Vì sao Phan Châu Trinh chưa thành công?- Nguyễn Quang A

Ba’o Tieng Dan

Luật Khoa

Nguyễn Quang A

8-2-2024

  1. Tư tưởng Phan Châu Trinh

Phong trào phát triển đất nước (và dân chủ hóa) do Phan Châu Trinh khởi xướng đầu thế kỷ XX (1905-1907) ở Việt Nam là hết sức toàn diện và đúng đắn. Không những thế, thật đáng ngạc nhiên rằng các tư tưởng chính của ông được thuyết hiện đại hóa mới do Christian Welzel (2013) đúc kết xác nhận về mặt lý thuyết và thực tiễn trên quy mô toàn cầu. Thuyết hiện đại hóa mới được xem như một trong những lý thuyết toàn diện nhất về dân chủ hóa cho đến nay.

Vậy vì sao phong trào của cụ Phan chưa thành công và công cuộc dân chủ hóa ở Việt Nam sau đó một trăm năm vẫn chưa có kết quả?

Bài này thử tìm hiểu một số nguyên nhân của sự chưa thành công đó dựa vào khung khổ của chính thuyết hiện đại hóa mới.

Tôi từng có hai tiểu luận, “Phan Châu Trinh và thuyết hiện đại hóa mới” (2017) và “Tiananmen Protests and Lessons for Democratization in Vietnam” (2019), tóm tắt tư tưởng chính của Phan Châu Trinh về sự phát triển đất nước và dân chủ hóa Việt Nam. Các điểm chính của tư tưởng Phan Châu Trinh có thể được tóm tắt như sau.

  1. Phát triển kinh tế

Phan Châu Trinh, với khẩu hiệu “hậu dân sinh” (mà chúng tôi ở Diễn đàn Xã hội Dân sự cập nhật thành “cải thiện dân sinh”) đã luôn luôn chú tâm để nhân dân Việt Nam phát triển kinh tế; tạo dựng doanh nghiệp; cổ vũ thương mại, du lịch và buôn bán ở trong nước và với nước ngoài. Không chỉ nêu tư tưởng, cụ Phan cũng tích cực vận động mọi người khởi nghiệp (mà điển hình là công ty Liên Thành 1906 tại Phan Thiết).

  1. Nâng cao dân trí

Phát triển giáo dục là một phần cốt lõi của chủ trương nâng cao dân trí (“Khai dân trí”) của cụ. Không chỉ khởi xướng chủ trương, cụ Phan còn tích cực vận động lập trường (Đông Kinh Nghĩa Thục năm 1907 tại Hà Nội và đã giảng dạy ở đó; trường Dục Thanh Học Hiệu năm 1907 ở Phan Thiết). Tuy vậy, nâng cao dân trí không chỉ qua giáo dục chính thức mà còn được thực hiện qua thực hành (và chủ trương thực học của cụ là hết sức quan trọng), qua đọc sách, đọc báo, viết sách, viết báo, việc lập ra các hội đoàn, doanh nghiệp, phát triển kinh tế (như nêu ở điểm 1 ở trên).

  1. Chấn hưng dân khí

“Chấn dân khí,” nuôi dưỡng, khơi dậy tinh thần giải phóng, tinh thần tự do của nhân dân là một chủ trương rất quan trọng của cụ Phan (mà Liên Thành Thư Xã được thành lập năm 1905 tại Phan Thiết để truyền bá sách báo có nội dung yêu nước là một ví dụ).

  1. Vận động

Tổ chức các phong trào xã hội để buộc nhà cầm quyền (Pháp) cải cách.

  1. Chủ trương bất bạo động

Tuyệt đối bất bạo động, chỉ dùng phương pháp ôn hòa để thúc đẩy tất cả các việc trên để đưa nước ta vào nền văn minh mới, đủ sức đương đầu với kẻ thù (cũng bằng phương pháp bất bạo động) để giành độc lập chính trị.

  1. Chủ trương tự chủ

Không bài ngoại, không ỷ ngoại mà phải tự chủ.

Có thể thấy các chủ trương, tư tưởng của Phan Châu Trinh đã hình thành một cách hoàn chỉnh trong khoảng năm 1905-1907, và đã được bản thân cụ triển khai trên thực tế và cổ vũ, vận động nhân dân làm theo. Đây là cách tiếp cận hiện đại đối với ngay cả các học giả nghiên cứu về dân chủ hóa nếu xét theo các lý thuyết và thực tiễn dân chủ hóa hiện nay. Cũng hết sức đáng lưu ý rằng cụ Phan đã muốn nhân dân Việt Nam (hay số rất đông trong số họ) thực hiện các chủ trương trên chứ không chỉ một số ít người trở nên giàu có, hiểu biết rộng và có chí khí lớn.

  1. Thuyết hiện đại hoá mới

Lý thuyết hiện đại hóa, do Seymour Martin Lipset (1959) đưa ra, cho rằng “dân chủ là kết quả trực tiếp của sự tăng trưởng kinh tế”, và rằng “một quốc gia càng giàu, thì cơ hội càng lớn là nó sẽ giữ vững nền dân chủ”. Thuyết hiện đại hóa đã có ảnh hưởng lớn đến dân chủ hóa trên thế giới (và vẫn được một số chính trị gia đi theo), tuy sau đó bị nhiều người chỉ trích và sửa đổi, bổ sung.

Tóm lại, hiện đại hóa, theo lý thuyết của Lipset, không dẫn đến dân chủ, nó tạo ra một số điều kiện cần nhưng không đủ cho dân chủ hóa (chẳng hạn các nước rất giàu ở Vùng Vịnh hay Trung Quốc minh chứng rằng sự phát triển kinh tế, sự phát triển khoa học công nghệ, hiện đại hóa không trực tiếp dẫn đến dân chủ). Dù sao đi nữa, lý thuyết hiện đại hóa của Lipset là một đóng góp lớn.

Christian Welzel (2013) tổng kết những nghiên cứu của bản thân ông và nghiên cứu của ông với Ronald Inglehart để phát triển lý thuyết hiện đại hóa mới, mà nội dung chính có thể được tóm tắt như dưới đây.

  1. Các nguồn lực hành động

Theo Welzel, có ba nguồn lực hành động quan trọng nhất là: nguồn lực vật chấtnguồn lực trí tuệ, và nguồn lực kết nối.

Nguồn lực vật chất là các thiết bị, công cụ, tiền bạc… cần cho hành động.

Nguồn lực trí tuệ là sự hiểu biết, kiến thức, thông tin, kỹ năng… cần cho hành động.

Nguồn lực kết nối là các hoạt động, cơ chế tạo ra khả năng liên kết, tiếp xúc, hợp tác, tổ chức để hoạt động. Ví dụ: đô thị hóa, làm việc trong các nhà máy công sở giúp những người lao động liên kết với nhau, phối hợp với nhau, tổ chức lại để hành động; mạng lưới giao thông tốt tạo thuận tiện cho sự đi lại, tập hợp, cũng làm tăng nguồn lực kết nối; sự phát triển của các mạng truyền thông cũng thế. Nguồn lực kết nối có cả khía cạnh thể chế của nó, chẳng hạn, quyền tự do lập hội tăng cường nguồn lực kết nối, ngược lại sự cấm đoán làm giảm các nguồn lực kết nối.

