Mở Rộng Trái Tim và Tấm Lòng

Mở Rộng Trái Tim và Tấm Lòng

 

Tác giả:Tuyết Mai

Sỡ dĩ tôi muốn được chia sẻ cùng anh chị em đề tài “Mở Rộng Trái Tim và Tấm Lòng”, đừng cố gắng Cưỡng Lại!.   Vì ở tuổi của tôi bây giờ mới hiểu được điều này thì có hơi trễ đấy!.   Bởi uổng phí quá cả cuộc đời thay vì ta sống trong Tình Xây Dựng thì ta lại làm Hủy Hoại mọi sự Tốt Lành mà Thiên Chúa ban cho con người, Nhiều Vô Số Kể.   Việc gì ta làm Hậu Quả đều không được Lành Mạnh và không Tốt Đẹp theo ý ta muốn, thưa bởi ai trong chúng ta cũng Sống Ích Kỷ hình như đó là cái Vốn Sẵn Có được Cấy Sẵn trong tâm hồn rất tầm thường của chúng ta thì phải? Nhất là những ai luôn thích sống xa Chúa và không muốn Nhận Biết Thiên Chúa.

 

Đây là kinh nghiệm sống một nửa đời người của tôi.   Khuyên anh chị em trẻ đừng đi giống con đường mà tôi đã từng sống qua.   Sự cố gắng của chúng ta là hãy Mở Rộng Trái Tim
và Tấm Lòng của chúng ta ra! Càng lớn, càng to, càng tốt.   Bảo đảm sẽ giúp chúng ta có được cuộc sống ngày qua ngày trong sự thoải mái hơn, thật hơn, và hạnh phúc hơn biết là bao!.   Có ai nhận ra rằng chúng ta đã bỏ qua biết bao nhiêu Cơ Hội, bao nhiêu Dịp May để được sống lành mạnh cùng với anh chị em chúng ta hay không? Cùng mọi tác tạo Chúa tạo dựng nên vì con người và cho con người?.

 

Nhiều lắm thưa anh chị em! Nào là thiên nhiên của mọi Tinh Tú Trời Cao; phong cảnh thiên nhiên Đẹp Hữu Tình; những Kỳ Quan Đẹp như những Bức Họa được Bàn Tay rất Toàn Năng thiết kế và trưng bày; và những Nơi rất đẹp đẽ mà Văn Minh hiện đại của thời nay đã giúp hầu hết tất cả mọi người nhìn ngắm chúng qua hình ảnh trên Internet.

 

Có ai thật sự Rảnh để cảm nhận Sự Rất Cần để Sống của từng giây từng phút chúng ta sống được là Hơi Thở rất nhưng không Chúa ban cho con người hay không?.   Có phải chúng ta rất sợ khi chúng ta không thở được?.   Rồi thì mọi thú vật sống cùng với con người  đầy trên mặt đất, chúng cũng đóng phần rất quan trọng trong đời sống con người của chúng ta nữa!.   Giúp đời sống con người chúng ta thêm phong phú, thêm giầu mạnh về mặt tình cảm, mạnh trong cơ thể, và mạnh trongtinh thần.

 

Như gia súc thì cả đời chúng nuôi sống cơ thể con người.   Chó, mèo là thú vật được nuôi trong nhà giúp cho chúng ta có bạn để ta yêu thương chúng và được chúng yêu thương
lại.   Do đó người ta khuyên chúng ta nếu ai sống độc thân, nhất là ở tuổi già, rất nên cần có chúng quanh quẩn trong nhà để giúp cuộc sống chúng ta quân bình hơn cả hai mặt tinh thần và thể lý.   Điều tôi khuyên anh chị em đây thật tình là như vậy vì khi chúng ta Cởi Mở Rộng Trái Tim và Tấm Lòng là khi ta sống rất thật với lòng mình.   Còn khi mà Cánh Cửa của Trái Tim và Tấm Lòng của chúng ta đóng khép lại thì ta luôn cảm thấy bị Ngộp Thở và Thiếu Cái gì đó rất quan trọng trong đời sống thường nhật của chúng ta.

 

Suy nghĩ thử xem tôi nói Đúng hay Sai?  Sai hay Đúng ở đây không phải là Tiêu Đề để chúng ta cần phải có thời giờ chứng minh, tìm hiểu, hay khảo cứu đâu, chỉ cần chúng ta Thử Cởi Mở xem thì như loại Thuốc Tiên mà chúng ta nhanh chóng tìm thấy được. Vâng, Thuốc Tiên này là Nó tự ở thật sâu trong cùng tận đáy lòng của chúng ta đó! Chỉ cần chúng ta Tháo Gỡ và cắt bỏ Xiềng Xích cho Nó ra thì Nó sẽ thật sự được Tự Do (freedom).

 

Sự sống trong Tự Do để được Mở Rộng Trái Tim và Tấm Lòng của chính mình, cũng giống như nếu ta trước kia ta Ăn cũng chỉ dám ăn có một nửa; ta Thở cũng chỉ dám thở có một nửa; giải nghĩa điều gì cho người rất thân thương của ta cũng giải thích được có một nửa; cái Vui cũng vui được phân nửa.   Thì Sự Sống của chúng ta bấy lâu nay như Bị Ai Đó Xiềng Xích chúng ta lại!?.   Ai đó Gián nửa Miệng, Bịt một lỗ Mũi, hành động cũng Bị Giới Hạn bởi Giờ Giấc, v.v…..???.

 

Vì thế cho nên nếu chúng ta có cơ hội sống trên Quốc Gia có Tự Do, con người được Tôn Trọng, thì tại sao chúng ta không sống hết mình đi? Vì Thời Giờ Chúa ban ai cũng có bằng nhau mà! Nên Xin Đừng Đóng Khép Cửa của Trái Tim và Tấm Lòng.   Nhờ can đảm để Cánh Cửa được Mở Rộng mà chúng ta hết thảy Sống rất thật cho mình.   Không tiếc nuối, không hối hận, không thắc mắc, và nhất là không Sợ Hãi khi được Chúa Gọi Về ở Giờ Sau Hết.   Ngay cả con người dù tánh tình Khó Chịu nhất cũng rất Cần, rất Thích, và rất Yêu những ai có Trái Tim Đẹp, Tấm Lòng Đẹp, và Tâm Hồn Đẹp.   Vì có phải cuộc đời trần thế rất cần những con người Đẹp như thế? Để cuộc đời luôn Nở Hoa, luôn Tỏa Sáng nhờ những anh chị em Tốt Lành này???.

 

Có Đẹp lắm không thưa anh chị em, khi mà một Con Đường Phủ Dầy Bóng Tối mà chỉ cần một cây Đèn Dầu Sáng Tỏa cũng có thể Soi Sáng cho hàng ngàn người nối tiếp đuôi nhau, tay trong tay nắm?.   Và kìa Đẹp quá Ánh Sáng từ cánh trái và từ cánh phải cũng Tỏa
Sáng biết bao nhiêu Ánh Đèn đi cập sát bên nhau.   Để Hướng Dẫn tất cả anh chị em đi trên Con Đường Tìm Về Cuộc Sống Vĩnh Cửu, có Hạnh Phúc Muôn Đời trong Nhà Cha rất Dấu Yêu.   Được Sống bên cạnh Thiên Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ Maria, tất cả các Đạo Binh, các Thánh, và toàn thể anh chị em Trên Trời.   Amen.

 

 

 

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(10-01-12)

 

Bằng chứng Chúa Giêsu hiện hữu

Bằng chứng Chúa Giêsu hiện hữu

Tác giả Tiến sĩ ADRIAN ROGERS (*)

 

 

Chúa Giêsu đã bước đi trên thế gian này. Ngài đã sinh ra và chết đi. Làm sao chúng ta biết được? Có ba bằng chứng cho chúng ta biết.

Các thánh

Cv 10:39-41 nói: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại”.

Hơn 500 người đã thấy Chúa Giêsu sau khi Ngài sống lại, và đa số những người này đã chết vì đức tin. Người ta có thể sống để nói dối, nhưng rồi họ chết vì cái gì chứ?

Kinh thánh

Cv 10:43 nói: “Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội”. Khi tác giả nói “các tiên tri”, tác giả đang nói về các ngôn sứ từ sáng thế tới ngôn sứ Malaki (nhớ rằng hồi đó chưa có Tân ước).

Sách Sáng thế, chương 3, nói về Đấng sẽ đạp dập đầu con rắn. Sách Sáng thế, chương 12, nói về Đấng đó đến từ dòng dõi Áp-ra-ham. Trong Sáng  thế 22, chúng ta đọc về việc hiến tế Isaac trên núi, nơi mà sau đó Chúa Giêsu chịu đóng đinh! Toàn bộ sách Lê-vi đầy những hình ảnh về việc hiến tế đổ máu để cứu khỏi tội lỗi. Trong Thánh vịnh 22 có những lời tiên tri về Chúa Giêsu chịu đóng đinh: “Tưởng mình như tan dần ra nước, toàn thân con xương cốt rã rời, con tim đau đớn bồi hồi, mềm như sáp chảy tơi bời ruột gan. Nghe cổ họng
khô ran như ngói, lưỡi với hàm dính lại cùng nhau, chốn tử vong Chúa đặt vào…Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn…”
. Trong Mikha 5:2, nói rõ Chúa Giêsu sẽ sinh ra tại Belem: “Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en cho đến thời một phụ nữ sinh con. Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en”.

Tôi có thể tiếp tục, nhưng cuối cùng là: Có kế hoạch cứu độ trong Kinh thánh và qua Máu cứu độ của Thiên-Chúa-Làm-Người, tức là Đức Giêsu Kitô.

Chúa Thánh Thần

Chúa Thánh Thần dùng Lời Chúa và nói: “Amen. Điều đó đã được viết. Đó là sự thật”. Tôi tạ ơn Chúa vì tôi không phải cố gắng thuyết phục bạn tin Chúa Giêsu. Nếu tôi có nói điều gì để thuyết phục bạn thì có thể có ai đó nói bạn ra khỏi đó!

1 Ga 5:9-11 nói: “Chúng ta vẫn nhận lời chứng của người phàm, thế mà lời chứng của Thiên Chúa còn cao trọng hơn, vì đó là lời chứng của Thiên Chúa, lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người. Ai tin vào Con Thiên Chúa, người đó có lời chứng ấy nơi mình. Ai không tin Thiên Chúa, thì coi Thiên Chúa là kẻ nói dối, vì kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người. Lời chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta
sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người”
.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Jesus.org)

(*) Qua đời ngày 15-11-2005.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Những thiên thần hộ mệnh âm thầm

Những thiên thần hộ mệnh âm thầm

 

Trong đời thường, đôi khi chúng ta nhận được sự trợ giúp trực tiếp hay gián tiếp của
một cộng đồng hay cá nhân nhưng chúng ta không biết hoặc chỉ biết sau một thời
gian. Trong cuộc sống tâm linh cũng thế, có những cá thể vô hình đã giúp đỡ chúng ta trong một số tình huống. Các cá thể này có thể là các tổng lãnh thiên thần, các thiên thần của Thiên Chúa. Sự giúp đở này không chỉ thuộc lãnh vực tâm linh, mà còn thuộc lãnh vực trần thế.

Các thiên thần là ai? Các thiên thần là những thần khí, chuyên lo phục vụ, được sai
đi giúp ích những người sẽ thừa hưởng phần rỗi. Các ngài tồn tại trong một không gian nằm ngoài sự nhận biết của tri giác chúng ta.

Trong Tân Ước, thỉnh thoảng các ngài được đề cập đến, và chúng ta nhận biết các vai
trò của các thiên thần qua các đoạn văn này:

§        Chăm sóc loài người và chiêm ngưỡng nhan Thiên Chúa ( Mt 18, 10).

§        Các thiên thần có đời sống độc lập với nhục thể (Mt 22, 30)

§        Các thiên thần tham gia điều hành trong ngày cánh chung (Mt 13, 39).

§        Chia sẻ niềm vui khi thấy một người tội lỗi quay về ( Lc 15, 10).

§        Mang sứ điệp của Thiên Chúa đến loài người (Lc 1, 19).

§        Dẫn đưa linh hồn người công chính vào chốn thiên cung ( Lc 16, 22)

§        Dâng lên Thiên Chúa lời kinh của các thánh (Kh 5, 8).

 

Rõ ràng, giữa con người và các thiên thần có mối dây liên lạc mật thiết. Các ngài
là công cụ mà Thiên Chúa tạo ra nhằm trợ giúp, cho mỗi chúng ta trên con đường
lữ hành ở trần thế, trước khi về quê Trời. Công việc của các ngài thực hiện, đa phần diễn ra trong âm thầm, lặng lẽ.

Chắc chắn chúng ta đôi lần đã được các ngài, khi thì truyền tải các thông điệp của
Thiên Chúa, lúc thì trợ giúp chúng ta trong những lúc gian nguy. Nhưng do bị
giới hạn của việc nhận biết thông qua các tri giác, nên vô tình chúng ta không
nhận ra những trợ lực vô hình hoặc chỉ  lờ mờ nhận ra. Trải nghiệm vấn đề
này thường mang đậm tính cá nhân. Sự thông tri là đặc ân mà Thiên Chúa dành ban
cho những người khá đặc biệt. Nhiều khi tại một thời điểm, có nhiều người xung
quanh nhưng chỉ một số ít người là được cho thấy, nghe.

Lạy Thiên Chúa, vì vẫn luôn yêu thương loài người, nên Ngài sử dụng các thiên thần  để bênh vực, che chở chúng con, mọi nơi, mọi lúc. Nhân lễ kính các tổng lãnh thiên thần,
chúng con xin cám ơn sự trợ giúp âm thầm của các ngài. Và xin cho chúng con luôn biết sống xứng đáng với những ân phúc mà chúng con đã lãnh nhận
.

