Khổng Tử giảng: “Vua quan mất tín thì nước suy vong”. Vậy “tín” là gì? Người xưa “tín” như thế nào?

Khổng Tử giảng: “Vua quan mất tín thì nước suy vong”. Vậy “tín” là gì? Người xưa “tín” như thế nào?

Trong quan niệm truyền thống, Đạo gia giảng làm người phải “chân”, cuối cùng tu thành chân nhân. Phật gia cũng dạy con người không được nói dối. Nho gia giảng “tín”, lời một khi nói ra phải có sự thủy chung trước sau như một.

 

 

 

 

 

 

 

 

(Hình minh họa: Qua caroki.com)

Vậy thế nào là “tín”? Vì sao con người phải có “tín”? Và người xưa coi trọng “tín” như thế nào?

Thế nào là “tín”?

Xét theo chữ Hán thì “Tín” (信) là chữ Hội ý. Nó được cấu tạo bởi chữ “Nhân” (人) và chữ “Ngôn” (言). Ý nghĩa nguyên gốc của chữ “Tín” là thật lòng thật ý, trước sau như một, không thay đổi. Lời nói của con người phải là thành thật, trung thực, không hư hão, giả dối.

“Ngôn” ((言) là chữ Chỉ sự (một trong 6 cách tạo chữ Hán). Trong thể chữ Giáp Cốt, bên dưới của chữ “Ngôn” là hình cái lưỡi, biểu thị rằng lời nói là theo lưỡi mà xuất ra.

Trong “Thuyết văn giải tự” viết: “Trực ngôn viết ngôn, luận nan viết ngữ”, ý nói rằng trong tâm mà nghĩ cái gì thì trực tiếp nói rõ ra, như thế mới được gọi là ngôn. Còn những lời suy luận, biện luận, chất vấn… thì được gọi là “ngữ”.

Trong “Pháp ngôn nghĩa sơ” viết: “Ngôn, tâm thanh dã”, tức lời là tiếng nói của tâm. Nếu một người “nghĩ một đằng nói một nẻo”, nói lời giả dối thì khẳng định là sẽ không có uy tín.

Trong “Thi. Vệ phong. Manh” cũng viết: “Tín thệ đán đán” (lời thề son sắt). Thời cổ đại, người ta một khi nói ra lời thề quyết sẽ giữ lời, nên mới có câu “lời nói gói vàng”.

Vì sao con người phải có “tín”?

 

 

 

 

 

 

 

(Hình minh họa: Qua kknews.cc)

“Tín” không chỉ là thước đo của tu dưỡng mà còn là tiêu chuẩn của chính nhân quân tử, là nguyên tắc xử thế cần phải có của người cổ đại. Người có thể thủ tín thì mới được người khác kính trọng.

Khổng Tử đem “Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín” làm ngũ thường (năm đạo thường của con người lúc nào cũng phải có, không thể thiếu được). Trong đó, giữa người với người nhất định phải có “thành tín”. Đây cũng là một trong những đạo đức tốt đẹp của con người.

Khổng Tử giảng: “Nhân nhi vô tín, bất tri kì khả”, ý nói người mà không có “tín” thì không làm nổi việc gì. Đối với một cá nhân “tín” quan trọng như vậy, còn đạo lý cai trị đất nước thực ra cũng tương tự như thế.

Học trò của Khổng Tử là Tử Cống từng hỏi rằng: “Thưa thầy, thầy chỉ giáo cho con về biện pháp trị quốc”.

Khổng Tử nói: “Một là làm cho dân chúng được cơm no áo ấm. Hai là đất nước có quân đội cường mạnh. Ba là lấy được tín nhiệm của thần dân”.

Tử Cống hỏi: “Thưa thầy! Nếu bất đắc dĩ phải bỏ đi một điều kiện trong ấy, thì nên bỏ điều kiện nào trước ạ?”

Khổng Tử nói: “Xóa bỏ quân đội!”

Tử Cống lại hỏi: “Thưa thầy! Nếu như phải bỏ thêm một điều kiện nữa…?”

Khổng Tử trả lời: “Bỏ đi ăn no mặc ấm. Thà rằng không được ‘ăn no mặc ấm’, chứ nhất định phải bảo trì chữ tín. Bởi vì, nếu không được dân chúng tín nhiệm thì đất nước sớm hay muộn cũng sẽ tiêu vong.”

Bởi vậy, có thể nói “tín” là cái gốc để lập thân, lập nước. Người mất “tín” thì không làm nổi việc gì, dân chúng mất “tín” vào người cai trị thì đất nước suy vong.

Người xưa “tín” như thế nào?

 

 

 

 

 

 

 

 

(Hình minh họa: Qua kknews.cc)

Có một câu chuyện nổi tiếng về giữ chữ tín trong lịch sử như thế này:

Quý Trát tên thật là Cơ Trát, là con út của vua Ngô vương Thọ Mộng, là người mà Khổng Tử ngưỡng mộ nhất.

Năm 544 trước Công nguyên, Quý Trát phụng mệnh triều đình đi viếng thăm nước Lỗ. Ông có mang theo một đoàn tùy tùng và xuất phát từ thủ phủ của nước Ngô. Lúc họ đến nước Từ, chứng kiến cảnh dân chúng an cư lạc nghiệp, cuộc sống giàu có thì trong lòng họ rất ngưỡng mộ.

Quý Trát nói: “Vua nước Từ trước nay nổi tiếng là dùng nhân nghĩa đối đãi với dân chúng, hôm nay được chứng kiến điều này, quả là danh bất hư truyền!”

Vì thế, Quý Trát liền nảy sinh ý muốn tới thăm hỏi vua nước Từ một chút để bày tỏ lòng ngưỡng mộ của mình. Vua nước Từ sớm đã được nghe danh tiếng về tài đức của Quý Trát. Hôm nay lại đặc biệt được Quý Trát ghé thăm nên trong lòng ông rất vui mừng phấn khởi. Ông vội vàng sai tôi tớ tổ chức yến tiệc để chiêu đãi. Hai người họ nói chuyện thật vui vẻ. Vua nước Từ rất thích thanh bảo kiếm mà Quý Trát đeo trên người, mấy lần ông muốn nói nhưng lại không tiện mở miệng.

Quý Trát là người thông minh nên chỉ liếc mắt đã hiểu thấu lòng vua nước Từ. Trong lòng Quý Trát cũng muốn tặng lại thanh bảo kiếm cho vua nước Từ. Nhưng đột nhiên ông lại nghĩ: “Mình mang theo bảo kiếm đi sứ nước khác, là một sự tôn trọng lại càng là lễ tiết. Nếu bây giờ đem bảo kiếm tặng lại cho vua nước Từ thì chẳng phải là bất kính với vua nước Lỗ sao?” Nghĩ như vậy nên Quý Trát đã từ bỏ ý nghĩ tặng bảo kiếm cho vua nước Từ. Nhưng ông cũng đã tự hứa hẹn với lòng mình rằng: “Đợi lúc đi nước Lỗ trở về, nhất định ta sẽ tặng lại thanh bảo kiếm này cho vua nước Từ.”

Từ biệt vua nước Từ, Quý Trát lại dẫn đoàn người hướng về nước Lỗ. Sau khi tới nước Lỗ, ông cũng được quốc vương nước Lỗ nhiệt tình đón tiếp và chiêu đãi. Quý Trát cũng dựa vào tài hoa và trí tuệ của mình khiến cho người dân nước Lỗ bội phục và yêu kính.

Sau khi nán lại ở nước Lỗ hơn một năm, Quý Trát bắt đầu trở về nước. Ông cũng không quên lời hứa tặng thanh bảo kiếm cho vua Từ mà ông đã giữ trong lòng hơn một năm qua. Lúc đi ngang qua biên giới nước Từ, ông quyết định vào thăm vua Từ để thực hiện lời hứa của mình. Nhưng, khi đến nơi ông lại nhận được một tin tức bất hạnh, đó là vua nước Từ đã tạ thế.

Lúc này, Quý Trát cảm thấy vô cùng hối hận và đau khổ. Ông cởi thanh bảo kiếm ra và tặng lại cho người kế thừa của vua Từ. Đoàn người tùy tùng đi theo ông vội ngăn cản và nói: “Thanh bảo kiếm là quốc bảo của nước Ngô. Sao ngài có thể tùy tiện đem tặng cho người khác? Huống hồ bây giờ vua Từ cũng đã qua đời, thì cần gì phải tặng cho người thừa kế?”

Quý Trát nghe mọi người nói vậy liền trả lời: “Lần trước trong lúc nói chuyện cùng với vua Từ, ta không tặng bảo kiếm cho ngài là vì ta còn phải có nhiệm vụ đi sứ nước Lỗ. Nhưng trong lòng ta sớm đã hứa sẽ tặng nó cho vua Từ rồi. Đã hứa rồi, sao có thể vì vua Từ đã mất mà lừa gạt lương tâm của mình đây? Hơn nữa, ta là công tử và sứ giả mà lại không coi trọng chữ tín. Nếu như điều này truyền đi thì đâu còn mặt mũi nào mà đối mặt với mọi người? Người khác sẽ nhìn chúng ta như thế nào?”

Lúc ấy, người kế thừa của vua Từ cũng từ chối không nhận mà nói: “Ta không có di mệnh của người đã mất, nên không dám tiếp nhận thanh bảo kiếm này.”

Thế là, Quý Trát liền đem thanh bảo kiếm treo trên cây liễu trước mộ của vua Từ. Hành động này của ông khiến thần dân nước Từ ai ai cũng ngợi ca. Họ còn sáng tác một ca khúc để ca tụng về ông. Cũng từ đó câu chuyện “Quý Trát treo kiếm” được lưu truyền cho đến nay như một bài học về giữ chữ tín của người xưa.

An Hòa

PHẢI HIỂU NGƯỢC!

From:   Ngô Trường An‘s post.
 
Image may contain: 1 person, eyeglasses and text
Ngô Trường AnFollow

 

PHẢI HIỂU NGƯỢC!

Diêm Vương đi tuần quanh địa phủ, thấy 2 đứa bé gái ôm nhau khóc lóc thảm thiết, Ngài vội lại gần tra hỏi:
– Các cháu kia, có chuyện gì oan ức mà khóc tức tưởi như thế? Nào, con bé này, nói ta nghe.
– Dạ con bị họ hiếp dâm, vì quá uất ức nên con tự tử chết ạ.
– Úi chà! Khổ thân cháu! Thế còn cháu kia, cháu cũng tự tử à?
– Dạ không ạ, con bị họ hiếp dâm xong rồi giết luôn ạ.
– Thế con được mấy tuổi rồi?
– Dạ 7 tuổi ạ.
– Ối ,Thiên la địa võng ơi! Mới 7 tuổi mà bị hiếp dâm à?
Qủy sứ đứng bên vòng tay thưa:
– Dạ bẩm ngài! 7 tuổi là lớn rồi đó ạ. Con nghe nói trên đó các cháu 1-2 tuổi cũng bị hiếp dâm nhiều lắm ạ.
– Hừm! Sao ta nghe ông quan nào trên đó nói: «Không đâu chăm lo mầm non tốt như nước ta?»
– Dạ, nếu ngài nghi ngờ thì con xin đọc bài báo TN ra ngày 26.7.2017 đây ạ: « trong 5 năm từ 2012-2016 cả nước có 8100 vụ xâm hại trẻ em, trong đó có hàng trăm trẻ em dưới 6 tuổi. Và riêng 6 tháng đầu năm 2017 đã xảy ra 805 vụ xâm hại trẻ em. Bình quân 2 ngày thì có 9 vụ xâm hại tình dục trẻ em».
Đây chỉ mới nói về xâm hại tình dục chứ chưa thống kê về bạo hành đâu ạ.
– Bạo hành là sao?
– Dạ, đó là đánh đập, tra tấn, bỏ đói, bóp cổ, nhận nước, xát ớt vô miệng….. Nhiều kiểu lắm. Nếu ngài muốn hiểu rõ hơn thì hỏi các bảo mẫu giữ trẻ đấy ạ.
– Quái! Xâm hại, bạo hành như rươi thế sao tên quan đó nói chăm lo tốt là sao?
– Dạ, bọn quan lại trên đó từ thằng nhỏ đến thằng to. Chúng nó nói cái gì thì ngài chỉ cần hiểu ngược lại là đúng thôi ạ.
– À! Thì ra là vậy!

Nói ra sợ mất lòng em,

Suy Tư Tin Mừng tuần thứ 3 mùa Vọng năm B 17/12/2017

Tin Mừng (Mc 1: 1-8)

 Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa:

Trong sách ngôn sứ Isaya có chép rằng: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con. Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.”