Hiện đại hóa, sự phát triển của công nghệ tạo ra các nguồn lực hành động cho các chủ tư bản, cũng có thể (nhưng không nhất thiết) tạo ra các nguồn lực đó cho quảng đại nhân dân. Nó chỉ tạo ra các nguồn lực hành động cho quảng đại quần chúng khi hiện đại hóa và sự phát triển công nghệ nhắm tới phục vụ con người, bổ sung cho các năng lực con người, hơn là tự động hóa  chỉ nhằm để thay thế lao động con người và giám sát con người (xem Daron Acemoglu and Simon Johnson [2023]).

Cần lưu ý rằng các nguồn lực hành động của nhân dân (số đông người) cũng là kết quả của những cuộc đấu tranh chứ không phải do hiện đại hóa tự động mang lại. Đấy là một sự khác biệt quan trọng của thuyết hiện đại hóa mới so với thuyết hiện đại hóa ban đầu. Cả ba nguồn lực hành động đều quan trọng nhưng các nguồn lực trí tuệ và kết nối quan trọng hơn nguồn lực vật chất.

Chính trên nền của các nguồn lực hành động này của số đông người dân, công cuộc chấn dân khí mới có thể thành công. Đó là nơi các giá trị giải phóng bước vào và đóng vai trò lớn trên tầng văn hóa, và đây là điểm khác biệt thứ hai.

  1. Các giá trị giải phóng

Các giá trị giải phóng là các giá trị thúc đẩy các quyền tự do của con người.

Các giá trị giải phóng nhấn mạnh bốn khía cạnh về sự tự trị cá nhân, lựa chọn, bình đẳng, và sự lên tiếng, và có thể đo được bằng các cuộc khảo sát.

World Values Surveys đã đo các giá trị này trong khoảng 100 nước chiếm hơn 90% dân số thế giới. Từ năm 1981 đến nay (2024), họ đã khảo sát bảy đợt. Trên cơ sở đó, Welzel đã phát triển Chỉ số các Giá trị Giải phóng (EVI-Emancipative Values Index). Việt Nam đã tham gia vào ba trong bảy đợt khảo sát này trong các năm 2001 (đợt 4), 2006 (đợt 5) và 2020 (đợt 7). Nguyễn Quang A (2017) đã chỉ ra rằng EVI có thể được dùng như một chỉ số về dân khí. Nói cách khác, dân khí có thể đo được cho tất cả các nước trên thế giới và tạo cơ sở để tiến hành những nghiên cứu so sánh.

  1. Các phong trào xã hội

Trên bình diện tâm lý, các giá trị giải phóng trao quyền cho con người. Chúng thúc đẩy người dân thực hiện các quyền tự do phổ quát, tham gia tích cực vào các hoạt động phong trào xã hội, đòi nhà nước phải đáp ứng các quyền và lợi ích chính đáng của họ bằng cách bảo đảm về mặt pháp lý để người dân thực hiện các quyền tự do.

  1. Dân chủ hóa

Không có các phong trào xã hội sẽ không có dân chủ hóa. Chính các phong trào xã hội truyền đạt khát vọng của người dân (các giá trị giải phóng của họ), nhưng bản thân các giá trị giải phóng là động cơ thúc đẩy mạnh nhất trong những động cơ thúc đẩy nhân dân tham gia vào các phong trào xã hội, đấu tranh cho nhân quyền và dân chủ. Chính áp lực mạnh của nhân dân buộc các nhà chức trách phải ban hành luật pháp để tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân thực hiện các quyền của mình.

Khi các quyền dân sự và chính trị được pháp luật bảo đảm, được thực thi trong thực tế thì chúng ta có nền dân chủ. Nhưng dân chủ chỉ được củng cố và phát triển nếu nhân dân liên tục đấu tranh để tiếp tục cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí, tham gia vào các phong trào xã hội, liên tục gây áp lực để buộc những người cầm quyền phải duy trì, nâng cao những quyền đã đạt được, mở rộng các quyền khác của nhân dân. Nói cách khác, dân chủ hóa là một quá trình không bao giờ chấm dứt.

Chúng ta có thể tóm tắt tư tưởng của Phan Châu Trinh được thuyết hiện đại hóa mới đúc kết thành lý thuyết với hình sau đây:

Hình 1. Tóm tắt tư tưởng Phan Châu Trinh theo thuyết hiện đại hóa mới.

Chúng ta có thể thấy lý thuyết dân chủ hóa toàn diện nhất hiện nay – được công bố năm 2013 – minh họa rất rõ ràng các tư tưởng chính mà Phan Châu Trinh đưa ra hơn một trăm năm trước. Như thế, có thể xem Phan Châu Trinh là nhà cải cách sáng suốt nhất, nhà cách mạng triệt để nhất, người có tầm nhìn xa trông rộng nhất ở Việt Nam trong đầu thế kỷ thứ hai mươi, nếu không muốn nói là đạt tầm vóc của nhiều nhà cải cách có ảnh hưởng lớn trên thế giới thời kỳ đó.  Vậy vì sao cụ Phan chưa thành công và cho đến nay Việt Nam vẫn chưa có dân chủ?

III. Vì sao Phân Châu Trinh chưa thành công?

Có nhiều nguyên nhân cho sự nghiệp chưa thành công của Phan Châu Trinh.

Cụ Phan Châu Trinh đã vượt quá xa tầm hiểu biết của các trí thức, những người yêu nước, và của nhân dân ta cũng như trình độ phát triển, hoàn cảnh chính trị và xã hội thời đó. Chính phải hiểu rõ những khó khăn đó chúng ta mới hiểu tầm vóc vĩ đại của Phan Châu Trinh. Cũng nên lưu ý rằng Phan Châu Trinh trẻ hơn Mahatma Gandhi ba tuổi và hai vị đưa ra phương pháp đấu tranh bất bạo động gần như đồng thời, Phan Châu Trinh năm  1905 và Mahatma Gandhi năm  1906. Tuy vậy, thế giới hình như biết đến Mahatma Gandhi, Martin Luther King, Dalai Lama, Václav Havel, Thích Nhất Hạnh và Aung San Suu Kyi nhiều hơn Phan Châu Trinh khi nói đến phương pháp đấu tranh bất bạo động.

Hầu như phần lớn những người yêu nước và trí thức thời đó đã không hiểu cụ và chủ trương các đường lối gần như ngược với đường lối của cụ (từ Phan Bội Châu chủ trương dùng bạo lực và nhờ nước ngoài, đến Hồ Chí Minh sau đó).

