Để con ‘thua ở vạch xuất phát’, người Đức sở hữu một nửa giải Nobel thế giới
Quỳnh Chi
Cha mẹ ngày nay rất coi trọng việc giáo dục con cái. Một số người đã dạy con học thơ, viết chữ, toán, ca hát và khiêu vũ… ngay từ khi con còn đang học mẫu giáo. Ở Đức, việc các bậc phụ huynh ép trẻ em học hành khi chúng chưa đến tuổi đi học bị cấm. (Ảnh: Shutterstock)
Posted by GLN
82 triệu người Đức đã giành được một nửa giải Nobel, còn hơn 6 tỷ người còn lại trên Trái đất chỉ đạt được một nửa còn lại. Rốt cuộc họ làm sao bồi dưỡng được nhiều nhân tài xuất sắc như vậy?
Cha mẹ ngày nay rất coi trọng việc giáo dục con cái. Một số người đã dạy con học thơ, viết chữ, toán, ca hát và khiêu vũ… ngay từ khi con còn đang học mẫu giáo. Tóm lại, trẻ học càng nhiều, cha mẹ càng vui… Đặc biệt, một số cha mẹ sẽ so sánh con cái họ với nhau, rằng con của họ đã viết được bao nhiêu chữ, thuộc bao nhiêu bài thơ…
Nhưng người Đức thì không làm vậy. Họ dám để con “thua ở vạch xuất phát”.
Ở Đức, việc các bậc phụ huynh ép trẻ em học hành khi chúng chưa đến tuổi đi học bị cấm. Tất nhiên, không phải là người Đức không lo lắng gì đến tương lai của con em mà là họ có những lý giải riêng về việc học đối với những đứa trẻ.
Trẻ em ở Đức đi học mẫu giáo ở khắp mọi nơi
Nhà trẻ ở Đức không giống nhiều quốc gia khác, họ không phân lớp rõ ràng, thông thường đều quản lý chung. Ở Đức, trẻ em không đến trường mẫu giáo để học một số tri thức, ví như đọc thuộc lòng, biết chữ, v.v. mà chúng được “chơi” và học ở khắp mọi nơi.
Mỗi ngày sau khi đến nhà trẻ, các bé sẽ tự chơi, tự kết bạn, tự chọn những thứ đồ chơi mà mình thích. Bởi vì đối với trẻ nhỏ thì “chơi” là nhiệm vụ quan trọng. Đôi khi thầy cô sẽ đưa các em đi tham quan những nơi như: tiệm bánh mì, trại trẻ mồ côi, sở cảnh sát và thậm chí là nhà tang lễ, thầy cô sẽ mời người làm việc ở những nơi này chia sẻ một số thường thức cơ bản cho các bé.
Mỗi ngày sau khi đến nhà trẻ, các bé sẽ tự chơi, tự kết bạn, tự chọn những thứ đồ chơi mà mình thích. Bởi vì đối với trẻ nhỏ thì “chơi” là nhiệm vụ quan trọng. (Ảnh: Shutterstock)
Ví dụ: Cho trẻ đến đồn cảnh sát, học cách báo cảnh sát, cách đối phó với người xấu, v.v. hay đến thư viện, học cách mượn sách và trả sách; học cách trả tiền, đi chợ mua đồ, phân biệt các cửa hàng; học cách đi xe buýt, học nhớ đường về nhà; đi đến công viên và học cách nhận biết hoa cỏ cây cối; vào mùa thu hoạch, đi đến các vùng nông thôn để hái trái cây và nấu ăn cùng các giáo viên…
Hình thức giáo dục mẫu giáo này chính là tự do “chơi” và “sống”.
Nếu hỏi trẻ em mẫu giáo ở Đức đã học được những gì, thì những gì chúng đã học được thể hiện ở ba khía cạnh: Thứ nhất, học ý thức xã hội cơ bản; Thứ hai, rèn luyện kỹ năng thực hành của trẻ; Thứ ba, tôn trọng bản chất của trẻ em, bảo vệ cảm xúc và cải thiện trí tuệ cảm xúc của chúng. Những điều này rất khác so với một số trường mẫu giáo ở các đất nước khác.
Dám để trẻ “thua ở vạch xuất phát” và không khai thác quá mức trí thông minh của trẻ
Nhiều bậc phụ huynh có lẽ sẽ nói rằng, nếu chiếu theo loại hình giáo dục mẫu giáo như ở nước Đức, thì trẻ em chắc chắn sẽ “thua ở vạch xuất phát”. Đúng vậy, nhưng người Đức dám để đứa trẻ “thua ở vạch xuất phát”, nguyên nhân là vì trí thông minh của trẻ không thể bị khai thác quá mức.
Họ cho rằng trẻ em nên lớn lên khỏe mạnh và hạnh phúc, nếu phát triển trí thông minh sớm sẽ biến bộ não của trẻ thành một đĩa lưu trữ, điều này sẽ làm giảm trí tưởng tượng và sáng tạo của trẻ.
Thậm chí, để tôn trọng bản tính vui chơi của trẻ em, luật pháp của họ còn cấm việc ép trẻ em học hành khi chúng chưa đến tuổi đi học; Không làm những điều vi phạm quy tắc tăng trưởng của trẻ em, cho phép trẻ tự do phát huy trí tưởng tượng của mình.
Trẻ em nên lớn lên khỏe mạnh và hạnh phúc, nếu phát triển trí thông minh sớm sẽ biến bộ não của trẻ thành một đĩa lưu trữ, điều này sẽ làm giảm trí tưởng tượng và sáng tạo của trẻ. (Ảnh: Shutterstock)
Người Đức bác bỏ việc học hành trước tuổi, hơn nữa càng chú ý bảo vệ trí tưởng tượng của trẻ
Không có gì ngạc nhiên khi người Đức sở hữu một nửa giải thưởng Nobel thế giới, nguyên do là họ đã bác bỏ việc ép trẻ em học kiến thức trước tuổi, để bảo vệ trí tưởng tượng của trẻ. Còn ở các trường mẫu giáo của đất nước chúng ta, rất nhiều kiến thức lớp 1 gần như đã được hoàn thành trước. Việc này khiến quá nhiều thứ được lưu trữ cố định trong não của trẻ, sẽ ảnh hưởng đến trí tưởng tượng của chúng.
Điều này cũng giống như việc cho trẻ em xem TV. Khi một đứa trẻ đã được xem phim hoạt hình “Bạch Tuyết”, nếu bạn yêu cầu nó vẽ bức tranh về Bạch Tuyết, thì rất có thể đứa trẻ sẽ vẽ hình dáng công chúa Bạch Tuyết như những gì nó đã được xem trên TV. Còn nếu đứa trẻ chưa được xem phim Bạch Tuyết, chúng sẽ biết tưởng tượng hình ảnh công chúa Bạch Tuyết từ những mô tả trong câu chuyện cổ tích mà chúng đã được nghe, và sẽ vẽ Bạch Tuyết theo trí tưởng tượng của riêng mình. Khi này, những bức tranh được vẽ tất nhiên sẽ đa dạng, phong phú, không cố định ở một hình mẫu Bạch Tuyết trên phim hoạt hình ở TV.
Theo người Đức, nếu ép trẻ học hành sớm, kiến thức cơ bản của trẻ có thể sẽ vững chắc, nhưng trí tưởng tượng và khả năng tư duy độc lập của chúng thì đã bị phá hủy.
Các bậc cha mẹ, bạn có nghĩ rằng bạn có thể để con bạn “thua ở vạch xuất phát” không?
Quỳnh Chi biên dịch
From: NGOC PHAN & KimBang Nguyen
Chữ Nhân
Kissinger: kẻ phản bội dân quân VNCH vừa qua đời
Theo Báo Chí Quốc Tế và đài ABC TV
Henry Kissinger, cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ dưới thời chính quyền Nixon và Ford, người được cho là một trong những nhà hoạch định chính sách đối ngoại có ảnh hưởng và gây tranh cãi nhất ở Hoa Kỳ thời hậu chiến, đã qua đời. Anh ấy đã 100 tuổi. Thông tin này đã được công ty tư vấn của Kissinger xác nhận vào tối thứ Tư.
Kissinger Associates, Inc. cho biết trong một tuyên bố hôm thứ Tư, Kissinger sẽ được an táng tại một buổi lễ gia đình riêng và sẽ có lễ tưởng niệm vào một ngày sau đó tại thành phố New York.
Bức Tử VNCH năm 1975
Dựa theo đoạn văn ghi trên về ” sự ám ảnh với bí mật ngoại giao cá nhân” của ông Kissinger veef“ về hồ sơ năm 1975″, có thể hiểu ” bí mật ngoại giao” này là chuyến đi bí mật đến Bắc Kinh vào mùa Hè 1971 của TS Kissinger.
Theo biên bản cuộc họp giữa TS Kissinger và TT Chu Ân Lai, ông Kissinger hứa hẹn Mỹ sẽ chấm dứt chiến tranh và rút quân khỏi Việt Nam theo như yêu cầu của Thủ tướng (Chu Ân Lai) – ” I can assure you that we want to end the war in Vietnam through negotiations, and that we are prepared to set a date for the withdrawal of all our forces from Vietnam and Indochina as you suggested before “ – « Sate.Gov/ Memorandum of Conversation, Beijing, July 9, 1971 »; Về “ hồ sơ 1975 “ với kết quả cuộc ” bí mật ngoại giao cá nhânl” đã dẫn đến VNCH bị bức tử vào năm 1975.
Tướng Westmoreland đến Nam Cali và dành cho đài Radio Little Sài gòn cuộc phỏng vấn về vụ Tết Mậu Thân 1968 – và vụ tiến quân ra Bắc, do MC Việt Dũng phỏng vấn 9/1995, sau đó bài phỏng vấn được loan tải trên báo Hồn Việt (SD-Cali) 10/1995:
Tướng Westmoreland: “Chúng tôi đã biết trước cuộc tổng công kích sẽ xảy ra. Và tôi sẽ thú tội với mọi người khi nghĩ lại, là tôi đáng lý ra đã phải loan báo những tin tức này đến mọi người... Ông Averell rất là cứng rắn khi cho rằng cuộc chiến không được lan rộng ra khỏi lãnh thổ miền Nam và điều này đã trở thành chủ trương của Hoa Kỳ trong suốt thời gian tham gia cuộc chiến tại miền Nam, là chúng ta không được phát triển cuộc chiến ra ngoài phạm vi lãnh thổ này. Chúng tôi đã có những cuộc xâm nhập bí mật vào đường mòn HCM và tấn công những đơn vị Bắc Việt dùng con đường này để tiếp tế cho Miền Nam, nhưng chúng tôi không bao giờ được quyền đế cắt đứt con đường này dù chúng tôi dư sức làm điều đó, vì con đường mòn này là mạch sống của địch quân và việc cắt đứt con đường này sẽ giảm thiểu các chiến lược của chúng tôi rất nhiều”.
Đài BBC phỏng vấn ông Frank Snepp, trùm tình báo CIA ở Việt Nam và được xác nhận rằng Mỹ bỏ rơi VNCH để lấy Trung Cộng. Ông Frank Snepp nhận định rằng việc bỏ rơi này khởi đầu với Henry Kissinger, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống Richard Nixon, và sau đó Gerald Ford.
Frank Snepp: Kissinger đã bỏ rơi VNCH vì lý do chính trị. Tôi đặt tựa cho cuốn sách mình viết là ‘Decent Interval’ (Khoảng cách Coi được). Tựa đó nhắc đến sự kiện năm 1972, khi Kissinger đàm phán hòa bình, dẫn đến việc ngừng bắn, điều duy nhất ông quan tâm là đưa Hoa Kỳ ra khỏi cuộc chiến, thoát khỏi vũng lầy xấu hổ. Kissinger muốn phải có một khoảng thời gian coi được giữa việc rút quân của Hoa Kỳ ra khỏi VN, và chiến thắng tất yếu sẽ đến của Cộng sản, để Hoa Kỳ không bị đổ lỗi cho việc thất trận.
Khi Kissinger gặp Chu Ân Lai năm 1971 để sắp xếp cho chuyến công du bí mật của Nixon đến Trung Quốc, ông nói với Bắc Kinh rằng nếu có ngừng bắn ở Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ không tái can thiệp quân sự. Và chỉ cần có một khoảng thời gian hợp lý giữa cuộc ngừng bắn đến lúc Hoa Kỳ rút quân, và sự tiếp tục xâm lược của cộng sản, chúng tôi sẽ không quan tâm nếu đồng minh Bắc Việt của quý vị tấn công Nam VN, miễn là họ không tấn công ngay sau khi chúng tôi rút đi. Đó là khởi đầu của lý thuyết ‘Khoảng cách Coi được’ (Decent Interval) mà ngày nay nhiều người nhận định là sự phản bội VNCH của Hoa Kỳ.
Kissinger đến Paris vào mùa hè năm 1972 để đàm phán với Lê Đức Thọ về những gì sau đó trở thành Hiệp định Hòa bình. Lúc đó Kissinger bàn với Nixon rằng nếu mọi thứ chỉ cần kéo dài đến tháng 10 tới, tức vài tháng nữa, hay nói cách khác, qua cuộc bầu cử tổng thống kế tiếp, thì sẽ không ai thèm quan tâm đến điều gì xảy ra cho VN một năm sau đó, tức 1974. Sẽ không ai còn quan tâm và Mỹ thì đã rút khỏi cuộc chiến từ lâu.
Kissinger vẫn hoạt động chính trị trong nhiều thập kỷ kể từ khi còn đương chức và đã đảm nhận vai trò đàn anh được kính trọng đối với một số đảng viên Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ. Ông đã gặp Thống đốc lúc bấy giờ của Alaska. Sarah Palin vào năm 2008 và Mitt Romney được cho là đã nói chuyện qua điện thoại với Kissinger trong chiến dịch tranh cử năm 2012. Kissinger gặp Donald Trump ngay sau khi Trump giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2016 và sau đó hai người gặp nhau tại Nhà Trắng vào năm 2017.
