cổ vũ cho bản tính tự do trong sự tồn tại của cá nhân con người, đồng thời tiếc thương cho sự vô nghĩa vốn có của nó. Là tác giả của hơn 20 tiểu thuyết, kịch và luận văn triết học, Sartre đã từ chối Giải Nobel năm 1964 vì lý do một nhà văn “nên từ chối để bản thân mình bị biến thành một thể chế.” Tuy nhiên, chính Sartre đã là một thể chế: đầu tiên là như tiếng nói của chủ nghĩa hiện sinh và sau đó như lương tâm của chủ nghĩa cộng sản.

Khi còn là một sinh viên ở Paris và Berlin, Sartre bị ảnh hưởng rất nhiều bởi triết học Đức, đặc biệt là chủ nghĩa hiện sinh của Martin Heidegger và phương pháp hiện tượng học của Edmund Hussel, người đã ủng hộ một cách thận trọng, không thiên vị đối với việc mô tả ngắn gọn. Tác phẩm chính đầu tiên của Sartre là cuốn tiểu thuyết La Nausée (Nausea/Buồn Nôn, 1938), một câu chuyện về nỗi tức giận hiện sinh, viết dưới dạng nhật ký. Các công trình hiện sinh quan trọng khác của ông là Huis Clos (No Exit/Không Lối thoát, 1946) và L’Être et le néant (Being and Nothingness/Hiện hữu và Hư không, 1956).

Sau khi Thế chiến II nổ ra vào năm 1939, Sartre đã từng phục vụ trong quân đội Pháp trước khi trở thành tù binh chiến tranh từ năm 1940 đến năm 1941. Sau khi được thả ra, ông đã định cư tại Paris (khi ấy đang bị Đức chiếm đóng), nơi ông giảng dạy, sáng tác và liên kết với quân Kháng chiến Pháp. Chính trong thời kỳ chiến tranh này, chủ nghĩa Marx đã phát triển thành tình yêu trí tuệ thứ hai của Sartre. Mặc dù không bao giờ tham gia Đảng Cộng sản Pháp, ông là một trong những người cộng sản nổi tiếng nhất của Pháp, và thường xuyên lên tiếng ủng hộ Liên Xô và các chính sách của nước này. Năm 1954, ông đã đến thăm Liên Xô.

Sau khi quân đội Liên Xô xâm lược Hungary vào ngày 04/11/1956, Sartre đã lên án sự can thiệp của Liên Xô và việc Đảng Cộng sản Pháp luôn tuân theo mệnh lệnh từ Moskva. Ngày 09/11, trên tạp chí Pháp L’Express, ông tuyên bố: “Tôi cực lực lên án cuộc xâm lược của Liên Xô mà không hề có chút do dự nào. Dù không đặt bất cứ trách nhiệm nào lên người dân Nga, tôi vẫn nhấn mạnh rằng chính phủ hiện tại của họ đã phạm tội …. Và tội ác, đối với tôi, không chỉ là việc xe tăng của quân đội xâm lăng Budapest, mà là sự thật rằng điều này đã trở nên khả dĩ bởi mười hai năm khủng bố và hành động ngu xuẩn … Hiện tại hay tương lai tôi đều không thể thiết lập lại bất cứ hình thức liên lạc nào với những người hiện đang đứng đầu [Đảng Cộng sản Pháp]. Mỗi câu họ nói, mỗi hành động mà họ thực hiện đều là đỉnh điểm của 30 năm gian dối và bảo thủ.”

Mặc dù hy vọng của Sartre đối với chủ nghĩa cộng sản đã bị nghiền nát, ông vẫn tiếp tục ủng hộ chủ nghĩa Marx và tìm cách phát triển một loại chủ nghĩa xã hội mới trong cuốn Questions de méthode (Search for a Method/Tìm kiếm một Phương pháp, 1960). Sartre chính thức đoạn tuyệt với Liên Xô vào năm 1968 khi nước này đàn áp phong trào Mùa xuân Praha của Tiệp Khắc. Sau đó, sự trung thành của Sartre đã được dành cho các nhà cách mạng trẻ tuổi ở Pháp, và đôi khi ông còn trở thành biên tập viên chuyên đề cho các tờ báo nhỏ cấp tiến. Tác phẩm chính cuối cùng của ông là một nghiên cứu đồ sộ gồm bốn phần về nhà văn người Pháp sống vào thế kỷ 19, Gustave Flaubert. Jean-Paul Sartre qua đời vào năm 1980, và đám tang của ông đã có 25.000 người tham dự.

Vì sao báo chí ngại nói về nỗi đau của dân tộc mình?

From facebook:     Huỳnh Phi Long and Hai Tran shared Khanh Nguyen‘s post.
Image may contain: 1 person, child, plant, outdoor and water

Khanh Nguyen  Follow 

 Vì sao báo chí ngại nói về nỗi đau của dân tộc mình?

Bức ảnh mà bạn đang thấy, là của báo Al jazeera nói về cơn bão Damrey ở VN. Có thể nói đây bức ảnh báo chí đúng nghĩa, hiếm hoi được thấy gần đây trong bối cảnh mà hàng chục người chết, hàng trăm cây số dân cư và tài sản tan hoang. Nhưng tiếc thay, lại là bức ảnh trên một tờ báo nước ngoài.

Từ nhiều năm nay, dường như có một mệnh lệnh bí ẩn nào đó khiến hình ảnh và tin tức về các thảm nạn ở VN rất “chừng mực”, giảm nhẹ ngôn ngữ diễn đạt. Không phải báo chí VN bất tài, mà cần đặt một câu hỏi rằng điều gì đã kìm hãm các khả năng đó chặt chẽ một cách có hệ thống.

Những bài báo nhanh và không ngại chi tiết, những phóng sự ảnh sống động không né tránh từng có ở VN, mỗi ngày ít dần, nhạt dần. Sự dấn thân cho ý nghĩa cao quý của nghề báo trở nên hiếm hoi. Có phải chủ trương đó để phục vụ cho một bức tranh Việt Nam luôn bình yên và hạnh phúc?

Phải nhờ vào facebook và những status công dân, mà dân chúng mới kịp nhìn thấy, nghe thấy một cách sống động về những gì diễn ra trên đất nước mình. Sự thật được nhân dân chia sẻ. Nhưng sự thật cũng bị phong kín, nhỏ giọt bởi chính các hệ thống truyền thông mang mác nhà nước.

Bức ảnh này nhắc tôi về giá trị cao quý của nghề báo. Và bức ảnh cũng nhắc tôi về một khoảng trống quá lớn mà báo chí VN hôm nay đang tạo ra, trước những ngồn ngộn hiện thực sống động trên đất nước này.

(Ảnh báo Al jazeera có được, của tác giả Nguyễn Huy Khâm)