Nhân dân cũng vậy. Cụ chủ trương tuyệt đối bất bạo động, nhưng nhân dân chính quê cụ không kiên trì thực hiện. Phong trào chống sưu cao thuế nặng tháng Ba năm 1908 ban đầu diễn ra một cách ôn hòa nhưng sau đó đã trở nên hết sức bạo lực, vượt ngoài tầm kiểm soát của những người tổ chức (không có Phan Châu Trinh trong số những người tổ chức). Và phong trào đã bị dập tắt trong sự đàn áp dã man của chính quyền thuộc địa Pháp. Dù không tham gia tổ chức, cụ Phan, cùng nhiều nhân sĩ khác, đã bị bắt và nhiều người bị kết án tử hình, rồi cụ bị đày ra Côn Đảo. May nhờ sự can thiệp của Hội Nhân quyền Pháp, cụ thoát án nặng và bị quản thúc tại Mỹ Tho rồi đi Pháp (1/4/1911); xem Chu Hảo (2023).

Chính quyền thuộc địa Pháp và triều đình đã đàn áp rất quyết liệt, bắt, bỏ tù, xử tử hình hoặc lưu đày các trí thức yêu nước, kể cả Phan Châu Trinh.

Ngoài những nguyên nhân trên, có lẽ cũng bổ ích để xem xét các nguyên nhân, mà tôi cho là cốt lõi hơn, của sự chưa thành công theo khung khổ của chính tư tưởng của Phan Châu Trinh được lý thuyết hóa trong thuyết hiện đại hóa mới. Đầu tiên, hãy xem xét các điều kiện cần là các nguồn lực hành động, rồi đến dân khí khi đó.

  1. Nguồn lực vật chất

Đáng tiếc, chưa có những nghiên cứu lịch sử về vấn đề này ở Việt Nam, chí ít từ thế kỷ XIX cho đến giữa thế kỷ XX (các nhà nghiên cứu trẻ có thể dựa vào các tài liệu lưu trữ của Pháp may ra có thể dựng lại lịch sử phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn này). Vì thế chúng tôi phải chọn một biến đại diện (proxy variable) là GDP/đầu người tính theo sức mua (PPP) với giá trị đô-la một năm cố định nào đó (để tiện so sánh). Theo Madisson Project, dữ liệu về GDP/đầu người (PPP, theo đô-la 2011) của Việt Nam từ 1820 đến 2018 diễn biến như sau:

Hình 2. GDP/đầu người ở Việt Nam, theo sức mua (PPP) tính bằng đô-la 2011. Nguồn: Maddison Project

Hãy xem so sánh quốc tế với vài nước lân cận trên hình sau:

Hình 3: GDP/đầu người, so sánh quốc tế. Nguồn: Maddison Project.

Chúng ta thấy Nhật Bản vượt hẳn các nước khác trong khu vực trong thế kỷ XIX cho đến hết thế kỷ XX. Hàn Quốc và Đài Loan bắt kịp (và thậm chí vượt Nhật Bản) một cách ngoạn mục trong các thập niên đầu của thế kỷ XXI.

Cũng nên lưu ý rằng, mức nghèo tuyệt đối (đủ để tồn tại theo sức mua PPP) là 694 đô-la năm 2011. Theo Hình 2 và Hình 3, trong suốt một thế kỷ rưỡi, nguồn lực vật chất của người Việt Nam chỉ hơn mức sinh tồn một chút: mức năm 1975 là $1.132, cho đến đầu thời kỳ Đổi mới năm 1986 đều dưới mức $1.500 (là mức của năm 1987); cho đến năm 1993, mức này vẫn dưới 2.000 đô-la và vào năm 1994 chỉ đạt 2.018 đô-la. Có thể nói cho đến năm 1994, nguồn lực vật chất của người Việt Nam là rất eo hẹp, lo cái ăn là chính chứ lấy đâu thời gian để nghĩ đến chuyện gì khác.

Hình 3 cho thấy nguồn lực vật chất của người Việt Nam thấp thế nào so với các nước trong khu vực. Vào năm 1986, khi Philippines chuyển sang dân chủ, mức của họ là $3.161/đầu người, gấp hơn 2,1 lần của Việt Nam; Hàn Quốc khi chuyển đổi năm 1987 đạt $9.756/đầu người, còn hơn mức năm 2018 của Việt Nam.

Với trường hợp Đài Loan, khi Tưởng Giới Thạch mất năm 1975, GDP đầu người của họ đạt $5.614. Sau đó, Quốc Dân Đảng độc tài, một đảng Leninist đúng nghĩa, bắt đầu nới lỏng dần chính sách cai trị với việc đưa Lý Đăng Huy – người sinh ra ở Đài Loan – lên làm lãnh đạo cấp cao của đảng. Năm 1986, khi phong trào đối lập “Đảng ngoại” – khi đó vẫn bất hợp pháp – lập ra Dân Tiến Đảng và được chính quyền để yên cho hoạt động, GDP/đầu người của Đài Loan đạt $11.918. Và 14 năm sau, khi ứng cử viên Trần Thủy Biển của Dân Tiến Đảng được bầu làm tổng thống, chấm dứt sự độc quyền của Quốc Dân Đảng, GDP đầu người của Đài Loan đã là $26.787.

Cũng thật đáng lưu ý từ Hình 3 rằng xuất phát điểm của tất cả các nước này vào năm 1820 là gần như nhau: Nhật – $1.321, Đài Loan – $966; Malaysia – $960; Philippines – $931; Thái Lan – $909 và Việt Nam $840.  Đến đầu thế kỷ XX vẫn đại thể như vậy (trừ Nhật Bản)  với GDP/đầu người năm 1913 là $1.159 ở Việt Nam, $1.171 ở Hàn Quốc, $1.286 ở Đài Loan; $1.289 ở Malaysia; $1.341 ở Thái Lan; $1.575 ở Philippines, và $2.431 ở Nhật Bản. Nhưng, từ những năm 1950-1960 trở đi, sự phân kỳ là hết sức rõ rệt do những lựa chọn khác nhau của mỗi nước.

  1. Nguồn lực trí tuệ

Cũng tương tự như nguồn lực vật chất, chúng ta không có dữ liệu lịch sử chi tiết về nguồn lực trí tuệ, mà có thể dựa vào tỷ lệ biết chữ, số người đi học các cấp, thời gian học, số các trường học các loại, chương trình học, số sách báo, số sách báo người dân đọc, số sáng chế, v.v.

Trong hệ thống giáo dục truyền thống (trước khi Pháp xâm chiếm các vùng lãnh thổ Việt Nam), ngoài các trường công như Quốc Tử Giám (chủ yếu để dạy con cháu nhà vua), có nhiều thầy đồ ở các làng chủ yếu dạy chữ Nho, Khổng giáo. Hệ thống nhà chùa cũng là nơi việc học phật pháp diễn ra.

Tôi cố gắng tìm hiểu xem ngoài chữ Nho, Khổng giáo, Phật giáo và thơ văn ra các trường công, tư và cộng đồng này còn dạy gì khác không, chẳng hạn như toán, thiên văn học, các môn khoa học và kỹ thuật theo cách nhìn hiện nay. Rất ít tư liệu nói về các nội dung đào tạo này.