Hillary Clinton, người tranh cử với Trump vào năm 2016, đã gọi Kissinger là “một người bạn” và nói rằng bà “dựa vào lời khuyên của ông ấy” khi giữ chức ngoại trưởng từ năm 2009 đến năm 2013.
Những năm đầu
Cựu ngoại trưởng tên khai sinh là Heinz Kissinger ở Fuerth, Đức, vào ngày 27 tháng 5 năm 1923. Cha mẹ ông, Louis và Paula Kissinger, đã trốn khỏi Đức Quốc xã và di cư sang Hoa Kỳ vào năm 1938, và chính tại quốc gia mới được ông tiếp nhận, con trai của một giáo viên người Đức gốc Do Thái đã học rất xuất sắc.
Kissinger sau này nói về thời gian trong Quân đội, “Đó là một quá trình Mỹ hóa… Đây là lần đầu tiên tôi không đứng về phía người Do Thái ở Đức, tôi đã có được niềm tin vào Quân đội.”
Ông tiếp tục nhận bằng cử nhân khoa học chính trị tại Đại học Harvard vào năm 1951 và bằng Thạc sĩ và Tiến sĩ của trường đại học này trong những năm sau đó.
Năm 1955, Kissinger được Hội đồng Quan hệ Đối ngoại tuyển dụng để đứng đầu một nhóm nghiên cứu xem xét ý nghĩa của lời kêu gọi “trả đũa ồ ạt” của Ngoại trưởng John Foster Dulles như chiến lược Chiến tranh Lạnh của Hoa Kỳ chống lại Liên Xô. Chiến lược đe dọa hủy diệt hạt nhân tại các thành phố của Liên Xô chỉ vì những vi phạm nhỏ, đã bị Kissinger chỉ trích nặng nề trong báo cáo xuất bản dưới tựa đề “Vũ khí hạt nhân và Chính sách đối ngoại” năm 1957, một cuốn sách bán chạy bất ngờ.

Kissinger sau đó làm cố vấn cho một số cơ quan chính phủ và các viện nghiên cứu, bao gồm Văn phòng Nghiên cứu Hoạt động, Cơ quan Kiểm soát Vũ khí và Giải trừ Quân bị, Bộ Ngoại giao và Tập đoàn RAND, trước khi ông được bổ nhiệm làm cố vấn an ninh quốc gia của Nixon vào tháng 1 năm 1969.
Là cố vấn an ninh quốc gia từ 1969 đến 1975 và ngoại trưởng từ 1973 đến 1977 dưới thời Tổng thống Richard Nixon và Gerald Ford, Kissinger đã cung cấp khuôn khổ khái niệm để qua đó những sáng kiến táo bạo như détente (giảm bớt mối quan hệ căng thẳng) với Liên Xô và Chiến lược Các cuộc đàm phán về hạn chế vũ khí (SALT) đã được theo đuổi.
SALT – một loạt các hội nghị song phương và hiệp ước quốc tế giữa Hoa Kỳ và Liên Xô – bắt đầu vào năm 1969 dưới thời Nixon. Hai hiệp ước tương ứng – được hai nước ký kết vào năm 1972 và 1979 – đặt ra giới hạn về số lượng tên lửa đạn đạo tầm xa mà mỗi bên có thể sở hữu và sản xuất.
Kissinger cũng tìm cách mở rộng quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Một trong những thành công lớn nhất của mình là Kissinger đã sắp xếp một chuyến thăm cấp nhà nước giữa Nixon và lãnh đạo Trung Quốc Chu Ân Lai vào năm 1972. Những nỗ lực này đã dẫn đến Thông cáo Thượng Hải, trong đó đưa ra những hướng dẫn về bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Kissinger cũng là người có công trong việc chấm dứt Chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên, một cách mà ông nhắm đến để giải quyết xung đột là thông qua các vụ đánh bom bí mật vào Campuchia và thủ đô Hà Nội của Việt Nam cũng như một cuộc xâm lược trên bộ vào Campuchia vào năm 1970 trong một nỗ lực rõ ràng nhằm gây áp lực lên các lực lượng Bắc Việt hoạt động giữa hai nước…
Tuy nhiên, sau khi Kissinger và lãnh đạo Bắc Việt Lê Đức Thọ gặp nhau bí mật nhiều lần ở Paris, họ đã đàm phán một hiệp định Paris đình chiến ngắn ngủi. Điều này dẫn đến việc hai nhà lãnh đạo nhận được giải Nobel Hòa bình năm 1973, mặc dù Thọ từ chối giải thưởng.
Theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ , hơn hai năm sau, 30 sư đoàn Bắc Việt đã chinh phục miền Nam Việt Nam, chấm dứt xung đột một cách chóng vánh .
…
Theo Isaacson, để làm chứng trước Quốc hội khi các lực lượng cộng sản đang hoàn tất việc tiếp quản Campuchia vào năm 1975, Kissinger thừa nhận rằng Hoa Kỳ đã nhẫn tâm coi thường Campuchia trong khi cố gắng đạt được các mục tiêu của mình ở Việt Nam. Kissinger nói: “Tội lỗi, trách nhiệm của chúng tôi, hay bất cứ điều gì bạn có thể gọi nó đối với người Campuchia là chúng tôi đã tiến hành các hoạt động của mình ở Campuchia chủ yếu để phục vụ các mục đích của chúng tôi liên quan đến Việt Nam và giờ đây họ đã bị bỏ rơi trong một hoàn cảnh rất khó khăn.”
Tuy nhiên, nhiều năm sau Kissinger đã nhận xét với Time rằng: “Nếu không có sự xâm nhập của chúng tôi, những người cộng sản đã chiếm được Campuchia nhiều năm trước đó”.
Di sản đang được xem xét kỹ lưỡng
Về cuối đời, lời kêu gọi Kissinger phải ra làm chứng hoặc chịu trách nhiệm về những quyết định của mình khi còn đương chức ngày càng lớn hơn.
Năm 2001, nhà báo người Anh Christopher Hitchens xuất bản cuốn “Vụ xét xử Henry Kissinger”, trong đó ông lập luận rằng Kissinger đã cho phép các chính trị gia tàn bạo liên minh với Hoa Kỳ giết chết hàng nghìn thường dân vô tội. Đến năm 2002, những giao dịch trong quá khứ của Kissinger ở Mỹ Latinh khi còn đương chức dường như quyết tâm ám ảnh ông, nếu không muốn nói là hủy hoại danh tiếng của ông.
Sau đó đã có lệnh triệu tập Kissinger ở năm quốc gia để tìm kiếm thông tin về vai trò của ông trong Chiến dịch Condor (ở Nam Mỹ), một âm mưu bị cáo buộc giết người, tra tấn và bắt cóc do các nhà độc tài Mỹ Latinh tổ chức vào những năm 1970, kéo dài qua biên giới Chile, Argentina, Paraguay, Brazil. , Bolivia và Uruguay. Với tư cách là cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Nixon, Kissinger bị nghi ngờ là có đầy đủ kiến thức về hoạt động này.
Cuộc tranh cãi lại bùng lên vào năm 2010 khi một bức điện đề ngày 16 tháng 9 năm 1976 được giải mật và phát hành bởi các cơ quan báo chí. Trong bức điện, Kissinger dường như đã từ chối đưa ra cảnh báo được đề xuất cho chính phủ Uruguay về các hoạt động của Condor và ra lệnh rằng Bộ Ngoại giao “không thực hiện thêm hành động nào về vấn đề này”, theo Los Angeles Times .
Nhưng Kissinger cho biết ngay sau khi công bố bức điện rằng ý nghĩa của nó đã bị “bóp méo” và nó chỉ nhằm mục đích phản đối một cách tiếp cận cụ thể đối với chính phủ Uruguay chứ không hủy bỏ kế hoạch đưa ra cảnh báo cho các quốc gia khác bị nghi ngờ tham gia vào mạng lưới Condor. LA Times đưa tin.
Trong một cuộc phỏng vấn với George Stephanopoulos của ABC News vào tháng 7 năm 2022, Kissinger đã bình luận về những tranh cãi xung quanh thời gian ông nắm quyền.
“Nixon và tôi, chúng tôi có xu hướng không ủng hộ việc leo thang. Nhưng chúng tôi cảm thấy rằng nếu phải leo thang, chúng tôi nên leo thang đến mức rất gần với mức mà phía bên kia có thể chấp nhận để tránh rơi vào tình thế khó khăn. một cuộc chiến tranh hạt nhân thông qua một loạt các bước nhỏ. Bước cuối cùng hóa ra là hạt nhân.”
Kissinger, khi được hỏi trong cuộc phỏng vấn về bất kỳ quyết định chính sách quan trọng nào mà ông sẽ rút lại, đã nói: “Tôi chưa đưa ra được câu trả lời tuyệt vời nào cho vấn đề đó. Bởi vì tôi đã suy nghĩ về những vấn đề này suốt cuộc đời mình. Đó là sở thích của tôi… đó là của tôi.” nghề nghiệp. Những khuyến nghị tôi đưa ra là điều tốt nhất mà tôi có thể làm được lúc đó.”
Ông Kissinger với Tổng thống Richard M. Nixon tại New York vào tháng 11 năm 1972 sau khi ông Kissinger trở về sau cuộc đàm phán bí mật ở Paris với nhà đàm phán Bắc Việt Lê Đức Thọ trong Chiến tranh Việt Nam.Tín dụng…Báo chí liên quan
Cuộc sống sau khi rời bỏ vị trí trong chính phủ
Sau khi rời chính phủ vào năm 1977, Kissinger thành lập một công ty tư vấn, Kissinger Associates, và yêu cầu những khoản thù lao lớn với tư cách là một diễn giả. Ông là thành viên của nhiều ủy ban tổng thống khác nhau và tiếp tục viết các chuyên mục báo chí và đưa ra ý kiến của mình trên truyền hình. Năm 1994, Kissinger được thuê làm cố vấn cho hội đồng quản trị của cả MGM và Credit Lyonnais.
Ngoài giải Nobel Hòa bình, Kissinger còn là người nhận Huân chương Tự do của Tổng thống năm 1977 và Giải thưởng Woodrow Wilson cho Dịch vụ Công cộng năm 2006. Năm 1995, ông được bổ nhiệm làm Chỉ huy Hiệp sĩ Danh dự theo Huân chương Thánh Michael xuất sắc nhất. và Thánh George của Nữ hoàng Elizabeth II.
Nhìn lại cuộc đời và sự nghiệp của mình, Kissinger nói với Stephanopoulos, “Khi tôi 15 tuổi ở Đức, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng một ngày nào đó tôi có thể trở thành ngoại trưởng Hoa Kỳ và có đủ khả năng để làm điều này. Đó là một sự tri ân đáng kinh ngạc đối với nước Mỹ rằng điều này có thể thực hiện được… Tôi là thành viên của một nhóm thiểu số bị phân biệt đối xử, vì vậy điều đó không phù hợp với tư duy nghề nghiệp.”
Anh nói thêm: “Đó là một số phận phi thường – và do đó là nghĩa vụ – phải làm điều tốt nhất mà tôi có thể làm được”. Đến năm 1980, ông nói với tạp chí Time rằng: “Tôi càng rời nhiệm sở lâu, tôi càng thấy mình không thể sai lầm”.
Cựu Ngoại trưởng Mike Pompeo gọi Kissinger là “một hình mẫu phục vụ và một người Mỹ vĩ đại”.
“Ông ấy đã để lại dấu ấn không thể xóa nhòa trong lịch sử nước Mỹ và thế giới”, ông Pompeo viết trong một bài đăng trên X, trước đây là Twitter. “Tôi sẽ luôn biết ơn những lời khuyên và sự giúp đỡ ân cần của ông ấy trong thời gian tôi làm thư ký.”
Kissinger để lại vợ ông, Nancy Maginnes Kissinger, và các con của ông, Elizabeth và David, từ cuộc hôn nhân trước với bà Alfred Kissinger. Tuy nhiên, tại nhiều thời điểm trước cuộc hôn nhân thứ hai, theo người viết tiểu sử của ông, Walter Isaacson, Kissinger đã hẹn hò với các nữ diễn viên Jill St. John, Shirley MacLaine, Marlo Thomas, Candice Bergen và Liv Ullman.
ĐẤT NƯỚC MÌNH
Đất nước mình lạ quá phải không em
Đến tù nhân giờ cũng đầy học thức
Nhiều giáo sư tiến sĩ nơi tù ngục
Chắc thế giới ít nơi nào có được
Đất nước mình kỳ quá phải không em
Có biết bao người lao động chân tay
Dám nghĩ dám làm chế tạo máy bay
Còn Giáo sư, Tiến sĩ cứ chơi hoài
Đất nước mình ngộ quá phải không em
Lương công chức mà xây toàn biệt phủ
Bao ” Đầy tớ ” giờ trở thành tỷ phú
Gánh nợ công để ” Chủ ” gánh hết đời
Đất nước mình rồi sẽ đi về đâu
Nạn tham nhũng cứ hoành hành tác quái
Bao tỷ đồng chảy vào túi những ai ?
Lò Bác Trọng vẫn đốt hoài đâu hết !
NVM (28/11/2023)
Ảnh sưu tầm
60% người Mỹ nghĩ tiền bạc mua được hạnh phúc, nhưng giá bao nhiêu?
November 26, 2023
NEW YORK, New York (NV) – Trên thực tế, khi hầu hết các cá thể trong xã hội có đủ tiền trong ngân hàng, họ đều cảm thấy thoải mái hơn, vì những căng thẳng và các mối lo lắng thường ngày được giảm bớt. Qua đó, mức độ hạnh phúc, một cách tổng quát, được cải thiện.
