HAI NỀN GIÁO DỤC CHO RA HAI LOẠI NGƯỜI

HAI NỀN GIÁO DỤC CHO RA HAI LOẠI NGƯỜI

Nếu con người được giáo dục trong tình yêu thương, lớn lên trong sự lễ, nghĩa và trưởng thành trong liêm, chính thì sẽ không thể làm điều ác, lại càng không thể trở thành kẻ ác được. Nhưng trái lại, kẻ hoạt đầu, không biết đến điều nhân, lễ, nghĩa, không biết đến tín, trung, bỏ cả đường liêm, chính quy thuận sự vô luân, tôn thờ chủ nghĩa tam vô như: “ Yêu biết mấy nghe con tập nói / Tiếng đầu đời, lòng con gọi Stalin…/ Thương cha thương mẹ thương chồng / Thương mình thương một thương ông thương mười! ” ; ” Bên kia biên giới là nhà / Bên nay biên giới cũng là quê hương / Bên ni biên giới là mình / Bên kia biên giới cũng tình quê hương” v.v.. – ( Tố Hữu ). Như vậy phải chăng xác nhận nước tàu được kéo dài mãi đến tận Mũi Cà Mau? Chưa biết sao, nhưng trước mắt từ cái nền giáo dục, văn hóa của ông Tố Hữu đã lồ lộ cái họa cho đời, cho đất nước, dân tộc này lắm rồi.. Từ những con đường bị một nền giáo dục nhồi nhét đó thì ai cũng hiểu và biết rằng hậu quả đường chúng ta hôm nay sẽ đi về đâu nếu tiếp tục? ( Đại cục đang lừng lững trước mắt mà ám ảnh thời kỳ Khơme đỏ năm nào )

Một con người, một dân tộc không thể trưởng thành, đứng vững nếu như không biết tự võ trang cho mình thông qua nền giáo dục những cái Dũng của thánh nhân nhờ tín ngưỡng ban cho, cái Khí Tiết của hào kiệt của ông cha ban tặng từ nguồn gien bất khuất, cái Tâm của Nhân Bản do nền giáo dục tự do, khai phóng đem đến để làm nền tảng làm Người, làm nền tảng cho một xã hội. Nền giáo dục tốt thì nhận thức sẽ mạnh mẽ, không chấp nhận nghịch cảnh bao giờ: Có thể nghèo khó, mồ côi là một định kiến, một lối mòn mà xã hội muốn thử thách ta, xem thường ta thậm chí miệt thị ta. Nhưng, như cái lò xo càng dồn nén khó khăn thì tích tụ một sức bật khủng khiếp..

Nhớ rằng :” Mọi ông chủ vĩ đại đều từng là những người làm công ở vị trí thấp nhất. Họ đều rẽ trái trong khi mọi người rẽ phải. Họ có những quyết định không theo đám đông, không cam chịu sống một cuộc đời tầm thường, nhạt nhoà rồi chết “. Nếu không được trang bị hay tự nhận thức được như vậy thì cái Trí của con người được học mót đâu đó thay vì giúp ích cho tha nhân, lại thành kẻ vị kỷ mà gây họa cho xã hội. Bởi khi bỏ một trong Liêm, Minh, Chính là nền tảng luân lý của xã hội thì chắc chắn phải bước vào đường bạo ác, bỏ chính quy tà đem họa cho dân, cho nước.

Mấy ai dám nghĩ về một “Làng chài nhỏ bé ” không có đất, không có ruộng, không có nước” nhưng biết tạo cho mình những phẩm chất giá trị để quyến rủ các siêu cường đến với mình và không thể bỏ rơi mình, để phục vụ cho mình, để hợp tác, buôn bán làm ăn, tạo nên giàu có cho mình để trở thành một đất nước Singapore phồn thịnh, hùng cường hôm nay. Và một đất nước khác, Israel nhỏ bé, ít dân nhưng với ý chí vượt khó và hoài bão lập nghiệp, lập thân, lập quốc, biết ý thức muốn tồn tại thì phải có sức khỏe để xây dựng nên được nền y tế cao, biến sa mạc cằn cỗi, hoang tàn, khí hậu khắc nghiệt thành một vùng đất có nền nông nghiệp trù phú năng suất cao, chất lượng cao. Họ còn ý thức muốn vươn lên thì phải có những con người mạnh mẽ, dám đương đầu với mọi nghịch cảnh hay đe dọa nên họ cũng có một nền giáo dục đặc biệt để ai ai cũng có thể làm được nhiều việc mà việc nào cũng làm tốt, dám xả thân cho Tổ quốc, cho dân tộc mình..

From:Công Trung Nguyen

Hơn 3.000 cây thông rừng gần 20 năm tuổi bị đầu độc ở Lâm Đồng

Trong 10 ngày qua, tại địa bàn xã Tân Thanh, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng, kẻ xấu đã dùng thuốc trừ cỏ hạ độc cả một cánh rừng thông gần 20 năm tuổi, làm chết hơn 3.000 cây thông. Đây được cho là vụ hủy hoại rừng lớn nhất từ trước đến nay tại địa phương để chiếm đất sản xuất.

    Chân Phước Rose Venerini

7 Tháng Năm
    Chân Phước Rose Venerini

    (1656 – 1728)

    Chân Phước Rose sinh ở Viterbo, Ý Ðại Lợi, năm 1656. Cha ngài là một bác sĩ. Sau cái chết của vị hôn phu, Rose gia nhập một tu viện nhưng chỉ được vài tháng cô đã phải về nhà để chăm sóc người mẹ goá sau khi cha cô từ trần.

    Lúc bấy giờ cô Rose vẫn sống độc thân và mỗi tối cô thường quy tụ các thiếu nữ trong phố để lần chuỗi Mai Khôi. Cô được một linh mục dòng Tên linh hướng, là người tin rằng ơn gọi của cô là trở nên một giáo chức “ở ngoài đời” hơn là một nữ tu chiêm niệm trong dòng; do đó, với sự trợ giúp của hai người khác, cô mở trường học cho các thiếu nữ ở Viterbo mà chẳng bao lâu trường ấy rất nổi tiếng và thành công.

    Cô Rose có tài ăn nói hoạt bát, có khả năng giáo dục và huấn luyện giáo chức. Cô không dễ bỏ cuộc khi gặp khó khăn trong việc phục vụ Thiên Chúa. Không bao lâu, cô được nổi tiếng và năm 1692, Ðức Hồng Y Barbarigo đã mời cô làm người cố vấn và giúp huấn luyện giáo chức cũng như mở các trường học trong địa phận. Chính ở đây cô trở nên một người bạn và là cô giáo của Lucia Filippini, là người sáng lập dòng và được phong thánh năm 1930.

    Cô Rose còn mở trường ở nhiều nơi khác, đôi khi phải đương đầu với sự chống đối có lúc quyết liệt, tỉ như họ dùng cung tên mà bắn giáo chức và đốt trường. Nhờ sự kiên nhẫn và tín thác vào Thiên Chúa nên cô đã vượt qua mọi trở ngại. Năm 1713, cô sáng lập một tổ chức ở Rôma và được chính Ðức Giáo Hoàng Clêmentê XI khen ngợi.

    Người giáo chức tận tụy này từ trần ở Rôma ngày 7 tháng Năm 1728, hưởng thọ bảy mươi hai tuổi. Sự thánh thiện của ngài được xác nhận qua các phép lạ, và năm 1952 ngài được Ðức Giáo Hoàng Piô XII phong chân phước. Sau cái chết của ngài, các giáo chức trong các trường của ngài quy tụ thành một tu hội. Ngày nay, các Nữ Tu Venerini có mặt ở khắp nơi trên thế giới, hoạt động trong các cộng đồng di dân người Ý.

    Trích từ NguoiTinHuu.com

From: hnkimnga@yahoo.com
To: 
Sent: 5/6/2019 11:07:49 PM Central Standard Time
Subject: Truyền Giáo

  Truyền Giáo

    Một buổi tối nọ, viên sĩ quan trẻ tuổi người Pháp tên là Charles de Foucauld say mê kể cho gia đình nghe những cuộc thám hiểm của anh ở Maroc. Người chăm chú theo dõi câu chuyện của anh nhất là cô cháu bé chưa tròn 10 tuổi. Khi anh vừa chấm dứt thì cô bé đã bất thần đặt một câu hỏi như sau: “Thưa cậu, cháu đã thấy cậu làm được nhiều việc vĩ đại… Thế cậu đã làm được gì cho Thiên Chúa chưa?”

    Câu hỏi ấy như một luồng điện giật khiến anh trở thành bất động. Từ bao lâu nay, chưa có người nào đã khiến anh phải suy nghĩ nhiều như thế. “Anh đã làm gì cho Thiên Chúa chưa?”. Charles de Foucauld lục soát trong lương tâm của mình để chỉ thấy một lỗ hổng không đáy. Anh đã phí phạm tất cả thời giờ của anh trong những cuộc ăn chơi trụy lạc và những danh vọng phù phiếm… Mắt anh bỗng mở ra để thấy được nỗi khốn khổ, nghèo hèn của mình.

    Ngày hôm sau, anh tìm đến xưng tội với một vị linh mục. Anh vào dòng khổ tu, rồi xin đến Nagiareth để sống trọn vẹn cho Chúa Giêsu.

    Ngày nọ, giữa lúc đang đắm mình trong cầu nguyện, anh bỗng nghe từ căn nhà bên cạnh có tiếng than van rên rỉ của một người Hồi Giáo.

    Charles de Foucauld nghĩ đến gương bác ái của Chúa Giêsu: anh có thể giam mình cầu nguyện một mình giữa lúc những người anh em của anh đang rên rỉ trong hấp hối, trong thất vọng sao?

    Nghĩ thế, anh bèn quyết định đến sống giữa họ, trở thành bạn hữu của họ, nhất là những người cô đơn, lạc lõng, nghèo hèn nhất trong xã hội.

    Những năm cuối cùng, Charles de Foucauld sống giữa sa mạc Sahara, chia sẻ hoàn toàn cuộc sống với những người dân nghèo. Charles de Foucauld đã chia sẻ với họ những giọt máu cuối cùng của anh: ngày đầu tháng 12 năm 1916, anh đã bị thảm sát giữa lúc đang cầu nguyện… Ngày nay, các tiểu đệ và tiểu muội Chúa Giêsu tiếp tục lý tưởng sống của anh: họ lao động và sống giữa những người nghèo hèn nhất trong xã hội… Tất cả cuộc sống và sự âm thầm hiện diện của họ là một cố gắng làm một cái gì cho Chúa.

    Có những nhà truyền giáo rời bỏ quê hương để đi đến những nơi hoàn toàn xa lạ như Thánh Phanxicô Xaviê. Nhưng cũng có những nhà truyền giáo dâng cả cuộc đời hy sinh cầu nguyện và đau khổ của mình như Thánh Nữ Têrêxa Hài Ðồng Giêsu. Có những nhà truyền giáo hùng hồn giao rảng như các tông đồ, nhưng cũng có những nhà truyền giáo âm thầm hiện diện và chia sẻ với những người nghèo khổ như Charles de Foucauld.

    Âm thầm hiện diện. Nhưng vẫn có thể chiếu sáng niềm tin yêu hy vọng: đó là mẫu người truyền giáo mà Giáo Hội tại Việt Nam đang cần hơn bao giờ hết. Những cuộc sống tử tế, hy sinh phục vụ, quên mình… vẫn là những lời rao giảng hùng hồn hơn bao giờ hết.