 

G. Tuấn Anh.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Thiên Chúa Thiện Hảo Đến Nhường Bao

Thiên Chúa Thiện Hảo Đến Nhường Bao

(CN 26 TN, Năm B)

 

Tác giả:Tuyết Mai

“Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được
vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt”. (Mc 9, 37-42. 44. 46-47).

Ấy chết xin anh chị em đừng có hiểu ý cạn là Thiên Chúa muốn cho tất cả chúng ta trở thành tật nguyền, vô dụng, và là thành phần ăn bám vào xã hội.    Nhất là trong cái thời xa
xưa của cha ông chúng ta rất cần đến công việc tay chân, để cho công việc đồng áng, trồng trọt, lưới cá, thợ mộc, thợ nề, v.v…. Như nghề Thợ Mộc của Thánh Cả Giuse Dưỡng Phụ của Chúa Giêsu; như nghề chài lưới của 12 Tông Đồ của Chúa; mà Ngài Giêsu thường đem các nghề này ra để dẫn dụ dậy dỗ cho con cái của Ngài dễ hiểu.

Tôi nghĩ sở dĩ Thiên Chúa chúng ta phải dùng hình ảnh mạnh mẽ để có thể gây ấn tượng khó quên, cố ý hăm dọa và ngăm đe là vì con cái Chúa quá chai lì, rất khó dậy chăng?.
Chứ một Thiên Chúa vô cùng Thiện Hảo và rất Nhân Lành như Người đâu lại nhẫn
tâm muốn nhìn thấy hết thảy con cái của Người đánh mất đi cái Đẹp, cái Toàn Mỹ,
lại là do chính bàn tay quyền năng của Người tác tạo nên.   Phà hơi thở của người vào để ban cho chúng ta có được Sự Sống và Người đã rất thỏa mãn, nên sau đó Người đã nghỉ ngơi.

Ai trong chúng ta đây đã từng bỏ rất nhiều thời giờ và công sức cho một Công  Trình Xây Dựng và Xây Cất Vĩ Đại, cống hiến cho con người và vì con người, sau đó tự hủy hoại Công Trình Đẹp Đẽ ấy đi bao giờ?.   Ai lại không hiểu rằng làm con người qua bao thời đại, từ thời của hai ông bà Adong và Evà, đều đã sống chìu theo Tội Lỗi và tấm thân hay chết này; thử hỏi nếu Thiên Chúa chúng ta Người Ác như thế thì thế gian này còn mấy ai được nguyên vẹn và sống cho được?.

Người thì bị Mù hết cả hai con mắt nhưng ai cấm cho hai cái bàn tay không được mò mẫm làm nên dịp tội? Người thì bị cụt hết cả hai cánh tay thì ai cấm hai cái chân và hai con mắt chúng không làm nên dịp tội? v.v….. Giả như tất cả chúng ta hiền lành chơn chất tới cái độ
Sợ Hãi nghe theo Lời Chúa dậy ấy như trên thế giới hiện nay vẫn còn những Nước bên Trung Đông giữ những Lề Luật của Chúa răm rắp và khe khắt; thì hóa ra Thiên Chúa của chúng ta lại không Nhân Lành, không Yêu Thương, và không Tha Thứ Tội cho chúng ta hay sao?.

Có phải chính Người Dậy chúng ta là Sống luôn Tha Thứ cho nhau như Người hằng Tha Thứ Tội Lỗi cho con cái của người?.   Lời Chúa thì xưa nay hay bị hiểu cong queo và đi ngược lại
với Ý Tốt Lành của Người. Xin được hỏi nếu con người phạm tội nhưng sau đó biết Ăn Năn Sám Hối trở lại thì lấy mắt đâu để thấy người cùng khổ mà thương mà cảm?.   Lấy tay đâu để cho đi hay san sẻ của cải của mình có dư? Lấy chân đâu để đến được tận nơi?.   Chúa đâu có muốn vì tội nhất thời mà biến hết thảy chúng ta hay toàn thế giới trở thành những con người đui mù, câm điếc, què quặt, sứt mẻ, hay nằm chờ chết …. Thì Chúa lấy ai để mà làm
Bác Sĩ, Dược Sĩ, Y Tá, hay người Hảo Tâm với Trái Tim và Tấm Lòng thật lớn, nay cũng đã ra phế nhân?.

Nhìn quanh không khác nào cả thế giới vừa mới trải qua Chiến Tranh của Bom Nguyên Tử.   Có phải đường lối Chúa dậy con người cũng y như cha mẹ dậy con cái trần gian khi chúng bướng bỉnh và hư hỏng thì không gì hay hơn cho bằng là chúng ta đem những hình ảnh sợ
hãi có thật mà hù dọa chúng hay không?.   Ai mà không sợ hãi nếu bị mù mắt chứ!.   Ai lại không sợ bị cụt hai cánh tay, có đau đớn lắm không khi chính mình chẳng làm gì cho mình được, và có tệ hơn hay ngang bằng với khi mất cụt cả hai cánh chân?.   Chẳng lẽ Thiên Chúa của chúng ta Người không biết Cảm Thương là gì!?.

Có phải chúng ta đã từng chứng kiến cảnh Chúa Giêsu chết treo trên Thập Giá để Cứu Chuộc nhân loại? Cũng không ngoài mục đích Muốn Dậy con cái Người nên Tốt Lành và Thánh Thiện hơn?.   Không gì Tốt Lành, Hữu Hiệu, và Lợi Ích cho bằng là hằng năm
tất cả con cái Chúa được Sống Lại hay được Chúa Nhắc Nhở để Sống Ăn Năn Chừa
Cải Tội, suốt 40 ngày Chay Thánh.   Để chứng kiến Tình Yêu Thương Thiên Chúa rất Yêu Thương con người nhân loại đến là nhường bao.

Do đó để giúp chúng ta thấy Thiên Chúa Người luôn Thiện Hảo và Nhân Lành là qua những Gương Thánh xưa có cuộc Sống Sa Đọa, Tội Lỗi, và ngay cả rất Độc Ác như Thánh PhaoLô Trở Lại.   Sau khi bị Chúa cho ngã ngựa ngài trở nên vị Thánh có cuộc sống đẹp lòng Chúa và cho chúng ta biết bao nhiêu bài học Giá Trị của ngài.   Kế đến là Thánh Phanxicô Khó Nghèo cùng nhiều Thánh khác tương tự.

Lậy Thiên Chúa vô cùng Yêu Thương! Giúp chúng con hiểu sâu hơn những Dụ Ngôn và Lời Quyền Năng của Chúa, để chúng con lưu ý (alert) hơn nữa những gì là Tội để chúng con Chừa Cải.   Cho chúng con nhận biết Chúa luôn ở rất gần để chúng con luôn biết chạy đến Chúa cho mọi sự mọi điều chúng con Cần.   Để được Chúa Gội Rửa Tâm Hồn luôn què quặt và bệnh hoạn của chúng con.   Biết luôn Cảm Tạ Thiên Chúa cho mọi Ơn Lành Chúa ban mà chúng con đã biến chúng thành Điều Dữ và Điều Xấu.

Giúp chúng con sống trong tâm tình Tri Ân Chúa và Thương Yêu người như yêu chính mình.   Nếu chỉ là Hai  giới Răn giản dị có thế mà con người của chúng con có thể ra Tật Nguyền cách Dễ Dàng thế hay sao??.

Lậy Chúa Thánh Thần, xin Người ngự đến! Canh Tân đổi mới, đời sống chúng con …. Thêm sức Linh Hồn, bồi thêm Lửa Mến …. Amen.

 

** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

http://www.youtube.com/watch?v=2tZRdg0FdNw

(Tình Yêu Chúa Thánh Thần)

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(09-27-12)

CON CÁI LÀ QUÀ TẶNG VÔ GIÁ THIÊN CHÚA DÀNH CHO CHA MẸ

CON CÁI LÀ QUÀ TẶNG VÔ GIÁ

THIÊN CHÚA DÀNH CHO CHA MẸ

nguồn: Ephata 527
Cha mẹ tôi đến với nhau vào cái tuổi mà mọi người thường bảo là “trễ hẹn”, cha tôi 36, mẹ tôi thì 29. Đám cưới đã qua đi ba mùa xuân đầy ắp yêu thương, nhưng hoa quả của tình yêu vẫn là một sự mong đợi của gia đình nội ngoại hai bên, mặc dù ông bà tôi đã có rầt nhiều cháu.
Bằng đời sống cầu nguyện với lòng cậy trông, cha mẹ tôi đã được Thiên Chúa yêu thương nhậm lời. Thế là một hình hài bé nhỏ bắt đầu dần hình thành trong dạ mẹ. Khi đó mẹ tôi đã bước sang tuổi 32, biết chuyện ai cũng đều e ngại cho đứa con đầu lòng như tôi, và quả thật là thế !
Tháng thứ ba của thai kỳ, bỗng nhiên mẹ tôi bị ra huyết rất nhiều. Bác sĩ bảo rằng mẹ tôi có
thai ngoài tử cung và yêu cầu phẫu thuật bỏ thai. Niềm vui với đứa con vừa hoài thai trong lòng chưa được bao lâu lại bỏ đi ư ? Cả nhà tôi rất lo lắng và xin bác sĩ cố gắng xem lại bệnh tình của mẹ tôi. Nhờ ơn Chúa, mẹ tôi tai qua nạn khỏi và tôi được giữ lại.
Tháng thứ tư qua đi trong êm đềm. Tháng thứ năm, một lần nữa mẹ tôi lại bị ra huyết. Lần này không nghiêm trọng lắm, nhưng bác sĩ khuyên nên cẩn thận vì thai nhẹ, rất yếu.
Tới tháng thứ sáu cũng qua đi trong sự lo lắng của gia đình.
Một chiều Chúa Nhật trong tháng thứ bảy của thai kỳ, tôi đã được khoảng 29 tuần tuổi, một lần nữa mẹ tôi lại ra huyết. Huyết ra lênh láng. Mẹ tôi được đưa vào bệnh viện trong cơn mưa chiều tầm tã nặng hạt. Cùng với mẹ tôi, lúc đó cũng có một ca của một thai phụ tương tự như mẹ tôi. Sau khi bác sĩ khám cho mẹ tôi và thai phụ kia, ông ấy trao cho cả hai bà mẹ cùng một loại thuốc đen mun nhỏ như hạt tiêu và dặn rằng uống rồi, khi nào đau bụng thì kêu ông ấy đến để lấy thai nhi ra. Khi đó mẹ tôi rất hoang mang lo lắng.
Khoảng một giờ sau khi uống thuốc, người thai phụ kia đau bụng dữ dội và bác sĩ đã lấy thai nhi vừa chết ra khỏi cung lòng của mẹ bé. Nhìn thấy cảnh tượng đó mẹ tôi vô cùng sợ hãi. Sau khi hoàn tất công việc cho thai phụ kia, quay sang mẹ tôi, ông ấy hỏi thăm sức khỏe mẹ tôi. Mẹ tôi nói không có cảm giác đau đớn gì cả, Với nụ cười trên môi, vị bác sĩ nói với mẹ tôi: ”Chúc mừng bà vì bà đã giữ lại được cháu”. Một giấc ngủ êm đềm đến với mẹ. Những tuần lễ sau đó là thời gian chuẩn bị cho tôi được chào đời.
Một ngày trong tuần thứ ba mươi tư của thai kỳ, mẹ tôi vỡ ối nhưng mãi đến 12 tiếng đồng
hồ sau, khi nước ốc đã cạn sạch, tôi mới lọt lòng mẹ. Trường hợp này là một ca sinh khó, nhưng tôi và mẹ đã được an toàn và khỏe mạnh, như một phép lạ kỳ diệu. Mẹ tôi bế con cân nặng 2,8kg trên tay, hai hàng lệ lăn dài trên gò má vì sung sướng và hạnh phúc.
Lạy Chúa, con quả thật hạnh phúc được sinh ra trong sự quan phòng kỳ diệu của Chúa, được cha mẹ đón nhận bằng cả tình yêu. Con có được một mái nhà, một mái nhà yên ấm thật sự để đi về mỗi ngày, với mâm cơm nóng hổi thơm ngon tình gia đình. Con hạnh phúc vì có cha mẹ luôn bên cạnh mình vực con dậy và tiếp tục dẫn dắt con sau những lần vấp ngã xót đau khi con bước chập chững vào đời. Cảm tạ Chúa đã cho con trái tim biết yêu, biết rung động trước cái đẹp và biết cảm thông chia sẻ với những mảnh đời bất hạnh. Cảm tạ Chúa đã thương con, cho con sống trong tình yêu của Chúa, cho con biết ca tụng tình yêu thương của Chúa.
Lạy Chúa, giờ đây lời kinh con dâng lên Chúa là một lòng thờ kính Chúa, là một niềm cậy trông đặt tất cả niềm tin nơi Chúa. Cuộc sống này dù có gian nan vất vả, chúng con vẫn xin nguyện chúc cho cha mẹ luôn có được hạnh phúc và niềm vui. Nguyện xin tình yêu của Chúa đến ở trong gia đình con, cho cha mẹ được muôn phúc lành.
Xin Chúa ban cho con biết ý thức và luôn giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ trong mọi hoàn cảnh. Xin cho con nhận ra rằng những gì con có được hôm nay chính là tình yêu của Chúa cho con thông qua hai bậc sinh thành là cha và mẹ con…
Emmanuel LÊ TRẦN CHÍ HIẾU, Nhóm Fiat

“Mặt Trời đen quá đen, đen như đời ta!”