Theo Dân Việt, ba kỳ tài toán học Việt Nam là Vũ Hữu (1437-1530) có để lại tác phẩm Lập Thành Toán Pháp (立成算法) – cuốn sách toán học cổ nhất Việt Nam; Lương Thế Vinh (1441-1496) là trạng nguyên giỏi toán nhất; và Nguyễn Hữu Thận (1757-1831) nghiên cứu việc làm lịch và dịch các tác phẩm toán Trung Quốc, ông để lại tập sách “Ý Trai toán pháp”. Cả ba vị kỳ tài toán học này đều làm quan to trong các triều đình thời các cụ. Giá mà các cụ không làm quan mà chỉ chăm chú nghiên cứu toán, dạy toán, viết sách toán thì chắc nền toán học Việt Nam đã có thể khác đi, nhưng đáng tiếc mục tiêu học chỉ để làm quan (hay được vua phát hiện ra tài năng và bị bắt làm quan).

Gail Paradise Kelly (2000) cho rằng trong hệ thống giáo dục truyền thống của Việt Nam, các thầy đồ không chỉ đóng vai trò công cụ của chính quyền – dạy chữ Nho và Khổng giáo cho học sinh và chuẩn bị cho những người trẻ xuất sắc nhất để tiến những bước tiếp trên đường làm quan. Họ còn tạo thành các mạng lưới riêng của mình qua các mối quan hệ học hành để tập hợp phản kháng chính quyền khi cần thiết. Nói cách khác, thầy đồ đã là xương sống của một mạng lưới chính trị.

Hiểu vai trò này của hệ thống giáo dục truyền thống Việt Nam, chính quyền thực dân Pháp bắt đầu tổ chức hệ thống giáo dục của mình. Việc các trí thức Việt Nam xây dựng hệ thống giáo dục riêng, mà điển hình là phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, bị coi là nguy hiểm.  Vì thế, Đông Kinh Nghĩa Thục bị Pháp giải tán sau chỉ tám tháng tồn tại. Mặc dù vậy, đó vẫn là một áp lực quan trọng buộc chính quyền thực dân phải cải tổ giáo dục, nhất là bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ tại trường, cải cách chế độ thi cử.

Gail Paradise Kelly (2000) cho chúng ta một phân tích khá toàn diện và khá nhiều dữ liệu về hệ thống giáo dục Việt Nam thời kỳ 1906-1939.

Hệ thống giáo dục quốc gia thống nhất chỉ bắt đầu hình thành sau năm 1917 với các nghị định cải cách của Toàn quyền Albert Sarraut. Hệ thống tiểu học 5 năm và sau đó là 5 năm trung học cơ sở và bậc đại học với một trường duy nhất ở Hà Nội (được thành lập từ 1906).

Chỉ xin trích vài dữ liệu năm 1926, năm cụ Phan mất, từ trang 84-85 của Gail Paradise Kelly (2000), Việt Nam có tổng cộng 3.053 trường tiểu học (3 năm) với 153.737 học sinh; 244 trường tiểu học đầy đủ (5 năm) với 65.329 học sinh; 17 trường trung học cơ sở (dạy 10 năm) với 3.656 học sinh, 2 trường cấp hai (secondary school, lycée) với 56 học sinh (năm 1923 lại có 83 học sinh).

Tuy nhiên, đây là vài số liệu rời rạc được trích ở trên và tóm tắt của World Bank 2010 Report (trang 2): “Vào thời kỳ thịnh vượng nhất của Đông Dương bị Pháp xâm chiếm, Việt Nam chỉ có 2.322 trường tiểu học (ba năm) và số học sinh chiếm 2% tổng dân số; 638 trường tiểu học cho 2 năm cuối của giáo dục tiểu học với số học sinh chiếm 0,4% tổng dân số; 16 trường trung học cơ sở (primary colleges cho 4 năm sau bậc tiểu học) chiếm 0,05% tổng dân số và 6 trường trung học phổ thông trong đó có 3 trường nhà nước với số học sinh học trường công chỉ chiếm 0,019% dân số. Toàn bộ Đông Dương thuộc Pháp chỉ có ba đại học (Luật, Y Dược, Khoa học) tại Hà Nội với 834 sinh viên, trong số đó có 628 sinh viên Việt Nam… Với một hệ thống giáo dục như vậy 95% dân Việt Nam đã mù chữ.”

Hãy so sánh với Nhật Bản đầu thế kỷ XX. Theo ước lượng của Giáo sư Tsujimoto Masashi (2000), tỷ lệ biết chữ của các thành phố lớn của Nhật vào đầu thế kỷ XIX là trên 70%, mức ở vùng nông thôn là khoảng 10 hay 20% hay thấp hơn. Tuy vậy, vào năm 1909 tỷ lệ dự học bắt buộc (6 năm lúc đó) là trên 98%.  Sự khác biệt giữa Nhật Bản và Việt Nam thật sự khủng khiếp.

Nói cách khác, hoàn cảnh kinh tế, xã hội và chính trị ở Việt Nam đầu thế kỷ XX hoàn toàn không thuận lợi ngay cả cho việc khai dân trí của Phan Châu Trinh, và chính biết rõ điều đó nên cụ đã chủ trương khai dân trí.

  1. Nguồn lực kết nối

Nguồn lực kết nối có thể được phản ánh khá tốt bằng tỷ lệ dân cư đô thị, số người làm trong các nhà máy, công sở (nơi có đông người tụ tập và sự kết nối dễ dàng hơn những người sống ở nông thôn, nhất là vùng sâu vùng xa), mạng lưới giao thông, số người dùng Internet (và cả các chính sách kiểm duyệt Internet), v.v. Hãy xét tỷ lệ dân cư đô thị.

Hình 4. Dân số đô thị 1960-2020, so sánh quốc tế. Nguồn: Tác giả soạn theo dữ liệu của Macrotrends (trích dữ liệu của Ngân hàng Thế giới).

Có thể thấy nguồn lực kết nối của Việt Nam trong giai đoạn từ 1960 cho đến nay luôn luôn thấp hơn các nước trong khu vực. Lưu ý rằng vào năm 1986, khi chuyển đổi sang dân chủ, tỷ lệ dân cư đô thị của Philippines đạt 43,2%, còn tương tự tại Hàn Quốc trong năm 1987 là 68,56%, trong khi đó tỷ lệ hiện nay của Việt Nam cũng chỉ là 38,77%. Đó là chưa kể đến việc tự do tư tưởng và sự kết nối khác và tổ chức kết nối (như các tổ chức xã hội dân sự, các hội thảo, hội họp) mà ở nước ta là thấp hơn các nước được nhắc đến, và hiện nay có thể còn kém thời cụ Phan Châu Trinh.

  1. Dân khí

Đáng tiếc chúng ta không có những số đo lịch sử về dân khí (mà có quan hệ mật thiết với chỉ số các giá trị giải phóng (EVI), xem Nguyễn Quang A (2017), vì các giá trị này mới chỉ được đo từ năm 1981 đến nay trong bảy đợt.

