HỌ HẾT RƯỢU RỒI

HỌ HẾT RƯỢU RỒI

langthangchieutim

cana_2

Đức Giêsu, Mẹ Ngài và các môn đệ cùng có mặt trong một đám cưới ở làng quê Cana. Đám cưới là một cuộc vui kéo dài cả tuần. Tiếc thay, tiệc nửa chừng thì hết rượu. Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên trong  cuộc đời rao giảng của Ngài. Ngài đã biến nước thành rượu. Ngài trả lại bầu khí vui tươi cho đám cưới.

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay hay kể lại những dấu lạ có ý nghĩa. Những dấu lạ vén mở con người Đức Giêsu.

Làm bánh hóa nhiều cho thấy Đức Giêsu là Bánh thật. Chữa người mù bẩm sinh cho thấy Đức Giêsu là Ánh Sáng. Hoàn sinh Ladarô cho thấy Đức Giêsu là sự Sống Lại.

Dấu lạ ở tiệc cưới Cana cũng cho ta biết Ngài. Thứ nước dùng cho nghi thức tẩy uế của Do Thái giáo, Đức Giêsu biến nó thành rượu ngon, một lượng rượu khổng lồ vượt quá mức đòi hỏi.

Ngài biến nước của Cựu Ước thành rượu của Tân Ước. Như thế Ngài đã mở ra một thời đại mới, thời đại thiên sai, chan chứa niềm vui cứu độ. Cựu Ước không làm con người mãn nguyện. Con người vẫn khát khao và tìm kiếm hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc vẫn là cái gì bèo bọt, mong manh. Đức Giêsu cho thấy mình chính là Đấng Mêsia. Ngài đến để thiết lập một trật tự mới dồi dào và phong phú, như rượu vừa nhiều vừa ngon.

Đức Giêsu đã dự tiệc cưới ở Cana. Ngài muốn dự mọi bữa tiệc liên hoan của con người. Ngài muốn chia sẻ và bảo vệ niềm vui bé nhỏ nơi họ. Đừng để Đức Giêsu đứng ngoài hạnh phúc của bạn. Đừng coi Ngài là người ganh ghét với niềm vui bạn có.  Nếu bạn nghe lời Ngài, đổ nước đầy các chum rỗng, bạn sẽ gặp được hạnh phúc vững bền.

Dấu lạ t.ai tiệc cưới Cana chủ yếu cho ta thấy Đức Giêsu là ai, nhưng Đức Maria cũng có một vai trò đáng kể. Mẹ hiện diện trong tiệc cưới như thân mẫu Đức Giêsu. Mẹ thấy rõ sự lúng túng lo âu của chàng rể. “Họ hết rượu rồi”: Mẹ chỉ nói với Con như vậy. Câu nói của Mẹ ẩn chứa một lời nài xin kín đáo. Mẹ mong Con làm một điều gì đó mà Mẹ không rõ. “Người bảo gì, các anh hãy làm.”

Quả thật Đức Giêsu có bảo và các gia nhân có làm theo, nhờ đó dấu lạ Cana được thực hiện. Qua sự đóng góp của Mẹ trong dấu lạ mở màn này, đức tin của các môn đệ được củng cố và lớn lên.

Hôm nay Mẹ vẫn nói nhỏ với Chúa: Họ hết rượu rồi!

Niềm vui chợt tắt, tình yêu nhạt phai, gia đình tan vỡ… Cần biết bao sự hiện diện của Chúa và Mẹ trong mỗi gia đình, giữa lúc khó khăn bối rối.

“Người bảo gì, các con hãy làm”: Đó vẫn là lời Mẹ nhắn nhủ chúng ta hôm nay.

***

Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.

Mẹ lên đường đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn sang Ai Cập, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm Con bị thất lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã lên đường theo Ngài đến tận Núi Sọ.

Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.

Chúng con thấy Mẹ luôn
đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào
cũng đẹp, cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.

Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi của Chúa dù phải chấp nhận đớn đau hay đoạn tuyệt chia ly.

Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu, để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa. Amen

(Trích trong “Manna”)

langthangchieutim
Anh chị Thụ Mai gởi

Chúa Yêu Thương Tôi

Chúa Yêu Thương Tôi
Giuse Thẩm Nguyễn
1/14/2013
Tôi bất chợt bị những cơn đau hành hạ vì chứng không tiêu và xình bụng. Bác sĩ
và y tá đẩy tôi vào phòng Emergency và thế là tôi đã phải nằm trong bệnh viện
mất bốn ngày. Nhờ Chúa thương tôi lại ra viện và trở về nhà để kịp đón Lễ Giáng
Sinh.
Trong những đau đớn, Chúa đã cho tôi nhận diện có Ngài bên cạnh tôi. Tôi cảm
thấy rất an tâm và sẵn sàng chấp nhận nỗi đau vì tôi phó thác số phận tôi trong
tay Chúa. Rồi những đêm nằm trong bệnh viện, với sợi dây nylon thọc từ mũi
xuống bao tử để hút những chất còn lại trong bao tử ra ngoài, những sợi dây
lằng nhằng để truyền nước biển, truyền thuốc nối liền với những cây kim đâm vào
da thịt…rồi dây đo huyết áp, cứ vài phút cánh tay mình lại bị đo áp huyết một
lần. Tiếng sè sè phát ra từ máy sưởi cứ đều đều vang lên trong đêm thâu tĩnh
mịch. Trong hoàn cảnh như thế làm sao tôi có thể ngủ được. Nằm yên ở một thế
nằm nhất định trong nhiều giờ, người nó mệt mỏi làm sao… Ước gì được tháo tất
cả những sợi dây vướng víu ấy để tự do lăn phải, lăn trái hay nằm co quắt mà
ngủ thì sướng biết mấy. Một ước mơ đơn giản thế mà đêm nay mơ ước ấy tôi cũng
không thực hiện được !
Bây giờ là một giờ sáng, vợ và các con tôi đã về nhà cả rồi, chỉ còn mình tôi
trong bệnh viện. À thì ra, những người thân của tôi dù có yêu tôi đến thế nào
đi nữa, cũng có lúc họ cũng phải rời bỏ tôi. Và tôi, cũng có lúc tôi cũng phải
từ giã họ, phải từ giã tất cả, của cải, danh vọng, toan tính….để một mình đi
về với cát bụi… Chỉ có Chúa là Đấng luôn ở bên cạnh tôi và đêm nay Người đang
chăm sóc cho tôi. Tôi bắt đầu đọc kinh Mân Côi và kinh Lòng Thương Xót Chúa.
Đọc xong cả ngần ấy kinh mà vẫn chưa tới hai giờ sáng. Thời gian đêm nay thật
dài khi mình không ngủ được. Tôi cố nhằm mắt lại và bắt đầu tâm sự với Chúa.
Chúa cho tôi cảm nghiệm là Chúa đang bên cạnh thôi. Chúa âu yếm nhìn tôi và ôm
tôi vào lòng dù tôi là kẻ tội lỗi. Chúa chẳng chấp gì tội của tôi dù đôi khi
chính tôi đã đẩy Chúa ra khỏi tâm hồn tôi bằng cách liều mình phạm tội . Những
nỗi đau của tôi không đáng gì với việc Chúa chịu nạn chịu chết trên cây Thánh
Giá, nhưng Chúa lại rất quan tâm đến nỗi đau nhỏ nhoi ấy của tôi. Chúa xót xa
khi tôi quặn đau và chính Chúa đã an ủi tôi như người mẹ hiền dỗ dành đứa con
thơ quấy khóc trong đêm khuya. Không ai biết tôi đau ra sao dù vợ tôi , dù con
tôi đã cố gắng để chia sớt bằng cách cầm tay tôi , vỗ về tôi. Sự quan tâm của
những người thân yêu đã an ủi tôi rất nhiều, nhưng chính Chúa mới là người biết
tôi đau đớn ra sao. Ngài luôn ở bên tôi, không những chia sẻ với tôi mà còn
quan tâm và nâng đỡ những người thân yêu của gia đình tôi trong giờ phút hoang
mang lo lắng này.
Tôi cảm nghiệm được tình yêu cao vời Chúa đã dành cho tôi. Chúa cúi xuống rất
gần đến nỗi tôi có thể nghe được nhịp đập từ con tim của Chúa. Tôi nghe được
tiếng thổn thức từ trái tim Ngài, nỗi đau của người Cha bị chính những đứa con
mình sinh ra phản bội. Chúa xót xa cho bao gia đình tan vỡ, cho những đứa con
đi hoang quên đường về, cho bao kẻ đang đắm chìm vào tội lỗi trong dịp kỷ niệm
Chúa Giáng Sinh. Chúa buồn lắm khi loài người đang từng bước loại Chúa ra khỏi
cuộc đời mình, ra khỏi nhà mình, ra khỏi học đường và ra khỏi xã hội của mình.
Chúa cô đơn lắm khi bao Thánh Đường vắng bóng giáo dân, bao nhà chầu trên thế
giới chỉ vỏn vẹn với ngọn đèn leo lét lạnh lùng. Chúa đau đớn lắm vì những chủ
chiên phản bội và Chúa rơi lệ vì loài người đang xô nhau vào con đường lầm lạc:
phá thai, trợ tử, đồng tính, dâm loạn, hận thù, chiến tranh….
Tôi biết chính Chúa đã dựng lên tôi giống hình ảnh của Chúa. Thân xác tôi là
một cỗ máy vô cùng tinh vi được Chúa luôn ghé mắt nhìn đến. Tất cả các cơ phận
đều hoạt động nhịp nhàng và ăn khớp chặt chẽ với nhau và chỉ cần một chút sai
lệch là tôi thành phế nhân ngay.
Hôm nay tôi phải nằm trong bệnh viện vì phần ruột dưới bao tử đã vô cớ không
làm việc theo đúng chu trình tiêu hóa. Sau khi thức ăn được nhai kỹ qua miệng
vào bao tử, thì bao tử sẽ tiết ra chất kích tố nào đó để tiêu hóa thức ăn. Do
sự chuyển động của từng khúc ruột, thức ăn được chuyển qua ruột để nuôi cơ thể,
chất cặn bã thì được đưa ra ngoài. Nhưng những khúc ruột của tôi hôm nay không
thèm chuyển động nữa, chúng cứ nằm ỳ ra như muốn đình công. Thế là thức ăn
trong bao tử xình lên, nó không đi xuống ruột được thì nó đòi đi ngược lên và
tìm cách ra ngoài theo đường miệng. Lúc đó tôi rất khó chịu, ợ chua, ói mửa và
bụng thì xình lên, óc ách đau đớn. Nhìn lại thân phận mình, tôi biết thân xác
tôi là cái bình sành tạm bợ, được bọc trong cái vỏ trứng, nó rất mong manh dễ
vỡ thế mà đôi khi tôi đã hành động như thể thân tôi là đá để mang trong lòng
mình tính kiêu ngạo của nguyên tổ Adam. Tôi tưởng là mình có thể làm được mọi
sự và tôi đã sống như thể là tôi sẽ sống mãi. Đêm nay thì tôi nhận ra thời gian
của tôi có ngần có hạn, tuổi trẻ của tôi đang hết và tuổi già đang quấn quít
với bệnh tật. Tôi biết rằng sự sống hay chết của tôi nằm trong tay Chúa, cho
nên tôi chẳng lo gì. Điều tôi quan tâm là yêu mến Chúa, sống như Chúa dạy và
đem tình yêu của Chúa đến cho mọi người. Tôi chỉ cần làm đẹp lòng Chúa thôi,
thế là đủ, vì Ngài là tất cả, là cùng đích của đời tôi.
Qua sự chăm sóc và lo lắng của vợ tôi, của các con tôi, tôi cảm nghiệm được
tình yêu mà gia đình đã dành cho tôi. Chính trong lúc này, tôi mới thấy tôi cần
gia đình nhiều hơn. Tôi nhận ra sự quan phòng của Chúa. Ngài đã cho tôi sinh ra
và rồi lại đặt để tôi trong một mái gia đình hạnh phúc như thế này, tôi đã sống
hoàn toàn hạnh phúc. Sự ngọt ngào yêu thương trong gia đình phản ánh tình yêu
bao la mà Cha Giêsu luôn dành sẵn cho tôi. Tôi trân quý sự hy sinh của vợ tôi,
tôi vui mừng vì những lo lắng mà các con tôi đã dành cho tôi… Tôi cũng nhận
ra Chúa luôn đồng hành với tôi qua việc quý cha, quý tu sĩ nam nữ, quý anh chị
trong các hội đoàn, bạn bè thân hữu đến thăm hỏi, gọi điện thoại an ủi và nhất
là hiệp lời cầu nguyện cho tôi. Tôi thấy mình hạnh phúc vô cùng, niềm hạnh phúc
không mua được bằng tiền tài, quyền lực mà được xây dựng bằng quan hệ yêu
thương. Tôi nguyện với Chúa rằng tôi sẽ dùng thời gian còn lại của đời mình để
đáp lại tình yêu thương ấy bằng cách quan tâm, chăm sóc yêu thương mọi người
như Chúa đã yêu thương và chăm sóc cho tôi. Tình yêu ấy phải trổi vượt hơn là
sự đáp trả mà là tình yêu vô vị lợi, một tình yêu cho đi không tính toán, một
tình yêu tự hiến theo gương yêu thương của Thày Giêsu .
Thế rồi qua mấy ngày nằm trong bệnh viện, tôi đã được chữa lành và ra về. Tôi
tin rằng việc tôi phải nằm bệnh viện là một dấu chỉ Chúa rất yêu tôi, là một
món quà đặc biệt Chúa dành cho tôi. Nhân cơ hội này, tôi được nếm thử tình yêu
thương ngọt ngào của Chúa qua tình yêu gia đình, của người thân, của bạn bè.
Con cảm tạ Chúa vì Chúa luôn dành cho con sự tốt đẹp nhất vượt qua sự mơ ước
tầm thường của loài thụ tạo như con.
Lạy Chúa, con yêu mến Chúa.
Giuse Thẩm Nguyễn

NGƯỜI NỮ CÔNG GIÁO VIỆT NAM THỜI CẤM ĐẠO

NGƯỜI NỮ CÔNG GIÁO VIỆT NAM THỜI CẤM ĐẠO

Tạ Thanh Minh-Khánh

1/16/2013

nguồn:vietcatholic.net

Sự hiểu biết của tôi về chuyên đề nầy rất giới hạn, lại nữa cũng không có được
nhiều tài liệu để tham khảo, tôi chỉ cố gắng sắp xếp những gì đọc được, xem như
góp chút phần nhỏ vào việc chung : nhớ về kỷ niệm 25 năm tôn phong hiển thánh
117 vị tử đạo Việt Nam (1988-2013).

I. Bối cảnh lịch sử thời cấm đạo

Nước ta lúc ấy, thế kỷ 16, thời Nam Bắc phân tranh, các vua chúa Lê, Mạc rồi
Trịnh, Nguyễn đều cho phép mở cửa biển đón các tàu buôn ngoại quốc vào giao
thương. Bởi thế, mới có người Âu Châu sang Việt Nam để buôn bán và truyền đạo.

Khi đó vua Lê giữ hư vị. Họ Trịnh và họ Nguyễn cùng dùng danh nghĩa phò Lê,
nhưng đều mưu cũng cố cơ nghiệp riêng.

Họ Trịnh xưng chúa, cha truyền con nối, nắm giữ quyền hành ở miền Bắc, xưa gọi
Đàng Ngoài.

Cũng thế, họ Nguyễn lập nghiệp chúa ở phương Nam, gọi Đàng Trong.

Sau 7 lần đánh nhau (45 năm) mà chưa bên nào trọn thắng, nên đồng ý lấy sông
Gianh làm ranh giới, mỗi bên tự lo việc trị an, kinh tế, văn học và ngoại
thương. Chúa Trịnh mở cảng Phố Hiến (Hưng Yên), chúa Nguyễn mở cửa Hội An
(Quảng Nam) cho các tàu buôn của nước ngoài vào buôn bán và các giáo sĩ Tây
phương đã theo tàu buôn nhập cảnh Việt Nam. Thế giới bấy giờ có trào lưu bành trướng thuộc địa, liên kết những người cầm quyền chính trị với các tập đoàn thương mại đi tìm thị trường. Bồ Đào Nha tới Ma Cao (Tàu), Tây Ban Nha bảo hộ Phi Luật
Tân, Hòa Lan chiếm Java (Indonesia) làm thuộc địa. Sau đó mới có thêm Anh, Pháp
đến Ấn Độ.

Bài nầy giản lược, chỉ kể lại một số sự việc liên quan đến vấn đề truyền giáo
tại Việt Nam.

II. Sự hiện diện của các giáo sĩ Âu châu tại Việt Nam

Lúc đầu, chỉ là các giáo sĩ Bồ Đào Nha làm tuyên úy cho thương thuyền, từ từ về
sau mới có thêm giáo sĩ Tây Ban Nha và Pháp đến giảng đạo.

Ngoài Bắc, vua Lê chúa Trịnh

Trước đó, từ đời nhà Mạc (1527-1592) đã có giáo sĩ Tây phương vào truyền đạo.

1533, thời vua Lê Trang Tông có người tên Inê Khu (Ignatio) đi đường biển vào
giảng đạo ở làng Ninh Cường, Quần Anh (Nam Định) và làng Trà Lũ, huyện Giao
Thủy. (Theo sách Khâm Định Việt Sử)

– 1583 Các giáo sĩ Diego de Oropesa, Bartolomeo Ruiz, Petro Ortiz, Francisco de
Montila và 4 trợ sĩ dòng Phanxicô từ Phi Luật Tân theo tàu Bồ đến truyền giáo
tại Thăng Long, Bắc Việt.

– 1590 giáo sĩ Ordeonez de Cevallos đi tàu gặp bão, trôi giạt đến bờ biển Bắc
Việt, được vua Lê Thế Tông tiếp kiến. Chị của vua là công chúa Chiêm (giữ tước
vị nhiếp chính vì vua còn vị thành niên) được cha Cevallos dạy đạo và rửa tội,
tên thánh gọi Mai Hoa (Việt-hóa tên Maria). Bà là con vua Lê Anh Tông.

– 1626 giáo sĩ Giuliano Baldinotti, dòng Tên và trợ sĩ Giulio Piani (người
Nhật) theo tàu Bồ Đào Nha đến Bắc Việt, được chúa Trịnh Tráng tiếp kiến vì cha
Baldinotti giỏi thiên văn, được nhà chúa yêu cầu giải thích việc vận hành các
tinh tú, được đãi tiệc và tặng phẩm vật. Chúa Trịnh còn gửi thư và lễ vật đến
ĐGH Urbano VIII hứa sẽ thu xếp chỗ ở cho các giáo sĩ tới giảng đạo.