“Mặt Trời đen quá đen, đen như đời ta!”
“Đời hằng mong thoát đi, đi khung trời xa.”
(Nguyễn Trung Cang – Mặt Trời Đen)
(Mt 6: 14-15)
Trần Ngọc Mười Hai
Có một thời, chừng như hồi đó là thập niên 50 hay 60 thì phải, bần đạo kịp thấy lòng mình rộn lên những ca từ như “Mặt Trời Đen quá đen” do Trung Cang viết. Ca từ này, trùng hợp với ý/lời ở nhạc bản  “Noir, c’est noir!” của Johnny Halliday, rất cùng thời. Ca từ nhạc trẻ, khi đó diễn tả mặt trời đượm mầu đen, như đời mình. Gọi đó là lời tiên tri hoặc sấm hay không, bần đạo thật chẳng dám. Chỉ dám nhớ mỗi điều là: ca sĩ thời ấy cứ thích hát các nhạc bản có nhịp điệu kích động. Còn, ý/từ có ra sao cũng chẳng cần bàn.
Hôm nay, ngồi buồn xét lại lời ca hôm nào, bần đạo đây thấy có cái gì đó nó khiến mình cứ phải suy phải nghĩ cũng rất lung. “Lung” đây, dĩ nhiên chẳng thể nào lung lạc niềm tin hay niềm gì đó cho cam. Mà, chỉ thấy hôm đó sao các tác giả lại cứ muốn người nghe nhắc nhở cảm thông với chuyện đời mình, thế thôi. Cảm thông chuyện đời, nay người người lại vẫn bảo: dù ta sống ở thời nào đi nữa, hãy cứ hy vọng vào sự thứ tha, vì Đấng-Thánh-Hiền-Bậc-Trên từng khẳng định: “Dậy mà đi, niềm tin đã cứu con!”
Hôm nay đây, nhân lúc dừng lại chỉ dăm ba phút phù du, bần đạo lại mời bạn và  mời tôi, ta suy nghĩ đôi điều về niềm tin có sám hối, thứ tha, có cả ân lộc cho thấy đời mình không chỉ gồm tóm mỗi chuyện như bên dưới:
“Cuộc đời như chó hoang, lang thang về đêm.

Cuộc tình không mấy khi nghe câu dịu êm.

Mặt trời không muốn sáng, soi cho ta thấy

nắng lên trong đêm dài, cho đời ta ấm áp.”
(Nguyễn Trung Cang – bđd)
Thật ra thì, đời mình hoặc đời người dù có như “chó hoang, lang thang về đêm”. Hoặc, như “Mặt trời không muốn sáng” để “soi cho ta thấy”, có “nắng lên trong đêm dài cho đời ấm áp” đi nữa, thì hỡi bạn và tôi, ta vẫn thấy lòng rất ấm nhờ lời vàng Chúa dạy còn đó vẫn y nguyên:
“Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta,
thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em.
Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta,
thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em.”
(Mt 6: 14-15)
Xem thế thì, đời mình và đời người chỉ thấy ấm lòng/ấm dạ khi đã và đang tha thứ hoặc nhận ơn thứ tha từ người khác. Nhưng, trước khi để lòng dạ mình được ấm áp hơn với những xác quyết từ bậc thày uyên bác, tưởng cũng nên tạt ngang qua đôi ba truyện kể để thư giãn, rồi sẽ tính. Tính, cả những chuyện hoặc “sự thể” được kể ra đây như thế này:
“Sáng hôm ấy, một ngày đẹp trời hơi bị hiếm, tôi bèn tranh thủ ra phòng mạch sớm hơn thường lệ. Mới tám rưỡi, đã thấy bệnh nhân đứng tuổi nọ ngồi đó chờ tôi xem lại vết mổ để cắt chỉ. Xem ra, ông có hơi vội vì còn phải đi đâu đó có cuộc hẹn. Tò mò không ít, tôi bèn hỏi ông một đôi câu xem ông có vấn đề gì không mà cứ nhấp nha nhấp nhỏm như thế, ai dè ông liền trút bầu tâm sự kể cho tôi nghe hệt như với người nhà. Nghe xong tôi lại hỏi:
-Bộ, ông có cái hẹn nào khác hay sao mà vội thế?
-Hẹn hò gì đâu, bác sĩ. Tuổi này mà hẹn hò với ai nữa cơ chứ.
-Thế sao tôi thấy ông có vẻ nóng ruột lắm thì phải?
-Dạ, không phải thế đâu. Chả là, lâu nay tôi hạ quyết tâm giữ đúng hẹn dù có chuyện không cần đúng giờ.
-Thế thì lần này ông có hẹn gặp ai thế?
-Là bà xã của tôi thôi.
-Tuổi này đi gặp vợ mà cũng phải đúng giờ sao?
-Đúng vậy. Bởi, khi xưa tôi từng thất hẹn nhiều lần với bà ấy, thế nên hôm nay tôi có lời thề là sẽ không bao giờ lỡ hẹn với người tình của mình đến suốt đời.
-Sao gọi là người tình của mình, lãng mạn quá nhỉ?
-Ấy! Chuyện chẳng có gì là lãng mạn đâu bác sĩ, nó cũng chỉ thế này: Hồi đó lần đầu tiên gặp người vợ sắp cưới, tôi trễ tầu cũng khá lâu, vì lúc ấy tôi đinh ninh mình có hẹn với
một người khác, nên đã quên khuất đi mất. Khổ nỗi là người vợ sắp cưới của tôi biết cái tật hay nịnh đầm của tôi, nên mới tính cho tôi đi tầu suốt cho tiện bề sổ sách. Kỳ đó, tôi phải năn nỉ đến gẫy lưỡi mới êm. Cũng vì nể mặt bà con chòm xóm, nên bà ấy tuyên bố chỉ tha cho tôi lần ấy thôi. Sau này, có lỡ mà tái phạm, thì tôi chỉ còn mỗi nước đi chầu Diêm vương là xong ngay, chứ bà ấy sẽ không tha. Bởi thế nên, mới vội vã…
-À ra thế. Vậy, bây giờ tôi giúp bác giữ trọn lời thề năm xưa nhé. Xong! Bây giờ bác có thể “ra đi” gặp bã được rồi đấy. Nhưng hãy nhớ lời vợ dặn, đừng có đào hoa nữa, đấy nhe ông!.”
Người kể hôm nay từng nói với mọi người rằng: truyện kể hôm nay thật ra chẳng có gì gọi là “rách việc” hết. Có kể ra đây, cũng để coi đó như một  dẫn nhập cho đề tài hơi khô cứng và chậm tiêu, thôi. Minh định rồi, người kể nay đã cùng tôi, mời bạn đọc lẫn bạn nghe qua CD, cứ tha hồ mà “lướt sóng” với chuyện phiếm, để gọi là “mua việc” cho tiện việc.
Mua việc, là mua vào mình những chuyện lình xình rất “rách việc”. Mua việc, là “buôn chuyện” Đạo, xục xạo chuyện đời những là thứ tha/tha thứ cả đến lỗi phạm rất tày trời. Và, mua việc là mua vào mình những chuyện mà người người ở chốn nợ đời ít bàn ra tán vào, cho thông thoáng. Bàn, chuyện đạo/đời có lỗi phạm khơi khơi, cần sám hối với ăn năn. Mua việc, là mua chuyện “bực mình” không tên tuổi để rồi cứ tự hỏi: không biết có nên tha thứ nữa hay không. Và, mua chuyện còn là mặc vào mình những chuyện lỉnh kỉnh mà người đời thường hay né tránh.
Vậy thì, hỡi bạn và tôi, ta không ngại ngùng thì cứ mua việc cho rộng đường dư luận rất lai rai, dài dài, để nói: từ ngàn xưa, ở đất miền Do thái xa xôi/diệu vợi có các vị “lão làng”/“già làng” từng bàn nhiều những chuyện tha thứ đến 77 lần 7 như Tin Mừng thánh Mátthêu từng ghi như sau:
“Thưa Ngài, nếu anh em tôi có lỗi với tôi,
tôi phải tha đến mấy lần? đến 7 lần phải không?
Đức Giêsu nói với ông:‘Ta không nói: đến 7 lần mà đến 77 lần 7..”
(Mt 18: 21-22)
Ngôn ngữ thời nay, người người sử dụng cụm từ “tha thứ” khác thời xưa, cũng rất nhiều. Người thời nay khi nghe thế, sẽ bảo: “Ấy! Bạn đừng bận tâm mấy chuyện ấy!” Người Công giáo phương Tây, cũng vậy, mỗi khi nghe ai nói lời xin lỗi, lại cứ bảo: “Thôi! Ta hãy quên chuyện ấy đi!” hoặc: “Hãy bỏ qua giùm tôi đi, hỡi bạn hiền!.”Hoặc: “Đề nghị bà con mình ra ngoài kiếm cái gì làm vài ngụm, cho quên đời!” Có trường hợp, bạn nói: “Hãy quên tay đó đi. Hắn “dởm” chết được, hơi đâu mà bận tâm, cho mệt!”
Người đời sử dụng nhiều từ ngữ rất “thứ tha”, nhưng có lúc lại vẫn vi phạm sơ xuất/lỗi lầm đến độ khó mà nhận được thứ tha trở ngược lại. Bởi, mọi chuyện đâu phải cứ “đâm sau lưng chiến sĩ” rồi xin lỗi sao?
Tha thứ, là một trong các đề tài được nói nhiều ở Tân Ước. Hội thánh thường hay trích dẫn các chương/đoạn nói đến yêu cầu này rải rác trong Tin Mừng như thánh Mát-thêu nói trong kinh Lạy Cha, và lời hỏi/đáp giữa Chúa và tông đồ của Ngài; hoặc, Tin Mừng thánh Luca có truyện “người con đi hoang” phá tán tài sản gia đình là thế, mà khi trở về vẫn được thứ tha, và còn được Cha nhân từ thết đãi tiệc rượu như người trọng vọng, vv…
Với người đi Đạo sống ở đời thường, không phải chuyện gì cũng đều có thể tha thứ một cách rất dễ dàng được. Bởi, khi thứ tha, người người đều lồng vào đó một động thái độc đáo/riêng biệt chỉ một mình mới có. Độc đáo, là bởi trong đó có tác dụng ngay ở đây, bây giờ, để đối xử cách riêng tư với người bị đụng chạm. Cung cách xử sự riêng tư, có dính đến giao dịch, trao đổi về đạo đức/chức năng, một động tác liên quan đến hai người: một tha thứ và một nhận sự tha thứ.
Người tha thứ, nhận trách nhiệm về sự xấu sẽ xảy đến. Không coi đó là xấu xa nữa. Người tha thứ có kinh nghiệm từng trải, đã biết tôn trọng cả người bị đụng chạm, không còn muốn gây thương tích cho đối tác của mình nữa. Có kinh nghiệm từng trải ở đây, là hiểu biết những tai hại xảy đến cho cả hai bên. Nên, mới cương quyết đổi thay. Mới mở đường cho mình lập lại khuôn khổ để có được sự thứ tha.
Trong khi đó, người nhận ơn thứ tha, quyết không trả thù hoặc có ý giáng trả mọi tai hại về vật chất cũng như tinh thần. Quyết từ nay không còn gây oan nghiệt/giận hờn cho bất cứ ai. Nhưng, nhất quyết đổi thay mọi thái độ dù hành xử của mình hay của ai khác không thể tha thứ được.
Đọc Tin Mừng, hẳn người đọc cũng thấy có khác biệt giữa ơn tha thứ Chúa ban và sự thứ tha từ người phàm. Chúa thứ tha, Ngài không kể số lần hoặc không gian/thời gian được dùng đến để tha thứ. Và ơn thứ tha Ngài ban ra, vẫn mang tính chất cao cả, không có gì để tranh luận hơn/thua. Tha thứ từ nơi con người, thường là có tha đấy nhưng với điều kiện này khác. Điều kiện ấy, được diễn tả qua câu ví: “bánh ít đi, bánh qui lại” hoặc, tha đấy nhưng từ nay thì đừng hòng ta nhìn mặt, đừng hòng được ta chơi với nữa . Tức, tha đấy nhưng không hẳn là tha vô điều kiện và/hoặc có hạn chế.
Và khác biệt rõ nét giữa thứ tha của ta với tha thứ từ Chúa, vẫn là câu Chúa nói: “Hãy trỗi dậy mà đi, niềm tin của con đã cứu con.” Nói cách khác, Chúa thứ tha cả khi con người cố chấp/biếng nhác hoặc tán tận lương tâm. Nói cho cùng, thứ tha của Chúa là sự tha thứ không câu nệ. Chẳng bao giờ Ngài trách cứ hoặc đe doạ trừng phạt bất cứ ai, dù người đó sơ xuất thật quá quắt.
Về tha thứ Chúa đòi, nay ta quay về với ca-từ vừa trích dẫn, sẽ thấy khác. Khác, ở chỗ:
“Nụ cười ta đánh rơi mất khi còn thơ
Chỉ còn hiu hắt trên đôi môi hững hờ
Từng niềm tin vỡ tan bước xa mông mơ
Mặt trời đen vẫn xua bóng đen nhởn nhơ
(Nguyễn Trung Cang– bđd)
Cũng may là, nghệ sĩ ở trên còn vớt vát đôi câu về “mặt trời đen” những hờn oán, rất như sau:
“Nụ cười chưa tan biến sao như nước mắt
Thấm lên đôi vai gầy ôi buồn đau biết mấy
Chuyện buồn mong quên hết ta mong quên hết
Vứt đi bao u sầu, mong tìm nơi nương náu.”
(Nguyễn Trung Cang – bđd)
Đúng thế. Hãy “vứt đi bao u sầu”, và “Chuyện buồn, ta mong quên hết”. Quên hết, để chỉ nghĩ đến niềm vui nhà Đạo mình vẫn quan niệm và nhắn nhủ.
Nhận định của nghệ sĩ về đời người có “Nụ cười chưa tan biến, sao như nước mắt thấm lên đôi vai gầy, ôi buồn đau biết mấy.“ Thế đó, là khác biệt giữa nhận định của nghệ sĩ ngoài đời với người đi Đạo. Tuy nhiên, khác biệt tha thứ giữa người đi Đạo và Đạo của Chúa vẫn thứ tha Ngài không đòi phải sám hối.
Khác biệt này, có tác giả từng viết ra lời nhận định nghe hơi lạ, nhưng rất thấm, như:
“Thánh Tôma Akinô từng nghĩ rằng tha thứ kiểu con người thực hiện không đòi phải sám hối, nhưng đó không là sự thứ tha của Thiên Chúa. Thiên Chúa, khi tha thứ, Ngài luôn tạo ra sự thể và hy vọng là người mắc lỗi sẽ sám hối. Thế nhưng, có học trò thuộc trường phái Tô-mít lại suy nghĩ theo cách khác. Vị ấy tên là M. Leblanc từng viết trong “Revue Thomiste” đăng vào năm 2010, tr. 595-614, đã có nhận xét như sau:
Lòng Chúa xót thương –tiếng La-tinh là: “Misericordia” một cụm từ được ghép từ hai chữ “Miser” (nỗi thống khổ) và “Cordia” (tâm can con người) chung làm một. Cụm từ này, nói lên điều cốt tuỷ là: tâm can con người luôn thấu hiểu/cảm thông sự thống khổ của người khác. Lòng xót thương, đến với những ai đau khổ, sầu buồn vì thiếu tiền thiếu của hoặc có sai trái do lỗi lầm mình mắc phạm. Xót thương cả những người đau ốm, yếu ớt hoặc thấy thua sút về mọi mặt, có giới hạn về mọi thứ khiến mình ra khốn khổ.
Thành thử, đó là lý do làm cho tâm can con người thấy xót thương cho những người rơi vào hoàn cảnh khốn đốn, nghèo khổ. Không thể có lòng xót thương nếu không định ra được sự thống khổ ở ai đó. Người có lòng xót thương là nhìn vào những ai đang khốn khổ khi nhìn lại chính mình. Làm như thế, người có lòng thương xót sẽ biết mình cùng một phận với người nghèo đói/khổ sở. Thấy mình đồng cảm với sự khốn khổ của người kia. Nếu bảo rằng thương xót là hành xử của tình yêu, thì người có lòng xót thương sẽ yêu đương người cùng khổ như thành phần của chính con người mình. Để chứng minh là mình có lòng thương xót, trước tiên mình phải cảm nghiệm chính mình cũng khốn khổ, có cùng một khổ ải như người khác. Với người khác.
Lòng xót thương, diễn tả tâm trạng của tâm can bao hàm cả tính xót xa lẫn thân phận khốn khổ cùng gộp chung ở một vị trí. Nơi tâm can con người đã thấy hiện diện cả tấm lòng xót xa hết mọi người. Tình thương xót tóm gọn cả sự sầu khổ của người khác rồi dùng đó làm của riêng mình, ngang qua tình thương yêu-kết hiệp với người mình đau xót.
Người có lòng xót xa xem bạn bè như chính mình. Những gì làm bạn bè khổ sở cũng là yếu tố khổ sở riêng tư của chính mình. Tức, cả người xót dạ và cả người được thương vẫn cảm nghiệm cùng một tình tự hệt như thế. Cũng bị đụng chạm vì nó như cái gì đó thật rất xấu nằm ở trong. Nói cách khác, người có lòng dạ xót xa nỗi khốn khổ cả với người chịu khổ đau. Người già lẫn kẻ khốn khó đều thấy rõ nỗi khổ ngay bên trong người khác để rồi sẽ nói: tôi cũng thế. Người đau yếu, hãi hùng cũng khổ như nhau. Sự Xót xa dường như đòi phải nên khốn khó với người đau khổ ngay trong cơn khổ ải của họ. Ở đây nữa, Thiên Chúa là Đấng xót xa cả người khốn khổ theo cung cách đó và chỉ mỗi cách đó, thôi.
Bằng vào tình thương yêu-kết hiệp, người người coi bạn bè cũng như mình, quyết lấy đi mọi đau khổ của người khác làm của mình. Chính vì lý do này, mà cụm từ cảm thông/san sớt xuất từ tiếng La tinh “con-dolere” (cùng chịu khổ đau). Ở đây nữa, còn có nghĩa san sớt và cảm thông nỗi sầu của nhau, nữa.
Vấn đề hỏi rằng: Chúa có làm như thế không? Ngài thực hiện cá chuyện ấy chứ? Phải chăng Chúa từng làm hoặc vẫn coi con người như thành phẩm của chính Ngài? Nếu vậy, thì Chúa cũng mủi lòng cùng đau với nỗi đau của ta và cũng xót xa hết mọi người đấy chứ?
Có thể nói Chúa hành xử thay cho ta, nên Ngài chuyển thông chính Đức Chúa Cha đến với ta qua các nỗi khổ của ta. Thiên Chúa là Sự Tốt Lành Tiên Quyết tạo hiệu quả cất lấy đi hoặc làm vơi nhẹ nỗi khó khăn của ta. Tuy nhiên, việc đó dù có bảo bọc tính mủi lòng thánh thiêng thế nào đi nữa, việc ấy cũng không cho thấy cội nguồn của các hành động mà Ngài làm cho mọi người. Nếu hiểu thế, khác nào bảo Thiên Chúa chẳng có lòng đam mê/cảm xúc nào hết. Thiên Chúa là người chỉnh sử mọi khó khăn của ta chứ không là người cùng đồng cảm cho ta và với ta.
Nhìn cung cách hiệp nhất, sẽ thấy Chúa và ta cùng tham gia tiến trình yêu thương-kết hiệp dễ mủi lòng. Cung cách ấy, lòng cảm động xót xa người khác như chính mình. Điều đó dễ thấy nơi tình cảm thương yêu của mẹ hiền với đàn con: chính đó là tình thương yêu-kết hiệp thể hiện nơi món quà người mẹ tặng cho con. Bởi quà tặng, tức bản thân con cái là thực chất sống động do cha mẹ chuyển tặng. Cũng như câu truyện diễn tả Chúa tạo dựng người nữ ở sách Khởi Nguyên nói lên sự việc người phàm ban tặng thực chất đời mình để người khác (ở đây là con cái) được hiện hữu qua tạo dựng và như thế, người nữ là người nhận quà thương yêu/kết hiệp Chúa ban tặng từ nam nhân đầu đời thể hiện nơi nhân vật Ađam. Cũng một hình ảnh tương tư nơi hoa trái lủng lẳng trên cây nhưng chưa rớt xuống, vẫn là thành phần của chính cây. Hình ảnh này dù chỉ mang tính chất thể, nhưng tình trạng này cũng xảy đến bằng động tác thương yêu-hiệp nhất, rất xót xa/mủi lòng.” (xem Lm Kevin O’Shea CSsR, I Beg Your Pardon: A Study of What Forgiveness Means Giáo án giảng dạy tại Đại Học Công Giáo Úc, Sydney 26/5/2012 tr. 45-46)
Nói về tình thương yêu-kết hiệp theo ngôn ngữ thần học, là nói và diễn giải rất như thế. Còn, nói về cuộc đời theo kiểu nghệ sĩ ngoài đời, lại nói bằng lời ca, đôi lúc có cả tiếng khóc thét, cũng tối đen như:
“Sao ta vẫn thấy  mặt trời đen như mực!