    Trích sách Lẽ Sống

From: hnkimnga & NguyenNThu

KÝ SỰ TÙ CẢI TẠO – Phan Thanh Tâm

Van Pham

 Trong câu chuyện này, tác gỉa có đề cập đến Trung Tá Bác sĩ Quân Y Phùng Văn Hạnh. Ông là cậu của gia đình mình hiện đang sống tại Canada. Hôm rồi qua Mỹ chơi có gặp em Báu đưa đón đi chơi. Em Báu là con trai cậu Phùng Văn Bộ (cũng là Bác sĩ) và là em ruột của cậu Phùng Văn Hạnh… Cậu Bộ đã qua đời hơn 1 năm qua tại Canada…

**************

KÝ SỰ TÙ CẢI TẠO – Phan Thanh Tâm

Một Thời Quái Dị

Khi nói đến thơ tình người ta thường để ý đến các bức thơ tình của các ngôi sao vang bóng một thời trên sân khấu chính trị, màn ảnh, nghệ thuật hay mấy bức thư của các danh nhân, của ông vua, bà chúa, Napoléon Đại Đế, Hoàng Hậu Josephine, của Tổng Thống Washington, Lincoln, Roosevelt, của các văn hào thi bá Voltaire, Victor Hugo, Beethoven. Mới đây thư tình năm 1943 của viên phi công George H.W. Bush hồi thế chiến thứ ÌÌ trước khi trở thành Tổng Thống thứ 41 của nước Mỹ gởi cho vị hôn thê Barbara Pierce sau này là Cựu Đệ Nhất Phu nhân Barbara Bush qua đời ngày 17/4/18 ở tuổi 92 cũng đã được nhắc tới. Chẳng ai nghĩ đến thơ tình của những cặp tình nhân trong đám đông thầm lặng. Ấy vậy mà ông Võ Chinh Chiến, cựu Đại Úy VNCH vẫn nhớ như in từng dòng, từng chữ bức thư của một cán bộ gác cổng gởi cho người yêu nấu bếp vì ông thấy bức thư quá độc đáo, phản ảnh cả một thời đại.

{Đồng Chí H.. thân mến,
Qua nhiều đêm đấu tranh với tư tưởng anh đã nhất trí yêu em.
Nếu em đồng ý anh sẽ mời ba má anh tới tham quan nhà em. Anh hứa sẽ quản lý tốt đời em và làm đúng theo lời Bác và Đảng dạy.
Một thiếu, hai vừa, ba thừa, bốn lạc hậu.
Chào đoàn kết để xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa.}

Bức thư không nhòe viết bằng bút nguyên tử của cán bộ Nguyễn minh …gởi cho người yêu cô Lê thị H.., đề ngày 20 táng 6 năm 1980. Ông Võ Chinh Chiến lượm được khi giặt đồ đá banh cho cán bộ ở trại tù lao động Tiên Lãnh ở miền Trung. Ông bị bắt đi học tập cải tạo 12 năm từ 19/5/1975 đền 1/5/1987 và sau đó còn bị một năm quản chế. Ông cùng với vợ và ba trai, hai gái đến Mỹ theo diện HO vào lúc 11 giờ ngày 9/6/1994. Hiện cuộc sống gia đình ông ổn định, tậu được nhà cửa. Các con đều thành đạt; công ăn việc làm vững chắc. Tôi quen ông Chinh Chiến trong dịp đi tham dự các buổi sinh hoạt trong cộng đồng, được khoảng hai năm. Ông Võ kín đáo, tự tại, hơi lãng tai. Qua câu chuyện trên trời dưới đất không biết từ đâu dẫn đến bức thư nói trên. Thấy hay tôi yêu cầu ông ghi cho tôi. Viết lại trên một tờ giấy bỏ, ông nói, bác và đảng mà không chữ hoa là mang vạ vào thân.

Dịp khác, Ông Võ Chinh Chiến hiện đã hơn 70, sĩ quan trừ bị Thủ Đức khoá 19 cho biết chuyện ngày xưa giờ chỉ còn nhớ lờ mờ, dù vậy, có một “điệp khúc” mà mãi hơn mấy chục năm sau ông vẫn thuộc nằm lòng vì ngày nào ông cũng phải nghe cán bộ lên lớp như sanh như sứa. Sau đó, nhóm tù của ông 20 người, phải lần lượt trả bài. {Đất nước ta giàu đẹp; dân tộc ta anh hùng. Kẻ thù nào cũng đánh thắng, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua. Việt Nam ta rừng vàng biển bạc. Việt Nam ta là đạo quân xung kích hàng đầu của thế giới. Đến Việt Nam ra đường gặp anh hùng, về nhà gặp dũng sĩ. Việt Nam ta thay trời đổi đất; sắp xếp lại giang san; bắt sông cong thành sông thẳng; bắt thiên nhiên phục vụ cho con người. Việt Nam ta đào Trường Sơn cho biển xuyên qua. Việt Nam ta ngàn lần anh hùng, đến Việt Nam quan đi mất chức, lính về mất thây.

Lan man về thời VNCH, ông Võ Chinh Chiến kể, hồi đóng đồn Ngọc Khô, thuộc quận Thăng Bình, tỉnh Quảng Tín, khoảng năm 1996 nơi bị đổi chủ vài lần, ông đã đánh lộn với ma. Thường mình chỉ nghe chuyện ma quái qua người khác; chớ chưa hề nghe chính lời thuật về ma của người đích thân đối diện với ma. Nửa đêm đi vòng đồn kiểm soát, khi vào bên trong một căn nhà ông Võ vấp ngã loạng quạng như bị kẻ nào gạt chân. Thấy một người mặt bôi đen hiện ra truớc mặt; phản ứng nhanh, ông khựng lại vung tay thoi tới tấp. Nó né rồi biến mất. Tay ông đụng mạnh vào thành căn nhà toét chảy máu. Nhờ băng lại vết thương ông mới sực nhớ là nghe nói căn này có ma.Trước đó, ông đã bảo lính dẹp cái lư hương trên đầu giường nằm. Ba ông có lần dặn mỗi lần thấy ma thì niệm Đức Phật Quan Thế Âm Bồ Tát. Ông Võ đã thỉnh tượng Ngài để vào chỗ lư hương.

Ăn Sống Chuột Con.

Ông Võ Chinh Chiến nói, nay tuy nhớ nhớ quên quên, nhưng vẫn bị ám ảnh cái trạng thái lúc đói triền miên và thời khóa biểu lao động cật lực suốt ngày: đêm 11:30 ngủ; sáng 5:00 giờ dậy tập họp điểm danh. Hình ảnh ông bạn tù vì đói ăn sống năm con chuột con bắt được khi đi lao động lâu lâu lại hiện đến với ông. Ngày vô trại tù học tập cải tạo ông nặng 70 kí. Mười hai năm sau được thả về lết đi chỉ còn 40 kí. Ông cho rằng những người đã từng sống dưới chế độ cộng sản, đặc biệt những người đã từng sống trong nhà tù cộng sản đều có cùng ý nghĩ: chưa sống dưới chế độ cộng sản, trong nhà tù cộng sản thì chưa hiểu về cộng sản. Và câu “bất hạnh nhất của đời người là chưa biết đau khổ là gì” trong cuốn Tình Yêu Hiện Sinh của Bác sĩ Trung tá Quân Y, Phùng Văn Hạnh, một bạn tù ở trại Tiên Lãnh (Quảng Nam), cũng 12 năm như ông là câu quá hay rất đáng suy ngẫm.

Bác sĩ Phùng Văn Hạnh (PVH), tác giả cuốn sách trên chính là người ăn chuột con. Trong sách Bác sĩ viết “Có lần tôi giở mái tranh để lợp lại, bắt được một ổ chuột có năm con đỏ hỏn. Nghĩ là chuột chỉ bú sửa mẹ, chắc sạch, tôi nuốt sống luôn năm con chuột. Chắc cũng bổ như bà Từ Hi ăn chuột bạch nuôi bằng sâm.” Ông Võ Chinh Chiến thố lộ, ông hay đọc cuốn này vì sách cho ông nhớ lại những năm tháng cũ. Nó ghi lại những nỗi thống khổ mà các tù nhân trại Tiên Lãnh đã trải qua. Tại sao Bác si PVH viết? Để “kể lại một thời mà cháu con mình khi đọc đến phải thốt lên: Ông cha ta đã sống qua một thời kỳ quái dị”. Đầu sách có câu “Tình yêu hiện sinh, chứ không phải là từ chối hiện sinh, mang lại cuộc đời mọi giá trị”. Tác giả mượn lời của văn hào Siegfied khi nói về lòng hoài hương: người lưu vong đầu tiên, suốt đời vẫn là người xứ gốc (le premier émigré demeure sa vie durant, un homme de son pays d’origine).

Sách là một tập tự truyện qua một nhân vật tên Hoạt do tác giả tự xuất bản năm 2002, dày 170 trang. Hiện vợ chồng Bác sĩ và bốn trai, ba gái định cư ở Canada: “Nay các con đều ra trường và có nghề nghiệp vững chãi”. Sau ngày 30/4/1975 ông bị áp giải từ Saigon đưa về trại tù cải tạo Tiên Lãnh. Nhà ở Đà Nẵng bị tịch thu. Các con bị phân biệt đối xử, không cho học bậc đại học. Ba người con đầu vượt biên năm 1983. Bác sĩ ra tù tháng hai năm 1988; ba tháng sau vợ chồng ông và bốn con (ba gái, một trai) cũng tìm đường vượt biên, đến Canada năm 1989. Dù học cật lực nhưng vì đến bờ tự do quá trễ và không có đủ sức khoẻ Bác sĩ PVH không thể trở về nghề cũ. Ông đã phải lần lượt làm bốn nghề. Nghề chót làm assembleur cho một hãng đèn được tám năm trước khi về hưu. Tuy vậy, Bác sĩ PVH vẫn thấy mình “may hơn bạn bè chết trong tù cộng sản hay chôn vùi xác trên con đường tìm tự do”.

Trong chương gánh sắn, tác giả cho biết, sắn là nguồn ăn chính. Phần ăn bới ra lổn chổn sắn tươi xắc khúc, cơm bu xung quanh. Xem như chín phần sắn, một phần cơm. Ngày ba bữa, mỗi bữa lưng ba chén nhỏ. Ăn như vậy nên “chỉ vài tháng sau nhập trại, toàn thể sĩ quan trở nên rách rưới, ốm đói, phờ phạc, hãi hùng”. Một tù hình sự đói quá, phanh ngực ra trước cán bộ, xin cho ăn một bụng thật no, rồi chết cũng hả dạ. Anh bị bắn ngay tại chỗ. Cán bộ mổ trâu ăn thịt. Xương gánh đi đổ. Trại viên tranh nhau chạy lại kiếm một mảnh xương còn dính chút thịt. Các em tù hình sự lượm cơm dưới mương chảy ra từ nhà ăn cán bộ, rửa rồi cho vào gô nấu cháo. Có em ăn giành với heo. Còn các trại viên vì ăn đói, tối ruột sôi ồn ào không ngủ được, nên ai nấy cũng tìm cách làm cho bụng đầy. Kẻ uống nước cho no. Kẻ ăn một gô (lon sữa guigoz bằng nhôm) rau lang hoặc cải tàu bay nấu với nhái, dế, sung, chuột.

