‘Thú tội trên truyền hình’ là ‘ép cung’, ‘vi phạm pháp luật’?

QUÁ ĐÚNG! ĐÓ CÒN LÀ LÀM NHỤC VÀ

CÒN NHIỀU NỮA NHỮNG ĐIỀU ĐÁNG BÀN

Đồng Tâm: ‘Thú tội trên truyền hình’ là ‘ép cung’, ‘vi phạm pháp luật’?
13 phút trước

Ý kiến rằng, thú tội trên truyền hình, như trong vụ Đồng Tâm mới đây, là một hình thức ép cung, và người ép cung có thể bị phạt tù.

Ông Vũ Quốc Ngữ, Giám đốc Tổ chức Người Bảo vệ Nhân quyền (Defend the Defenders) nói với BBC News Tiếng Việt hôm 15/1 rằng, chính quyền Việt Nam có thể đã học từ Trung Quốc hình thức thú tội trên truyền hình và thời gian gần đây đã sử dụng chiêu thức này ngày càng nhiều hơn.

Hiện Tổ chức Defend the Defenders (DTD) đang hợp tác với Tổ chức Safeguard (SD) để thực hiện một nghiên cứu về việc ‘thú tội trên truyền hình’ tại Việt Nam.

Ông Vũ Quốc Ngữ nói với BBC News Tiếng Việt:

“Báo cáo này là sự hợp tác giữa DTD và SD, bắt nguồn từ ý tưởng của SD, vì tổ chức này từng làm một báo cáo tương tự về ‘thú tội trên truyền hình’ ở Trung Quốc. SD muốn DTD cộng tác và chúng tôi thấy có lợi cho phong trào dân chủ và nhân quyền nên nhận lời ngay.”

Theo ông Vũ Quốc Ngữ, “hiện tượng buộc thú tội rồi quay video để đưa lên truyền hình” đã được chính quyền Việt Nam thực hiện “từ những năm đầu thế kỷ 21”.

“Hai trường hợp đầu tiên mà chúng tôi ghi nhận được là luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân (năm 2007).”

“Chúng tôi không có dữ liệu về những trường hợp khác sớm hơn nếu có. Trong thời gian gần đây, có vẻ chế độ cộng sản áp dụng chiêu trò này thường xuyên hơn. Và như chúng ta đã thấy, vụ mới nhất là vào ngày 13/1/2020, bốn công dân làng Hoành (xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội) đã bị đưa lên truyền hình để thú tội.”

“Việc áp dụng hình thức này nhằm mục đích tuyên truyền với dân trong nước và cộng đồng quốc tế, với mục tiêu nói với cộng đồng quốc tế cũng như trong nước rằng, nhân quyền Việt Nam rất tốt, Việt Nam không giam giữ tù nhân lương tâm mà chỉ có những kẻ vi phạm pháp luật.

“Chúng tôi không có dữ liệu về Bắc Hàn và Cuba, nhưng báo cáo trước đây của SD thì nói khá rõ tình trạng này ở Trung Quốc, với quy mô lớn hơn và chiêu thức tinh vi hơn nhiều so với Việt Nam. Có lẽ, lực lượng an ninh ở Việt Nam đã học được những chiêu trò này từ Bắc Kinh,”

‘Bị cấm bởi luật pháp VN’

Theo phân tích của ông Vũ Quốc Ngữ, việc buộc thú tội trên truyền hình là một hình thức ép cung và bị cấm bởi luật pháp Việt Nam.

Ông Ngữ trích dẫn Điều 374 của Bộ luật Hình sự (2015): Tội bức cung. Theo đó, người phạm tội ép cung trong hoạt động tố tụng có thể bị phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm.

“Ngoài ra, Bộ luật Tố tụng Hình sự (năm 2015) cũng có một số điều khoản bảo vệ nghi phạm. Như Điều 13 nói về suy đoán vô tội.

“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật,

“Hoặc Điều 60: Bị can có quyền “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội,” ông Ngữ cho hay.

‘Vi phạmcông ước nhân quyền’

Cũng theo ông Ngữ, ép ‘thú tội trên truyền hình’ vi phạm các công ước về nhân quyền mà Việt Nam đã tham gia, ký kết.

“Thứ nhất, việc này vi phạm quyền được xét xử công bằng. Điều 11 của Tuyên ngôn Nhân quyền phổ quát viết rằng: “Bị cáo về một tội hình sự được suy đoán là vô tội cho đến khi có đủ bằng chứng phạm pháp trong một phiên xử công khai với đầy đủ bảo đảm cần thiết cho quyền biện hộ.”

“Việc ép buộc này thường đi kèm với việc bắt giữ độc đoán, tra tấn và biệt giam. Và đây những điều này vi phạm các công ước quốc tế về nhân quyền. Nhiều người đã bị buộc phải thú nhận những điều mà mình không làm để giữ mạng sống của mình, như trong nhiều vụ án nghiêm trọng, ví dụ như vụ ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang,” ông Ngữ dẫn chứng.

‘Quốc tế cần biết đến sự vi phạm này’
Theo ông Vũ Quốc Ngữ, hình thức “thú tội trên truyền hình” có lợi ích trong ngắn hạn đối với chế độ cộng sản và là lá bài phục vụ mục đích tuyên truyền.

Tuy nhiên, việc này “có hại cho nạn nhân vì nó chính là một bản án không chính thức, ảnh hưởng đến quyết định của toà án sau này, thường là mang tính tiêu cực cho nạn nhân. Tiếp đến, nó sẽ đi theo suốt cuộc đời của họ.”