Mặt trời đen, đen như đêm ma quái Ah ha ha ha ha..
Sao ta vẫn thấy mặt trời đen như mực!
Mặt trời đen, đen như đêm ma quái Ah ha ha ha ha…”
(Nguyễn Trung Cang – bđd)
Nói về mặt trời dù “đen như mực” giống đời người, đâu có nghĩa là nghệ sĩ mình cứ thế “ăn thua đủ” để rồi tả tình/tả cảnh bằng những câu ca đầy than vãn và oán thán cả một đời.
Oán và thán, cả đấng thánh hiền từng tạo dựng cuộc đời người, cho mình! Nói về cuộc đời rất không đen như mặt trời, là tiếp tục nói như đấng bậc ở trời Tây vẫn cứ bảo:
“Nhìn sự việc đầy thương yêu –dù khổ đau/đen tối vẫn còn đó- là tự hỏi: giữa Đấng Tạo Hoá và tạo vật có tương quan nào đó xem ra không được ổn. Tuy là thế, sự thật vẫn là sự
thật, tức: vẫn luôn có tình thương yêu đậm sâu rất thánh thiêng quyết kết hiệp Đấng Tạo Hoá với tạo vật, còn vững mạnh hơn cả cách biệt về bản thể giữa Tạo Hoá và tạo vật ở đời.
Nếu ai đó lại tìm cách áp đặt sự cách biệt này vào với Tạo hoá và con người, thì chắc chắn người đó đã có vấn đề, Bởi, Thiên Chúa không thể tham gia kết hiệp vào thứ gì đó trong con người của ta mà lại không mang tính thánh thiêng của Thiên Chúa. Đúng hơn phải
nói: Thiên Chúa thương ta như cái gì đó xuất tự chính mình Ngài. Điều này có nghĩa là: ngay trong ta, đã có sự tốt lành ở bên trong khiến cho Thiên Chúa thương yêu ta đến độ muốn cho ta được kết hiệp với Ngài không thể có giới hạn hoặc nhược điểm. Thiên Chúa chuyển đạt sự hiện hữu thánh thiêng của Ngài cho ta vì mục đích kết hiệp đó. Và khi Thiên Chúa thông chuyển chính mình Ngài cho ta, thì việc đó đến từ sự tốt lành của Thiên Chúa, mà ta gọi là tạo dựng. Và, khi Thiên Chúa thuyên chuyển chính mình Ngài cho một thực thể mang trong mình một nhược điểm hoặc hạn định hoặc cả đến sự xấu, mà lại đến từ lòng xót xa thương yêu của Ngài, thì ta gọi đó là gì đây?Có thể đó là tầm kích (thường thì đó là tầm kích dè dặt, không đúng cách) về tạo dựng. Và, có lẽ ta phải dùng ngôn từ
nào khác để cắt nghĩa hiện tượng này, mới đúng…
Sự việc này không giống như tình thương yêu xót xa kiểu con người, nhưng còn hơn thế nữa. Như thế thì, đó không phải là tương quan mang đầy bản thể giữa tạo vật và Đấng Tạo Hoá. Chính ra phải hơn thế nữa. Thiên Chúa thương yêu ta như là chính mình Ngài, và việc này vẫn tồn tại dù sự thân thiện giữa ta với Chúa bị cắt đứt. Trên thực tế,  thì căn bản là sự thể ấy sẽ được tái thiết lập vào sau lúc đứt đoạn, và ta gọi đó là sự thứ tha.
Ở đây nữa, ngôn ngữ vẫn mang tầm vóc rất hạn chế, lờ mờ một ẩn dụ. Thứ ẩn dụ khó lòng mà chỉnh sửa nếu không có ngôn ngữ cực mạnh của mặc khải mà người nhà Đạo gọi là Khải huyền.” (x. Lm Kevin O’Shea, bđd ở trên)
Nói cho cùng và còn muốn nói thêm về tha thứ, thì cũng chỉ bảo rằng: ở sự thứ
tha thần thánh Chúa tặng ban, vẫn là sự toàn vẹn khác với việc ta mong đợi về
sự vẹn toàn ở trong ta và nơi Chúa. Chính vì thế, nên ta thấy khó mà hiểu nổi
làm sao lại có được sự thứ tha rất vẹn toàn khi con người của ta luôn là bất toàn.
Điều này chỉ có thể hiểu được bằng chuyện ví von/so sánh như bầu khí cởi mở
và/hoặc tính cách tích cực thấy có ở sự tha thứ mang tính rất hạn chế nơi ta,
mà thôi. Hạn chế, cả trong sự việc ta nhận là mình có cố gắng để thứ tha, nhưng
chưa hoàn toàn. Bởi thế, cũng nên tìm thêm ngôn từ nào diễn đạt rõ nghĩa hơn và
mạnh mẽ hơn về thứ tha hoặc tha thứ.
Trong khi chờ đợi để có được ngôn từ như thế, tưởng cũng nên về với truyện kể
để suy tư và thư giãn, cho đẹp cuộc đời. Truyện để kể là những “sự” như sau:
“Trong một tiệm ăn, ông khách gọi bồi bàn mang cho ông ly café, nhà hàng mang tới một ly café trong đó có một con ruồi nhặng đang vẫy vùng, tìm đường thoát.
Qua sự kiện này, thông thường phản ứng của khách thế nào?
Khách Nhật: lễ độ trả tiền, không đụng tới ly café, kín đáo ra về.
Khách Ăng Lê: lạnh lùng chỉ cho chủ tiệm con ruồi trong ly.
Khách Pháp: phàn nàn, cau có vì ly café làm ông mất vui, phí phạm cả một ngày trong 3 tháng hè thường niên.
Khách Mỹ: gọi điện cho luật sư riêng, ra lệnh làm thủ tục kiện tụng, đòi 2 triệu dollars bồi thường thiệt hại tinh thần.
Khách Đức: đề nghị chủ tiệm thi hành kỷ luật với nhân viên có lỗi.
Khách Ý: mọi chuyện ổn thoả, nếu tiệm không tính tiền café và bữa ăn.
Khách Ả Rập: rút ngân phiếu mua tiệm ăn rồi đóng cửa, sa thải hết nhân viên.
Khách Thụy Điển: cảnh cáo chủ tiệm không tôn trọng sinh mạng và hạnh phúc của sinh vật.
Khách Mễ: gạt con ruồi, rồi uống hết ly café.
Khách Tầu: tu ly café ừng ực rồi nhậu con ruồi ngon lành, hỏi chủ tiệm có cách nào dụ thêm ruồi vào nhà bếp.
Khách Do Thái: dụ bán con ruồi cho người Tầu, bán ly café cho người Mễ, kiện chủ tiệm và nghiệp đoàn tiệm ăn về tội kỳ thị Do thái. Chính phủ Do thái tố cáo Hồi giáo đã sáng chế võ khí khủng bố mới bằng ruồi nhằm tiêu diệt Do Thái, ra lệnh cho quân đội nhẩy dù, đổ bộ, chiếm toàn vùng Gaza và một phần lãnh thổ Ai Cập dọc biên giới Palestine. Vận động Do thái tố cáo chính phủ Mỹ làm tay sai cho Hồi giáo, bán đứng Do Thái. Tổng thống Mỹ chính thức cáo lỗi và Thượng Viện biểu quyết tăng gấp ba viện trợ quân sư, kinh tế của Mỹ cho Do Thái.” (truyện cười trên mạng, vừa gửi đến)
Người kể truyện hôm nay lại bàn luận bằng sự việc kéo theo hành xử cần phổ biến: đó là sự tha thứ. Tha cho người đầu bếp pha cà-phê đã sơ ý để ruồi nhặng lọt vào ly. Truyện kể
chẳng có gì là ly kỳ, hồi hộp hoặc đưa ra bài học nào hết. Nhưng người kể lại cứ kéo theo triết lý của nhà Đạo sống ở đời là phải biết tận dụng mọi tình huống để hiện thực một thứ tha, dù người phạm lỗi chẳng mảy may tỏ dấu gì là sám hối hết.
Không những thế, người kể hôm nay lại còn đề nghị người đọc chuyện phiếm qui về điển tích trích dẫn từ lời vàng của Chân Phước Têrêxa thành Calcutta như sau:
“Ngày nay, có quá nhiều đau khổ trong các gia đình trên toàn thế giới. Bởi thế nên, cầu nguyện cho mọi người trên thế giới là việc cũng quan trọng như tha thứ. Người ta hỏi
tôi phải khuyên bảo thế nào cho đôi vợ chồng đang gặp khó khăn nghĩa là chung đụng sống với nhau nhiều năm mà không có tha thứ cho nhau, thì tôi luôn luôn trả lời: ‘Hãy cầu nguyện và tha thứ’. Hãy làm thế cho các thanh thiếu niên từ các mái nhà đầy hung bạo: ‘Hãy cầu nguyện và tha thứ’ cho các người mẹ cô độc không được gia đình hỗ trợ: ‘Hãy luôn cầu nguyện và tha thứ’ và lúc nào cũng thầm thì với Chúa, rằng: ‘Lạy Chúa, con yêu Chúa. Lạy Chúa, con hối lỗi thật rồi. Lạy Chúa, con tin Chúa. Lạy Chúa, con tín thác mọi sự thuộc về con cho Chúa. Xin Chúa giúp con yêu thương và tha thứ cho nhau như Chúa vẫn yêu thương tha thứ cho chúng con.”
(Trích: Triết lý tuyệt vời và lối sống đơn giản của Mẹ Têrêxa Calcutta phổ biến trên mạng)
Nói cho cùng, suy tư cầu nguyện kiểu của Chân Phước Têrêxa thành Calcutta có là cung cách để ta bàn về cuộc đời mà người nghệ sĩ cứ tưởng và cứ hát rằng:
“Cuộc đời như chó hoang, lang thang về đêm.