Một Hạt Đậu Hai Người Khiêng

Ngoài ra, Bác sĩ PVH còn có một truyện ngắn về hạt đậu. Anh Lộc nguyên là giáo sư Anh văn, có tài kể chuyện giúp vui bạn tù, vượt biên bị bắt, đã ở tù năm năm. Vào mùa trồng đậu phụng mỗi tối trại viên phải làm công tác lột đậu. Hầu như ai cũng ăn lén. Hạt đậu vừa béo vừa ngọt, cơ thể đang cần. Rûi cho anh Lộc, từ bóng tối góc sân, một tên cán bộ bước ra:‘’ anh hãy mở miệng cho tôi xem’’. Anh bị kéo ra giữa sân. Bốn tên khác vây quanh: “chúng tôi trừng trị các anh để chừa thói ăn cắp’’. Anh ngã xuống, chúng nâng anh dậy vừa đấm, vừa đá. Anh Lộc nằm bất động. Tên giám thị bắt hai trại viên khiêng anh Lộc về chỗ anh ở. Nhân câu chuyện này, trại Tiên Lãnh mới có giai thoại: ”một hạt đậu hai người khiêng’’. Từ ngày đó, anh Lộc lầm lì. Nước da tái dần. It lâu sau, anh được phóng thích vì lý do sức khoẻ. Anh Lộc có tên qua Mỹ. Cùng đi với anh có chị Hoa học trò cũ của anh. Tháng 9/1989 sáng thứ hai anh nhận vé để hôm sau ra phi trường. Tối thứ hai ấy, anh lên cơn đau; chết vì xuất huyết nội.

Được dịp trình bày trước một phái đoàn Trung ương vào kiểm trại tù, Bác sĩ PVH nói chênh lệch giữa năng lượng cung cấp (1500 calô) và năng lượng cần cho lao động hằng ngày (3000 đến 5000 calô) quá lớn. Bởi thế trại viên da khô, nứt nẻ, bắp thịt teo tóp, yếu nhược. Bệnh suy dưỡng một ngày một nhiều. Thiếu sinh tố gây chảy máu răng và phù thủng. Thiếu protein đã gây bệnh sâu răng. Thuốc men rất hiếm. Thuốc sốt rét cấp không đủ dùng. Thuốc trụ sinh thỉnh thoảng mới có. Nhà cầu lộ thiên, ruồi quá nhiều mang bệnh truyền nhiễm. Dùng phân người bón rau và bón ruộng gây dịch kiết lỵ. Mỗi lần hàng trăm trại viên bị bệnh. Thuốc men không đủ, nhiều người chết uổng. Sau khi phái đoàn rời về, Bác sĩ PVH bị tố là xuyên tạc chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước. Ông bị bắt đi lao động gánh sắn. Mỗi ngày ba chuyến, mỗi chuyến đi về 10km; gánh sắn phải nặng 40kg tối thiểu.

Phân người nói trên lấy ở đâu? Lấy từ một nhà cầu công cộng. Sách viết, trại viên ngồi trên những lỗ cầu. Dưới lỗ là những thùng hứng phân. Nhìn xuống lỗ cầu dòi lúc nhúc trong thùng phân. Giấy vệ sinh rất hiếm, thường là giấy báo cũ. Phần lớn dùng que tre gạt đít. Kỹ hơn thì mang theo gô nước để rửa, rồi về rửa tay sau. Tù hình sự lo việc đổ các thùng phân. Mỗi thùng có hai quai; xỏ cây vào khiêng đi đổ dồn vào một hố cách chỗ đi cầu chừng 20m. Bên cạnh hố là một đống tro lấy từ các lò nấu cơm nước của cấp dưỡng; xúc tro trộn vào phân để làm phân xanh. Mỗi ngày tổ rau và các đội nông nghiệp đều vào xúc phân đem ra bón rau và ruộng. “Tôi đã có nhiều lần bốc phân ấy rải ruộng. Thật gớm ghiếc. Tối về rửa xà phòng nhiều lần mà tay vẫn thum thủm. Hình sự còn rửa thùng phân ở suối. Dịch kiết lỵ xảy ra vì thế. Dân chúng dọc sông suối chắc cũng bị ô nhiễm.”

Tác giả PVH ở trại 12 năm, trong đó chỉ có ba năm làm y tế, còn chín năm lao động. Ba năm y tế ấy không liên tục; ra vào ba lần. Bác sĩ cho biết, ở trại chết vì sốt rét ác tính rất nhiều. Một bệnh khá phổ biến khác là bệnh loét dạ dày. Nguyên do là vì buồn bực, sợ sệt triền miên và thiếu dinh dưỡng. Họ chết đột ngột do xuất huyết, mửa ra cả đống máu. Mỗi tháng đưa ra nghĩa địa vài ba người. Bệnh nhân mất nước mà không có dung dịch chuyền tĩnh mạch, không có trụ sinh để chữa trị. Nhiều người chết ngay trên đường vào nhà cầu. Các trại viên chết mắt cứ mở trừng trừng, dù ông vuốt mắt cho họ nhiều lần. Chắc họ uất ức lắm. Mỗi khi có thân nhân thăm mộ người khuất, ông dẫn họ ra mộ phần. Họ nằm lăn ra mộ khóc lóc thảm thiết. Có một chị đã cắt mớ tóc dài của mình, quấn lên bia mộ chồng trước khi ra về. Một bà sau khi khấn vái, đốt hương đèn xong, bà giã từ chồng: “ông ở lại, tôi về nghe ông”.

Đau Răng Nhức Răng

Bác sĩ PVH dành hẳn một chương để nói về chuyện đau răng. Ông viết, nói chung không ai đi tù cộng sản mà không bị hư răng. Nhiều người mất cả hàm răng. Riêng ông bị mất gần sáu chiếc răng. Nguyên do là thiếu chất thịt. Men răng mòn dần không được thay thế, răng dễ bị sâu. Bản thân bác sĩ đã trải qua sự đau đớn khi cái răng cấm bị lũng lỗ lúc ở tù Tiên Lãnh. Không ăn uống gì được, lại phải đi lao động, đau buốt lên tận óc. Ông đã dùng cái kềm nhổ đinh bình thường kẹp răng đau bẻ ngang ra. Đau quá chừng song phải cố gắng. Sau đó, ông nghĩ cách nhổ răng cho các trại viên. Nhờ tổ rèn làm cho hai cái kềm nhổ răng. Hình dạng gần giống kềm nha sĩ. Phần lớn nhổ răng không có thuốc tê. Trường hợp răng lung lay thì dễ. Gặp trường hợp khó, bệnh nhân và nha sĩ bất đắc dĩ phải tranh đấu cả giờ mới xong. Nhờ vậy, hàng ngàn răng sâu đã được nhổ và biết bao đau đớn đã được giải thoát.

Trại tù Tiên Lãnh thuộc huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Trong thời chiến đây là chiến khu của Liên khu 5 Việt Cộng.Trại giam công chức, đảng phái, đoàn thể và tù nhân hình sự gồm có lưu manh, trẻ em hè phố, xì ke ma túy. Sau này hàng trăm cựu sĩ quan VNCH dồn lên Tiên Lãnh nên nó trở thành quan trọng bậc nhất trong tỉnh. Nơi này, lúc đầu ma thiêng nước độc, chỉ là đồi núi hoang vu, muỗi mòng như trấu. Nhóm tù chính trị đầu tiên đã dãi nắng, dầm mưa, phải đốn cây về làm chỗ ở cho mình và cho công an áp giải họ. Họ đã hoàn thành trại giam cho chính mình và nhà cửa khang trang cho ban giám thị. Trong nhóm tù chính trị có xã trưởng và các thành phần nòng cốt của miền Nam rất thành thạo về nông nghiệp và rất tháo vát. Chính họ đã khai thác những vùng ruộng bỏ hoang. Họ đã làm giàu cho trại. Trại mở rộng diện tích canh tác.Toàn cảnh trại là một làng nhà ngói đỏ, khác hẳn với làng lụp xụp của dân chúng gần đó.

Qua chương lao động, tác giả mô tả trại tù cải tạo hóa thành một nông trường lớn ở giữa rừng, mang lại cho bộ máy công an nhiều lợi tức. Xe tải lớn của ty công an tỉnh lên chở gạo, heo, bò, trứng rau, gà vịt để chia nhau sử dụng. Tất cả sản phẩm này do trại viên làm ra. Trong khi đó, người tù ăn sắn là chính với muối hoặc mắm cái pha loãng với nước. Tiên Lãnh gồm cả trại Na sơn, Thôn năm, trại nữ. Có đến 5.000 người lao động. Công việc hàng ngày: nông nghiệp, chăn nuôi, tiểu công nghệ. Công việc đồng áng cổ truyền giống đời xưa từ gieo mạ, cày bừa, cấy lúa, phát bờ, làm cỏ, rải phân. Ruộng làm hai mùa, trại viên quanh năm đầu tắt, mặt tối như cái máy. Ăn không no, làm không nghỉ. Cày ruộng không phải bằng trâu mà bằng người đã xảy ra ở đây. Trại viên chia thành nhiều toán: toán chăn nuôi, toán thợ rừng đốn cây, toán cấp dưỡng lo nấu ăn… Làm ngày không đủ thì làm đêm. Không biển máu, song khai thác triệt để sức lao động tù cải tạo; hành hạ sống dở, chết dở.

Theo bác sĩ PVH, sinh năm 1931 ở Điện bàn, Quảng Nam, chế độ tập trung cải tạo không những đày đọa cá nhân người tù mà còn toàn thể gia đình họ. Nhà cửa bị tịch thu, đi vùng kinh tế mới; con cái không cho đi học, lâm cảnh bụi đời. Vợ đi lấy chồng khác. May cũng có nhiều phụ nữ đảm đang, gìn giữ gia đình. Họ đi thăm nuôi chồng tận ải Nam Quan. Khi gặp chồng con, họ không được khóc lóc, phải vui vẻ động viên chồng con lo học tập cải tạo tốt để mau về với gia đình. Nếu khóc thì tù cải tạo không được nhận quà. Quà này và tất cả con gì cử động là nguồn chính giúp tù cải tạo cải thiện – chữ của bộ đội miền Bắc – tức là kiếm thêm chất thịt để bồi dưỡng. Ăn cơm độn sắn với nước muối hoài nên thèm chất tanh. Ông viết ‘’sức chịu đựng con người ở trại cải tạo gần như là một phép lạ’’. Tuy vậy, cũng có vài trại viên quá tuyệt vọng đã tự tử.

Cách Mạng Tháng Tám,

Tập truyện còn kể lại vụ án Trần Quang Trân, một biến cố đặc biệt của trại Tiên Lãnh trong chương Đau Khổ Triền Miên. Ban giám đốc trại đã kêu anh Trân thiết lập một hệ thống tổng đài điện thoại; vì trước 1975 anh là một chuyên viên điện tử đã đi tu nghiệp ở Nhật do tài trợ của hãng Panasonic. Anh có một căn nhà riêng để sửa máy thu thanh và các máy điện tử. Anh nghe lén các đài ngoại quốc báo lại cho các trại viên tin tức bên ngoài nhằm giúp họ nuôi dưỡng tinh thần. Một số cựu sĩ quan đã dự mưu tổ chức cướp súng, cướp trại. Đây là một tổ chức có mục đích, có hệ thống. Nhưng chẳng may máy đo điện trở có lắp linh kiện điện tử để nghe đài phát thanh bị phát hiện. Khi vỡ lở, công an phải mất vài tháng điều tra trước khi đưa ra xử. Anh Trần Quang Trân đứng ra lãnh cái chết cho anh em. Anh không xin ân xá. Ra pháp trường anh không chịu bịt mắt. Anh còn làm thơ mạt sát chế độ và đọc to lên cho trại viên nghe.