1627 giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) và Pedro Marquez đến Cửa Bàng (Thanh Hóa), xin vào yết kiến chúa Trịnh Tráng ở Hà Nội. Cha dâng tặng một đồ hình quả đất có chữ Hán do các giáo sĩ bên Tàu dịch, và chú thích. Sau đó, được nhà chúa vời đến giải thích thêm. Lần nầy, cha biếu một đồng hồ treo có chuông
gõ báo giờ với kim ngắn chỉ giờ, kim dài chỉ phút. Đây là chiếc đồng hồ đầu
tiên tới đất Bắc. Chúa Trịnh có cảm tình cho phép cha truyền đạo trên lãnh thổ
thuộc quyền (theo Việt Sử Giai Thoại, Đào Trinh Nhất). Cha Đắc Lộ đã dạy đạo,
rửa tội cho người em gái chúa Trịnh, tên thánh gọi Catarina. Cha còn được phép
cất một nhà thờ ở gần đền vua.

– 1631 chúa Trịnh Tráng muốn các tàu Bồ Đào Nha trở lại buôn bán nên cho phép
các giáo sĩ Antonio de Torres, Francesco Gardim, Gasparo d’Amiral trở lại miền
Bắc.

– 1647 vua Lê Chân Tông ban sắc nhận giáo sĩ dòng tên Felix Morelli làm dưỡng
tử (Dòng Máu Anh Hùng III, Vũ Thành trang 341).

– 1676 giáo sĩ Juan de Santa Cruz và Juan Arjona đến Trung Linh, Phố Hiến (Hưng
Yên).

– 1678 một người Pháp tên Boureau-Deslandes vào yết kiến chúa Trịnh, dâng thư
của vua Louis XIV xin cho các giáo sĩ vào giảng đạo tại Việt Nam.

– 1685 chúa Trịnh Căn không làm khó việc truyền giáo, bằng lòng nhận quà của
vua Pháp Louis XIV gởi tặng.

– 1745, thời chúa Trịnh Doanh, mời 6 cha dòng Tên giảng dạy toán học. Nhưng khi
các ngài đến nơi thì nhà chúa đổi ý.

– 1748 chúa Trịnh Sâm đình chỉ việc cấm đạo vì trong chiến lợi phẩm thu được có
một số súng ghi chữ Hòa Lan. Nhà chúa cho lệnh tìm các giáo sĩ. Bấy giờ cha
Vinceslas Paleuk, dòng Tên, quốc tịch Đức đang ẩn trú ở Hà Nội, biết tiếng Hòa
Lan, giải thích được nhà chúa hài lòng.

Trong Nam, chúa Nguyễn

– 1550 giáo sĩ Gaspar de Santa Cruz, dòng Đa Minh, từ đảo Malacca, theo tàu
buôn Bồ Đào Nha đến truyền giáo tại Hà Tiên.

– 1580 giáo sĩ Luis de Fonseca và Grégoire de la Motte, dòng Đa Minh, cũng từ
Malacca đến truyền giáo tại Quảng Nam.

– 1596 đời chúa Nguyễn Hoàng, có giáo sĩ Tây Ban Nha Diego Adverte vào Nam
giảng đạo. (theo sách Nam Sử của Trương Vĩnh Ký)

– 1615 giáo sĩ Francesco Buzomi và Diego Carvalho tới Đà Nẵng.

– 1619 chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho phép các giáo sĩ dòng Tên tự do đi lại
truyền đạo. Các cha còn được phép cất hai nhà thờ ở Hội An và Quảng Nam.

Quan trấn thủ Bình Định cũng mời cha Francesco Buzomi tới truyền giáo và cất
cho một nhà thờ.

– 1620 giáo sĩ Cristoforo Borri người Ý truyền đạo tại Nước Mặn (Bình Định).

– 1624 cha Francesco di Pina dạy đạo và rửa tội cho bà Minh Đức Vương Thái Phi,
vợ thứ chúa Nguyễn Hoàng, tên thánh gọi Maria Mađalêna và 50 người trong giới
quan lại, học thức.

– 1640 cha Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) trở lại Thuận Hóa, dâng biếu nhiều lễ
vật cho chúa Nguyễn Phúc Lan, hi vọng nhà chúa nới tay cho các giáo sĩ giảng
đạo, nhưng rồi sau đó chính cha cũng bị trục xuất (1645).

– 1645 hai giáo sĩ và 4 chị dòng Thánh Phanxicô Tây Ban Nha bị nhà cầm quyền Bồ
Đào Nha trục xuất khỏi Macao (khi ấy thuộc quyền bảo hộ của Bồ Đào Nha). Trên
đường về Phi Luật Tân, tàu bị bão, ghé vào Hải Phố (Cửa Hàn) được chúa Nguyễn
Phúc Lan cho vào kinh, được bà Minh Đức Vương Thái Phi tiếp đón tử tế và ngỏ ý
xin các chị một chiếc áo dòng để mặc lúc lâm chung.

– 1656, 1657 : chúa Nguyễn Phúc Tân thắng chúa Trịnh ở Bố Chính, định tiến quân
ra Bắc nên dễ dãi cho hai giáo sĩ Francisco Rivas và Pedro Marquez được giảng
đạo, miễn không rời khỏi Cửa Hàn và Hội An.

– 1704 chúa Nguyễn Phúc Chu lơi việc cấm đạo do bởi giáo sĩ Juan (Antonio) de
Arnedo, dòng Tên Tây Ban Nha được trọng dụng (nhà toán học của triều đình) vì
cha rất giỏi thiên văn và là thầy thuốc riêng của nhà chúa. Thời ấy cha
Langlois còn được phép làm thuốc chữa bệnh miễn phí cho người nghèo.

– Về sau chúa Nguyễn Phúc Khoát (1725-1768) cũng dùng cha Siebert làm y sĩ cho
triều đình và khi anh em nhà Tây Sơn khởi nghĩa cũng nhờ một cha dòng Phanxicô
làm y sĩ.

– 1777 Giám Mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) được quan trấn thủ Hà Tiên cho
đến truyền giáo. Họ đạo Hà Tiên được thành lập trên phần đất của quan trấn thủ
tặng.

Trên đây là một số giao tiếp của vua, chúa với các giáo sĩ Tây phương lúc ban
đầu, thời Trịnh – Nguyễn phân tranh.

III. Thời cấm đạo

Rồi các giáo sĩ cứ dần dần vào nước dạy đạo, mà người mình càng ngày càng theo
đạo cũng nhiều. Nhưng nước ta, từ xưa đến nay vẫn theo Nho giáo, lấy sự thờ
cúng ông cha làm trọng, lấy sự tế tự thần thánh làm phải… Đột nhiên thấy nhiều
người mình theo đạo Thiên Chúa, bỏ cả các thói cũ, chỉ chuyên về một mặt theo
đạo mới, bởi vậy cho nên trong Nam, ngoài Bắc, vua chúa đều cho ấy là một tả
đạo, làm hủy hoại cả cái phong hóa của nước nhà xưa nay, bèn xuống chỉ cấm
không cho người trong nước theo đạo nữa và đặt ra phép nghiêm để bắt tội những
kẻ không theo chỉ dụ ấy. (Việt Nam Sử Lược II, Trần Trọng Kim, trang 99)

Liên tiếp khởi từ Trịnh – Nguyễn phân tranh, rồi nhà Tây Sơn và các vua nhà
Nguyễn sau đó (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức) vẫn duy trì việc cấm đạo.

Vua Gia Long vì mang ơn Giám Mục Pigneau de Béhaine, Bá Đa Lộc (giúp đỡ lúc sa
cơ cùng cực, chưa lên ngôi vua, bị nhà Tây Sơn truy lùng) nên ban phép cho
giảng đạo nhưng không ban hành sắc dụ nào bãi bỏ việc cấm đạo.

Lý do cấm đạo : Lý do chính được nêu truyền là người tín hữu Ki-tô không thờ
kính tổ tiên. Tại sao việc tôn kính tổ tiên lại trở thành vấn đề trầm trọng khi
mà điều răn thứ tư của Thiên Chúa giáo có ghi rõ “thảo kính cha mẹ” ? Nghĩa vụ
hiếu đạo khuyên nhắc con cái hành xử đối với cha mẹ khi còn sống cũng như lúc
đã qua đời không khác văn hóa tín ngưỡng Gia tiên “sự tử như sự sinh, sự vong
như sự tồn”?

Ngoài ra, có lẽ còn một lý do khác là luật “một vợ một chồng”. Có lần vua Gia
Long nói với GM Pigneau de Béhaine : Đạo của Đức Cha là một đạo tốt lành, nhưng
nghiêm khắc quá, ai mà có thể giữ được ? Tôi không thể nào chỉ cưới có một vợ.
(Dòng Máu Anh Hùng II, Vũ Thành, trang 5)

Lịch sử truyền đạo Thiên Chúa vào Việt Nam đã từng là đề tài tranh luận. Theo
nhà văn Thế Uyên, ông Trần Quốc Vượng, tác giả quyển Trong Cõi đã chiếu một cái
nhìn ngay thẳng của sử gia vào thời kỳ đầu của đạo Công giáo ở miền Bắc.

Thoạt kỳ thủy đạo Thiên Chúa được truyền bá vào Việt Nam thì nó lại được sự
hưởng ứng trước hết của những người nghèo, trước hết là dân chài, những người
bị gạt ra ngoài lề của xã hội Quân chủ Nho giáo và những người bình dân nghèo
khó.

Đi thực tế điền dã và điều tra hồi cố ở miền Bắc Việt Nam, tôi nhận thấy các
cộng đồng Thiên Chúa Giáo Việt Nam được phát triển trước hết ở vùng ven biển,
các cửa sông tập trung nhiều dân chài. Do nhu cầu tâm linh, dân chài có nhu cầu
tôn giáo, nhu cầu cúng quẩy… Thế mà từ đại triều đình ở Thăng Long đến các tiểu
triều đình làng xã Việt Nam ngày trước đều gạt dân chài ra rìa, không những các
sinh hoạt xã hội cộng đồng mà cả các sinh hoạt tâm linh tôn giáo cộng đồng.

… Khi đạo Thiên Chúa được truyền bá đến với lý tưởng ”Bác Ái” và tình ”Huynh
đệ phổ quát”, dân chài và dân cày nghèo ”cùng đinh” của làng xã và xã hội
Quân chủ Nho giáo lập tức theo Công giáo ngay… Đạo Thiên Chúa vào ngày ấy có
tác dụng giải tỏa dồn nén những người cùng đinh và dân chài Việt Nam, những
người ở vị thế bên lề.

Ông nhận xét Xã hội Việt Nam là xã hội Nho giáo phụ hệ nên chỉ đàn ông mới ra
đình hội họp và tế lễ, thỏa mãn được nhu cầu tâm linh. Trong khi đó, Công giáo
tôn trọng phụ nữ hơn nhiều, các nữ tín đồ được ngồi chung với nam trong mọi
buổi lễ ở nhà thờ.

Chế độ đa thê tạo ra tầng lớp bị thiệt thòi nhiều là các bà vợ lẽ, nàng hầu ;
bởi thế thành phần nầy theo đạo trước tiên”. Theo ông Trần Quốc Vượng Sự truyền
bá đạo Thiên Chúa vào Việt Nam là một phương tiện vô thức và hữu thức phủ định
nền văn hóa Nho giáo cổ truyền và đưa Việt Nam vào quĩ đạo giao lưu văn hóa Tây
phương. Vì lẽ đó mà vua chúa Việt Nam cấm đạo. (Thế Uyên đọc “Trong Cõi” của
Trần Quốc Vượng, NXB Trăm Hoa, CA, U.S.A. – Báo Hợp Lưu số 10 tháng 2-1993,
trang 184-187)

Các sắc lệnh cấm đạo : Khởi từ vua Lê, chúa Trịnh-Nguyễn, nhà Tây Sơn rồi nhà
Nguyễn (vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức) ghi được tất cả 54 sắc lệnh cấm đạo
và 2 kiến nghị của các quan triều (năm 1826, 1830) mục đích thắt ngặt thêm sự
bách hại.

Ban đầu cấm không cho theo đạo, cấm giảng đạo, trục xuất giáo sĩ Tây phương,
rồi hiểu dụ, phạt vạ, đeo gông xiềng xích, giam tù, tra khảo, tịch thu ảnh
tượng, của cải, tài sản, phá hủy nhà thờ, trường học, khắc chữ “tả đạo” lên
mặt, phân sáp, lưu đày biệt xứ, cuối cùng đến xử tử, voi giày, thắt cổ, bỏ đói
cho chết, thiêu sống, trói cột từng 5 người thả trôi sông, chém đầu quăng sông,
xử phân thây…

Các biện pháp trừng trị được áp dụng từ hạ tầng cơ sở, thôn ấp, xã làng,
huyện tỉnh tới tận kinh đô :

– Trẻ trên 15 tuổi phải thường xuyên trình diện định kỳ trước nhà cầm quyền sở
tại.

– Nam 20 tuổi bị xung vào quân ngũ làm tạp dịch.

– Đàn ông bị cưỡng bách đánh trận dẹp giặc loạn.

– Đàn bà làm nô tỳ trong các nhà quan.

– Phân sáp : chia rẽ các thành phần trong gia đình, cha mẹ, con cái, anh em đày
đi các nơi khác nhau.

– Công quyền không thu dụng người bên đạo. Đang làm việc phải chối bỏ đạo, nếu
không thì bị giáng cấp lưu đày, bãi nhiệm, xử tù hay xử tử.

– Cấm cho người bên đạo vay tiền, cấm đi lại buôn bán, đóng cửa các tiệm buôn
có sẵn.

Ki-tô giáo bị coi là “tả đạo” rồi “dịch tể” (Sắc lệnh vua Tự Đức 7-6-1857),
người Tây phương bị coi là “mọi rợ”, không dung thứ người “mọi rợ” đến giảng
đạo, cấm các sách viết bằng chữ “mọi rợ” (chữ quốc ngữ thuở ban đầu. TTMK),
tịch thu và tiêu hủy tất cả (Kiến nghị của quan Bộ Hình năm 1830). Dân Việt Nam
bên đạo gọi là “dữu dân” (dân xấu).

IV. Người nữ thời cấm đạo

Dù không có điều kiện để đọc được nhiều sử liệu về nữ giới thời cấm đạo, tôi
vẫn nhìn thấy rải rác đó đây hình ảnh phụ nữ trong suốt tiến trình truyền giáo
tại Việt Nam ; giới hạn ở bài nầy là thời kỳ 300 năm bị ngăn cấm bách hại. Trừ
một số ít có được vài chi tiết, phần đông chỉ ghi vắn tắt tên thánh (lúc rửa
tội) không có tên Việt đi kèm.

Trong hàng phẩm tước

Công chúa Mai-Hoa con vua Lê Anh Tông. Để rảnh tay với người Chiêm ở mạn
Nam, nhà vua có cưới một công chúa người Chiêm là em vua nước Chiêm Thành. Khi
vua nước nầy chết, không con nối nghiệp, con gái mới sinh của vua Lê Anh Tông
(công chúa Mai-Hoa – TTMK) được hưởng tước Bà chúa Chiêm, hay Bà chúa Chàm hoặc
Chèm. Bà vào đạo năm1591, kéo theo các nàng hầu, cung nữ, tất cả 72 người.

Bà cho sửa sang khu chính cung điện thành nhà nguyện, cha Ordeonez de Cevallos
(người rửa tội cho bà) đã đến dâng lễ lần đầu. Bà còn lập tu viện Đức Mẹ Vô
Nhiễm, ngày đó có 51 người nữ gia nhập đời sống tu trì (Có lẽ chỉ là sống
chung, để cùng nhau giữ đạo, rèn tập nhân đức, làm việc từ thiện… chớ không hẳn
là dòng tu với thủ bản, lề luật. Đến 1670 dòng Mến Thánh Giá mới được thành lập
qui cũ và là dòng nữ đầu tiên trên đất nước Việt Nam). Nhờ bà, có thêm nhiều
người chịu phép rửa. Vua em, Lê Thế Tông cho bà một khu đất rộng, để lập một
làng đạo Gia-tô. Bà Hoàng Thái Hậu cũng nhận phép rửa trước khi qua đời. “Hiện
nay vẫn còn một nền nhà thờ và một giếng Da Tô do công chúa cho đào tại An
Trường, xã Phúc Lập, Thanh Hóa”. (theo Bách khoa Toàn thư Wikipedia.org : công
chúa Mai Hoa)

Bà Minh Đức Vương Thái Phi (1568-1648) mẹ chúa Nguyễn Phúc Nguyên và
Nguyễn Phúc Khê. Bà là vợ thứ chúa Nguyễn Hoàng, đã giúp chồng dựng nghiệp, lại
có con trai nối nghiệp chúa, nên việc bà nhập đạo cũng có ảnh hưởng. Bà cất một
nhà nguyện rất đẹp trong khu dinh của bà, người bên đạo được tự do tới lui thờ
phượng. Bà bảo vệ nhà nguyện qua những lần cấm cách gắt gao. Bà đưa được nhiều
người có vị thế trong phủ chúa, hoàng gia vào đạo.

Năm 1643 các thầy giảng tổ chức lễ giáng sinh ở dinh Tổng Trấn Nguyễn Phúc Khê.
Không có linh mục hành lễ, chính bà Minh Đức Vương Thái Phi đã nói về ý nghĩa
Chúa Giáng Trần.

Cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) cũng có dịp làm lễ ở nguyện đường nầy. Năm đó,
1639, cha rửa tội cho ba người trong hoàng tộc và một thầy sãi nổi tiếng.

Bà mộ đạo, đến cuối đời còn tiếp đón tử tế hai giáo sĩ và bốn chị dòng Phanxicô
Tây Ba Nha, ngỏ ý xin một chiếc áo dòng để mặc lúc lâm chung, hưởng thọ khoảng
80 tuổi.

Công chúa Catarina Em hay chị của chúa Trịnh Tráng (vì tài liệu tiếng
Pháp chỉ ghi là sœur). Bà được cha Đắc Lộ dạy đạo và rửa tội khoảng năm 1627.
Bà nhiệt thành truyền đạo, kết quả là 18 người trong hoàng cung, có thân mẫu
bà, theo đạo.

Bà viết “Lịch Sử Giáo Hội” bằng chữ nôm. “Bà đặt thành thơ, vãn tất cả lịch sử
đạo Công giáo bắt đầu từ tạo thiên lập địa đến khi Chúa xuống thế làm người,
đời sống, cuộc tử nạn, phục sinh và lên trời của Đấng Cứu Thế, Chúa Giêsu
Ki-tô, Chúa chúng ta, và ở cuối còn phụ thêm đoạn kể chuyện chúng tôi (các cha
dòng Tên – TTMK) tới xứ Tonkin và truyền giáo ở đó. Bà làm rất hay. Sau nầy vãn
còn được các người có đạo truyền tụng cho nhau, họ ngâm lén, lúc làm việc ở
nhà, ngoài đồng hay lúc đi đường. Dân bên lương cũng thích ngâm vịnh ; nhờ
những thơ, vãn đó mà nhiều người đã trở lại”. Bà còn bắt chước làm các ảnh
tượng bằng sáp theo mẫu cha Đắc Lộ phân phát (không đủ) để đưa tiếp cho các
người mới theo đạo.