Chính vì vậy, ông Ngữ cho rằng cần chấm dứt hình thức ‘thú tội trên truyền hình’. Toàn dân và cộng đồng quốc tế cần biết rõ về bản chất vi phạm pháp luật của hình thức này.

“Báo cáo sắp công bố của chúng tôi về tình trạng ‘thú tội trên truyền hình’ ở Việt Nam sẽ cung cấp cho cộng đồng quốc tế tình trạng cụ thể hiện nay,” ông Ngữ nói với BBC News Tiếng Việt qua email.

Các ý kiến khác
Trong khi đó, tác giả Phạm Toàn viết trên Facebook cá nhân rằng, không được sử dụng các lời nhận tội trên truyền hình làm chứng cứ duy nhất để kết tội.

Ngoài Bộ Luật Hình sự, ông Toàn cũng viết rằng, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã quy định rõ “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.

“Điều này nói lên rằng: nếu “chưa được đưa ra xét xử tại tìa án và bị tòa tuyên là có tội” thì việc “nhận tội” của các công dân nói trên không có giá trị pháp lý. Vì rất có thể lời, nhận tội của công dân, bị can, bị cáo “không tương thích” với những chứng cứ khác của vụ án”, ông Toàn phân tích.

Luật sư Luân Lê cũng có ý kiến trên Facebook cá nhân rằng, việc thú tội trên truyền hình là không đúng nguyên tắc chứng minh và kết tội.

“Nó không đảm bảo là chứng cứ để sử dụng trong vụ án, thậm chí nó còn là chứng cứ chứng minh sự vi phạm của cơ quan tố tụng tại một giai đoạn tố tụng tiếp theo nào đó. Việc thú nhận tội trên truyền hình cũng làm cho bản chất vụ án bị hiểu sai đi, việc chứng minh bị làm cho thay đổi và việc kết tội trở nên là hiển nhiên (vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội).

“Mọi chứng cứ và việc chứng minh phải qua một quá trình tố tụng và chỉ được xem xét thẩm tra trực tiếp tại phiên toà chứ không phải là cảnh sát,” ông Luân Lê viết.

Một số vụ ‘thú tội trên truyền hình’ ở Việt Nam

Mới đây nhất, hôm 13/1/2020, ba người dân thôn Hoành, trong đó con và cháu ông Lê Đình Kình, người thiệt mạng trong vụ đụng độ với lực lượng cảnh sát tại Đồng Tâm đã lên truyền hình ‘thú tội’ sau biến cố cảnh sát đem quân vào làng Hoành hôm 9/1.

Năm 2019, ông Nguyễn Văn Đông – hung thủ vụ giết gia đình người em do tranh chất đất đai ở Đan Phượng, Hà Nội – cũng xuất hiện trên truyền hình, khai báo hành vi phạm tội với công an. Vụ việc này khi đó đã gây bất bình trong dư luận. Nhiều người cho rằng do công chúng phẫn nộ vì công an đã không làm gì để ngăn chặn vụ thảm sát nên tung ra video này như một cách hóa giải hình ảnh của họ trong mắt công chúng.

Năm 2018, Will Nguyễn – người Mỹ gốc Việt – cũng ‘thú tội trên truyền hình’ sau khi bị bắt trong thời điểm nổ ra cuộc biểu tình phản đối Formosa ở TP Hồ Chí Minh.

Năm 2017, ông Trịnh Xuân Thanh bỗng xuất hiện ‘thú tội’ trên truyền hình, liên quan tới vụ tham nhũng trong ngành dầu khí, sau khi có tin ông đang trốn ở Đức.

Năm 2007, luật sư Nguyễn Văn Đài, nhà bất đồng chính kiến Lê Thị Công Nhân thú tội trên truyền hình.

Ý kiến rằng thú tội trên truyền hình, như trong vụ Đồng Tâm mới đây, là một hình thức ép cung, và người ép cung có thể bị phạt tù.

 

BBC.COM
Ý kiến rằng thú tội trên truyền hình, như trong vụ Đồng Tâm mới đây, là một hình thức ép cung, và người ép cung có thể bị phạt tù.

Mao Trạch Đông đã khiến hơn 500.000 trí thức mắc bẫy chết người như thế nào?

“Tần Thủy Hoàng đáng kể gì? Ông ta chỉ chôn sống 460 nho sĩ, còn chúng ta đã giết cả 46.000 ngàn tên trí thức hủ nho ấy chứ… Chúng ta còn vượt xa ông ta đến cả trăm lần’’. Đó là những lời tự hào của Mao Trạch Đông trong chiến dịch đàn áp trí thức lớn nhất trong lịch sử.

Bắt bớ tầng lớp trí thức trong cuộc vận động chống cánh hữu. (Ảnh sưu tầm từ Internet)

Sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) lên nắm quyền vào năm 1949, Mao Trạch Đông đã tạo ra một bầu không khí sợ hãi và khủng bố bao trùm lên dân chúng. Cuối những năm 1940 đến đầu những năm 1950, Mao huy động nông dân Trung Quốc giết hại tầng lớp “địa chủ”, dẫn đến hàng trăm ngàn đến vài triệu người chết.

Ở một số khu vực, những nông dân bị chính trị hóa của Mao ngang nhiên trở thành thẩm phán, bồi thẩm đoàn, và xử bắn tầng lớp địa chủ. Giữa thời kỳ khắc nghiệt này, các nhà trí thức dường như thiếu một tiếng nói về đảng cộng sản.

