Dân chủ, hòa giải và tương lai

Trong bài trước, tôi đề cập đến vấn đề hòa giải. Tôi biện luận rằng chỉ khi nào Việt Nam có được một nhà nước dân chủ thật sự và có một chính sách hòa giải toàn diện thì hy vọng mới có thể tiến hành hòa giải từng bước. Hy vọng, bởi vì để hòa giải thật sự, nó đòi hỏi nhiều yếu tố về con người, về nỗ lực tự vượt qua chính mình và tự thay đổi. Các chính sách đề ra phải hỗ trợ các nỗ lực cá nhân này, điển hình là truyền thông, giáo dục cũng như các bài học về hòa giải của các dân tộc khác, chẳng hạn.

Tóm lại, để có thể thật sự hòa giải đối với toàn dân tộc thì trước hết phải có một nhà nước dân chủ đích thực làm nền tảng của công lý và chính nghĩa. Tức dân chủ, theo tôi, phải là tiến trình đi trước sau đó mới đến hòa giải.

Nhưng làm thế nào để có được dân chủ khi cuộc vận động và đấu tranh cho dân chủ đòi hỏi sự đoàn kết và dấn thân cho mục tiêu chung giữa người Việt với nhau, trong và ngoài nước, khi mà sự rạn nứt, chia rẽ và đố kỵ còn quá trầm trọng ngay cả giữa những người cùng mục đích và chủ trương trong tình hình hiện nay?

…….

 

VOATIENGVIET.COM
Những người như Nguyễn Xuân Phúc thì không thể nói đến hòa giải gì cả. Nó không ở trong não trạng của ông. Ông cũng không đủ tư cách, tầm nhìn và khả năng để phê bình hay ý kiến về vấn đề lớn lao này, dù có muốn.

Một đất nước trưởng thành là một đất nước không có Bác, và không cần Bác!

Hoa Kim Ngo and Hieu Vo shared a post.
Image may contain: 1 person
Image may contain: 2 people, indoor

Chu Vĩnh HảiFollow

Cộng đồng mạng vừa phát hiện ra một điều tồi tệ: tại khu du lịch Bà Nà Hill ở Đà Nẵng có một điện thờ “đức thánh trần”.

“Đức thánh trần” này mặc sắc phục công an, có đeo quân hàm, và có khuôn mặt giống cựu đại tướng bộ trưởng Bộ Công an, cựu chủ tích nước Trần Đại Quang. Đây là một sự lập lờ, đánh lận con đen, đánh bùn sang ao giữa Đức thánh Trần Hưng Đạo đã có chỗ đứng hàng trăm năm nay trong tâm thức con dân Việt với một chính trị gia tầm thường mới có vài năm chấp chính nhưng có nửa thời gian chữa bệnh, chưa có bất kỳ sự đóng góp nào với đất nước, với nhân dân.

Tổ chức nào phong “thánh” cho ông Trần Đại Quang? Và việc phong “thánh” này có mục đích gì? Có phải với mục đích tuyên truyền rằng, tất cả các nhà lãnh đạo Việt Nam đều là những người tài cao đức rộng, và có cống hiến to lớn với nhân dân, với đất nước?

Hãy đọc lại một bài viết mà tôi đã viết cách đây sáu ngày.

Đất nước Việt Nam này có quá nhiều điều kỳ dị mà không có đất nước nào trên thế giới có cả. Trong hàng ngàn điều kỳ dị đó, có điều kỳ dị vô cùng kỳ khôi: Việt Nam có rất nhiều BÁC. Khoảng sau năm 1947, ở Việt Bắc lồng lộng thủ đô gió ngàn lần đầu tiên xuất hiện bác đầu tiên: Bác Hồ.

Sau đó mười mấy năm, miền Bắc lại xuất hiện bác thứ hai: Bác Tôn. Kể từ đó, miền Bắc và sau đó là Việt Nam, đại từ bác xuất hiện liên tục, dồn dập khiến nhiều người muốn choáng: bác Duẩn, bác Trường Chinh, bác Đồng, bac Bằng, bác Mai Chí Công, bác Đỗ Mười, bác Khải, bác Kiệt, bác Giáp….Ông Trần Đại Quang vừa mới qua đời vào năm 2018, chỉ mới loi nhoi ở chính trường mấy năm, sau khi qua đời cũng được mấy người dân tôn sùng lãnh đạo và báo chí nhà nước gọi là BÁC.

Trong mấy ngày diễn ra quốc tang ông Anh, chắc chắn sẽ có nhiều người dân quân xanh, nhiều tờ báo quốc doanh sẽ gọi ông Anh là Bác. Chắc chắn, như thông lệ trước đây.

Trong tất cả các diễn từ vĩnh biệt các ông bác, trong tất cả đánh giá về các ông bác do các nhà nghiên cứu lịch sử và chính trị quốc doanh đưa ra, tất cả các ông bác đều anh minh, sáng suốt, trí tuệ, thương nước yêu dân, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, có tầm nhìn sáng suốt, tài lãnh đạo, có tâm có tầm, nhãn quan chính trị sắc bén, trung thành với lý tưởng cộng sản, có đạo đức trong sáng…..Nói chung là, các ông Bác sau khi đã chết đều nhận được những mỹ từ khủng khiếp nhất, khủng khiếp đến độ những nhà ngôn ngữ học cũng phải kêu trời. Và có thể, những mỹ từ đó có thể biến các ông bác thành những ông thánh, ông tiên, ông bụt dù các ông bác suốt đời trung thành với công phu giáo mác(Marx) lưỡi lê(Lenin).

Tất cả các ông Bác đều anh minh và vĩ đại. Thì đã sao!

Khi mà các ông Bác đều anh minh, vĩ đại, thì nhân dân phải lầm than và bất hạnh chứ sao!

Di sản mà tất cả các ông Bác để lại thật đáng để tự hào: GDP trên đầu người lọt vào nhóm 40 nước thấp nhất thế giới, môi trường bị bức tử, và cả xã hội đang lên cơn sốt vì những náo loạn.

Một đất nước trưởng thành là một đất nước không có Bác, và không cần Bác!

Di sản VNCH: Khi nền văn minh đã thắng ‘chế độ man rợ’

Di sản VNCH: Khi nền văn minh đã thắng ‘chế độ man rợ’

VOA


Chiếc máy bay chở thường dân từ Huế di tản vào Nha Trang, 27 tháng Ba, 1975.
Chiếc máy bay chở thường dân từ Huế di tản vào Nha Trang, 27 tháng Ba, 1975.