Đúng theo lời đó, ông Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện trong hoang địa, rao giảng kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Mọi người từ khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan.

Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Ông rao giảng rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi đã làm phép rửa cho anh em bằng nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần.”

Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi người Do-thái từ Giêrusalem cử một số tư tế và mấy thầy Lêvi đến hỏi ông: “Ông là ai?” Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Đấng Kitô.” Họ lại hỏi ông: “Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Êlia không? ” Ông nói: “Không phải.” – “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” Ông đáp: “Không.” Họ liền nói với ông: “Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lời cho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?” Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói.24 Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pharisêu. Họ hỏi ông: “Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Kitô, cũng không phải là ông Êlia hay vị ngôn sứ?” Ông Gioan trả lời: “Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người.” Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên kia sông Giođan, nơi ông Gio-an làm phép rửa.

&   &    &

“Nói ra sợ mất lòng em,”

“Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa.”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

Nhà thơ vì sợ mất lòng, nên không nói. Vì có nói ra, thì lòng mình nay cũng mất. Nhà Đạo tuy có lòng nhưng không sợ mất. Có sợ chăng, chỉ sợ mất tính chân phương, lành thánh rất đích thật, Tin Mừng theo thánh Gioan nay nói về tính chân phuơng chốn quê mùa, của Gioan Tẩy Giả. Gioan Tẩy Giả rất thánh, ngoài tính đơn sơ chân thật của đấng bậc ở quê làng/đồng nội còn là nhân chứng cho công trình Nhập thể của Chúa, nữa.

Tin Mừng thánh Gioan viết, ngoài tính chất thấy rất rõ ở lời tựa, còn là bài chia sẻ/giảng dạy ở đền thờ để người người dựa vào đó mà suy tư các bài đọc ở Cựu Ước. Thoạt khi mới đọc, người người tưởng như nghe lại truyện kể rất xưa/cũ nay áp dụng vào với thời đại mình sống, với dụng đích để ta, người đọc kinh ngạc rồi thức tỉnh và hiểu biết việc Chúa làm. Tin Mừng còn kể về trình tự sáng tạo trời đất để dẫn giải ý nghĩa rất căn nguyên của bản văn súc tích, chất đầy nhựa sống.

Dẫn giải Kinh Sách Cựu Ước về công trình sáng tạo trời đất, thánh sử Gioan ghi lại đoạn sách Châm Ngôn coi Đức Khôn Ngoan như người thành thân và thành nhân. Văn phong đoạn sách về Đức Khôn Ngoan ra như có trước Đạo của người Do thái. Bởi, Sách này xuất tự thế giới Do thái, có những điều được xác định:“Đức Chúa dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Ngài, trước mọi công trình của Ngài từ ngàn xưa”(Cn 8: 22). Thêm vào đó, sách Châm Ngôn nói Đức Khôn Ngoan hiện diện với con người bằng khẳng định: “Đức Khôn Ngoan xuất hiện trên trái đất và lưu lại ở với con người”.

            Cũng nên hiểu, Đức Khôn Ngoan đến với thế giới gian trần trước thời Chúa tới. Nhưng, vẫn không được đón nhận dù Đức Khôn Ngoan là Ánh sáng cho muôn dân. Thế nên, Ngôi Lời Nhập Thể là cách Chúa dùng vào việc chỉnh sửa vấn đề này. Đây là tính độc đáo của Tin Mứng theo thánh Gioan.

Thật ra, thánh sử Gioan mượn ý và lời về Đức Khôn Ngoan là từ các học giả Do thái để nói rằng thánh sử không tạo ra Đức Khôn Ngoan hoặc Ngôi Lời Nhập Thể, mà thánh sử chỉ tạo nên tính độc đáo cho Tin Mừng mình đã viết, qua khẳng định:“Lời đã thành xác phàm và lưu lại nơi chúng tôi” (Ga 1: 14)

Giáo huấn của Đạo khởi sự ngay từ đây. Thánh sử Gioan lại quả quyết: Đức-Khôn-Ngoan-Ngôi-Lời đã từ trời nhập thể với Đức Giêsu. Từ đó, trở thành ánh sáng rất huy hoàng, làm Bậc Thày Dạy Nhân Hiền về thời ấu thơ của Chúa đến với nhân trần. Với thánh sử, đây là lý do khiến Chúa thành phàm nhân, rất Khôn Ngoan.

Khi xưa, Môsê là bậc thày cao cả của Do thái. Ông giảng dạy cho chúng nhân bằng Luật Torah. Còn, Đức Giêsu hoàn thành sứ vụ của Môsê bằng xương thịt Ngài qua mầu nhiệm nhập thể và nhập thế. Luật Torah chỉ cần đến bậc giảng dạy tốt lành, thôi. Còn, Ngôi Lời Nhập Thể là Bậc Thày Đích Thật chuyên giảng và dạy về công trình Cứu Độ của Chúa bằng xương thịt cùng máu mủ của Người Con Chúa. Qua Môsê, Chúa dùng bản Luật Torah, để người người hiểu được Ngài. Và qua Đức Giêsu, Ngài gửi đến dân gian chất giọng Ngài nhập thể nơi xác phàm và miệng của Chúa.

Ngôi Lời Nhập Thể là Vị Thầy Dạy rất tốt lành. Là, Đấng Giảng Dạy thành tựu hơn cả lời lẽ, với chữ viết. Ngài là sự Khôn Ngoan có kiến thức rất sách vở nhờ công trình Nhập Thể nay thành hiện thực. Chính Đức-Khôn-Ngoan-bằng-xương- bằng-thịt nay tạo nên sự khôn ngoan cho chúng nhân có thịt cùng xương máu ngõ hầu tỏ bày ý nghĩa để người người hiểu, bằng vào phạm trù của chính mình.

Nhờ thế, dân con Đạo Chúa mới xác tín được điều này và rồi sẽ cùng thân mình Chúa đề ra nhiều điều mới mẻ để người người ở xã hội có thể trở thành người thật. Tất cả tin rằng tính chất rất “người” của con người nay trở thành nôi ấm tình nồng để Chúa Nhập Thể và nhập thế. Và nhờ đó, họ sẽ tin: sự sống mới đến với nhân gian loài người, nhờ Đức Giêsu tái lập và định hình những gì liên quan đến bản thể người của con người.

            Đức Giêsu Nhập Thể, là Khởi Đầu rất khác biệt của nhân loại nay nhân rộng, ngõ hầu họ làm được những gì mà trước đó người trần không thể làm. Sự Sống của Ngài là Khởi đầu. Là, Quà tặng. Là, sự Thành Tựu cho mọi thành tựu. Tổng trấn Philatô khi dẫn Đức Giêsu trình diện dân Do thái ông đã có câu nói để đời: “Này là Người!”. Câu này phải hiểu: điều ông nói mang ý nghĩa một khẳng địnhNày là nhân loại đổi mớiLà nhân sinh rất mới, của con người!”      

            Nhờ Nhập Thể, ta có được sự thân mật cần thiết chưa từng có giữa Thiên Chúa và loài người. Nhờ Nhập Thể, người người đã mở rộng đất cho sự sống mới để dân con nhờ đó mà sống sinh động. Nhờ Nhập Thể, Thiên Chúa đối xử với con người như Người Cha Nhân Hiền. Và nhờ đó, tất cả chúng ta được sáng tạo theo cung cách “sống ở nhà”, nghĩa là: cung cách của con trẻ “ở với cha mẹ” theo nghĩa Chúa Giêsu vẫn từng làm với Cha Ngài. Và theo nghĩa Thiên Chúa “ở tại nhà” với Đức Giêsu.

Kết quả là, nhân loại nay có được sự tự do để sống với Chúa. Thứ tự do chưa ai tưởng tượng nổi, hoặc nghĩ ra. Tự do, vì mình sẽ không còn hãi sợ điều gì. Tự do, vì mình có thể tin vào ai đó, cũng tự do. Và, kết quả là: ta có sự tự do sờ chạm, chữa lành và tha thứ cho nhau như Đức Giêsu đã hiện thực cho Cha bằng cách ra khỏi bản chất rất Thiên Chúa của Ngài, để đến với con người hầu Ngài sẽ sờ chạm, chữa lành và tha thứ cho mọi người, ở trần thế.

Sống và làm thế, cũng rất nguy. Nguy, là bởi ta tin vào nhiệm tích Chúa Nhập Thể và nhập thể giống như Chúa. Tức, sống cuộc sống mà hệ thống chính trị và tôn giáo ở đời không thể hiểu được tại sao ta lại sống như thế. Và, hệ thống ở đời đã và đang tìm cách trừ khử những ai quyết sống nhập thể và nhập thế, giống như ta. Sống nhập thể và nhập thế, là tạo sự kinh ngạc lớn. Kinh ngạc, là: nó không giúp ta thích nghi với qui ước do người đời thiết lập. Sống hiện thực theo cung cách nhập thể, buộc ta phải xét lại xem mình là ai. Mình đã làm gì để Chúa có thể Nhập thể và nhập thế vào nơi ta mà sờ chạm chính con người của ta. Có như thế, ta mới có thể sờ chạm Ngài, bởi Ngài đã nhập thể và nhập thế làm người như ta và với ta bằng xương bằng thịt.

Không ai có thể tạo sự thật vĩnh cửu được như thế. Cũng chẳng ai tạo được công thức toán học mới mẻ như thế, để mà sống. Nhưng, ta là cộng đoàn có Chúa-ở-cùng-và-ở-với bằng công việc Ngài từng làm và sẽ làm sau cái chết và sống lại hiển vinh, là khoảnh khắc quyết định mọi sự nay khác trước. Khác, như một tạo thành rất mới mẻ. Khác, vì ta được tạo dựng bằng xương bằng thịt nơi Ngài và qua Ngài. Khác, để ta có thể sống cho nhau, vì nhau mà sống với Chúa. Và, cho Chúa.

Hội thánh không là hệ thống tư tưởng đơn điệu, có sẵn hoặc dễ tiêu hoá. Ngay cả ý tưởng về Đức Giêsu Nhập Thể cũng như thế. Như thế, do bởi Hội thánh chính là thực thể qua đó người người có thể bám víu vào mà nhìn sự việc theo chiều hướng khác hẳn về Thiên Chúa. Và, về nhân loại. Tuy nhiên, vấn đề còn tuỳ thuộc cung cách ta mong muốn và dự tính sẽ sống ra sao. Tuỳ cung cách mà người người vẫn sống và cứ sống. Sống, không cần biết là thế giới ta chung đụng sẽ lớn rộng như thế nào. Và, tất cả sẽ tuỳ thuộc tính nghiêm túc mà con dân trần thế được Chúa chấp nhận, ngang qua việc Ngài nhập thể và nhập thế.

Phụng vụ Hội thánh chọn Tin Mừng hôm nay tập trung vào chuyện thánh Gioan Tẩy giả như chứng nhân từng sống đời nhập thể và nhập thế với mọi người. Chính vì thấy được tính dịu hiền và ân huệ đích thực nơi bản thể “người” của Đức Giêsu mà thánh Gioan Tẩy giả đã thành nhân chứng cho Chúa, Đấng chấp nhận thân phận làm người, để sống với con người. Thánh Gioan Tẩy giả từng sống như Ông Già Tuyết trên mức tuyệt vời, hơn cả Ông Già Tóc Trắng rất Noel, từng chứng tỏ cho mọi người thấy ai là Đấng đến để ở với ta, vào lễ hội rất “Emmanuel” này.

Trong tâm tình cùng Chúa và với Chúa sống đời nhập thể và nhập thế, ta hân hoan tưởng nhớ lời thơ chân quê, để vui hát:

                        “Hoa chanh nở giữa vườn chanh,

                        Thầy u mình với chúng mình chân quê.

                        Hôm qua em đi tỉnh về,

                        Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều.”

                        (Nguyễn Bính – Chân Quê)

Nhập thể và nhập thế rất hôm nay, là nhập vào tính chân quê với thầy u thương mến rất Nước Trời. Ở nơi đó, có Chúa-ở-cùng con người. Có người anh/người chị ở Hội Thánh Nước Trời, đã cùng mình sống tính chân quê hiền hoà, rất thánh hoá. Hôm nay và tương lai mai ngày.          

 Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –  

Mai Tá lược dịch.

Ngày ấy em như hoa sen,

Hạnh phúc lang thang…. tiếng hát Ngọc Lan

httpv://www.youtube.com/watch?v=KWRn9mVWG3U 

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 3 mùa Vọng năm B 17/12/2017

                                            “Ngày ấy em như hoa sen,”

“mang nhiều giáng hiền những khi chiều lên
Ngày ấy em như sương trong,

nép trên bông hồng, mượt trên cánh nhung.”