Tuy nhiên, tất cả đã thay đổi khi nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Krushchev lên án người tiền nhiệm độc tài Joseph Stalin, điều này như thúc giục Mao hành động, vì Trung Quốc đang vận hành mô hình kinh tế tương tự như của chính quyền Stalin.

“Hãy để trăm hoa đua nở, trăm phái tranh luận”, Mao trích dẫn một bài thơ nổi tiếng của Trung Quốc. Năm 1956, “Phong trào Trăm hoa” do đó được đề ra, nhằm khuyến khích công chúng, đặc biệt là giới trí thức đưa ra phê bình về các lãnh đạo ĐCSTQ và đề xuất giải pháp cho các chính sách quốc gia.

Thủ tướng Trung Quốc thời đó, Chu Ân Lai nói, “Chính phủ cần những lời bình luận từ người dân. Nếu không có những lời phê bình này, chính phủ sẽ không thể hoạt động như một Chế độ Độc tài Dân chủ Nhân dân. Vì vậy mà nền tảng của một chính phủ lành mạnh sẽ bị mất đi … Chúng ta phải học hỏi từ những sai lầm trong quá khứ, tiếp nhận mọi hình thức phê bình lành mạnh, và làm những gì có thể để hồi đáp những phê bình ấy”.

Tuy nhiên, “Phong trào Trăm hoa” chẳng những không có tác dụng khắc phục sai lầm trong các chiến dịch đẫm máu của Mao, mà còn biến thành cuộc công kích lớn nhất trong lịch sử nhắm vào giới trí thức, vì hàng trăm ngàn người muốn nói ra ý kiến coi như đã tự xác định số phận của họ với ĐCSTQ.

Chương Bá Quân bị sập bẫy, bị coi là kẻ cánh hữu số một ở Trung Quốc. (Ảnh: history.dwnews.com)

Những trí thức thuộc các lĩnh vực khác nhau như luật sư, học giả, nhà khoa học, nhà văn,… đã nhanh chóng tham gia vào phong trào. Họ chỉ trích các quan chức cộng sản về mức sống người dân thấp, can thiệp quá mức vào các công việc của họ, bên cạnh đó là “những mô hình rập khuôn Liên Xô mù quáng” với các khẩu hiệu, áp phích và tham nhũng. Hơn nữa, các đảng viên cộng sản đã được hưởng quá nhiều đặc ân khiến họ trở thành một nhóm người khác biệt trong xã hội.

Các tấm áp phích được treo khắp Trung Quốc, tố cáo mọi khía cạnh của chế độ cộng sản và các đảng viên thì bị chỉ trích.

Trong năm 1957, hàng triệu lá thư đã đổ về văn phòng Thủ tướng Chu Ân Lai cũng như văn phòng của các nhà cầm quyền khác. Một số người còn tổ chức các cuộc mít tinh, giăng biểu ngữ, áp phích, và thậm chí xuất bản những bài báo phê bình.

“Những đảng viên, họ chiếm vị trí thuận lợi trong ban lãnh đạo, và có vẻ được hưởng quá nhiều đặc quyền trong mọi lĩnh vực”, trích dẫn từ bức thư của một vị giáo sư đại học.

“Các nhà trí thức nhiệt thành ủng hộ Đảng và công nhận sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng trong vài năm qua mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng vẫn chưa được tốt đẹp và trở thành một vấn đề trong đời sống cần khẩn trương điều chỉnh. Vậy đâu là chìa khóa của vấn đề?

Theo tôi, một đảng lãnh đạo quốc gia không đồng nghĩa với việc đảng đó sở hữu cả quốc gia ấy. Công chúng ủng hộ Đảng, nhưng họ đã quên rằng họ mới chính là chủ nhân của đất nước”, theo một lá thư từ biên tập viên tờ báo Guangming Daily.

Sử gia, nhà phê bình chính sách Mao, Jung Chang nói về phong trào:

“Phải mất một năm trước khi các nhà trí thức có can đảm để đáp lại lời kêu gọi của Mao, trước hết là phê bình mạnh mẽ về các mô hình giáo dục, sau đó rộng hơn về hệ thống chính trị xã hội tổng thể. Xét về hệ thống giáo dục, có những khiếu nại về việc sao chép rập khuôn từ Liên Xô, thiếu hụt các chương trình giảng dạy, bỏ bê các môn khoa học xã hội, quá thực tế hóa chủ nghĩa Mác – Lênin và coi nó như một học thuyết chính thống phải chấp nhận vô điều kiện…

Các phê bình về xã hội chủ yếu tập trung vào vai trò độc tôn của đảng trong tất cả các quyết định, khoảng cách giữa các chuyên gia của đảng và ngoài đảng ngày càng tăng, dẫn đến hiện tượng lạm dụng chức quyền chèn ép tài năng xảy ra ở khắp nơi”.

Sự chỉ trích mạnh mẽ cuối cùng cũng có ảnh hưởng không tốt tới Mao và tay chân của ông, họ đã hành xử vượt ra khỏi phạm vi “phê bình lành mạnh” ban đầu. Sau đó ông đã tuyên bố những bức thư này là “tai hại và không thể kiểm soát được”.

Vì vậy, vào giữa năm 1957, những lời phê bình đã trở thành 1 cái gì đó không thể tha thứ. Những người chỉ trích ĐCSTQ và Mao bị tố cáo là “cánh hữu”, và Phong trào Trăm Hoa đã nhường chỗ cho phong trào Chống Cánh hữu, bắt đầu vào mùa hè năm 1957.