Các cuộc nghiên cứu chứng minh rằng mức thu nhập nhiều hơn tương quan với mức độ hài lòng trong cuộc sống cao hơn và người Mỹ có xu hướng đồng ý quan điểm này khi có đến sáu trong 10 người nói rằng tiền có thể mua được hạnh phúc, theo một cuộc khảo sát gần đây từ công ty dịch vụ tài chính Empower.
Tuy nhiên, “giá hạnh phúc” như thế không hề rẻ. Khi được hỏi cần bao nhiêu tiền để có được hạnh phúc, người Mỹ cho biết trung bình cần có mức tài sản ròng khoảng $1.2 triệu, theo CNBC cho biết hôm Thứ Bảy, 25 Tháng Mười Một.
Tuy nhiên, thế hệ Millennials (sinh từ 1980 đến 1996) cho biết họ cần có tài sản ròng khoảng $1.7 triệu để có thể hạnh phúc.
Thế hệ X (sinh trong thập niên 1960 và cuối thập niên 1970) sẽ cần khoảng $1.2 triệu và những người thuộc thế hệ Baby Boomer (sinh cuối thập niên 1940 đến cuối thập niên 1950) cũng cho ý kiến tương tự rằng sẽ có hạnh phúc khi mức tài sản ròng khoảng $1 triệu.
(Hình minh họa: Joerg Koch/Getty Images)
Thế hệ Z (sinh trong khoảng 1997 và 2012, thời điểm bùng phát internet) là ngoại lệ. Trong số những thế hệ đạt tuổi trưởng thành trẻ nhất, nhóm Z chỉ cần tài sản ròng trung bình khoảng $487,000 là đủ để có được hạnh phúc tài chính, theo nghiên cứu của Empower.
Những con số vừa nêu cho thấy giá hạnh phúc cao nhất đối với thế hệ Millennials.
Khoảng 72% thế hệ Millennials đồng ý rằng tiền có thể mua được hạnh phúc hơn bất kỳ thế hệ nào khác. Họ cũng là thế hệ liệt kê mức lương hàng năm cao nhất cần có để được hạnh phúc, cao hơn gấp 4 lần so với con số của mọi thế hệ khác.
Đây là mức lương trung bình mà mỗi thế hệ cho rằng họ cần có để được hạnh phúc và ít căng thẳng hơn, theo Empower.
Thế hệ Z: $128,084
Thế hệ Millennial: $525,947
Thế hệ X:$ 130,344
Thế hệ Baby Boomers: $124,165
Những người được hỏi cho biết mức thu nhập trung bình hàng năm là $95,000 một năm sẽ khiến họ bớt căng thẳng hơn.
Mặc dù nói rằng cần phải kiếm được mức lương cao hoặc có tài sản ròng rất cao để cảm thấy hạnh phúc, nhưng ngay chính những điều đó không phải là điều khiến hầu hết người Mỹ hạnh phúc.
Thay vào đó, việc thanh toán tất cả các hóa đơn đúng hạn và đầy đủ sẽ xác định hạnh phúc tài chính cho 67% người Mỹ, Empower nhận thấy.
Không mắc nợ, 65% và tận hưởng những tiện nghi nhỏ nhặt hàng ngày, 54%, là hai cách phổ biến nhất mà người Mỹ cho rằng họ có thể hạnh phúc về mặt tài chính.
Nói chung, hầu hết người Mỹ đều hạnh phúc với 75% xếp hạng mức độ hạnh phúc tổng thể của họ ở mức 7 hoặc cao hơn trên 10.
Nhưng tài chính là lĩnh vực mà người Mỹ tìm thấy có thể thay đổi để tìm hạnh phúc nhiều nhất, theo Empower. (MPL)
Thân phận dư thừa của một người trí thức thiên tả, thành phần thứ ba (phần II)
Tác Giả: Nguyễn Văn Lục
Lý Chánh Trung (2011). Nguồn tatrungtravinh.blogspot.ca
Sau 1963, tình thế xã hội, chính trị, quân sự có nhiều dấu hiệu xấu đi. Tình thế mỗi ngày mỗi bi quan tỏ ra lúng túng, rối loạn, không đường lối, thiếu cả chính nghĩa đến tính hợp pháp. Sự bất tài càng rõ nét nơi các nhà lãnh đạo miền Nam sau 1963. Họ thay đổi chính phủ như cơm bửa tạo ra một tình thế bất ổn chính trị.
Nghĩ là có một khoảng trống chính trị về quyền lực nên một năm thay đổi ba bốn chính quyền.
Tâm trạng giới trẻ và giới trí thức rơi vào tinh trạng chán nản và mất tin tưởng hay trăn trở muốn đi tìm một giải pháp cứu nguy miền Nam.
Khuynh tả với thành phần thứ ba xuất hiện như một giải pháp của không giải pháp.
Kể từ đây, gió đổi chiều. Lý Chánh Trung nổi bật lên như một người trí thức tiêu biểu nhất! Trí thức khuynh tả đã ra đời trong hoàn cảnh này và thuộc nhiều dạng, nhiều thành phần, nhiều mức độ.
Có loại như Thích Nhất Hạnh, Thích Trí Quang, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ, Huỳnh Công Minh, Thiện Cẩm. Hầu hết thuộc giới tu sĩ công giáo hay Phật giáo. Cái lợi điểm của những vị này là bộ áo nhà tu – mầu nâu hay mầu đen không đáng kể – mặc bộ áo nhà tu như một thứ lá chắn chính trị không ai dám đụng tới họ. Phần lớn chỉ sau 1975, họ mới ló dạng và cho biết họ là ai.
Có loại trí thức tham gia tích cực như Ngô Bá Thành, Ngô Công Đức, Lý Quý Chung, Trần Ngọc Liễng, Hồ Ngọc Nhuận, Vũ Hạnh, Lý Chánh Trung, Nguyễn Trọng Văn, Lữ Phương, Nguyễn Hữu Hiệp, Trần Hữu Lục, Châu Tâm luân, Ngô Kha, Thế Nguyên.
Họ được coi là trí thức thiên tả và sau tự nhận là trí thức thuộc lực lượng thứ ba -Troisième force – rồi lần lượt ngả theo cộng sản và chịu sự chỉ huy của cộng sản.
Ở miền Trung có Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Mai Văn Lễ, Cao Huy Thuần, Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường mà mức độ ngả theo cộng sản cũng khác nhau. Có theo đậm, có theo một cách chừng mực, nửa chân trong chân ngoài. Loại đông nhất chiếm đa số chỉ lên tiếng phản kháng – trí thức thiên tả – mà không hẳn ngả theo cộng sản.
Thành phần đông đảo chiếm đa số của nhóm trí thức thiên tả là thái độ không nhập cuộc. Có thể gọi chung là trí thức sa lông chỉ nói mà không dám làm, chỉ viết mà không thực sự dấn thân nhập cuộc.
Họ là những trí thức, giáo sư, nhà văn, có cả sĩ quan trong quân đội VNCH. Đứng đầu là Nguyễn Văn Trung rồi kéo theo Trần Bích Lan tức Nguyên Sa, Nguyễn Khắc Ngữ, Diễm Châu, Trịnh Viết Đức, Nguyễn Đông Ngạc, Thảo Trường, Nguyễn Tử Lộc, Đỗ Long Vân, Thái Lãng, Thế Uyên.
Và nhiều tên tuổi khác viết cho Đất nước, Hành Trình như Nguyễn Quốc Thái, Du Tử Lê, Bùi Khải Nguyên, Trần Văn Toàn, Huỳnh Kim Khánh, Bùi Tiến, Sầm Thương, Thế Phong, Nguyễn Tử Quý, Ngô Thế Vinh, Trần Tuấn Nhậm, Võ Hồng Ngự, Nguyễn Quốc Thái, Hoàng Ngọc Biên, Cao Thanh Tùng, Chu Vương Miện, Hương Khê, Thái Lãng, Luân Hoán.
Mặc dầu viết cho Hành Trình, Đất Nước hay Trình Bày, mặc dầu bầy tỏ thái độ băn khoăn có thể bất mãn, họ vẫn có tư thế độc lập.
Những tờ báo cũ. Nguồn: Internet
Nhóm Hành Trình không phải đơn độc. Bên cạnh đó còn có nhiểu nhóm khác như Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng, Phong trào Dân Tộc Tự Quyết, Ủy Ban Vận động Hòa Bình, Phong trào Bảo vệ Hòa Bình, Hạnh Phúc dân tộc và cuối cùng là Lực Lượng Hòa Giải Dân Tộc.
Những phong trào này – dù chỉ là những tên gọi khác nhau – có dấu hiệu cho người ta ngờ vực là con bài của cộng sản như trường hợp Thích Quảng Liên.
Bên cạnh đó còn có những phong trào văn nghệ phản kháng, trở về nguồn như Phong trào Du Ca, Tâm Ca, Da Vàng Ca. Những phong trào văn nghệ này thực chất có thể chỉ là những khát vọng Tuổi trẻ và không có những vận động chính trị hay sự xâm nhập của cộng sản.
Và vì thế, nó được nhiều người trong giới trẻ hưởng ứng tham gia.
Cho nên việc phân định ranh giới rõ rệt các nhóm trí thức khuynh tả không phải là một điều dễ dàng gì.
Nhưng nhìn chung, nhóm Hành Trình được coi là nhóm khuynh tả tiêu biểu. Đa số những người trong nhóm đã ở tuổi trưởng thành, có sự nghiệp vững vàng và họ tham gia với tính cách tự nguyện.
Sợi dây nối kết họ lại với nhau chỉ vì họ có một số quan điểm khá tương đồng có thể gói trọn trong một số ý tưởng nòng cốt sau đây:
– Chống mọi hình thức can thiệp của Mỹ vào miền Nam. Điều mà có thể chính ông Diệm, ông Nhu cũng chủ trương như thế.
– Chống lại cuộc chiến tranh đang diễn ra mà theo họ, đó chỉ là một thứ chiến tranh ủy nhiệm.
– Gián tiếp chống lại chính quyền miền Nam mà theo họ chỉ là tay sai bản xứ do Mỹ chỉ đạo.
– Cổ võ cho một quan điểm Cách mạng Xã hội không cộng sản được gọi là đường lối thứ ba.
Phải nhìn nhận rằng đa số thành viên chính của tờ Hành Trình đểu là người công giáo, nhưng với chủ điểm và đường lối của họ đã tách rời khỏi đường lối chung của Hội đồng Giám Mục Việt Nam cũng như giáo dân Việt Nam.
Nhất là nó đi ngược với đa số người công giáo nói chung.
Trên căn bản, những người công giáo đa số thầm lặng này vẫn khẳng định vị thế đối kháng với chính quyền miền Nam. Nhưng không có nghĩa là ngả theo cộng sản.
Nội dung các bài viết nhất là nhóm Đất Nước, Hành Trình thường bầy tỏ nỗi băn khoăn, trăn trở về thời cuộc, về hiện tình đất nước và muốn tìm ra những giải pháp và hướng đi cho mình.
Đó là các bài viết mang tựa đề như: Cùng nhau cảm thức về một nỗi buồn nhược tiểu, Cách mạng của người nghèo, Độc tài hay dân chủ, Tìm một hướng đi cụ thể cho cuộc cách mạng Việt Nam, Cách mạng và dân chủ.
Nhưng chỉ đến đây là điểm chung, điểm dừng lại, điểm rẽ ngoặc giữa Lý Chánh Trung và Nguyễn Văn Trung.
Họ khác nhau vì thái độ chọn lựa dấn thân, hành động hay không hành động.
Lý Chánh Trung cũng như Nguyễn Văn Trung và có thể nhiều người khác như giáo sư Châu Tâm Luân, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, luật sư Trần Ngọc Liễng đều nhận được những bức thư mật gửi đến họ dưới danh nghĩa sinh viên học trò gửi thầy mà thực sự do cộng sản nằm vùng giật giây. Trong đó, đại diện cộng sản tìm cách thúc dục đặt vấn đề tranh đấu, dấn thân cụ thể thay vì chỉ sống trong môi trường đại học viết bài.
Người thảo ra những bức thư ấy có thể là Trần Bạch Đằng, Phạm Chánh Trực hay Năm Nghị. Sau đó được giao những sinh viên như Trần Thị Lan tiếp xúc các vị trên.
Nhiều người trong số đó đã bị mắc bãy và chính họ – như trường hợp Lý Chánh Trung đã thú nhận.
Lý Chánh Trung viết:
“Chính anh em sinh viên đã kéo tôi ra khỏi tình trạng bất động ấy bằng lời mời gọi của họ. Sự dũng cảm ấy đập vào tim óc mọi người và bắt mọi người phải suy nghĩ.”
Nhất là trong bài viết: Nói chuyện với người học trò, ông ghi lại như sau:
“Theo con nghĩ, cần phải có một hành động cụ thể, kịp thời, không trí thức và hữu hiệu. Hành động cụ thể, kẻ cạn suy xét mới không ngộ nhận hành vi của thầy là một phản ứng nhất thời của lương tâm trí thức, hay một sự hiện diện tượng trưng, coi cho được với lịch sử.
Thầy chỉ suy tư về những nỗi đau khổ, những niềm tuyệt vọng của kẻ khác, mà thầy chưa nằm trong những nỗi đau khổ, những niềm tuyệt vọng đó.”
Thế đứng của thầy vẫn là ở ngoài, ở trên.
Thầy cũng đã suy tư về một cuộc cách mạng theo phương cách nào đó cho một lý tưởng công bằng xã hội mà em biết rằng thầy chỉ đứng ngoài cuộc cách mạng lý tưởng đó thôi.(17)
Đây là những lời lẽ khích động, đánh đòn tâm não, đánh vào tự ái của người trí thức. Lý Chánh Trung đã bị kích động và làm theo sự kích động ấy sau nhiều trăn trở, do dự. Ông đã bị đám sinh viên đằng sau là cộng sản giật giây và mua chuộc.