(Anh Bằng/Trần Ngọc Sơn – Hạnh Phúc Lang Thang)

 (Công vụ 1: 6-8)

Giả như ta chuyển ý bài hát ở trên sang thành tư-tưởng của nhà Đạo, thì sẽ thấy câu tiếp diễn tả rất như sau:

“Ngày ấy em như cung tơ,

cho đời thẫn thờ, cho tôi dệt mơ
Đường khuya tay đan ngón tay,

ước cho đời ước mơ dài.

Nhưng năm tháng vô tình, mà lòng người cũng vô tình,

rồi màu úa thay màu xanh
Người yêu xa bến mộng, đò xưa đã sang sông,

giòng đời trôi mênh mông.
Dáng xưa nay xa rồi, đường khuya mưa rơi rơi.
Phố xưa quên một người, bàn chân gieo đơn côi.
Gió mang theo cơn lạnh, về rót lệ trên môi.

Ngày ấy yêu em say mê, tôi nào nghĩ gì đến câu từ ly.
Tình ái không xanh như thơ, đến chung hơi thở,

rồi trôi rất xa
Hạnh phúc lang thang như mây, cho hồn héo gầy,

khi ta còn đây
Từng đêm qua trong giấc mơ,

vẫn mong chờ có em về.

(Anh Bằng/Trần Ngọc Sơn – bđd)

Nói theo kiểu nhà Đạo hôm nay, thì bần đạo đây lại nghĩ thế này: từ lâu lắm, bần đạo cứ giữ đạo theo kiểu con trẻ. Tức là: đem nguyên si những gì mình suy nghĩ về Đạo đi vào cuộc sống rất thời thượng, mà chẳng lý gì đến thời thượng/thời hạ gì ráo trọi.

Nói xa nói gần chi bằng ta cứ nói thiệt, rằng: xưa và nay, người nhà Đạo mình giống như bần đạo bầy tôi đây, lúc nào cũng suy tính tình trạng đi Đạo theo số lượng, mà thôi. Cứ xét theo con số như thế, ắt hẳn tôi và bạn sẽ lấy làm ngạc nhiên khi đọc giòng chảy thống-kê ghi ở tuần báo Đạo Sydney, như sau:

“Khảo sát/nghiên-cứu mới về cuộc sống của Giáo-hội Công-giáo Úc vừa qua cho thấy: đang có sự gia-tăng đáng kể về số lượng cư-dân đa văn-hoá, nữ-giới có học-lực cao so với dân-cư bình-thường ở các quận/huyện trên toàn nước Úc.

Khảo-sát trên cho thấy: 43% người Công giáo tham-dự Tiệc Thánh là những những người đến từ nước ngoài. Thống-kê năm 2006 cho biết con số những người này gồm 34% tổng dân-số ở Úc. Và, tính bình-quân thì 37% số người đến từ các nước không thường-xuyên nói tiếng Anh. Con số nói trên lại cao hơn số người dân Úc tính theo trung-bình; và có khoảng 22% số người có quốc-tịch Úc đều sinh hạ tại các nước không nói tiếng Anh.

5 năm một lần, chính-phủ Úc thực-hiện thống-kê trên toàn quốc và thực-hiện khảo-sát với nhiều giáo-phái khác nhau, trong đó có: Công-giáo, Anh-giáo và Thệ-Phản ngõ hầu lập nên bức tranh cho thấy con số những người còn đi nhà thờ dự lễ.

Tuần qua, sở Thông-kê Úc có đưa ra kết quả khảo-sát thực-hiện vào năm 2016. Kết quả cho thấy rõ: số người Công-giáo hiện còn hành Đạo trên khắp nước. Tổng số 30% người Công giáo Úc nói hai thứ tiếng khác nhau tại nhà, là: tiếng Anh và tiếng nước ngoài. Bản khảo sát, còn cho thấy: chỉ 3% số người được hỏi, trả-lời là: họ nói chỉ một thứ tiếng không phải là Anh-ngữ tại nhà, mà thôi.              

Người thực-hiện cuộc khảo sát ở đây, là Ts Ruth Powell có cho biết: tổng số những người thuộc tầng-lớp sắc-tộc đa-văn-hoá vẫn đi nhà thờ ở Úc nay gia-tăng đáng kể, dù các giáo-phái ở đây gồm toàn tín-hữu không nói tiếng Anh chưa diễn-tả hết sự thật trong khảo sát.

Ts Powell còn cho biết: “So với nước khác, Úc có tỷ-lệ giáo-xứ đa văn-hoá, cũng rất cao. Trong khi đó, số phụ-nữ đi nhà thờ dự Tiệc Thánh thường đông hơn nam-giới, với tỷ-lệ là 62% trên tổng số giáo-dân. Con số này, không làm Tiến sĩ Powell ngạc-nhiên chút nào, do có sự thể là: “nữ-giới vẫn tiếp-tục là những người mộ-đạo hơn ai hết. Đó là chuyện lâu nay ai cũng thấy rõ so với các tôn-giáo khác nhau trên thế-giới.

Nhiều giả-thuyết cho thấy lý do của sự-kiện này, là do nhiều yếu-tố can-dự. Tuy nhiên, nhiều chứng cớ lại cũng cho thấy: hầu hết đều do yếu-tố xã-hội và văn-hoá mà ra, như: truyền-thống tôn-giáo và nơi làm việc là những yếu-tố có vai-trò quan-trọng, trong chuyện này.

Ngoài ra, hầu hết người Công giáo đi nhà thờ dự lễ thường là các vị cao-niên, chứ không phải giới trẻ. Đặc biệt hơn, các vị ở vào độ tuổi từ 50 đến 69, là những người hay đi lễ thường xuyên nhất (tức: 36% số người dự lễ trên tổng-thể); trong khi đó, giới trẻ ở độ tuổi 15-29 là nhóm người ít đi lễ nhất, có tỷ lệ chỉ gồm 9%, thôi.

Mức-độ học-thức rõ ràng chiếm ưu-thế hơn, so với người Úc bình thường với tỷ-lệ 36% số người đi lễ, so với tỷ lệ 26% dân số trên toàn nước Úc. Khảo-sát trên, còn cho thấy 45% người đi lễ đều là những người có công ăn việc làm, chỉ mỗi 8% số người nói trên, là những người suốt ngày lo nội trợ ở nhà và 14% là số người cao niên đã hưu trí.

Có được con số trên, người thực-hiện thống-kê phải bỏ ra mất hơn một năm trời mới hội đủ. Thống kê 2016 ở Úc cho biết: chỉ độ 250,000 người đi nhà thờ chịu điền đơn khảo-sát trên toàn nước Úc, tức: hơn 3,000 nhà thờ địa-phương thuộc 20 giáo-phái khác nhau. Để kết luận, Khảo-sát trên được lập là cho cá-nhân địa-phận và tổng-giáo-phận, trong các tuần vừa qua, mà thôi.” (Xem Genevieve Conway, Catholic stats reveal much, The Catholic Weekly 18/11/2017 tr. 2)

Thống kê về số người đi Đạo, chắc cũng không nói nhiều về thái-độ hoặc quan-niệm của người thời nay về nhiều thứ. Chí ít là chuyện danh xưng/tên gọi các đấng bậc của người mình. Một vấn-đề mà ít người dám đề-cập, vì sợ “đụng hàng”. Tuy nhiên, có đấng bậc nọ ắt vẫn còn trẻ, nên mới dám dám đặt vấn đề sau đây:

“Sáng sớm mùa Đông ở Canada, tuyết vẫn còn phủ trắng cao đến mắt cá chân, trên lối đi. Bà Catherine, bà bếp Cha Sở bước chầm chậm và cẩn thận quay về nhà xứ sau Thánh Lễ buổi sáng. Vừa đặt chân lên bậc thềm nhà xứ, thấy tôi đang quét tuyết, bà vui vẻ chào tôi và bảo:”

-Peter, mang cây chổi quét tuyết tới đây!”

Tôi tươi cười tiến đến gần bà với cây chổi quét tuyết đu đưa trên tay, chưa đón ra ý bà muốn nhờ tôi chuyện gì. Bà Catherine tự nhiên kéo váy đầm cao lên một chút và chìa đôi giày bám đầy tuyết, thản nhiên bảo tôi:

-Lấy chổi phủi giùm tuyết bám giày, để tôi đi vào không làm dơ thảm nhà xứ!”

Nụ cười vụt tắt trên môi. Tôi không nghĩ là mình không hiểu tiếng Anh. Rõ ràng quá mà: Lấy chổi phủi sạch tuyết bám giày bà đầm Catherine. Tôi cúi mặt chần chừ. Bà Catherine vẫn giữ cao váy đầm, giơ đôi giày bám đầy tuyết, thúc giục:

-Phủi giùm mau đi để tôi còn kịp vào chuẩn-bị cà-phê sáng cho Đức Ông Robert!”

Im lặng và cẩn thận, tôi cầm chổi, nhẹ nhàng phủi tuyết bám giày bà Catherine, từng chiếc một. Bà cười mãn nguyện, cám ơn tôi và nhanh nhẹn đẩy cửa bước vào nhà xứ.

Cửa chính nhà xứ đóng ‘rầm’ một tiếng, chận đứng ánh mắt buồn của tôi đang dõi theo bà Catherine. Tôi xấu hổ, cúi xuống đưa mắt nhìn lại chính mình, lần dò xuống tận chân. Dù khoác chiếc áo Mùa Đông để ra ngoài trời quét tuyết, nhưng bên trong tôi vẫn đàng-hoàng nghiêm-túc với tu-phục của linh mục, nghĩa là: vẫn áo sơ-mi dài tay màu đen, cổ côn trắng hẳn-hoi, quần đen ủi thẳng nếp, giày da mùa Đông loại đắt tiền cổ cao, có đế dày.

Tôi học và chịu chức linh-mục ở Canada, với dáng vẻ phong-thái lịch-lãm không kém người da trắng. Nếu hoàn-cảnh đất nước cho phép, tôi về lại quê nhà, chắc sẽ được đánh-giá cao, không thua các linh-mục được du-học ngày xưa. Tôi nghĩ vậy.

Cái nhục “phủi tuyết bám giày bà đầm” len vào trong máu, bốc cao tận đỉnh đầu. Ném chổi quét tuyết trả lại góc tường nhà xứ. Lặng lẽ, tôi trở lại phòng làm việc, đóng cửa khá mạnh tay, để toàn thân rơi phịch nặng-nề trên chiếc ghế bành làm việc. Tại sao bà Catherine không gọi tôi là CHA? Vì tôi mới làm linh-mục và còn làm phó cho Đức Ông Robert chăng? Tại sao bà Catherine dám bảo một linh-mục phủi tuyết bám giày bà? Bà là bà đầm da trắng, còn tôi là tên tóc đen, da vàng đến từ một nước nghèo chăng? Da màu phải phục-vụ da trắng hay người nghèo phải phủi tuyết bám giày người giàu chăng? Nhiều câu hỏi tương-tự quanh đi quẩn lại trong tôi.

Cái nhục của một linh-mục đã phải phủi tuyết bám giày bà đầm được tô đậm nét. Lòng tự-ái dân-tộc, niềm tự-hào nòi-giống rực lửa trong tôi. Tôi mạnh dạn, hung-hăng đứng lên, định đi tìm bà Catherine và Đức Ông Robert để làm lớn chuyện, cho ra lẽ. Bà Catherine phải xin lỗi tôi về chuyện đã không gọi tôi là Cha và dám bảo một ông Cha phủi tuyết bám giày bà. Gọi một linh mục bằng tên, thiếu lòng đạo-đức rõ-ràng. Bảo một linh-mục phủi tuyết bám giày, thiếu lòng kính-trọng chức thánh không thể chối cãi.

Cái đứng dậy quyết-liệt, cái vung tay tức-giận làm văng cây Thánh Giá trên bàn làm việc xuống sàn nhà. Ảnh Chúa Chuộc tội từ lâu vẫn đứng vô-tri trên bàn làm việc, ngay trước mặt tôi, rất kề-cận, nhưng nhiều khi tôi đã không thấy, hay thấy như một thứ trang-trí tôn-giáo cần-thiết trong phòng làm việc của một linh-mục.

Tôi bước đến, chậm rãi cúi nhặt ảnh Thánh Giá lên. Chúa nằm úp mặt trên sàn thảm, một cánh tay gảy lìa thân. Chúa trông thảm-hại hơn bình-thường. Cánh tay gãy lìa còn toòng teng nhờ đinh đóng chặt. Im-lặng nhìn Thánh Giá, cố ráp cánh tay gãy của tượng Chúa vào thân, đặt trở lại trên bàn làm việc.