Mao sau đó đã bất ngờ vây bắt họ, đưa đi hành quyết hoặc ép đi lao động cưỡng bức trong các trại cải tạo. Mao sau đó tuyên bố rằng đây là chiến dịch “dụ rắn ra khỏi hang” và ông ta đã chiến thắng. Từ 300.000 đến 550.000 người đã bị liệt vào phe cánh hữu, trong đó có nhiều trí thức, nghệ sĩ, nhà khoa học và nhà văn.

Xử tử những phần tử được liệt vào phản động, gián điệp, cánh hữu. (Ảnh sưu tầm từ Internet)

Chính quyền của Mao được so sánh với triều đại Tần Thủy Hoàng, người đã chôn sống hàng trăm nho sinh hơn 2.000 năm trước.

Tuy nhiên, trong bài phát biểu với các quan chức ĐCSTQ năm 1958, khi nhắc đến Tần Thủy Hoàng, ông nói: “Tần Thủy Hoàng đáng kể gì? Ông ta chỉ chôn sống 460 nho sĩ, còn chúng ta đã giết cả 46.000 ngàn tên trí thức hủ nho ấy chứ. Trong cuộc trấn áp phản cách mạng, chẳng phải chúng ta đã giết cả những tên trí thức phản cách mạng hay sao? Tôi đã tranh luận với những người theo phái dân chủ buộc tội chúng ta là hành động như Tần Thủy Hoàng. Tôi nói rằng họ đã nhầm. Chúng ta còn vượt xa ông ta đến cả trăm lần ấy chứ’’.

Nhiều năm sau đó, vẫn có nhiều người tin rằng Mao Trạch Đông chỉ bắt đầu tấn công những người trí thức sau khi không thể chịu đựng được những lời phê bình quá gay gắt của họ. Tuy nhiên, sự thực hóa ra lại không phải vậy. Con dao đồ tể đã được mài sẵn từ lâu, “dụ rắn ra khỏi hang” chính là để lừa họ rơi vào cái bẫy này.

Thực ra, khi người ta đọc lại các ý kiến đề xuất với ĐCS Trung Quốc, thì không có một ai trong số những người bị buộc tội là “cánh hữu” đề xuất rằng Đảng Cộng sản nên bị lật đổ; tất cả những gì mà họ đề xuất là những lời phê bình với mong muốn có thay đổi tốt đẹp hơn.

Vì điều này mà hàng chục ngàn người đã bị mất tự do, và hàng triệu gia đình đã phải chịu thống khổ. Tiếp theo là các cuộc vận động khác nữa như “giãi bày tâm sự với Đảng”, để moi ra những người có chủ trương cứng rắn, chiến dịch mới “Tân Tam Phản”, nhằm đẩy những người trí thức về nông thôn để lao động khổ sai, và bắt những người cánh hữu đã bị sót trong lần đầu.

Ngày nay, cuộc thảo luận về Phong trào Chống Cánh hữu vẫn bị kiểm duyệt rất gắt gao ở Trung Quốc. Dự án Truyền thông Trung Quốc của Đại học Hồng Kông năm 2009 được coi là “chủ đề nguy hiểm” vì nó liên quan đến tội ác của Mao Trạch Đông và về những thất bại nghiêm trọng trong hệ thống chính trị Trung Quốc.

Theo Epoch Times

M.TINHHOA.NET
“Tần Thủy Hoàng đáng kể gì? Ông ta chỉ chôn sống 460 nho sĩ, còn chúng ta đã giết cả 46.000 ngàn tên…

NHẬT KÝ SAU KHI CHẾT

Image may contain: outdoor

Dương Đức

NHẬT KÝ SAU KHI CHẾT

– Vào một ngày, khi người không còn nữa, đứng cạnh thân xác đang nguội lạnh, cứng đờ người đã thấy… Người ghét ta, nhảy múa vui mừng, người thương ta, nước mắt rưng rưng.

– Ngày Động Quan…thân thể ta nằm sâu dưới lòng đất. Người ghét ta, nhìn nấm mộ niềm vui hiện rõ. Người thương ta, chẳng nỡ quay đầu nhìn lần cuối.

– Ba tháng sau, thân xác ta đang dần trương sình, bốc mùi hôi thối, thuở còn sống ta vô cùng ghét côn trùng, giờ đây giòi bọ đang nhăm nhi cái thân mà ta cả đời nâng niu, tàn sát sinh mạng để cung phụng cho nó đủ thức ngon, mặc đẹp, đắp vào bao nhiêu tiền của.

– Một năm Sau: Thân thể của ta đã rã tan…nấm mộ của ta mưa bay gió thổi…ngày giỗ ta, họ vui như trẩy hội, mở tiệc hội họp ca nhạc, ăn uống linh đình. Người ghét ta, lâu lâu trong buổi trà dư tửu hậu nhắc đến tên ta…họ vẫn còn bực tức. Người thương ta, khi đêm khuya vắng lặng, khóc thầm rơi lệ tìm ai bày tỏ.

– Vài năm sau: Ta không còn thân thể nữa, chỉ còn lại một ít xương tàn. Người ghét ta, chỉ nhớ mơ hồ tên ta, họ đã quên mất gương mặt của ta. Người yêu thương ta, khi nhớ về ta có chút trầm lặng. Cuộc sống xô bồ dần dần làm phai mờ đi tất cả.

– Vài Chục Năm Sau…nấm mộ của ta hoang tàn không người nhang khói, quan tài nơi ta nằm đã mục nát, chỉ còn một mảng hoang vu. Người ghét ta, đã già lú cũng quên ta rồi. Người yêu thương ta, cũng tiếp bước ta đi vào nấm mộ.