Và cũng kể từ đây có một Lý Chánh Trung đã lột xác, đã dấn thân, nhập cuộc.
Và cũng kể từ đây chia ngã rẽ với những người như Nguyễn Văn Trung.
Một bên rời bỏ tháp ngà suy tưởng, một bên tiếp tục con đường suy tư, nhưng ngại dấn thân, ngại nhập cuộc.
Và dần dần kể từ năm 1968, Lý Chánh Trung đã có thể tự coi mình là người của Đảng – đã tiếp xúc với người của Mặt trận, đã được đưa lên vùng mật khu, đã nhận chỉ thị, đã viết theo đường lối của Mặt trận.
Thay vì được điều động vào mật khu, Lý Chánh Trung được khuyến cáo ở lại thành phố, quấy phá bằng ngòi bút, có mặt trong các cuộc biểu tình, xuống đường của giới sinh viên.
Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu thời bấy giờ cùng lúc phải đối đầu với hai mặt trận.
Ngoài Sài gòn, cuộc chiến được giải quyết bằng bom đạn, bằng những trận mưa pháo ban đêm vọng về thành phố ngủ không yên giấc vì những tiếng ì ầm. Binh lính ngày đêm phải đối đầu trực diện với cái chết từng ngày, từng giờ.
Trong thành phố là một trận chiến bằng hàng rào kẽm gai, bằng lựu đạn cay và những biểu ngữ, hô hào đủ kiểu.
Và Lý Chánh Trung đứng bên ngoài cổ võ:
“Khóc đi con, khóc cho quê hương của con đã rách nát như áo ăn mày, cho những cánh đồng loang lổ vỉ bom đan, xơ xác vì thuốc khai quang, cho những thành phố tanh ôi mùi tinh trùng Mỹ, cứt đái Mỹ, rác rến Mỹ, đô la Mỹ..
Khóc đi con, khóc cho các anh các chị con đang bị giam cầm, đánh đập mà không ai biết vì tội gì, và sắp được đưa ra xử trước một tòa án mà không ai tin.”(18)
Có nhiều cách móc nối. Và cộng sản đã móc nối được nhiều người, trên dưới cả trăm người.
Tôi không biết ai đã móc nối Lý Chánh Trung mà cứ như những điều ông trình bày thì có thể là học trò. Trường họp Nguyễn Trọng Văn cũng vậy. Riêng Nguyễn Văn Trung thì có ông Thanh Nghị (chồng bà Tâm Vấn) rủ Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Đình Đầu, Nguyễn Ngọc Lan vào khu.
Nguyễn Đình Đâu, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan – những người được rủ vào khu. Nguồn: Internet
Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Đình Đầu từ chối tham gia vào sinh hoạt chính trị. Chỉ có Nguyễn Ngọc Lan nhận lời và đã vào khu.
Những việc móc nối này, theo tôi, ngành mật vụ có thể biết, nhưng để yên, chỉ theo dõi. Bởi vì, theo một sinh viên hoạt động trong nhóm A17, đã có chỉ thị theo dõi và bắt Nguyễn Văn Trung. Nhưng rồi việc đó đã không được thực hiện.
Năm 1968 – Tết Mậu Thân là thời điểm quyết dịnh dứt khoát ai theo, ai không theo cộng sản. Có một lằn ranh rõ rệt, lộ mặt và nhiều khi không còn dấu diếm nữa.
Như Lý Chánh Trung tự thú nhận:
“Trong những năm đó, nhất là từ sau tết Mậu Thân, tôi đã tham gia hầu hết các phong trào đấu tranh công khai tại thành phố.”(19)
Ông xác định rõ hơn:
“Nhưng tôi cũng phải vượt qua nhiều khó khăn trở ngại, và nếu không có sự mời mọc, lôi kéo của những người trẻ tuổi, thì rất có thể tôi đã không tham gia đến mức độ ấy.”(20)
Nhưng những cái chung đó không đủ để nối kết họ làm một.. khi tình thế chuyển biến.
Nguyễn Văn Trung dừng lại ở bình diện nhận thức, phân tích, tra hỏi, bới tìm, chứng minh bằng lý luận.
Lý Chánh Trung viết ít chú ý đến mặt lý luận với nhiều độ cảm tính, viết bằng cả tâm tình, khơi dậy, đánh động và nhất là nhập cuộc, tham gia vào các cuộc biểu tình, xuống đường, và ở cuối đường gia nhập tổ chức cộng sản(21).
Rồi đến 1975 thì kết quả một người bị đi tù, một người được trọng vọng, cất nhắc.
Nhưng số phận sau cùng dành cho họ ra sao. Đó mới là điều quan trọng.
Lý Chánh Trung và nhóm Liên Trường
Nhóm Liên Trường(22) còn được gọi là nhóm Phục Hưng miền Nam. Rất có thể là do những người đứng ra khởi đầu như các ông Nguyễn Văn Lộc, Huỳnh Văn Đạo, Lý Quý Phát. Vả sau đó được sự hỗ trợ của các ông Phan Khắc Sửu, nhất là cụ Trần Văn Hương.
Theo giáo sư Lưu Trung Khảo thì do gợi ý của tướng Mai Hữu Xuân với tướng Trần Văn Đôn như một điều chỉnh lại tình trạng lép vế của người miền Nam so với người miền Bắc.
Sự phục hưng miền Nam thật ra chỉ là đòi quyền lợi, đòi chia ghế, đòi chức vụ mà đăc biệt xảy ra dưới thời cụ Trần Văn Huong – đặc biệt trong ngành giáo dục.
Các trí thức trẻ trong nhóm Liên Trường coi cụ Trần Văn Hương như một mẫu người miền Nam trong sạch, đạo đức, không tỳ vết chính trị. Họ đã ủng hộ cụ trong việc thành lập chính phủ và chỉ thực sự chán nản khi cụ Hương quyết định đứng chung liên danh với ông Nguyễn Văn Thiệu.
Vấn đề Liên Trường mặt trái của nó là vấn đề Nam-Bắc. Mà tiền sử của nó có thể từ thời Đàng Trong và Đàng Ngoài, thời Trinh-Nguyễn kéo dài gần ba thế kỷ.
Nó bắt đầu từ sự khoanh vùng địa lý, sở hữu đất đai và bảo vệ sở hữu đó nên phải đụng đến binh đao. Nhưng để biện minh cho một thứ chính nghĩa thì người ta phải vận dụng đến vấn đề lịch sử, luân lý và ngay cả một số huyền thoại, vấn đề chính tà để biện minh cho những tham vọng của cả hai phía.
Nhà Nguyễn thống nhất ngôi vua chưa đầy 60 năm chưa đủ thời gian để xóa, cào bằng những ranh giới phân biệt địa lý chính trị lịch sử giữa hai miền.
Khi ngưới Pháp chiếm Nam Kỳ, họ đã lợi dụng lá bài Nam-Bắc và chỉ 40 chục năm sau, 1940, họ đã đào tạo được những thành phần tay sai bản xứ có trình độ chuyên môn cho một loại trí thức Nam Kỳ tự trị. Thật sự thành phần này chẳng những kỳ thị Nam-Bắc, còn phân biệt giai cấp giàu-nghèo, giai cấp thống trị-bị trị như một thứ người ngoại quốc trên chính quê hương mình.
Khi người Pháp ra đi thì không có nghĩa là ảnh hưởng văn hóa Pháp không còn nữa. Nó tạo ra một tồn tích mà nay ta gọi là hiện tượng hậu thuộc địa.
Cái chết của Thủ tướng Thinh coi như một lời cảnh cáo cho những ai còn nuối tiếc nó.
Sau 1955, tưởng như vấn đề kỳ thị Nam-Bắc nay nó đã thuộc về lịch sử rồi. Nhưng cuộc di cư 1955 một cách gián tiếp như một cú sốc về văn hóa, xã hội. Cú sốc ấy hiểu được và không tránh khỏi được những đụng chạm phải có.
Ông Diệm có thể là người đã dẹp tan và giải mã được những đợt sóng ngầm ấy.
Sau 1963 – một thời kỳ nhố nhăng, đầy xáo trộn đã tạo dịp cho những cơ mưu chính trị ló đầu lên.
Cái nhen nhúm ấy thật sự chỉ nhằm một thế đứng chính trị chẳng khác gi cái thế đứng dựa vào các tôn giáo lớn như Phật giáo-Công giáo.
Người làm chính trị muốn có cái thế thì phải đi qua cổng nhà chùa hoặc cổng nhà thờ hoặc tính địa phương. Nhiều dân biểu đắc cử vì dựa vào cái thế địa phương của mình.
Theo lời Dương Văn Ba trong Hồi Ký Những ngã rẽ trong chương 5(23), của ông thì vào năm 1965, Lý Chánh Trung có gửi thư mời ba người là: Dương Văn Ba, Trần Bá Phẩm và Lâm Văn Bé đến làng Thủ Đức để dự một buổi họp.
Buổi họp này có đông đủ nhiều cánh miền Nam khác như các ông: Võ Long Triểu, Hồ Ngọc Nhuận, bác sĩ Hồ Văn Minh, Nguyễn Bá Nhẫn, Nguyễn Khắc Thành, Bành Ngọc Quý, Nguyễn Văn Trường, Lê Thanh Liêm, Lê Văn Danh, Lý Quý Chung.
Nói chung phần đông bọn họ tiêu biểu cho trí thức miền Nam được du học ngoại quốc hoặc tốt nghiệp ở Việt Nam.
Buổi họp mặc dầu được tổ chức ở nhà của Lý Chánh Trung, nhưng mọi chuyện ăn uống tố chức do Võ Long Triều đảm nhiệm. Như ăn thịt cừu nướng, uống bia và rượu mạnh. Chắc là do bà Tô Thị Viễn, hiệu trưởng trường anh văn London School thết đãi. Ông Lý Chánh Trung nói: “Tao nghèo không có những thứ này. Đây là của vợ chồng Võ Long Triều lo.”
Hôm đó, trong bữa ăn được coi là rất vui vẻ, ông Võ Long Triều có nói:
“Đã tới lúc anh em mình nên hợp tác làm một cái gì đó có lợi cho dân miền Nam. Không thể để cho nhóm Nguyễn Cao Kỳ muốn làm gì thì làm trên phần đất quê hương của chúng ta.”
Sau đo ông Triều có đề nghị thành lập một mặt trận chính trị công khai hoạt động cho quyền lợi các tỉnh phía Nam. Nhiều người có vẻ tán thành ý kiến của ông Triều. Giáo sư Trần Bá Phẩm hăng hái ủng hộ.
Lý Chánh Trung đưa ý kiến: “mình nên xuất bản một tờ tuần báo và để có ý nghĩa, tuần báo nên đặt trụ sở ở Mỹ Tho.”
Hầu hết mọi người đều đồng ý. Thế là Dương Văn Ba và Trần Bá Phẩm về lại Mỹ Tho mời bác sĩ Trần Văn Tải, đứng tên chủ nhiệm xin giấy phép.
Võ Long Triều gặp Nguyễn Cao Kỳ để xin giấy phép. Chỉ một tuần sau có giấy phép.
Tờ báo lấy tên là: Tiếng gọi Miền Tây với sự cộng tác của Lê Thanh Liêm, Phan Công Minh, Trần văn Nghĩa. Trần bá Phẩm, Nguyễn Ngọc Thạch, Phan Công Minh, Nguyễn Hữu Cầu, Võ Văn Điểm (bút danh Võ Trường Chinh). Đám người này hầu hết là bạn bè Dương Văn Ba lúc còn học ở Đại Học Đà Lạt và sau này hầu hết đều ở lại theo cộng sản. Ngoài ra còn có Âu Trường Thanh, người Gò Công, Trần Ngọc Liễng lo yểm trợ tài chánh.
Ngay sau đó, có phong trào vận động thành lập đại học Cần Thơ.
Kết quả là Nguyễn Cao Kỳ đã mời các nhân vật miền Nam này tham gia nội các chiến tranh.
- Kỹ sư Võ Long Triều, Ủy viên thanh niên
- Giáo sư Nguyễn Văn Trường, ủy viên giáo dục
- Giáo sư Âu Trường Thanh, ủy viên kinh tế
- Trần Ngọc Liễng, Ủy viên xã hội.
Các người khác như bác sĩ Hồ Văn Minh, giáo sư Hồ Ngọc Nhuận được Nguyễn Cao Kỳ giao cho trọng trách chương trình Xây Đời Mới tại quận 8.
CTUBHPTU Nguyễn cao Kỳ, PTT Mỹ Humphrey thăm viếng Quận 8 ngày 10 tháng 2, 1966, “Tôi đã nhìn thấy ở đây cuộc cách mạng xã hội” – Humphrey. Nguồn: Corbis
Hồ Ngọc Nhuận trở thành quận trưởng quận 8 và kéo thêm một số bạn bè như Hồ Công Hưng, Võ Văn Bé, Uông Đại Bằng, phó đốc sự Mai Như Mạnh, luật sư Đoàn Thanh Liêm và bác sĩ Hồ Văn Minh.
Chương trình đang tiến triển tốt đẹp thì Nguyễn Văn Thiệu nắm quyền đã cử đại tá Đỗ Kiến Nhiễu làm Đô trưởng Đô thành Sài gòn-Chợ Lớn.
Ông Đỗ Kiến Nhiễu buộc nhóm Hồ Ngọc Nhuận phải bàn giao lại chương trình kế hoạch Xây Đời Mới và phát triển cộng đồng về cho Đô thành-Chợ Lớn.
Chương trình Xây đời Mới tan thì nhóm này xoay ra làm chính trị, ứng cử dân biểu và đã đắc cử như Lý Quý Chung, Nguyễn Hữu Chung ở quận 1, quận 2, Hồ Văn Minh, Hồ Ngọc Nhuận ở quận 6, quận 8, Ngô Công Đức ở Trà Vinh, Bành Ngọc Quý ở Gò Công, Dương Văn Ba ở Bạc Liêu, Nguyễn Hữu Hiệp ở Đà Lạt.