Trong Hồi ký dang dở, cựu đại tá VNCH Dương Hiếu Nghĩa (từ trần ngày 14-4-2019) kể:

“Ngày mồng 3 tháng 5/1975. Không có chuyện gì làm, tôi lang thang tản bộ quanh khu chợ Sài Gòn, và đi lần về Thư Viện Quốc Gia, trong thâm tâm chỉ muốn gặp lại một người bạn của tôi là anh Hữu, quản thủ Thư viện Quốc Gia (ông Phan Văn Hữu – chú thích của MK). Có đến nơi mới thấy được cảnh mà cộng sản Bắc Việt gọi là bài trừ “văn hóa đồi trụy”: Sau ngày 30/4/75, một ủy ban gọi là “Ủy ban bài trừ văn hóa đồi trụy” ra đời. Thành phần gồm một cán bộ Đảng CSVN và sinh viên học sinh chít khăn đỏ trên tay (mà người dân Sài Gòn gọi là mấy con “cọp 30”)…

“Văn hóa đồi trụy” được định nghĩa là tất cả những ấn phẩm thuộc mọi lãnh vực chánh trị, kinh tế, lịch sử (nhất là lịch sử), giáo dục, khoa học kỹ thuật, văn hóa, văn nghệ, phim, ảnh. v.v… đang được lưu hành và sử dụng tại Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 30/4/1975 trở về trước, được in, chép hay thu vào băng nhựa, bằng tiếng Việt Nam hay bất cứ loại sinh ngữ ngoại quốc nào (trừ chữ Tàu và chữ Nga). Mục tiêu mà các “ông cọp 30” nhắm vào trước tiên là Thư viện Quốc gia (National Library) ở đường Gia Long. Tất cả sách bìa cứng bìa mềm, gáy tím gáy vàng, dày mỏng gì cũng đều được mang ra đường xé nát và đốt hết. Tội nghiệp cho mấy bộ tự điển và encyclopédia chữ Anh chữ Pháp (trên 100 cuốn), và rất nhiều bộ sách quý thuộc các ngành công pháp quốc tế, khoa học kỹ thuật, hàng không và cả khoa học không gian v.v… mà anh Hữu đã tốn công sưu tầm trên 10 năm dài để làm giàu cho thư viện của đất nước, trong phút chốc bị “cọp 30” xơi tái hết! Chúng tôi đến gần lượm từng tờ của bộ encyclopédia lên xem mà ứa nước mắt nhưng không dám hỏi thêm vì bị ngay một “cọp 30” khoảng 16 tuổi tới đuổi: “Đi đi, tiếc gì mà coi, xé bỏ hết, đốt bỏ hết, nó là tiếng nước ngoài, của thực dân, của đế quốc đồi trụy, ru ngủ đầu độc dân tộc. Ta độc lập rồi thì ta cần gì ba cái thứ nầy nữa!”…

“Về văn nghệ thì tất cả các bản nhạc in hoặc thu vào băng nhựa, nếu không phải loại nhạc lai căn (lai nhạc Tàu) từ nhóm văn công miền Bắc mang vào, đều được liệt vào loại “nhạc vàng của đế quốc Mỹ và tay sai”, cấm lưu hành, xé đốt, hủy bỏ, ai lưu giữ sẽ có tội. Các kịch bản hay các vở tuồng cải lương, hát bộ v.v… cũng phải được duyệt xếp loại lại. Nói tóm lại Bắc Việt chủ trương hủy bỏ tất cả những gì mà họ cho là tàng tích của “Mỹ Ngụy” từ 75 trở về trước, để đem thay thế vào đó những gì mà miền Bắc đang có và đang áp dụng… Có nghĩa là thay vì đẩy miền Bắc tiến lên để theo kịp đà phát triển của miền Nam, họ làm mọi cách nhằm kéo lùi miền Nam thụt lùi lại vài chục năm, sao cho trình độ văn minh tiến bộ của hai miền Nam Bắc phải ở cùng nằm ở một trình độ kém phát triển như nhau”…

Câu chuyện của ông Dương Hiếu Nghĩa là một chi tiết rất nhỏ trên bức tranh kinh khủng mà miền Nam chứng kiến giai đoạn sau 30-4-1975. Hàng ngàn câu chuyện khác đã dệt nên tấm thảm kịch mà ngày nay vẫn gây nhức nhối mỗi khi được nhắc lại. Nhà văn Dương Thu Hương từng thốt lên trong uất nghẹn: “Vào Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất cứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ… nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm phải” (trích từ Ký 2, Đinh Quang Anh Thái, trang 178).

Tuy nhiên, văn hóa VNCH đã không chết. Di sản văn hóa của một nền văn minh đã không hoàn toàn thua “chế độ man rợ”. Sự kéo lùi lại “sao cho trình độ văn minh tiến bộ của hai miền Nam Bắc phải ở cùng nằm ở một trình độ kém phát triển như nhau” đã không thành công! Sau 44 năm, người ta có thể thấy rõ điều này hơn bao giờ hết. Chưa bao giờ mà văn hóa VNCH – sản phẩm của nền giáo dục khai phóng, của tinh thần sáng tạo tự do, của những tinh hoa kết tụ từ ba miền Bắc-Trung-Nam – lại trỗi dậy mạnh mẽ đến như vậy. Những nhà sách lớn giờ đây đầy tác phẩm trước 1975 được in lại (dù không ít quyển bị cắt xén kiểm duyệt). Những quyển sách về miền Nam được ghi chép lại một cách tỉ mỉ và công phu cũng xuất hiện liên tục. Nhạc “ngụy” đã chẳng còn được hát và nghe lén lút. Nó được hát trên truyền hình và phát thanh, trong các cuộc thi “bolero đi cùng năm tháng”. Phải! Văn hóa VNCH chưa bao giờ ngưng “đi cùng năm tháng” với dân tộc. Nó cho thấy dân tộc luôn lớn hơn cái gọi là “Đảng”. Nó cho thấy kiểm duyệt chẳng có chút giá trị nào đối với tâm hồn và cảm thụ của người dân. Nó, cuối cùng, cho thấy một điều lớn nhất mà muốn hay không cũng phải thừa nhận: nền văn hóa nào có tính vượt trội hơn thì nó thắng!

Internet và mạng xã hội đã hỗ trợ rất nhiều trong làn sóng hồi sinh văn hóa VNCH. Nhiều trang web sách cũ đã mọc ra. Các “fan page” sách VNCH, nhạc vàng, Sài Gòn xưa… cũng xuất hiện nhan nhản. Một khảo sát nhỏ cho thấy cụ thể hơn. Trong khi trang “Nhạc Đỏ chọn lọc” (facebook.com/nhacdochonloc/) có 72 người like và 81 follow thì trang “Nhạc Vàng” (facebook.com/nhacvang/) có 188.737 like và 209.515 follow (khảo sát được truy cập lúc 8 am giờ VN, ngày 26-4-2019). Việt Nam sau “ngày thống nhất 1975” đã không thể giống miền Bắc sau 1945. Người ta đã hoàn toàn thất bại trong việc “chọc mù mắt con người, bịt lỗ tai con người”, ít nhất về văn hóa.