Tôi quay lại ghế ngồi, ánh mắt vẫn không rời Thánh Giá. Tủi-nhục và thảm-hại của Thánh Giá làm cái tủi-nhục phủi tuyết bám giày bà đầm lắng xuống dần. Ý-nghĩa về chức linh-mục của Chúa Giêsu dâng cao, lấn chiếm tôi.

Ánh mắt vẫn không rời tượng Chúa Giêsu chết treo trên Thánh Giá. Ngài là Linh-Mục Thượng-Tế, đang giang tay tế-lễ trên Thánh Giá. Chính Ngài lập Bí-Tích Truyền Chức Thánh để thông-ban cho tôi chức linh-mục của Ngài. Không ai gọi Ngài là CHA cả, nhưng gọi là Chúa và là Thầy (Gioan 13:13).

Vậy tiếng CHA dùng để gọi các linh-mục, tiếng ĐỨC CHA dành để gọi các Giám-Mục, tiếng ĐỨC THÁNH CHA dùng để gọi Giáo-Hoàng La Mã đến từ đâu? Không đến trực-tiếp từ Chúa. Chính Chúa đã có lần dạy các Tông-Đồ là ‘đừng tôn xưng ai dưới đất là Cha, vì chúng con chỉ một Cha duy-nhất trên trời” (Matt. 23:9).

Nói thế, Chúa không có ý chỉ-thị rõ ràng rằng ‘đừng gọi các linh-mục Công-Giáo là Cha’ như người Tin-Lành suy-diễn nhằm chỉ-trích linh-mục Công-Giáo. Chúa đã khiển-trách môn-đệ mình vì chuyện ‘tranh chức’ đòi làm lớn, ngồi chỗ nhất giống như người Biệt-Phái và dạy họ rằng “Ai muốn làm lớn phải làm đầy tớ anh em mình.” (Matt.20:24-27), cũng như đừng bao giờ tự tôn mình lên ngang hàng với Chúa, vì chúng ta chỉ có một Chúa, người Cha duy-nhất trên Trời.

Tiếng “CHA” dành cho linh-mục, “ĐỨC CHA” dành cho Giám-Mục hay ĐỨC THÁNH CHA, dành cho Giáo-Hoàng được xử-dụng trên toàn thế-giới, đến từ truyền-thống của Giáo-Hội nhằm tỏ lòng kính-trọng và ngưỡng-mộ những người có chức thánh linh-mục. Từ việc tin Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế, là Linh-Mục Thượng-Tế, Kitô-hữu đem lòng mộ mến, kính-trọng Linh-mục, Giám-Mục và Giáo Hoàng. Họ được coi như những người thông-phần với chức Linh-Mục của Chúa Kitô, như những người hy-sinh và hiến-tế đời mình cho phần rỗi nhân-loại.

Phaolô nói khá nhiều về chức linh-mục thượng-phẩm của Chúa Kitô (Thư Do Thái 4: 14- 5: 1-10) cũng như về vai-trò trung-gian giữa Trời và Đất đã ảnh-hưởng sâu-đậm nơi những kẻ tin. Người tin Chúa Kitô được dạy để đồng-hoá linh-mục với Chúa Kitô. Linh-mục là hiện-thân của Chúa Kitô, là một Chúa Kitô khác, là người CHA tinh thần, người CHA chăm sóc phần hồn cho các tín hữu, người tái sinh chúng ta qua bí tích rửa tội.

Cũng rất có thể nó đến từ cách xưng-hô kính-trọng dành cho những bô lão, những bậc đứng tuổi, đáng kính trong Giáo-Hội thời sơ-khai. Từ “Presbyteroi”, nguyên-ngữ Hy-Lạp có nghĩa là người đứng tuổi, bậc đáng kính, được dùng để chỉ linh-mục ngay từ buổi đầu.

Bà Catherine thiếu lòng kính trọng thánh chức linh mục vì đã không gọi tôi, một linh mục là CHA. Tôi thấy mình thiếu lý-chứng để kết-án bà. Người Tây Phương đặt tên để gọi. Họ thích được gọi đích danh. Một linh mục biết nhiều tên của nhiều người và gọi đúng tên, bất luận già trẻ lớn bé, sẽ được giáo-dân quí mến đặc biệt. Khi được gọi đúng tên, người Tây Phương cảm thấy mình thực sự được quan-tâm. Người Á Đông, đặc biệt Việt Nam mình, đặt tên để tránh gọi tên hay đặt tên để giấu tên. Gọi tên ‘cúng cơm’ một người lớn, chuyện bất kính, không thể chấp nhận được.

Người mình thường xưng-hô bằng ngôi thứ: Bác Ba, Cô Chín, Cậu Út thay cho tên. Trong những xứ đạo người Bắc, chủ-tịch Hội Đồng Giáo Xứ được gọi là Ông Chánh hay Chánh Trương. Giáo lý viên dạy kinh bổn được gọi là Bà Quản hay Quản Giáo. Người xướng kinh trong nhà thờ được gọi là Ông Trùm. Người chăm sóc việc nhà thờ, nhà Cha được gọi là Ông Bõ.

Việc tránh gọi tên đi đến kết quả: không còn ai biết tên thật của nhau. Cách nào đó đã thiếu quan tâm đến cá nhân, đến hữu thể mà chỉ chú trọng đến ngôi thứ, chức vụ hay địa vị là cái tùy thể, tháp gắn vào hữu-thể.

Năm 1974 tôi biết rõ một thiếu tá quận trưởng mất chức vì dám gọi vị Giám Mục Công Giáo là “Ông Đạo”. Ai cũng cho là đáng đời, vì làm tới quận trưởng mà không biết gọi Giám Mục là Đức Cha. Cũng là những kết án không hợp lý và bất lợi: Một quận trưởng không Công Giáo, làm sao biết được cách xưng hô kiểu Công Giáo? Người ngoài Công Giáo và nếu chịu ảnh hưởng Khổng Giáo chút ít, khó có thể gọi một ai khác ngoài cha đẻ của họ ở nhà là cha. Vị quận trưởng bị cất chức nầy có nhận ra lỗi “ăn nói vô đạo” của mình không?

Không! Ông ta đâu có lỗi để nhận ra. Nhưng trên thực tế, ông ta đã nhận một bất công. Gánh chịu bất công dễ đưa lòng người tới oán hận. Phải thú nhận rằng trong quá khứ, chúng ta, do hoàn cảnh đưa đẩy, đã sống theo kiểu “làm cha thiên hạ” hay “lấy thịt đè người”.

Chúng ta đòi người khác cho cái mà họ không có và không buộc phải cho. Chúng ta nghĩ thế nào, dễ hay khó, tự nhiên hay bất thường khi nghe một cụ già bảy mươi tuổi, trong tiếp xúc xã giao thường ngày, gọi một linh mục trẻ mới ba mươi tuổi là cha và xưng là con?

Bà Catherine đã gần bảy mươi tuổi, sấp xỉ tuổi mẹ tôi ở quê nhà. Chưa một lần xác định bằng lời, nhưng xem chừng bà thay Mẹ tôi chăm sóc cho tôi trong mấy tháng qua: Bà nấu cơm cho tôi, giặt giũ cho tôi, bà pha chế những món ăn hoà hợp giữa khẩu vị Tây-Ta cho tôi vừa miệng.

Bà hay dò hỏi xem Mẹ tôi làm gì cho tôi khi tôi đau ốm hay khi tôi buồn. Bà nhắc tôi đi ngủ sớm và dâng thánh lễ chậm rải, sốt sắng. Bà thương chỉ bảo cho tôi phát âm từng chữ tiếng Anh cho đúng giọng và chính xác. Bà cũng hay nhờ tôi khuân vác hay di chuyển những vật nặng trong nhà xứ giống như Mẹ tôi ở nhà vậy.

Chuyện bà gọi tôi bằng tên cũng là chuyện tự nhiên như Mẹ gọi con. Có bà mẹ nào, trong sinh hoạt thường nhật, gọi con mình làm linh mục là cha bao giờ? Chuyện bà nhờ tôi phủi tuyết bám giày sáng nay, trong trí bà, có thể không như chuyện giáo dân nhờ linh mục, nhưng là chuyện mẹ nhờ con. Thật đơn giản!

Hơn bao giờ hết, tôi thấy mình thật cận kề với Chúa Giêsu chịu đóng đinh đang đặt trước mặt tôi, trên bàn làm việc. Chúa Kitô, linh mục thượng phẩm, đang giang tay, hiến tế chính thân mình trên Thánh Giá. Tôi, một linh mục, một Chúa Kitô khác, tôi giang tay dâng lễ hàng ngày trên bàn thờ. Tay giang, nhưng không dâng hiến, không ban phát, không cho đi, nhưng đòi hỏi: đòi được kính trọng đặc biệt, đòi được gọi bằng CHA mới thoả lòng. Tôi làm linh mục, một Chúa Kitô khác, nhưng đôi khi tôi thật khác Đức Kitô: Chúa Kitô, đến để phục vụ, còn tôi, tôi sôi máu tức giận khi phải phục vụ.

Tôi đứng lên, tìm bà Catherine trò chuyện. Bà đang ở nhà bếp chuẩn bị cơm trưa. Tôi vui vẻ đến gần hỏi xem bà có cần tôi giúp chuyện chi không. Bà Catherine vui vẻ nhờ tôi chuẩn bị Salad và cà chua. Tôi vừa làm giúp bà vừa hát nho nhỏ trong miệng. Bà Catherine đến gần, ngọt giọng bảo tôi: “Peter, you look so happy today!” Lại cũng Peter suông! Nhưng tôi lại yêu nó. Tôi mỉm cười đắc ý trả lời: “Yes, Mom, I deeply realize that I am a priest forever!”

Chữ “linh mục” tôi nhấn mạnh và kéo dài. Suốt năm tháng qua, từ ngày chịu chức, tôi đã làm CHA và buồn vì không được gọi là Cha. Hôm nay, tôi mới thực sự làm linh mục, làm người được chia sẻ chức linh mục với Chúa Kitô, Đấng đến giang tay tế chính thân mình cho phần rỗi của những người con.

Bà Catherine ơi! Cám ơn bà thật nhiều! Bà đã không kêu tôi bằng Cha, nhưng bằng tên và đã nhờ tôi phủi tuyết bám giày bà. Bà không thật sự thiếu lòng kính trọng tôi, hay coi thường chức linh mục trong tôi. Nhưng bà cho tôi cơ hội nếm và sống ý nghĩa chức linh mục.

 Linh mục, kẻ giang tay để tế lễ, để dâng hiến, để cho đi, để ban phát và phục vụ như một Đức Kitô khác. Bà thật sự giúp tôi khước từ ước vọng làm CHA hay thích được gọi là CHA theo ý nghĩa muốn được nâng cấp, mang tính ích kỷ thu gom của mình.

 Linh mục, người Cha tinh thần hay cha linh hồn, người sinh cho Chúa nhiều con cái qua bí tích Rửa Tội, nhưng nhiều khi được gọi CHA làm tôi dễ thấy mình cao cả và quên đi vai trò hy sinh, giang tay cứu độ mà Đức Kitô, Linh Mục Thượng phẩm đã chọn gọi tơi để thi hành.” (Lm. Phêrô Trần).

“Giang tay cứu độ”, còn là động thái của Đức Chúa, Đấng từng có lời khẳng-định như sau:

“Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó

hỏi Người rằng:

“Thưa Thầy,

có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?”

Người đáp:

“Anh em không cần biết thời giờ

và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt,

nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần

khi Ngài ngự xuống trên anh em.

Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy

tại Giêrusalem,

trong khắp các miền Giuđê, Samari

và cho đến tận cùng trái đất.”

(Cv 1: 6-8)

Dĩ nhiên, không cần nói ai cũng thừa hiểu rằng “Chiếc áo dòng không làm nên thày tu”, danh xưng/tên gọi không nói hết được thực-chất của câu chuyện mình muốn nói, nhiều hơn thế.

Hôm nay đây, bần đạo bầy tôi cũng muốn “nói nhiều hơn thế”, nhưng “lực bất tòng tâm”, nay tuổi già sức yếu, không còn khả-năng để nói nhiều, nói mãi, nói dài dài những điều khô-khan, chẳng nên nói.

Quyết thế rồi, nay xin nhắn nhủ bạn và tôi, ta kết thúc bài phiếm “loạn” lai ra ba sợi ở đây, cho đỡ rách việc.

 Trần Ngọc Mười Hai

Và những quyết tâm không đơn giản

khó hiện thực.