Tất cả các ứng cứng cử viên này đền nhận được sự yểm trợ tài chánh của Võ Long Triều mà một phần tiền có thể từ Nguyễn Cao Kỳ, năm 1967.
Đây là cách để ông Nguyễn Cao Kỳ ‘cân bằng lực lượng’ với đám đa số dân biểu thân chính do ông Nguyễn Văn Thiệu đứng đằng sau.
Riêng Lý Chánh Trung được bổ nhiệm làm Đổng lý văn phòng Bộ Giáo Dục. Công việc của ông là dọn dẹp một số chức vụ chỉ huy trong ngành giáo dục và Vụ Học Đường Mới.
Việc làm này của Lý Chánh Trung là ném đá dấu tay, chơi cánh Bắc Kỳ mà không dám lộ mặt. Chỉ sau này, tôi mới biết rõ tâm địa của ông, vì hồi đó, ông chối hết. Đó là hành vi hết sức đáng trách mà một người trí thức không bao giờ làm.
Đây là những công việc trực tiếp do Lý Chánh Trung ký giấy tờ, Sự Vụ lệnh thuyên chuyển:
- Thuyên chuyển giáo sư Đàm Xuân Thiều (gốc Bắc) vốn là một nhà giáo gương mẫu, thanh liêm và đạo đức từ Giám Đốc Nha Trung Học đầy lên Ban Mê Thuột.
- Ông Đặng Trần Thường, cũng bị mất chức giám đốc Nha khảo thí cũng bị đầy lên cao nguyên.
Giáo sư Trần Ngọc Ninh nói với tôi rằng chính ông là người đề ra Chương trình Học Đường Mới, có tên là CPS nhằm đưa giới trẻ vào các sinh hoạt ngoài phạm vi nhà trường. Có khoảng 30 gíáo sư nằm trong chương trình này. Ông đang đi dự một Hội Nghị Quốc tế về Giáo dục do Unesco tổ chức tại Bangkok mà lần đầu tiên Nga tham dự. Khi về đến phi trường Tân Sơn Nhất – do áp lực của nhóm Liên Trường áp lực ông Nguyễn Cao Kỳ – buộc giáo sư Trần Ngọc Ninh phải từ chức. Họ đã thay thế Tổng trưởng giáo dục bằng một người khác là ông Nguyễn Văn Trường. Ông Trần Ngọc Ninh sau đó lẳng lặng rút lui.
Và những người thay thế là Nguyễn Văn Trường, Lý Chánh Trung đã xóa sạch toàn bộ các chương trình ấy.
Hiệu trưởng các trường trung học gốc Bắc như Hồ Ngọc Cẩn, Trần Lục bị thay thế thế bằng người miền Nam. Trường hợp ông Lâm Phi Điểu – một người bạn tâm giao của ông Võ Long Triều được điều về làm Hiệu trưởng Hồ Ngọc Cẩn. Chẳng may ông này bị tai biến mạch máu não phải ngồi xe lăn. Mặc dầu vậy, ông vẫn giữ chức Hiệu trưởng nên các giấy tờ công văn, tùy phái phải đến nhà ông để ông duyệt xét ký.
Một số hơn 20 giáo sư trung học nằm trong chương trình Học Đường Mới bị trả về nhiệm sở cũ như các các ông Lê Đình Điểu, Hà Tường Cát, Phạm Phú Minh, Đỗ Quý Toàn, Trần Đại Lộc, Phan Văn Phùng.
Chính tôi đã hỏi thẳng ông Lý Chánh Trung về việc thuyên chuyển này, nhưng ông chối quanh và không nhận trách nhiệm do chính tay ông ký Sự Vụ Lệnh thuyên chuyển.
Nhìn lại việc này, tôi vẫn cảm thấy bực bội về thái độ và cách hành xử của giáo sư Lý Chánh Trung và bao nhiêu những cảm tình tốt dành cho ông từ những năm làm báo Sống Đạo tan ra mây khói.
Những việc tranh đấu, những điều ông viết trở thành những dấu hỏi về tính lương thiện trí thức có hay không?(24)
Từ đó nó cũng đặt câu hỏi phải chăng ông là người có tính xu thời, thứ chủ nghĩa cơ hội, gió chiều nào ngả theo chiều đó. Tôi thật sự không dám dấn sâu hơn những suy nghĩ của mình về vấn đề này.
Cũng may là bác sĩ Nguyễn Văn Thơ, một người cũng miền Nam – một tổng trưởng liêm chính – sau đó thay thế ông Nguyển Văn Trường đã không đồng ý các việc giáng chức, bổ nhiệm có tính cách trừng phạt ấy.
Từ thiên tả đến thiên cộng chỉ là một bước nhảy
Sắc thái chung của những trí thức thiên tả, trong đó có Lý Chánh Trung được coi là những người đứng bên lề trái.
Đó là một sinh hoạt đứng bên lề trái, đứng để phê phán, đứng để chống lại cái chính thống. Đó là thái độ bất mãn thường trực với cái đang có, cái trật tự hiện có còn dở dang, chưa hoàn chỉnh, cái chính quyền hiện tại. Chống bất kể là ai, bất kể là đệ nhất hay đệ nhị cộng hòa.
Chống là chống. Hay cũng chống, dở cũng chống, chống một phía.
Người cánh tả thường chỉ nhìn thấy những kẽ hở, những điều xấu, điều tiêu cực-quên đi những điều tốt đẹp – đứng về phía thiểu số hay đứng về phía kẻ bị coi là bị áp bức, người nghèo. Hoặc rộng lớn hơn họ đứng lên bênh vực các nước nghèo, nước bị trị, kém mở mang.
Sau này tạm đủ lớn mạnh, từ thiên tả, ông đã tự khoác cho mình một vai trò. Đó là tự nhận mình là thuộc thành phần lực lượng thứ ba (Troisième Force). Ý thức thiên tả vẫn có thể chỉ ở bình diện lý thuyết, nhưng khi gọi là lực lượng thứ ba có nghĩa là một phong trào hành động, có thực lực.
Tuy nhiên, lực lượng thứ ba là một thực thể hàm hồ, không rỏ rệt. Có chống, nhưng theo hẳn một bên thì không theo, vẫn muốn chọn cho mình một thế đứng độc lập.
Thiên một bên, nghiêng về một phía, nhưng không chọn đứng hẳn về một phía.
Có nghĩa không phải là Quốc gia chống Cộng mà cũng không hẳn là cộng sản. Nhiều chỗ trong những bài báo trên Hành Trình, Đất Nước, Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh Trung gọi đó là một thứ Xã Hội chủ nghĩa không cộng sản.
Trong tình thế đất nước chúng ta, lối hô hào xuông một chủ nghĩa xã hội không cộng sản là một ảo tưởng! Đó là một ước mơ và một đề nghị lơ lửng và còn tin rằng có thể hòa hợp, hòa giải với cộng sản. Ông chọn một thế đứng chênh vênh như thế ở miền Nam trước 1975 cũng có phần nào hiểu được, nhưng nhiều phần đó chỉ là một ảo tưởng, lãng mạn chính trị.
Nhiều phần là không thực tế. Nếu không nói là ngây thơ, khờ khạo vì không hiểu được thực tại chính trị.
Ngay từ thời sinh viên khi còn học triết học ở Louvain vào thập niên 1950 cùng với nhiều sinh viên khác như Trần Văn Toàn, Lê Tôn Nghiêm, v.v. ông đã ngả theo khuynh hướng triết học Mác Xít, chống Pháp.
Sự ngả theo như thế hầu như là một cái mốt của giới trí thức trẻ. Phải tả phái mới được. Tả khuynh mới được coi là có đầu óc, trí thức.
Nó chẳng khác gì cánh trí thức tả của Pháp như A. Camus, Simone de Beauvoir, J.P. Sartre, André Gide hay các nhà báo như Bernard B. Fall, J. Lacouture, Stanley Karnow, Alain Ruscio, David Halberstam, Oriana Fallaci, v.v.
Và nếu nói theo khoa học bây giờ, người ta tìm thấy trong đầu con người có những loại genes đặc biệt như gène de dieu, có tên khoa học là VMT, gène về đồng tính, v.v. Người có gène tôn giáo này có những khuynh hướng thần tính, siêu nhiên khó mà cắt nghĩa được. Cái gène tôn giáo xác định cái căn cước, cái thần linh ngự trị trong cuộc sống của một người?(25)
Nếu đã có những gènes về tôn giáo và đồng tính thì cũng có thể có những loại gènes về chống đối, bất mãn và xung đột.
Nếu thực sự cũng có những gènes như vậy thì có thể lý giải được nhiều điều về cá tính con người cũng như cách hành xử của những người tả phái.
Họ có cái gene bất mãn nên luôn ở thế đối đầu, chống đối.
Phải chăng Lý Chánh Trung về phạm vi tâm sinh lý có một não trạng bất mãn thường trực và điều đó làm nên cá tính, nhân cách của ông chăng?
Nhưng nói chung, trong số thành phần trí thức thiên tả ngả theo cộng sản thì theo tôi người tiêu biểu về mọi phương diện là Lý Chánh Trung.
Tiêu biểu của ông có thể về mặt nhận thức, trí thức, về mặt dấn thân nhập cuộc, tiêu biểu cả về mặt thành thật hoặc không thành thật, tiêu biểu của việc đón chiều gió, tính cơ hội cũng có, khi nào cần phải lên tiếng và khi nào cần biết im lặng.
Có thể ông không phải là loại người quá khích, hung hăng sốc nổi. Trái lại điềm tĩnh và cân nhắc mỗi khi phát biểu, đôi khi dè dặt cẩn trọng, có tính toán, cân nhắc.
Vì ở thế đối lập, ông luôn tỏ ra thái độ từ bất mãn đến chống đối các chính thể từ Đệ Nhất sang Đệ Nhị Cộng Hòa.
Ông luôn có việc để làm, để chống đối mà không bao giờ sợ thất nghiệp.
Vậy mà ông đã thất nghiệp sau 1975, vì không có gì để chống đối nữa. Hay có thấy mà không dám chống đối nữa.
Giữa ông và Nguyễn Ngọc Lan có sự đố kỵ nhau khi cùng viết trên tờ Hành Trình. Ông từng phản đối Nguyễn Văn Trung khi ông này cho đăng bài của Nguyễn Ngọc Lan. Nhưng Lý Chánh Trung tỏ ra hèn khi cúi đầu im lặng thì Nguyễn Ngọc Lan lại có cái can đảm ngoài khuôn khổ chống đối lại chế độ cộng sản công khai mà ít ai có đủ đảm lược để làm như ông.
Chống độc tài, chống kỳ thị tôn giáo, chống gia đình trị, chống cá nhân ông Diệm, chống chiến tranh, chống Mỹ Ngụy, chống tham nhũng, chống cá nhân ông Thiệu như tay sai Mỹ.
Nhưng đó là thứ chống một phía.
Không bao giờ ông dám nhìn nhận sự thật phía cộng sản đang làm gì?
Chống chán rồi đòi. Đòi tự do, tự do báo chí, đòi dân chủ, đòi thả tù nhân chính trị, đòi thả những sinh viên theo cộng cộng sản nằm vùng, ngay cả những đặc công cộng sản. đòi quyền sống cho phụ nữ.
Chống và đòi. Đó là hai công việc đi đôi với nhau của ông Lý Chánh Trung trước 1975.
Chính Lý Chánh Trung sau này cũng phải nhìn nhận rằng:
“Lực lượng hay Thành phần thứ ba chỉ là một khát vọng hơn là một thực lực thực tế. Tổ chức vỏn vẹn có vài trăm người. Nhóm người đó mở ra mọi phía và đón nhận nhiều ảnh hưởng. Vì thế họ không có một ý thức hệ chính xác nào.”(26)
Chính vì mấy chữ này mà ông bị Nguyễn Trọng Văn viết tham luận tố giác ông và Nguyễn Văn Trung sau 1975.
Lý Chánh Trung đồng hành với các sinh viên tranh đấu
Việc từ bỏ tháp ngà của một giáo sư đại học văn khoa cũng như một công chức cấp cao của ngành giáo dục và quyết định dấn thân sát cánh với nhóm sinh viên tranh đấu thân cộng sản là một bước ngoặt trong cuộc đời sinh hoạt chính trị của ông.
Những băn khoăn, thắc mắc của tôi là tại sao ông chọn lựa thái độ dấn thân ấy?
Tôi đã thăm dò nơi một hai người bạn thân của ông nhưng kết quả không là bao nhiêu.
Tôi cũng không bằng lòng với những bài viết như thú nhận tại sao ông đã nhập cuộc và theo cộng sản vì lý tưởng cộng sản hun đúc từ thời sinh viên, vì nghĩ rằng nó có tính cách trang điểm cho những việc làm của ông sau này.
Bài viết của ông nhan đề: Làm Và Tin viết như một thứ trả bài làm tôi nghi ngờ tính lương thiện trí thức ở trong đó, bởi vì nó được nhắc nhở đến ngay từ hồi còn sinh viên mà Lý Chánh Trung đã có niềm xác tín như thế với Đảng cộng sản. Ông đã viết như sau:
“Lúc còn bên Pháp trong những năm 1950, tôi đã nghĩ rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ thắng trên toàn thế giới như nó đã thắng tại nước Nga, tại các nước Đông Âu và tại Trung Quốc, như nó đã thắng tại Việt Nam, không những vì đó là hướng đi của lịch sử mà còn vì đảng cộng sản là một tổ chức hữu hiệu nhất đã xuất hiện trong lịch sử từ trước đến nay. Riêng tại Việt Nam, hiệu năng ấy còn tăng lên gấp bội vì ở đây, Đảng cộng sản đã lãnh đạo từ đầu cuộc kháng chiến giành độc lập của dân tộc và đã thu hút được sự ủng hộ của mọi tầng lớp và mọi giới đồng bào.