Một Việt Nam cộng sản, dù rập khuôn mô hình chính trị Trung Quốc, đã không thể giống Trung Quốc. Chế độ cộng sản Việt Nam không thể biến người dân Việt Nam thành một “đám ngu dân” như cách cộng sản Trung Quốc muốn. Khi thống nhất đất nước, Trung Quốc chẳng có một “miền Nam dân chủ” nào cả. Nỗ lực bắt chước Trung Quốc, đối với cộng sản Việt Nam, là bất khả thi. Nền dân chủ non trẻ mà miền Nam thụ hưởng, sau “ngày thống nhất”, đã trở thành một thứ “kháng thể” giúp chống lại, bằng cách này cách kia, những áp đặt phi dân chủ và phi tự do, đặc biệt trong văn hóa. Yếu tố kháng thể này đã âm thầm lan rộng. Nó tạo ra những ảnh hưởng nhất định. Nó ngấm ngầm nhưng nó mạnh mẽ. Nó hồi sinh và nó phát triển tự nhiên. Không ai có thể chặn nổi luồng gió trong lành này. Nó tạo ảnh hưởng ngay cả trong hệ thống của chế độ toàn trị. Đã có lúc người ta “kiếm chuyện” bằng cách “đặt vấn đề” rằng “chiến trường anh bước đi là chiến trường nào” (trong ca khúc “Con đường xưa em đi” của nhạc sĩ Châu Kỳ) nhưng rồi cũng bất thành. Khi tuyên bố “cấp phép” cho ca khúc “Ly rượu mừng”, người ta chắc hẳn đã uống một ly cồn đắng nghét bởi phải đầu hàng trước sự tồn tại hiển nhiên không chỉ của một ca khúc mà cả một nền văn hóa.

Ánh sáng văn minh luôn lấn át bóng tối mọi rợ. Và bản năng tự nhiên của con người là luôn tìm đến ánh sáng.

NGÀY 30/4, NÊN VUI HAY BUỒN ?

Image may contain: one or more people and text

Phan Công Hải

NGÀY 30/4, NÊN VUI HAY BUỒN ?

Việt Kiến

Tôi sinh ra sau ngày 30/4 ở một thành phố miền Bắc. Ký ức về tuổi thơ của tôi là một thành phố xám xịt, và nghèo. Cái nghèo khiến cho cuộc sống ít nhiềm vui, không bánh kẹo, không đi chơi. Lớn lên một tí thấy một vài nhà có xe Cub 81, Honda 67 hay những chiếc xe Simson của nước Đức cộng sản là cả xóm đã râm ran, nhìn đã thấy sướng mắt, thèm muốn.

Vậy mà hồi đó, sau này tôi mới biết Sài Gòn đã có một đô thị văn minh, phát triển với nền kinh tế đa dạng, sôi động, cấu trúc đô thị hiện đại. Bây giờ nhìn lại những bức ảnh tôi thấy một sự nối tiếc dâng trào. Bởi cho tới hôm nay, cái thành phố Hồ Chí Minh so Sài Gòn năm xưa chỉ là một bãi rác so với một vườn hoa. Cái gì mang tới sự khác biệt ghê gớm vậy, sau bao nhiêu năm xây dựng mà chúng ta chỉ có một thành phố ngập trong nước hỗn loạn, tắc đường và người dân rất nhếch nhác, nghèo khổ.

Với đô thị Sài Gòn và những người miền Nam ở lại, họ bị tước mất một đô thị trật tự, văn hóa, và nền kinh tế hài hòa và thay vào đó là một xã hội độc đoán, sự chiếm đoạt nhà cửa, đất đai của những người cầm quyền từ miền Bắc đi vào. Ngày 30/4 đã hủy diệt những văn hóa, nếp sống và lối sống đô thị quy củ mà người Việt được kế thừa và hội nhập với các nước phương Tây phát triển như Pháp và Mỹ để trở về với sự độc tài, tăm tối của tư duy của xã hội Nho Giáo, thứ đã kìm kẹp người dân Việt gần 2000 năm. Trong chỉ 1,2 năm sau khi chiếm đóng Sài Gòn, chế độ CS đã phá hủy hoàn toàn nền kinh tế, xã hội hài hòa, cùng với giáo dục, văn hóa, pháp luật của miền Nam. Chính ngày 30/4 đã tạo cho họ một sự tự hào , hãnh diện, ngạo mạn của kẻ chiến thắng. Và họ đâu biết khi đó họ trở thành những kẻ phá hoại kinh khủng nhất. Trong một chuyến du lịch Singapore chúng tôi nói vui, nếu cho chính quyền Việt Nam quản lý Sing thì chỉ 10 năm sau Sing sẽ trở thành Việt Nam. Bi kịch là khi đưa cho những kẻ ngu xuẩn, tăm tối sự chiến thắng và tự hào và ngày 30/4 chính là điều đó.

VĂN HÓA QUYẾT ĐỊNH HÀNH ĐỘNG.

Khi Tần Thủy Hoàng đánh thắng nước Triệu năm 228 trước CN, nhà Tần đã lừa quân dân nước Triệu là sẽ tha mạng sống song sau đó thì chôn sống 400.000 quân nước Triệu. Đây là một tội ác kinh tởm song nền văn hóa Nho Giáo chấp nhận điều đó với câu “ý vua là ý trời”. 
Đa số người miền Nam khi ủng hộ CS đánh du kích họ cũng nghĩ rằng CS sẽ phát triển đất nước sau khi chiếm được miền Nam. Và chính người CS cũng đã nghĩ đúng như lời lãnh tụ Hồ Chí Minh của họ, thống nhất đất nước xong ta sẽ xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, to đẹp hơn…Song không phải, người CS hầu hết không hề hiểu chủ nghĩa CS cũng chỉ là một dạng cải biến của chủ nghĩa Quân chủ chuyên chế cùng với văn hóa Nho giáo. Cái nó khích lệ và lợi dụng nhân dân là sự căm thù và hiếu chiến. Và sau khi bọn đầu sỏ thu được quyền lực cai trị rồi thì nhân dân lại xuống bùn đen. Đó là lý do chủ nghĩa CS chỉ được nhiệt thành đón nhận ở những nơi tăm tối và độc tài nhất trên trái đất chứ không hề được chấp nhận ở những nơi văn minh, phát triển.