Hãy xem xét EVI của vài nước trong khu vực để chúng ta có thể có chút cơ sở nào đó để mường tượng. Do các giá trị thường được thiết lập trong các năm hình thành (formative years, 0-8 tuổi; và môi trường kinh tế xã hội và nhất là môi trường gia đình, giáo dục ở tuổi trước khi đến trường và trong thời vị thành niên là hết sức quan trọng) và các giá trị của toàn xã hội (tức mức trung bình phổ biến của giá trị nào đó) thay đổi chủ yếu qua sự thay thế các nhóm tuổi, cho nên các giá trị, kể cả dân khí (EVI), thường thay đổi rất chậm.

Hình 5. EVI của một số nước trong khu vực được đo trong bảy đợt khảo sát của World Values Survey. Nguồn: Tác giả soạn dựa vào dữ liệu của World Values Survey.

Có thể thấy xu hướng tăng dài hạn của EVI trong tất cả các nước (chủ yếu do những thay đổi giá trị của các nhóm lứa tuổi [age cohort] trẻ bước vào tuổi trưởng thành và của các nhóm lứa tuổi già chết đi, hay nói cách khác sự thay đổi giá trị giữa các nhóm lứa tuổi). Nhưng, EVI cũng tăng hay giảm trong ngắn hạn do những thay đổi giá trị bên trong nhóm lứa tuổi phản ánh những biến động về những thay đổi về các nguồn lực hoạt động. Do EVI được chuẩn hóa (0 ≤EVI ≤ 1) nên sự thay đổi không nhiều trong thời gian ngắn, và sự chênh lệch 0,05 là rất lớn và thường xảy ra do sự thay thế nhóm lứa tuổi.

Với số điểm dữ liệu ít ỏi (Việt Nam 3 điểm, và Hàn Quốc 7 điểm trong 40 năm qua), khó có thể có những ước lượng lùi về quá khứ, thí dụ lùi lại khoảng một thế hệ quay lại các năm 1960. Nhưng dùng nhiều điểm dữ liệu hơn của các vùng văn hóa (với số điểm dữ liệu của mỗi vùng lên đến hàng trăm), Christian Welzel (2021) và các cộng sự của ông có thể làm việc này và cho chúng ta các ước lượng đáng tin cậy về EVI cho giai đoạn 1960-1980 cùng với EVI thực đo cho giai đoạn 1981-2020, cho chúng ta thấy rõ xu hướng tăng toàn cầu của các giá trị giải phóng trên Hình 6.

Hình 6. Sự thay đổi của EVI của các vùng văn hóa (1960-2000). Nguồn: Hình OA-9 của Christian Welzel (2021).

Việt Nam, dù có thuộc về vùng văn hóa Sinic East (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan) hay không, chắc nó nằm giữa vùng Indic East và Sinic East, có thể suy đoán rằng EVI là thấp cỡ 0,3 trong suốt giai đoạn đầu thế kỷ XX của cụ Phan và lên 0,34 năm 2001, 0,36 năm 2006, và 0,41 năm 2020.

  1. Các phong trào xã hội

Động cơ mạnh nhất, lâu bền nhất để tham gia các hoạt động phong trào xã hội là các giá trị giải phóng, hay dân khí. Ngoài ra, có các động cơ khác như lợi ích, sự bất bình, hận thù và chúng không mạnh như dân khí. Nếu hoạt động phong trào xã hội có động cơ chính là các giá trị giải phóng thì hoạt động đó chủ yếu là bất bạo động và kinh nghiệm thực tế chứng minh nó là phương pháp đấu tranh hiệu quả nhất.

Khi các nguồn lực hành động thấp, dân khí thấp thì quần chúng có thể dễ bị (các nhà hoạt động dân túy và/hay chủ trương bạo lực hoặc những kẻ khiêu khích do chính quyền cài vào) kích động tham gia vào các phong trào xã hội, với các động cơ khác với các giá trị giải phóng. Điều này dễ khiến các phong trào xã hội trở nên bạo động và/hay vượt khỏi tầm kiểm soát của những người chủ trương bất bạo động, và như thế tạo cớ cho nhà cầm quyền đàn áp thẳng tay.

Chiến lược chính của các nhà cầm quyền độc tài để bẻ gãy liên kết giữa các giá trị giải phóng và các hoạt động phong trào xã hội là tuyên truyền và đàn áp, xem Welzel (2013, tr.219). Dân khí càng cao thì tác dụng của sự tuyên truyền và đàn áp càng ít có hiệu quả, trong khi nếu dân trí thấp, kinh tế không phát triển và dân khí thấp thì hiệu quả của tuyên truyền và đàn áp rất cao.

Tóm lại, cho đến khi cụ Phan Châu Trinh mất năm 1926, các nguồn lực hành động của nhân dân tất cả các nước trong khu vực, kể cả dân khí đã rất thấp và chẳng nước nào đã dân chủ hóa thành công trong vòng 60 năm sau đó cả, nói chi đến Việt Nam.

Về phương pháp, ngược với chủ trương bất bạo động của Phan Châu Trinh các nhà cầm quyền ở Việt Nam trong suốt thế kỷ hai mươi đã sử dụng phương pháp bạo động.

Ngược với chủ trương chống bài ngoại và chống ỷ lại vào nước ngoài của Phan Châu Trinh, đáng tiếc tư tưởng bài ngoại và đôi khi ỷ ngoại đã phổ biến theo những thái cực khác nhau và các tàn dư của nó vẫn còn đến ngày nay.

  1. Vài suy ngẫm

Như thế, có thể dễ hiểu là cụ Phan Châu Trinh đã chưa thành công (nhưng dứt khoát không thất bại vì sự nghiệp đó đang và sẽ còn tiếp tục). Và suốt từ đó đến nay, nhất là từ thập niên 1990 khi Đổi mới thực sự bắt đầu, Việt Nam đã ngày càng đi theo các tư tưởng của cụ Phan Châu Trinh dù nhiều người không muốn thú nhận như thế.

Về nguồn lực vật chất, như Hình 3 cho thấy Việt Nam luôn luôn ở mức thấp nhất cho đến tận ngày nay, so với các nước trong khu vực. Dù ở miền Nam nền kinh tế thị trường được khuyến khích cho đến tận năm 1975 nhưng sau đó chính quyền đã tìm mọi cách hủy diệt nền kinh tế thị trường. Mãi đến năm 1986, do không “đổi mới” thì chết nên chính quyền đã buộc phải trả lại cho dân một phần các quyền kinh doanh của mình. Cuộc Đổi mới thực sự chỉ bắt đầu từ thập niên 1990: cởi trói kinh doanh, xóa bỏ ngăn sông cấm chợ, chú trọng thương mại, coi trọng doanh nhân, hợp tác kinh tế với nước ngoài, v.v. Xét cho cùng là chúng ta làm theo các tư tưởng của cụ Phan Châu Trinh đề ra gần 100 năm trước và đã mang lại sự phát triển kinh tế ngoạn mục cho Việt Nam trong hơn 30 năm qua. Tuy nhiên, xét về tất cả các nguồn lực vật chất, chúng ta vẫn còn yếu khi so sánh với các nước trong khu vực như được phân tích sơ bộ ở trên.