Bà Mađalêna (Phú Yên) là vợ trấn thủ dinh Trấn Biên. Sau khi vào đạo, bà
lập nhà nguyện ngay trong tư dinh, với sự đồng ý của chồng. (Ông không theo
đạo, nhưng mến đạo). Có lần bà mời cha Đắc Lộ vào dinh dâng lễ, cha lưu lại đó
4 ngày để dạy giáo lý, rửa tội 90 người, trong số đó có con gái bà. Bà còn mở
nhà thương, đi thăm kẻ yếu, người già, người nghèo. Được nhiều người tiếp giúp
; nhờ thế nhiều người theo đạo.

Bà Ursula phu nhân đại sứ An Nam tại Cao Miên năm 1618, thời chúa Nguyễn
Phúc Nguyên. Trước cuộc trấn nhậm xa nhà, bà xin học đạo, được cha Francesco
Buzomi rửa tội cùng với 25 gia nhân tại nhà thờ Nước Mặn, Qui Nhơn. (Bà là con
gái quan phủ Qui Nhơn). Ban tối bà tổ chức đọc kinh chung, lần hạt trước bàn
thờ. Trong số tùy tùng rửa tội có các cô vợ nhỏ của quan đại sứ. Bà giải thích
lề luật “một vợ một chồng”, các cô đồng ý, bà thu xếp gả chồng, tìm nghề cho
từng cô. Quan đại sứ cũng bằng lòng xa hết các cô vợ nhỏ, sau đó chịu phép rửa
cùng với 20 gia nhân tùy tùng, tên thánh gọi Inhaxu.

Bà Gioanina quả phụ quan Trần Kẻ Chợ (cuối thời chúa Trịnh Tráng). Sau
khi chồng qua đời, được gọi vào phủ trông coi các cung nữ. Bà đã đưa nhiều cung
phi vào đạo, trong đó có hai bà Pia và Colomba là vợ hoàng tử và một hầu nữ
Bianca. Cả ba người nầy cùng bà Gioanina hợp nhau truyền giáo trong cung phủ.
Có những người không theo đạo nhưng mến đạo và tìm cách giúp đạo khi bị cấm
cách. Nhờ họ, cha Phanxicô Rangel được khỏi tù năm 1656.

Bà Anna em chúa Trịnh Tráng. Chồng là quan triều đi làm nhiệm vụ ở Thanh
Hóa, bất ngờ bị bệnh nặng, muốn được về nhà gặp giáo sĩ. Cha Đắc Lộ không đến
kịp để rửa tội. Chỉ có vợ quan và bà mẹ già theo đạo. Bà góa Anna chuyên lo đọc
kinh và làm việc bác ái. Một số khác theo gương bà, vào đạo như bà Monica…

Ngoài ra còn có công chúa Ngọc Liên (con chúa Nguyễn Phúc Nguyên, vợ
quan trấn thủ Quảng Bình), bà Thượng Trâm, quê ở Hải Dương, mẹ Hoàng tử Sáu…

Đó là những người thuộc hoàng tộc, quan quyền theo đạo lúc ban đầu, nhờ họ đạo
được truyền nơi cung vua phủ chúa, đó là chỗ nương tựa của Giáo hội thời mới
chớm nở (lời cha Đắc Lộ).

Ngoài hàng thứ dân

Bà Eulalia vợ ông Andréa, là một trong các gia đình theo đạo đầu tiên ở
Quảng Nam. Nhà bà là nơi hội họp người bên đạo thời bình, nơi ẩn trú khi bị bắt
đạo. Nhiều người chịu phép rửa tại đó, cũng nhiều lần bị khuấy phá, là một
trong những người bị tù giam vì đạo lúc đầu tiên ở đấy…

Bà Paola vợ thầy sãi Antôniô. Ở làng Vũ Xá có một bà vương phi muốn được
đặt làm thần hoàng xã đó sau khi chết, nên cất một ngôi đền. Trong đền chỉ có
một chiếc ngai sơn son thếp vàng để trống. Bà tin rằng khi bà chết, hồn bà sẽ
ngự trên ngai đó, và dân làng phải cúng tế bà như một vị thần. Thầy sãi Antôniô
được dân làng giao việc trông coi ngôi đền của bà vương phi. Khi hai ông bà
Antôniô và Paola theo đạo, bà vương phi bắt ông Antôniô trói cột giữa chợ, đánh
đòn, nhưng ông bà không bỏ đạo, nên bị tịch thu tài sản, đuổi ra khỏi làng. Ông
bà tiếp giúp các thầy giảng, đưa nhiều người tới học đạo, rửa tội được hàng
trăm người.

Bà Lina ở bên sông làng Văn No, khuyên được người chồng xa rời vợ nhỏ,
rửa tội tên thánh Giuse. Các con cũng nhập đạo. Ông bà hiến nhà mình làm nhà
thờ, cất một nhà tế bần giúp người già cả đau yếu.

Bà Lina (khác) cũng là một trong những người rửa tội đầu tiên ở đất Bắc.
Bà giàu có nên rộng rãi phân phát thức ăn cho người nghèo túng. Bà cất một nhà
cho các thầy giảng trú ngụ. Bà nhiệt thành làm việc bác ái thời đó : góp giúp
những người bên đạo bị tịch thu tài sản và việc thờ phượng công ích.

Bà Saula người bên đạo, được phủ chúa Trịnh Tráng tin cẩn dùng vào việc
phục dịch cơm nước. Có dịp, bà thường lập lại lời giảng của các linh mục. Nhờ
đó, bà cô chúa Trịnh Tráng theo đạo, tên thánh rửa tội Gioanna.

Bà Luxê có chồng là Phaolô ở Kẻ Bờ. Nghe tin cha Đắc Lộ đến, bà mời cha
tới nhà làm lễ, giới thiệu một số người muốn học đạo.

Bà Colombia xây nhà nguyện, nhà giáo lý, giúp thuốc men, quần áo cho các
thầy giảng, thương người nghèo cô đơn. Bà bị té trên đường đi thăm bệnh nhân.
Trước khi chết, trối dặn chôn theo với bà cây thánh giá.

Bà Anna có chồng là Gioan, thầy sãi, ở An Vực. Cả gia đình thầy sãi được
cha Đắc Lộ rửa tội. Nhà thầy trở thành nhà nguyện. Đền thờ, tài sản của thầy
được bán đi để làm việc từ thiện. Bà Anna rất năng động, nhờ đó mà nhiều người
vùng An Vực xin tòng giáo.

Ngoài các người nữ được nêu nhắc kể trên, còn một số rất đông, tầng lớp thầm
lặng. Họ là những người vợ, người mẹ, những bà nội, bà ngoại… sốt sắng giữ đạo,
truyền đạo, mà sách sử chỉ tóm ghi trong vài dòng ngắn gọn :

– Các bà thấy một thiếu niên nghèo, chăn trâu cho nhà dòng, tính nết lễ độ, nên
cùng nhau xin cho thiếu niên ấy được vào học trong chủng viện. (Sau thành linh
mục : cha Phêrô Phan Văn Thi, tử đạo năm 1839, lúc gần 70 tuổi)

– Khi xem phương pháp truyền đạo của GM Etienne Cuénot Thể, 1802-1861, Hội Thừa
Sai Paris – Missions Etrangères de Paris, M.E.P.) : “Ngài cho tập họp từng
nhóm, độ 15-20 người, rồi đàn ông dạy đàn ông, đàn bà dạy đàn bà.”

– “Cha mẹ là những tín hữu sốt sắng”, “Sinh trưởng trong một gia đình cha mẹ
đạo đức” hay “Được cha mẹ lo cho kết hôn với một thiếu nữ nết na, đạo hạnh”…
(tiểu sử các thánh tử đạo).

Trên đây là hình ảnh của nữ giới tuy sống thời cấm đạo mà tương đối được bình
yên. Nhưng nắng ấm hiếm hơn cuồng phong, giông bão. Giáo hội Công giáo Việt Nam
trải qua những tháng năm đau thương mà nhà văn quá cố Cao Thế Dung gọi là “đất
thảm trời sầu”. Người nữ hiện diện lúc bình minh quang đãng thì cũng hiện diện
trong đêm đen, lắm khi tối đến kinh hoàng.

Người nữ chịu khổ vì đạo

Đây là những chứng từ :

Truyện chân phước Anrê (Phú Yên) : Bà góa Gioanna thuộc hàng vọng tộc,
được cha Francesco Buzomi rửa tội cùng với 90 người khác, trong đó có con trai
út của bà là Anrê (1641). Năng động trong các sinh hoạt đạo giáo, bà gởi gắm
cha Đắc Lộ huấn dạy cho cậu Anrê làm thầy giảng. Thầy bị bắt, tử đạo năm 1644,
lúc 19 tuổi.

Truyện thánh Anrê Trần Văn Trông (tử đạo năm 1835) : con trai của bà
Gia, làm nghề nuôi tầm dệt vải, nguyên là binh sĩ trong đội dệt tơ lụa của
triều đình, vì không chịu bỏ đạo nên bị xử chém. Trước giờ tử biệt, bà mẹ nầy
muốn biết coi con bà có còn mang mắc nợ nần gì của ai chăng để bà thay con hoàn
trả giúp con giữ lẽ công bằng. Theo con ra tận pháp trường, khi đầu con rơi
xuống, bà nộp tiền xin chuộc rồi dùng tà áo bọc lấy mang về chôn.

Truyện thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ (tử đạo năm 1838), vốn là lý trưởng,
thấy cuộc bắt đạo ngày một gia tăng, nhiều người đã chết vì đạo, ông hỏi vợ là
nếu ông tử đạo thì bà có bằng lòng không ? Bà trả lời : “Nếu Chúa muốn, và ông
được phúc tử đạo thì bà và các con chẳng những bằng lòng mà lại còn vui lòng
nữa”…. “Hãy trung thành với Chúa cho tới cùng, đừng lo nghĩ về mẹ con tôi.
Thiên Chúa quan phòng tất cả. Đến thăm ông lần cuối, cầu xin Chúa cho ông vâng
theo thánh ý Ngài.”

Truyện chủng sinh Phaolô Bột bị bắt lúc 17 tuổi, bị hăm dọa, được chiêu
dụ dỗ dành, hứa hẹn, đã khước từ “quá khóa” (bước qua thập giá) hai lần, nhưng
tới lần thứ ba thì bằng lòng để cho người ta khiêng qua thập giá vẽ dưới đất.
Về đến nhà, nhìn thấy nét thất vọng của bà mẹ, cậu ăn năn hối hận, xin mẹ tha
thứ, rồi đi tìm linh mục xưng tội, sau đó trở lại nộp mình, chịu voi giày năm
1858.

– Có một bà bị bắt giam, phải nộp phạt 3000 đồng vì cổ đeo chuổi tràng hạt
(không thấy nêu tên).

– Năm người đàn bà làng Văn Cui bị bắt giam, sau được thả ra (năm 1714).

– Bắt được mấy người đàn bà mang thư liên lạc.

– Có hai, ba người đàn bà bị bắt, bị đánh đòn.

– Nhiều giáo dân bị bắt ở Đà Nẵng và Phố Hiến, trong đó có những phụ nữ bị đeo
xiềng xích nơi cổ.

– Bà Mađalêna Hồ bị phạt 2 roi, 3 lần khác bị đánh 14 roi móc chì.

– Ba cô Monica, Nympha, Phanxica trên đường ra Hà Nội hành đạo, bị bắt bỏ xuống
hố, lấp đất tới cổ, nhờ người bên đạo đi ngang trông thấy cứu lên.

– Bà Ysave và con gái không chối đạo, bị giam tù, mang gông rồi được thả về.

– Một bà người hầu trong cung đời chúa Nguyễn Phúc Chu bị hành hạ, tra khảo
bằng cực hình dùng kim tẩm dầu đốt các ngón tay (sau nầy tử đạo).

– Một thiếu nữ 16 tuổi bị đánh đòn vì nhất quyết không chỉ nơi trú ẩn của giáo
sĩ Pierre Borie (Cao), M.E.P.

– Bà Trương ở Phú Yên, đời chúa Nguyễn Phúc Thuần, bị tra khảo vì không chỉ chỗ
chôn dấu các đồ đạo và nơi các giáo sĩ ẩn trú.

– Bà A-nê Thu để linh mục làm lễ tại nhà, bị phạt một ngày tù. (Thánh linh mục
Thomas Đinh Viết Dụ, tử đạo 1839)

Ngoài ra còn những người nữ không trực tiếp bị đánh đập, bắt giam… họ thinh
lặng hành động : cho các giáo sĩ bị truy nã nương ẩn trong nhà, khuyên chồng
con giữ vững niềm tin, thấy các ông bên đạo bị bắt phơi nắng, các bà lấy quạt
ra che và nấu cơm cho ăn, lo tiền lính canh để vào thăm nuôi, chăm sóc thương
tích, đưa tin tức, thư từ cho những người bị bắt giam, mang chiếu trải cho
người sắp tử đạo quì, chứng kiến các cuộc xử tử, xin lãnh xác về chôn… Những bà
Ngoan, Nghiêu, Xinh, Mai, Huyên, Ngôn, Thao, Nho, Dân… những dì Phụng, Vân,
Hiền, Ơn… là những dấu chỉ thông hiệp với niềm tin, mộ đạo.

V. Người nữ tử đạo

Nhìn qua danh tánh 117 vị tử đạo ở Việt Nam được tôn phong hiển thánh bởi ĐGH
Gioan Phaolô II tại quảng trường Roma năm 1988, có một bà mẹ gia đình, nữ thánh
đầu tiên của Giáo hội Công giáo Việt Nam.

A. Thánh Agnès Lê Thị Thành, còn gọi là A-nê Đê hay I-nê Đê Thành.

Đê : tên con trai đầu lòng. Theo tục lệ nơi bà cư ngụ, dân làng lấy tên con
trai đầu lòng để kêu cha mẹ, do đó ông bà được gọi là ông bà Đê. Chính thực tên
ông là Nguyễn Văn Nhất.

Bà Đê sinh khoảng 1781 tại làng Bái Điền, tỉnh Thanh Hóa, con của ông Carôlô và
bà Save. Gia đình có 12 con, bà Đê là người thứ 8. Từ thuở nhỏ đã theo mẹ về
bên quê ngoại, xứ Phúc Nhạc, Ninh Bình.

Theo GM Pierre Retord (Liêu), 1803-1858, M.E.P., viết trong thư ngày 10-2-1843
thì “bà sống nết na, đạo hạnh, biết phụ mẹ kiếm sống bằng cách têm trầu để bán,
siêng năng đọc kinh, xem lễ”.

Năm bà 16 tuổi, mẹ mất. Năm bà 19 tuổi thành hôn với ông Marcô Nguyễn Văn Nhất,
có 6 con : 2 trai (Đê, Trân), 4 gái (Thu, Nam, Duyên, Nụ).

Gia đình thuận hòa, sống bằng nghề làm ruộng và nuôi tằm ; cho đến lúc bà qua
đời, ông bà có tất cả 17 cháu trai và gái.

Hạnh tích kể rằng : bà rất quan tâm đến việc dạy dỗ con cái, giúp người hoạn
nạn. Chính vì niềm tin, vì mộ đạo, thương người bị ngược đãi, bách hại mà bà
cho ẩn trú, che giấu các giáo sĩ thừa sai bị truy lùng để rồi chịu giam cầm,
đòn bọng và chết đi trong niềm tin phó thác (giáo sĩ Galy Lý bị bắt lúc ẩn trốn
sau vườn nhà bà).

Trong Tự Điển Việt-La (Dictionarium Latino-Anamiticum) do GM Jean Louis Taberd
(Từ), 1794-1840, M.E.P., ấn hành có đăng bài Inê Tử Đạo Vãn (Agnetis Martyrium)
của thánh Philipphê Phan Văn Minh, gồm 563 câu, trang 110-134. Qua đó, có thể
biết thêm về bà.

Trung thành với đức tin :

– Khi bị buộc phải đạp ảnh thánh giá, bà từ chối

Ảnh nầy hình Chúa tôi xưa

Khi nào thờ phượng bây giờ đạp đi.

– Trả lời quan nghè tra xét

… Chúng tôi giữ đạo Chúa Cha nhơn từ

Thật đàng công chính chẳng tư…

Tôi đâu dám bỏ công phu ngãi người.

Mặc ông tha, giết hai lời

Tôi thà chịu chết cõi trời nên công

Giết tha thì mặc lượng ông

Kim thạch là lòng chẳng chậy mỗ phân.

– Khi ông Marcô, chồng bà vào ngục thăm, thấy cảnh bà chịu roi đòn, ngõ ý xa
xôi muốn bà liệu cách trở về nhà lo cho con nhỏ. Bà nói Chớ ra lòng mọn lỗi
nghì chẳng nên.

Gìn giữ gia phong, bình tĩnh toan liệu mọi điều trước khi tử đạo

– Với cha mẹ chồng

Kính thăm nhạc phụ, từ mẫu song thân

Nữ tử vọng ân trăm đàng miễn chấp…

– Với anh chị em

Thăm trên dưới huynh đệ họ hàng.

– Với láng giềng

Chào cựu bang từ rày ly biệt.

– Trối với chồng

Thiếp dầu lỗi tam tùng tứ đức

Dốc trọn nguyền vạn thọ cõi xa

Xin lang quân chớ chấp ngãi hòa

Thương ấu nữ mồ côi mất mẹ…

Chàng thì chớ nại, giữ đạo cho bền

Đến cõi trường niên hai ta lại hiệp.

Nếu tái hôn thì

Phải chọn bề nhơn đức đạo cao

Gởi ấu tử cho con nương cậy…

Sau, con dầu khôn lớn thành hình

Xin dạy dỗ ủi an chớ bỏ.

– Dặn các con

Trước kính tin một Chúa chớ nài

Sau thảo kính hai bên cha mẹ.

Khi cha tái hôn

Dầu cha cải nghiệp, kế mẫu qui đàng

Hai con thìn khiêm nhượng kính đang

Chớ khá ở bạc tình, kiêu ngạo.

Lời lành dặn bảo, thương mẹ thì nghe

Cho mẹ đặng ngày sau thấy mặt

Bức thơ nầy để lại cho con

Sau khôn lớn mọi lời cho biết.

– Khuyên người em tên Du Minh bị bắt giam chung

Chị em cốt nhục đồng bào mẹ cha

Đồng sinh đồng tử hai ta

Trả công ơn Chúa một nhà hiệp nhau.

Lo nghĩ tương lai dân Chúa :

Khi người anh cả là linh mục Lôrensô muốn tự ra nộp mình, ở tù chung với hai
em, để cùng chịu tử đạo, bà can ngăn

Khuyên cha, cha hãy nghe tôi kẻo lầm

Nước nầy đạo Chúa ngăn cầm

Ngày sau giáo hữu mê tâm nguôi lòng

Cha mà toan chịu tử đồng

Ắt là bổn đạo lạt lòng ngãi nhơn.

Chẳng bằng ở lại thì hơn

Giữ gìn xem sóc mọi nơi linh hồn.

Ngoài ra, còn chứng từ của hai người con gái.

Người con út tên Nụ kể : Mẹ tôi rất lo lắng về việc giáo dục con cái. Chính bà
đã dạy chúng tôi đọc chữ và học giáo lý. Khi chúng tôi bắt đầu khôn lớn, bà dạy
cho biết cách dự lễ và lãnh nhận các phép bí tích. Chúng tôi không ai có thể hờ
hửng không đi xưng tội. Mẹ tôi nhắc nhở, thúc hối cho đến khi tất cả đều nhận
lãnh bí tích nầy. Riêng chúng tôi là gái, bà cho vào hội Đạo Binh Đức Mẹ, gia
nhập nhóm thiếu nữ mang trách nhiệm kinh sách trong nhà thờ mỗi ngày.