CS Bắc Việt đã hành xử với người miền Nam không khác gì Tần Thủy Hoàng hơn 2200 năm trước. Tất cả quân nhân, cán bộ của MNCH đều bị tù đày gọi là trại cải tạo và cùng chịu thảm cảnh với họ là gia đình họ, như vậy có thể nói, CS Bắc Việt đã trút sự trả thù lên khoảng 6 -10 triệu người miền Nam ( một con số kinh hoàng) . Bởi vì khi Hoa Kỳ rút khỏi miền Nam để lại tới 980.000 quân nhân trong quân đội VNCH và con số người được di tản chỉ khoảng hơn 130.000 người tức có tới khoảng 850.000 quân nhân và cả 800.000 gia đình của họ bị tai họa này . Chỉ vài ngày sau khi chiếm trọn miền Nam, những người CS đã lùa quân nhân, công chức và thành viên đảng phái quốc gia vào tù bằng thủ đoạn vô cùng hèn hạ là bảo họ đi học tập cải tạo trong 10 ngày. 
Đọc thêm trong bài viết khá đầy đủ này: https://www.nguoi-viet.com/…/trai-cai-tao-cua-csvn-sau-nam…/

…“Vợ con của những người bị bắt đi “cải tạo” cũng trở thành nạn nhân của các biện pháp kỳ thị và ngược đãi. Họ bị đuổi khỏi nơi cư trú và phải đi vùng kinh tế mới giữa những rừng núi hoang vu không có một chút tiện nghi tối thiểu cần thiết cho đời sống. Con cái họ bị kỳ thị gắt gao khi thi cử và không được phép vào đại học. Nhà cửa của họ bị cán bộ Cộng Sản chia nhau chiếm đoạt, tiền bạc của họ ở ngân hàng cũng không được phép lấy ra”…
Như vậy ngày 30/4 đã cho phép sự điên rồ của chủ nghĩa CS được áp đặt trên toàn Việt Nam. Họ đã lòi cái bản mặt thật sự của họ, chỉ là một lũ cướp của giết người dựa trên lý thuyết CS, họ không có tình đồng bào, dân tộc và nó thực sự là một chủ nghĩa hủy hoại dân tộc.

Những người lính Bắc Việt, phần lớn vì hoàn cảnh ngu dốt, bị lừa gạt mà trở thành người xâm lược miền Nam. Những người đã ngã xuống quả thực đáng thương, họ chết trong khi tưởng mình hy sinh vì đất nước. Những người còn sống, thật thảm hại cho họ, bao năm qua họ vẫn hát , vẫn vui mừng cho ngày đã diệt gọn được đồng bào và xã hội miền Nam. 
Những tai họa lớn hơn của dân tộc ta đã bắt đầu từ ngày 30/4/1975. Bởi vì sau đó chính CS mới từng bước hiểu được họ là ai khi đẩy đất nước vào trong một giai đoạn tăm tối, đói khát kinh hoàng. Khiến mọi giấc mơ về thiên đường CS đều vỡ vụn. Và cuộc bỏ nước ra đi, thực ra không phải chạy khỏi đất nước mà chạy khỏi chế độ CS. Một chế độ chỉ nuôi dưỡng hận thù chiến tranh và không có khẳ năng sản xuất lương thực để tồn tại. Khoảng hơn 2 triệu người không chỉ người miền Nam mà cả người miền Bắc đã vượt biên tìm đường sống và khoảng 500.000 người đã bỏ mình trên biển cả hoặc bị hải tặc bắt giết. 
Có thể tìm hiểu bài viết ở đây: http://nguoiviethaingoai.org/ditan.html

Nếu xét về những vay nợ, nghiệp quả trong lịch sử thì điều này hoàn toàn xứng đáng với dân tộc Việt Nam. Để họ hiểu được tình cảnh của những dân tộc mất nước, và những dân tộc không có khả năng kiến tạo một đất nước hòa bình, tự do. Dưới sự xâm chiếm của người Việt đã có bao nhiêu dân tộc bị đày đọa, tiêu diệt để đất nước ta có hình hài chữ S như bây giờ ?. Tình cảnh của những dân tộc đó từ khi ghép vào bản đồ nước Việt ra sao ? Thảm cảnh của việc chặt đầu người Chăm thời Minh Mạng và những cuộc nhồi da xáo thịt của chính dân tộc mình một cách dai dẳng cũng là một hình thức Nhân và Quả.

NGÀY 30/4 KHÔNG PHẢI LÀ MỘT NGÀY CHIẾN THẮNG

– Nó là ngày đóng lại của một cuộc nội chiến kéo dài, trong đó kẻ sắt máu, hiếu chiến và tàn bạo hơn đã chiến thắng những người đồng bào miền Nam. 
– Nó là ngày giúp chủ nghĩa CS áp đặt trên toàn Việt Nam. Đây là thứ chủ nghĩa khiến mọi dân tộc bị nó cai trị đều nghèo đói, chia rẽ và toàn dân trở thành nô lệ cho một nhóm người ăn trên ngồi trốc. Đối với các nước nhỏ thì nó báo hiệu một gian đoạn mất chủ quyền, mất nước. 
– Nó là ngày toàn bộ người dân miền Nam mất quyền làm người, mất hết niềm tự hào được sống độc lập trong một đất nước tự do, phát triển và tương đối dân chủ. Để trở thành dân của một nhà nước toàn trị, đói nghèo. 
– Nó là ngày mà toàn bộ người miền Bắc tưởng rằng họ chiến thắng song kỳ thực là họ thất bại, khi kể cả những người góp công cho chiến thắng đó đều nhận ra mình trắng tay, khi người thân đã bỏ mình trong chiến tranh hay trở về không được đãi ngộ xứng đáng. Và hiện nay họ là nạn nhân của một chế độ cướp bóc và bán nước.
– Nó tiếp tục đẩy toàn bộ Việt Nam vào các cuộc chiến tranh với Khơ Me Đỏ ở Cam Phu Chia dưới sự giật giây của quan thầy Tàu và chiến tranh với giặc Tàu phía Bắc. Người Việt sau một thời gian đánh nhau với kẻ thù truyền kiếp giặc Tàu do có sự hậu thuẫn của Liên Xô thì đến nay chính quyền CS lại quay lại làm kẻ thù của nhân dân và dâng đất nước cho Tàu để duy trì sự tồn tại. Khi Tàu giúp Bắc Việt xâm lược miền Nam là để mở rộng đất nước cho nó chứ không nhằm để Việt Nam phát triển độc lập, và để chiếm đóng miền Nam, người CS đã gán giang sơn gồm biển đảo, đất liền để lấy súng đạn . Đó là một con đường đẩy dân tộc và chỗ chết mà bản thân người CS cũng không ý thức được hết. 
– Nó là ngày khiến dân tộc ta mãi chưa thấy con đường hàn gắn tình thương dân tộc, do vẫn nằm dưới sự áp đặt suy nghĩ, tư tưởng của người CS. Bởi vì người CS nuôi dưỡng hận thù để chia rẽ dân chúng chứ không bao giờ muốn người dân gắn bó với nhau. Bằng chứng là họ tiếp tục ngược đãi quân dân miền Nam và họ luôn tổ chức ăn mừng 30/4 rầm rộ.