Những ước mơ Mỹ và lời chia sẻ từ cô bạn việt Kiều

Những ước mơ Mỹ và lời chia sẻ từ cô bạn việt Kiều

  

 

Tôi đã định cư Mỹ hơn 20 năm. Với khoảng thời gian như vậy, tôi muốn viết vài dòng chia sẻ cho các bạn dựa vào kinh nghiệm của bản thân tôi. Tôi viết có chữ đôi khi bị sai chính tả thì mong các bạn thông cảm cho. Điều mà tôi muốn chia sẻ là về những sự thật về những người việt Kiều bên Mỹ về cuộc sống, cuộc việc hay gia đình, lối sống…

Có câu này mà tôi thấy rất đúng. Ỡ Mỹ, người ta đi làm rất hăng say để trả tiền nhà, bảo hiểm, ăn uống và các thứ sinh hoạt khác. Nhiều người khác thì dành hầu hết thời gian rãnh cũng chỉ để làm việc kiếm thêm tiền. Vì có nhiều cơ sở mở cửa 24 giờ mỗi ngày, ví dụ như chợ Walmart, McDonald, etc. Đa số người Việt Nam đều mua cho mình một căn nhà bằng cách trả góp. Có nghĩa là mình có thể trả trước từ 3% cho đến 99%, sau đó hàng tháng mình trả cho ngân hàng, cho đến 15 hay 30 năm. Những khoản phí cho tiền ăn uống và bảo hiểm thì không là bao. Hơn nữa, tôi cũng nói thêm, nếu bạn nào có ý định định cư tại Mỹ thì khi qua đây bạn nên mua bảo hiểm vì tiền nhà thương bên đây rất đắt đỏ.

Giáo Dục và Đại Học

Ở Mỹ thì học sinh được miễn giảm hoàn toàn tiền học phí từ năm học mẫu giáo đến năm lớp 12. Học sinh chỉ tốn chi phí cho các khoản ăn uống hằng ngày, trường hợp học sinh nghèo thì nhà trường sẽ miễn phí luôn tiền ăn uống, còn ngoài ra thì không còn tốn thêm bất cứ khoản phí nào. Cũng có nhiều cha mẹ tự đưa con cái đi học. Hoặc có thể đi xe bus, xe bus sẽ lại 1 khu tập trung rất gần nhà của mỗi học sinh và chở đến trường và đưa về ngay chỗ cũ. Vài tháng thì trường sẽ cho học sinh đi tìm thực tế(field trip) để quan sát những gì mà chúng đã học trong trường 1 cách thực tế và trung thực nhất, ví dụ như đi tham quan viện bảo tàng, tòa bạch ốc, các nông trại, etc. Học sinh kém môn nào thì sẽ được giáo viên kèm thêm môn đó. Ngoài ra, bên Mỹ không có dạy thêm như ở Việt Nam.

Và khi lên đến bậc đại học, nếu không có tiền trang trải việc học thì học sinh có thể vay của chính phủ với lãi suất rất thấp. Và khi học xong thì có thể đi làm và trả sau.

Công Việc Làm Và Thu Nhập

Tùy thuộc và những tiểu bang khác nhau mà lương của bạn kiếm được cũng sẽ khác nhau. Nơi có mức sống thấp thì đồng tiền kiếm ra ít. Thống kê trong năm 2010 cho thấy 3 tiểu bang có người Việt Kiều định cư nhiều nhất là California($8.00), Washington ($9.04) và Texas($7.25). Có nghĩa là nếu bạn định cư Mỹ hay rõ hơn là có ý định sinh sống ở bang Cali thì dù công việc thấp thế nào đi chăng nữa,thì công ty cũng phải trả cho bạn $8.00 đô la mỗi giờ làm việc. Vì đây là mức lương tối thiểu do chính phủ đã quy định. Và mỗi năm chính phủ sẽ tăng mức lương cho phù hợp với sự thay đổi chi phí mỗi năm.

Và một sinh viên khi ra trường thì cũng tùy vào khả năng của ngừoi đó mà có thể có mức lương khác nhau. Trung bình vào năm 2012, mức lương của kế toán khoãng $40,000 1 năm($3,500 mỗi tháng) va lập trình viên là khoãng $50,000 1 năm($4,200 mổi tháng). Mổi năm, nhân viên dược tăng khoãng 2 đến 10%.

Chi tiêu cuộc sống (cost of living)

Ở Mỹ thì giá cả rất đắt đỏ, một tô phở lớn tốn khoảng $8.00, mỗi bữa ăn trong tiệm đồ ăn nhanh (McDonald, Bugerking, etc) tốn khoảng $5 (60 ngàn đồng). Nếu thuê nhà để sống thì mỗi tháng phải trả khoảng từ $750 đến $2,000 (1 triệu 600 ngàn đến 4 triệu 200 ngàn đồng) tùy thuộc vào loại nhà nào. Nhà Vila thì mắc hơn nhà Townhouse hay căn hộ chung cư. Nhà kiểu Vila thì có 3 hay 4 phòng và 2 hay 3 phòng, vừa đủ cho một gia đình có 2 hay 3 con. Có nhiều người độc thân thì họ thuê phòng để tiết kiệm, mỗi tháng chỉ trả khoảng $400 (8 triệu 400 ngàn đồng).

Ví dụ như một người đi cắt cỏ mướn, mỗi ngày chủ trả 2 triệu, nếu làm 30 ngày trong tháng thì kiếm được 60 triệu đồng VN. Với khoảng tiền này thì người đó phải chi ra rất nhiều khoản phí tiền ăn, tiền nhà, bảo hiểm, và các thứ khác. Theo tôi nghĩ thì trung bình, mỗi tháng, một người phải trả 50% số lương của mình cho mọi thứ tiêu xài. Ví dụ như anh làm cắt cỏ này dư khoảng 30 triệu mỗi tháng. Có nghỉa là anh ta chi tiêu 30 triệu mổi tháng. Cho nên khi định cư ở Mỹ hay sống ở đây người ta rất sợ thất nghiệp vì chi tiêu quá nhiều. Người VN chúng ta có một điễm hay là biết dành dụm và tiết kiệm, đề phòng nhừng lúc thất nghiệp.

Đây là giá cả ở California. Có một số tiểu bang Mỹ giá cả rất rẻ, khoảng chừng phân nữa hay 1/3 chi tiêu tại Cali thôi, như Georgia, Texas, Florida, etc.

Cuộc sống và sinh hoạt

Bên Mỹ thì sẽ là cơ hội tốt cho những ai có nghị lực có ước mơ hoài bão muốn vươn lên trong cuộc sống. Ở đây người ta cạnh tranh rất công bằng, bạn có tài ở lĩnh vực nào thì sẽ đều có cơ hội phát triển bản thân hoặc được đề cử.

Khi đi xin việc làm, bạn có thể lên các website hay đọc trong báo tìm việc làm. Các công việc chân tay như làm cu li thì bạn cũng cần điền đơn và nộp cho người quản lý, nếu đơn của bạn làm cho người kiểm duyệt thích thú vì hội đủ điều kiện, thì họ sẻ gọi cho bạn để đi phỏng vấn. Nếu người ta không gọi cho bạn, thì bạn cũng có thể gọi cho họ và hỏi xem. Nhưng bạn không cần phải đến nơi đó để gặp người quản lý, vì có thể họ sẽ không tiếp bạn đâu.

Còn đối với những gia đình có con nhỏ thì họ gửi nhà trẻ hoặc thuê người về trông coi con của họ. Đến tối khi họ đi làm về thì họ đón con. Nhưng có ít người muốn làm công việc này vì lương không cao, hoặc chỉ những người yêu thích con nít thì họ mới làm. Và đây không phải là Osin phải làm việc nhà, nấu ăn, dọn dẹp, mà người giữ trẻ chỉ giữ con cái và cho con cái của quí vị ăn uống thôi. Trường hợp có một số người tốt thì họ có thể nấu ăn giúp bạn luôn

Hơn nữa, bên Mỹ thì bạn tuyệt đối không được BẠO LỰC trong gia đình hay ngoài xã hội. Nếu bạn đánh chồng, đánh vợ, hay đánh con cái của bạn, thì cảnh sát sẽ bắt bạn. Cho dù bạn đi làm hay đang ở trong gia đình thì đều không được sử dụng bạo lực. Phong tục người Vietnam chúng ta hay đánh con cái để dạy cho chúng, nhưng khi bạn định cư ở Mỹ này thì họ không cho phép làm như thế.

Không dùng bạo lực, đặc biệt là với trẻ em

Cuộc sống bên Mỹ nói chung thì người ta rất bình đẳng. Họ không phân biệt giàu nghèo giống Việt nam. Nhưng nói thật với các bạn bên này cuộc sống rất cơ cực, bạn phải làm việc rất vất vả. Nếu có ý định định cư Mỹ thì bạn hãy suy nghĩ thật kĩ nhé. Hơn nữa, có một điều nữa là rất khó quí vị có thể nhận biết ai giàu và ai nghèo vì mọi người đều ăn mặt bảnh toản và lái xe hơi láng bóng. Làn da thì ai cũng trắng trẻo và sạch sẽ vì họ sống trong thời tiết lạnh và trong nhà thì luôn có máy điều hòa.

Theo visahoaki       

CHÂN DUNG “KẺ XÂM LƯỢC”

 Mac Văn Trang‘s post.
 
 
Image may contain: 1 person, hat

Mac Văn Trang

 

Lịch sử thật trớ trêu nhưng công bằng. Thì ra giá trị của “Bên thắng cuộc” là sau chiến thắng họ đem lại gì cho Nhân dân?

CHÂN DUNG “KẺ XÂM LƯỢC”
(Copy 03/08/2017anle20)
Tướng MacArthur.
Bùi Đức Thịnh

MacArthur đến Nhật vơi đôi bàn tay đẫm máu người Nhật. Khi MacArthur rời Nhật về Mỹ, từ nơi dinh phủ ông ở đến Sân bay Atsugi có hàng triệu người Nhật đứng hai bên đường đưa tiễn. Đoàn xe hộ tống đi qua những hàng nước mắt cùng tiếng hô vang dậy của người dân Nhật: Đại nguyên soái! MacArthur được người Nhật vinh danh là 1 trong 12 danh nhân nước Nhật mọi thời đại.

Bị đánh bom nguyên tử, vì sao người Nhật lại cúi đầu kính trọng tướng Mỹ?

Năm 1942 tướng MacArthur dẫn đại quân tấn công Nhật Bản, từ Melbourne đánh thẳng đến Tokyo, hai tay nhuộm máu người Nhật Bản. Vì thế người Nhật hận ông thấu xương.

Chiều ngày 30/8/1945, tướng quân MacArthur ra khỏi máy bay và đặt chân lên đất Nhật, cho dù ông không mặc quân phục và không mang theo vũ khí gì, cũng không có người tổ chức duyệt binh, nhưng thời khắc đó với 70 triệu người Nhật Bản là thời khắc kinh hoàng mà họ không thể quên, trong tâm trí mọi người chỉ còn nghĩ được hai chữ “mất nước”.

Nhưng tướng MacArthur mang quân đến hòa bình, chính nghĩa, khoan dung và dân chủ.

Nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh rơi vào suy sụp, đến bữa trưa của Nghị viên Quốc hội cũng phải ăn cơm trộn khoai lang, cái đói bao phủ khắp nơi. Lúc này tướng MacArthur gây áp lực khiến chính phủ Mỹ phải hỗ trợ Nhật Bản, thế là 3,5 triệu tấn lương thực và 2 tỷ Mỹ kim tức tốc được gửi đến Nhật. Ông không chỉ giữ lại chính quyền Nhật Bản mà còn đặc xá cho Thiên hoàng, thậm chí còn quan tâm đến số phận của từng người lính bình thường của Nhật Bản, giúp họ tìm con đường sống.

Theo sau ông, 400 nghìn lính Mỹ đã dùng thiện ý và tinh thần hy sinh để chinh phục người Nhật Bản. Khi đó các con hẻm trong thành phố của Nhật rất chật hẹp, một người Nhật bình thường và một người lính Mỹ to lớn nếu gặp nhau cũng khó để đi qua, vì thế thường thì người lính Mỹ sẽ nép vào một bên cho người Nhật đi trước. Người Nhật không thể không băn khoăn tự hỏi, nếu mình là kẻ chiến thắng thì có làm được như thế không?

Sau khi tướng MacArthur đến Nhật Bản, ông lập tức ra lệnh thả tội phạm chính trị, trong đó có rất nhiều Đảng viên Cộng sản, bị chính phủ Nhật bắt giam trong thời gian dài.