Cuộc tình không mấy khi nghe câu dịu êm…”
(Nguyễn Trung Cang – bđd)
Lời cuối hôm nay, còn là lời nhắn ngược với nghệ sĩ hôm trước rằng: cuộc đời người
và cuộc tình vẫn còn đó những “câu dịu êm” đấy chứ. Dịu êm đây, là tha thứ dù
anh có nhận xét rất bi đát. Đời người, vẫn còn đó yêu thương-kết hiệp, nếu bạn
và tôi ta vẫn chịu ra ngoài mà chào đón hết mọi người, trong tương quan tốt của
con người.
Trần Ngọc Mười Hai

Chả bao giờ dám bảo rằng

cuộc đời người rất đen đủi,

dù có chán.

Maria Thanh Mai gởi

Tôi đi tìm cát

Tôi đi tìm cát

Chiên Già

WGPSG —

Sông kia rày đã nên đồng

Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai

Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.

(Sông lấp – Tú Xương)

Nghe tiếng ếch văng vẳng bên tai mà thi nhân xao xuyến trong lòng, như thấy đồng vọng đâu đây tiếng gọi đò tha thiết. Không còn sông, bởi “sông kia rày đã nên đồng”. Hình ảnh một con sông quê với tiếng gọi đò văng vẳng trong đêm đã trôi vào quên lãng, đã chìm vào quá khứ, vậy mà bỗng nhiên trỗi dậy trong tâm tưởng, đánh thức trái tim, khua lên xao xác những hồi cố ngọt ngào. Thế nên mới phải “giật mình”… [1].

Nhớ sông xanh, nhớ đò xưa, thi nhân giật mình hoài niệm quá khứ ngọt ngào. Tôi cũng từng “giật mình” giống thi nhân xưa, nhưng là giật mình … đi tìm cát!

Một trong nhiều tiêu chuẩn để đánh giá mức độ phát triển của một vùng đó là vùng đó đã đô thị hóa được bao nhiêu phần trăm. Mức độ đô thị hóa lại đi kèm với bê tông hóa, càng nhiều bê tông cốt thép bao nhiêu, tốc độ “hóa thành thị dân” càng tăng bấy nhiêu. Hiên nhà được tráng xi măng, đường phố được trải nhựa, vỉa hè lát gạch hoặc đổ bê tông dày cả gang
tay… Sân cát trở nên món hàng xa xỉ, trở thành đối tượng để ước mong, để hoài niệm!

Đô thị hóa lan tới đâu, sân cát mất dần tới đó! Cỏ cây không còn đất để mọc, trẻ em mất sân chơi tự nhiên để rồi dán chặt mắt vào màn hình vi tính, hết game online đến thế giới ảo, dần dần đánh mất cuộc sống thực với biết bao mối tương quan thân yêu và dễ thương, các em cũng dần lãng quên những trò chơi sôi động và hào hứng trên sân cát bụi mù: chơi khăng,
đánh đáo, rồng rắn lên mây, bắn bi, trốn tìm, bịt mắt bắt dê,…

Giật mình trong đêm, tôi mơ về sân cát tuổi thơ lấm lem bụi đất, rộn rã tiếng cười, chan chứa tình bạn!

Không chỉ giật mình hoài niệm về những trò chơi vui nhộn trên sân cát cùng các bạn
thuở xưa, tôi còn giật mình lo lắng đi tìm cát! Tìm cát vì: “Bí quyết hạnh phúc phải chăng là ghi lên mặt cát những phiền muộn, và khắc sâu vào đá những vui tươi của chúng ta?!” [2].

Những khoảng sân cát ngày xưa, hôm nay đây dần vắng bóng! Biết tìm cát nơi đâu để “viết phiền muộn lên đó, nhờ gió cuốn đi”?

Nơi đâu nhiều cát cho bằng sa mạc! Muốn tìm thật nhiều cát, nơi đâu cho bằng tiến
vào sa mạc. Sa mạc thiên nhiên giữa đất trời thì khó kiếm do ở xa, khó vào vì thiếu phương tiện, nhưng “Sa mạc cõi lòng” của mỗi người thì bản thân đương sự có thể gặp thấy bất cứ lúc nào và bất kỳ thời điểm nào cũng có thể vào, nếu thực sự muốn!

Đôi khi chính bản thân mỗi người có thể chủ động để quyết định đi vào “sa mạc lòng”
của mình, và cũng thường khi chính Thiên Chúa sẽ “dẫn dụ” họ đi vào nơi đó: “Bởi thế, này Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình” (Hs 2,16).

Quả thế, khi vào sa mạc, tôi có thật là nhiều cát để viết để vẽ tất cả nỗi phiền muộn tha nhân đã “dành” cho tôi, cũng như “khai báo” tất cả lầm lỡ, yếu đuối của bản thân, rồi khẩn cầu lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng từ bi và nhân hậu đến như cơn gió mát thổi bay, xóa mờ tất cả những nét vẽ nét chữ nguệch ngoạc đó!

Nơi sa mạc, tôi gặp được một vị Thiên Chúa sẵn sàng “ngoảnh mặt” đi mà “không nhìn bao tội lỗi và xoá bỏ hết mọi lỗi lầm” (Tv 51,11), và như thế tôi sẽ “được thanh tẩy”, để “trở nên trắng hơn tuyết” (Tv 51,7). Tôi sẽ dìm mình vào lòng thương xót của Chúa và được thứ tha!

Tới lượt tôi, tôi sẽ học được bài học tha thứ: “Xin tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha nợ cho kẻ có nợ với chúng con
(Kinh Lạy Cha).

Trong sa mạc, Thiên Chúa sẽ thanh luyện, dạy dỗ và an ủi tôi… tôi sẽ được tái tạo, trưởng thành, thánh hóa, vượt qua phiền muộn của quá khứ để “vui luôn trong Chúa” (Pl 4,4) ngay giây phút này.

Tôi vào sa mạc đi tìm cát cũng là để tìm lại Tôi, con-người-nguyên-sơ trong trắng đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa!

_____________________

[1] xin xem bài luận “Sông lấp – Trần Tế Xương

[2] xin xem bài viết “Trên Đá này…

Maria Thanh Mai gởi

 

ĐÂY LÀ MỘT CÂU CHUYỆN CÓ THẬT XẢY RA VÀO NĂM 1892 TẠI ĐẠI HỌC STANFORD

ĐÂY LÀ MỘT CÂU CHUYỆN CÓ THẬT XẢY RA VÀO NĂM 1892 TẠI ĐẠI HỌC STANFORD

Có một cậu học sinh 18 tuổi đang gặp khó khăn trong việc trả tiền học. Cậu ta là một đứa trẻ mồ côi, và cậu ta không biết đi nơi đâu để kiếm ra tiền. Thế là anh chàng này bèn nảy ra một sáng kiến. Cậu ta cùng một người bạn khác quyết định tổ chức một buổi nhạc hội ngay trong khuôn viên trường để gây quỹ cho việc học.

Họ tìm đến người nghệ sĩ dương cầm đại tài Ignacy J Paderewski . Người quản lý của
Paderewski yêu cầu một khoản phí bảo đảm $2000 để cho ông ấy được biểu diễn.
Sau khi họ thoà thuận xong, hai người sinh viên ấy bắt tay ngay vào công việc chuẩn bị để cho buổi trình diễn được thành công.

Ngày trọng đại ấy cuối cùng đã đến. Paderewski cuối cùng cũng đã buổi diễn tại tanford. Thế nhưng không may là vé vẫn chưa được bán hết. Sau khi tổng kết số tiền bán vé lại, họ chỉ có được $1600. Quá thất vọng, họ đến chỗ của của Paderewski để trình bày hoàn cảnh của mình. Hai người sinh viên ấy đưa Paderewski toàn bộ số tiền bán vé, cùng với 1 check nợ $400, và hứa rằng họ sẽ trả số nợ ấy sớm nhất có thể.

“KHÔNG”, Paderewski nói. “Cái này không thể nào chấp nhận được.” Ông ta xé tờ check, trả lại $1,600 cho hai chàng thanh niên và nói : “Đây là 1600 đô, sau khi trừ hết tất cả các chi phí cho buổi biểu diễn thì còn bao nhiêu các cậu cứ giữ lấy cho việc học. Còn dư bao nhiêu thì hãy đưa cho tôi”. Hai cậu sinh viên ấy vô cùng bất ngờ, xúc động cảm ơn Paderewski..

Đây chỉ là một làm nhỏ, nhưng đã chứng minh được nhân cách tuyệt vời của
Paderewski.

Tại sao ông ấy có thể giúp hai người mà ông ấy thậm chí không hề quen biết. Chúng ta tất cả đều đã bắt gặp những tình huống như vậy trong cuộc sống của mình. Và hầu hết chúng ta đều nghĩ : “Nếu chúng ta giúp họ, chúng ta sẽ được gì ?”. Thế nhưng, những người vĩ đại họ lại nghĩ khác: “Giả sử chúng ta không giúp họ, điều gì sẽ xảy ra với những con người đang gặp khó khăn ấy?”. Họ không mong đợi sự đền đáp, Họ làm chỉ vì họ nghĩ đó là việc nên làm, vậy thôi.

Người nghệ sĩ dương cầm tốt bụng Paderewski hôm nào sau này trở thành Thủ Tướng
của Ba Lan. Ông ấy là một vị lãnh đạo tài năng. Thế nhưng không may chiến tranh thế giới nổ ra, và đất nước của ông bị tàn phá nặng nề. Có hơn một triệu rưỡi người Ba Lan đang bị chết đói, và bây giờ chính phủ của ông không còn tiền để có thể nuôi sống họ được nữa. Paderewski không biết đi đâu để tìm sự giúp đỡ. Ông ta bèn đến Cơ Quan Cứu Trợ Lương Thực Hoa Kỳ để nhờ sự trợ giúp.

Người đứng đầu cơ quan đó chính là Herbert Hoover, người sau này trở thành Tổng Thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Ông Hoover đồng ý giúp đỡ và nhanh chóng gửi hàng
tấn lương thực để cứu giúp những người Ba Lan đang bị đói khát ấy.