Bi kịch này sẽ không dừng lại nếu chúng ta không hiểu bản chất của SỐ PHẬN và quán tính VĂN HÓA. Chúng ta có thể thay đổi số phận đó nếu hiểu thấu nỗi đau, ý nghĩa của ngày 30/4 này để cùng hối cải, đau đớn để tìm ra con đường hàn gắn vết thương và thay đổi văn hóa tránh xa sự độc tài, hiếu chiến của văn hóa Nho giáo và cộng sản. Với tôi 30/4 là một ngày vô cùng đen tối và đau đớn với tinh thần tự do của người Việt Nam. Viễn cảnh của ngày rơi vào nô lệ và mất nước cũng không còn xa và 30/4 là một cột mốc trên con đường tăm tối đó. 
Đây là những câu nói cực kỳ chính xác khi nhận định về ngày 30/4 của tổng thống Ronald W. Reagan

“Chấm dứt chiến tranh không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ, cái giá phải trả cho loại hòa bình đó là ngàn năm tăm tối cho các thế hệ sinh tại Viêt Nam về sau.”
“Chúng ta đang chiến đấu với một đối thủ nguy hiểm nhất trong lịch sử nhân loại, và nếu chúng ta thua trong cuộc chiến này, chúng ta sẽ mất đi sự tự do, lịch sử sẽ ghi nhận lại rằng những người có nhiều thứ để mất nhất đã làm ít nhất để ngăn chặn nó.”
Và câu nói nổi tiếng trong cuốn Chính Đề Việt Nam : “Cộng Sản Bắc Việt tự đặt mình trước một viễn cảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta mà còn đe dọa đến sự tồn vong của dân tộc. 
Giả sử Nam Việt Nam bị Bắc Việt thôn tính, thì Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian.”

BỨC THƯ CỦA KẺ TỬ TÙ & SUY NGẪM CHO NỀN GIÁO DỤC ….!

 

Image may contain: 1 person, text
Image may contain: 2 people, eyeglasses and closeup
Image may contain: 4 people, people standing

Lê Hồng Song

BỨC THƯ CỦA KẺ TỬ TÙ & SUY NGẪM CHO NỀN GIÁO DỤC ….!

“Giáo dục là vũ khí lớn mạnh nhất mà bạn có thể sử dụng để thay đổi thế giới, và cũng là món qùa, là tài sản vô giá đối với con người !”
Trên đây là một trong muôn ngàn câu chuyện giáo dục và định hướng cho con người !

Một tử tù đang chờ thi hành án, trước khi ra pháp trường anh cầu xin một điều ước cuối cùng là một cây bút chì và một tờ giấy. Sau khi viết trong một vài phút, anh nhờ công an bảo vệ nhà tù gửi giúp bức thư này cho người mẹ ruột của mình.

Trong thư anh viết :

Mẹ, nếu có công lý trong thế giới này, con và mẹ nên bị kết án từ hình cùng nhau. Mẹ cũng có tội như con vì những gì con đã làm.

Mẹ hãy nhớ lại đi, khi con ăn cắp chiếc xe đạp của thằng bé gần nhà. Mẹ đã giúp con giấu chiếc xe đạp đó đi để bố không nhìn thấy nó.

Mẹ có nhớ lần con lấy trộm tiền từ ví của người hàng xóm không? Mẹ đã đi siêu thị mua sắm cùng với con.

Mẹ có nhớ ai đã bênh vực con khi con cãi lại bố đến nỗi bố phải bỏ đi không? Bố chỉ muốn sửa dạy con vì con đã gian lận trong bài thi và cuối cũng là con bị đuổi học.

Mẹ ơi, lúc đó con chỉ là một đứa trẻ, không lâu sau con đã trở thành một thiếu niên hư nghịch và bây giờ con đang là một tử tù chờ thi hành án.

Mẹ ơi, lúc đó con chỉ là một đứa trẻ con cần được bao biện, nhưng cái thực sự con cần là đúng sai và được sửa trị.

Nhưng thôi, con tha thứ cho mẹ! Con chỉ muốn viết thư này để nó có thể đến được nhiều người khác đang làm cha làm mẹ, với hi vọng rằng, họ có thể nhận ra điều tạo nên người tốt kẻ xấu trên thế giới này là sự giáo dục.

Cảm ơn mẹ đã cho con cuộc sống và cũng đã giúp con đánh mất nó.

Đứa con tử tù của mẹ.
–//–
Hình ảnh trong bài viết chỉ có tính minh họa..

“Kỷ niệm” 44 năm sau ngày chiếc xe tăng húc sập cổng Dinh Độc lập, mọi thứ đều tăng…

“Kỷ niệm” 44 năm sau ngày chiếc xe tăng húc sập cổng Dinh Độc lập, mọi thứ đều tăng. Giá xăng tăng, giá điện tăng, học phí tăng, viện phí tăng, tỷ lệ người xếp hàng xin visa nước ngoài tăng, tỷ lệ đảng viên cộng sản “bỏ của chạy lấy người” tăng… Chưa kể chùa chiền tăng, tỷ lệ mê tín dị đoan tăng, tỷ lệ hiếp dâm trẻ em tăng, tỷ lệ học sinh đánh nhau tăng, tỷ lệ trộm cắp giết người tăng, tỷ lệ tai nạn giao thông tăng, tỷ lệ nữ vị thành niên phá thai tăng… Chưa kể tỷ lệ viên chức phát biểu nhảm nhí tăng, tỷ lệ cướp đất tăng, tỷ lệ phá rừng tăng, tỷ lệ phá biển tăng…

Có những thứ “tăng” kỳ lạ nữa. Tỷ lệ bỉ ổi tăng, tỷ lệ trơ trẽn tăng, tỷ lệ mặt dày tăng, tỷ lệ bất lương tăng, tỷ lệ ngụy quân tử tăng… Còn nữa, tình trạng báo chí bị bịt miệng tăng, tỷ lệ tù nhân lương tâm tăng, tỷ lệ người chết trong đồn công an tăng… Chưa hết, tỷ lệ “gia đình trị” cũng tăng!