– Đối Với Thế Giới Này… Ta đã hoàn toàn trở thành hư vô, không ai biết ta từng tồn tại, bạn bè, đồng nghiệp, người thân, mỗi người một nơi, kẻ già, người chết, những gì ta dùng đã mất, những gì ta để lại rơi vào tay kẻ khác. Ta phấn đấu, hơn thua, tranh giành cả đời, cũng không mang theo được nhành cây ngọn cỏ. Tiền tài, gia sản mà tôi cố giữ, cố thủ đoạn, mưu mô để có cũng không mang được một phần hư danh, vinh dự hão huyền nào.

– Ta nhận ra sống trên đời này, bất luận là giàu sang phú quý hay bần tiện nghèo nàn. Khi nhắm mắt, xuôi tay phải bỏ lại tất cả.

P/s coppy

‘Ngày Buông Bỏ’ (Good Riddance Day)

‘Ngày Buông Bỏ’ (Good Riddance Day)

Huy Phương

“Shred it and forget it! (Xay vụn và quên nó đi!)

“Good Riddance Day” được lấy cảm hứng từ một truyền thống của Nam Mỹ Latinh, trong đó dân chúng, vào cuối năm, nhồi bông con búp bê với những đồ vật tiêu biểu cho những chuyện không vui trong dĩ vãng, và đem thảy chúng vào lò lửa.

Ở Mỹ, sự kiện này diễn ra vào giữa trưa ngày 28 Tháng Mười Hai mỗi năm trên quảng trường Broadway, giữa đường 45th và 46th. Theo truyền thống này, người dân New York lại tụ tập ở quảng trường Time để tham dự “Ngày Buông Bỏ” (Good Riddance Day) với mục đích quên đi những chuyện không hay của năm cũ để đón mừng một năm mới.

Nhiều tờ báo dịch “Good Riddance Day” là “Ngày Bỏ Đi,” nhưng chúng tôi thấy quan niệm “bỏ đi” này của Tây phương gần gũi hay đích thực là mang ý nghĩa và triết lý “buông bỏ” của văn hóa phương Đông, nhất là trong tinh thần Phật Giáo, khuyên con người ta phải “buông bỏ” để có được hạnh phúc! Trong đời sống có ba thứ độc hại là “tham, sân, si,” những thứ chúng ta mang nặng trong lòng, nguyên nhân gây ra bất hạnh và phiền não, ưu tư cho con người. Ham muốn thái quá. Oán ghét giận dữ, thù hận. Tin vào điều nghịch lý, cố chấp.

(Hình minh họa: Getty Images)

Những người bị trầm cảm, khổ đau, tuyệt vọng không gượng dậy được bởi vì trong lòng mang quá nhiều gánh nặng, ưu tư, và những nỗi buồn, không dứt bỏ hay chạy trốn được, không ít những người cuối cùng đã tìm đến cái chết. Không phải dễ buông bỏ, dầu ai cũng biết người buông bỏ được là người hạnh phúc nhất.

Theo những hình ảnh được ghi lại trong “Ngày Buông Bỏ” này, người ta bỏ những chuyện mình muốn quên đi vào thùng rác hay cho vào cái máy xé giấy “paper shredder!” Đó có thể hóa đơn chưa trả, một cái giấy đòi nợ, tấm ảnh cô bạn gái phản bội, hoặc một điều gì đó khó chịu nhất mà mình muốn dứt bỏ, sẽ viết ra trên những tờ giấy có tiêu đề “Good Riddance Day.” Người có bệnh thì ghi tên bệnh như “Cancer,” “Diabetes,” người sợ mập thì ghi “Gainning Weight,” người nợ nần thì ghi “Credit Card Debt,” “Student Loan,” người thất tình thì ghi “Boyfriend Problem!” Chuyện thương ghét chính trị, thì có thể ghi tên Đảng Cộng Hòa hay tên Tổng Thống Trump, đảng Dân Chủ hay tên Pelosi mà xay nhỏ, nghiền nát, hay thiêu đốt trong lò lửa!

Những tấn giấy xé vụn được tạo ra vào “Ngày Bỏ Đi” này sẽ được gửi đến các nhà máy tái chế gần đó và biến thành các sản phẩm có thể tái sử dụng!

Nhưng tất cả hành động trên đây cũng đều có tính cách tượng trưng vì không ai đốt được món nợ chưa trả xong, bỏ phiền muộn, oán thù vào thùng rác, hay xay nhỏ những xui rủi mà chúng ta đã phải chịu đựng trong năm qua.

Trong ngày truyền thống “bỏ đi” này chúng ta muốn bỏ đi điều gì? Trên đời này có bao nhiêu điều bất như ý, bao nhiều phiền muộn, thất bại, lỡ lầm, khổ đau…nếu không, người ta đã chẳng gọi “đời là bể khổ!” Những muốn thoát ra những điều này quả không dễ, vì chính trong cuộc đời vốn đã có khổ lẫn sướng, hạnh phúc lẫn khổ đau. Trần thế có người tốt kẻ xấu, có người trung hậu thì cũng có đứa gian tà.

Khổ sướng đôi khi hẳn là định mệnh, có muốn bỏ đi, “chạy Trời cũng không khỏi nắng!” Vậy nên Việt Nam mới có câu ca dao than thân trách phận:

 “Gánh cực mà đổ lên non,

Cong lưng mà chạy, cực còn theo sau!”