Một người khác tên Nam kể : Cha mẹ chúng tôi lo cho chúng tôi kết bạn với người
Công giáo tốt lành. Sau khi tôi lập gia đình, mẹ tôi thường hay lui tới thăm
hỏi, khuyên dạy. Tôi còn nhớ bà nói : ”Con đã được Chúa soi sáng đi kết bạn.
Đó là trách nhiệm. Con phải ăn ở tốt lành, đừng gây chuyện với bố mẹ chồng. Con
phải sẵn sàng đón nhận thánh giá Chúa gởi tới cho con.” Bà còn nói với hai vợ
chồng tôi : ”Các con hãy sống trong tình đoàn kết, thuận hòa. Chớ gì không một
ai nghe thấy chúng con cãi vã nhau”.

Gia đình không giàu, nhưng không bao giờ từ chối một ai đến xin ăn mà không
cho.

Đó là cách dạy con của người mẹ hiển thánh, đồng thời cũng là cách hành xử quen
thuộc của rất nhiều bà mẹ Công giáo Việt Nam. Thoạt nghe không thấy gì cao
siêu, mới lạ nhưng đó là thực tế sống động, truyền trải bao đời để hướng dẫn
con cháu thành những cha mẹ tốt, vô cùng cần thiết cho gia đình, xã hội.

B. Những người nữ tử đạo khác: Cho tới nay, thánh I-nê Đê Thành là nữ
giáo dân đầu tiên và duy nhất mang chính danh tử đạo, nhưng không phải là người
độc nhất tử đạo. Một số người nữ khác cũng chịu chết vì niềm tin, đủ cách :

– Chết vì bị xử giảo : Bà Tuân giúp thầy F.X. Hà Trọng Mậu ẩn trú, thấy
quan quân truy lùng ráo riết, bà gởi sang nhà bên lương nhưng rồi bị họ làm
phản, tố cáo, bà bị bắt, xử giảo năm 1839.

– Chết vì bị xử voi giày : Bà mẹ ông Alexi Đâu, bà Isave (1650), bà Monica,
bà Agatha, bà Gioanna, bà Bênêđita, cô Luxia (con ông Phêrô Kỳ tử đạo) và bà
Maria,
1665.

– Chết vì bị xử trảm : Bà Matta Phước và Monica (1661), cô Fidelis (1666),
bà Thảo cho cha Phêrô Nguyễn Văn Tự ẩn trú, bà Mađalêna Huỳnh Thị Lựu
cho
GM Etienne Cuénot Thể và 2 chủng sinh trú ngụ (1861).

– Chết vì bị bỏ đói trong tù : Bà Agnès Bưởi, bà A-nê (em linh mục Lôrensô
Lâu), bà Maria Thanh, bà Monica Sum (1700), bà Anna Ven, bà Benoît…

Tương tự như lời thơ “Thiên Đường Máu”

Tôn giáo pháp đình,

Một tòa án nghe tên

Muôn đời sau còn dựng óc…

… Một pháp đình thần sầu quỷ khốc

Những giá treo cổ người

Đêm nghiến răng rong róc

Những giàn lửa thiêu tươi

Bao con chiên hiền đạo nhất. (Hữu Loan)

– Chết vì bị thiêu sống (tập thể) 14-12-1861 : Lúc người Pháp tiến đánh
Biên Hòa, có một trại nhốt khoảng 300 tín hữu, trước khi rút về Bà Rịa,
người cầm binh triều cho đốt trại. Chỉ có 5 người thoát được, trong đó có một
thiếu nữ trèo lên cành cây cao, bị cháy hai bắp đùi, sau qua đời tại Sàigòn ;
và cô Mađalêna bị lưỡi đòng lướt qua đầu, cô bất tĩnh, lính tưởng cô chết nên
bỏ đi. Cô là nhân chứng kể thuật lại câu chuyện nầy.

– Đợt sát hại tại Bà Rịa 7-1-1862 : Có mấy trại giam nhốt vài trăm người
bên đạo. Khi lính Pháp tới, quân binh nhà Nguyễn đốt trại, lần ấy 288 đàn ông,
106 phụ nữ và 50 trẻ em chết trong lửa đỏ. Họ cũng làm ngơ để cho một số đàn bà
và trẻ em chạy thoát. Người tử đạo cao niên nhất là bà Maria Liệu, 76 tuổi.

– Có trường hợp một phụ nữ bị thả xuống giếng 2 lần (lần đầu 1 ngày, lần
sau 4 ngày), đói khát, đơn độc trên xác chết những người đồng đạo, mà bà được
sống sót để làm chứng nhân cho tập thể tử đạo vô danh, trong đó có nhiều người
nữ.

Trên đây là hình ảnh người nữ tử đạo sống giữa đời thường, những nữ giáo dân.

Trong thành phần dân Chúa, còn một lớp người nữ dấn thân vào đường tu dòng, đặc
biệt sớm hơn hết ở Việt Nam là dòng Mến Thánh Giá.

C. Dòng Mến Thánh Giá do Giám Mục Phêrô Maria Lambert de la Motte, Đại
Diện Tông Tòa tiên khởi, 1624-1679, M.E.P., sáng lập năm 1670 ở Đàng Ngoài
(Bắc) – và năm 1671 ở Đàng Trong (Nam), chính thức đi vào lịch sử Giáo hội Công
giáo Việt Nam. Khai sinh bởi ý thức truyền giáo cho người Việt, hành đạo ngay ở
thời kỳ bị cấm đoán, bách hại, các dì Mến Thánh Giá thầm lặng, tích cực, hữu
hiệu. Theo qui định : sống tập thể (nhà dòng), cọng hưởng thành quả vật chất do
tất cả chung tay gầy dựng với tinh thần khó nghèo, vâng phục bề trên, giữ đức
trinh khiết. Khi gặp cơn bắt đạo ngặt nghèo, các dì phải phân tán, về gia đình
ẩn cư một thời gian, chỉ để 2 dì cao tuổi giữ nhà dòng, sau đó tình hình lắng
dịu thì lần lượt trở lại. Khép mình theo kỷ luật, cầu nguyện, suy gẫm về sự khổ
nạn của Chúa Ki-tô trên thập giá làm hành trang sống đạo giữa đời.

HÌNH ẢNH CÁC DÌ MẾN THÁNH GIÁ

– Qua tiểu sử thánh GM Etienne Cuénot (Thể) : cha mở nhà nuôi trẻ mồ côi và
chuộc những trẻ em bị bán đem về cho ở đó. Mỗi nhà độ 30 em, đa số là bé gái,
trao cho 2 dì phước và 2 em lớn trông coi. Khi nhà hết chỗ, cha xoay sở cất
thêm nhà khác.

– Từng 2 dì, đi bán thuốc để giúp đỡ, an ủi giáo hữu, rửa tội trẻ em sắp lìa
đời.

– Lo việc săn sóc trẻ mồ côi, viếng bệnh nhân, thăm người nghèo, giúp các giáo
sĩ ẩn lánh khi bị truy lùng… như dì Anna Nguyễn Thị Nhường, Mến Thánh Giá Qui
Nhơn ; dì Thủ, Mến Thánh Giá Huế.

– Một nữ tu bị bắt ở Kẻ Báng vì trữ giấu các đồ đạo và thông tin liên lạc. Dì
Ysave Ngọ ở Cái Mơn bị giam tù, đánh đập.

– Dì Anna Khiêm và A-nê Thanh bị bắt giam chung với thánh I-nê Đê Lê Thị Thành.
Hai dì bị thả rắn trong quần áo, rồi buộc chặt ống quần và tay áo, cốt làm
hoảng sợ để chối đạo và chỉ nơi các giáo sĩ ẩn trốn.

Có lẽ do hoàn cảnh thực tế của Giáo hội Công giáo Việt Nam thời đó, nên các nữ
tu Mến Thánh Giá không chỉ chuyên cần cầu nguyện, mà còn thể hiện tinh thần
nhập thế của Ki-tô giáo, chia xẻ nghĩa vụ với nhân gian. Các dì canh tác ruộng
vườn, dệt chiếu, làm và bán thuốc tễ (thuốc viên theo đông y) để tự lực cánh
sinh, đồng thời chú tâm dạy dỗ các trẻ nữ, giảng giáo lý cho người tân tòng
(muốn theo đạo), nuôi dưỡng trẻ mồ côi, săn sóc người bệnh tật, rửa tội người
hấp hối, liên lạc, giúp đỡ, mang Mình Thánh Chúa cho các người bên đạo bị giam
tù, theo hỗ trợ tinh thần người bị xử tử tới tận pháp trường, đọc kinh cầu
nguyện, tìm xin lãnh xác những người tử đạo về mai táng hoặc cải táng.

Các dì là phụ tá của hàng giáo sĩ, thầy giảng, góp phần đắc lực bù đắp nhu cầu
của một Giáo hội đang đà phát triển đồng thời cũng bị giới hạn, cấm cách, bách
hại. Vì thế, đương nhiên các dì phải hiện diện trong danh sách những người chịu
khổ vì đạo, chết vì đạo như các người nữ tín hữu khác.

CÁC DÌ MẾN THÁNH GIÁ TỬ ĐẠO

Thỉnh nguyện thư ngày 14-1-1917 xin phong Thánh 1265 vị tử đạo, trong đó có 270
dì Mến Thánh Giá. Và một thỉnh nguyện thư khác ngày 13-12-1918 xin phong Á
thánh cho 2 dì Mến Thánh Giá ở Láng Mun, bị xử giảo tại Phan Rí năm 1861-1862,
bằng 2 cuộn giây thừng chế tạo từ cây dừa ra, 2 cuộn giây ấy dùng để siết cổ 2
Đấng Đáng Kính I-nê Soạn và Anna Trị, nữ tu Việt Nam. Hai cuộn giây thừng ấy
được lưu giữ, chưng bày nơi Phòng Các Thánh Tử Đạo của Hội Thừa Sai Paris.
(Chứng từ của linh mục Eugène Marie Durand Lộc, 1840-1904, M.E.P., là người
viết nhiều bài báo giới thiệu Dòng Mến Thánh Giá với độc giả Âu Châu, theo bản
dịch Việt ngữ của linh mục Đào Quang Toản). Hai dì được “công nhận là Tôi Tớ
Chúa đã hy sinh tính mệnh vì Đức Tin”.

Trước đó, một nữ tu khác, cũng được biết đến như “tử đạo”, dì Maria Mađalêna
Nguyễn Thị Hậu (1814-1841) thuộc dòng Mến Thánh Giá Nhu Lý, Quảng Trị. Tóm tắt
theo tài liệu của LM Đào Quang Toản : Đêm 12 rạng 13 tháng 4 năm 1839, trên
đường đưa linh mục Gilles Joseph Louis Delamotte (Y), 1769-1840, M.E.P., đi lánh
nạn truy nã bằng đường thủy, dì Hậu bị bắt cùng với bà Maria Trần Thị Vững (chủ
thuyền), cha Delamotte, lương y Simon Phan Đắc Hòa, lương y Trần Văn Thuật.
Ngoài 5 người kể trên, còn thêm 3 người liên can bị bắt sau đó : ông xã trưởng
Nhu Lý Phêrô Nguyễn Công Duyên, ông xã Nguyễn Công Nghiêm (còn gọi Gioan
Baotixita Trang) bị bắt thay con trai (vì chú Điền giúp việc thư ký cho cha
Delamotte đã trốn thoát), ông Nguyễn Viết Tốt (Vincentê Luật), người làng An
Do. Tổng cộng 8 người. Trừ bà chủ thuyền Maria Vững, 7 vị khác đều tử đạo.

Dì Maria Hậu bị giam ở nhà tù Trấn Phủ Huế, bị đánh 5 đòn, bị hình phạt “trùng
rúc” (trói 2 chân lại, bắt đứng trong một chậu nước vo gạo có thả nhiều trùng
đất : vers de terre), rồi còn phải quỳ trên tấm gỗ có đinh nhọn.

Tháng 12 năm 1840, dì Hậu và bà Vững cùng bị lưu đày làm nô tỳ nơi nước độc
chướng khí. Nhưng vị quan trông coi vùng ấy là người bên đạo nên cho dẫn Dì Hậu
và bà Vững về Đá Hàn, rồi Phủ Cam. Tại đây, dì Hậu ở trong nhà dòng Mến Thánh
Giá, nhưng chỉ vài ngày sau đó, lâm bạo bệnh, dì qua đời lúc 27 tuổi (1841).

Lời nói của dì được ghi nhắc Tôi xin các quan cứ chặt tôi ra làm ba, tôi sẽ sẳn
lòng vui chịu, nhưng đạp thánh giá dưới chân thì tôi sẽ không bao giờ ưng chịu.

VÀI CHỨNG TỪ VỀ DÌ HẬU :

– “Annales de la Propagation de la Foi” là tập san do Hiệp Hội Công Giáo tại
Lyon xuất bản, phổ biến khắp Âu Châu, trong số 16 năm 1844, đã dành 10 trang
nói về vụ Nhu Lý, bài do các giáo sĩ Hội Thừa Sai Paris gởi về, có những lời
sau đây … Dù sự hy sinh của chị đã không hoàn tất bằng lưỡi gươm, chị thật xứng
đáng được kể vào số những vị tử đạo sáng chói nhất của Giáo hội An Nam.

– Thánh GM E. Cuénot Thể, giám mục địa phận nơi dì Hậu cư ngụ Thực tình mà nói
thì chị đã không chết trên trận chiến, nhưng có đủ chứng cớ để tin rằng cơn
bệnh và cái chết của chị là do bởi thời gian tù đày, tra tấn, hành hạ mà người
ta bắt chị phải chịu gây nên… Người trinh nữ can đảm Marie Mađalêna Hậu có thể
được xem như vị tử đạo của Chúa Ki-tô.

– GM Dominique Lefèvre (Ngãi), 1810-1864, M.E.P., có một thời làm phụ tá cho GM
Cuénot Thể, người theo dõi các sự việc, thu thập nhiều dữ kiện về vụ án, thẩm
định rằng Chị Hậu xứng đáng lên trời lãnh nhận triều thiên dành cho những kiệt
sĩ anh hùng đức tin.

Tóm lại người nữ, giáo dân hay tu sĩ Mến Thánh Giá đều đã trầm luân theo dòng
lịch sử bách hại, chịu mọi cực hình, là tác nhân thầm lặng suốt quá trình gian
khổ dài hơn 300 năm của Giáo hội Công giáo trên giang sơn đất Việt thời cấm
đạo.

VI. Những cảm thông

Sử gia Trần Trọng Kim viết … Nhà vua mà dùng uy quyền để giết hại bao nhiêu thì
dân sự lại khổ sở bấy nhiêu, chứ lòng tin tưởng của người ta không sao ngăn cấm
được. Vả lại đạo Thiên Chúa cũng là một đạo tôn nghiêm, dạy người ta lấy lòng
nhân ái, việc gì mà làm khổ dân sự như thế ?!

Đó cũng là ý nghĩ của một số người bên lương sống trong thời cấm đạo. Qua sử
sách, thấy những dấu chỉ cảm thông đối với các người bên đạo bị giam tù, xử tử
:

– Ông Phan Đình Phùng, 1847-1895, nói Đạo Thiên Chúa lấy Gia Tô làm Trời, cũng
như Thích Ca Mâu Ni là Trời của đạo Phật, hay Khổng Phu Tử là Trời của nhà Nho.
Hể ai đã tín ngưỡng điều gì thì điều ấy là Trời của mình. Mình muốn người ta
đừng xâm phạm đến tín ngưỡng của mình thì mình cũng đừng xâm phạm đến sự tín
ngưỡng của người ta. Thiên Chúa cũng là một thứ tôn giáo, mặc ai tin thì theo.
(Đào Trinh Nhất, Việt Nam Chí Sĩ Phan Đình Phùng, trang 20)

– Có quan huyện cáo tế với trời đất Tôi không muốn bắt người hiền lành. Án phạt
có xuống thì xuống cho người ra lệnh.

– Người lãnh lệnh hành hình miệng niệm Nam Mô A Di Đà Phật, tội phạm đến các
ngài, không phải là tôi, xin đừng thù oán.

– Ông cai đội Tham ngầm giúp đỡ cho phép các bà vào ngục săn sóc vết thương,
tiếp tế thức ăn. Người chết trong tù được ông giúp thay quần áo sạch sẽ và khấn
Lạy ông, khi ông lên trời xin nhớ đến tôi cùng.

– Ông cai Tấn, mỗi lần quan trên ra lệnh bắt đạo, ông tình nguyện dẫn lính đi
rình canh bắt, nhưng rồi lại báo cáo là không tìm thấy ai, có khi còn chỉ đường
cho người bên đạo trốn.

– Đao phủ tên Minh Thưa cha, con bị cưỡng ép làm theo lệnh vua, con sẽ ráng hết
sức chém ngon ngọt và khi cha về trời xin cầu nguyện cho con.

– Một bà bán hàng nói Tôi thờ Trời đất và Thần Phật, tôi rất nghèo, không có gì
để dâng cúng, chỉ có cái chậu nhỏ nầy xin dâng cha với tất cả tấm lòng. Khi cha
khát có thể dùng nó để chứa nước.

– Trong tiểu sử các vị tử đạo, không thiếu trường hợp các quan án hỏi cung tỏ
ra thông cảm với niềm tin của người bị kết tội : trải chiếu cho ngồi, mời trà,
cho thân nhân chuộc đầu người bị xử chém mang về ráp lại chôn (thay vì quăng
sông hay bêu đầu giữa chợ)…

– Khi giặc loạn nổi lên ở miền Bắc, quan Tổng Đốc Nam Định nói rằng tỉnh được
bình yên nhờ có đông người công giáo, còn xin vua trợ cấp nhà tế bần nuôi người
cùi tại Kẻ Vĩnh của GM Pierre Retord Liêu, 1803-1858, M.E.P. (Vũ Thành, Dòng
Máu Anh Hùng III, trang 102).

Nhưng vào thời cấm đạo, một Phan Đình Phùng nêu lên tiêu ngữ “Lương-Giáo Thông
Hành” để cùng chống Pháp đã không thắng nổi các quan quyền Văn Thân hô hào
“Bình Tây Sát Tả”. Tại kinh đô, họ liên kết với Nhóm Hồng Tập (7 người trong
hoàng tộc) chủ động hẹn ngày 3-8-1864 đồng loạt nổi lên định giết ông Phan
Thanh Giản và các người theo đạo Thiên Chúa bị qui trách nhiệm làm mất nước. Họ
dự mưu đưa ông Hồng Tập lên ngôi thay vua Tự Đức. Nhưng công việc bất thành.