Ngày 25/8/1945, quân chiếm đóng của Mỹ cho phép phụ nữ Nhật thiết lập tổ chức của mình; tháng 9 cho công bố Dự luật về vai trò trong bầu cử của phụ nữ Nhật Bản; đây là lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản, phụ nữ được quyền bầu cử và ứng cử.

Lúc này tại Tokyo có cô kỹ nữ được chọn làm Nghị viên thành phố, nhiều thị dân cảm thấy khó chấp nhận. Nhưng tướng MacArthur nói, mọi người chọn cô ấy để cô ấy phục vụ mọi người, đừng vì cô ấy là kỹ nữ mà kỳ thị bỏ qua. Khi đó mọi người chợt hiểu người được chọn trong bầu cử dân chủ phải là người thay mặt để vì mình làm việc, thế là sau khi hiểu ý nghĩa vấn đề họ đã quyết định chọn bầu cô kỹ nữ kia. Kết quả sau khi trở thành Nghị viên, cô đã không phụ lòng mọi người, làm được rất nhiều việc có ý nghĩa.

Vào ngày 11/10/1945, tướng MacArthur tuyên bố bỏ lệnh cấm báo chí, Nhật Bản được tự do thông tin và tự do ngôn luận.

Ngày 22/12/1945, ban hành “Luật Công hội”, giai cấp công nhân thực sự có tổ chức của mình. Ngày 1/9/1947, ban hành “Luật lao động”, quy định tiêu chuẩn tiền lương thấp nhất và thời gian làm việc nhiều nhất.

Ngày 3/2/1946, tướng MacArthur chỉ thị cho Tổng bộ Liên minh khởi thảo Hiến pháp Nhật Bản. Chính phủ Mỹ truyền đạt nguyên tắc chế định Hiến pháp cho tướng MacArthur là: Chính phủ Nhật Bản phải do toàn thể cử tri trao quyền và phải chịu trách nhiệm trước toàn thể cử tri. Ngày 3/5, quân liên minh giao ra Bản dự thảo Hiến pháp. Ngày 7/10, Quốc hội Nhật Bản thông qua Hiến pháp. Ngày 3/11, Thiên hoàng cho ban hành Tân Hiến pháp.

Đây là Hiến pháp do kẻ chiếm lĩnh chiếu theo giá trị quan phương Tây áp đặt cho kẻ bị chiếm lĩnh, nhưng lại là bản Hiến pháp đem lại phúc lợi cho nhân dân quốc gia bị chiếm lĩnh. Bản Hiến pháp nhấn mạnh quyền lợi công dân cơ bản của người Nhật Bản, xem những quyền lợi này là “quyền lợi trời cho mà không ai có quyền tước đoạt”. Những quyền này bao gồm: quyền bầu cử, lập hội và tự do xuất bản; không có sự tham gia của luật sư thì không được định tội; bảo đảm quyền cư trú an toàn cho dân, cấm kiểm tra và tước đoạt vô cớ.

Ngày 21/10/1946, Quốc hội đã thông qua “Luật Cải cách ruộng đất”. Chính phủ Nhật Bản mua lại đất đai dư thừa của giới địa chủ, sau đó bán đất lại cho nông dân không có ruộng. Với những nông dân không có tiền mua đất, chính phủ cho vay thế chấp. Tất cả diễn ra không đổ một giọt máu, một mạng người, những người nông dân ai nấy đều có được một phần đất cho mình.

Ngày 31/3/1947, ban hành “Luật Giáo dục”. Theo đó mục tiêu hàng đầu của giáo dục là “tôn trọng sự tôn nghiêm của cá nhân, bồi dưỡng cho mọi người có lòng nhiệt huyết vì chân lý và hòa bình”. Trường học của Nhật Bản không còn nằm trong kiểm soát của chính phủ mà là do Ủy ban Giáo dục do dân chúng bầu ra quản lý. Việc chọn lựa nhà giáo, sách học và bố trí chương trình hoàn toàn do người dân tự chủ quyết định.

Năm 1952, quân chiếm đóng Mỹ trả chính quyền về cho chính phủ Nhật Bản. Sau 7 năm chiếm đóng, người Mỹ cải cách triệt để con đường phát triển của Nhật Bản, chủ quyền quốc gia từ trong tay kẻ chuyên chế trao lại cho người dân Nhật Bản, những tiền đề tiến bộ đầu tiên này giúp người Nhật bước vào con đường thênh thang.

Hơn 10 năm sau, Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới, quốc gia phồn vinh, nhân dân giàu có, xã hội ổn định. Có thể nói thêm một câu, quân chiếm đóng của Mỹ không chi một đồng tiền thuế nào của người dân Nhật Bản, chi phí của họ là lấy từ tiền thuế của người Mỹ.

Trong thời gian chiếm đóng Nhật Bản, rất nhiều người Nhật đã viết thư gửi cho tướng MacArthur yêu cầu biếu tặng đất đai của họ. Nhiều phụ nữ can đảm viết thư đề nghị được hiến thân cho tướng MacArthur, nhiều người còn viết “xin hãy cho tôi được sinh con cho ngài.”

Sáng ngày 16/4/1951, Tổng thống Harry Truman phế bỏ chức Tư lệnh quân chiếm đóng và buộc tướng MacArthur phải về nước, sự kiện này chỉ thông báo cho một số quan chức cấp cao người Nhật biết. Nhưng khi ông ngồi lên ô tô thì mới phát hiện, từ nơi dinh phủ ông ở đến Sân bay Atsugi có hàng triệu người Nhật Bản đứng hai bên đường đưa tiễn. Đoàn xe hộ tống đi qua những hàng nước mắt cùng tiếng hô vang dậy của người dân Nhật Bản: Đại nguyên soái!

Người dân Tokyo đứng chật kín hai bên đường, ai nấy rơi nước mắt, họ như hoàn toàn quên chuyện tướng MacArthur là kẻ chiếm đóng đã đánh bại quân đội quốc gia mình. Thiên hoàng đích thân đến sứ quán đưa tiễn MacArthur, tướng MacArthur cũng xúc động rơi nước mắt, nắm chặt hai tay của Thiên hoàng Hirohito.

Khi đưa tiễn, Thủ tướng Yoshida của Nhật nói: “Tướng quân MacArthur đã cứu chúng tôi ra khỏi nỗi sợ hãi, lo lắng và hỗn loạn của thất bại để đưa chúng tôi vào con đường mới do ông xây dựng, chính Ngài đã gieo trồng hạt giống dân chủ trên đất nước chúng tôi để chúng tôi bước trên con đường hòa bình, tình cảm ly biệt mà nhân dân chúng tôi dành cho Ngài không lời nào có thể diễn tả được.”

Uy lực quả bom nguyên tử của Mỹ tàn phá thành phố và nền kinh tế của Nhật Bản, nhưng về phương diện tinh thần, nước Mỹ đã hoàn toàn chinh phục được người Nhật Bản.     

Đi tìm 3 người thầy vĩ đại nhất mảnh đất hình chữ S

Đi tìm 3 người thầy vĩ đại nhất mảnh đất hình chữ S


Nổi tiếng với đủ ba yếu tố: Tâm, tầm và tài, những “người chèo đò” vĩ đại này mãi mãi được sử sách Việt Nam lưu danh.

  1. Thầy giáo Chu Văn An (1292-1370)

Ngược dòng thời gian trở về hơn 600 năm trước để cùng tìm hiểu về một người thầy lỗi lạc mà nhân dân đời đời ngưỡng mộ – thầy Chu Văn An, người đã có công lớn trong việc xây dựng Quốc Tử Giám, trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Cả cuộc đời thầy đã “làm thầy giỏi của một thời đại, để đạt tới thầy giỏi của muôn đời”, dạy dỗ Vua Trần Hiển Tông và đào tạo ra những vị quan có tài và thanh liêm cho triều đình nhà Trần.

Trong thời gian đứng đầu Quốc Tử Giám, thầy Chu Văn An có nhiều đóng góp trong việc hoàn thiện chương trình truyền dạy tư tưởng Nho giáo vào Việt Nam và được lưu danh là “ông tổ của đạo Nho ở Việt Nam”. Thầy là người tài cao đức trọng, giữ chức Tư nghiệp đầu tiên và trong một thời gian dài, cũng là người đầu tiên được đưa vào thờ tại Văn Miếu.

Thầy Chu Văn An từng thi đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) nhưng không ra làm quan mà mở trường dạy học ở quê nhà (làng Huỳnh Cung bên sông Tô Lịch (Hà Nội). Thầy nổi tiếng có học vấn sâu rộng, tư cách thanh cao, không cầu danh lợi, danh tiếng lan xa, học trò theo học rất đông.

Thầy Chu Văn An luôn đối xử bình đẳng và công bằng với các lứa học trò từ bậc cao nhất cho đến lớp học trò bình thường ở nông thôn. Thầy cũng rất nghiêm nghị và gương mẫu. Những học trò cũ đã làm quan to như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát lúc về thăm thầy vẫn phải khép nép giữ gìn, và nếu có điều gì chưa đúng phép, thầy vẫn nghiêm khắc dạy bảo. Điều này càng khiến thầy được học trò kính mến hơn.

Thầy Chu Văn An được tôn là Vạn thế sư biểu – người thầy chuẩn mực của Việt Nam muôn đời

Thầy được tôn là Vạn thế sư biểu – người thầy chuẩn mực của Việt Nam muôn đời. Trần Nguyên Đán đã đánh giá về những đóng góp của thầy như sau: Nhờ có Chu Văn An mà “bể học xoay làn sóng, phong tục trở lại thuần hậu”.

Sự liêm khiết, chính trực và công tâm của Thầy giáo Chu Văn An cũng nhắc nhở những thế hệ nhà giáo luôn vì sự tiến bộ của giáo dục, sự nâng cao dân trí mà không ngừng phấn đấu để làm phong phú và dồi dào nguồn nguyên khí quốc gia. Không phải chỉ 6 thế kỷ qua, mà hàng thiên niên kỷ sau, có lẽ người ta vẫn không thôi nhớ đến người thầy vĩ đại đã dành cả cuộc đời chở đạo, những công lao và tiếng thơm về thầy đã khắc sâu trong tâm tưởng mỗi con dân Việt từ thủa ấu thơ.

  1. Thầy giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585)

Một cây đại thụ tỏa rợp bóng ở thế kỷ XVI – Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là một danh nhân văn hóa, một nhà thơ lớn, một bậc hiền triết, một nhà tiên tri đại tài mà còn là một nhà giáo vĩ đại, một bậc sư biểu được người đời tôn vinh, ngưỡng mộ.

Thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm thi đỗ Giải Nguyên đời nhà Mạc (1527-1592). Làm quan được 8 năm, năm 1542, thầy dâng sớ hạch tội 18 lộng thần nhưng không được vua nghe nên xin cáo quan về ở ẩn lập Am gọi Bạch Vân Am và hiệu Bạch Vân Cư Sĩ mở trường dạy học.

Hơn 40 năm lui về Bạch Vân am dạy học là hơn 40 năm thầy dồn hết tâm huyết đào tạo nhiều tri thức lớn cho đất nước. Học trò của thầy đều là những nhân tài xuất chúng, văn võ song toàn như Phùng Khắc Khoan, Lý Hữu Khánh, Nguyễn Quyện… Danh tiếng và tài năng của thầy và trường Bạch vân bên dòng Tuyết Giang vang dội khắp nơi. Thầy được các môn sinh tôn là “Tuyết Giang phu tử”  – Một danh xưng tôn kính cho những bậc sư biểu đức độ.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

“Tuyết Giang phu tử” – Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà tiên tri số 1 Việt Nam.

Đồn rằng, do được truyền cho quyển “Thái ất thần kinh” nên thầy Nguyễn Bỉnh Khiêm tinh thông về lý học, tướng số, có thể tiên đoán được biến cố trước và sau 500 năm. Với những câu “sấm truyền”, thầy được người đời suy tôn là “nhà tiên tri” số một của Việt Nam. Giai thoại cùng với những lời sấm tiên tri của thầy vẫn còn được truyền tụng tận đến ngày hôm nay và ứng nghiệm đến bất ngờ.

Lúc sinh thời, thầy đã dùng tài lý số của mình “cứu vãn” cho triều nhà Mạc tồn tại được một thời gian khá dài. Tương truyền rằng, lúc nhà Mạc sắp mất liền sai người đến hỏi thầy. Thầy đã đưa ra lời sấm cho nhà Mạc rằng: “Cao Bằng tàng tại, tam đại tồn cô”. Nghĩa là nếu chạy lên Cao Bằng thì sẽ tồn tại được 3 đời. Quả nhiên, nhà Mạc lên Cao Bằng thì tồn tại được thêm 3 đời..