Đề cập đến cách mạng tháng Tám, tác giả PVH, nguyên là Trung tá bác sĩ biệt phái Trung tâm y tế toàn khoa Đà nẵng (1965-1975) khu giải phẫu chỉnh hình nhận định rằng, cuộc cách mạng này không cần thiết. Có thể tránh cuộc kháng chiến chống Pháp. Sau khi Nhật đầu hàng, Pháp trở lại, Bảo Đại và nhóm Trần Trọng Kim có đủ sáng suốt để tạo một Việt Nam độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp hoặc hoặc kiểu Pháp Việt đề huề như cụ Phan chu Trinh khởi xuớng. Hồ Chí Minh đã chọn giải pháp chiến tranh vì Lenine đã dạy: chỉ trong chiến tranh, rối loạn, đảng cộng sản mới diệt được phe quốc gia và đảng sẽ vững mạnh lên. Theo Bác sĩ PVH, phải bác bỏ luận điệu chính quyền thoát thai từ một thùng thuốc súng của Mao. Cách mạng tháng Tám đến, vì buộc mọi người “yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa” nên mang theo chiến tranh, chết chóc trong 30 năm; chia cắt đất nước; chia cắt lòng người; hàng triệu thuyền nhân vượt biên, vượt biển cùng trại tù lao động cải tạo mọc lên từ ải Nam Quam đến mũi Cà Mau; lại thêm mất đất, mất đảo Hoàng Sa, Trường Sa vô tay Tàu Cọng.

Tại sao Bác sĩ PVH ở tù lâu dữ vậy? Tác giả hỏi cán bộ gíáo dục thì cán bộ bảo ông gián tiếp có nợ máu với nhân dân. Bác sĩ đã chữa lành cho lính ngụy để họ lại cầm súng giết cách mạng. Một cán bộ chấp pháp có lần nói rõ vì sao ông bị giam: tư tưởng của anh nguy hiểm cho việc xây dựng XHCN. Phải cách ly anh ra khỏi xã hội. Trong Thay Lời Tựa cuốn sách này của một bạn tù Nguyen T Giao thì thầy thuốc PVH ở tù lâu vì một phần cái quá khứ của tác giả: “nhưng lý do chính nhất để anh ở lâu quá chắc chắn là do cung cách sống và lương tâm của một kẻ sĩ miền Nam trong anh”. Bạn tù Nguyen T Giao còn viết rõ “khi đứng trước bọn cai tù để xin phép hoặc cấp báo điều gì hãy nhìn anh Hạnh: anh không bao giờ khép chặt hai tay vào người anh; anh dùng một cánh tay đưa lên cùng với ngón trỏ để nói. Cái cao ngạo của anh đã trả thù được cho anh em quá nhiều”.

{Trong một buổi giao ban, bác sĩ giám đốc mới từ Hà-nội vào đã nói thẳng:
-Các anh ở trong này dốt lắm
Sửng sốt tôi hỏi:
-Tại sao anh bảo chúng tôi dốt
-Lý thuyết hay nhất trên thế giới hiện nay là chủ nghĩa Mác-Lê, mà các anh không biết đến. Như thế không phải dốt sao?
-Xin lỗi anh, có lẽ anh đón gió có một phương. Ở trong Nam chúng tôi đón gió bốn phương. Mac,Lênin chúng tôi có đọc trong nguyên tác cũng như nhiều tác giả khác kể cả những tác giả phê phán thuyết Mác-Lê. Các anh chắc đọc sách trích dịch kèm theo lời bàn ca tụng Mác-Lê. Vả lại, ở miến Nam không ai cấm đọc Mác. Trong khi ngoài Bắc cấm đoán nhiều loại sách của phe tư bản.Chúng ta cũng nên suy nghĩ về câu của St Augustin:”je crains l’homme d’un seul livre” (tôi sợ người chỉ biết một cuốn sách).} [trang 57].

Một buổi sáng sửa soạn đi làm thì trật tự gọi tác giả ra gặp cán bộ lo về phóng thích. Bác sĩ PVH thắc mắc tại sao mình được thả ra đột ngột. Khi vào Tiên Lãnh ông nặng 75 kg, ngày về chỉ còn 45kg; từ một tráng niên sau 12 năm, ông rời trại là “một ông già, tóc rụng quá nửa, lưng còng, mặt nhăn nheo”. Cứ theo lời hai cán bộ trên và nhớ lại câu thơ của Tố Hữu “chúng bay là súc vật ta đây mới là người” cùng lời nhục mạ trại viên “các anh là dã thú đội lốt ngưới” của cán bộ trong trại, ông nghĩ mình chẳng bao giờ được về. Hơn nữa, các con đã đến nhà ông giám thị Tiên Lãnhh lạy ông ta như tế sao để ông xét cho cha về sớm; nhưng ông vẫn “ ngồi chễm chệ, hách dịch, trịch thượng chẳng chút thương xót”. Vượt biên tới trại tị nạn Palawan Bác sĩ mới hay bạn bè ở Mỹ đã nhờ Hội Ân Xá Quốc tế giúp ông ra tù. Bác sĩ PVH viết “tôi ghi nhớ ngày ấy và mỗi năm mừng ngày ấy một mình”./.

Image may contain: food

sau 3 năm thì chính các người cũng phải thừa nhận là Formosa xả thải độc.

Những cuộc biểu tình chống Formosa từ cách đây 3 năm là phản động, hay kẻ ung dung trống rong cờ mở đến Formosa, đi tắm biển, ăn mực nhảy… trong lúc biển bị xả độc, cá tôm chết, môi trường bị giết, ngư dân điêu đứng là tay sai của Tàu cộng?

Image may contain: sky and outdoor

Ngoc Vu is with Ngọc Vũ and Nguyễn Anh.

Khi chúng tôi cùng hàng nghìn người dân Sài Gòn xuống đường biểu đạt ý kiến phản đối Formosa xả thải giết biển, thì chính quyền vu vạ cho chúng tôi là phản động, nghe theo lời xúi dục của thế lực thù địch, rồi nhận tiền đi biểu đạt….. Vu vạ và gắn mác cho chúng tôi hàng chục loại tội lỗi ghê rợn.
Có nhiều người còn bị đánh đập, nhục mạ và hành hạ hết sức dã man.

Và sau 3 năm thì chính các người cũng phải thừa nhận là Formosa xả thải độc.
Cái ngu si và khốn nạn nhất là mang voi về giày mả tổ.

Vì vài đồng tiền trước mắt mà chúng bán cả Giang sơn, bán cả Tổ Quốc, bán cả sức khoẻ Dân Tộc mình cho lũ mọi giết người bằng hoá chất độc hại.

Không ai có thể làm được điều đó, mà chỉ có thể là loại độc đảng, độc tài, tham lam, khát máu.

Chủ nghĩa Mác: Soi rọi đến đâu, lụi tàn đến đấy

Hoa Do and Trang Minh shared a link.

Chủ nghĩa Mác soi rọi đến đâu thì lụi tàn đến đấy. Đó là một sự thật. Sự sụp đổ của hệ thống XHCN cũng là một sự thật. Thế nhưng, các nhà tuyên giáo ở Việt Nam cố tình không nhìn thấy. Chủ nghĩa Mác là một sai lầm tạm thời của nhân loại, nó đã chết ở quê hương Các Mác, chết ở châu lục mà Mác sinh ra nhưng ở một đất nước nghèo đói xa lạ, người ta cố thổi hồn vào nó, hà hơi cho nó những mong nó sống lại. Đó là một điều không tưởng. Chết rồi mà vẫn sống mãi, vẫn thúc đẩy được phong trào cách mạng thế giới, vẫn là chìa khóa vạn năng để giải cứu thế giới và còn đòi soi rọi đến cả… cách mạng 4.0. Thật là không còn sự khôi hài nào hơn.

Hòa bình trên những nấm mồ

Hòa bình trên những nấm mồ – Báo Der Spiegel phỏng vấn cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vào năm 1979

Tổng thống Thiệu này 20/09/1972 ở Quảng Trị

Hòa bình trên những nấm mồ – Báo Der Spiegel phỏng vấn cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vào năm 1979

Cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trả lời phỏng vấn của Der Spiegel tại tư gia ở Anh Quốc, 1979. Nguồn: Der Spiegel Số 50/1979, trang 197

* Lời giới thiệu của NNC:

Dưới đây là nội dung cuộc phỏng vấn của tuần báo “Der Spiegel” (số 50, ngày 10/12/1979, xuất bản tại Hamburg, Đức) với cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về cuốn hồi ký của Henry Kissinger, do hai biên tập viên Angels, John K. và Lohfeldt, Heinz P. thực hiện .

Có thể coi đây là tài liệu lịch sử quan trọng nhất của Tổng thống Thiệu, vì kể từ khi sống lưu vong cho đến ngày qua đời (29/9/2001) tại Trung tâm Y tế Beth Israel Deaconess Medical Center tại Boston, Massachusetts, Hoa Kỳ), ông rất ít xuất hiện trên báo chí.

Lý do ông chọn để báo “Der Spiegel” phỏng vấn vào ngày 1/12/1979 tại Anh quốc vì đây là tờ báo nổi tiếng của Đức mà nước Đức lại là quê hương của Kissinger. Một số người Mỹ sau này gán cho Kissinger là một kẻ “Tội phạm Chiến tranh” (War Criminal). Đối với một số người Việt tại miền Nam, Kissinger chính là một trong những thủ phạm dẫn đến ngày Sài Gòn sụp đổ, 30/4/1975.

Chỉ vài tuần sau khi bài phỏng vấn xuất hiện trên tờ “Der Spiegel”, Kissinger đã gửi cho TT Thiệu một lá thư riêng (không đề ngày) với lời lẽ rất nhã nhặn để trình bày sự việc trong cuốn hồi ký. Bức thư có đoạn viết:

“Tôi có thể hiểu được sự cay đắng của ngài… Cuốn sách của tôi không ngớt lời ca tụng lòng can đảm và tư cách của ngài… Tôi không trông đợi thuyết phục được ngài nhưng ít nhất tôi có thể tin tưởng rằng lòng hối hận và kính trọng ngài vẫn còn trong tôi.

Với những lời chúc tốt đẹp nhất.

Henry Kissinger”

* Bản dịch bài phỏng vấn dưới đây từ tiếng Đức sang tiếng Việt do nhà văn Phạm Thi Hoài thực hiện. Hình ảnh trong bài được sưu tầm trên mạng. Bạn đọc có thể tham khảo nguyên bản tiếng Đức tại http://www.Spiegel.de/Spiegel/print/d-39685817.html

Spiegel: Thưa ông Thiệu, từ 1968 đến 1973 Hoa Kỳ đã nỗ lực thương lượng hòa bình cho Việt Nam. Trong cuốn hồi ký của mình, ông Henry Kissinger, trưởng phái đoàn đàm phán Hoa Kỳ đã dùng nhiều trang để miêu tả việc ông, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, đã chống lại những nỗ lực nhằm đem lại hòa bình cho một cuộc chiến đã kéo dài nhiều năm, với hàng triệu nạn nhân và dường như là một cuộc chiến để “bóp nát trái tim Hoa Kỳ”. Vì sao ông lại cản trở như vậy?

Nguyễn Văn Thiệu: Nói thế là tuyệt đối vô nghĩa. Nếu tôi cản trở thì đã không có Hiệp định Hòa bình năm 1973 – mặc dù, như ai cũng biết, đó không phải là một nền hòa bình tốt đẹp; hậu quả của nó ở Việt Nam là chứng chỉ rõ ràng nhất. Kissinger đại diện cho chính sách và lợi ích của chính phủ Mỹ. Là Tổng thống Nam Việt Nam, bổn phận của tôi là bảo vệ những lợi ích sống còn của đất nước tôi.