Sau sự thể ấy, vua Tự Đức ra Sắc Chỉ tháng 7 năm 1864 :

… Các người Công giáo đã trải qua tình thế khốn khổ nhất nhưng vẫn trung thành
với đạo và cũng trung thành với triều đình. Triều đình không thể không khen
ngợi và ghi nhận điều đó. Vì thế, sau khi được tự do, triều đình coi Công giáo
như lương dân, các người phải biết rõ điều đó. Các người không được để trong
lòng những oán thù vì như thế là không vâng mệnh vua, không vâng mệnh vua là
phản nghịch thì làm sao nói được là người Công giáo nữa. Hãy làm việc để đạt
tới mức hoàn thiện và lời cầu nguyện của các người dễ được chấp nhận. Vua cũng
khuyên các quan triều và giới ăn học nên cởi bỏ hận thù và nghi ngờ người bên
đạo. (Dòng Máu Anh Hùng III trang 348, Vũ Thành) (1)

Năm 1869, vua lại ban Sắc chỉ cho phép người bên đạo được trở về làng cũ, cấm
lương dân không được sách nhiễu người công giáo, các giáo sĩ được tự do đi lại
giảng đạo, miễn là phải báo cho quan sở tại biết.

Cuộc nổi loạn của nhóm Văn Thân đến tháng 5 năm 1874 mới chấm dứt. Nhưng có lẽ
hệ quả vẫn còn âm-ỷ, nên vua Hàm Nghi ra Chỉ Dụ ngày 23-9-1885 :

Ngăn cấm không được đánh phá những người theo đạo Gia Tô vì giáo dân cũng là
những người đồng tộc loại, chỉ vì họ theo tôn giáo nước ngoài mà bất đồng thôi.
Và người Pháp hiếp nước ta chẳng phải là mưu của giáo dân. Triều đình mong muốn
lương giáo chung sống và các thân hào sĩ dân đừng vì chống Pháp mà tức giận
đánh phá giáo dân (Việt Sử Đại Cương, trang 199, Phạm Ngọc Huyền, Cổ Kim Thư
Hương Paris 1983).

VII. Thay lời kết

Thân phận con người, trong hoàn cảnh lịch sử chính trị nhiêu khê, cực kỳ biến
động, chập chùng những hệ lụy, nhưng với thời gian mọi sự dần dần lắng đọng.

Nói về tín ngưỡng ông Phan Xuân Hòa nhận định Dân Việt Nam hầu hết theo Phật
giáo, lấy lòng từ bi bác ái làm trọng, đồng thời tôn sùng đạo Lão, tin thuyết
thần tiên bất tử, phụng sự tổ tiên, tôn kính thần thánh. Từ ngày tiếp xúc với
Tây phương, một số dân theo đạo Gia Tô và Cơ Đốc Cải Cách cũng chú trọng vào từ
tâm, ham làm việc thiện. … Dân tộc Việt Nam không bài bác tôn giáo nào (trừ mấy
vua đầu nhà Nguyễn và một số đình thần thủ cựu dưới triều đại ấy) mà cũng không
chấp nê mê muội vì tôn giáo nào. Mọi người đều tự do trên đường ”tín ngưỡng”.
Không ai vì theo tôn giáo khác nhau mà khích bác, chê bai lẫn nhau.… Trong lúc
bên Âu Châu từng xảy ra “chiến tranh tôn giáo” và bên Ấn Độ thì hai
người khác tôn giáo nhất quyết không đi lại với nhau. Dân tộc Việt Nam, trái
lại ngoài đời tín ngưỡng luôn luôn sống chung thân thiện và đoàn kết.

Người ngoại quốc không thể không lấy làm ngạc nhiên khi thấy trong một gia đình
Việt Nam mà có những trường hợp anh theo tôn giáo nầy, em theo tôn giáo khác ;
hay bố mẹ đi tế lễ ở chùa đình, con cái lại đi cầu nguyện ở giáo hội. Thế mà
mọi người vẫn sống chung yên vui hàng ngày, không hề có chuyện xích mích.… Do
lẽ ấy, trong nước Việt Nam, hầu khắp các nơi đã có chùa thờ Phật Thích Ca Mâu
Ni và các vị Bồ Tát, lại có ngay bên cạnh, nào đền thờ Thái Thượng Lão Quân,
nào giáo đường thờ Đức Chúa Trời, nào đền đình thờ chư vị Thánh Thần, anh hùng
liệt sĩ, và thành Hoàng…

Trong đời sống thực tế, mọi người Việt Nam, dầu theo tôn giáo nào cũng thế, đều
lấy lòng Hiếu-Đễ ở trong gia đình làm trọng ; đối với xã hội lấy đức Tín nghĩa
làm đầu ; đứng trước Tổ quốc lấy sự Trung hiếu làm mục tiêu.

Chính lý tưởng “sống vì quyền lợi chung” đặt quyền lợi tổ quốc trên
hết mà dân Việt Nam vẫn sẵn sàng tiếp rước bất luận tôn giáo nào truyền vào
trong nước, để rồi gạn lọc lấy những tinh túy mong giúp ích cho thực tế hằng
ngày, xây dựng trên một nền gia đình giáo dục truyền thống. (Việt Nam Gấm Vóc,
Phan Xuân Hòa, trang 164-168)

Tạ Thanh Minh-Khánh. (Tháng 10 năm 2012)

(1) Thời vua Tự Đức (1848-1883), các giáo sĩ thuộc Hội Thừa Sai Paris, M.E.P. :

1. Linh mục Pierre-Jean Marie GENDREAU (ĐÔNG), (1850-1935), 1887 là Giám mục
địa phận Nam Đàng Ngoài (Vinh) ;

2. GM Jean Denis Gauthier (HẬU) (1810-1877), 1942 địa phận Tây Đàng Ngoài (Hà
Nội) ;

3. GM Joseph Hyacinthe Sohier (BÌNH) (1818-1876), địa phận Bắc Đàng Trong (Huế)
;

Làm đơn xin Bộ Lễ đổi bốn chữ “tả đạo, dữu dân” thành “dân đạo hoặc giáo dân”
được chuẩn y, có ghi trong Đại Nam Thực Lục Chính Biên Đệ Tứ Kỷ, quyển LII
(Thoáng nhìn Giáo hội Công giáo VN, Trần Anh Dũng, trang 228).

Tài liệu tham khảo :

– Việt Nam Sử Lược II, Trần Trọng Kim, Institut de l’Asie du Sud-Est,
I.D.A.S.E. Paris.

– Việt Sử II, Một Nhóm Giáo Sư, I.D.A.S.E. Paris.

– Việt Nam Gấm Vóc, Phan Xuân Hòa, I.D.A.S.E. Paris.

– Việt Sử Biên Niên Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, Trần Anh Dũng, Orlando 1986.

– Dòng Máu Anh Hùng I, II, III, Vũ Thành, Phong Trào Thanh Sinh Công VN tại Hoa
Kỳ, xuất bản 1987, 1988.

– Inê Tử Đạo Vãn – Tự Điển Việt-La, Jean Louis Taberd, trang 110-134.

– Nữ Tu Nguyễn Thị Hậu, Đào Quang Toản, Imprimerie “Médiations” Toulouse, năm
2000.

– Vai Trò Phụ Nữ Việt Trong Vấn Đề Truyền Giáo Tại Việt Nam, Teresa Huỳnh, Báo
Giáo Xứ Việt Nam Paris, 1988.

– Làm Chứng Cho Tin Mừng, Phạm Bá Nha, 2006

CHÚA ĐẾN MANG LẠI NIỀM VUI VÀ HẠNH PHÚC

CHÚA ĐẾN MANG LẠI NIỀM VUI VÀ HẠNH PHÚC

(Suy niệm Tin Mừng Gioan (Ga 2,1-11) trích đọc vào Chúa Nhật
II thường niên)

Tác giả: Lm Inhatio Trần Ngà

nguồn:conggiaovietnam.net

Một số người cho rằng Chúa Giê-su đến trần gian chỉ nhằm cứu rỗi phần hồn con người; còn phần xác thì chẳng đáng bận tâm.

Thật ra không phải thế, vì ngoài việc loan Tin Mừng và tự hiến đời mình cứu độ nhân loại, cho họ được hưởng hạnh phúc đời sau, Chúa  Giê-su còn thiết tha đem lại niềm vui và hạnh phúc cho mọi người ngay trên cõi đời nầy nữa.

Sự kiện xảy ra tại tiệc cưới Ca-na chứng tỏ điều đó.

Hôm ấy, Chúa Giê-su đến tham dự tiệc cưới tại Ca-na cốt để đem lại niềm vui cho cô dâu chú rể và chúc lành cho họ được trăm năm hạnh phúc. Chúa Giê-su xem đây là điều quan trọng nên Người không chỉ tham dự một mình mà cùng đi với Mẹ Maria và các môn đệ để cho niềm vui của đôi hôn nhân được tăng lên.

Thế rồi, đang giữa tiệc vui bỗng hết rượu. Đây là chuyện không may và ngày vui của đôi tân hôn có nguy cơ trở thành ngày rầu rĩ vì cô dâu chú rể sẽ bị gièm pha trách móc, tiệc cưới sẽ để lại ấn tượng đáng buồn trong lòng khách dự tiệc.

Trước tình thế đó, Mẹ Maria tìm đến với Chúa Giê-su để xin Người cứu vãn. Thế là mặc dù “giờ của Người” chưa đến (Ga 2,4), Chúa Giê-su cũng đã thực hiện phép lạ đầu tay, hoá nước thành rượu ngon với số lượng dư dật để đem lại niềm vui cho mọi người.

Sự việc nầy cho thấy hạnh phúc đời nầy của con người là mục tiêu quan trọng mà Chúa Giê-su nhắm tới. Sau nầy, Chúa Giê-su thực hiện nhiều phép lạ khác cũng không ngoài mục tiêu đó.

Vì muốn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người goá phụ Na-in nên Chúa Giê-su đã cho con trai bà đã chết được sống lại, dù bà chưa ngỏ lời van xin. (Lc 7,11-17)

Vì muốn đem lại niềm vui và hạnh phúc cho hai chị em Mác-ta và Maria ở Bê-ta-ni-a đang sầu thảm vì mất em, Chúa Giê-su đã truyền cho La-da-rô chết chôn trong mồ được sống lại. Nhờ đó, cả gia đình được chan hoà niềm vui. (Ga 11, 32-43)

Cũng vì muốn đem lại niềm vui cho hai môn đệ Em-mau đang sống trong ưu phiền thất vọng, Chúa Giê-su phục sinh đã hiện ra, cùng đồng hành với các ông, đem lời kinh thánh sưởi ấm tâm hồn sầu muộn của các ông. (Lc 24, 32)

Và rất nhiều phép lạ khác Chúa Giê-su đã thực hiện như cho người mù được xem thấy, cho người điếc được nghe, người què đi được, người phong hủi được sạch, người câm được nói, cho người đói được ăn, cho người nghèo được nghe Tin Mừng… cũng đều nhằm đem lại niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân.

Hơn nữa, Chúa Giê-su không muốn đem lại cho người đời một niềm vui chóng qua, một thứ hạnh phúc mau tàn, nhưng là một thứ hạnh phúc vững bền đặt nền trên tình yêu thương huynh đệ.

Biết rằng con người sẽ luôn luôn bất hạnh nếu thiếu vắng tình thương, rằng tình thương là yếu tố cốt thiết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho muôn người, nên Chúa Giê-su không ngừng kêu gọi mọi người hãy yêu thương đùm bọc nhau như anh chị em một nhà: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” (Gioan 13, 34).

Người cũng báo trước cho mọi người biết rằng hạnh phúc đời đời trên thiên quốc chỉ dành riêng cho những ai yêu thương phục vụ người khác, đồng thời cảnh báo rằng khổ hình đời đời trong hỏa ngục là hậu quả phải đến cho những kẻ không sẵn sàng cứu giúp những người khốn khổ quanh mình. (Mát-thêu 25, 31-46)

Như thế, đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những người chung quanh không còn là chuyện nhỏ nhưng là một quan tâm hàng đầu của Chúa Giê-su.

Là ki-tô hữu, là cánh tay nối dài của Chúa Giê-su, chúng ta cũng được mời gọi tiếp tay với Người để vun đắp niềm vui và hạnh phúc cho những người đang sống quanh ta bằng quyết tâm sống theo luật yêu thương của Người, để nhờ đó, gia đình, thôn xóm và đất nước chúng ta được hạnh phúc an ủi.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

 

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Công đồng đã đến (10)

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Công đồng đã đến (10)
VRNs (16.01.2013) – Sàigòn
Công đồng đã đến
Công đồng Vatican II đã đến. Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã ấn định
ngày 11 tháng 10 để long trọng khai mạc. Các giám mục khắp toàn cầu đã lần lượt
lên đường về La Mã. Thế là thời gian chuẩn bị trong vòng gần 4 năm đã hoàn tất.
Trong thời gian ấy chúng ta đã theo dõi từng biến cố từng giai đoạn. Giờ đây,
trước khi Công đồng khai mạc, chúng ta tự hỏi: Chúng ta còn phải làm gì cho
Cộng đồng?
Trước hết, chúng ta phải cầu nguyện sốt sắng hơn nữa cho Công
đồng. Chính Đức Thánh Cha đã thúc giục chúng ta: “Giờ đây, Ta nài xin mỗi tín
hữu và toàn thể giáo dân hướng tất cả lòng nhiệt thành của mình về công đồng và
sẵn sàng cầu nguyện tha thiết cùng Thiên Chúa Toàn năng, xin Người lấy lòng
nhân ái của Người yểm hộ công trình trọng đại này, mà hôm nay đã cận ngày khai
mạc; xin Người lấy uy lực của Người củng cố Công đồng ngõ hầu Công đồng thành
tựu một cách tương xứng với địa vị của mình”. Qua lời của Đức Thánh Cha, chúng
ta nhận thấy rằng lời cầu nguyện của chúng ta là một yếu tố cần thiết cho sự
thành tựu của Công đồng. Đó là bổn phận của tất cả những ai mang danh con cái
Giáo hội. Tất cả công trình chuẩn bị trong vòng gần 4 năm qua sẽ trở nên vô
hiệu, nếu không được ơn đặc biệt của Đấng Toàn Năng.
Một công việc thứ hai chúng ta phải làm để Công đồng được hiệu quả
đó là thánh hóa bản thân ta, là sống đời sống đức tin của ta cách đầy đủ. Yếu
tố này chính Đức Thánh Cha đã dạy: “Ước gì mọi lời cầu nguyện đó phát ra cách
liên lỉ từ nguồn mạch sự sống đức tin. Có như vậy mới dễ được Chúa nhận lời và
trở nên hoàn toàn đắc lực. Ước gì chúng con được tăng thêm giá trị bằng một cố
gắng tận tình để sống đời sống Công giáo để ta kết hợp được rằng hết mọi người
đều dọn mình sẵn sàng tuân theo mệnh lệnh và những quyết nghị mà chính Công
đồng sẽ ban bố một ngày gần đây”. Chúng ta chưa biết được những chỉ thị và
quyết định nào sẽ được ban bố. Nhưng có một điều chắc chắn là Công đồng sẽ đòi
hỏi ở ta một cuộc đổi mới trong đời sống đức tin của ta.
Sau hết để Công đồng được kết quả mỹ mãn, Đức Thánh Cha đã nhấn
mạnh việc ăn năn đền tội. trong thông điệp “Sám hối” Đức Thánh Cha đã khuyên
dạy chúng ta lo việc ăn năn đền tội: “Sám hối theo giáo lý của Chúa Giêsu, là
một phương làm cho người có tội được ơn tha thứ và bảo đảm phần rỗi đời sau.
Bởi thế không ai lạ gì, khi Giáo hội Công giáo… vẫn coi việc ăn năn sám hối như
một điều kiện căn bản, để cải thiện đời sống con cái mình và để chấn hưng tiền
đồ của chính Giáo hội. Vì lý do trên đây,trong sắc chỉ triệu tập Công đồng
Vatican II, ta đã kêu gọi giáo dân phải chuẩn bị tiếp đón công cuộc lớn lao này
không những bằng lời cầu nguyện, bằng sự thực hành các nhân đức Công giáo, mà
còn bằng cả sự tự ý hu sinh hãm mình. Hôm nay, đứng trước thềm đại Công đồng,
Ta càng phải nhấn mạnh lời khuyên nhủ trên đây… Trước hết, cần sự thống hối bề
trong, tức là ăn năn và đền các tội mình đã phạm… Thực ra, các viện đền tội bề
ngoài sẽ thánh vô ích, nếu không đi theo với sự trong sạch bên trong nếu không
có sự ăn năn hối lỗi”.
Cầu nguyện, sống đức tin Công giáo và ăn năn đền tội, đó là ba
việc cần thiết chúng ta phải làm, trong những ngày trọng đại Cộng đồng nhóm họp
tại La Mã. Chúng ta hãy nhiệt tình tham gia vào Công đồng. Chúng ta hãy theo
các giám mục chúng ta bằng lời cầu nguyện, bằng sự sống đức tin và bằng sự ăn
năn đền tội, để Công đồng Vatican II trở nên một Lễ Hiện Xuống mới khả dĩ đem
lại cho Giáo hội một mùa xuân mới.
Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp

Số 161-10/1962

ÂN SỦNG

ÂN SỦNG (CN 2 QN.C)

(Is 62, 1-5; 1Cor 12, 4-11; Ga 2, 1-12)

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Tất cả là hồng ân. Hồng ân, ân sủng, đặc ân, đặc sủng, qùa tặng, tài năng, ân lộc, ân phúc, phúc lộc, thiên tài, an lạc và hạnh phúc đều là những món qùa được trao ban. Người ta thường nói: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Trải qua bao đời, cha ông của chúng ta đã nghiệm ra rằng con người không thể làm chủ toàn diện đời mình. Trước hết, mỗi người đón nhận hồng ân sự sống để được hiện hữu. Mỗi tạo vật lãnh nhận một kho tàng mầu nhiệm một cách nhưng không. Người hữu thần tin tưởng vào Thượng Đế, Đấng đã tạo dựng và quan phòng vạn vật muôn loài trong trật tự. Người vô thần cắt đứt nguồn gốc sáng tạo và chỉ chú tâm vào nỗ lực của con người hiện tại. Có người nghĩ rằng với khả năng và nỗ lực tu tâm và tu
thân, con  người có thể quyết định hoàn toàn số mệnh của mình. Là người trí tuệ,
chúng ta nên mở rộng tâm trí để học hỏi và trau dồi kiến thức thêm. Quan sát sự
sống muôn loài và vũ trụ vạn vật bao la, điều quan trọng là chúng ta hãy khiêm
tốn chấp nhận thân phận yếu đuối, mỏng dòn và rất giới hạn của mình.