Thầy cũng đưa ra lời sấm cho nhà Nguyễn, mà nhờ đó nhà Nguyễn mới tiến vào Nam mở rộng bờ cõi để đất nước ta có hình thái như ngày hôm nay.

Còn với triều đại thứ 3 cùng tồn tại khi ấy là nhà Trịnh, thời điểm vua Lê Trung Tông mất không có người nối dõi, Trịnh Kiểm định soán ngôi nhà Lê nhưng chưa dám quyết nên đã sai người tới hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thầy cũng chỉ nói: “Giữ chùa thờ phật thì ăn oản”, ý nói giữ là bề tôi của các vua Lê thì lợi hơn. Trịnh Kiểm nghe theo liền sai người đi tìm tôn thất nhà Lê đưa lên ngôi. Họ Trịnh mượn tiếng nhà Lê nhưng thực chất nắm quyền điều hành chính sự, hai bên cùng tồn tại tới hơn 200 năm. Vì thế mà có câu: Lê tồn, Trịnh tại..

Có đôi câu đối ở đền thờ Bạch Vân am “Kế tuyệt, phù suy Chư Cát Lượng/ Tri lai, tàng vãng Thiệu Nghiên Phu” (Nối được cái đã đứt, đỡ được cái đã suy như Chư Cát Lượng/Tìm hiểu việc đã qua, dự đoán việc mai sau như Thiệu Nghiên Phu).. Tiếng tăm của thầy không chỉ nổi ở trong nước mà còn vang đến tận Trung Hoa, khiến giới học giả ở đó cũng ngưỡng mộ xưng tụng: “An Nam lý số hữu Trình Tuyền”.

  1. Thầy giáo Lê Quý Đôn (1726-1784)

Lê Quý Đôn nguyên là Lê Danh Phương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, sinh trưởng trong một gia đình khoa bảng; cha là tiến sĩ Lê Trọng Thứ, quê ở Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ, nay là thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

Ngay từ nhỏ thầy đã nổi tiếng thông minh, chăm học. Năm 14 tuổi, thầy theo cha lên học ở kinh đô Thăng Long. Lúc ấy thầy đã học xong toàn bộ sách kinh, sử của Nho gia. 18 tuổi, thầy thi Hương đỗ Giải Nguyên. 27 tuổi đỗ Hội Nguyên, rồi đỗ Đình Nguyên Bảng nhãn.

Sau khi đã đỗ đạt, thầy được bổ làm quan và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều Lê – Trịnh. Thầy là người học rộng, tài cao, am thông nhiều lĩnh vực như: khoa học tự nhiên, địa lý, khoa học xã hội, văn chương, sử học,… luôn được vua, quan và nhân dân kính nể.

Thầy Lê Quý Đôn không chỉ là một nhà bác học mà còn là người thầy xuất sắc ở nước ta hồi thế kỷ XVIII. Thầy từng mở trường dạy học, có nhiều học trò theo học, và còn lưu được ân tình đằm thắm đối với học sinh. Thầy phụ trách các kỳ thi, lo lắng quan tâm tới việc đào tạo và tuyển dụng các nhân tài.

 

 

 

 

 

 

 

 

Thầy Lê Quý Đôn không chỉ là một nhà bác học mà còn là người thầy xuất sắc ở nước ta hồi thế kỷ XVIII

Trái với những nho sĩ chỉ biết nhồi nhét những lý luận kinh điển xa xôi mà coi thường, thậm chí không biết gì đến các môn học khác thì thầy cho rằng cần phải học tập toàn diện. Thầy cũng đã nêu lên một số ý kiến về phương châmhọc tập, chủ trương học phải biết nắm lấy cái chính: “Không thể vu vơ theo việc ngọn ở ngoài mà không tìm tòi đến chỗ gốc ở trong. Nếu không thể mà cứ vật gì cũng xét cho đến cùng, cho đủ cả thì chẳng hoá ra vì đường có nhiều lối rẽ mà đến nỗi lạc mất dê ư?”

Thầy cũng căn dặn rằng học hành phải có óc suy luận, không chỉ phụ thuộc vào sách vở: “Sách không hết lời, lời không hết ý… Phải hiểu ngầm ý của thánh nhân ở ngoài lời sách mới được”. (Dịch kinh phu thuyết).

Thầy còn khuyên: “Dù ngu dốt đến đâu, cũng nên kính giấy, tiếc chữ, dù keo bẩn đến đâu cũng tìm mua sách vở”. Thầy cho rằng biết học thì không thể biện lẽ thiếu thì giờ.

Hình ảnh thầy Lê Quý Đôn tận tụy truyền dạy phương pháp học tập tiến bộ và kiến thức cho học trò đã là tấm gương sáng cho nhiều thế hệ noi theo. Thầy giáo Lê Quý Đôn thực sự xứng đáng với danh hiệu Người thầy mẫu mực và luôn được người đời tôn kính.

Hiểu Minh

From : TRUONG LE

HÃY VUI LÊN

HÃY VUI LÊN

 

Theo truyền thống dân tộc Do Thái, năm đại xá của Đức Chúa, là năm đại phúc cho người nghèo, cho người bị tù đầy.  Năm đó, có nợ ai bao nhiêu, cũng được xóa; có đang bị ở tù, cũng được trả tự do.  Đức Yêsu là Đấng đến để công bố năm toàn xá cho toàn thể nhân loại.  Vì thế, hãy vui lên, hỡi nhân trần.

 

1. Tin Mừng Cho Người Nghèo

Con người sống trên trần gian này cảm nghiệm bao nhiêu nỗi khổ: nỗi khổ vật chất và tinh thần.  Ai càng coi trọng tiền bạc và vật chất, càng cảm thấy khổ nhiều.  Tuy nhiên, đôi khi người nghèo không cảm thấy khổ, mà những người đặt nặng giá trị vật chất lại cho rằng họ khổ.

 

Người nghèo cũng có niềm vui riêng của họ, trời xanh, khí mát trong lành, đất trời đẹp tuyệt vời và vô tận.  Tuy vậy, nếu người nghèo không thanh thoát vượt lên được cái bình thường, thì cái nghèo, và đặc biệt là tình trạng bần cùng, ảnh hưởng thê thảm trên con người.  Nàng Kiều bán mình chuộc cha cũng là một thí dụ.  Và từ cái khổ này dẫn tới cái khổ khác; đến độ người ta thấy “đời là bể khổ.”   Nghèo, tù, tội, là những điều gây cho bao người đau khổ dằn vặt.

 

Hôm nay, tin mừng đã được công bố: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi vì Đức Chúa đã xức dầu cho tôi. Ngài sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn tan vỡ, loan báo ơn giải thoát cho những kẻ bị bắt, tự do cho kẻ tù đày, và loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa.”  Chính Thiên Chúa giải phóng con người, cho con người tìm được sự giải phóng, tự do, niềm vui và hạnh phúc.

 

2. Đấng Đến Sau Tôi

Cái nghèo vẫn còn tiếp tục.  Cái nghèo như gắn chặt với cuộc đời của một số người như hình với bóng.  Con người vẫn khổ, vẫn miệt mài đi tìm miếng cơm manh áo.  Những người đã có miếng cơm áo thì lại muốn có nhiều hơn nữa.  Con người vẫn không thoát khỏi cảnh khổ.  Nỗi khổ do nghèo vật chất dường như giúp con người thấy nỗi khổ của nghèo tinh thần.  Dường như khổ vật chất không làm con người khổ, mà nghèo tinh thần làm con người khổ.

 

Yoan Tẩy Giả sống đơn sơ trong cảnh nghèo.  Ngài như một lời chứng cho nỗi khổ vì nghèo tinh thần, vì không thấy được ánh sáng sự thật, chứ không phải vì nghèo vật chất.  Hơn nữa, Yoan Tẩy Giả còn làm chứng cho một Đấng khác nữa: “Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, và tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài.  Tôi làm phép rửa cho anh em bằng nước, nhưng Đấng đó sẽ làm phép rửa cho anh em với Thánh Thần và lửa.”  Đấng đó là Đấng mà mọi người phải mong chờ, cho dù lúc đó người ta và cả Yoan Tẩy Giả cũng chưa biết người đó là ai.

 

Đức Yêsu như tất cả mọi người đã sống cái nghèo đến tận cùng: sinh trong hang chiên cừu, ăn uống mặc như người nghèo, làm nghề của những người nghèo, ngay cả khi đi rao giảng vẫn nghèo, có lúc đi tìm trái vả ăn cho đỡ đói cũng không có (Mt.21, 18-19).  Tuy vậy, Đức Yêsu là người làm trọn lời tiên tri trong sách Isaya, Ngài công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Ngài tới để làm cho người mù được thấy, người tù được trả tự do, băng bó những tâm hồn tan vỡ.  Đức Yêsu mang lại cho người ta thấu hiểu sự thật, và sự thật sẽ giải phóng con người khỏi mọi phiền não, tù tội ràng buộc tinh thần.  Ngài giúp con người vươn lên, vươn lên tới Thiên Chúa là đỉnh bình an hạnh phúc.  Hãy vui lên vì với Đức Yêsu, chúng ta biết con đường giải thoát và hạnh phúc đích thực.

 

3. Hãy Vui Mọi Lúc

Như một người đã được giải phóng, thánh Phaolô viết cho dân thành Thessalônica:“hãy vui hạnh phúc mọi lúc.”  Một người rao giảng tin mừng Đức Yêsu phục sinh, luôn bị phản đối, rượt đuổi và bắt bớ, mà khuyên người ta hãy sống vui và hạnh phúc được sao? Nếu đúng, người đó phải sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.

 

Tại sao Phaolô lại được như vậy?  Vì Ngài đã đạt đạo, đã chọn Thiên Chúa trên hết, đã chấp nhận Đức Yêsu như lý tưởng và Chúa của mình.  Ngài đã thấy được trần gian chóng qua, chỉ có thực tại bền vững là chính Thiên Chúa, và cũng là bình an và hạnh phúc của Ngài.  Với quan niệm sống và chọn lựa như vậy, Ngài sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.

 

Chỉ khi nào con người chọn Thiên Chúa trên hết, phó thác tất cả cho Thiên Chúa, thì con người mới sống chấp nhận thực tại và thanh thản trước mọi biến cố và nghịch cảnh.  Thiên Chúa đang thực hiện việc giải phóng con người qua Đức Yêsu, qua việc cho con người thấy cách sống giúp con người bình an hạnh phúc.  Cách sống đó chính là cách sống của Đức Yêsu.  Đức Yêsu cũng không được miễn trừ khỏi bao cám dỗ, nhưng Ngài đã vượt qua và vẫn trông cậy vào Thiên Chúa ngay cả khi không thấy dấu chỉ cho thấy như vậy.  Biến cố Đức Yêsu kêu trời “lạy Cha, lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” là một bằng chứng.  Ngay cả như vậy, chúng ta tin rằng, Ngài vẫn bình an và phó thác.

 

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

From:   Langthangchieutim

Cha chúc con ‘bất hạnh và đau khổ’ trong lễ tốt nghiệp, vô số bà mẹ tán dương

 

Cha chúc con ‘bất hạnh và đau khổ’ trong lễ tốt nghiệp, vô số bà mẹ tán dương

Trên thế gian này, các đấng sinh thành đều mong muốn con cái được hạnh phúc và vui vẻ. Tuy nhiên có một người cha trong ngày vui của con, lại chúc con trai mình bất hạnh và đau khổ. Vì sao bài diễn thuyết này của ông được cộng đồng mạng tán thưởng và lan tỏa nhanh chóng như vậy?

Mọi người đừng vội cho rằng đây là người cha “máu lạnh” và “độc ác”. Có khi nào đó là cách thể hiện tình yêu thương khác biệt của một người cha thông minh dành tặng cho con mình?

Vậy người cha có những lời chúc đặc biệt ấy là ai?

Ông chính là John Roberts – Chánh án Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Ông được mời tham gia đọc bài diễn văn tại buổi lễ tốt nghiệp của trường trung học Cardigan, nhưng không phải với tư cách là một chánh án mà là một người cha. Và lời chúc “chúc con bất hạnh và đau khổ” được cả thế giới tán dương .

John Roberts là chánh án thứ 17 và là Chánh án đương nhiệm của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ. Ông đảm đương chức vụ này từ năm 2005, được tổng thống George W. Bush bổ nhiệm sau khi Chánh án William Rehnquist đột ngột qua đời.