Chiếc xe tăng 30-4 đã thực hiện một “nhiệm vụ lịch sử” không thể nào kinh khủng hơn. Nó đã húc không chỉ sập một cánh cổng. Nó đã phá tan một quốc gia. Nó đã nghiền vụn một nền văn hóa. Và bánh xích của nó, vẫn đang kêu ken két, còn tiếp tục nghiến nát những thứ vốn đã bị nó nghiến banh từng mảnh!

Sau 44 năm, nó vẫn cho thấy nó chỉ là cái bánh xích sét gỉ với một sức mạnh thô lỗ. Nó không có trí tuệ. Đến lúc nào đó nhiệm vụ lịch sử của nó sẽ phải khép lại. Nó phải bị vứt ra biển, như những chiếc trực thăng trong những ngày tháng 4-1975. Chỉ sự biến mất vĩnh viễn của nó mới đem lại mùa xuân mới trên quê hương này.

Mạnh Kim

Con thuyền cộng sản sắp lật

Con thuyền cộng sản sắp lật

Trung Nguyễn

26-4-2019

“Con chó già” là ai?

Mấy hôm trước, bạn tôi đang đứng trên vỉa hè một quận trung tâm, cạnh đó có một cặp vợ chồng già đang ngồi hóng mát. Bỗng bạn tôi nghe cụ ông hỏi cụ bà: “Bà này, con chó già đó chết chưa?”. Câu hỏi khiến bạn tôi chú ý và lắng nghe coi hai ông bà nói gì, thì ra “con chó già” lại là Tổng bí thư – Chủ tịch nước, gọi tắt là Tổng – Chủ Nguyễn Phú Trọng.

Thấy bạn tôi lắng nghe cuộc hội thoại, ông bà cụ liền bắt chuyện với bạn tôi. Thực sự họ đã dùng những từ ngữ đầy căm thù dành cho giới lãnh đạo Cộng sản. Cụ bà còn tỏ ra lo lắng không biết đến khi cụ mất thì có kịp thấy chế độ đảng trị Cộng sản sụp đổ chưa? Cụ ông liền trấn an cụ bà, nói là nền cai trị của đảng Cộng sản sẽ sụp đổ sớm thôi. Hai cụ sẽ tận mắt chứng kiến sự sụp đổ của chế độ “chuyên chính vô sản” trên đất nước Việt Nam này.

Khi nghe bạn tôi kể lại câu chuyện này, tự dưng tôi nhớ lại lời của chính Tổng – Chủ “Mình phải có thế nào người ta mới thế chứ”. Nếu ông Trọng nghe được lời của hai ông bà cụ nguyền rủa ông thế nào, chắc ông cũng không muốn sống tiếp một cách nhục nhã như vậy. Nhìn những bình luận trên mạng xã hội trước thông tin ông Trọng có vấn đề sức khỏe thì thấy lòng dân vui mừng trước việc các lãnh đạo Cộng sản … đi gặp “cha già dân tộc” như thế nào.

Con vua thì lại làm vua

Thôi thì cứ cho hai ông bà cụ thuộc thế hệ trải qua nội chiến Quốc – Cộng và hai cụ thuộc “bên thua cuộc” nên căm thù Cộng sản đi. Thế thì thế hệ trẻ Việt Nam sinh sau năm 1975 sẽ tin vào những gì mà chế độ Cộng sản tuyên truyền?

Thật ra, bản thân tôi cũng từng bị nhồi sọ về “công lao trời biển” của đảng Cộng sản và Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam. Thế nhưng, tôi đã lờ mờ nhận ra vấn đề khi bản thân tôi và bạn bè tôi đậu điểm rất cao vào đại học nhưng học bổng của các công ty nhà nước lại chỉ ưu ái cho con cán bộ cộng sản cao cấp “văn dốt võ nhát” được nhận học bổng đi du học, còn chúng tôi bị gạt ra. Sự bất công thuở mới vào đời đó khiến tôi thấy được chế độ Cộng sản không hề công bằng và tốt đẹp như tuyên truyền, mà chỉ là dối trá và bất công.

Sau bao nhiêu năm, vụ việc được lặp lại ở mức độ trắng trợn và đê tiện hơn. Con em quan chức Cộng sản được nâng điểm ở mức độ phi lý, thậm chí 0 điểm cũng trở thành “thủ khoa đại học”. Tôi có thể hình dung sự phẫn nộ của giới trẻ Việt Nam khi biết những thông tin này. Các em phải trải qua nhiều cực nhọc để luyện thi đại học, thế nhưng các em bị gạt ra ngoài để nhường chỗ con em bè lũ cai trị. Các em phải hy sinh tương lai của mình để mang lại “hạnh phúc cho dân tộc”, như lời của bà Phó bí thư thành ủy TPHCM Nguyễn Thị Quyết Tâm “Con lãnh đạo làm lãnh đạo là hạnh phúc của dân tộc”.

Nên nhớ, vụ việc nâng điểm này chỉ mới đổ bể trong năm nay. Chắc chắn tình trạng này đã diễn ra trong nhiều năm trời nhưng ở mức độ nhỏ hơn. Sau bao nhiêu năm không bị lộ thì đám quan chức đã trở nên chủ quan và liều lĩnh khi nâng điểm quá mức. Những học sinh dốt đặc lại trở thành thủ khoa, đã khiến các bạn học cùng lớp phẫn nộ và mọi chuyện lộ ra từ đó.

Một người em của tôi đã phải luyện thi đại học 3 năm trời mới đậu vào trường Y. Nếu em sinh ra là con của lãnh đạo cộng sản thì có lẽ em đã không mất nhiều thời gian như vậy. Chế độ Cộng sản đã tước đoạt hết niềm tin của giới trẻ về một xã hội, trong đó mọi người có cơ hội bình đẳng như nhau.

Khi niềm tin vào sự công bằng không còn thì người dân chỉ còn biết dựa vào hầu đồng, thần thánh, bùa chú, giải vong, cúng sao giải hạn,… Đó là cội rễ của hiện tượng mê tín phổ biến trong xã hội Việt Nam hiện nay. Còn những ai có điều kiện hơn thì họ tìm cách đi định cư ở những quốc gia “tư bản thối nát” như Bắc Mỹ, châu Âu, châu Úc.

Con thuyền sắp bị lật

Nói thẳng ra, đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh mất niềm tin và sự ủng hộ của đại đa số người dân, từ các ông bà cụ tới các em học sinh, sinh viên, thanh niên trẻ tuổi. Chính ông Trọng đã thừa nhận tình trạng “chán đảng, khô đoàn, nhạt chính trị” hiện nay.