Tuy không phải là người cộng sản, tôi thành thật mong muốn sự thắng lợi của chủ nghỉa cộng sản trên thế giới và tại Việt Nam, vì tôi chon rằng chỉ chủ nghĩa cộng sản mới tạo dựng được cái xã hội thật sự tự do, bình đẳng và huynh đệ mà tôi hằng mơ ước. Những tin tưởng hoàn toàn nơi thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản như tin một sự thật khoa học, bất kể những điều kiện khách quan có thể biến đổi ra sao, thì thú thật là tôi chưa tin nổi.”(27)
Tôi đi tìm một lối giải thích khác và tôi nghỉ là nó chính xác hơn.
Ông đã chạy theo những đám thanh niên thiên tả mà một số là cộng sản nằm vùng. Đặc biệt nhất là sinh viên y khoa Huỳnh Tấn Mẫm.
Đối với tôi thì sinh viên này trước 1975 là thứ phá hoại – một thứ phá làng phá xóm do cộng sản giật giây.
Giá trị của anh ta là ở chỗ ấy. Sau 1975, không dùng được vào việc gì cùng lắm dùng làm cảnh. Huỳnh Tấn Mẫm thêm vào danh sách những kẻ dư thừa, không biết dùng vào việc gì sau 1975.
Nguyến Đình Đầu (trái), Huỳnh Tấn Mẫn (phải) – biểu tình trong phòng để chụp hình (27.7.2011). Nguồn: boxitvn.net
Từ đó đến nay, gần 40 năm, anh sinh viên nay mang thân phận dư thừa. Không có chỗ đứng.
Có dịp đọc lại hết những hoạt động của Thành Đoàn TNCS của thành phố Hồ Chí Minh mới chính thức được thành lập năm 1966, tôi thấy hết được bối cảnh chính trị miền Nam trong những năm tháng cuối cùng.
Chúng ta biết rằng có một cuộc chiến tranh trực diện, cuộc chiến tranh ở ngoài Sài gòn bằng bom đạn, bằng trực thăng, bằng đại bác 105 ly, bằng đô la để đổi lấy những xác chết – và cũng có một cuộc chiến bằng súng cối, bằng hầm chông, bằng ám sát, thủ tiêu và cuối cùng bằng xe tăng đại pháo với những xác người bị phơi thây bên bờ kinh, bờ rạch.
Nhưng có một cuộc chiến tranh thứ hai ngay giữa lòng Sài Gòn bằng biểu tình, tuyệt thực, xuống đường, bằng hô hào đả đảo, bằng lựu đạn cay và nước mắt và bằng những hàng rào kẽm gai. Cuộc chiến cân não này ít ai nói tới vì không thể đếm những xác người.
Nó cũng không có biên giới rõ rệt, trộn lẫn Ta và Địch, vì Địch cũng có thể là Ta.
Cuộc chiến trên đường phố ở Sài Gòn diễn ra ở hai mặt.
Mặt nổi là những cuộc biểu dương lưc lượng của giới sinh viên học sinh như biểu tình, xuống đường, đòi cái này, cái kia, ngay cả việc đòi thả những cán bộ cộng sản như Vũ Hạnh, sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Văn Đầy. Lý Chánh Trung đã có mặt trong những cuộc biểu dương này và ông đã viết như sau trong Một thời đạn bom, một thời Hòa Binh:
“Tôi đã đến đây tham dự buổi tuyệt thực của 20 giáo chức Đại, Trung và Tiểu học tại tỏa Viện trưởng Viện Đại Học Sài Gòn, để yêu cầu nhà cầm quyền trả lại tự do cho các sinh viên, trong đó có anh Huỳnh Tấn Mẫm đã bị giam giữ trái phép đúng một tháng qua và đang tuyệt thực, tuyệt ẩm trong khám Chí Hòa. Trong lúc mấy anh em hát, tôi cảm động không dám nhìn lên, chỉ nhìn xuống.”(28)
Thế nào là trái phép? Bắt giam một anh cộng sản nằm vùng là trái phép? Đã không ai đặt ra câu hỏi này cả. Và sau 1975, Đã bao nhiều người đã vào tù một cách oan khuất, đã có lần nào, Lý Chánh Trung dám lên tiếng một lần?
Mặt thứ hai của cuộc chiến tranh đang diễn ra tại thành phố Sài Gòn là công tác được chỉ huy của các đồng chí như Nguyễn Văn Linh, Trần Bạch Đằng, Phạm Phương Thảo với vô số tên tuổi như Nguyễn Đông Thức, Hồ Dũng, Anh Ngọc, Lê Văn Nuôi, Hàng Chức Nguyên, Lê Quang Vịnh, Lê Hồng Tư. Phạm Chánh Trực.
Và với nhiều bí danh như Tám Lượng, Hai Nghị, Út Thu, Mười Hương, Ba Hoàng, Tư Kiên, Mười Hải, Mười Dũng, Ba Liễu, Tư Thanh, v.v. Đã có hằng trăm tên như thế.
Công việc của họ là ám sát các nhân vật có uy tín của miền Nam như giáo sư Nguyễn Văn Bông, ký giả Từ Chung, báo Chính Luận, chủ bút Chu Tử, hai giáo sư Y khoa là giáo sư Lê Minh Trí, giáo sư Trần Anh và sinh viên Lê khắc Sinh Nhật.
Những công tác của các tổ ám sát này sau được phép kể lại công khai trên báo chí như một thứ giải trí hay một thứ thành tích giết người đang được tự hào.
Sau nữa là việc đốt xe Mỹ xảy ra ở nhiều nơi.
Để hỗ trợ cho việc đốt xe Mỹ này, tờ Tin Sáng của nhóm Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Chánh Trung đưa ra một bản tin như sau:
Phong trào đót xe của sinh viên học sinh Saigon, 1960-70. Nguồn: Internet
“Phong trảo đốt xe Mỹ càng ngày càng vang dội vả được mở rộng, thu hút được nhiều tầng lớp nhân dân tham gia. Ở Thủ Đức, vào lúc 10 giờ sáng ngày 10 tháng 9 năm 1971, đồng bào đã tự động phóng hỏa đốt một xe Đại Hàn. Hành động này, đồng bào Thủ Đức nói là hỗ trợ cho chiến dịch đốt xe Mỹ của Ủy Ban đòi Quyền sống đồng bào tổ chức nhằm trả thù cho đồng bào Bình Thạnh và các tỉnh miền Trung bị lính Đại Hàn giở trò man rợ.”(29)
Cũng tờ Tin Sáng số ra ngày 21 tháng 10 năm 1971 với hàng tít lớn:
“Từ tờ mờ sáng 20-10, sinh viên học sinh mở cuộc săn đốt xe Mỹ trong khu vực tam giác sắt Trần Quốc Toản- Cao Thắng-Kiều Công Hai.”
Việc đốt xe Mỹ này là do những tổ trinh sát thi hành. Tờ báo Tin Sang đã tuyên truyền bịp bợm đổ cho đồng bào một cách vô tội vạ.
Ngày nay, họ còn tỏ ra hãnh diện và công khai hóa những vụ ám sát này như một thứ thành tích đáng được biểu dương.
Một tờ báo như Tin Sáng thế mà không ai nghĩ đến việc đóng cửa và bỏ tù bọn họ.
Với hai mặt trận như thế mà chúng ta đành thua người cộng sản.
—————————-
(17) Lý Chánh Trung, Những ngày buồn nôn, Nói chuyện với người học trò, trang 80-81
(18) Lý Chánh Trung, Ibid., Khóc đi con, trang 40
(19) Lý Chánh Trung, Trui rèn trong lửa đỏ, Làm và Tin, trang 239
(20) Lý Chánh Trung, Ibid., 239
(21) Lý Chánh Trung, Ibid., trang 240
(22) Nguyễn Văn Lục, Nhìn lại vấn đề kỳ thị Nam-Bắc, DCVOnline.net
(23) Hồi Ký Dương Văn Ba, Những ngã rẽ, chương 5: Làm chính trị. Vào Quốc Hội
(24) Võ Long Triều, Hồi ký Võ Long Triều, trang 329
(25) Dan Burstein et Anne De Keijzen, Les secrets, des Anges & Demons, trang 267
(26) Alain Ruscio, Vivre au Viet Nam, trang 178
(27) Võ Long Triều, Ibid., trang 329
(28) Lý Chánh Trung, Trui rèn trong lửa đỏ, trang 229
(29) Lý Chánh Trung, Một thời đạn bom, một thời Hòa Bình, trang 62
Triều cường gây ngập, dân Sài Gòn vất vả sống chung dòng nước ô nhiễm
November 28, 2023
SÀI GÒN, Việt Nam (NV) –Nhiều người phải bì bõm lội nước, nhiều gia đình vất vả sống trong dòng nước đen hôi thối khi triều cường dâng cao ở Sài Gòn.
Theo ghi nhận của báo Thanh Niên, khoảng 5 giờ chiều 28 Tháng Mười Một, triều cường dâng cao gây ngập ở khu vực đường Phú Định, đường Nguyễn Ngọc Cung…, quận 8.
Triều cường dâng cao gây ngập đường phố, nhà cửa ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân ở Sài Gòn. (Hình: Nhật Thịnh/Thanh Niên)
Nước ngập nửa bánh xe khiến việc đi lại của người dân “phát khiếp” mỗi khi đi qua dòng nước đen ngòm, hôi thối và càng khiếp hơn khi chúng tràn vào tích tụ lâu ngày trong nhà, ảnh hưởng đến sức khỏe.
Bà Vũ Thị Hằng, 63 tuổi, ở đường Nguyễn Ngọc Cung, quận 8, cho biết do sống ở khu vực này hàng chục năm nên đã quá quen với cảnh triều cường gây ngập.
“Có khi nước tràn hẳn vào nhà khiến gia đình phải vất vả dọn dẹp, ảnh hưởng đến cuộc sống. Nước sạch còn đỡ, chứ ở đây nước đen ngòm không ai muốn đụng nhưng chúng tôi buộc phải lội nhiều ngày liền. Triều cường có hôm lên sớm, có hôm lên trễ dâng cả sáng lẫn chiều, mỗi lần lên là chúng tôi khổ sở, không biết làm cách nào ngoài đợi nước rút xuống,” bà Hằng ngao ngán nói.
Bà Phan Thị Mỹ Phương, 53 tuổi, ở đường Nguyễn Ngọc Cung, thở dài: “Nước đen đến cá còn không dám bơi mà mỗi đợt triều cường dâng chúng tôi phải chịu hôi thối mấy ngày liền. Chúng tôi sống ở đây đã lâu nên giờ phải chịu chứ ai đến làm dâu, làm rể thì khổ cho họ.”
Trong khi đó, ông Trần Văn Cảnh, 43 tuổi, ở đường Nguyễn Ngọc Cung, cho hay, mấy năm trước gia đình đã tốn vài chục triệu đồng nâng cao nền nhà khoảng 1.2 mét so với mặt đường, nhưng không ăn thua.
“Nước quá trời đen gây ngứa không chịu nổi nhưng tôi cũng không biết làm thế nào để nước không dâng lên. Tôi mong chính quyền nâng đường lên thật cao, giảm tình trạng nước ngập để cuộc sống của người dân không bị ảnh hưởng,” ông Cảnh bày tỏ.
Báo Phụ Nữ Việt Nam ghi nhận, tại đường Trần Xuân Soạn, quận 7- một trong những con đường thường xuyên bị ngập nặng khi triều cường, nhiều hàng quán phải tạm ngưng bán. Nhiều xe bị chết máy do đường bị ngập sâu.
Ông Vương Quốc Khánh, 61 tuổi, ở đường Trần Xuân Soạn, cho biết: “Mỗi đợt triều cường là con đường này bị ngập nên không làm ăn gì được, đành phải chấp nhận sống chung với nó. Nâng nền nhà thường xuyên cũng không ổn, do triều cường mỗi năm mỗi lớn nên không còn cách nào khác.”
Dòng nước đen hôi thối tràn cả vào nhà, nhiều gia đình phải vất vả tát nước thâu đêm. (Hình: Nhật Thịnh/Thanh Niên)
Tương tự, triều cường xuất hiện vào giờ tan tầm khiến đoạn đường dưới chân cầu Lò Gốm, phường 7, quận 6, xảy ra tình trạng kẹt xe, người dân phải nhích từng chút một.
Tình trạng triều cường gây ngập nước đang gây không ít khó khăn cho cuộc sống của cư dân Sài Gòn. Tuy nhiên cho đến nay, cơ quan hữu trách vẫn loay hoay không thể làm gì khác ngoài việc Thường Trực Ủy Ban Nhân Dân thành phố đưa ra chỉ đạo chung chung “các quận, huyện triển khai ngay biện pháp phòng chống và ứng phó với tình hình sạt lở đất trên địa bàn thành phố, để giảm thiểu tối đa các thiệt hại do các đợt triều cường cộng thêm những cơn mưa lớn trong mùa này gây ra.” (Tr.N)
Vật tư y tế ‘giá rẻ’ từ Trung Quốc – Lưỡi hái tử thần
WASHINGTON DC —
Sau một thời gian dài thiếu thốn vật tư y tế, các bệnh viện trong nước hiện đối mặt với làn sóng vật tư y tế từ Trung Quốc, một phần nguyên nhân dẫn tới tình trạng người nhà bệnh nhân phải tự tìm mua, từ thuốc kháng sinh cho tới thiết bị phẫu thuật, vì, theo các chuyên gia, vật tư y tế Trung Quốc “tuy giá rẻ nhưng đầy rủi ro.”