Tôi đã nhiều lần chỉ ra cho Tổng thống Nixon và TS Kissinger rằng, đối với một cường quốc như Hoa Kỳ thì việc từ bỏ một số vị trí không mấy quan trọng ở một quốc gia bé nhỏ như Nam Việt Nam không có gì đáng kể. Nhưng với chúng tôi, đó là vấn đề sinh tử của cả một dân tộc.

Spiegel: Kissinger không phủ nhận rằng cuối cùng ông cũng đồng ý. Nhưng ông ấy cũng nói rằng phải đàm phán lâu như vậy vì ông cản trở nhiều, rằng ông đồng ý với các đề xuất của Mỹ chỉ vì ông chắc mẩm rằng đằng nào thì Hà Nội cũng sẽ bác bỏ.

Nguyễn Văn Thiệu: Không đúng như vậy. Để chấm dứt một cuộc chiến tranh đã kéo dài gần 30 năm, người ta cần nhiều thời gian hơn là hai, ba ngày hay hai, ba tháng. Tôi hiểu rõ rằng đối với người Mỹ đã đến giúp chúng tôi, đây là cuộc chiến dài nhất trong lịch sử của họ. Có lẽ vì thế mà họ vội vã như vậy. Nhưng điều chúng tôi cần là một nền hòa bình lâu dài.

Spiegel: Kissinger có ý cho rằng ông không thực sự muốn ký kết một thỏa thuận về hòa bình, đúng ra ông ngầm mong phía miền Bắc cũng sẽ cứng đầu như ông. Kissinger viết rằng ông đồng ý với nhiều đề xuất từ phía Mỹ – trong tinh thần sẵn sàng không tuân thủ, chỉ vì trong thâm tâm ông không tin rằng hòa bình sẽ được ký kết. Có phải là trong khi đàm phán, ông đã bịp, với hy vọng là sẽ không bao giờ phải ngửa bài lên?

Nguyễn Văn Thiệu: Không. Sao lại có thể nói là một dân tộc đã chịu đựng bao nhiêu đau khổ suốt 30 năm lại muốn kéo dài cuộc chiến? Kissinger muốn xúc tiến thật nhanh mọi việc để Mỹ có thể rút quân và tù binh Mỹ được thả. Mà có lẽ mục đích của chính phủ Mỹ cũng là cao chạy xa bay. Họ thì có thể bỏ chạy. Nhưng chúng tôi thì phải ở lại Nam Việt Nam.

Chúng tôi có quyền chính đáng để đòi hỏi một hiệp định hòa bình toàn diện. Không phải là vài ba năm hòa bình, rồi sau đó lại 30 năm chiến tranh.

Spiegel: Vậy tại sao ông lại đi trước cả người Mỹ và tự đề nghị Hoa Kỳ rút quân trong cuộc họp tại đảo Midway ở Thái Bình Dương tháng Sáu 1969, theo tường thuật của Kissinger?

Nguyễn Văn Thiệu: Trước khi họp ở Midway, việc chính phủ Mỹ dự định rút quân đã không còn là điều bí mật. Cho phép tôi nhắc để các ông nhớ lại, tin tức về việc Mỹ sẽ rút một số quân đã loan khắp thế giới, trước cuộc họp ở Midway. Vì sao? Theo tôi, chính phủ Mỹ muốn thả bóng thăm dò, tiết lộ thông tin trước cho báo chí và đẩy chúng tôi vào sự đã rồi.

Spiegel: Tức là ông đã nắm được tình hình?

Nguyễn Văn Thiệu: Đúng thế. Cuộc họp ở Midway nhằm hai mục đích. Thứ nhất, cho hai vị tân tổng thống cơ hội làm quen và bàn về đề tài Việt Nam. Điểm thứ hai đã vạch rất rõ là bàn về việc rút những toán quân Mỹ đầu tiên. Tôi đã không hình dung sai điều gì và đã làm chủ tình thế. Không có gì phải lo lắng, và tôi đã rất vững tâm.

Spiegel: Khi đề xuất Mỹ rút quân, ông có thật sự tin rằng Nam Việt Nam có thể chiến đấu một mình và cuối cùng sẽ chiến thắng trong một cuộc chiến mà hơn 540.000 lính Mỹ cùng toàn bộ guồng máy quân sự khổng lồ của Hoa Kỳ không thắng nổi không? Chuyện đó khó tin lắm.

Nguyễn Văn Thiệu: Không, đề xuất đó không phải của tôi. Tôi chỉ chấp thuận. Tôi chấp thuận đợt rút quân đầu tiên của Mỹ, vì Tổng thống Nixon bảo tôi là ông ấy gặp khó khăn trong đối nội và việc rút quân chỉ mang tính tượng trưng. Ông ấy cần sự ủng hộ của dư luận và của Quốc hội. Nhưng tôi cũng bảo ông ấy rằng: Ông phải chắc chắn rằng Hà Nội không coi việc bắt đầu rút quân đó là dấu hiệu suy yếu của Hoa Kỳ.

Tổng thống Nixon và Tổng thống Thiệu tại Hội nghị Midway, 1969. Nguồn: Der Spiegel số 50/1979, trang 199

Spiegel: Và ông không nghĩ đó là khởi đầu của việc rút quân toàn bộ?

Nguyễn Văn Thiệu: Không. Tôi đã hình dung được rằng, đó là bước đầu tiên để cắt giảm quân số. Nhưng không bao giờ tôi có thể nghĩ Mỹ sẽ rút hẳn và bỏ rơi Nam Việt Nam. Tôi đã trình bày với Tổng thống Nixon rằng việc cắt giảm quân số sẽ phải tiến hành từng bước, như khả năng chiến đấu và việc tiếp tục củng cố Quân lực Việt Nam Cộng hòa cho phép – tương ứng với những viện trợ quân sự và kinh tế có thể giúp Nam Việt Nam tự đứng trên đôi chân của mình.

Quan trọng hơn, tôi đã bảo ông ấy phải yêu cầu Hà Nội có một hành động tương ứng đáp lại. Phía Mỹ đồng ý với tôi ở mọi điểm; về một sự rút quân từng bước và của cả hai phía…

Spiegel: … và mang tính tượng trưng?

Nguyễn Văn Thiệu: Tôi hiểu rõ rằng cuộc chiến ở Việt Nam cũng là một vấn đề đối nội của Hoa Kỳ. Và Tổng thống Nixon giải thích rằng ông ấy cần một cử chỉ tượng trưng để giải quyết vấn đề đó. Trước đó một tuần tôi đến Seoul và Đài Loan, tôi đã nói với Tổng thống Park Chung Hee và Tổng thống Tưởng Giới Thạch rằng tôi hy vọng việc rút quân sắp bàn với Tổng thống Nixon ở Midway chỉ là một sự cắt giảm quân số mang tính tượng trưng. Song tôi cũng lưu ý rằng nếu Hoa Kỳ muốn rút hẳn thì chúng tôi cũng không thể ngăn cản. Vậy thì đề nghị họ rút quân từng bước, đồng thời viện trợ để củng cố một quân đội Nam Việt Nam hùng mạnh và hiện đại, có thể thay thế người Mỹ, sẽ là hợp lý hơn. Không bao giờ tôi đặt giả thiết là lính Mỹ sẽ ở lại Việt Nam vĩnh viễn.

Spiegel: Mỹ vẫn đóng quân ở Hàn Quốc và Tây Đức mà.

Nguyễn Văn Thiệu: Nhưng chúng tôi là một dân tộc rất kiêu hãnh. Chúng tôi bảo họ rằng, chúng tôi cần vũ khí và viện trợ, nhưng nhiệt huyết và tính mạng thì chúng tôi không thiếu.

Spiegel: Ông đánh giá thế nào về tình thế của ông khi ấy? Vài tháng trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin Laird vừa đưa ra một khái niệm mới: “Việt Nam hóa chiến tranh”. Trước đây người Mỹ chỉ nói đến việc “phi Mỹ hóa” cuộc chiến. Cái khái niệm mới ấy đã thể hiện rõ dự định rút khá nhanh của người Mỹ rồi, đúng không?

Nguyễn Văn Thiệu: Khi đến Sài Gòn vào tháng Bảy 1969, ông Nixon đã nhắc lại rằng ông ấy cần được sự hậu thuẫn của dư luận trong nước Mỹ. Tôi hiểu ông ấy. Nhưng ông ấy không hề tuyên bố rằng việc rút quân là một lịch trình mang tính hệ thống do sáng kiến của Mỹ. Ông ấy chỉ nói với tôi về những khó khăn trong nước, ở Mỹ, và đề nghị tôi giúp. Ông ấy bảo: “Hãy giúp chúng tôi giúp ông.” Tôi đáp: “Tôi giúp ông giúp chúng tôi.” Trong lần họp mặt đó, chúng tôi lại tiếp tục bàn về việc rút quân từng bước.

Spiegel: Nhưng không đưa ra một lịch trình cụ thể?

Nguyễn Văn Thiệu: Không. Và ông Nixon lại hứa rằng việc rút quân của Mỹ sẽ phải đi đôi với những hành động tương ứng của Bắc Việt và phải phù hợp với khả năng phòng thủ của Nam Việt Nam cũng như phải phù hợp với việc Mỹ tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho Nam Việt Nam.

Spiegel: Ở thời điểm đó ông có nhận ra rằng nếu thấy cần thì Mỹ cũng sẽ sẵn sàng đơn phương rút quân không?

Nguyễn Văn Thiệu: Có, tôi đã ngờ. Nhưng lúc đó tôi vẫn rất vững tâm và tin tưởng vào đồng minh lớn của chúng tôi.

Spiegel: Có lẽ ông tin thế là phải. Cuốn hồi ký của Kissinger cho thấy khá rõ rằng chính phủ Nixon không thể dễ dàng “đình chỉ một dự án liên quan đến hai chính phủ, năm quốc gia đồng minh và đã khiến 31,000 người Mỹ phải bỏ mạng, như thể ta đơn giản chuyển sang một kênh TV khác.”

Rõ ràng là người Mỹ muốn thoát khỏi Việt Nam bằng con đường đàm phán. Chỉ trong trường hợp cần thiết họ mới muốn đơn phương rút quân. Ông có đưa ra yêu sách nào liên quan đến những cuộc thương lượng giữa Washington và Hà Nội không?

Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi đã chán ngấy chiến tranh và quyết tâm chấm dứt nó qua đàm phán. Chúng tôi yêu cầu những kẻ xâm lăng đã tràn vào đất nước của chúng tôi phải rút đi. Tất cả chỉ có vậy.

Spiegel: Ông đã oán trách rằng sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam năm 1975 chủ yếu là do sau Hiệp định Paris, miền Bắc vẫn được phép đóng quân tại miền Nam. Ông khẳng định rằng mình chỉ chấp nhận sự hiện diện đó của miền Bắc trong quá trình đàm phán, còn sau khi ký kết thì Hà Nội phải rút quân.
Nhưng Kissinger lại khẳng định trong hồi ký rằng ông thừa biết việc Hà Nội sẽ tiếp tục trụ lại ở miền Nam, và cho đến tận tháng Mười 1972 ông cũng không hề phản đối những đề xuất của phía Mỹ liên quan đến điểm này.

8/17/1972 – Sài Gòn, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu trong một cuộc họp với Mỹ cố vấn tổng thống Mỹ Henry Kissinger tại Dinh Độc Lập. Trước đó trong ngày Kissinger đã hội ý với các tư lệnh hàng đầu và các nhà ngoại giao của Mỹ. Hình: Bettmann/CORBIS

Nguyễn Văn Thiệu: Đó là một lời nói dối hết sức vô giáo dục của Kissinger, rằng tôi chấp thuận cho quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam. Nếu ngay từ đầu tôi đã chấp thuận như Kissinger nói thì lúc ông ấy cho tôi xem bản dự thảo, trong đó không có điều khoản nào về việc rút quân của Bắc Việt, tôi đã chẳng phản đối quyết liệt như thế.