Trong lịch sử, trước khi một chế độ diệt vong luôn có những sự kiện chấn động nhân tâm, “thay vua đổi chúa” liên tục vì không còn ông vua nào đủ uy quyền với các phe nhóm khác nhau trong tập đoàn thống trị.

Các quan chức Cộng sản cao cấp liên tục chết một cách đáng ngờ như Nguyễn Bá Thanh, Phạm Quý Ngọ, Trần Đại Quang,… và bây giờ là đủ thứ tin đồn về sức khỏe của Nguyễn Phú Trọng. Đó là dấu hiệu cho thấy các “đồng chí” Cộng sản đang tàn sát lẫn nhau và sự diệt vong của chế độ đã đến gần.

Ảnh minh họa. Nguồn: VNReview

Điều kiện cần đã có. Giá điện, xăng liên tục tăng phi mã sẽ là điều kiện đủ để nhân dân tiễn đưa chế độ độc đảng toàn trị về với Các Mác, Lênin.

Chính ông Trọng từng nói văn vẻ: “Thuyền bị lật mới biết sức dân mạnh như sức nước”. Đảng Cộng sản chưa bị lật nên còn chưa biết sức dân đâu. Nhưng giới cai trị sẽ sớm biết sức mạnh đó thôi, y như đám cai trị bên Venezuela, Sudan, Algeria đang nếm trải.

THƯƠNG DÂN,DÂN LẬP ĐỀN THỜ..,HẠI DÂN ,DÂN ĐÁI NGẬP MỒ THỐI XƯƠNG….

Lê Hồng Song
THƯƠNG DÂN,DÂN LẬP ĐỀN THỜ..,

HẠI DÂN ,DÂN ĐÁI NGẬP MỒ THỐI XƯƠNG….

Đó không phải là lời hăm dọa theo kiểu phổ biến đời nay giữa các „đại ca“, „đại gia“, „đại quan“. Đó là câu ca dao dân gian Việt Nam đã lưu truyền hơn sáu trăm năm nay, và hẳn sẽ còn lưu truyền mãi mãi.

Câu ca dao đó xuất hiện từ triều đại nhà Hồ (1400-1407) .

Năm 1397, Hồ Quý Ly, tể tướng dưới triều đại nhà Trần, đã cho xây dựng khu thành đá tại huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa bây giờ. Thành đá này về sau được gọi là Thành Nhà Hồ.

Năm 1398, thành xây xong, Hồ Quý Ly ép Vua Trần Thuận Tông rời đô từ kinh thành Thăng Long về Thanh Hóa. Tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly truất ngôi của Trần Thiếu Đế, lên ngôi vua và đặt tên nước là Đại Ngu. Thành Nhà Hồ chính thức trở thành kinh đô. Thành Nhà Hồ trong lịch sử còn có các tên gọi khác là Thành An Tôn, Tây Đô, Tây Kinh, Tây Nhai, Tây Giai.

Thành Nhà Hồ được coi là tòa thành đá duy nhất còn lại ở Đông Nam Á, là một trong rất ít còn lại trên thế giới và đã được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản văn hóa vật thể của nhân loại.

Ngôi thành đá kiên cố, hơn 600 năm xem ra vẫn còn chắc vững lắm. Thế mà cái thời đại đẻ ra ngôi thành đó, tức nhà Hồ, lại sụp đổ nhanh chóng đến bất ngờ.

Theo nhà văn, nhà Sử học Hoàng Quốc Hải, (tác giả của hai bộ tiểu thuyết lịch sử về thời đại nhà Lý và nhà Trần, cũng là người am hiểu sâu sắc lịch sử thời kỳ Lý-Trần-Lê, trong đó có giai đoạn nhà Hồ nắm quyền), Hồ Quý Ly là người điêu trá và tàn bạo. Vốn liếng chính trị ông gây dựng trên cái nền của lòng dân chán ghét, nội bộ chia lìa, tất cả những yếu tố khiến cho sức mạnh quốc gia dần đi vào thế bại liệt. Và cái thế nước lụi tàn ấy, làm sao mà che bịt được những đôi mắt gian giảo của bầy ác thú phương Bắc.

Triều đại nhà Hồ đã tiến hành những cuộc tàn sát khủng khiếp đối với những người chống đối.Thậm chí, chỉ có ý nghĩ không tùng phục mà có kẻ tố giác, cũng bị rơi đầu. Quân lính luôn luôn hành quân đàn áp nhân dân nổi dậy từ khắp mọi nơi, cả nước tràn ngập không khí tang tóc và tù ngục. Lòng dân oán hận triều đình đến cùng cực, chia rẽ đến tột cùng, đói khổ đến tột cùng.

Để cho đất nước rơi vào thảm cảnh đó, cũng có nghĩa tự mình tạo điều kiện tốt nhất cho giặc ngoài vào xâm lấn, và cũng có khác chi tự mình đem nước dâng cho giặc.

Đúng vào thời điểm bi đát nhất của nước mình, thì nhà Minh đem 40 vạn quân vào xâm lược nước ta. Chỉ vài trận ra quân, giặc Minh đã đánh sập triều đình nhà Hồ. Và chỉ năm, sáu tháng sau, từ khi quân Minh vào cõi, cả ba cha con Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương, Hồ Nguyên Trừng đều bị giặc Minh bắt đem về Kim Lăng.

Nhà Hồ sụp đổ nhanh chóng như vậy, chỉ có một nguyên nhân duy nhất có thể cắt nghĩa là bởi họ khinh dân, họ chống lại nguyện vọng chân chính của toàn dân, và vì thế cả dân tộc không hợp tác với họ, khiến họ bị diệt vong.

Có một giai thoại nổi tiếng, khi Hồ Quý Ly nói với con trai Hồ Nguyên Trừng: “Ta ước sao có được một trăm vạn quân để chống lại quân Minh”. Trừng đáp: “Thưa cha, quân không sợ thiếu, chỉ sợ lòng dân không theo”.

Vậy là bài học muôn thuở, vẫn là BÀI HỌC LÒNG DÂN.

Ngày nay về Vĩnh Lộc, xứ Thanh, ta còn nghe được vô vàn các câu chuyện đau lòng trong quá trình xây thành đá. Và nhân dân căm phẫn Hồ Quý Ly tới mức khắp tỉnh Thanh Hóa không hề có một am, miếu nào thờ ông. Ngay chân thành, dân dựng ngôi đền thờ người đốc công bị Hồ Quý Ly chém đầu với tội dạnh: chậm tiến độ.