Khi chúng ta không thể bỏ đi được những chuyện, những vật dụng mà mình không thích, kể cả cái chế độ mà mình đang sống vào cái thùng rác thì chỉ có cách là cao bay xa chạy, kiểu “bỏ của chạy lấy người.” Vì vậy mà sau biến cố 30/4, chúng ta đành phải bỏ lại cả quê hương suốt đời gắn bó, những con người mình yêu thương, những thành phố, những con đường, những căn nhà, góc phố đầy kỷ niệm để ra đi. Chúng ta thật ra chưa hề vứt bỏ nó, mà mang nó theo suốt cả cuộc đời còn lại, như ai đó đã nói câu: “chúng ta đi, mang theo quê hương!”

Nếu trên đời này, ví như chúng ta có thể bỏ hẳn cái mình không thích, cái mình ghét bỏ kể cả những chuyện khổ đau, xui rủi, thì hẳn là cuộc sống chúng ta đã hạnh phúc hơn. Trong đời sống chúng ta mang ám ảnh của khổ đau nhiều hơn là hào quang của hạnh phúc. Chúng ta nhớ gì những giây phút sung sướng và vui tươi trong cuộc đời, hay mãi mang theo những hoài ức và những ấn tượng đau buồn, tuổi thơ bất hạnh, chiến tranh tàn khốc, đời sống đọa đày, theo thời gian, ám ảnh chúng ta vào mãi trong từng giấc mộng.

Trong thế gian, chúng ta mong có nhiều ngày buông bỏ, để tập buông bỏ chuyện đời.

Nhưng không dễ gì ai cũng có thể buông bỏ được, bởi vậy có những điều muốn quên mà quên không được, không muốn nhớ mà vẫn nhớ đời. Chúng ta vẫn không muốn buông bỏ như người bị bệnh lú lẩn, quên được chuyện hôm nay mà nhớ rất rõ chuyện ngày xưa.

Người khuyên ta quên đi hận thù, hận thù đôi khi cũng phải khắc ghi, nếu không ta đã chẳng phải là con người. Buông bỏ hết thì đôi khi mình chẳng còn nhớ mình là ai, một ngày nào đó, quên vì sao ta phải đến đây.

Thôi, ai buông bỏ được thì thành thánh nhân. Không buông bỏ được thì cũng ráng thành người, nhớ những điều cần nhớ, và hãy quên đi những chuyện đáng quên! 

Huy Phương

Khủng hoảng toàn diện về niềm tin – bước cuối cùng.

8 hrs

Image may contain: 9 people, people smiling, crowd
Nguyễn Đình Ngọc

 

Khủng hoảng truyền thông – bước thứ nhất

Khủng hoảng chính trị – bước thứ hai

Khủng hoảng ngoại giao – bước thứ ba

Khủng hoảng kinh tế – bước thứ tư

Khủng hoảng toàn diện về niềm tin – bước cuối cùng.

Tất cả do người CSVN tạo ra từ vụ Đồng Tâm. Đừng đổ thừa cho bất cứ một người dân nào cả.

MẬT MÃ CỦA HẠNH PHÚC 

MẬT MÃ CỦA HẠNH PHÚC 

 Hạnh phúc là một đề tài luôn khiến cho con người mơ hồ, hạnh phúc rốt cuộc là gì?  Mỗi một người có một cách lý giải định nghĩa hạnh phúc khác nhau.  Giới khoa học cũng không ngừng khám phá…

 Tiến sĩ Howard Dickinson tại khoa triết học của trường đại học Columbia đã tiến hành khảo sát với 121 người tự xưng là hạnh phúc nhất thế giới.  Cuối cùng đưa ra kết quả là trên thế giới này có hai loại người hạnh phúc nhất: Một là những người bình thường sống đạm bạc yên tĩnh, hai là những người nổi tiếng thành công.  Hai mươi năm sau, ông lại một lần nữa phỏng vấn 121 người này, kết quả khiến cho ông rơi vào trầm tư suy nghĩ…

 Hạnh phúc của một người phụ thuộc vào điều gì?

 Tháng 4 năm 1988, Howard Dickinson 24 tuổi.  Đề mục luận văn tốt nghiệp của ông có tên là “Hạnh phúc của con người phụ thuộc vào điều gì?”

 Vì muốn hoàn thành đề mục này ông đã phân phát 10.000 bảng câu hỏi cho người dân trong thành phố, trên đó có ghi chi tiết dữ liệu định danh cá nhân, còn có năm hạng mục trắc nghiệm:

 Vô cùng hạnh phúc

Hạnh phúc

Bình thường

Thống khổ

Vô cùng thống khổ

 Trong hơn hai tháng, cuối cùng Howard Dickinson đã thu hồi được hơn 5.200 bảng câu hỏi hợp lệ.  Sau khi thống kê, chỉ có 121 người nghĩ rằng họ vô cùng hạnh phúc.  Howard Dickinson tiến hành một cuộc khảo sát và phân tích chi tiết về 121 người này.  Ông thấy rằng 50 trong số 121 người này là những người thành công trong thành phố và hạnh phúc của họ chủ yếu là do thành công trong sự nghiệp mang đến.  71 người khác là bà nội trợ bình thường, nông dân bán rau, nhân viên nhỏ trong công ty, và thậm chí là những người vô gia cư đã nhận được trợ cấp.  Những người có cuộc sống bình thường đạm bạc này làm thế nào có thể sở hữu hạnh phúc lớn lao đến thế?

 Qua điều tra thực tế của tiến sỹ Howard Dickinson thì điều kiện sống của 121 người rất khác nhau, khiến ông cảm thấy rất thú vị.