Điểm then chốt nhất mà tôi dốc sức bảo vệ, từ đầu cho đến khi kết thúc đàm phán, chính là yêu cầu Hà Nội phải rút quân. Tôi đã tuyên bố rõ với Kissinger là nếu không đạt được điều đó thì không có ký kết.

Sau nhiều ngày tranh luận gay gắt, cuối cùng ông ta bảo: “Thưa Tổng thống, điều đó là không thể được. Nếu được thì tôi đã làm rồi. Vấn đề này đã đặt ra ba năm trước, nhưng phía Liên Xô không chấp nhận.” Tôi hiểu ra rằng chính phủ Mỹ đã nhượng bộ trước yêu sách của Liên Xô, và đó là nỗi thất vọng lớn nhất của tôi.

Spiegel: Có lẽ Liên Xô không thể làm khác, vì Hà Nội không chấp nhận coi Nam Việt Nam là một quốc gia khác, và một thời gian dài họ còn phủ nhận việc họ đã đưa quân đội chính quy vào miền Nam.

Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi đã chiến đấu hơn 20 năm và học được rằng, đừng bao giờ tin lời Nga Xô và Hà Nội. Bắc Việt đóng quân ở cả Lào, Campuchia và Nam Việt Nam, tôi tin rằng một người mù cũng nhìn ra điều đó. Muốn chấm dứt chiến tranh thì chúng ta phải nhìn vào hiện thực chứ không thể chỉ nghe lời kẻ địch.

Spiegel: Ông có lập luận như thế với Kissinger không?

Nguyễn Văn Thiệu: Tất nhiên, và với cả Tướng Haig nữa. Tôi bảo ông ấy thế này: “Ông Haig, ông là tướng, tôi là tướng. Ông có biết một hiệp định hòa bình nào trong lịch sử lại cho phép kẻ xâm lăng tiếp tục đóng quân tại lãnh thổ mà nó xâm lược không? Ông có cho phép Liên Xô vào Hoa Kỳ đóng quân rồi tuyên bố rằng ông đã ký kết thành công một hiệp định hòa bình với Liên Xô không?”

Spiegel: Ông ấy trả lời sao?

Nguyễn Văn Thiệu: Ông ấy không trả lời được. Mà trả lời thế nào cơ chứ, chuyện đó hoàn toàn vô lý. Còn gì mà nói nữa.

Spiegel: Nhưng Kissinger thì có câu trả lời trong hồi ký. Ông ấy viết rằng khó mà bắt Hà Nội rút quân, vì họ hoàn toàn không sẵn sàng từ bỏ trên bàn đàm phán những thứ mà họ không mất trên chiến trường. Nhưng ông ấy cũng nói rằng trong Hiệp định Paris có một điều khoản không cho phép xâm lấn. Ông ấy đi đến kết luận rằng “lực lượng miền Bắc sẽ tự nhiên tiêu hao sinh lực và dần dần biến mất.”

Nguyễn Văn Thiệu: Tôi thấy chính phủ Mỹ và đặc biệt là TS Kissinger không hề rút ra được bài học nào khi phải đàm phán với cộng sản, sau những kinh nghiệm đau thương năm 1954 giữa Pháp và cộng sản Việt Nam và từ Chiến tranh Triều Tiên. Họ cũng không học được gì từ những cuộc đàm phán về Lào và Campuchia và cũng không nắm bắt được là nên xử sự thế nào với cộng sản và cần phải hiểu chiến lược và chiến thuật của cộng sản ra sao.

Tức là ta lại phải trở về với vấn đề rằng, vì sao TS Kissinger, người đại diện cho một quốc gia lớn và tự cho mình là nhà thương thuyết giỏi giang nhất, lại có thể tin rằng quân Bắc Việt đóng tại miền Nam sẽ không xâm lấn. Sao ông ấy có thể tin như vậy cơ chứ?

Ông ấy đủ sức kiểm soát từng tấc đất trên biên giới của Campuchia, và của Lào, và của Nam Việt Nam à? Dù có cả triệu nhân viên quốc tế giám sát, chúng tôi cũng không bao giờ có thể khẳng định là đã có đủ bằng chứng rằng không có xâm lấn. Sao ông ấy lại có thể tin những gì Bắc Việt nói. Ông ấy có thể tin lời cộng sản, nhưng chúng tôi thì không. Vì thế mà tôi đã cương quyết đòi Bắc Việt phải rút quân. Nếu họ thực sự muốn hòa bình thì họ ở lại miền Nam làm gì?

Spiegel: Vậy Kissinger nói sao?

Nguyễn Văn Thiệu: Còn nói gì được nữa? Ông ấy và chính phủ Mỹ chỉ muốn chính xác có một điều: rút khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt và đảm bảo việc trao trả tù binh Mỹ. Họ bảo chúng tôi là họ mong muốn một giải pháp trong danh dự, nhưng sự thực thì họ chỉ muốn bỏ của chạy lấy người. Nhưng họ lại không muốn bị người Việt và cả thế giới kết tội là đã bỏ rơi chúng tôi. Đó là thế kẹt của họ.

Spiegel: Kissinger viết rằng, ngay sau Chiến dịch Xuân-Hè 1972 của Hà Nội, các bên dường như đã đổi vai. Hà Nội đột nhiên muốn đàm phán trở lại, còn Sài Gòn thì muốn đánh cho đến khi giành toàn thắng.

Nguyễn Văn Thiệu: Hoàn toàn vô nghĩa! Ông TS Kissinger hiểu thế nào là chiến thắng? Bắc Việt đã đem chiến tranh vào miền Nam. Chúng tôi yêu cầu họ phải rút quân. Thế là chiến thắng hay sao? Tôi chưa bao giờ yêu cầu Bắc Việt tự coi mình là tù binh của miền Nam. Tôi chưa bao giờ yêu cầu Bắc Việt bồi thường cho tổn thất chiến tranh. Tôi chưa bao giờ đòi hỏi Bắc Việt giao nộp lãnh thổ. Tôi chưa bao giờ đòi có chân trong chính phủ ở Hà Nội. Vậy ông Kissinger hiểu thế nào về chiến thắng và toàn thắng?

Spiegel: Về vấn đề rút quân của miền Bắc, 31 tháng Năm 1971 là một ngày quan trọng. Kissinger cho biết là khi đó, trong các cuộc họp kín, Mỹ đã đưa ra yêu cầu hai bên cùng rút quân. Trong hồi ký, ít nhất ba lần TS Kissinger viết rằng không những ông được thông báo trước, mà ông còn chấp thuận.

Nguyễn Văn Thiệu: Tôi không bao giờ chấp thuận việc rút quân đơn phương. Từ cuộc họp ở Midway, tôi luôn luôn yêu cầu rút quân từng bước và cả hai bên cùng rút. Hoa Kỳ đã thay đổi lập trường và tìm cách ép chúng tôi, với những chiến thuật mà họ thường sử dụng, bằng cách huơ thanh gươm Damocles trên đầu tôi, chẳng hạn họ đem công luận Mỹ ra đe tôi, họ bảo: “Hình ảnh của ông tại Hoa Kỳ hiện nay rất tồi tệ!” Hoặc: “Quốc hội muốn cắt giảm viện trợ.” Vân vân. Họ áp dụng đúng những chiến thuật đã biết, tiết lộ thông tin cho báo giới và đặt tôi trước sự đã rồi.

Nếu tôi từ chối, công luận sẽ quay ra chống tôi: “Ông ta đòi quá nhiều, ông ta sẽ không bao giờ cho Mỹ được rút, ông ta sẽ không bao giờ cho tù binh Mỹ được trở về.” Thế là tôi luôn phải chấp thuận. Không phải tự nguyện, mà miễn cưỡng. Tôi phản đối làm sao được, khi lần nào họ cũng bảo rằng: “Ông mà chống thì sẽ bị cắt viện trợ.”

Spiegel: Kissinger viết rằng trước bất kỳ một quyết định dù dưới hình thức nào, phía Mỹ cũng hỏi ý kiến ông trước.

Nguyễn Văn Thiệu: Vâng, họ hỏi ý kiến tôi, nhưng chắc chắn không phải là để nghe tôi nói “Không”, nếu đó là những quyết định phục vụ cho lợi ích của Hoa Kỳ. Họ ưa gây sức ép hơn, và đạt được gần như mọi thứ bằng cách đó.

Spiegel: Bây giờ Kissinger cay đắng chỉ trích về Chiến dịch Hạ Lào năm 1971. Ông ấy viết rằng, ông đã đồng ý rằng chiến dịch này nhất định phải thực hiện trong mùa khô. Vậy ý tưởng đó ban đầu là của ai?

Nguyễn Văn Thiệu: Của người Mỹ. Trước đó khá lâu, chúng tôi từng có ý định thực hiện, nhưng không đủ khả năng tiến hành một mình. Đến khi phía Mỹ đề xuất thì chúng tôi sẵn sàng đồng ý, để sớm chấm dứt chiến tranh. Chiến dịch đó do liên quân Việt-Mỹ thực hiện và được vạch ra rất rõ ràng: Chúng tôi tác chiến tại Lào, còn phía Mỹ thì hỗ trợ tiếp vận từ Việt Nam và từ biên giới.

Spiegel: Vì sao? Vì Quốc hội Mỹ có luật cấm quân đội Mỹ xâm nhập lãnh thổ Lào?

Nguyễn Văn Thiệu: Vâng, tôi tin là vậy. Nhưng cũng vì chúng tôi không có đủ phương tiện để tiếp tế cho binh lính, và nhất là để cứu thương binh ra ngoài. Việc đó chỉ có thề thực hiện bằng trực thăng, và chỉ phía Mỹ mới có đủ trực thăng. Không có họ thì không đời nào chúng tôi đồng ý thực hiện chiến dịch tại Lào.

Spiegel: Kissinger viết rằng quân của ông gặp khó khăn khi yêu cầu không quân hỗ trợ, vì gần như không có báo vụ viên nói được tiếng Anh.

Nguyễn Văn Thiệu: Hoàn toàn không có vấn đề gì với việc hỗ trợ của không quân. Đôi khi không có thì chúng tôi cũng không lo lắng; chúng tôi có thể dùng pháo binh. Vấn đề là: trong ba ngày mở đầu chiến dịch, phía Mỹ đã mất rất nhiều phi công trực thăng. Vì thế mà họ chần chừ, không bay đúng thời điểm và ở quy mô cần thiết. Điều đó thành ra một vấn đề lớn với quân lực Nam Việt Nam.

Spiegel: Tinh thần binh lính bị suy sụp?

Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi không đem được binh lính tử trận và thương binh ra ngoài. Không phải chỉ tinh thần binh lính, mà cả tiến độ của chiến dịch cũng bị ảnh hưởng.

Spiegel: Kissinger nêu ra một lý do khác. Rằng ông đã lệnh cho các sĩ quan chỉ huy phải thận trọng khi tiến về hướng Tây và ngừng chiến dịch nếu quân số tổn thất lên tới 3000. Kissinger viết rằng nếu phía Mỹ biết trước điều đó thì không đời nào họ đồng ý tham gia chiến dịch này.