Về nguồn lực trí tuệ, kể từ phong trào xóa mù chữ năm 1945, tỷ lệ biết chữ được cải thiện đáng kể. Ngày nay, tỷ lệ biết chữ của Việt Nam đạt mức 98,85%. Tuy nhiên, nếu tính đến chất lượng giáo dục (đo bằng số năm học ở trường chẳng hạn và tính đến kết quả như số sách được viết, số bằng sáng chế) cũng như đóng góp thực cho trí tuệ nhân loại, cho phát triển kinh tế thì dân trí của chúng ta ngày nay vẫn rất thấp. Chẳng hạn, theo Wikipedia, tính trung bình thì một người ở Việt Nam đọc 0,8 cuốn sách/năm (không tính sách giáo khoa). So với Malaysia thì trung bình một người đọc 10-20 cuốn/năm (2012) và Thái Lan là 5 cuốn/năm.

Hiện nay và mãi mãi trong tương lai chúng ta vẫn phải tiếp tục thực hiện chủ trương khai dân trí của cụ Phan.

Về nguồn lực kết nối, như Hình 4 cho thấy, tỷ lệ đô thị hóa của chúng ta vẫn thấp nhất cho đến tận ngày nay so với các nước được so sánh. Đó là chưa nói đến các thành tố khác của nguồn lực kết nối như sự lập hội, các tổ chức công đoàn độc lập, các tổ chức xã hội dân sự không được khuyến khích, các cuộc hội họp cũng bị kiểm soát nên có lẽ lĩnh vực này hiện nay còn kém thời của Phan Châu Trinh.

Về phương pháp bất bạo động của cụ Phan Châu Trinh, có lẽ do người Việt Nam luôn sống trong văn hóa chống ngoại xâm từ hàng ngàn năm nay nên quá quen với từ ngữ mang tính chiến đấu (chiến sĩ, tấn công, mặt trận, chiến dịch, xung kích, ra quân, tiêu diệt, truy quét, báo thù…) cho đến tận ngày nay. Thậm chí, nhiều nhà lãnh đạo còn “sáng tạo” ra các từ ngữ mới sặc mùi chiến tranh như “tư lệnh ngành”. Các từ ngữ này được báo chí tuyên truyền rộng rãi nên việc chấp nhận phương pháp bất bạo động có thể không dễ. Việc giáo dục cho dân ta về tinh thần và phương pháp bất bạo động vẫn là một nhiệm vụ cam go và phải tích cực làm liên tục.

Chúng ta nên tỉnh táo chú ý đến các dấu ấn văn hóa và lịch sử không hay đó và từ từ thay đổi chúng một cách có chủ ý chứ không phải ngược lại dù vô tình hay cố ý.

Chúng ta còn chưa xét đến các yếu tố ảnh hưởng của quốc tế và địa chính trị mà có thể thuận lợi hay bất lợi cho sự phát triển và dân chủ hóa của Việt Nam. Và liên quan đến vấn đề này là câu hỏi được một số người đưa ra: dựa vào ai? Tất nhiên chúng ta nên tận dụng sự giúp đỡ và sự ủng hộ của tất cả các nước khác, tận dụng tất cả các cơ hội mà thế giới và khu vực tạo ra cho chúng ta, nhưng chúng ta phải dựa vào chính chúng ta. Đấy cũng là một tư tưởng chủ đạo của cụ Phan: “vọng ngoại tắc ngu, bạo động tắc tử”.

Nói cách khác, nội lực vẫn là chính, chúng ta phải dựa vào chính mình. Nếu các nguồn lực hành động thấp, dân khí không cao thì dù ai đó (một nhà độc tài nhân từ hay một lực lượng quốc tế) có đưa cho chúng ta nền dân chủ thì nền dân chủ đó cũng chỉ là phù du, sớm nở tối tàn. Dân chủ chỉ có thể hình thành qua cuộc đấu tranh liên tục, không biết mệt mỏi của chính người Việt Nam chúng ta để phát triển kinh tế, nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí và tích cực tham gia vào các phong trào xã hội, tức là liên tục làm theo các tư tưởng của Phan Châu Trinh.

Tóm lại, Phan Châu Trinh chưa thành công bởi vì người Việt chưa hiểu các ý tưởng của cụ. Thậm chí, các nhà cầm quyền ở Việt Nam đã làm ngược lại tư tưởng của cụ, dùng phương pháp bạo động, vọng ngoại, không chú ý đến việc xây dựng các nguồn lực hành động của nhân dân, thậm chí có những lúc đã hủy hoại chúng (cải tạo công thương, tiêu diệt khu vực kinh tế tư nhân, ngăn sông cấm chợ gây khó khăn cho phát triển kinh tế, cho các nguồn lực vật chất; ngăn cản sự phát triển lành mạnh của xã hội dân sự gây hại cho nguồn lực kết nối; đàn áp các phong trào xã hội). Muốn phát triển đất nước, chúng ta cần tiếp tục bổ sung, phát triển thêm, làm phong phú các tư tưởng của Phan Châu Trinh và thực hiện chúng ngay trong hiện nay và tương lai. Chúng ta đang tiếp tục con đường của Phan Châu Trinh. Lịch sử không lặp lại và không có chữ nếu, nhưng lịch sử có cho chúng ta những bài học quý giá nếu chúng ta muốn học và phát triển.

  1. Lời cảm ơn

Tác giả cảm ơn nhà thơ Hoàng Hưng, cựu đại sứ Nguyễn Trung và một số bạn trẻ đã góp ý cho vài bản thảo của bài viết này.

_____

Chú thích:

– Daron Acemoglu and Simon Johnson (2023), POWER and PROGRESS, our Thousand-Year Struggle over Technology and Prosperity (TIẾN BỘ và QUYỀN LỰC, cuộc Chiến đấu Ngàn Năm của chúng ta về Công nghệ và sự Thịnh Vượng), PublicAfaire, New York

– Chu Hảo (2023), Phan Châu Trinh trước khi sang Pháp, Viện Phan Châu Trinh.

– Gail Paradise Kelly (2000), Frech Colonial Education: Essays on Vietnam and West Africa, AMS Press, Inc. 2000

– Seymour Martin Lipset (1959), Some Social Requisites of Democracy: Economic Development and Political Legitimacy, The American Political Science Review, Volume 53, Issue 1 (1959): 69-105.

– Nguyen Quang A (2019), Tiananmen Protests and Lessons for Democratization in Vietnam, Contemporary Chinese Political Economy and Strategic Relations: An International Journal, Vol.5. No.2, June/Aug. 2019, pp.745-763.