Phần phụng vụ lời Chúa của Chúa nhật thứ hai Thường Niên giúp chúng ta có một xác tín về ân sủng thiêng liêng. Thiên Chúa sáng tạo, dẫn dắt điều khiển sự vận hành của vũ trụ và sự sống của muôn loài. Con người là tạo vật cao quý mà Thiên Chúa đã tác tạo. Mỗi một con người được tựu thai là một tạo vật hoàn toàn mới và duy nhất. Mọi khả năng tiềm tàng về di truyền đã được in ghi trong từng tế bào của mỗi sự sống.
Thượng Đế cho con người có ý chí, lý trí, ước muốn, tự do và khả năng để phát
triển tới đỉnh cao. Con người có thể dùng khả năng và nỗ lực quyết tâm tu tâm
và tu thân để trở nên con người hữu dụng và trọn hảo. Tiên tri Isaia đã diễn
tả: Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Thiên Chúa, sẽ
là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa ngươi cầm ở tay (Is 62, 3).
Đấng
Tạo Hóa trao ban cho mỗi loài có khả năng truyền sinh giống nòi theo cách thế
riêng biệt. Sự sinh xôi nẩy nở và tăng triển thêm nhiều sẽ làm tăng vẻ huy
hoàng của vũ trụ vạn vật. Thiên Chúa đã chúc phúc cho mọi loài được tốt đẹp.

Chúng ta thử suy về nguồn sự sống trong con người cụ thể. Trước khi được hiện hữu, chúng ta chỉ là không. Đã có một khoảnh khắc mỗi người được bắt đầu hiện hữu. Mầu nhiệm sự sống khởi đầu từ sự kết hợp giữa mầm sống từ cha và mẹ. Ôi thật bé nhỏ và nhiệm mầu! Chỉ trong tế bào tí ti đó đã ẩn tàng mọi sự. Sự sống đó không chỉ bắt đầu từ cha và mẹ nhưng nó được nối dài từ thuở tạo dựng. Mầm sống đó được truyền sinh qua vô lượng kiếp. Sự sống phát sinh ra sự sống. Vậy sự sống trong chúng ta đã được
truyền sinh qua sự sống của muôn thế hệ cha ông. Cha mẹ cộng tác với Tạo Hóa
sáng tạo sự sống nơi mỗi con người một cách đặc thù và riêng biệt. Mỗi cá nhân
đều có Deoxyribonucleic acid (DNA) khác nhau và dấu chỉ tay cũng khác biệt.
Thật lạ lùng!

Người khôn ngoan và trí tuệ là đừng từ chối điều gì mà mình chưa được học hiểu. Vì càng tìm hiểu và học hỏi, chúng ta càng hiện hữu thêm. Chúng ta biết rằng cả kho tàng kiến thức của loài người góp lại cũng chẳng thấm vào đâu so với sự diễn tiến, hiện hữu và sinh tồn của vũ trụ. Nhiều người có trí khôn hiểu biết còn nông cạn, chưa thấu
hiểu được lòng người và cũng chẳng thông suốt thế thái nhân tình, nhưng lại phán
quyết nhiều điều vô căn cớ. Có người lại mạnh miệng lên tiếng phủ nhận sự hiện
hữu của Đấng tác thành mọi sự. Khi không muốn qui phục, người ta chỉ việc đơn
giản chối bỏ uy quyền của Thượng Đế và nói rằng mọi sự hiện hữu là tự nhiên mà
có. Họ nghĩ rằng những người hữu thần tin vào thượng đế là thiếu trí tuệ và
chưa giác ngộ. Đối với họ, thần thánh chỉ như là bánh vẽ hù dọa những người sơ
khai và âu trĩ. Có lẽ chính họ còn đang ngồi trong bóng tối của vô minh

Qua Kinh Thánh mạc khải và quan sát ngắm nhìn sự vạn vần trong vũ trụ, con người nhận ra nguyên nhân cội rễ của muôn loài. Đó chính là nguyên lý nhân qủa. Trông qủa thì biết cây. Ngày xưa, Thiên Chúa đã chọn một dân riêng để chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế. Người đã dùng mọi hình thức cụ thể để tỏ bày sự quan tâm chăm sóc, khế ước yêu thương ràng buộc và sự trung tín trong giao ước. Là Kitô hữu, chúng ta tin và tôn thờ một Thiên Chúa có ngôi vị và yêu thương.Tiên tri Isaia đã dùng hình ảnh đôi trai tài gái sắc để diễn tả tình yêu sống động của Đấng tác tạo: Như
tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô
dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ (Is
62, 5).

Thánh Phaolô phân tích một cách khá rõ ràng về những đặc sủng mà mỗi người được lãnh nhận: Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí (1Cor 12, 4). Quan sát cuộc sống trong bất cứ một nhóm người, một hội, môt tổ chức hay một sinh
hoạt chung nào cũng đều có con người có khả năng khác nhau. Mỗi người đều nhận
lãnh khả năng để sinh lợi. Thần khí ban cho mỗi người một cách: Người nói tiên
tri, kẻ giảng dạy, người được ơn chữa bệnh, kẻ làm phép lạ và người được ơn nói
nhiều thứ tiếng…Như trong dụ ngôn về nén bạc, mỗi người đều nhận số vốn khác
nhau: Có kẻ nhận 5 nén bạc, người 2 nén và người 1 nén tùy theo khả năng. Khả
năng, thời gian và tài lực là nguồn vốn của mỗi cá nhân. Điều quan trọng là mỗi
người biết dùng tài năng ân sủng của mình để sinh hoa kết trái. Khả năng như
hạt giống được trao, chúng ta phải biết gieo vãi, vun trồng và chăm sóc thì khả
năng mới phát triển.

Mỗi cá nhân là một thế giới riêng tư nhưng không thể tách rời. Sống là sống chung, sống cùng và sống với người khác, sự liên đới hỗ tương giúp xây dựng một xã hội tốt đẹp: Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung (1Cor 12, 7). Không ai nhận ân sủng cho riêng mình nhưng đều vì ích lợi chung. Cuộc sống rất đa
dạng. Lịch sử loài người phát triển từng bước liên tục và nối dài. Tất cả thành
qủa của chất xám tri thức đã đặt nền tảng phát minh trong mọi thời. Nhờ trí
khôn, con người đã tìm ra được một số những nguyên nhân ẩn tàng trong thiên
nhiên. Mỗi sự phát minh mới đều đặt nền tảng trên các định luật đã có trước. Sứ
mệnh của con người là phục vụ lẫn nhau trong khả năng của mình. Con người có
muôn trùng khả năng chuyên môn và công việc khác nhau để phục vụ công ích.
Chúng ta tuy nhiều nhưng cùng tin vào một Thiên Chúa: Có nhiều việc
phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa (1Cor 12, 5).

Chúa Giêsu đầy quyền năng trong ý tưởng, lời nói và việc làm. Chúa đã hiện hữu từ đời đời có uy quyền sáng tạo và biến đổi cả tinh thần lẫn vật chất. Tại tiệc cưới Cana qua lời khẩn nài của Mẹ Maria, Chúa Giêsu là làm phép lạ đầu tiên biến nước thành
rượu. Thánh Gioan đã viết: Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na
miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người (Ga
2, 11).
Với sự cộng tác của con người, Chúa đã tỏ quyền năng và vinh quang của Ngài. Ngài không khoe khoang hô lớn nhưng chỉ hành động âm thầm qua những việc rất bình thường của gia nhân: Đức Giê-su bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi! ” Và họ đổ đầy tới miệng (Ga 2, 7). Chỉ có các gia nhân biết sự việc đã xảy ra cũng giống như các mục đồng nhận diện ra Chúa nơi máng cỏ Belem.

Chúng ta hãy đến cùng Đức Maria, Mẹ là đấng cầu bầu có thần thế trước tôn nhan Thiên Chúa. Mẹ sẽ dẫn dắt chúng ta đến với Chúa Giêsu. Nghe lời của Thân Mẫu Chúa nói với các gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.”(Ga 2,
5).
Lạy Chúa, Chúa đã biến nước thành rượu ngon, xin Chúa biến đổi tâm
hồn chúng con nên khí cụ bình an của Chúa.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Bronx, New York.

Anh chị Thụ & Mai gởi

Phanxicô Assisi

Phanxicô  Assisi

Br. Huynhquảng

 

 

Nếu Con Thiên Chúa không ngần ngại đến và  sống với thế giới vật chất đổ nát này, thì tôi là ai mà dám khước từ chạy  trốn khỏi thế giới vật chất này?

Khi nghe tên hay thấy hình ảnh của Phanxicô Assisi (Phanxicô Khó Nghèo), nhiều
người trong chúng ta dễ dàng bị thu hút bởi thánh nhân này. Vì lẽ đó, khi nghĩ
đến Phanxicô, chúng ta thường nghĩ về một con người đem sự bình an, yêu thương,
chan hoà giữa con người với nhau và giữa con người với vạn vật trong vũ trụ.
Phanxicô trở nên biểu tượng  cho các cuộc đối thoại nhằm tìm giải pháp hoà
bình, tranh chấp không những giữa các tôn giáo với nhau mà con giữa các nhà
chính trị. Phanxicô còn lá biểu tượng và mẫu gương cho nhiều nhà từ thiện trong
việc giúp đở người nghèo đói trong xã hội. Vậy Phanxicô đã có cuộc sống như thế
nào? Ngài đã hành động ra sao đến nỗi tầm ảnh hưởng của Ngài vẫn còn diễn ra
cho đến hôm nay, sau hơn tám thế kỷ?!

* * *

Phanxicô sinh vào năm 1182 tại Assisium, một thị trấn nhỏ toạ lạc
trên dãy đồi Assisi trong một gia đình thương gia giàu có tại Ý. Dầu được người
cha cưng chiều và được hướng dẫn để tiếp nối trở thành một thương gia giàu có,
Phanxicô đã không tìm được ý nghĩa đích thực của đời mình qua tiền bạc, giàu
sang, và thú vui trần thế. Nhưng Phanxicô đã thực sự tìm được hạnh phúc đời
mình khi chàng từ bỏ địa vị, sự an toàn của bản thân, và danh tiếng của gia
đình để sống và làm bạn với những người ăn xin, ôm ấp và chăm sóc người phong
hủi. Kết quả của sự dấn thân “liều mạng” này chính là bị khước từ quyền làm con
của ông Peter Bernardon, và từ một chàng thanh niên giàu có đã trở thành kẻ ăn
mày bên vệ đường. Đặc biệt từ trong cầu nguyện, Phanxicô đã nghe được tiếng
Chúa trong nguyện đường rách nát St. Damian, “Phanxicô, hãy sửa nhà cho Ta.” Từ
đó, Phanxicô càng dấn thân hơn nữa để sống theo giá trị của Tin Mừng một cách
tuyệt đối. Lạ lùng thay, càng làm người ăn mày, càng làm người chăm sóc bệnh
nhân, càng làm người đi xin từng đồng xu để xây dựng Nhà Chúa, Phanxicô càng có
nhiều bạn và càng thu hút nhiều người theo Phanxicô. Sức mạnh này từ đâu? Lý do
nào mà Phanxicô có sức thu hút lạ thường như thế?

Bàn về thần học, Phanxicô chú trọng vào mầu nhiệm Giáng Sinh hơn là
mầu nhiệm Tử nạn – Phục sinh. Đối với Phanxicô, cái chết và sự phục sinh của
Chúa Kitô là hệ quả tất yếu của mầu nhiệm Giáng sinh làm người của con Thiên
Chúa. Đương thời, nhóm dị giáo Cathars thuộc phái Nhị Nguyên cho rằng,
thế giới vật chất mà con người đang sống là do thần dữ (ma quỉ) và thần lành
tạo dựng. Vì thế, những gì mà con người đang hưởng thụ trong một thế giới vật
chất này đều của ma quỉ. Để cứu con người, Thiên Chúa gởi thiên thần Giêsu đến
để giải thoát con người ra khỏi thế giới vật chất này. Vì cho rằng thế giới này
rách nát và sa đoạ, nên nhóm Cathars chủ trương triệt để khước từ thế giới vật
chất và những đau khổ trong thế giới con người. Họ quan niệm rằng, bệnh hoạn,
tật nguyền, nghèo đói là hậu quả của thế giới vật chất này, nên không thể chấp
nhận chúng được! Vậy mà Phanxicô lại đi ôm và hôn người phong hủi! Vậy mà
Phanxicô lại đi làm bạn với vạn vật cây cỏ và gọi những thụ tạo là anh chị em!
Hành động dấn thân của Phanxicô đã phủ nhận học thuyết của dị giáo Cathars.

Phanxicô ôm trọn con người và thế giới vạn vật là vì Phanxicô được mặc khải tình yêu của Thiên Chúa qua mầu nhiệm Nhậm Thể và Nhập Thế của con Thiên Chúa. Khi chiêm niệm mầu nhiệm Giáng Sinh, Phanxicô đã đi vào cung lòng của Thiên Chúa khi thấu chạm được rằng mầu nhiệm Giáng Sinh của Con Thiên Chúa là hành động tuyệt đối biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người: Chúa Giêsu đã ôm hôn thế giới tội lỗi này bất chấm sự ghê tởm của nó. Chúa Giêsu đã sống và làm người trong thế giới này bất chấp sự mục nát và suy đồi của nó. Đây chính là sức mạnh then chốt mà Phanxicô đã tìm gặp để dấn thân. Nếu Con Thiên Chúa đã không ngần ngại ôm hôn thế giới này, thì tôi là ai mà không ôm hôn và chăm sóc anh em tôi? Nếu Con Thiên Chúa không ngần ngại đến và sống với thế giới vật chất đổ nát này, thì tôi là ai mà dám khước từ chạy trốn khỏi thế giới vật chất này? Nếu Con Thiên Chúa đã tự hạ mình để chấp nhận làm người rách nát trong máng cỏ của chiên bò, thì tôi là ai mà không hạ mình xuống phục vụ anh em đồng loại rách nát như tôi? Chiêm ngắm sự hạ mình khiêm tốn của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm Giáng Sinh đã biến đối con người Phanxicô: Từ một người giàu có  thành kẻ ăn mày, từ một người làm chủ thành kẻ tôi tớ, và từ một người ăn chơi sung sướng trở thành kẻ nô lệ và tù nhân cho một Thiên Chúa vô hình.

Trong bài cuối của loạt bài học hỏi về đức khiêm tốn, chúng ta được
mời gọi nhận diện về giá trị và sức mạnh của sự khiêm tốn vốn thật sâu thẳm và
huyền nhiệm; vì thế, tự khả năng con người không thể có được. Chúng ta cần sức
mạnh của Thiên Chúa qua cầu nguyện và chiêm niệm. Có lẽ, những vấp ngã hằng
ngày của chúng ta cũng phần nào giúp ta thấm thía nhìn nhận rằng: Tôi thật yếu
đuối. Nhưng cũng có thể nhờ những vấp ngã này, chúng ta mới thấy rằng mình cần
Chúa biết bao!

 

Tình yêu hồi sinh cô gái trẻ Afghanistan Aesha

Tình yêu hi sinh cô gái tr Afghanistan Aesha

Sau hơn 2 năm kể từ ngày thảm kịch kinh hoàng bị chồng cắt tai, xẻo mũi được phát hiện, cô gái Afghanistan Aesha đã hồi sinh trong tình yêu thương chan chứa của cha mẹ nuôi.

Mái ấm gia đình đã giúp cô có thể dũng cảm soi khuôn mặt mình vào gương, đối diện với một phần ký ức đau buồn mà cô từng muốn vùi sâu, chôn chặt. Nếu không có gì thay đổi, vào mùa hè năm tới, Aesha sẽ có một khuôn mặt mới như chưa hề có tai họa xảy ra sau hàng loạt các cuộc phẫu thuật.

Câu chuyện của Aesha lần đầu tiên được biết đến khi hình ảnh đau lòng về khuôn mặt cô xuất hiện ở trang bìa tạp chí Time của Mỹ năm 2010. Kể từ đó, số phận và một phần đời đau khổ của Aesha luôn được cả thế giới chú ý.

Aesha và người cha nuôi Mati sau 3 cuộc phẫu thuật

Nỗi đau tột cùng của cô gái trẻ

Năm 12 tuổi, cha Aesha hứa gả cô cho một tay súng Taliban đã có tuổi ở tỉnh Oruzgan. Đám cưới diễn ra trong nước mắt của những người phụ nữ trong gia đình. Tuy nhiên, sau đám cưới, Aesha vẫn được sống chung cùng cha mẹ. Hai năm sau đó, vào cái ngày Aesha tròn 14 tuổi, người đàn ông Taliban già khụ đó đã đến đón cô bé về nhà để làm vợ.

Gia đình nhà chồng Aesha có tới 11 người anh em. Khi người chồng đi chiến đấu ở Pakistan, Aesha nghiễm nhiên thuộc về quyền sở hữu của cha chồng và 10 người còn lại trong gia đình. Tất cả các thành viên trong nhà chồng Aesha đều là lính Taliban tại tỉnh Uruzgan. Hằng ngày, họ thay nhau lạm dụng và bóc lột sức lao động của cô bé.

Cô gái Afghanistan tự tin và hạnh phúc trong cuộc sống mới

Bị hành hạ triền miên, Aesha nghĩ cách để thoát khỏi gia đình Taliban tàn ác đó. Một hôm, khi gia đình chồng không để ý, cô đã lẻn trốn một mình. Trong thời gian bỏ trốn, Aesha bị cảnh sát Taliban bắt giữ và bị phạt 5 tháng tù giam. Sau đó, Aesha được trả lại cho gia đình nhà chồng. Chồng Aesha trở về biết chuyện đã tố cáo với chính
quyền Taliban rằng hành động bỏ nhà của cô đã bôi nhọ danh dự dòng tộc. Được sự
đồng ý của Taliban, Aesha sẽ phải chịu những hình phạt nặng nhất theo ý của nhà
chồng.

Đó là một buổi chiều, khi Aesha 18 tuổi, cô bị gia đình nhà chồng đưa lên trên một đỉnh núi. Tại đây, chồng cô cùng với những người anh em của anh ta đã khống chế và cắt mũi, cắt tai Aesha. Sau khi thực hiện hành vi thú tính, phần mũi và tai của Aisha được hắn cầm ném xuống vực. Khi tỉnh dậy bên vũng máu với vết thương đau đớn đến tột cùng, Aesha đã cố gắng lê lết về đến nhà ông ngoại. Cha đẻ của Aesha đã đến và
đưa con gái tới một trung tâm y tế của Mỹ, nơi Aesha được chăm sóc suốt 10
tuần. Các bác sĩ tại đây đã chuyển cô tới một trung tâm bí mật ở Kabul và đưa
tới Mỹ hồi tháng 8/2010.

Tình thương yêu giúp hồi sinh

Những ngày mới đến Mỹ, Aesha luôn sống trong sự hoảng loạn tâm lý bởi những cơn ác mộng cứ hành hạ cô triền miên. Nỗi ám ảnh về ngày kinh hoàng trên ngọn núi đôi lúc dội về khiến Aesha như điên dại. Cô từ chối bất cứ sự giúp đỡ y tế nào, thậm chí có những cơn thịnh nộ, kèm theo hành động bạo lực chống trả lại. Đó là một cú sốc tâm lý kinh khủng đối với một cô gái vừa bước qua tuổi trăng tròn. Hiểu được điều này,
các bác sĩ đã tạm dừng quá trình tái tạo mũi để làm biện pháp tâm lý cho Aesha.
Sau khi được trấn an tinh thần, Aesha hứa thay đổi và cho biết, cô rất cần có
người thân và một mái ấm thực sự.