Nguyễn Văn Thiệu: Đối với một quân nhân, định trước một tổn thất về quân số là điều phi lý. Nếu TS Kissinger nói thế thì ông ấy thật giàu trí tưởng tượng. Chúng tôi chỉ có thể tiến về phía Tây trong giới hạn mà trực thăng cứu viện có thể bay đến. Kissinger bảo là chúng tôi đã rút quân mà không báo cho phía Mỹ. Làm sao chúng tôi có thể triệt thoái trên 10,000 quân mà họ không hay biết gì?

Spiegel: Tức là ông đã thông báo cho họ?

Nguyễn Văn Thiệu: Ồ, tất nhiên. Để tôi kể cho ông nghe một câu chuyện. Hồi đó tờ Time hay tờ Newsweek có đăng bức hình một người lính Nam Việt Nam đang bám vào càng một chiếc trực thăng cứu viện. Bên dưới đề: “Nhát như cáy”. Tôi chỉ cười. Tôi thấy nó tệ. Không thể ngăn một người lính lẻ loi hành động như vậy được. Nhưng báo chí lại kết tội lính Nam Việt Nam là hèn nhát và đồng thời giấu biến sự thật về tinh thần chiến đấu sút kém của phi công trực thăng Mỹ trong chiến dịch này.

Spiegel: Một điểm gây rất nhiều tranh cãi giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam là vấn đề ngưng bắn. Theo cuốn hồi ký của Kissinger thì ngay từ mùa Hè 1970 chính phủ Mỹ đã thống nhất về việc sẽ đề xuất một thỏa thuận ngưng bắn tại các chiến tuyến hiện có. Kissinger khẳng định rằng ông không chỉ chấp thuận mà còn ủng hộ đề xuất này.

Nguyễn Văn Thiệu: Đúng như vậy, tôi cũng cho rằng ngưng bắn phải là bước đầu tiên để đáp ứng một hiệp định hòa bình. Nhưng ngưng bắn ngay lập tức – và tôi xin nhắc lại: ngay lập tức – thì tôi không bao giờ đồng ý với Kissinger. Tôi bảo, chúng ta phải cân nhắc hết sức kỹ lưỡng việc này. Không thể thực hiện ngưng bắn trước khi tính kỹ việc ai sẽ giám sát việc ngưng bắn, nếu ai vi phạm thì hậu quả sẽ thế nào, hai bên sẽ đóng quân ở đâu, vân vân.

Spiegel: Kissinger viết: “Khi đó chúng tôi vẫn tưởng rằng chúng tôi và Thiệu cùng đồng hành hợp tác.” Phía Mỹ đã không hiểu rằng ông đem những “chiến thuật né tránh” mà “người Việt thường áp dụng với người ngoại quốc” ra dùng.

Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi là một nước nhỏ, gần như mọi thứ đều nhờ ở một đồng minh lớn và vẫn tiếp tục phải xin viện trợ dài hạn của đồng minh đó, không bao giờ chúng tôi lại cho phép mình dùng những thủ đoạn nào đó.

Spiegel: Khi Mỹ đã rút, còn Hà Nội thì được phép tiếp tục đóng quân ở miền Nam, chắc ông phải thấy là ông đã thua trong cuộc chiến này?

Nguyễn Văn Thiệu: Không hẳn, nếu chúng tôi tiếp tục được sự trợ giúp cần thiết từ phía Mỹ, như chính phủ Mỹ đã hứa khi chúng tôi đặt bút ký hiệp định. Ngay cả khi ký, tôi đã coi đó là một nền hòa bình tráo trở.

Nhưng chúng tôi vẫn tin rằng có thể chống lại bất kỳ sự xâm lăng nào của Bắc Việt. Vì hai lý do: Chúng tôi có lời hứa chắc chắn bằng văn bản của Tổng thống Nixon rằng Hoa Kỳ sẽ phản ứng quyết liệt, nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định.

Nguồn: “Kathy Troia to General, 4/8/1975”, 6 lá thư TT Nixon gởi TT Thiệu từ tháng 10 đến tháng 12, 1972. Giải mật 2/1/1990

Spiegel: Mặc dù ông ấy không hề cho biết sẽ phản ứng bằng cách nào.

Nguyễn Văn Thiệu: Thứ hai, chúng tôi được đảm bảo là sẽ có đủ viện trợ quân sự và kinh tế cần thiết để chống Bắc Việt xâm lược. Nếu chính phủ Mỹ thực lòng giữ lời hứa thì chiến tranh có thể kéo dài, nhưng miền Nam sẽ không bị Bắc Việt thôn tính.

Spiegel: Về điều này thì ông và Kissinger ít nhiều đồng quan điểm. Ông ấy viết rằng chiến lược toàn cục có thể sẽ thành công, nếu Mỹ đủ khả năng hành động trước bất kỳ một vi phạm nào của Hà Nội và tiếp tục viện trợ đầy đủ cho miền Nam. Nhưng chuyện gì đã xảy ra? Kissinger quy lỗi cho vụ Watergate, vì sau đó Tổng thống Mỹ không còn đủ uy tín. Ông có nghĩ rằng vụ Watergate thực sự chịu trách nhiệm, khiến tất cả sụp đổ không?

Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không phải là người Mỹ. Tôi không muốn quét rác trước cửa nhà người Mỹ. Nhưng nếu người Mỹ giữ lời hứa thì đó là sự cảnh báo tốt nhất, khiến Bắc Việt không tiếp tục xâm lăng, và chiến tranh có thể sẽ dần chấm dứt.

Spiegel: Nếu Hoa Kỳ giữ lời thì theo ông, hiệp định hoàn toàn có thể thành công?

Nguyễn Văn Thiệu: Tôi cho là như vậy.

Spiegel: Như vậy về tổng thể, Hiệp định Paris không đến nỗi tồi?

Nguyễn Văn Thiệu: Đó chắc chắn không phải là một hiệp định có lợi cho chúng tôi. Nó tráo trở. Nhưng đó là lối thoát cuối cùng. Ông phải hiểu rằng chúng tôi đã ký kết, vì chúng tôi không chỉ có lời hứa của chính phủ Mỹ như tôi đã nói, mà hiệp định đó còn được mười hai quốc gia và Liên Hiệp Quốc đảm bảo.

Spiegel: Trong cuốn hồi ký, TS Kissinger có những bình luận rát mặt về khá nhiều chính khách đầu đàn. Nhưng riêng ông thì bị ông ấy dành cho những lời hạ nhục nhất. Tuy đánh giá cao “trí tuệ”, “sự can đảm”, “nền tảng văn hóa” của ông, nhưng ông ấy vẫn chú tâm vào “thái độ vô liêm sỉ”, “xấc xược”, “tính vị kỷ chà đạp” và “chiến thuật khủng khiếp, gần như bị ám ảnh điên cuồng” trong cách ứng xử với người Mỹ của ông. Vì thế, cuối cùng Kissinger nhận ra “sự phẫn nộ bất lực mà người Việt thường dùng để hành hạ những đối thủ mạnh hơn về thể lực”. Ý kiến của ông về những khắc họa đó thế nào?

Nguyễn Văn Thiệu: Tôi không muốn đáp lại ông ấy. Tôi không muốn nhận xét gì về ông ấy. Ông ấy có thể đánh giá tôi, tốt hay xấu, thế nào cũng được. Tôi muốn nói về những điều đã xảy ra giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam hơn.

Spiegel: Hay ông đã làm gì khiến ông ấy có cái cớ để viết về ông với giọng coi thường như thế?

Nguyễn Văn Thiệu: Có thể ông ấy đã ngạc nhiên vì gặp những người quá thông minh và mẫn cán. Có thể cũng do cái phức cảm tự tôn của một người đàn ông hết sức huênh hoang. Có thể ông ấy không tin nổi là người Việt đối thoại với ông ta lại địch được một người tự coi mình là vô cùng quan trọng.

Để tôi kể thêm một câu chuyện nữa: Ở đảo Midway tôi thấy buồn cười, vì thật chẳng bao giờ tôi có thể hình dung là những người như vậy lại tệ đến thế. Chúng tôi, gồm ông Nixon, ông Kissinger, phụ tá của tôi và tôi, gặp nhau ở nhà một sĩ quan chỉ huy hải quân ở Midway. Ở đó có ba chiếc ghế thấp và một chiếc ghế cao. Ông Nixon ngồi trên chiếc ghế cao.

Spiegel: Như trong phim Nhà độc tài vĩ đại của Chaplin? Hitler cũng ngồi trên một chiếc ghế cao để có thể nhìn xuống Mussolini, ngồi trên một chiếc ghế thấp hơn.

Nguyễn Văn Thiệu: Nhưng tôi vào góc phòng lấy một chiếc ghế cao khác, nên tôi ngồi ngang tầm với Nixon. Sau buổi gặp đó ở Midway, tôi nghe bạn bè người Mỹ kể lại rằng Kissinger đã rất bất ngờ vì Tổng thống Thiệu là một người như vốn dĩ vẫn vậy.

Spiegel: Trong hồi ký, Kissinger phàn nàn là đã bị cá nhân ông đối xử rất tệ; ông bỏ hẹn để đi chơi trượt nước. Nixon còn quá lời hơn. Theo Kissinger thì Nixon đã gọi ông là “đồ chó đẻ” (son of a bitch)(1) mà Nixon sẽ dạy cho biết “thế nào là tàn bạo”.

Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không thể cho phép mình đáp lại những lời khiếm nhã, thô tục đó của Nixon, vì tôi xuất thân từ một gia đình có nề nếp.

Nếu tôi không tiếp TS Kissinger và Đại sứ Bunker thì đơn giản chỉ vì chúng tôi chưa chuẩn bị xong để tiếp tục đàm thoại. Họ đã cần đến 4 năm, vậy vì sao lại bắt tôi trả lời ngay lập tức trong vòng một tiếng đồng hồ? Có lẽ họ sẽ hài lòng, nếu chúng tôi chỉ biết vâng dạ. Nhưng tôi không phải là một người chỉ biết vâng dạ, và nhân dân Nam Việt Nam không phải là một dân tộc chỉ biết vâng dạ, và Quốc hội của chúng tôi không phải là một Quốc hội chỉ biết vâng dạ. Mà tôi phải hỏi ý kiến Quốc hội.

Spiegel: TS Kissinger viết rằng thái độ của ông với ông ấy chủ yếu xuất phát từ “lòng oán hận độc địa”.

Nguyễn Văn Thiệu: Không. Tôi chỉ bảo vệ lợi ích của đất nước tôi. Dĩ nhiên là đã có những cuộc tranh luận nảy lửa, nhưng thái độ của tôi xuất phát từ tinh thần yêu nước của tôi.

Spiegel: Kissinger viết rằng ông ấy hoàn toàn “thông cảm với hoàn cảnh bất khả kháng” của ông. Ông có thấy dấu hiệu nào của sự thông cảm đó không?

Nguyễn Văn Thiệu: Không, tôi không thấy. Tôi chỉ thấy duy nhất một điều, đó là áp lực từ phía chính phủ Mỹ.

Spiegel: Kissinger viết rằng ông không bao giờ tham gia vào các buổi thảo luận về chủ trương chung. Ông ấy bảo rằng ông chiến đấu “theo kiểu Việt Nam: gián tiếp, đi đường vòng và dùng những phương pháp khiến người ta mệt mỏi hơn là làm sáng tỏ vấn đề”, rằng ông “chê bai mọi thứ, nhưng không bao giờ nói đúng vào trọng tâm câu chuyện”.

Nguyễn Văn Thiệu: Hãy thử đặt mình vào tình thế của tôi: Ngay từ đầu tôi đã chấp nhận để chính phủ Mỹ họp kín với Hà Nội. Kissinger bảo là đã thường xuyên thông báo cho tôi. Vâng, tôi được thông báo thật – nhưng chỉ về những gì mà ông ấy muốn thông báo. Nhưng tôi đã tin tưởng rằng đồng minh của mình sẽ không bao giờ lừa mình, không bao giờ qua mặt tôi để đàm phán và bí mật bán đứng đất nước tôi.