Một chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực phẫu thuật não và lồng ngực không muốn nêu danh tính cho VOA biết trong tư thế một bệnh nhân nằm phòng chăm sóc đặc biệt tại bệnh viện Bạch Mai, ông mới thấu hiểu nỗi khổ của người bệnh khi phải dùng các loại vật tư y tế giá rẻ từ Trung Quốc.
“Truyền có mấy hôm mà cái kim dỏm nên sưng hết cả hai tay do bị hỏng ven, phá ven sưng tấy lên. Cái kim luồn nó không ra gì nên tự chọc ra khỏi lòng ven, phá hết ven. Mà đấy là mình nằm phòng VIP 3 triệu/ngày rồi đấy. Cả bệnh viện như thế thì biết làm thế nào được… Mấy ngày sau mình phải đem cái bộ dây truyền tốt từ bên viện mình sang.”
Cũng theo ông, vật tư y tế giá rẻ từ Trung Quốc tràn vào hệ thống y tế Việt Nam là kết cục của quá trình thanh tra toàn diện các dự án cung cấp thiết bị và vật tư y tế thời gian qua, từ đó các bệnh viện đồng loạt tiến hành đấu thầu lại.
“Đấu thầu thì Trung Quốc họ vào và thả giá rất thấp, xong rồi về mới sản xuất (theo giá đó) nên giờ 99% là Trung Quốc trúng thầu. Mà Trung Quốc trúng thầu thì chất lượng không ra gì. Đến bây giờ sự hiện diện của hàng Mỹ và hàng châu Âu tại Việt Nam có lẽ chưa được 1%.”
Chuyên gia này cho biết thiết bị vật tư y tế giá rẻ Trung Quốc trúng thầu tại các bệnh viện thì cả bệnh viện lẫn bệnh nhân đều bất lợi, chưa nói đến những vấn đề khác.
“Ví dụ, một lưỡi dao mổ bình thường là 1.000 đồng/chiếc. Nhưng một ca mổ chỉ cần dùng một cái thôi. Nhưng khi đưa cấu hình là phải thế này thế kia, là thép… thì Trung Quốc sản xuất giống hệt và bán giá là 200 đồng. Nhưng một ca mổ lại phải dùng đến 6 lưỡi. Như thế là mặc dù họ trúng thầu nhưng cuối cùng lại đắt hơn. Như thế là bác sĩ khổ mà bệnh nhân cũng khổ vì tốn tiền hơn. Mà chưa kể là mình không giải trình về bảo hiểm cho bệnh nhân được vì bảo hiểm sẽ hỏi là một ca mổ rạch cái gì mà dùng tới 6 lưỡi dao,”ông phân tích.
Vẫn theo lời ông, quan trọng hơn là các loại vật tư y tế này không đảm bảo những yêu cầu khắt khe trong đa số các ca mổ khó trong lĩnh vực phẫu thuật não và lồng ngực.
“Nhiều khi bệnh nhân chết mà chắc chắn họ không hiểu lý do tại sao. Hay lấy ví dụ các loại dịch hay kháng sinh. Ngày xưa một lọ kháng sinh có giá từ 70 – 80 nghìn đồng một lọ loại trung bình chứ chưa phải loại tốt đâu. Bây giờ thì được bán với giá 7 – 12 nghìn đồng; và như vậy thì giá thực chất của nó chỉ 5 nghìn đồng. Một lọ kháng sinh 5 nghìn với 80 nghìn nó phải khác nhau một trời một vực, dù cùng một tên công thức hay cùng một loại hoá chất. Loại của Tây phải 80 nghìn, lọ của Trung Quốc chỉ 5 nghìn thôi mà dùng loại 5 nghìn đấy có khi cả tháng chẳng có tác dụng. Trong khi nếu đánh đúng thì chỉ cần 1 – 2 lọ 80 nghìn là bệnh nhân đã khỏi rồi,” vị bác sĩ giải thích thêm.
Một đại diện doanh nghiệp, không muốn nêu tên, đã hoạt động trong lĩnh vực cung cấp thiết bị và vật tư y tế cho các bệnh viện trên cả nước nhiều năm qua, chia sẻ với VOA:
“Đồ Trung Quốc cũng có dăm bảy loại. Đồ Trung Quốc mà loại tốt thì cũng đắt chẳng kém đồ châu Âu hay đồ Mỹ. Nhưng nếu nhập hàng đấy về bán thì lấy đâu tiền ‘đút vào mồm’ cho ‘bọn kia’. Giống như làm đường đấy. Giao cho anh làm mà anh phải ‘phết’ lại mấy chục phần trăm thì lấy đâu còn tiền để anh làm công trình cho tử tế được.”
Từ kinh nghiệm của mình, doanh nghiệp này cho biết nếu không có những tiêu cực trong việc đấu thầu, ăn chia phần trăm đó thì thiết bị vật tư y tế giá rẻ của Trung Quốc hoàn toàn không có cơ hội bán được ở Việt Nam, chứ đừng nói đến chuyện tràn ngập như hiện nay.
“Việt Nam mình nó cơ chế như thế, chứ không phải người Việt Nam mình thích dùng hàng kém chất lượng đâu. Người Việt Nam người ta cực kỳ chịu chi cho đồ hiệu, đồ tốt nhất là trong lĩnh vực y tế. Nhưng cơ chế nó như thế,” anh lý giải.
Để đáp ứng nhu cầu kỹ thuật trong phẫu thuật các ca bệnh nặng, chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực phẫu thuật não và lồng ngực cho VOA biết hiện ông phải hướng dẫn người nhà bệnh nhân đến những cơ sở mà ông biết để mua các loại thiết bị vật tư y tế cần thiết.
“Những hãng không đấu thầu vào viện được thì người ta ký gửi tại các nhà thuốc ngoài cổng viện thì người nhà ra đấy mua thôi,” ông nói.
Tuy vậy, theo vị chuyên gia này thì đây cũng chỉ là “giải pháp tình thế.” Không phải gia đình bệnh nhân nào cũng có điều kiện để mua đầy đủ các loại thiết bị vật tư y tế vốn không hề rẻ này.
“Mình tiếc cái công học hành thì mình theo đuổi làm trong bệnh viện nhà nước nhưng mà chắc năm tới cũng tính chắc là ra bệnh viện ngoài làm thôi. Chứ làm thế này chán lắm. Chẳng có hiệu quả gì cả vì mình làm gì có trang thiết bị mà làm. Còn nếu cố làm mà không cẩn thận để bệnh nhân chết thì… Thôi ra ngoài mổ mấy ca nhẹ mà kiếm tiền,” chuyên gia này tâm sự.
Anh N.H.K, một lãnh đạo phụ trách vật tư và trang thiết bị y tế tại một bệnh viện lớn tại Hà Nội cho biết tình trạng tràn ngập của các loại vật tư y tế giá rẻ từ Trung Quốc tại hầu khắp các bệnh viện hiện nay có nguyên nhân từ quy định cách đây 2 năm trong việc chọn lựa nhà cung cấp. “Bây giờ chúng tôi bị bắt phải đấu giá qua mạng. Tức là đưa lên một cái đề bài thì nhà cung cấp sẽ đấu giá và mình chấm ở trên mạng và sau đó ai được thì họ mới mang hàng đến cho mình. Thế là Trung Quốc cứ nhảy vào đấu giá mà đồ Trung Quốc thì làm sao mà tốt được. Nói ví dụ đơn giản thế này: cái lưỡi dao mổ cắt amidan và nạo va của metronic, Mỹ thì có giá 4,8 triệu thế mà bây giờ Trung Quốc họ chào vào có 200 nghìn/lưỡi.” Anh K cho biết thêm theo quy định thì cứ ai chào giá rẻ nhất là phải mua nếu không sẽ là làm sai và nhiều khả năng bị thanh tra, kiểm tra.
Anh K cũng cho biết cách đây hơn nửa năm, Chính phủ cũng đã ban hành nghị quyết mới cho phép các bệnh viện công lập tự xây dựng giá gói thầu và mua sắm trang thiết bị y tế công nghệ cao từ Mỹ và Châu Âu để vừa đảm bảo giải quyết khó khăn về vật tư thiết bị y tế trong nước, vừa đảm bảo phòng chống tham nhũng nhưng cho tới giờ nghị quyết này vẫn chưa phát huy được hiệu quả vì giờ đây không ai dám “quyết” những gói thầu cung cấp trang thiết bị y tế với giá cao sau khi cả lãnh đạo Bộ Y tế và nhiều bệnh viện đầu ngành vướng vòng lao lý vì những tiêu cực trong lĩnh vực này.
Luật Sư Đặng Đình Mạnh: Ăn hối lộ ‘không vụ lợi’ là ngụy biện
November 27, 2023
LTS: Luật Sư Đặng Đình Mạnh là một trong những luật sư nhân quyền nổi tiếng tại Việt Nam. Ông và hai luật sư Nguyễn Văn Miếng và Đào Kim Lân trong nhóm các luật sư bảo vệ pháp lý cho Tịnh Thất Bồng Lai. Khi thấy dấu hiệu có thể bị bắt giữ qua những lời phát biểu vạch trần những sai trái của vụ án này trên Facebook, họ đã vượt thoát ra khỏi Việt Nam và đến Hoa Kỳ tị nạn chính trị Tháng Sáu, 2023 vừa qua.
Riêng LS Mạnh trong 27 năm hành nghề, ông đã tham gia bào chữa khoảng 10 năm cho hơn 50 vụ án chính trị gồm gần 100 người đấu tranh nhân quyền, dân oan tại Việt Nam. Nhân dịp bảy quan chức thanh tra của Ngân Hàng Nhà Nước CSVN không bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì được cho là “không vụ lợi” dù đã nhận tiền hối lộ từ ngân hàng SCB, nhật báo Người Việt phỏng vấn LS Mạnh về cái sự kiện “không vụ lợi” này.
Hai luật sư Đặng Đình Mạnh (phải) và Nguyễn Văn Miếng (trái) vượt thoát đến Hoa Kỳ ngày 16 Tháng Sáu, 2023. (Hình: RFA)
Người Việt: Thưa luật sư, có bao giờ một quan chức nhà nước ăn hối lộ mà lại “không vụ lợi” không?
LS Đặng Đình Mạnh: Thưa anh, quan hệ giữa người đưa hối lộ và người nhận hối lộ luôn luôn là mối quan hệ với mục đích vụ lợi. Trong đó, người đưa hối lộ mong muốn công việc phi pháp hoặc hợp pháp của mình được giải quyết (làm hoặc không làm), do đó, họ hối lộ để đạt được mục đích đó. Mặt khác, người nhận hối lộ đã thực hiện công việc (làm hoặc không làm) để thỏa mãn mong muốn của người đưa hối lộ cũng với mục đích được nhận số tiền hối lộ.
Cho nên, khái niệm “hối lộ nhưng không vụ lợi” chỉ là sự ngụy biện, cưỡng từ đoạt lý phát sinh một cách méo mó, tùy tiện trong nền tư pháp Việt Nam giai đoạn hiện nay mà thôi. Khái niệm đó không phải là chuẩn mực pháp lý.
Người Việt: Những số tiền hối lộ cho bảy ông bà thuộc các cơ quan thanh tra của chế độ rất nhỏ so với số tiền hơn $5 triệu mà bà cục trưởng Cục Thanh Tra Ngân Hàng Nhà Nước đã cầm, theo ông, lời khai của họ về số tiền thấy được thuật lại trên báo chí ở Việt Nam có đáng tin cậy không?
LS Đặng Đình Mạnh: Thông thường, số tiền được thông tin từ kết quả điều tra là số liệu đáng tin cậy, vì lẽ, nó đã được thẩm tra, đối chiếu từ nhiều nguồn, nguồn từ người đưa hối lộ và nguồn từ người nhận hối lộ… Tuy nhiên, điều đó chỉ đúng với một cuộc điều tra hình sự minh bạch, bảo đảm các quy định tố tụng. Dưới thể chế hiện nay, không có gì, kể cả pháp luật có thể bảo đảm có những cuộc điều tra hình sự như thế.
Người Việt: Theo nhận định của ông, nguyên nhân tiềm ẩn nào khiến nhà cầm quyền CSVN lại lý luận là bảy quan thanh tra đã ăn hối lộ nhưng “không vụ lợi” khi họ đã rõ ràng phạm tội?
LS Đặng Đình Mạnh: Thật ra, chủ trương “cứu” các quan chức vi phạm pháp luật không hề có nguyên nhân tiềm ẩn mà đều đã được thông tin đầy đủ nhiều lần trên hệ thống truyền thông trong nước. Vì chế độ đang phải đối diện với thực tế không thể nào tệ hơn: Quan chức phạm tội trở nên quá phổ biến, đến mức độ, nếu cứ xử lý kỷ luật hoặc khởi tố hình sự, thì sẽ không còn người làm việc. Cho nên, họ đã phân hóa, để xử lý những quan chức vi phạm pháp luật nặng nề nhất, số còn lại đành “tha” để “cứu” họ.
Để thực hiện chủ trương đó, chế độ phải tự vẽ vời ra các khái niệm trái khuấy như chúng ta đang chứng kiến, như “hối lộ nhưng không vụ lợi.”
Việc dung túng, chứa chấp cho các quan chức phạm tội đã biến chế độ hiện nay thành một bộ máy tội phạm khổng lồ phá tan hoang đất nước, không chỉ những giá trị vật chất mà gồm cả những giá trị tinh thần… khiến sự phục hồi sau này sẽ rất khó khăn và mất nhiều thời gian.
Luật Sư Đặng Đình Mạnh (giữa) và các đồng nghiệp tham gia bào chữa vụ án Tịnh Thất Bồng Lai ở Long An. (Hình: FB Mạnh Đăng)
Người Việt: Theo ông, có phải những người này chỉ có thể thoát tội nếu họ hoặc từ chối số tiền được hối lộ ngay từ đầu? Hoặc phải nộp và thông báo ngay cho các cơ quan hữu quan vụ hối lộ đó? Khi nghe tin cuộc điều tra đang tiến hành rồi mới nộp số tiền đã được hối lộ thì có thể vẫn là tội hình sự dù mức độ nhẹ hơn, có phải không?