 Qua nhiều lần tiếp xúc và trao đổi với những người này, Howard Dickinson phát hiện rằng, mặc dù nghề nghiệp của họ đa dạng bất đồng nhưng bản thân họ lại có một điểm chung.  Đó chính là họ không có yêu cầu quá cao hoặc quá nhiều đối với vật chất.  Họ sống rất đơn giản và yên bình, vừa lòng với hiện tại.  Kết quả của cuộc khảo sát này khiến Howard Dickinson rất hứng khởi, vì vậy ông đã viết ra tổng kết luận văn như thế này:

  “Trên thế giới này có hai loại người hạnh phúc nhất:

Một là những người sống đạm bạc yên bình, hai là những người thành công nổi tiếng.

 Nếu như bạn là một người bình thường, thì thông qua việc tu luyện nội tâm, giảm bớt dục vọng bạn cũng có thể đạt được hạnh phúc.  Nếu như bạn là một người thành công nổi tiếng thì bạn có thể thông qua việc chăm chỉ, biết thời cơ mà đạt được thành công trong sự nghiệp và thứ hạnh phúc lớn lao nhất.”

 Sau khi giáo sư nhìn thấy luận văn của Howard Dickinson đã vô cùng tán thưởng, phê một chữ “xuất sắc” thật lớn.  Sau khi tốt nghiệp, Howard Dickinson ở lại trường giảng dạy.  Thoáng chốc đã hơn hai mươi năm trôi qua, hôm nay Howard Dickinson đã trở thành một giáo sư nổi tiếng ở Mỹ.

 Vào tháng 6 năm 2009, nhân một cơ hội ngẫu nhiên, ông đã lật lại luận văn tốt nghiệp năm đó.  Ông rất hiếu kỳ không biết điều gì đã xảy ra với những người cảm thấy mình “vô cùng hạnh phúc” năm đó?  Có phải họ vẫn cảm thấy bản thân rất hạnh phúc hay không?  Ông tìm lại địa chỉ liên lạc của những người đó, mất hơn ba tháng một lần nữa làm điều tra.  Kết quả 71 người bình thường năm đó trừ hai người qua đời tổng cộng thu lại được 69 phần bảng câu hỏi.

 Những năm gần đây, cuộc sống của sáu mươi chín người này xảy ra nhiều biến hóa: Một số người trong số họ đã nằm trong hàng ngũ những người thành công, những người khác vẫn sống những ngày bình thường, và số còn lại đang sống trong khó khăn do bệnh tật và tai nạn.  Tuy nhiên, đáp án của họ vẫn như ngày nào, cảm thấy bản thân “vô cùng hạnh phúc.”

 Ngược lại, 50 người thành công nổi tiếng trước kia lại xảy ra biến hóa cực lớn.  Trong đó chỉ có 9 người vẫn lựa chọn giống như lúc đầu, bởi vì sự nghiệp của họ vẫn thuận lợi.  Có 23 người lựa chọn “bình thường”, 16 người sự nghiệp xuống dốc hoặc phá sản lựa chọn “thống khổ”, 2 người còn lại lựa chọn “vô cùng thống khổ”.

 Lật lại cuộc điều tra sau 20 năm, kết quả đã có sự thay đổi đáng kể khiến tiến sỹ Howard Dickinson không khỏi trầm tư suy nghĩ…

 Nhìn vào kết quả như vậy, Howard Dickinson rơi vào trầm tư vài ngày, hai tuần sau, Howard Dickinson viết một luận văn mới đăng trên tờ báo “The Post” với tiêu đề “Mật mã hạnh phúc.”  Trong luận văn của mình, Howard Dickinson đã trình bày chi tiết về quá trình và kết quả của hai cuộc khảo sát.

 Cuối cùng ông tổng kết: “Tất cả cảm giác hạnh phúc dựa trên vật chất đều không thể kéo dài, nó sẽ biến mất khi vật chất biến mất.  Chỉ có sự yên bình và tĩnh lặng trong tâm hồn, niềm vui được sinh ra từ thân tâm mới thật sự là hạnh phúc.”

 Vô số người sau khi xem xong phần luận văn này đều kinh ngạc thốt lên: “Howard Dickinson đã phá giải mật mã của hạnh phúc!”  Bài viết này thu hút sự chú ý rộng rãi, tờ báo “The Post” phải in sáu lần trong một ngày.

 Trong một cuộc phỏng vấn với giới truyền thông, Howard Dickinson tâm sự rằng: “Hơn hai mươi năm trước, tôi còn quá trẻ nên đã lý giải sai hàm nghĩa chân chính của “hạnh phúc.”  Hơn nữa, tôi còn đem quan niệm “hạnh phúc” không chính xác này truyền đạt cho rất nhiều học sinh của tôi.  Hôm nay ở đây, tôi xin chân thành gởi lời xin lỗi đến tất cả học sinh của tôi, cũng xin lỗi “hạnh phúc.”  Tất cả cảm giác hạnh phúc dựa trên vật chất đều không thể kéo dài, nó sẽ biến mất khi vật chất biến mất.  Chỉ có sự yên bình và tĩnh lặng trong tâm hồn, niềm vui được sinh ra từ thân tâm mới thật sự là hạnh phúc.”

 Tất cả những chuyện bi thảm đều có liên quan đến tiền bạc, tất cả những chuyện hạnh phúc đều không liên quan gì đến bạc tiền.