Aesha xuất hiện lần đầu trên tạp chí Time

Và thật kỳ diệu, một cặp vợ chồng người Mỹ gốc Afghanistan đã dang tay chào đón Aesha. Đó là vào trước lễ Tạ ơn năm 2011, ông bà Mati Arsala đã đến làm thủ tục để nhận Aesha làm con nuôi và đón cô gái về nhà sống cùng ở California. Trong vòng tay yêu thương của cha mẹ nuôi, Aesha như lấy lại được sự cân bằng trong cuộc sống.

Cô chia sẻ: “Giờ đây tôi đã hiểu được ý nghĩa của cuộc sống và biết sống như thế nào”. Hiếm có bố mẹ nuôi nào thương con như ông bà Mati. Ông Mati mất ăn mất ngủ vì lo lắng cho cô gái. Ông chăm sóc cô tận tình như đứa con rứt ruột sinh thành. Ông đã phải rút rất nhiều trong phần tiền dành về hưu của mình để trang trải cho những chi phí phát sinh từ việc chữa trị của Aesha.

Aesha không còn gặp những cơn ác mộng nữa. Cô nhận ra có nhiều phụ nữ trên thế giới cũng phải trải qua nỗi khổ giống như cô, vì vậy cô không lẻ loi, đặc biệt là bên cạnh cô còn có rất nhiều người tốt bụng, có cha mẹ nuôi và những nhà hảo tâm luôn lo lắng cho các đợt điều trị của cô. Ông Mati đã chuyển cả gia đình từ California lên
New York để tiện cho việc phẫu thuật của Aesha. Trải qua suốt 6 tháng với các
cuộc phẫu thuật chỉnh hình, trên trán của Aesha đã nổi lên một cục u thâm sì,
còn phần mũi cũng mọc lên một chút ụ thịt nhỏ. Sau lễ Giáng sinh năm nay, Aesha
sẽ bước vào lần phẫu thuật thứ tư dự kiến kéo dài 8 giờ để tái tạo, cấy ghép
nhiều tầng da thịt.

Các bác sĩ đã đặt một vỏ silicon dưới da trán của Aesha và từ từ bơm chất lỏng vào trong đó để mở rộng phần da. Sau đó, họ sẽ sử dụng phần da trán này để đắp vào chiếc mũi mới. Các bác sĩ cũng phải lấy mô từ cánh tay Aesha, cấy nó lên mặt cô để tạo thành lớp bên trong và phần dưới của mũi. Bước kế tiếp là lấy sụn từ xương sườn nằm bên dưới ngực của cô để dựng khung mũi. Sau cùng là phần da từ trán sẽ được đắp phủ lên tạo thành chiếc mũi hoàn thiện. Nếu phẫu thuật lần này thành công,
Aesha đã đi được một nửa đoạn đường tìm lại nhan sắc. Và nếu may mắn, cô gái sẽ
có một chiếc mũi hoàn chỉnh vào mùa hè năm tới.

Aesha cho biết, ký ức kinh hoàng là một phần trong con người cô, thuộc về cuộc đời cô. “Nó mãi mãi trong tâm trí tôi, nhưng tôi phải sống và phải yêu” – cô gái Afghanistan không nhớ nổi mình 21 hay 22 tuổi, mạnh mẽ nói về tương lai như vậy.

nguồn: Anh Nguyễn Đình Hữu gởi

BÍ TÍCH THANH TẨY

BÍ TÍCH THANH TẨY
Lể Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, Năm C  13-1-2013
(Isaiah 42: 1-4,6-7 /  40: 1-5,9-11; Acts 10:34-38/Timothy 2:11-14;3:4-7; Luke 3:15-16, 21-22)
Nguyễn Tiến Cảnh, MD

Có người gọi Lễ Hiển Linh là lễ Chúa Kitô khánh thành sứ mạng Thiên Chúa của
Ngài ở trần gian, và được hoàn chỉnh vào lễ Chúa Giêsu chịu phép thanh tẩy. Lễ
Chúa chịu phép Thanh Tẩy coi như kết thúc mùa Giáng Sinh, nhưng thực sự Giáng
Sinh sẽ kết thúc vào lễ Chúa Giêsu dâng mình vào đền thánh vào ngày 2 tháng
Hai.
Bài Tin Mừng hôm nay (Lc 3:15-16, 21-22) cho biết Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của
Ngài ở Galilée sau khi chịu phép thanh tẩy bởi thánh Gioan Tiền Hô. Nói về sự
mong chờ của mọi người (3:15), thánh Luca đã tả quang cảnh thánh Gioan thuyết
giảng giống như tình trạng những người Do Thái thành tâm trong khung cảnh Chúa
Hài Đồng sinh ra (2: 25-26, 37-38). Thánh Gioan Tiền Hô nói về một nhân vật vĩ
đại, cao trọng hơn, có quyền lực thanh tẩy mạnh mẽ hơn thánh nhân nhiều (Lc
3:16; Ga 1:26-27).
Khác hẳn với phép rửa thánh Gioan làm bằng nước, Chúa Giêsu nói  phép rửa
Ngài làm sẽ bằng ơn Chúa Thánh Thần và Lửa (Lc 3:16). Cộng đồng Kito Giáo sơ
khai quan niệm Ánh Sáng Lửa là biểu tượng của Chúa Thánh Thần được đổ ra ngày
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (Cv 2: 1-4). Theo giáo huấn của thánh Gioan,
Thánh Thần và Lửa phải được hiểu là những gì tinh khiết, tinh luyện và trinh
trong (Ez 36: 25-27; Ma 3: 2-3).
Tiếng nói phát ra từ trời khi Chúa Giêsu chịu phép rửa: “Con là Con yêu dấu
của Ta, rất đẹp lòng Ta”
(Mt 3:17) là một xác quyết rõ ràng Chúa Giêsu thành
Nazareth là con-người-thiên-sứ. Đây chính là một tuyên cáo về Tình Yêu của
Thiên Chúa đối với tân dân Israel / Do Thái của Chúa. Đó là cách Thiên Chúa đặt
tên cho một trách nhiệm cao cả. Nó là một bất ngờ đối với thế giới của những ai
hãnh tiến và uy quyền.
Qua phép rửa làm bằng nước sông Jordan bởi thánh Gioan Tẩy giả, chúa Giêsu đã
chấp nhận điều kiện và khả năng của loài người, gồm cả đau khổ và sự chết và
cách nối kết với Thiên Chúa theo cung cách chúng ta muốn. Người đã giang hai
cánh tay ra ở sông Jordan và trên thập giá. Nơi sông Jordan , Chúa đã chấp nhận
nhiệm vụ. Trên thập giá, Chúa đã hoàn thành nhiệm vụ. Để cho thánh Gioan làm
phép rửa tại sông Jordan , Chúa Giêsu đã xác quyết với thế giới Chúa đến thế
gian là để cứu chuộc muôn dân.
CHÚNG TA ĐƯỢC KÊU GỌI ĐỂ TRỞ THÀNH NGÔN SỨ
Khi chúng ta chịu phép rửa trong Chúa Kito là chúng ta được thanh tẩy trong sự
chết của Ngài. Phép thanh tẩy của chúng ta là một bí tích công khai, ngôn sứ và
vương quyền. Chúng ta chấp nhận sự sống của Giáo Hội và được kêu gọi gìn giữ
niềm tin sự sống đó, niềm tin nghĩ đến tha nhân. Niềm tin này là trách nhiệm
chung của mọi người, không của riêng ai cả.
Bí tích Thanh Tẩy là tiếng gọi người Kito hữu trở thành ngôn sứ. Cách thức
chúng ta sống thế nào là tùy từng người. Cách thức đó có thể không bi thương
như những cuộc mạo hiểm của một Isaiah hay một Gioan Tiền Hô. Tuy nhiên nó phải
ở trong cùng một truyền thống ngôn sứ vĩ đại là Đức Giêsu Kitô. Để là ngôn sứ
chúng tôi cần phải nhập cuộc và hành động; tay chân chúng tôi phải bị dơ bẩn,
nghĩa là không trắng muốt, sạch sẽ như những người suốt ngày ngồi trong văn
phòng và huởng thụ.
Qua phép Thanh Tẩy, chúng ta có thể trở thành ánh sáng cho tha nhân, như Chúa
Giêsu là ánh sáng cho chúng ta và toàn thế giới. Cuộc thanh tẩy của chúng ta sẽ
làm cho chúng ta can đảm, tin tưởng và hăng say hồ hỡi. Nó luôn luôn nhắc nhở
chúng ta là Tin Mừng cần phải được tuyên xưng bằng hành động để tỏ lòng tri ân
vì vẻ huy hoàng, tươi đẹp và ơn phúc của nó.
Khi nào chúng ta lần hồi khám phá ra được những đòi hỏi của niềm tin đó, và ở
đâu cách thức thống hối dẫn dắt chúng ta tới, khi nào chúng ta biết phân biệt
thiện với ác; khi nào chúng ta cố gắng tìm kiếm điều Chúa muốn  trong cuộc
sống của chúng ta và  xin Ngài giúp chúng ta hoàn thành nó; khi nào chúng
ta học hỏi thật nhiều hết sức có thể về Thiên Chúa và thế giới của Ngài; khi
nào chúng ta đến gần được Chúa, thì –lúc đó- con người mà bầu trời đã mở ra cho
Ngài sẽ được tỏ lộ cho chúng ta.
PHÉP THANH TẨY TRONG GIÁO HỘI NGÀY NAY
Ở nhiều nơi trên thế giới hiện nay, việc rửa tội trẻ em đã trở thành tùy nghi.
Số hài nhi, trẻ em, thanh niên thiếu nữ và người lớn không rửa tội đang tăng
lên. Việc xuống dốc đó là do tình liên đới gia đình bị soi mòn và xa rời khỏi
Giáo Hội. Tôi đã từng nghe và biết có những linh mục, những cha xứ thắc mắc và
tranh luận về một thực tế là nếu các ngài thấy có những dấu hiệu rõ ràng chứng
tỏ không có thực hành đức tin thì Giáo Hội có quyền từ chối làm các bí tích,
nhất là bí tích thanh tẩy. Đây quả là một vấn nại rất phức tạp.
Tuy nhiên, phải chăng chúng ta không thể một lần nữa, lắng nghe lệnh truyền của
sứ mạng rao giảng Tin Mừng là “Rửa Tội, Truyền Giáo và Giáo
Huấn
không phải là đợi cho người ta đến với mình mà chúng ta phải
đi ra ngoài, thăm hỏi, gặp gỡ, giúp đỡ người ta, ở những nơi mà tình trạng đang
bê bối, tội lỗi, áp bức, truy nã, tù tội, bất công, bất chính đang hoành hành?
Điều chúng ta cần phải có là nhiệt tình hăng say truyền giáo.  Nó không
phải là những cái gì ghê gớm. Nó rất bình thường. Đó là công tác truyền giáo
hàng ngày, là yêu thương, là thăm viếng kẻ đau yếu, thăm hỏi người tù tội, bênh
vực những người bị bạc đãi, bắt bớ, cưỡng đoạt, lên tiếng trước những bất công,
bất chính, đòi hỏi công bằng xã hội, tự do tôn giáo…như chính Chúa Giêsu đã
làm. Ở Hoa Kỳ tôi đã thấy những giám mục, đức ông –linh mục / giáo dân thì là
chuyện bình thường rồi- thường xuyên đi thăm bệnh nhân và tù nhân. PhépThanh
Tẩy chính là nền tảng tuyệt đối của những nhiệt tình hăng say ấy. Nó không phải
là xum xoe, o bế kẻ quyền thế giàu sang và thế quyền, dù họ là những kẻ chống
Chúa và đầu não của tội lỗi, ác quỉ.
Phép bí tích là để dành cho đời sống con người, thanh thiếu niên và người lớn
cả nam lẫn nữ, không phải là chúng ta muốn họ làm điều ta muốn, để cho ta được
yên thân. Chúng ta có thể nghe văng vẳng bên tai lời Chân phước Giáo Hoàng
Gioan Phaolo II kêu gọi chúng ta: “Duc in altum!” Bạn không thể kiếm
ra được những người cần bạn nơi những vũng nước quen thuộc và nông cạn!
Tình trạng khó xử phải từ chối ban phép thanh tẩy và những bí tích khác cho
những người không thích hợp vì đã không hành đạo trong Giáo Hội, đã được chính
Hồng Y Joseph Ratzinger trải nghiệm lúc còn trẻ, nhưng cuối cùng đã được giải
quyết.  Hãy nghe Ratzinger, nay là Giáo Hoàng Biển Đức XVI trả lời thắc
mắc có liên hệ đến chuyện này của một linh mục ở Bressanone tại Bắc Ý, trong
một cuộc vấn-đáp công khai với các giáo sĩ của giáo phận vào ngày 6-8-2008.
Linh mục Paolo Rizzio, là cha xứ và giáo sư thần học, đã hỏi Đức Thánh Cha một
câu hỏi về phép Thanh Tẩy, phép Thêm Sức và Rước Lễ Lần Đầu:
Thưa Đức Thánh Cha,
35 năm về trước, con đã nghĩ là chúng con khởi đầu là một đoàn chiên nhỏ, một
cộng đồng thiểu số, ít nhiều ở đâu đó tại Âu Châu; do đó chúng con đã chỉ thi
hành các bí tích cho những ai thực sự hành đạo mà thôi. Thế rồi, một phần vì
đường lối của triều đại Gioan Phaolo II, con nghĩ là mọi sự rồi cũng được cho
qua. Đức Thánh Cha nghĩ sao và cho chúng con ý kiến để thi hành về sau? Đức
Thánh Cha có thể gợi ý cho chúng con những đường hướng mục vụ nào phải theo?”
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã trả lời câu hỏi này rất thích hợp cho chúng ta về
Phép Thanh Tẩy trong ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa:
“Tôi phải nói rằng, tôi đã đi cùng đường với quí cha. Khi tôi còn trẻ, tôi đã khá nghiêm ngặt. Tôi nói: Các bí tích là bí tích của Niềm Tin, và ở đâu không có Niềm Tin, ở đâu Niềm Tin không được thực hành, thì ở đó Bí Tích cũng không thể ban cho được. Và tôi đã thường nói với các cha xứ của tôi khi tôi làm Tổng Giám Mục Munich là: Đây cũng là hai yếu tố, một thì nghiêm ngặt, một thì rộng rãi cởi mở. Thế rồi, với thời gian, tôi cũng đã nhận thức ra là tôi phải bước theo gương Chúa Giêsu là Thiên
Chúa, là người đã rất cởi mở, ngay cả với dân Do Thái / Israel ở bên lề thời
bấy giờ.  Ngài cũng là Chúa Từ Bi Thương xót và cởi mở -theo như chính
quyền thời đó- với những kẻ tội lỗi, vui vẻ chào đón họ và chấp nhận lời mời
của họ đến nhà họ ăn cơm tối, lôi kéo họ đi theo về với cộng đoàn của Ngài. (…)
“Do đó, tôi có thể nói là, trong cách dạy giáo lý cho con trẻ, làm việc với cha mẹ là điều tối quan trọng.  Đây chính là một trong những cơ hội để tiếp cận với cha mẹ, nó cũng làm cho đời sống đức tin hiện diện nơi người lớn, vì lẽ, đối với tôi, chính họ
có thể học hỏi lại niềm tin nơi con trẻ và hiểu rằng nghi thức trọng thể này
chỉ có ý nghĩa thực và chính danh nếu nó được cử hành trong một khung cảnh /
tình huống của cuộc hành trình cùng với chúa Giêsu, trong tình trạng của đời
sống đức tin. Vậy thì, chúng ta phải cố gắng thuyết phục cha mẹ, qua con trẻ,
về những nhu cầu cần thiết để chuẩn bị cho cuộc hành trình đó, được biểu hiện
bằng cách cộng tác với những mầu nhiệm bí tích và làm cho chúng trở thành đáng
mến đáng yêu. (…)
“Tôi có thể nói rằng chắc chắn đây là một giải đáp chưa đầy đủ, nhưng hiểu theo khoa sư phạm thì đức tin luôn luôn là một cuộc hành trình và chúng ta phải chấp nhận mọi hoàn cảnh của xã hội ngày nay. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải mở rộng chúng cho nhiều người hơn để kết quả không phải chỉ là một ký ức hời hợt bề ngoài mà họ đã trải qua mà còn phải làm cho con tim họ rung động thực sự. Trong khoảnh khắc mà chúng ta bị thu hút để tim ta bị xúc động, như cảm thấy một chút xíu về tình
yêu chúa Giêsu, một chút ít ước muốn chuyển động theo cùng đường cùng hướng,
thì đó là lúc, đối với tôi, có thể nói rằng chúng ta đã thực hiện được một bài
dạy giáo lý thực sự. Ý nghĩa chính của việc dạy giáo lý phải là: mang lại ngọn
lửa tình yêu của Chúa Giêsu -cho dù nó nhỏ bé- xâm nhập trái tim con trẻ, và
qua con trẻ đến với cha mẹ chúng. Vậy là chúng ta đã tái mở cánh cửa niềm tin
của thời đại chúng ta rồi đấy.
“Chớ gì lễ Chúa chịu phép Thanh Tẩy hôm nay là lời mời gọi mỗi người trong  các bạn nhớ tới những lời hứa của mình khi chịu phép rửa và tái xác nhận niềm tin đó với lòng tri ân. Hãy làm sống lại giây phút nước đổ trên đầu các bạn. Hãy cầu nguyện để ân sủng của phép thanh tẩy của bạn giúp bạn trở thành ánh sáng cho tha nhân và thế giới, cho bạn sức mạnh và lòng quả cảm để làm một cái gì khác thường trên thế giới và trong Giáo Hội.”
Fleming Island, Florida
Jan. 10, 2013
NTC

LUẬT CỦA ĐẠO CHÚNG TA LÀ LUẬT “YÊU THƯƠNG”

LUẬT CỦA ĐẠO CHÚNG TA LÀ LUẬT “YÊU THƯƠNG”

Tác giả: Jos.Vinc. Ngọc Biển
nguồn: conggiaovietnam.net

“Yêu mến anh em, là sống chu toàn giới
luật. Yêu mến người lành và yêu thương kẻ gian ác, chính do tình yêu mà chúng
ta được cứu độ, thành con Chúa Trời và thành bạn hữu Chúa Kitô”. Đây là lời bài
hát mà có lẽ ai cũng thuộc vì nó được lặp lại nhiều lần trong Mùa Chay.
Đây cũng chính là lệnh truyền của Đức Giêsu cho các môn đệ, đồng thời cũng là
lời mời gọi cho những ai đang bước theo Đức Giêsu trên lộ trình cứu độ.

Qua bài viết này, người viết sẽ trình bày cách
tiệm tiến để làm sáng tỏ đâu là luật yêu thương thời Cựu ước. Đồng thời, cũng
đi xa hơn để làm nổi bật lên tinh thần yêu thương của Tân ước qua khuôn mặt một
vị Thiên Chúa giàu tình thương tới hết mọi người, Ngài cho mưa trên người lành
cũng như kẻ dữ. Thiên Chúa ấy được hiện tại hóa nơi Đức Giêsu và giáo huấn của
Ngài khi nói về luật yêu thương, đồng thời cũng cho thấy tinh thần đó được Giáo
hội sống và rao giảng như thế nào? Tất cả nhằm làm toát lên tính đặc thù, cốt
thiết của Kitô Giáo.