John Glover Roberts, Jr. (sinh ngày 27 tháng 1 năm 1955) là Chánh án thứ 17 và là Chánh án đương nhiệm của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ. (Ảnh: wikipedia.org)

Thông thường các bài diễn thuyết trong các buổi lễ tốt nghiệp, là dịp các phụ huynh nói lên những lời cảm kích với nhà trường, với thầy cô giáo và khuyến khích trẻ chào đón một tương lai tốt đẹp hơn, dẫn dắt con mình hướng đến những điều tươi sáng. Tuy nhiên khi tham dự buổi lễ tốt nghiệp trung học của Jake, cậu con trai 16 tuổi của mình, vị chánh án này lại vào đề với những lời lẽ như một nhát kiếm sắc nhọn đối với bọn trẻ:

“Ta rất lấy làm tiếc phải nói với các con một điều rằng, thời khắc vui vẻ nhất và thoải mái nhất trong cuộc đời của các con sắp trở thành quá khứ rồi…”.

Khi ông nói ra những lời này, những cô cậu học trò phía dưới khán đài đều ngỡ ngàng, bởi từ trước tới nay mọi người đều nói với chúng rằng “Cuộc sống tương lai sẽ càng trở nên tốt đẹp và càng có nhiều hy vọng hơn”. Còn vị chánh án này thì ngược lại, ông đang diễn thuyết trên khán đài và nói với chúng: “Những ngày tháng tốt đẹp đã chấm dứt rồi”.

Tiếp theo đó, bằng những lời nói mang đầy ngữ khí “khó nghe”, vị chánh án bắt đầu bài diễn thuyết của mình:

“Ta hy vọng con có thể gặp phải một chút đối xử không công bằng, bởi chỉ có như vậy con mới có thể cảm nhận được giá trị của sự công bằng.

Ta hy vọng con có thể nếm trải một chút mùi vị của sự phản bội, bởi chỉ có như vậy con mới có thể lĩnh hội được tầm quan trọng của sự chân thành.

Ta hy vọng con thường xuyên cảm nhận được sự cô đơn, bởi chỉ có như vậy con mới hiểu được rằng bạn bè đối xử tốt với mình không phải là chuyện đương nhiên, người ta không thiếu nợ con.

Ta hy vọng con có thể gặp xui xẻo một vài lần, bởi chỉ có như vậy con mới hiểu được ý nghĩa của cơ hội và vận may, con mới có thể hiểu được sự thành công mình có lẽ chỉ là bởi vận may, và sự thất bại của người khác cũng không phải là đáng đời. 

Ta hy vọng khi con gặp thất bại, đối thủ của con có thể châm chọc và cười nhạo trên sự đau khổ của con. Bởi như vậy con mới hiểu có phong độ rốt cuộc quan trọng như thế nào. 

Ta hy vọng thi thoảng con bị người khác coi thường, chỉ có như vậy con mới hiểu được học cách tôn trọng và lắng nghe là quan trọng tới mức nào. 

Ta nói những điều này với con, bởi thật ra sớm muộn gì nó cũng sẽ xảy ra trong cuộc sống của con. Con có thể tiếp thụ giáo huấn hoặc thu hoạch được gì trong đó hay không, đều dựa vào việc con có hiểu những điều ta nói hay không”.

Bằng những lời nói mang đầy ngữ khí “khó nghe”, vị chánh án đã cho bọn trẻ một bài học quý giá khi đối diện với một xã hội phức tạp. (Ảnh: wikipedia.org)

Cộng đồng mạng sau khi nghe được những lời diễn thuyết này đã vô cùng khen ngợi và đồng thuận.

Những đứa trẻ 15, 16 tuổi đang hồn nhiên vô tư chuẩn bị tốt nghiệp trung học, đã bắt đầu có nhân sinh quan và thế giới quan của bản thân mình, đầy hăng hái nhiệt tình. Tuy nhiên, khi đối diện với một xã hội phức tạp, ngoài bầu nhiệt huyết hăng hái thì không hề có bất kỳ sự chuẩn bị gì.

Cá nhân tôi cho rằng cho rằng đoạn diễn thuyết này rất tuyệt vời, những đứa trẻ nghe được đoạn diễn thuyết này sẽ học được nhiều điều mới lạ.

Những lời “khó nghe” này giống như gậy cảnh tỉnh, là những điều tinh túy nhất được chắt lọc lại. Tuy từ ngữ không mỹ miều nhưng được nói lên từ tận đáy lòng của một người cha, mong muốn con mình học cách đối mặt với một xã hội phức tạp với tâm thái cân bằng, ứng xử đúng đắn trước những gian nan gập ghềnh trong cuộc sống.

Ngay cả các bậc làm cha làm mẹ, cũng rút ra được nhiều bài học quý giá:

1. Đừng nên luôn biến con trở thành trung tâm của thế giới, đôi khi hãy học cách lơ là với chúng

Bạn không nên chăm sóc thái quá hay quá chú ý tới trẻ. Bởi vì khi con trẻ bước vào trường học, gia nhập cộng đồng xã hội, chúng sẽ phát hiện trên thế giới này, không phải ai cũng yêu mến chúng, có người thương thì sẽ có kẻ ghét. Bởi vậy cần rèn luyện cho chúng có đủ năng lực chịu đựng để đối diện với tất cả những điều không như ý trong cuộc sống này.

Hãy dám “buông tay” cho con mình trải nghiệm những “gian khổ” trong cuộc sống ngoài xã hội. Nơi mà trẻ sẽ ý thức được các giá trị sống trong tinh thần tập thể, cùng làm, cùng chơi và biết xây dựng ý thức trách nhiệm cho bản thân mình.

2. Khi con bạn bị bạn bè bỏ rơi, đừng nên vội vàng tới bên an ủi vỗ về chúng

Khi nhìn thấy con ngồi đơn độc trong một góc, còn nhóm bạn của chúng đang cười nói vui vẻ, điều bạn cần làm là không nên kéo con đi tìm người bạn khác hay bắt nhóm bạn kia cho con chơi cùng. Hãy để con bạn tự hiểu rằng thế nào là sự cô độc, thế nào gọi là bạn bè.

Một người từng nếm trải sự cô độc, mới có thể hiểu được tầm quan trọng của tình bạn. Khi rời xa khỏi sự che chở của gia đình, con bạn sẽ phải tự học cách hòa nhập với cuộc sống.

Khi rời xa khỏi sự che chở của gia đình, con bạn sẽ phải tự học cách hòa nhập với cuộc sống. (Ảnh: time.com)

3. Khi con bạn gặp phải những điều đen tối trong xã hội, đừng tìm cách che mắt chúng

Mỗi bậc cha mẹ đều hy vọng con cái mình có môi trường sinh hoạt trong sáng và tốt đẹp, không phải đối diện với mặt xấu tối tăm của xã hội, nhưng liệu điều này có thể xảy ra?

Chúng ta luôn hy vọng con cái có sự thiện lương, lại càng hy vọng chúng có năng lực phân biệt thị phi đen trắng. Khi xã hội ngày càng biến động, những việc tốt càng vơi đi, việc xấu thì xuất hiện tràn lan, liệu con bạn có tránh được tất cả những điều xấu ảnh hưởng không? Điều cần làm là bạn nên dạy con cách đối diện chứ không phải là trốn tránh. Hãy cố gắng gieo vào trái tim bé nhỏ của con trẻ hạt giống của sự thiện lương. Có hạt giống ấy nảy mầm và tươi tốt, trẻ sẽ biết cách xử trí thế nào trước những rối ren.

4. Khi con bạn phát hiện những gian nan vất vả trên đường đời, đừng nên rót những giọt mật ngọt ngào cho chúng

Đời người vốn có rất nhiều nỗi khổ, khi con nói với bạn “học hành rất khổ”, “tập đàn rất khổ”, hãy giúp chúng hiểu được “khổ” là một việc tất yếu trong thế gian này. Trẻ con cần đi học, người lớn cần đi làm.. đây chính là trách nhiệm và gánh vác mà con người cần thực hiện khi sống trong thế gian này.

Tóm lại ngay từ khi trẻ còn nhỏ, đừng nên sợ cho con chịu một chút khổ, chịu một chút khó khăn. Những đứa trẻ từ bé chưa từng chịu khổ, tương lai khi sẽ phải chịu càng nhiều nỗi khổ hơn, thì liệu lúc đó chúng sẽ đối diện ra sao?

Theo soundofhope.org Bình Nhi biên dịch

Cái đẹp không phải là ở chỗ hoành tráng, cao to, nổi bật

Mike Dang shared Lê Vi‘s post.
 
 
Image may contain: sky and outdoor

Lê ViFollow

 

Nhỏ em đi đám tang, nó chụp gửi cho mấy cái hình nói anh coi nè. Đất nước họ giàu nhưng lối sống của người ta đơn giản lắm, không như người Việt mình, tới lúc xanh cỏ rồi vẫn còn hơn thua.

Cái nghĩa trang của họ mọi người đều bình đẳng. Mỗi ngôi mộ chỉ ghi dấu bằng một tấm bia, còn lại toàn hoa và cây xanh che bóng mát. Nhiều người khi chết đi họ để lại hàng triệu đô la và nhiều tài sản, nhưng họ uỷ thác hết cho các tổ chức để làm thiện nguyện và lấy đó làm niềm tự hào, thước đo thành bại của một đời người.

Nhớ hồi đi học ông thầy giảng:

Cái đẹp không phải là ở chỗ hoành tráng, cao to, nổi bật. Cái đẹp chính là sự hài hoà trong một không gian mà ở đó mọi chủ thể đan xen lẫn vào nhau một cách tinh tế, để hướng đến mục đích tôn vinh cái đẹp tổng quan.

Giờ tại Việt Nam hầu hết các nghĩa trang người ta đều tranh nhau mộ phần người thân càng to càng tốt. Hôm đi Huế, thằng bạn dắt ra cái gọi là thành phố ma của xã An Bằng. Mình choáng với những ngôi mộ mới, được cho là đã xây hàng chục tỉ.

Ngẫm lại thấy rằng người Việt mình vẫn chưa bao giờ thoát ra được lối sống bản năng. Đó là lý do vì sao chúng ta mãi chỉ dừng lại ở miếng ăn, cái mặc, phương tiện hưởng thụ mang tính sang chảnh, mà không thể đóng góp được tí gì cho nhân loại như những quốc gia trên thế giới này.

Trương Quang Thi

Ý nghĩa của đời người khi đang sống và sau khi chết là gì?

From:   Trần Bang shared Trương Quang Thi‘s post.
 

Ý nghĩa của đời người khi đang sống và sau khi chết là gì?

Bài viết cho thấy, chỉ học để sống khi còn sống chưa đủ, mà còn để sau khi chết vẫn là cầu nối, là nốt nhạc, là gam màu hài hoà trong bản nhạc, trong bức tranh rộng lớn của cộng đồng (ở cả những người đã chết và những người còn sống)?!

 
Image may contain: sky and outdoor

Trương Quang ThiFollow

 

Nhỏ em đi đám tang, nó chụp gửi cho mấy cái hình nói anh coi nè. Đất nước họ giàu nhưng lối sống của người ta đơn giản lắm, không như người Việt mình, tới lúc xanh cỏ rồi vẫn còn hơn thua.

Cái nghĩa trang của họ mọi người đều bình đẳng. Mỗi ngôi mộ chỉ ghi dấu bằng một tấm bia, còn lại toàn hoa và cây xanh che bóng mát. Nhiều người khi chết đi họ để lại hàng triệu đô la và nhiều tài sản, nhưng họ uỷ thác hết cho các tổ chức để làm thiện nguyện và lấy đó làm niềm tự hào, thước đo thành bại của một đời người.

Nhớ hồi đi học ông thầy giảng: 

Cái đẹp không phải là ở chỗ hoành tráng, cao to, nổi bật. Cái đẹp chính là sự hài hoà trong một không gian mà ở đó mọi chủ thể đan xen lẫn vào nhau một cách tinh tế, để hướng đến mục đích tôn vinh cái đẹp tổng quan.

Giờ tại Việt Nam hầu hết các nghĩa trang người ta đều tranh nhau mộ phần người thân càng to càng tốt. Hôm đi Huế, thằng bạn dắt ra cái gọi là thành phố ma của xã An Bằng. Mình choáng với những ngôi mộ mới, được cho là đã xây hàng chục tỉ. 

Ngẫm lại thấy rằng người Việt mình vẫn chưa bao giờ thoát ra được lối sống bản năng. Đó là lý do vì sao chúng ta mãi chỉ dừng lại ở miếng ăn, cái mặc, phương tiện hưởng thụ mang tính sang chảnh, mà không thể đóng góp được tí gì cho nhân loại như những quốc gia trên thế giới này.