Thảm họa cuối cùng cũng đã được ngăn chặn. Thủ Tướng Paderewski lúc bấy giờ mới
cảm thấy nhẹ nhõm. Ông bèn quyết định đi sang Mỹ để tự mình cảm ơn ông Hoover
vì cử chí cao quý của ông ấy đã giúp đỡ người dân Ba Lan trong những lúc khó khăn. Thế nhưng khi Paderewski chuẩn bị nói câu cảm ơn thì ông Hoover vội cắt ngang và nói : “Ngài không cần phải cảm ơn tôi đâu, thưa ngài Thủ Tướng. Có lẽ ngài không còn nhớ, nhưng vài năm trước, ngài có giúp đỡ hai cậu sinh viên trẻ tuổi ở bên Mỹ được tiếp tục đi học, và tôi là một trong hai chàng sinh viên đó đấy ”

THẾ GIỚI NÀY ĐÚNG THẬT LÀ TUYỆT VỜI, KHI BẠN CHO ĐI THỨ GÌ, BẠN SẼ NHẬN LẠI ĐƯỢC NHỮNG ĐIỀU TƯƠNG TỰ.

 

Chọn Sống Đơn Giản Thoải Mái

Chọn Sống Đơn Giản Thoải Mái

(Hạnh Phúc Gia Đình)

Tác giả:Tuyết Mai

Tôi không hiểu làm sao để nói chuyện được với ông nhà tôi mà tránh khỏi không khó chịu, không trả lời lại, ngồi im nghe ông than phiền, và ỉ ôi?.   Tôi không hiểu các bà vợ ngoài kia
có bị giống tôi hay không?.   Sao ông nhà tôi không thể kiếm được chuyện gì khác nói cho nó vui vẻ, cho có không khí hòa bình, tìm giải quyết vấn đề, mà không là đề cao, so sánh, hay muốn bắt chước thiên hạ là sao gia đình người ta được may mắn thế này hay phải chi mình được giống họ thế kia, v.v…?.

Tôi nghĩ chắc ông nhà tôi đang biến đổi tâm lý chuyển thành người già hay sao đó!?.   Chứ ông không hiểu rằng mỗi người mỗi khác, mỗi nhà mỗi khác, và cách sống của mỗi nhà cũng mỗi khác hay sao?.   Bà hàng xóm bạn đâu phải mẫu gương hay mẫu mực khi ông chỉ biết sơ về bà mà ông đem tôi ra so sánh?.   Các con của bạn ông đâu phải là con ông để chúng có thể học làm bác sĩ, luật sư, hay dược sĩ để cho ông được nở mặt nở mày?.   Và cách sống trong nhà của họ đâu có thích hợp với gia đình sống của chúng tôi.   Sao ông không
hiểu?.    Ông thường nói về những đề tài chính trị, chuyện nhà người ta, con cái người ta mà tôi ít có tán đồng ý kiến của ông.   Ông thiếu tâm lý có phải không? Tôi thì nghĩ rằng ông cần có bạn để tâm sự thì đúng hơn, nhưng ông không có được.

Theo tôi nghĩ không nơi nào giúp cho chúng ta sống cách đơn giản và ngay thẳng cho bằng ngay trong gia đình của mình.   Không điều gì cho chúng ta sự bực mình và khó chịu nhất khi người thân của chúng ta không được thẳn thắn trong mọi vấn đề mà chỉ úp úp mở
mở và đòi hỏi thời giờ cùng cái đầu đã nhét đầy những công việc và sự sắp xếp theo thứ tự trong đó!.   Rồi tỏ lộ sự giận hờn, không thèm nói, không thưa cũng không gởi, để mình phải gặn hỏi thì mới được đả thông cái không khí khó chịu ngộp thở ấy!.

Thật vậy đấy, nếu trong gia đình chúng ta tuổi tác có khá chênh lệch nhau.   Giữa ông bà, cha mẹ, các con, và các cháu.   Sự hiểu lầm rất thường xẩy ra.   Sự giận hờn và tủi thân cũng rất thường thấy và sự câm lặng trong không khí ngột ngạt cũng cho nhau bao nhức đầu và bao phiền muộn.   Đôi khi ta bị khiển trách cách rất đúng và rất đáng đời.   Nhưng cũng có lắm khi sự lên án ấy nghe như nặng ngàn cân! Nhưng thay vì ta chọn giải pháp thẳng thắn để xóa tan sự hiểu lầm là con mời bố hay mẹ, ông hay bà, anh hay chị ngồi xuống  đây cắt nghĩa rõ ràng tại sao lại nói những lời nặng nề mà quá sự chịu đựng của con, của cháu, anh chị em, hay của tôi?.

Để sau đó tinh thần của chúng ta được thoải mái hơn nhiều.   Mọi sự hiểu lầm, ấm ức, bực tức sẽ được đả thông, và không khí yêu thương lại được tràn đầy.   Đi ngủ thoải mái để chúng ta lại bắt buộc phải đối mặt hay đối chọi với người, với đời, và với công việc ngổn ngang luôn chờ đợi ta hằng ngày.   Nhưng thưa thường thì giải pháp tốt lành đó chúng ta vì Tự Ái nên không ai nói ai, hay không ai bảo ai, không muốn cho mọi người thấy rằng mình ở thế hạ phong phải xuống nước giảng hòa với vợ, con, và những ai ở hàng thấp bé hơn mình; ồ ngay cả con em cũng hay giận hờn ngược lại với cha mẹ, ông bà, và anh chị là chuyện thường rất xẩy ra!.

Vâng, cuộc đời quả ngắn ngủi nếu chúng ta chọn giải pháp sống đơn giản, thoải mái cho chính mình và người thân, thì bảo đảm cuộc sống và sức khỏe của chúng ta sẽ có nhiều kết quả mỹ mãn hơn.   Vì một tinh thần thoải mái yêu đời sẽ cho chính chúng ta năng lượng nhiều hơn.   Như pin (battery) luôn được Chúa charge cho đầy.   Để pin ấy sẽ cho chiếc đèn pin sống lâu sống đúng với chức năng của nó.   Đúng với công việc của nó là làm đèn pin soi sáng cho  những nơi có bóng tối.

Những sự giận hờn, bực tức, lo lắng, tham lam, cố công cố việc, sẽ là những tiêu hao của cục pin và đó là chúng ta tự làm giảm đi năm sống thọ của chúng ta.   Khi chúng ta còn quá trẻ,
chưa trả nợ cho người.   Chưa trả nợ cho đời và chưa trả nợ cho Chúa, huống hồ gì Chúa lại đòi tiền Lãi từ nơi chúng ta, thưa có phải?? …. Như bài hát “Yêu ai yêu cả một đời …. Tình cho không biếu không ….”.   Vì biết Yêu Chúa Yêu Người, chúng ta sẽ trở nên trọn hảo hơn trong Ơn Nghĩa Chúa!.

Có phải tất cả chúng ta luôn gặp sự khó khăn khi chúng ta sống trong một thế giới mà đau khổ là triền miên.   Tội ác cứ vẩn tiếp diễn.   Thiên Tai cũng là cái họa đem lại cho con người.   Và cái chết hằng ngày vẫn xẩy đến cho anh chị em của chúng ta?.   Thế thì ăn thua ở cách sống của chúng ta Biết Chọn Lựa mà thôi!.   Như câu “khôn cũng chết, dại cũng chết, chỉ cần Biết thì chúng ta sống”.   Vì thế một là chúng ta chọn sống trong bi quan để mọi thứ mọi điều như đều muốn sụp đổ trên đầu của chúng ta rồi chết trong uất ức trong tiếc nuối; chẳng để lại điều gì tốt đẹp trong cuộc đời …. Là người được Chúa cho 1 nén bạc; song cất giấu đi.

Hai là chọn cách sống trong lạc quan để hiểu rằng ta chẳng níu lại được điều gì hay có thể làm lại cuộc đời, khi chúng ta “chết” cho nên hãy sống trong thoải mái trong yêu thương.
Cố gắng tìm cho mọi  người sự vui vẻ, quan tâm, lo lắng, và chia sẻ của ta; Đó là người mà Chúa trao ban cho 2, 5, hay 10 nén bạc; để trả Lãi cho Chúa gấp đôi.

Sống lạc quan vui vẻ yêu đời sẽ là mấu chốt (keys), bài học, cách giúp chúng ta sống có trách nhiệm hơn, yêu đời, và yêu người nhiều hơn.   Là đèn soi dẫn cho chính mình và đồng thời giúp cho người đi lạc thấy đường trở về Bến Bình An như lòng Chúa mong đợi.
Như lời của Mẹ Thánh Têrêsa nói “ Do not wait for leaders; do it alone, person to person” tạm dịch là “đừng chờ những người lãnh đạo; làm một mình, người với người”.   Rất hy vọng lắm thay!!!.

** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

http://www.youtube.com/watch?v=DqwsvMjF-C0

(Vui Vẻ Yêu Đời Hồng Ân Chúa Ban)

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(09-21-12)

 

Nhân nghĩa đạo đức nay còn đâu!

Nhân nghĩa đạo đức nay còn đâu!

Trần Việt Trình

Cách đây chỉ mới mấy hôm, việc một ông cụ già ngay sau khi vừa xuất viện bị các con “vứt” ra ngoài vỉa hè nằm phơi nắng, phơi mưa gần 1 ngày trời đang còn gây xôn xao và khiến cho dư luận hết sức phẫn nộ.

Sự việc xảy ra vào trưa ngày 7 tháng 9 vừa qua, cụ ông tên Ngô Vỹ Nhân (87 tuổi) sau khi bệnh viện cho về sau 2 tháng điều trị đã bị các con đưa tới trải chiếu đặt nằm trên vỉa
hè trước cửa ngôi nhà số 11, phố Núi Trúc, Hà Nội.

Ngôi nhà nói trên là của người con trai cả của ông đã qua đời cách đây 2 năm. Hiện tại, người con dâu cả, cháu nội gái và người vợ đã ly thân của ông đang sống trong căn nhà này. Tầng trệt của ngôi nhà được cho thuê làm tiệm bán quần áo.

Ông chủ quán nước đối diện với ngôi nhà kể lại sự việc như sau: “Khoảng 11 giờ trưa tôi thấy chiếc taxi chở ông cụ Nhân về đây. Con gái, con dâu, con rể cụ vừa đưa bố xuống xe đã trải chiếu ngay trên vỉa hè để bố nằm. Rồi thì lỉnh kỉnh quần áo, đồ đạc đi viện cũng bị vứt xung quanh ông cụ”.

Ông chủ quán nước thở dài: “Nhìn ông cụ chỉ còn da bọc xương, gắng gượng hút bát phở mà lòng đắng ngắt. Chúng tôi chỉ là hàng xóm sống xung quanh mà còn không cầm được nước mắt khi nhìn ông cụ nằm mê mệt trên vỉa hè. Con cái bất nhân quá”.

Ông kể tiếp: “Trời lúc nắng lúc mưa. Có lúc chỗ ông cụ nằm còn là vũng nước mà chúng nó vẫn mặc kệ. Anh con rể cầm được 2 cái ô ra che mưa cho bố vợ. Còn hai cô con gái chạy vào mái hiên gần đấy đứng trú. Thỉnh thoảng lại chạy ra ngó xem bố còn sống hay không”.

 

(Ảnh: Xa Lộ Tin Tức)

Đến quá 8 giờ tối mà sự việc vẫn chưa được  giải quyết, mặc dầu đã có chính quyền địa phương can thiệp, quá phẫn nộ về hành động ngược đãi cha của con cái của ông Nhân, ông chủ quán nước đã phải gay gắt mắng mỏ: “Không thể chấp nhận được lũ con mất nhân tính đó. Tôi sang nói với anh con rể có đưa cụ về nhà ngay không dân tình ở đây không tha cho các anh. Hàng xóm cũng làm ầm ĩ, ép anh này phải gọi taxi đưa bố về nhà ngay lập tức”. Người con rể của ông cụ gọi đến 5,7 chiếc taxi nhưng không tài xế nào chịu chở
vì sợ mang họa.

Chứng kiến cảnh đau lòng đó, nhiều người dân sống quanh khu vực đã phải phản đối, thậm chí còn to tiếng với các con của ông cụ, cuối cùng các con của ông đành phải đưa ông về nhà người con gái thứ hai.

Ông chủ quán nước kể rằng trong tình cảnh thương tâm đó, ông cụ chỉ im lặng, mắt nhắm chặt mà hai dòng nước mắt cứ ứa ra ràn rụa.

Sự việc đã làm cho những người dân sống quanh đó và người đi đường không khỏi ngỡ ngàng. Không rõ lý do gì các con của ông lại đối xử tệ bạc với cha của họ, nhưng rất nhiều người không dằn được lòng đã phải lên tiếng bất bình.

Được biết khi ông cụ được đưa tới đây, các con của ông, con rể và con dâu của ông đã to tiếng, thậm chí còn “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” với nhau. Sau khi hàng xóm can gián, cô con dâu chủ nhà đã khóa cửa lại quyết không cho đưa ông vào nhà. Đứa cháu nội gái của ông 20 tuổi thì lại ngồi giữ cửa. Bà vợ đã ly thân với ông ở trong nhà cũng không ra mặt.

 



Được biết do bất hòa nên từ đã vài chục năm nay, ông cụ và vợ đã sống ly thân với nhau. Hai người con trai phân công nhau trách nhiệm nuôi dưỡng bố mẹ già. Theo thỏa thuận thì người con trai cả nhận nuôi mẹ còn người con trai út nhận nuôi cha. Hiện tại, người con trai cả đã quá cố, người con dâu cả vẫn làm bổn phận phụng dưỡng mẹ chồng. Sự việc không có gì đáng nói nếu không có chuyện hai cô con gái của ông cụ mang cha mình đến đặt nằm trên vỉa hè trước của ngôi nhà của người anh trai và ép chị dâu cho cha vào nhà, nhận thêm trách nhiệm phụng dưỡng cha mình.