 Theo Soundofhope – Khải Phong biên dịch

Ổ HOẠI TỬ CHÍNH TRỊ BẮT ĐẦU TỪ ĐỒNG TÂM…

Image may contain: one or more people, people standing, crowd and outdoor
8 SÀI GÒN

Ổ HOẠI TỬ CHÍNH TRỊ BẮT ĐẦU TỪ ĐỒNG TÂM…

Mặc dù đều là những vụ cướp đất nhân danh dân tộc, nhưng xét về khía cạnh chính trị, Đồng Tâm rất khác với Lộc Hưng, Thủ Thiêm hay Dương Nội.

Bởi vì Đồng Tâm là một xã anh hùng cách mạng điển hình ở miền Bắc, nơi cung cấp xương máu vật lực cho những cuộc chiến tranh mà thành tích được đảng lấy làm chính danh cai trị.

Bởi vì cá nhân cụ Kình là một đảng viên trung kiên điển hình cho lớp đảng viên già; còn gia đình cụ, ngay cách đặt tên con, Công và Chức, cũng đủ thấy ý nguyện gửi gắm cuộc đời cho đảng.

Những người xuất thân như cụ Kình, gia đình cụ và người làng Đồng Tâm đang là quan chức về hưu, đang là quân nhân, đang là công chức khắp các bộ ngành Hà Nội và chính quyền cả nước.

Họ là những người nhất nhất nghe lời VTV và báo Nhân Dân, và hễ có xung đột liên quan đến chính quyền, thì ngay tức khắc cãi là chính quyền không sai, hoặc có sai cũng chỉ do người thừa hành.

Họ là thành luỹ ủng hộ của chế độ.

Thế nên cách mà chính quyền sử dụng bạo lực để trấn áp Đồng Tâm rồi phỉ nhổ và tước đoạt danh dự của họ không khác gì sư tử tự cắn vào chân, rắn tự ăn thịt đuôi mình.

Ổ hoại tử chính trị bắt đầu từ đó.

HƯNG PHẠM NGỌC

9 kiểu người vô cùng nguy hiểm trong cuộc đời

9 kiểu người vô cùng nguy hiểm trong cuộc đời

1. Người ích kỷ

Tự hào về bản thân đôi khi là một điều tốt. Nhưng nếu quá ngạo mạn về chính mình và tin rằng mình tốt hơn tất cả mọi người xung quanh là điều vô cùng nguy hiểm. Nếu bạn ở cạnh một người thiếu tôn trọng bạn, đúng hơn là họ lấn át và xem thường sự hiện diện của bạn thì tốt nhất bạn hãy chọn con đường là rời xa họ.
Đôi khi quá vô tư mà bỏ quên suy nghĩ và cảm nhận của người khác sẽ là con đường ngắn nhất khiến ai đó tự cô lập chính mình!

2. Người đố kỵ

Những người có bản tính hay ghen tị thường cảm thấy mình xứng đáng được thành công và hạnh phúc hơn người khác. Cho dù bạn có cố gắng để họ hiểu rằng mình cũng là một phần của chiến thắng thì điều đó càng khiến họ phẫn nộ vì sự khiêm tốn và cao thượng của bạn. Kiểu người này bạn nên tránh xa.

3. Người tự phụ

Những người tự phụ thường tỏ ra kiêu căng và tin rằng mình hoàn toàn kiểm soát được mọi thứ. Họ tự tin thái quá về bản thân mình và ít khi coi trọng ý kiến của người khác.

4. Người thích phán xét

Dường như với kiểu người này thì không có gì là đủ. Họ là những “súp – pơ – soi chính hãng” và luôn sẵn mọi ngôn từ để soi mói người khác. Đối với họ, mọi thứ đều có vấn đề.

5. Người thích điều khiển

Người thích điều khiển là những người luôn muốn kiểm soát và lãnh đạo người khác. Họ sẵn sàng “bóc lột” sức lao động của đồng nghiệp để đạt được mục đích của mình.

6. Người nói dối

Chúng ta ai cũng đã từng nói dối và sự thật là không phải lúc nào nói dối cũng xấu. Tuy nhiên, ở cạnh những người hiếm khi nói thật sẽ khiến bạn “loạn” và thiếu sự tin tưởng. Dần dần, bạn sẽ bị ảnh hưởng và mất niềm tin vào cuộc sống.

7. Những người hay “buôn dưa lê”

Kiểu người này thường kém tin cậy nhất và họ dùng miệng lưỡi của mình để biến tấu câu chuyện. Thông tin mà họ truyền đạt thường bị biến đổi qua rất nhiều người. Do vậy, nếu bạn tiếp cận thường xuyên với họ, bạn sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều không chỉ về cách ăn nói mà còn trong suy nghĩ.

8. Những kẻ ăn bám

Những người ăn không ngồi rồi, nhàn cư vi bất thiện sẽ là những người vô cùng nguy hiểm bởi vì một sự nhụt chí của họ sẽ khiến bạn dễ bị lung lay và ảnh hưởng. Đặc biệt nếu bạn đang xây dựng cho mình một kế hoạch phát triển bản thân thì hãy tìm cách tránh xa họ.

9. Người trốn tránh

Kiểu người này ít khi tự nhận trách nhiệm về mình. Thứ họ thích làm đó là chỉ tay vào người khác và không bao giờ chịu thừa nhận họ có lỗi. Cuộc sống không thể tránh khỏi có những mặt đối lập và những kiểu người này chắc chắn vẫn luôn hiện diện. Điều quan trọng nhất là bạn hãy học cách phân biệt và độc lập với ảnh hưởng của họ để không phạm sai lầm và tập trung cho ước mơ của bạn nhé.

Sưu tầm

Anh chi Thụ & Mai gởi