I. Một Số Quan Điểm Trong Cựu Ước Nói về Yêu
Thương

Cựu ước đã nhiều lần nói về luật yêu thương:“Ngươi
không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi
phải yêu đồng loại như chính mình.”
(Lv 19,18). Trong sách Huấn Ca, tác giả
cũng dạy không được oán hờn, giận giữ anh em mình, vì nếu thù ghét đồng loại
mình và không tha thứ cho nhau thì không xứng đáng được Chúa tha thứ cho mình.
Như thế, tác giả lại còn đi xa hơn để nhắc về ngày tận số của mỗi người, nếu
muốn được Thiên Chúa tha thứ cho mình, thì cũng phải sẵn sàng tha thứ cho nhau
(x. Hc 28,1-9). Những tấm gương nổi bật của lòng bao dung vị tha, phải kể đến
tình yêu của Giuse đối anh em của ông, mặc dù đã bị anh em mình bán sang Ai
cập, nhưng khi có nạn đói hoành hành, ông đã sẵn sàng ra tay nâng đỡ cha già và
anh em. Một khuôn mặt khác cũng không thể không nhắc đến, đó là Vua Đavít đối
với những ác ý của Saun.[1]

Tuy nhiên, theo quan niệm của người Do thái,
yêu tha nhân là những người đồng chủng, đồng bào, nghĩa là chỉ người Do thái.
Còn tất cả mọi người khác là ngoại bang, là kẻ thù, không được thương mà cũng
không được giúp. Ngược lại, còn khuyên tránh xa, và nếu cần có thể giết nữa (x.
Đnl 20,13-17; 23,4-5; 25,17-19). Người Do thái từ chối mọi liên đới với người
không cắt bì, vì cho rằng họ không có bổn phận gì về đức công bằng với người
ngoại. Có thể đánh lừa, ăn trộm, mà không phải áy náy gì hết.

Ngày xưa dân Do thái cũng như dân ngoại đối xử
với nhau quá mức trong việc trả thù. Ví dụ: Cain báo thù 7 lần, Lamek báo thù
70 lần 7 (x. St 4,17-24): vì bị thương, ta giết một người; ta trầy da, một nam
nhi toi mạng (Kn 4,23-24). Nhưng khi luật báo thù ra đời, luật này qui
định một hình phạt tương đối với thiệt hại đã gây ra. Mắt đền mắt, răng đền
răng, luật ấy đã trở thành một phần nhỏ của đạo đức Cựu ước. Trong Cựu ước luật
ấy được đề cập không dưới ba lần:“Còn nếu có sự thiệt hại chi, thì ngươi sẽ
lấy mạng đền mạng, lấy mắt đền mắt, lấy răng đền răng, lấy tai đền tai, lấy
chân đền chân, lấy phỏng đền phỏng, lấy bầm đền bầm, lấy thương đền thương”
(Xh
21,23-25). “Khi người nào làm thương tích cho kẻ lân cận mình, thì người ta
phải làm thương tích cho người đó lại như chính người đó đã làm…Người ta sẽ làm
cho người ấy đồng một thương tích như người ấy đã làm cho người khác”
(Lv
24,19-20). “Mắt ngươi chớ có thương xót, mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng
đền răng, tay đền tay, chân đền chân”
(Tl 19,21).

Như thế, ta thấy luật Cựu ước là một luật đem
lại công bằng cho người đồng loại, nhưng được phép báo oán kẻ thù của mình. Còn
đến thời Tân ước thì sao? Chúng ta xem Đức Giêsu đến, Ngài dạy
gì?

II. Đức Giêsu Dạy và Sống Luật Yêu Thương

Trong Tân ước: Đức Giêsu đã tuyên bố Ngài đến
không phải để phá bỏ luật cũ nhưng đến để kiện toàn nó, làm cho nó nên hoàn hảo
hơn. Vì thế, theo giáo huấn của Đức Giêsu về luật yêu thương tha nhân, thì sự
bao dung đại lượng còn phải đi tới chỗ yêu thương cả thù địch nữa.

Luân lý của người Do thái xưa chỉ buộc yêu
thương những người gần gũi, nghĩa là những người đồng chủng, đồng bào, đồng tín
ngưỡng với mình. Nhưng nay Đức Giêsu dạy phải yêu thương hết mọi người, vì mọi
người là anh em với nhau. Đức Giêsu đã phán: Các con cũng đã nghe dạy rằng: “Hãy
yêu thương tha nhân, và ghét thù địch”
. Còn Thầy, Thầy bảo các con: “Các
con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”
(Mt
5,43-44). Rõ ràng, Đức Giêsu đã xóa bỏ nguyên tắc “ăn miếng trả miếng”.
Ngài đòi hỏi các môn đệ phải khước từ báo oán, phải tha thứ, yêu thương và cầu
nguyện cho kẻ thù nữa[2].
Trong Tin Mừng, chúng ta cũng thấy Đức Giêsu đã mở lối thoát cho nhưng ai bị
người đời giam hãm cách tuyệt vọng trong tội hay trong những khuyết điểm của
họ. Như với cây vả không có trái mà người ta muốn đốn nó đi, Đức Giêsu yêu cầu
hoãn lại một thời gian nữa và tận tâm chăm sóc nó nhiều hơn. “có lẽ nó sẽ có
trái…”
(x. Lc 13, 6-9). Đối với người phụ nữ bị các Luật sĩ và Biệt
phái giam hãm trong tội ngoại tình của bà và kết án tử hình, Đức Giêsu vạch ra
một con đường hy vọng, con đường sống: “Chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội
nữa”
(x. Ga 8,11)[3].
Khi Đức Giêsu nói như thế, Ngài dạy cho các môn đệ và những người nghe Ngài một
bài học về một tình yêu không biên giới, một tình yêu kiên nhẫn, khi nói “Các
con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”
(Mt
5,43-44). Khi Phêrô hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, khi anh em lỗi phạm đến
con, thì con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có tới bảy lần chăng”:
Đức Giêsu
đáp: “Thầy không nói là bảy lần, nhưng là tới bảy mươi lần bảy”
(Mt 18, 21-22). Ngài nói tiếp: “Nếu mỗi ngày, anh em con xúc phạm đến
con tới bảy lần, và bảy lần nó trở lại với con mà nói: Tôi hối hận thì hãy tha
cho nó”
(Lc 17, 4). Xa hơn nữa: “Khi con đang dâng của lễ nơi
bàn thờ mà sực nhớ người anh em lỗi phạm đến con, thì hãy để của lễ lại đó, đi
làm hòa với người anh em trước đã rồi bấy giờ trở lại dâng của lễ của con”
(Mt 5, 23-24).

Điều đó quả thật không dễ! Khó, nhưng cần
thiết biết bao, vì “tha thứ và xin thứ tha tạo ra một phẩm chất mới
trong quan hệ giữa người với người, bẻ gãy xiềng xích tội lỗi trói buộc trong
tâm tư những người thù hận nhau… không có con đường nào khác hơn là tha thứ
và xin thứ tha”
[4].
Thánh Công đồng Vat. II cũng nhấn mạnh luật yêu thương khi nói: “Giáo Huấn
của Đức Kitô còn đòi ta phải tha thứ những xúc phạm và mở rộng luật yêu thương
tới mức kể luôn cả những kẻ thù của mình nữa”
(Mv 28). Tuy nhiên, cũng
trong đoạn văn ấy, Công đồng lưu ý ta phải phân biệt giữa tội và người có tội.
Ghét tội, nhưng không được ghét kẻ có tội,  phải tìm cách giúp đỡ họ vượt
ra khỏi tình trạng tội lỗi. Như vậy, Công đồng cũng lấy lại tinh thần của Đức
Giêsu để hướng dẫn hành động cụ thể về việc yêu thương qua những cử chỉ rõ ràng
như: giao tiếp, giúp đỡ, bác ái, cầu nguyện…nếu người môn đệ Đức Giêsu chỉ yêu
thương những người đồng đạo thì chưa phải là một môn đệ đích thực. Người đời họ
cũng làm như thế: “Ta bảo các người: nếu đức công chính của các ngươi không
vượt hẳn các Ký Lục và Biệt Phái, các người sẽ không được vào Nước Trời

(Mt 5,20). Ngài đã đi một bước xa hơn để diễn tả một tình yêu không phân biệt
bạn và thù, để hướng tới mọi người ở mức độ tuyệt đối. Bởi vì mức độ của tình
yêu là yêu không mức độ.[5]

III. Yêu Thương Kẻ Thù là Đi Vào Trong Tình Yêu
Thiên Chúa và là Điểm Sáng Của Người Kitô

“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo
nhất của Đức Giêsu. Người đã cắt nghĩa rất cụ thể. Yêu thương kẻ
thù là :- Làm ơn cho kẻ ghét mình.

– Chúc phúc cho người nguyền rủa mình.

– Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.

– Ai vả má nầy thì đưa cả má kia.

– Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong.

– Ai lấy gì thì đừng đòi lại…

Lý do của thái độ nhân ái, lòng yêu thương bao
la ấy, là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời “Người
làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên
kẻ lành cũng như người bất lương…”

“Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt
thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người.
“Yêu thương kẻ thù”
là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái
Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.

Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Đức
Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là đề nêu cao tinh thần
khoan dung hiền từ quảng đại tha thứ.

“Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các
lệnh truyền của Đức Giêsu. Chính Ngài đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho
những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá “lậy Cha, xin tha cho họ vì
nó lầm chẳng biết
”. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu
của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người
đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho
con người cơ may hầu sám hối và canh tân.

Như vậy Đức Giêsu mở ra con đường mới cho nhân
loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu
thương mới làm cho thù hận tiêu tan.

Giới răn của Đức Giêsu “Hãy yêu thương kẻ
thù”
là một sự từ bỏ triệt để bạo lực. Thay thế tình yêu cho thù hận là một
việc khó khăn nhất trên đời. Ý tưởng ấy rất cao và rất khó nhưng nó tạo nên ý
nghĩa.

Là những Kitô hữu, chúng ta đứng về phía bất
bạo động. Tuy nhiên đó không phải là một chọn lựa cho sự nhu nhược hay thụ động
leo thang, nhưng chọn lựa bất bạo động có nghĩa là tin tưởng mạnh mẽ vào sức
mạnh của chân lý, của công bằng và tình yêu hơn là sức mạnh của chiến tranh, vũ
khí và hận thù… Chúng ta phải cố gắng dùng điều tốt nhất để đáp lại điều xấu
nhất.

Là những Kitô hữu, chúng ta phải cố gắng học
theo lòng quảng đại của Thiên Chúa, sẵn sàng tha thứ, không đòi trả thù và oán
hận chống lại người khác.

Khi đến trần gian, Đức Giêsu đã mang ơn cứu độ
từ trời xuống cho nhân loại, nhưng ơn cứu độ này lại được ban cách ưu tiên cho
kẻ tội lỗi như Ngài đã nói: Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, mà
là kêu gọi người tội lỗi [6].
Dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu đã làm nên sự nổi bật của Kitô giáo. Như vậy, nếu
các Kitô hữu không cố gắng bắt chước tình yêu không phân biệt của Thiên Chúa,
họ sẽ không tốt hơn những người khác.

Chính sự tha thứ sẽ giải phóng con người, còn
nếu nuôi lòng hận thù báo oán thì con người sẽ chuốc lấy sự đau khổ. Khi chúng
ta ghét kẻ thù là chúng ta cho họ quyền áp đảo chúng ta.

Nói cách khác, viên đạn căm thù chỉ có thể làm
thương tổn kẻ thù chúng ta sau khi đã xuyên qua thân xác chúng ta trước. Khi
nuôi trong mình sự trả thù thì đồng nghĩa với việc ta đào thêm một cái hố nữa
để chôn chính ta. Người Hy Lạp cổ thường ví von như sau: “Người khôn ngoan
thà chịu đựng sự ác hơn là làm điều ác”.
Chúng ta biết chỉ một mình Thiên
Chúa là Đấng hoàn thiện, tốt lành vô cùng, chúng ta không thể trọn hảo như Ngài
được. Nhưng chúng ta phải nên trọn lành như ý Ngài muốn, theo mẫu gương thánh
thiện của Ngài, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ
dữ.

Đỉnh cao của lời mời gọi yêu thương đó là lời
nguyện tha thứ của Đức Giê su trên Thập Giá: “lậy Cha, xin tha cho chúng, vì
chúng không biết việc chúng làm
” tinh thần ấy đã thúc đẩy tình yêu
đến mức độ anh hùng: đặc biệt là tha thứ cho kẻ thù và lấy ân báo oán. Như vậy “Các
con sẽ là con Cha trên trời, Đấng cho mặt trời chiếu soi kẻ dữ cũng như người
lành, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”
.

Cuối cùng, yêu thương tha thứ phải được định
hướng bởi sự thật. Không có sự thật thì tình thương trở thành mù quáng. Yêu
hoa, không có nghĩa là yêu luôn cả những con sâu ẩn núp trong những cánh hoa.
Đức ái Kitô Giáo đòi hỏi phải đấu tranh tích cực để khử trừ tội ác và cứu vớt
con người , biến kẻ thù thành anh em, biến con người thành con Chúa. Đây là một
lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng phải phấn đấu hằng ngày.

Tóm lại, qua bài viết trên, người viết muốn
trình bầy tổng quát về luật yêu thương của thời Cựu Ước. Dần dần, luật đó được
đề cao và tiến xa hơn trong thời Tân Ước, khi nói phải yêu thương cả kẻ thù,
làm ơn và cầu nguyện cho những người ngược đãi   mình nữa. Luật đó đã
chi phối toàn bộ con người và sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu. Đồng thời cũng là
điều kiện cần phải có của những người môn đệ Đức Giêsu trên lộ trình đón nhận
và loan truyền ơn cứu độ. Chính vì thế, “yêu mến kẻ thù là luật căn bản của
Đạo chúng ta”


Jos.Vinc. Ngọc Biển


[1] Tủ Sách Chuyên Đề, Thần Học Luân Lý Chuyên Biệt, tập
2, tr.40.

[2] Sđd. tr. 40-41.

[3] Th. REY-MERMET, C.SS.R. Tin, Nhãn quan mới về luân
lý, quyển 1, tập 1, tr.227.

[4] Lời khai mạc ngày tha thứ tại Quảng Trường Thánh Phê rô,
nhân dịp năm thánh 2000 của Đức Gioan Phao lô II.

[5] Th. REY-MERMET, C.SS.R. Tin, Nhãn quan mới về luân
lý, quyển 1, tập 1, tr. 102.

[6] Th. REY-MERMET, C.SS.R. Tin, Nhãn quan mới về luân
lý, quyển 1, tập 1, tr. 114.

Tác giả: Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Tình yêu cứu thế

Tình yêu cứu thế

(Lc 3,15-16, 21-22)

Thiên Phúc

Một vị quan lớn mở tiệc mời nhiều người đến dự. Tất cả các người được mời đều ăn mặc sang trọng và dùng xe đi đến. Trong số ấy có một người khách già. Rủi thay, vì già yếu nên ông cụ này khi xuống xe đã trượt chân té vào vũng bùn. Khách đến dự tiệc thấy vậy phá lên cười.

Xấu hổ và cảm thấy mình không xứng đáng, ông quyết định quay về. Gia nhân nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc. Khi đó vị quan chủ tiệc bước ra sân, đi tới chỗ vũng nước đó, rồi cũng cố tình té ngã vào vũng nước. Thế là áo quần của ông quan cũng dơ dáy y như cụ già kia. Mọi người chung quanh chẳng ai dám cười
nhạo nữa. Sau đó, vị quan lớn cầm tay ông cụ đưa vào phòng tiệc. Ông cụ chẳng
còn lý do nào để chối từ.

***

Chỉ có hành động cố tình té ngã của vị quan lớn kia, mới có thể đưa ông cụ vào bàn tiệc.

Con Thiên Chúa trên tầng trời cao thẳm, lại hạ mình xuống làm kiếp phàm nhân.

Đấng thánh thiện vô cùng, lại khiêm nhu đứng xếp hàng bên những tội nhân.

Đấng xoá tội trần gian, lại hoà mình trong đoàn người tội lỗi.

Đấng thanh sạch vô biên, lại chịu dìm mình trong dòng sông “sám hối”.

Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần, lại xin chịu phép rửa của Gioan.

Chính hành vi rất mực khiêm hạ của Đấng Cứu Thế đã cho thấy tình yêu sâu nặng của Thiên Chúa dành cho con người.

Chính thái độ tự huỷ tột cùng của Đấng Cứu Thế đã cho thấy tình yêu dấn thân của Thiên Chúa đối với con người cát bụi chúng ta.

Vâng, chính Thiên Chúa đã có sáng kiến tuyệt vời là tình nguyện hoá thân làm kiếp phàm nhân:

Để chia sẻ thân phận đói nghèo, khổ đau, bệnh hoạn của con người.

Để nếm cảm nỗi ray rứt khắc khoải của tội nhân.

Để thấu hiểu niềm khao khát đổi mới trong lòng người tội lỗi.

Vâng, chính Con Thiên Chúa đã thực hiện những phép lạ thật ngoạn
mục ngay trước mắt con người,

Người đã muốn nên anh em với chúng ta để chia sẻ những gì Người đã nhận
từ Cha: “Mọi sự của Cha là của Con”.

Người đã muốn chung phận con người để chia sẻ phận Con Thiên Chúa:
“Phàm là con cái thì chung huyết nhục, nên Người cũng chung phần huyết
nhục với chúng ta” (Dt 2,14).

Người đã muốn chung phần khổ đau, để có thể cứu giúp những ai đau khổ: “Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách”(Dt 2,18).

Chiêm ngắm Đấng Cứu Thế cúi mình chịu phép rửa, chúng ta hiểu được thế nào là Tình Yêu: Một Tình Yêu vui lòng tự huỷ để cùng đồng hành với anh em cho đến cùng, một Tình Yêu sẵn sàng chia sẻ trọn vẹn cho anh em, một Tình Yêu chấp nhận cúi xuống để nâng anh em chỗi dậy cùng bước về nhà Cha.

Chiêm ngắm Đấng Cứu Thế cầu nguyện với Cha nơi dòng sông Giođan, chúng ta hiểu được thế nào là Hiệp Thông: Chính trong giây phút Hiệp Thông sâu đậm này mà Người cảm nhận được đầy tràn Thánh Thần và nghe được tiếng Cha âu yếm: “Con là Con của Cha. Hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (Lc 3,22).

Ngày nay, chúng ta đã chịu phép Rửa của Đức Kitô trong Thánh Thần, chúng ta được mời gọi Hiệp Thông thân mật với Ba Ngôi Chí Thánh, chúng ta cũng được mời gọi lên đường phục vụ anh em, nhất là những anh em đang cần một Tình Yêu chia sẻ, đỡ nâng và trao ban trọn vẹn: Tình Yêu Cứu Thế!

***

Lạy Chúa, trong con mắt Chúa chúng con là tất cả. Xin cho chúng con luôn nhìn anh em bằng cái nhìn của Chúa, và yêu thương anh em chúng con bằng tình yêu trọn vẹn của Người. Amen.