Nói tới đây ai cũng có thể đoán được sự việc chẳng qua là vì các con của ông muốn tranh chấp ngôi nhà mà bà chị chồng (vợ của anh mình đã mất), cháu gái (con của anh mình) và mẹ (đã ly thân với cha của minh) đang sở hữu.

Tưởng cũng nên biết, ông cụ có 4 người con, 2 trai và 2 gái. Cả 4 người con của cụ đều được cho ăn học đàng hoàng, đến nơi đến chốn, ai cũng thành đạt và giàu có. Ngoài người con trai cả đã mất, 3 người con còn lại đều thành đạt và hiện đang làm ở các cơ quan nhà nước. Người con gái lớn của ông từng là y tá trưởng ở bệnh viện Mắt Trung ương, chồng là giảng viên trường đại học Thủy Lợi. Hai người con còn lại thì người làm kế toán, người làm bảo hiểm, hiện đã làm tới chức Trưởng phòng trong Công ty bảo hiểm Prudential Việt Nam. Nói như vậy để thấy bầy con của ông là một lũ có tài mà không có đức. Nhẫn tâm đặt cha đẻ của mình nằm trên vũng nước vỉa hè, phơi mưa, phơi nắng hơn 10 tiếng đồng hồ là một hành động nhẫn tâm, đáng xấu hổ và phải bị lên án nặng nề!

Nói gì thì nói, ai đúng ai sai chưa biết, chỉ việc dùng chính sức khỏe, tính mạng của cha mình ra để hầu mong đạt một mục đích (đen tối) nào đó thì quả thật quá bất nhân, bất nghĩa, vô đạo đức, không thể nào chấp nhận được!

Có loại con nào nỡ đối xử với người đã sinh thành dưỡng dục mình như vậy không!? Bất hiếu! Một lũ con bất hiếu! Chỉ biết nghĩ cho bản thân mình còn cha mẹ già thì bỏ mặc, dám đem ra làm phương tiện trao đổi trong khi ông cụ sức đã già yếu không biết sống được bao lâu nữa. Không biết khi hành hạ cha đẻ của mình như vậy, mấy người con của cụ có thấy
chút ray rứt nào không? Cha đẻ mà còn dám vứt ra đường như vậy thì chuyện gì mà
họ không dám làm!?

Đó là tiếng chuông dóng lên cảnh báo sự suy đồi đạo đức nghiêm trọng đã và đang xảy ra trong xã hội Việt Nam.

Đạo đức ngày nay ở VN như vậy đó sao? Với cha mẹ mình mà còn đối xử tệ bạc như thế thì thử hỏi với xã hội, với tha nhân, người ta sẽ đối xử ra sao nữa? Công việc của họ đang làm, chức vụ của họ đang nắm trong xã hội, chỉ để chuộc lợi cho mình thôi sao?

Trên đường phố VN ngày nay, nhan nhản những cách hành xử vô tình, vô tâm và vô cảm. Chỉ cần lướt qua một vài tờ báo online, lướt qua một vài tin tức trên các trang web trong nước là ai cũng sẽ dễ dàng bắt gặp vô số những tin tức tệ hại về nạn vô cảm. Nó đang hoành hành và lây lan khắp nước.

Nhưng đó chỉ là chuyện giữa người với người, không quen biết nhau. Vô cảm đối với cả người đã sinh thành và dưỡng dục mình là một chuyện ghê gớm, không chấp nhận được và đáng bị nguyền rủa.

So sánh sự khác biệt của xã hội VN xưa và nay, vẫn biết rằng thời nào cũng có sự hiện diện của cái thiện và cái ác, người tốt và kẻ xấu, tuy nhiên nó khác nhau về mức độ và sự thể hiện ở từng thời điểm. Đúng. Vậy thì căn bịnh vô cảm này do đâu mà có?

Xét về mặt xã hội, xã hội VN bây giờ quá phức tạp, đầy rẫy lọc lừa và tranh ăn.

Xét về mặt đạo đức, xã hội VN hiện tại quá đỗi suy đồi, niềm tin khủng hoảng. Đặc biệt, đó là sự suy đồi về đạo đức, nhân phẩm của những thế hệ trẻ ngày nay, mà biểu hiện rõ nhất đó chính là thái độ thờ ơ, vô cảm đối với mọi sự vật, mọi sự việc diễn ra xung quanh. Thái độ này đang dần lan tỏa trong xã hội VN, không chỉ trong giới trẻ mà đã len lỏi vào khắp mọi giới, không chỉ địa phương hay vùng miền nào mà lây lan khắp nước.

Xét về mặt giáo dục, căn bệnh vô cảm này là sản phẩm của một nền giáo dục yếu kém, thất bại. Nền giáo dục của người CS giáo điều với lý thuyết khô khan và nặng nề, không chú trọng đến việc đào tạo  nên “nhân cách” mà chỉ chú trọng đến việc đào tạo ra “nhân lực”. Nó thể hiện qua các chính sách, pháp lệnh cũng như chương trình học nặng nề của nhà nước.
Các môn quan trọng góp phần hình thành nên “nhân cách” con người là Giáo dục công dân từ lâu đã trở thành những môn phụ không đáng quan tâm, thời lượng tiết học vô cùng ít ỏi và nội dung học thì quá nặng nề, giáo điều thì làm sao có thể đào tạo nên những nhân tố tốt được. Sự sai lầm của giáo dục đã kéo theo một thế hệ không hoàn chỉnh, một thế hệ không thể nào miễn nhiễm được với những căn bệnh như vô cảm.

Tựu trung, căn bệnh vô cảm là kết quả của một lối sống chụp giựt, bon chen và tranh giành ngày nay, ngày ngày ăn sâu vào tinh thần văn hóa của xã hội VN khi mà các giá trị sống, giá trị đạo đức tinh thần, lòng bao dung nhân ái, tình thương yêu đồng loại, và sự hy sinh đang dần bị thế chỗ bởi chủ nghĩa vật chất và lợi ích cá nhân … làm cho con người không còn cảm giác trước nỗi đau của đồng loại, của người thân.

Người Việt mình xưa nay có truyền thống vô cùng tốt đẹp là “thương người như thể thương thân”, ấy vậy mà ngày nay có những cách sống đang đạp đổ truyền thống tốt đẹp này. Chữ “nghĩa” trong xã hội VN dường như đang dần mất đi nên con người hiện chỉ biết sống vì mình, sống ích kỷ, không còn dám hy sinh và sống không có trách nhiệm với đồng loại. Ngày xưa con người sống trọng “nghĩa, luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, sự hy sinh, sẵn
sàng xả thân vì cái thiện, cho gia đình, cho đồng loại và cho đất nước. Vì thế mà ở thời ông cha ta những giá trị căn bản của tình nghĩa gia đình, thầy trò, tình yêu quê hương đất nước luôn được đặt lên cái tôi cá nhân. Bức tranh xã hội đang có sự đảo lộn giá trị, cái ác lên ngôi, trong khi giá trị nhân bản đang bị chìm lấp. Ngày nay, đang có sự thay đổi lớn trong hệ thống giá trị sống của con người. Khi một xã hội, một đất nước mà những người sống trong đó vô cảm, không hợp quần, không tương thân tương trợ lẫn nhau, không giúp đỡ nhau thì tất yếu cái xã hội đó sẽ què quặt, đất nước đó sẽ sụp đổ và bị tiêu hủy.

Nước VN của tôi ngày nay là thế đó. Dân tình của nước VN của tôi ngày nay là thế đó. Đó là kết quả của gần 60 năm xây dựng đất nước xã hội được mang danh là xã hội xã hội chủ nghĩa của những người vô thần, vô trách nhiệm, vô tri và vô giác đã đưa người dân cả nước đến chỗ vô tình, vô tâm và vô cảm ngày nay.

12 tháng 9 năm 2012

Trần Việt Trình

 

Giỗ 100 năm Hàn Mặc Tử:Có Chở Trăng Về Kịp Tối Nay ?


Giỗ 100 năm Hàn Mặc Tử:Có Chở  Trăng Về Kịp Tối Nay ?

LM. Giuse Trương Đình Hiền

9/20/2012                             nguồn: Vietcatholic.net

(Bài chia sẻ trong thánh lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhật thi sĩ Hàn Mặc Tử )
(22/11/1912 – 22/11/2012)
Kính thưa cộng đoàn Phụng Vụ,
Trong bầu khí ấm cúng, thân thương của Bàn Tiệc Thánh Thể hôm nay, thánh lễ
dành kỷ niệm 100 năm ngày sinh của thi sĩ Hàn Mặc Tử, một nhà thơ Công Giáo,
một vì sao chói lọi trên vòm trời thi ca Việt Nam thế kỷ 20, quả thật chúng
ta thấy gần gũi dường nào và ấm cũng biết bao:
– Ấm cúng với nhau, bên nhau trong niềm tin phục sinh – cõi vĩnh hằng và
trong đồng cảm văn hóa, văn hóa của thi ca mà người đón mời và nối kết hôm
nay – thi sĩ Hàn Mặc Tử, đang hiện diện cách vô hình.
– Gần gũi với cõi thiêng liêng, với Đấng Thiên Chúa yêu thương và toàn năng,
một sự gần gũi mà hình như chỉ có ngôn ngữ thi ca của Hàn Mặc Tử mới diễn đạt
cách tài tình và sống động:
Cả trời bỗng tiêu diêu như báu vỡ:

Nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm,
Mà ta ngỡ đấng tiên tri muôn thuở

Giữa đêm nay còn đứng giảng Phúc Âm. (Nguồn Thơm)
Hôm nay chúng ta tưởng niệm một người đã khuất nhưng trong một “bàn tiệc
của sự sống”; niềm tin đã nối kết kẻ sống và người đã ra đi trong niềm
hoan vui đoàn tụ và hy vọng phục sinh. Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất chí lý
khi diễn tả cảm nhận nầy trong ca khúc “Nối vòng tay lớn”:
“Người chết nối linh thiêng vào đời và nụ cười nở trên môi”. Tôi
tin chắc rằng, nếu thi sĩ Hàn Mặc Tử mà sống lại và hiện diện như chúng ta và
với chúng ta trong bối cảnh nầy, chắc anh đã có một bài thơ khác về cái chết,
về sự sống bên kia sẽ đầy hy vọng, tươi sáng hơn những bài thơ mà anh đã sáng
tác khi liên tưởng tới cái chết của chính mình, một sự hiện hữu của thế giới
bên kia mà anh cảm nhận quá ư cô đơn, đen tối, lạnh lùng:
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu ?

Ai đem tôi bỏ dưới sông sâu ?
Sao bông phượng nở trong màu huyết ?
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu ? (Những Giọt Lệ)

Hoặc:
Rồi hồn ngắm tử thi hồn tan rã,

Bốc thành âm khí loãng nguyệt cầu xa.
Hồn mất xác, hồn sẽ cười nghiêng ngả,
Và kêu rêu thảm thiết khắp bao la. .. (Hồn lìa khỏi xác)

Hoặc:
Một mai kia ở bên khe nước ngọc

Với sao sương Anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn Anh và rửa vết thương tâm (Duyên kỳ ngộ)