– Nguyễn Quang A (2017), Phan Châu Trinh và Thuyết Hiện đại hóa Mới, Tạp chí Dân trí

– Tsujimoto Masashi (2000), Maturing of a Lierate Society, Journal of Japanese Trade & Industies, March-April 2000, pp. 44-48. Truy cập online

– Christian Welzel (2013), Freedom Rising, Oxford University Press 2013 (Bản tiếng Việt 2017)

– Christian Welzel (2021), Why The Future is Democratic, Journal of Democracy, Volume 32, No. 2, April, 2021, pp. 132-144

– World Bank (2010), 2010 World Report: “Education in Vietnam”


 

 Từ vụ án Ngọc Trinh, ‘nhà giàu cũng khóc’

 Ba’o Nguoi-Viet

February 7, 2024

Lâm Công Tử

Người dân trong nước biết cái tên Ngọc Trinh từ lâu qua cung cách sống của cô người mẫu này. Người Việt hải ngoại biết Ngọc Trinh qua tỷ phú Hoàng Kiều và rồi người dân khắp thế giới biết Ngọc Trinh qua vụ lái xe phân khối lớn mà không có bằng lái phù hợp, bị công an bắt, ra tòa được xử án treo rồi về nhà viết lời cám ơn đảng và chính phủ trong ngày 27 Tết.

Ngọc Trinh ra tòa với lực lượng hộ tống bên cạnh như một tù nhân nguy hiểm. (Hình: Duyên Phan/Tuổi Trẻ)

Ngọc Trinh là khuôn mặt điển hình của người giàu trong giới showbiz, cô nàng vừa đẹp vừa bất chấp dư luận khi từ ăn mặc tới ăn nói đều khác người. Ngọc Trinh có một lượng fan rất lớn từ nam thanh tới nữ tú. Thanh niên thì mê nhan sắc của cô còn thiếu nữ thì mê sự nghiệp rất đáng ngưỡng mộ của một người mẫu. Chỉ có một bộ phận rất… hùng hậu ghét cô đó là công an.

Ừ thì công an ai mà họ không ghét. Người nghèo bị họ ghét vì buôn bán vô trật tự trên đường phố, người giàu nào không đút lót cho họ thì ngay lập tức dược vào sổ bìa đen chỉ chờ dịp là cho biết tay. Không giàu không nghèo cũng bị ghét vì giới này biết chút đỉnh luật lệ thường cự cãi mỗi khi bị phạt lái xe hay tranh luận khi lực lượng chức năng càn quét trong một sự kiện nào đó. Nói như vậy để thấy rằng công an và nhân dân là hai lực lượng đối nghịch, cái thương hay ghét đều nằm trong tiêu chí có hối lộ được hay không.

Nhiều người ngây thơ cho rằng sống trong chế độ Cộng Sản muốn yên thân hưởng giàu sang phú quý thì phải biết im lặng trước bất công xảy ra hàng ngày trên đường phố. Đừng bao giờ nói chuyện chính trị trên mạng xã hội và nhất là đừng bao giờ tham gia biểu tình dù có chống Trung Quốc hay chống một âm mưu nào đó.

Những người suy nghĩ như vậy thật sai lầm, lấy trường hợp Ngọc Trinh làm ví dụ thì sẽ thấy. Ngọc Trinh rất giàu nhưng chưa bao giờ làm từ thiện dỏm, chưa bao giờ nói chuyện chính trị trên Facebook của cô ấy, chưa bao giờ tỏ ra bức bối vì những chuyện bất công xã hội và cũng chưa bao giờ bị công an mời về đồn vì bất cứ chuyện gì, ngoại trừ cô là một người giàu, thật giàu là đằng khác.

Vậy mà ngày 6 Tháng Mười, năm 2023 người mẫu Ngọc Trinh bị cáo buộc đăng video “biểu diễn” xe phân khối lớn lên mạng xã hội, có hàng triệu người theo dõi, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội bị Công An TP HCM bắt tạm giam ba tháng về hành vi “Gây rối trật tự công cộng.”

Theo báo chí cho biết Ngọc Trinh dù không có giấy phép lái xe hạng A2 nhưng đã cùng một huấn luyện viên chạy xe BMW, dung tích xi lanh 999 cm3, biểu diễn trên đoạn đường D15 Khu Công Nghệ Cao (thuộc phường Tăng Nhơn Phú B, thành phố Thủ Đức) với các động tác lái xe nguy hiểm, tư thế phản cảm, không mặc đồ bảo hộ, nằm, quỳ gối trên yên xe.

Lạ một điều tuy bị bắt vì chạy xe phân khối lớn nhưng Viện Kiểm Sát TP HCM lại phê chuẩn các quyết định cho phép lệnh khám xét nhà của cô ấy, thu giữ nhiều tài liệu liên quan.

Ủa, sao ngộ vậy? Lái xe phân khối lớn là vi phạm luật lái xe, hơn nữa không gây tai nạn, không làm ùn tắc giao thông tại sao lại bị bắt mà không phải là phạt hành chánh, lại còn bị khám xét nhà để tìm tài liệu liên quan là tài liệu gì, phải chăng là tài liệu mua sắm hạt xoàn đá quý cũng như đồ lót hạng cao cấp mà cô người mẫu này từng khoe trên Facebook của cô?

Hỏi cho vui thôi nhưng động thái này của công an, viện kiểm sát, tòa án cho thấy một điều là luật pháp nằm trong tay họ còn Hiến Pháp, Bộ Luật Hình Sự đều là mớ giấy lộn đối với ngành tư pháp.

Trong ba tháng nằm trong trại giam chắc Ngọc Trinh cũng ngộ ra được chân lý rằng đối với công an không điều gì mà họ không dám làm, kể cả bắt giam một con người khi người ấy chỉ vi phạm một luật nhỏ như luật lái xe. Mục tiêu của hành vi phi pháp này không phải là hoàn thiện pháp luật mà là cảnh báo toàn bộ xã hội rằng sống trong thế giới Cộng Sản không biết điều với công an là một sai lầm rất lớn, lớn đến nỗi dẫn đến gông cùm, trại giam không biết lúc nào.

Ba tháng sau, Ngọc Trinh ra tòa với lực lượng hộ tống bên cạnh như một tù nhân nguy hiểm. Hình ảnh của Ngọc Trinh bị kẹp giữa hai hàng công an khiến người ta liên tưởng đến phiên tòa xử bà Võ Thị Thắng hơn 60 năm về trước. Bà Thắng bị chế độ miền Nam bắt ra tòa vì hoạt động cho Cộng Sản còn Ngọc Trinh hôm nay ra tòa vì lái xe phân khôi lớn. Bà Võ Thị Thắng có nụ cười nổi tiếng còn Ngọc Trinh lại có khuôn mặt xinh đẹp và ăn nói ôn tồn, điềm đạm trước tòa làm nhiều người theo dõi xúc động. Có người còn cho rằng cô đáng được nhận danh hiệu “người mẫu nhân dân” vì từ cung cách ăn nói tới lời lẽ trước tòa hơn hẳn hàng trăm quan lại tham nhũng mếu máo xin tha khi bị kết án.

Nhưng có lẽ lời ăn tiếng nói của cô đã được chuẩn bị từ trước khi cô biết rằng mình sẽ không bị giam nữa. Lời lẽ đó không trách móc hệ thống luật pháp, không tố cáo cô bị sàm sỡ khi bị giam trong tù, cũng không xin xỏ được giảm án vì thật ra, sống trong xã hội Việt Nam Ngọc Trinh hiểu rất rõ luật lệ đầu tiên là “tiền đâu” để mua một bản án treo khi cô còn trong tù.