Ngay cả nơi vị tướng trẻ Trần Khát Chân bị nhà Hồ giết ở núi Đôn, dân lập tới hai ngôi đền để thờ ông. Cả tỉnh Thanh Hóa có hơn 70 đền thờ Trần Khát Chân. Chỉ riêng điều đó đủ biết nhân dân đánh giá Hồ Quý Ly có công hay có tội. Vì vậy trong dân gian vùng Thanh – Nghệ mỗi khi bình phẩm một nhân vật lịch sử nào, họ thường đọc câu ca dao quen thuộc:

Thương dân dân lập đền thờ
Hại dân dân đái ngập mồ thối xương.

Có ông quan thời nay hình như cũng cảm thấy „ơn ớn“, nhưng là quan, có đâu nghe dân dễ thế, nên chi, vị ấy phán: dân thì muôn người vạn ý, biết đâu mà chiều

http://www.bvd-vn.de/…/1102-thuong-dan-dan-l-p-d-n-th-h-i-d…

Hình: Internet

Image may contain: 1 person, text
Image may contain: 1 person
Image may contain: 4 people, people smiling, text

Đưa bộ môn ‘Trịnh Công Sơn học’ giảng dạy cho sinh viên có hợp lý?

Tôi thú thật là tôi nghe đế cái môn ‘Trịnh Công Sơn học’ thì tôi rất buồn cười, vì cái thứ nhất nó làm cho tôi… thứ thật là tôi thấy choáng váng, và nó là một hình thức mang tính chất phản khoa học, phi nghệ thuật…-Nhà báo Nguyễn Ngọc Già

Tiếng Sáo Thiên Thai – [Thế Lữ & Phạm Duy – Ngọc Hạ & Quang Ngọc ] – Dau Nguyen 

 httpv://www.youtube.com/watch?v=kmHgk12GVJU&list=PLYNu2WsZ1JUhQ7J1GGZCKRwWY41IaYbRS

Tiếng Sáo Thiên Thai – [Thế Lữ & Phạm Duy – Ngọc Hạ & Quang Ngọc ] – Dau Nguyen 

 “Mùi tục lụy lưỡi tê tân khổ, Đường thế đồ gót rỗ ky khu . . .” (Cung Oán). Và, chốn thiên thai vẫn còn trong trí tưởng của nhân loại. Nơi mà con người khổ đau luôn mơ ước được nhìn thấy, được bước vào. Mời quý vị mở “Tiếng Sáo Thiên Thai” để cùng hai chàng Lưu Nguyễn tìm về với cảnh vật tuyệt mỹ, với tiếng sáo dặt dìu, với mối duyên lành thần tiên dang dở . . . “Tiếng Sáo Thiên Thai”. Thơ: Thế Lữ. Nhạc: Phạm Duy. Tiếng hát: Ngọc Hạ & Quang Ngọc. Hình ảnh & Video clips: Internet. Thực hiện nhạc cảnh: Dậu Nguyễn. 

HÃY NHÌN XEM 

HÃY NHÌN XEM 

Thân xác chúng ta thường mang những vết sẹo, hậu quả của những lần bị trầy trụa, té ngã.  Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng kỷ niệm.  Dù vui hay buồn thì cũng là chuyện đã qua.  Vết sẹo làm ta kém đẹp, nhưng không làm đau như xưa.  Khi Ðức Giêsu phục sinh hiện ra thăm các môn đệ, Ngài giúp họ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo.  Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn.  Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng:  Thầy chính là Ðấng đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được cái chết.

Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Chúa phục sinh có sẹo, dù điều đó chẳng đẹp gì.  Ngài không ngượng mà cho các môn đệ xem.  Những cái sẹo sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc.  Chúng gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau.  Nhưng nếu không có chúng thì cũng chẳng có phục sinh.  Chẳng cần phải xóa đi khỏi ký ức cuộc khổ nạn kinh hoàng và cái chết nhục nhã.

Chúng ta cũng lên thiên đàng với các vết sẹo của mình.  Sống ở đời sao tránh khỏi những dập gẫy, thương tích.  Nếu chúng ta đón nhận mọi sự với tình yêu thì mọi sự sẽ trở nên nhịp cầu cứu độ.  Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành.  Có những vết thương tưởng chẳng thể nào thành sẹo.  Chúng ta có dám cho người khác thấy sẹo của mình không? 

Cuộc khổ nạn của Thầy đã làm các môn đệ bị thương.  Các vết sẹo của Thầy sẽ chữa lành những vết thương đó.  Hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh.  Chính lúc đó ông khám phá thật sâu một Tình Yêu.  Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.  Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông.  Ông đâu dám mong Thầy sẽ đích thân hiện đến để thỏa mãn những đòi hỏi quá quắt của mình.  Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân.  Ông ra khỏi được sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin.  Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy.  Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.

Tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt khỏi cái thấy.  Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu Tôma,  nhưng chúng ta vẫn được thấy Chúa theo những kiểu khác.  Cần tập thấy Chúa để rồi tin.  Có khi phải tập nhìn lại những vết sẹo của mình, của Hội Thánh, của cả thế giới, để rồi tin rằng Chúa phục sinh vẫn đang có mặt giữa những trăn trở và vấp váp, thất bại và khổ đau.  “Phúc cho những ai không thấy mà tin”, và phúc cho những ai biết thấy nên tin.

***********************************

Lạy Chúa, xin cho con luôn vui tươi, dù có phải lo âu và thống khổ, xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình; nhưng biết nghĩ đến những người quanh con, những người – cũng như con – đang cần một người bạn. 

 Nếu như con nên yếu đuối, thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn, thông cảm và nhân từ hơn.  Nếu bàn tay con run rẩy, thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.  Khi lâm tử, xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật như một lời kinh. 

 Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác, như một lời xin vâng cuối cùng.  Và con sẽ về nhà Chúa, để dự tiệc yêu thương muôn đời.  Amen!

Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J

Một chế độ man rợ đã thắng một nền văn minh

Image may contain: 1 person, smiling, text

Tuong Dang is with Mary Nguyen.

Nhà văn cộng sản Dương Thu Hương đã thốt lên khi chứng kiến tận mắt mình khi đến Sài Gòn sau 30/4/1975

Đây là một sự thật , vì còn một bằng chứng mà các bạn trẻ sinh sau 1975 nhìn ra là : bắc Hàn và Nam Hàn hiện nay . Thậm chí trước 1975 , Đại Hàn chỉ là đàn em của VNCH . Thời gian có thể qua đi , nhưng những giá trị lịch sử cần phải rõ ràng và chính xác .

Sự thật muôn đời vẫn là sự thật !