Mà quả thật, hôm nay, trên cõi vĩnh hằng, chắc chắn anh đã cảm nhận khác rồi.
Đặc biệt hôm nay, và trong suốt bao tháng năm qua, tưởng nhớ đến anh không
chỉ là “bông phượng nở trong màu huyết” để “Nhỏ xuống lòng tôi
những giọt châu”, hay để “nàng tiên mô đến khóc ” và hôn Anh
và rửa vết thương tâm”. ..mà như nhận xét của Kiều Văn:
“Hơn nửa thế kỷ qua, không thể đếm xuể những con người thuộc mọi tầng lớp,
mọi trình độ, đã nghiêng mình kính cẩn trước anh linh Hàn Mặc Tử, không thể
đong được những dòng lệ mà người đời đã nhỏ xuống khóc người thi sĩ tài hoa
bạc mệnh ấy”
(Trích trong bài khảo luận: “Hàn Mặc Tử Anh là ai
? của Hoàng Vũ Thuật)
Nhưng cho dù anh thế nào và nhiều người ở đây đã biết về anh ra sao, thì
trong ngày kỷ niệm 100 năm anh mở mắt chào đời, 100 năm anh được Thượng Đế
trao ban cuộc sống làm người và làm con Thiên Chúa, chúng ta cũng phải một
lần sơ lượt cuộc đời và sự nghiệp của anh, như nghĩa cử “đập cổ kính ra
tìm lấy bóng”, một cái bóng vĩ đại trên thi đàn Việt Nam và trong vườn
thơ Công Giáo.
Hàn Mạc Tử hay Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí. Sinh ngày 22.9.1912
tại làng Lệ Mỹ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc (nay là Đồng Hới), tỉnh Quảng
Bình. Được rửa tội ngày 25.9.1912 tại nhà thờ Tam Tòa với tên thánh Phanxicô
Assisi và 21 năm sau – 1933 – chịu phép Thêm Sức tại nhà thờ Chính Tòa Qui
Nhơn với tên thánh là Phanxicô Xavie. Thân phụ và thân mẫu của thi sĩ là Vinh
Sơn Phaolô Nguyễn Văn Toản và Maria Nguyễn thị Duy.
Nhà thơ Hàn Mạc Tử là người con thứ tư trong một gia đình có 8 anh chị em:
anh trai là Nguyễn Bá Nhân, hai chị là Nguyễn Thị Như Nghĩa, Nguyễn Thị Như
Lễ và bốn em trai là Nguyễn Bá Tín, Nguyễn Bá Hiếu, Nguyễn Văn Hiền, Nguyễn
Văn Thảo. Vì là một nhà nho học, ông Nguyễn Văn Toản đã chọn Ngũ Thường
(Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí Tín) của Ðức Khổng Tử để đặt tên cho các con với ước
mong chúng sẽ bước theo vết chân của các bậc thánh hiền.
Do hoàn cảnh gia đình, thi sĩ phải di cư và sống nhiều nơi: Sa Kỳ Quảng Ngãi
(1924-1926), Qui Nhơn (1926-1928), Học Pellerin ở Huế (1928-1930), làm công
chức ở Qui Nhơn (1930-1933), sống và viết báo tại Sài Gòn (1934-1936), về lại
Qui Nhơn và tạm trú nhiều nơi khi trỗ bệnh hiểm nghèo (1937-1940). Ngày
20.09.1940 nhập trai phong Qui Hòa với số hiệu bệnh nhân 1134 để được các nữ
tu dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ chăm sóc.
Sau 52 ngày được các nữ tu, đặc biệt sơ Julienne và Mẹ Nhất Maria Juetta, tận
tình săn sóc, cùng một người bạn thân đồng bệnh đồng đạo người Huế, ông
Nguyễn Văn Xê, giúp đỡ, nhà thơ tài hoa bạc mệnh Hàn Mạc Tử đã nhẹ nhàng tắt
thở lúc 5 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 11, 1940, hưởng dương 28 tuổi.
Sau đây là “gia tài văn hóa” của Hàn Mặc Tử:
– Lệ thanh thi tập Thơ
– Gái quê Thơ
– Nắng xuân Giai phẩm
– Đau thương Thơ
– Xuân như ý Thơ
– Thượng thanh khí Thơ
– Cẩm châu duyên Thơ
– Duyên kỳ ngộ Kịch
– Quần tiên hội Kịch
– Chơi giữa mùa trăng Thơ văn xuôi
Sau 72 năm từ khi thi sĩ qua đời (1940), đã có không biết bao nhiêu phê bình,
đánh giá, nghiên cứu, mổ xẻ. Nhà phê bình Trần Văn Lý trong tiểu luận văn học
tái bản năm 2006, đã xếp Hàn Mặc Tử là một trong 4 thi sĩ tiêu biểu đáng nhớ
nhất của thế kỷ 20.
Riêng trong lãnh vực niềm tin và thi ca nơi hàn Mặc Tử, linh mục Trần Quý
Thiện đã có những nhận xét chí lý:
“Hàn Mặc Tử, một thi nhân, một nhà thơ Công Giáo, một tâm hồn thuấn nhầm
Niềm Tin Công Giáo sâu sắc, được nuôi dưỡng bằng kinh nguyện, bằng đời sống
nội tâm phong phú thánh thiện, đã khám phá được những chiều kích mới lạ vượt
qua những niềm đau bất hạnh mà thi nhân đã trải qua. Càng đọc thi phẩm bất hủ
Ave Maria càng đưa chúng ta tới bến bờ huyền nhiệm trong thế giới vô hình.
Phải chăng qua đó, nhà thơ đã đi tiên phong trong sứ mệnh trình bày một nền
Thần học Á Châu dựa trên những suy tư và văn hóa lâu đời của Á Châu. Ðem tôn
giáo vào thơ, lấy nguồn cảm hứng thơ trong tôn giáo phải chăng Hàn Mạc Tử đã
đi đúng con đường mà sau này Tông Huấn Giáo Hội Á Châu đã trình bày. Ðây
chính là một vinh dự cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, vì có một người con đã
đóng góp và khai phá một con đường mới trong Văn Học Việt Nam”
.
Nhưng có lẽ để tóm kết những gì đặc biệt nhất, thâm sâu nhất, tuyệt vời nhất
về giá trị thi ca nơi Hàn Mặc Tử, cả đạo lẫn đời, nhiều người có thể tâm đắc
với nhận xét của thi sĩ Chế Lan Viên, người bạn và nhà thơ đồng thời với Hàn
Mặc Tử: “Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường,
mực thước kia biến tan đi và còn lại của cái thời kỳ này chút gì đáng kể, đó
là Hàn Mặc Tử”.
Kính thưa cộng đoàn,
Trong khung cảnh Phụng Vụ của thánh lễ tưởng niệm hôm nay, đặc biệt, qua gợi
ý của trích đoạn Tin Mừng Luca về “Dụ ngôn người gieo giống”, tôi chỉ xin
chia sẻ đôi điều về người thi sĩ mang danh “thi sĩ của đạo quân Thánh Gi
1. Hàn Mặc Tử: người đã đem hạt giống Lời Chúa, hạt giống đức tin nhập thể
vào đời bằng ngôn ngữ thi ca.
Để xác định ý nghĩa nầy chúng ta có thể đọc lại chính quan niệm của anh về
thơ:
“Đức Chúa trời tạo ra trăng, hoa, nhạc, hương là để cho người đời hưởng
thụ, nhưng người đời u mê phần nhiều không biết tận hưởng một cách say sưa,
và nhân đấy chiêm nghiệm lẽ mầu nhiệm, phép tắc của Đấng Chí tôn. Vì thế, trừ
hai loài trọng vọng là “ thiên thần” và “ loài người”, Đức Chúa Trời phải cho
ra đời một loài thứ ba nữa: “ loài thi sĩ”! Loài này là những bông hoa rất
quí và rất hiếm, sinh ra đời với một sứ mạng rất thiêng liêng: Phải biết tận
hưởng những công trình châu báu của Đức Chúa Trời đã gây nên, ca ngợi quyền
phép của Người, và trút vào linh hồn người ta những nguồn khoái lạc đê mê,
nhưng rất thơm tho tinh sạch…Cho nên tất cả thi sĩ trong đời phải qui tụ,
phải đi khơi mạch thơ ở Đức Chúa Trời. Thi sĩ không phải là một người thường.
Với một sứ mệnh của Trời thi sĩ phải biết đem cái tài năng ra ca ngợi Đấng
Chí Tôn, và làm cho người đời thấy rõ vẽ đẹp của thơ, để đua nhau nhìn nhận
và tận hưởng…”
(Thư gửi cho Trọng Miên: Quan niệm về Thơ).
Và phải chăng đó chính dòng chảy bất tận thiên thu của công trình “hội nhập
hạt giống Lời Chúa” mà ngay từ thuở hồng hoang Cựu ước, các tác giá Thánh
Kinh thể hiện với “Diễm Tình Ca”, với “Thánh Vịnh”, với những hình ảnh thơ
mộng nơi Isaia, tình tứ nơi Hô-sê hay huyền ảo, mầu nhiệm với Ê-giê-ki-en,
Đa-ni-en…
Chỉ một đôi câu trong bài thơ “Thánh Nữ Đồng Trinh”, thi sĩ Hàn Mặc Tử đã cho
chúng ta cái cảm nhận thật sống động về mầu nhiệm Nhập Thể-Giáng Sinh:
Hỡi Sứ Thần Thiên Chúa Gabriel,

Khi người xuống truyền tin cho Thánh Nữ,
Người có nghe xôn xao muôn tinh tú?
Người có nghe náo động cả muôn trờỉ
Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời…(

Thánh Nữ Đồng Trinh)
Và đó chính cuộc gặp gỡ, giao duyên của những con người đã từng có những cảm
nhận sâu xa về đức tin, về Lời Chúa để có thể “bật ra” những diễn cảm thâm
thúy, hay ho mà lịch sử Giáo Hội đã minh chứng qua các chứng nhân như Giáo
phụ Augustinô, các nhà thần bí như Têrêsa Avila, Gioan Thánh Giá…
Riêng Hội Thánh Việt Nam, trước Hàn Mặc Tử, cũng đã có bao nhiêu con người đã
vận dụng thơ văn để chuyển tải Lời Chúa, để truyền bá đức tin mà hôm nay
chúng ta xác nhận bằng ngôn ngữ của thời đại đó là những cuộc “hội nhập văn
hóa”.
2. Hàn Mặc Tử: Người đã biến cuộc đời thành mảnh đất tốt để hạt giống đức tin
sinh hoa kết trái phong phú.
Với chỉ 28 năm trong cuộc đời tại thế mà trong đó là lao đao lận đận trong bể
khổ bến mê, thất bại trong đường tình, đớn đau vì bệnh tật. Thế nhưng, Hàn
Mặc Tử không vì thế mà để cuộc đời mình chìm đắm trong thất vọng nảo nề, thui
chột trong đầu hàng bế tắc. Anh đã sống hết mình và đã biến mình thành một “hạt
giống chịu mục nát với thời gian”, một “mảnh đất tốt để trỗ sinh nhiều hoa
trái”. Anh đã nói:
“Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng
lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của Tình Yêu. Tôi đã vui,
buồn, giận hờn đến gần đứt cả Sự Sống”. (Lời tựa của tập Thơ Điên 1938)
Trong ý nghĩa đó, quả Hàn Mặc Tử đã gia nhập những thế hệ nhân chứng mà thi
sĩ đã tự nhận đó là “đạo quân Thánh giá”:
“Đây thi sĩ của đạo quân Thánh giá,

Nửa đêm nay vùng dậy để tung hô,
Để sớt cho cả xuân xuân thiên hạ
Hương mến yêu là lộc của lời thơ”.

(Nguồn Thơm)
Kính thưa quý vị, trong bàn Tiệc Thánh Thể hôm nay, trong niềm tin vào sự
Phục Sinh của Chúa Kitô, chúng ta tin rằng, Hàn Mặc Tử đang cùng chúng ta
tham dự bàn Tiệc Tạ Ơn nầy, đang cùng nhau dâng lời ca ngợi tạ ơn Chúa, tôn
vinh Đức Mẹ Đồng Trinh, lời tôn vinh ca ngợi vượt qua không gian và thời gian
mà ngày xưa chính thi sĩ đã từng cảm nhận:
Ngọc như ý vô tri còn biết cả

Huống chi tôi là Thánh thể kết tinh
Tôi ưa nhìn Bắc Đẩu rạng bình minh,
Chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế giớị..
Sáng nhiều quá cho thanh âm vời vợi,
Thơm dường bao cho miệng lưỡi khong khen

. (Thánh Nữ Đồng Trinh)
Và có lẽ, nói về Hàn Mặc Tử sẽ không bao giờ ta nói hết, chia sẻ về người thi
sĩ mang tiếng “Điên” nầy sẽ không bao giờ cạn. Bởi chính anh ta cũng chỉ là
một nổi khát vọng vô bờ như hình ảnh con chim phượng hoàng bay cao, bay cao
lên mãi như lời thơ anh:
Phượng Trì! Phượng Trì!Phượng Trì! Phượng Trì!

Thơ tôi bay suốt một đời chưa thấu,
Hồn tôi bay đến bao giờ mới đậu

.
Và như thế, để tưởng niệm 100 năm ngày sinh của Hàn Mặc Tử hôm nay, chúng ta
cũng chỉ như một khách sang sông mượn chiếc thuyền chở trăng về quá khứ cho
kịp tối nay:
Thuyền ai đậu bến Sông Trăng đó,

Có chở trăng về kịp tối nay?

(Đây thôn Vỹ Dạ)
Để nói với Hàn Mặc Tử rằng: Yên tâm đi thi sĩ, chúng tôi ở đây, bây giờ vẫn
dành cho anh một tình cảm đậm đà, đậm đà như tim anh đã từng rung lên khi về
thăm thôn Vỹ:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,

Ai biết tình ai có đậm đà?

(Đây thôn Vỹ Dạ)
Và như thế, chúng ta đã sẵn sàng cùng với anh tiến dâng cuộc đời làm hy lễ.
Amen.
LM. Giuse Trương Đình Hiền

Thiên Chúa có kêu gọi bạn ?

 

Thiên Chúa có kêu gọi bạn ?

 

Tác giả JACK GRAHAM

Bạn có nhận ra Thiên Chúa đặc biệt kêu gọi bạn trong cuộc đời này? Ngài thực sự
kêu gọi bạn đấy!

Có thể bạn không cảm thấy Thiên Chúa hướng dẫn bạn trở nên một nhà truyền giáo
hoặc người giảng thuyết, nhưng bạn vẫn được kêu gọi. Đó là nhiệm vụ mà bạn
không được lẩn trốn!

Trong Kinh thánh, 5 lần Chúa Giêsu kêu gọi những người theo Ngài “đi” vào thế
gian và làm chứng về Ngài. Đó cũng là điều chính xác Ngài đang nói với chúng ta
ngày nay. Ngài kêu gọi bạn làm nhân chứng của Ngài. Và bạn có thể bắt đầu từ
ngay nơi bạn đang ở!

Chúng ta được Ngài kêu gọi, điều đó chắc chắn, không còn gì mà nghi ngờ. Bạn có
nghe thấy tiếng Ngài gọi? Bạn có chú ý lời mời gọi đó và vâng theo Thánh Ý
Ngài? Điều đó rất quan trọng để bạn thực hiện.

Bạn biết đó, Thiên Chúa đã đặt những người đặc biệt trên đường đời của bạn. Họ
cần biết những gì Thiên Chúa đã làm cho bạn. Họ cần nghe nói về phúc lành và
bình an của Thiên Chúa. Họ cần biết Thiên Chúa yêu thương họ, thương xót họ, và
họ cần biết Ngài có tương lai hy vọng dành cho họ.

Vậy hãy can đảm trong Đức Kitô! Hãy cầu nguyện cho những người có nhu cầu trong
cuộc đời họ. Hãy làm chứng về Hồng ân Cứu độ của Thiên Chúa. Đó là lời mời gọi
dành cho bạn, là nhiệm vụ mà Thiên Chúa đã tin tưởng trao cho bạn. Hãy hành
động ngay bây giờ, bạn nhé!

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Jesus.org)

Lễ Thánh Lm Anrê KIM, Phaolô CHONG, và các bạn tử đạo – 20/9/2012