Các ông có hình dung được không: vỏn vẹn bốn ngày trước khi lên đường đến Hà Nội vào tháng Mười 1972, ông ấy mới trao cho tôi bản dự thảo mà sau này sẽ được chuyển thành văn bản hiệp định ở Paris, bằng tiếng Anh? Chúng tôi phải làm việc với bản dự thảo tiếng Anh này, từng điểm một.

Và bản dự thảo đó không phải do Nam Việt Nam cùng Hoa Kỳ soạn ra, mà do Hà Nội cùng Hoa Kỳ soạn ra. Các ông có thể tưởng tượng được điều đó không? Lẽ ra, trước hết phía Mỹ nên cùng chúng tôi thống nhất quan điểm về những điều kiện đặt ra cho hiệp định, và sau đó, nếu Bắc Việt có đề nghị gì khác thì Kissinger phải trở lại hội ý với chúng tôi. Nhưng ông ấy không hề làm như vậy.

Thay vào đó, ông ấy cùng Bắc Việt soạn ra các thỏa thuận rồi trình ra cho tôi bằng tiếng Anh. Các ông có thể hiểu cảm giác của tôi khi cầm văn bản của hiệp định hòa bình sẽ quyết định số phận của dân tộc tôi mà thậm chí không buồn được viết bằng ngôn ngữ của chúng tôi không?

Spiegel: Nhưng cuối cùng ông cũng có bản tiếng Việt?

Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi cương quyết đòi bản tiếng Việt, đòi bằng được. Mãi đến phút cuối cùng ông ấy mới miễn cưỡng chấp nhận. Sau đó chúng tôi phát hiện ra rất nhiều cái bẫy. Tôi hỏi Đại sứ Bunker và Kissinger, ai đã soạn bản tiếng Việt. Họ bảo: một người Mỹ rất có năng lực thuộc International Linguistics College tại Hoa Kỳ cùng với phía Hà Nội. Nhưng làm sao một người Mỹ có thể hiểu và viết tiếng Việt thành thạo hơn người Việt. Và làm sao một người Mỹ có thể ứng đối bằng tiếng Việt với cộng sản Bắc Việt giỏi hơn chính chúng tôi? Đồng minh mà như thế thì có chân thành và trung thực không?

Spiegel: Một số quan chức cao cấp ở Hoa Kỳ từng nhận định rằng thực ra Kissinger chỉ cố gắng đạt được một khoảng thời gian khả dĩ giữa việc Mỹ rút quân và sự sụp đổ tất yếu của Nam Việt Nam. Trong cuốn sách của mình, Kissinger bác bỏ quan niệm đó. Ý kiến của ông thì thế nào?

Nguyễn Văn Thiệu: Bất kể người Mỹ nói gì, tôi tin rằng mục đích cuối cùng của chính phủ Mỹ là một chính phủ liên hiệp tại Nam Việt Nam.

Spiegel: Nhưng Kissinger đưa ra cả một loạt điểm để chứng minh rằng không phải như vậy.

Nguyễn Văn Thiệu: Chính phủ Mỹ tìm cách ép chúng tôi phải đồng ý. Để họ có thể hãnh diện là đã thoát ra được bằng một “thỏa thuận danh dự”. Để họ có thề tuyên bố ở Hoa Kỳ rằng: “Chúng ta rút quân về nước, chúng ta đảm bảo việc phóng thích tù binh Mỹ.” Và ở ngoài nước Mỹ thì họ nói rằng: “Chúng tôi đã đạt được hòa bình cho Nam Việt Nam. Bây giờ mọi chuyện do người dân Nam Việt Nam định đoạt. Nếu chính phủ liên hiệp biến thành một chính phủ do cộng sản chi phối thì đó là vấn đề của họ. Chúng tôi đã đạt được một giải pháp danh dự.”

Spiegel: Kissinger viết như sau: “Nguyên tắc mà chúng tôi tuân thủ trong các cuộc đàm phán là: Hoa Kỳ không phản bội đồng minh.”

Nguyễn Văn Thiệu: Ông cứ nhìn miền Nam Việt Nam, Campuchia và toàn bộ Đông Dương hiện nay thì biết. Khi tranh luận với các đại diện chính phủ Mỹ về hiệp định hòa bình, chúng tôi thường có ấn tượng rằng họ không chỉ đóng vai, mà thực tế là đã biện hộ cho ác quỷ.

Spiegel: Có bao giờ ông thấy một chút gì như là biết ơn đối với những điều mà người Mỹ đã làm để giúp nước ông không? Trong cuốn sách của mình, Kissinger viết rằng: “Biết công nhận những cống hiến của người khác không phải là đặc tính của người Việt.”

Nguyễn Văn Thiệu (cười): Về những điều mà Kissinger viết trong cuốn sách của ông ấy thì tôi cho rằng chỉ một người có đầu óc lộn bậy, chỉ một người có tính khí tởm lợm mới nghĩ ra được những thứ như vậy. Trong cuốn sách đó ông ấy còn tỏ ý sợ người Việt sẽ đem những người Mỹ còn sót lại ra trả thù, sau khi Washington bỏ rơi chúng tôi. Không bao giờ chúng tôi làm những điều như thế, không bây giờ và không bao giờ.

Spiegel: Cá nhân ông có cảm thấy một chút hàm ơn nào với họ không?

Nguyễn Văn Thiệu: Hết sức thực lòng: Nếu chính phủ Mỹ không phản bội, không đâm dao sau lưng chúng tôi thì nhân dân Việt Nam mãi mãi biết ơn họ. Có lần, sau khi chúng tôi tranh luận rất kịch liệt về một văn bản trong hiệp định, một số thành viên trong chính phủ của tôi bảo rằng, nếu Kissinger lập công với miền Nam như ông ta đã lập công với miền Bắc thì may mắn biết bao. Tôi bảo họ: nếu ông ấy thương lượng được một nền hòa bình thực sự với Hà Nội thì miền Nam sẽ dựng tượng ông ấy, như MacAthur ở Nam Hàn. Nhưng đáng tiếc là đã không như vậy. Nhìn vào những hậu quả của nền hòa bình ấy: trại tập trung cải tạo, nạn đói, nhục hình tra tấn, hàng ngàn thuyền nhân bỏ mạng trên biển, và một cuộc diệt chủng tàn bạo hơn, hệ thống hơn và hoạch định hơn cả ở Campuchia, tôi nghĩ tốt nhất là người Mỹ nên tự đánh giá những điều mà ông Nixon và ông Kissinger đã gây ra cho miền Nam Việt Nam. Kissinger không có gì để tự hào về nền hòa bình mà ông ấy đã đạt được. Đó là hòa bình của nấm mồ.

Spiegel: Xin cảm ơn ông Thiệu đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.

“Chúng tôi sẽ không bao giờ quên các bạn”: cuộc rút quân đầu tiên của quân đội Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam năm 1969, chỉ là một cử chỉ tượng trưng. Nguồn: Der Spiegel Số 50, 1979, trang 208 
(Nguồn: “Die Amerikaner haben uns verraten“, tạp chí Spiegel số 50/1979. Những người thực hiện: Engel, Johannes K., Lohfeldt, Heinz P.)

DCV Online

Bình luận

Patrick Willay 
To:
PhungSuXaHoi

May 3 at 1:54 PM

Image may contain: 1 person, sitting and outdoor
Image may contain: one or more people, people sitting, people playing musical instruments, people on stage and text
Image may contain: 1 person, sitting
Image may contain: one or more people
Image may contain: 2 people, people standing and suit
+6

Gương Mặt Siti Aisyah Indonesia và Đoàn thị hương Việt Nam khác nhau cái gì ????

Image may contain: 6 people, people standing
Image may contain: 6 people, people standing
Image may contain: 7 people, people standing
Image may contain: one or more people
Image may contain: 4 people, people standing
+3

Phan Công Hải

Gương Mặt Siti Aisyah Indonesia và Đoàn thị hương Việt Nam khác nhau cái gì ????

Hãy nhìn gương mặt của Siti Aisyah, cô gái bị buộc tội sát thủ cũng được tha bổng cùng với Đoàn Thị Hương, người Indonesia trước truyền thông khi cô vừa về tới quê nhà cách nay gần 2 tháng. Một gương mặt buồn với ánh mắt nhìn xuống. Cô trùm khăn theo phong tục và ăn vận đơn sơ.

Cô nói với báo chí trong sự buồn bã “Gia đình tôi và tôi muốn cảm ơn cá nhân ông Jokowi. Tôi cũng cảm ơn tất cả những người đã cầu nguyện cho tôi cho đến bây giờ trở lại Indonesia, tôi không thể nói gì thêm, cảm ơn bạn”

“Tôi chỉ ngủ được khoảng nửa tiếng. Tôi không tài nào ngủ nổi. Mọi thứ dường như là một giấc mơ siêu thực. Tôi vẫn còn đang sốc”, cô nói thêm.

Không có cảnh đi đón cô náo nhiệt tại sân bay ở Jakarta. Cho dù cô phải xuất hiện 3 lần tại 3 cuộc họp với các quan chức chính phủ và truyền thông và chụp hình với quan chức Indonesia, gồm cả Bộ trưởng Ngoại giao Retno Marsudi và Bộ trưởng Luật và Nhân quyền Yasonna Laoly.. Việc phải đối diện với hàng trăm ánh đèn camera và những tràng dài câu hỏi từ truyền thông khiến cô bị quá tải. Bởi theo cô thì cô chưa bao giờ nhận được nhiều sự chú ý như vậy. Kể cả trong các phiên tòa trước, truyền thông cũng chỉ chụp hình cô từ xa.

Cô tiết lộ ” Tôi không thể diễn tả cảm giác lúc này. Có lẽ tôi sẽ nghỉ ngơi, tránh xa mọi ồn ào từ truyền thông. Tôi muốn bình yên bên gia đình”

Gia đình cô cũng chỉ ôm con và khóc.

Những hành vi và thái độ của cô gái Indonesia này cho thấy cô biết suy nghĩ và hành xử đúng mực, có giáo dục cho dù cô chỉ là một người lao động nghèo.

Truyền thông Indonesia cũng chỉ làm nhiệm vụ của họ một cách khách quan nhất.

Tôi cứ suy nghĩ mãi về những gì đã xảy ra với 2 cô gái sát thủ này sau khi họ trở lại cuộc đời. Có lẽ đó là giáo dục.

Nếu ra thế giới với thành tích giáo dục kiểu kỳ thi PISA mà Bộ GD Việt Nam tự hào thì Indonesia kém xa xứ ta. Bởi 42% học sinh xứ họ tham gia kỳ thi trắc nghiệm này có thành tích thấp dưới chuẩn cho phép. Trong khi VN đứng thứ 8 thế giới.

Nhưng chỉ trong một lát cắt này cho thấy Indonesia có nền giáo dục thực chất và trung thực hơn ta. Con người và báo chí của họ trong trường hợp này có liêm sỉ hơn ta nhiều lần. 
(tôi muốn nói tới các báo lá cải)

Và cá nhân tôi tin rằng cô gái Indonesia vô tội, cô có lẽ chỉ bị lợi dụng. Còn với Đoàn Thị Hương, cho dù cô thoát khỏi án tử, song tôi vẫn đặt một câu hỏi to đùng.

Một người lương thiện không thể nhơn nhơn trước sinh mạng của người khác. Bởi nếu có gan làm vậy chỉ là phường bất nhân thất đức mà thôi.