LS Đặng Đình Mạnh: Nhận xét của anh là hoàn toàn chính xác, đúng đắn và đầy đủ theo quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam.
Người Việt: Liên tưởng tới vụ bốn nữ tiếp viên hàng không mang một lượng rất lớn ma túy từ Pháp về Việt Nam ngày 16 Tháng Ba, 2023, bị bắt quả tang ở phi trường Tân Sơn Nhất rồi cũng được thả ra, không bị truy tố hình sự. Vụ này có vẻ cũng bất thường.
Như đã phân tích trên, khái niệm “hối lộ nhưng không vụ lợi” chỉ là sự cưỡng từ đoạt lý phát sinh một cách tùy tiện trong nền tư pháp Việt Nam mà thôi. Điều đó, không chỉ không phải là chuẩn mực pháp lý mà còn không chính đáng. Chính sự không chính đáng đã làm cho công chúng dễ dàng phát hiện ra sự sai trái của khái niệm này cho dù họ không cần có sự hiểu biết chuyên môn như một luật sư.
Người Việt: Xin cảm ơn luật sư thật nhiều. (TN)
Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, Chánh án Nguyễn Hòa Bình và hệ thống tư pháp Việt Nam
Đào Tăng Dực
27-11-2023
Trong một nền dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên chân chính, hệ thống pháp luật vô cùng nghiêm minh. Các chánh án (thuộc ngành tư pháp) hoàn toàn độc lập đối với lập pháp (tức quốc hội) và hành pháp (tức chính phủ). Thêm vào đó, để bảo đảm tư cách độc lập, nhiệm kỳ của các thẩm phán sẽ trọn đời, đến khi muốn về hưu hoặc mất trí năng, hoặc mất khả năng thi hành trách nhiệm.
Hệ thống tòa án dưới pháp chế xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam hoàn toàn trái ngược và hầu như chỉ là cánh tay nối dài của đảng CSVN và công an CSVN. Tòa án CSVN xử án rất nặng cho các tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị, dân oan mất đất; kết án tử hình các bị can hình luật rất qua loa, gây đau thương cho dân chúng và cướp đi mạng sống của nhiều nghi can vô tội.
Tuy các cơ quan NGO quốc tế như Human Rights Watch, Amnesty International hay cả Liên Hiệp Quốc đều lên tiếng và quan ngại, nhưng CSVN vẫn luôn biện minh hàm hồ, cả vú lập miệng em, rằng tất cả mọi nạn nhân đều vi phạm luật hình sự, đã qua một quá trình xét xử đúng quy trình, bị kết án. Theo họ, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền và hệ thống pháp luật riêng, quốc tế phải tôn trọng.
Hệ thống tòa án này bất công đến mức độ, lời chửi đổng của TNLT Nguyễn Văn Túc, trước tòa… “Đ*t mẹ tòa” trở thành một lời hiệu triệu của toàn dân hầu lật đổ độc tài CSVN và xây dựng một nền dân chủ pháp trị nghiêm chỉnh hơn.
Câu hỏi được đặt ra là: Tại sao sự viên tịch của một bậc chân tu Phật Giáo là Hòa Thương Thích Tuệ Sỹ vào ngày 26-11-2023 lại là dịp để chúng ta đánh giá tư cách của Hòa thượng Tuệ Sỹ khi so sánh với Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Nguyễn Hòa Bình và qua đó, phẩm chất của toàn bộ hệ thống tư pháp xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam?
Câu trả lời là, Hòa thượng Tuệ Sỹ cũng từng bị tòa án CSVN kết án tử hình. Mạng sống con người trên bình diện tâm linh và mạng sống một công dân cá thể trên bình diện chính trị, đều là những thực thể đáng được trân quý, bất kể giai cấp xã hội, màu da, phái tính, tôn giáo, khuynh hướng chính trị hay tuổi tác.
Khi một tòa án gọi là “nhân dân” CSVN kết án tử hình tỳ kheo Tuệ Sỹ, Thiền sư, học giả Lê Mạnh Thát, hay những tử tù có dấu hiệu oan sai như Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng (chưa thi hành án), Lê Văn Mạnh (đã thi hành án), thì uy tín của hệ thống pháp lý xã hội chủ nghĩa của CSVN hoàn toàn bị hoài nghi.
Sự phi lý cười ra nước mắt của các bản án tử hình đối với hai nhà sư Phật Giáo trước cường quyền, nhất là quy cho họ tội “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân” vớ vẩn, giúp toàn dân và thế giới càng có thêm cơ sở để hoài nghi tính nghiêm chỉnh của các bản án tử hình đối với Hồ Duy Hải, Lê Văn Mạnh và Nguyễn Văn Chưởng.
Tòa án ở các quốc gia dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên như Hoa Kỳ, các quốc gia Tây phương, Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan … thì xét xử dựa trên hai nền tảng trọng yếu: Đó là chứng cớ qua các sự kiện (facts) và yếu tố quy định luật pháp (law). Thông thường theo hệ thống Common Law của Anh quốc, như Hoa Kỳ, Úc, Tân Tây Lan và Canada thì vị chánh án quyết định về luật (Judge as tribunal of law) và bồi thẩm đoàn quyết định về sự kiện (Jury as tribunal of fact). Còn các quốc gia theo hê thống Civil Code của Pháp như ở lục địa Âu châu thì vị chánh án quyết định cả hai.
Trong cả hai hệ thống, không có hệ thống nào cho phép một tòa án quyết định theo ý chí của một cá nhân hay một chính đảng cá biệt nào cả. Chỉ có pháp chế xã hội chủ nghĩa mới kết án theo ý chí của các đảng CS liên hệ và ở Việt Nam thì theo ý chí của đảng CSVN mà thôi.
Tại sao trong bài viết này chúng tôi nhắc đến và so sánh hai nhân vật hoàn toàn khác nhau là Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, vị lãnh đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và ông Nguyễn Hòa Bình, đương kim chánh án lãnh đạo Tòa Án Nhân Dân Tối Cao Việt Nam?
Có hai lý do chính. Thứ nhất là cả hai đều liên hệ đến án tử hình. Hòa thượng Tuệ Sỹ thì bị hệ thống pháp lý xã hội chủ nghĩa kết án tử hình năm 1988. Ông Nguyễn Hòa Bình thì liên hệ mật thiết đến bản án tử hình của tù nhân Hồ Duy Hải, sẽ trình bày sau.
Thứ nhì là, chúng ta thử so sánh nhân phẩm và tư cách của hai nhân vật, một vị đại diện cho Phật Giáo Việt Nam, các tù nhân lương tâm nói chung và nhân vật kia đại diện cho hệ thống tư pháp của đảng CSVN.
Trước hết, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ là một học giả, thi sĩ và là một nhà nghiên cứu Phật Pháp khả kính. Tư cách và đạo đức của Hòa thượng mọi người kính ngưỡng. Hòa thượng chỉ hoạt động tôn giáo, không có tham vọng chính trị. Tuy nhiên, vì không chịu rời bỏ Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất để gia nhập Giáo hội Phật giáo Việt Nam do đảng chủ trương, mà Hòa thượng bị tù cải tạo ba năm và bị kết án tử hình năm 1988. Dưới áp lực của công luận và quốc tế, CSVN buộc lòng phải phóng thích Hòa thượng.
Theo Wikipedia thì: “Ngày 1 tháng 9 năm 1998, ông được thả tự do từ trại Ba Sao – Nam Hà ở miền Bắc Việt Nam. Trước khi thả, nhà cầm quyền yêu cầu ông ký vào lá đơn xin khoan hồng để gửi lên Chủ tịch nước Trần Đức Lương. Ông trả lời: ‘Không ai có quyền xét xử tôi, không ai có quyền ân xá tôi!’. Công an nói không viết đơn thì không thả, ông không viết và tuyệt thực. Chính quyền đã phải phóng thích ông sau 10 ngày tuyệt thực. Một năm sau đó, vì tiếp tục hoạt động cho GHPGVNTN, ông cùng với Thích Quảng Độ lại bị đe dọa giam giữ và bị công an triệu tập tra hỏi”.
Khi nói về nhân vật Nguyễn Hòa Bình, ông ta là đương kim Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao Việt Nam, là chức vụ đứng đầu Tòa án nhân dân Tối cao, với nhiệm kỳ 5 năm. Ông còn là Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII.
Ông liên hệ mật thiết với án tử hình của Hồ Duy Hải, vì các lý do sau đây (theo Wikipedia):
- Năm 2011, sau khi Hồ Duy Hải bị kết án tử hình, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình quyết định không kháng nghị vụ án, mặc dù có nhiều chứng cớ oan sai.
- Ngày 22 tháng 11 năm 2019, tân Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Việt Nam Lê Minh Trí kháng nghị giám đốc thẩm vụ án, sau khi nhận được đề nghị xem xét giải quyết bảo đảm đúng pháp luật vụ án từ Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng vào tháng 7 năm 2019.
- Ngày 8 tháng 5 năm 2020, sau 3 ngày xét xử giám đốc thẩm vụ án, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua bỏ phiếu công khai, quyết định không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Thành viên Hội Đồng Thẩm Phán gồm 17 người và chủ tịch Hội Đồng là thẩm phán Nguyễn Hòa Bình, người mà năm 2011, trong chức vụ viện trưởng Viên kiểm sát Nhân dân Tối cao, đã quyết định không kháng cáo vụ án này.
(Mời xem lại bài viết cùng tác giả: Hồ Duy Hải và thân phận người dân Việt Nam dưới Pháp chế Xã hội chủ nghĩa).
So sánh hai nhân vật trên, có thể rút ra các kết luận sau đây:
Là một tu sĩ và người tranh đấu cho tự do tôn giáo, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ phẩm hạnh cao, giữ đúng vai trò của mình, bất khuất trước uy vũ, một đức tính không những cần thiết cho một lãnh đạo tôn giáo, mà càng cần thiết hơn cho một quan tòa.
Trong khi đó, là một nhân vật lãnh đạo ngành tư pháp của một quốc gia, Nguyễn Hòa Bình chỉ là một tay sai của đảng (tiếng Anh gọi một cách khinh bỉ là party hack), đảng chỉ đâu đánh đó, làm đồ tể cho đảng, hầu hưởng ơn mưa móc, hoàn toàn không có một chút tính bất khuất trước uy vũ nào.
Trên bình diện cơ chế, Nguyễn Hòa Bình hoàn toàn không xứng đáng “cầm cân nẩy mực” cho công lý, vì đứng đầu ngành tư pháp mà không hề độc lập đối với lập pháp (làm luôn cả dân biểu quốc hội và nhiệm kỳ chánh án cũng chỉ 5 năm), cũng không hề độc lập đối với hành pháp (là ủy viên Bộ Chính trị và Ban Chấp Hành Trung Ương (là một thứ siêu chính phủ điều hành chính phủ).
Thêm vào đó, Đoạn 1 Điều 8 Hiến pháp cũng hiến định hóa nguyên tắc Tập Trung Dân Chủ của Phong Trào Đệ Tam Quốc Tế như là nguyên tắc điều hành quốc gia. Quan điểm tập trung dân chủ vốn là một nguyên tắc của Lenin và một phần nội quy của các đảng cộng sản thuộc Đệ Tam Quốc Tế, buộc các cơ sở hạ tầng tuân phục các cấp trên tuyệt đối. Như vậy thì Nguyễn Hòa Bình, chánh án Tòa án Tối cao và ủy viên Bộ Chính Trị, khi xử án phải tuân theo chỉ thị của Bộ Chính Trị, các tòa án cấp dưới phải tuân theo chỉ thị của Nguyễn Hòa Bình và cứ như thế, đến chánh án đảng viên cấp thấp nhất.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa như thế chỉ là một tấn tuồng cười ra nước mắt cho cả dân tộc Việt Nam.
***
Sư viên tịch của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ là một mất mát lớn lao cho quốc gia, Phật giáo, nền thi thơ và văn chương của dân tộc. Tuy nhiên trên khía cạnh pháp lý, nhất là liên hệ đến án tử hình cho các nạn nhân như Hồ Duy Hải, Nguyễn Văn Chưởng và ngay cả cố tử tù oan Lê Văn Mạnh, sự ra đi của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, một nhân vật đã từng bị CSVN kết án tử hình, sẽ tập chiếu vào và góp phần đập tan tính ác của hệ thống pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Mong rằng cái chết của Lê Văn Mạnh sẽ không không hoàn toàn vô nghĩa, Hồ Duy Hải và Nguyễn Văn Chưởng có thể được tái xét công minh, người dân Việt chóng thoát ách độc tài và lời hiệu triệu “Đ*t mẹ tòa” của tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Túc năm 2018, sẽ không còn cần thiết trong một nước Việt Nam hậu cộng sản.
Vài suy nghĩ
Đến tuổi này rồi, tuổi 81, tôi không ngờ tôi sống được đến ngày hôm nay sau bao nhiêu thăng trầm, tù cộng sản (gọi là cải tạo), thay đổi rất nhiều nghề nghiệp ở Việt Nam lẫn ở Mỹ. Cho nên tôi luôn tự nhắc nhở cho chính mình:
Tạ ơn Trời mỗi sớm mai thức dậy,
Cho con còn ngày nữa để yêu thương.
Tôi vẫn thường suy nghĩ câu nói sau đây của Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận
“Chính sự chết cũng là một bổn phận cuối cùng mà con làm cách sẵn sàng và đầy yêu mến.”
Không biết sẽ chết như thế nào, ra sao, có làm được như Ngài nói không? SẴN SÀNG và ĐẦY YÊU MẾN SỰ CHẾT?
Phùng Văn Phụng