Với Ngọc Trinh vài tỷ bạc đút lót cho công an, tòa án, viện kiểm sát là con số rất nhỏ so với gia tài kếch xù của cô. Cái mất lớn nhất của Ngọc Trinh là hình ảnh bị còng tay giữa hai hàng áo xanh lạnh lẽo. Cô bước ra khỏi tòa không một cử chỉ xúc động vì cô đã biết trước sức mạnh của đồng tiền cô bỏ ra, và có lẽ không ai lạ gì với cách mua án này khi cả đất nước chìm trong án lệ “tiền mua án.”

Sau khi về tới nhà vẫn chưa thật sự yên tâm vì Ngọc Trinh biết công an khu vực toàn quyền triệu tập cô vì những chuyện trời ơi nếu cô tiếp tục yên lặng không tỏ ra tuân phục, và vì vậy, như một tín đồ thuần thành với chế độ, cô lên trang Facebook của mình tỏ ra hối lỗi và chân thành biết ơn đảng và nhà nước đã cho phép cô một cơ hội nữa để hòa nhập với xã hội!

Đấy, giàu có và tuyệt sắc như Ngọc Trinh chỉ vì không biết điều với công an khi ăn nên làm ra vẫn bị túm bởi một lý do hết sức trời ơi đất hỡi, huống chi những đại gia làm ăn bên ngoài hệ thống quốc doanh làm sao tránh cho hết một rừng luật lập ra cốt để trói chặt họ vào một án lệ bất thành văn “mua án.”

Làm gì thì cũng có án sẵn cho mỗi một con người có của ăn của để. Bây giờ bạn đang ở bên ngoài song sắt trại giam nhưng một hôm đẹp trời nào đó khi công an gõ cửa vào lúc nửa đêm bạn cũng không nên ngạc nhiên và cho rằng mình vô tội.

Đối với người giàu thì hai chữ vô tội không có trong tự điển luật lệ của công an, cái tội lớn nhất, nghiêm trọng nhất là chung chi không đủ.

Đấy nhà giàu nào cũng khóc, huống chi Ngọc Trinh chỉ là một cô nhà giàu bé nhỏ, dễ thương!


 

 Luật sư môi trường tuyệt thực trong tù trong khi Hà Nội bị ô nhiễm không khí trầm trọng

Ba’o Tieng Dan

Thục Quyên

5-2-2024

Ô nhiễm không khí ở Hà Nội tệ đến mức hơn 100 chuyến bay phải chuyển hướng hoặc hoãn cất cánh, hạ cánh vì khói bụi dày đặc, bao trùm thủ đô Việt Nam (1), gây mất an toàn do tầm nhìn kém. Một số chuyến bay phải chuyển hướng đến các sân bay khác như Cát Bi ở Hải Phòng.

Vào lúc 4h30 sáng thứ sáu 2-2-2024, sân bay Nội Bài, Hà Nội tạm dừng đón khách. Các sân bay Thọ Xuân ở Thanh Hóa, Vinh ở Nghệ An và Phú Bài ở Huế cũng bị gián đoạn hoạt động, do khói bụi ô nhiễm. Bụi mịn (PM 2.5) ở Hà Nội cao hơn 11 lần so với mức an toàn.

Theo IQAir, trang web giám sát chất lượng không khí, bụi mịn (PM 2.5) ở Hà Nội cao hơn 11 lần so với mức an toàn do WHO xác định. Người dân được khuyến cáo đeo khẩu trang khi ra ngoài trời, cũng như tránh các hoạt động ngoài trời như tập thể dục, đóng cửa sổ khi ở trong nhà và chạy máy lọc không khí.

Nguyên nhân gây ô nhiễm trầm trọng ở Hà nội

Ô nhiễm đến từ một số vật liệu xây dựng độc hại, giao thông đông đúc, công nghiệp thép và xi măng, và các nhà máy nhiệt điện đốt than.

Báo cáo năm 2020 của Ngân hàng Thế giới cho biết, gần 35% lượng bụi mịn PM 2.5 đến từ các nhà máy điện và các ngành công nghiệp lớn quanh thành phố. Khoảng 25% đến từ giao thông; có gần 8 triệu chiếc xe được đăng ký ở Hà Nội.

Khí thải amoniac từ chăn nuôi và sử dụng phân bón tạo ra 20% lượng bụi mịn PM 2,5, trong khi 10% đến  từ các sinh hoạt như nấu ăn bằng than củi và khoảng 7% từ việc đốt chất thải nông nghiệp. Việc đốt rác trong và chung quanh thành phố càng làm tình trạng trở nên tồi tệ hơn.

Mức ô nhiễm cũng tăng trong mùa đông, khi mưa ít và nhiệt độ thấp giữ tầng khí ô nhiễm ở gần mặt đất. Ngoài ra, những cơn gió cuối năm 2023 và đầu năm 2024 được cho là đã mang các chất ô nhiễm từ các siêu đô thị phía nam Trung Quốc xuống Hà Nội.

Theo ước tính của WHO năm 2016, ô nhiễm không khí thường xuyên ở Việt Nam có liên quan đến hơn 60.000 trường hợp người trẻ tử vong mỗi năm.

Lập chương trình đối phó ô nhiễm

Để đối phó tình trạng ô nhiễm ngày càng tồi tệ hơn ở Hà Nội, chính phủ Việt Nam đề ra kế hoạch giảm khí carbon, bằng cách không phát triển các nhà máy điện than mới, đồng thời giảm lượng than từ 50% xuống còn 20% công suất, từ năm 2030.

Hà Nội đang nhận được sự hỗ trợ từ Ngân hàng Thế giới để thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm ô nhiễm không khí. Tổ chức tài chính quốc tế này đã khuyến nghị các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính, chẳng hạn như chuyển hướng sử dụng năng lượng than, giảm tắc nghẽn giao thông, giảm khí thải giao thông và cải thiện các hoạt động trồng trọt và chăn nuôi.

Chính phủ Việt Nam cũng đang cố gắng lập chương trình xin tài trợ 15,5 tỷ đô la (14,25 tỷ euro) từ Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng (JETP) liên chính phủ – do Vương quốc Anh và EU đồng chủ trì, để hướng tới quá trình chuyển đổi xanh: Phát triển năng lượng thủy điện, giảm thải khí nhà kính (bớt sử dụng năng lượng than), giảm tắc nghẽn giao thông, giảm khí thải giao thông và cải thiện các hoạt động trồng trọt và chăn nuôi.

Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội gần đây cũng thông báo rằng, họ đang nghiên cứu các chính sách đào tạo nông dân trồng lúa về cách giảm thiểu và tái sử dụng chất thải thay vì đốt chúng.

Nhưng bỏ tù nhà các hoạt động môi trường

Tuy nhiên, chương trình đối phó ô nhiễm môi trường của nhà cầm quyền Việt Nam không thuyết phục. Trong vài năm qua, một số nhà hoạt động và các chuyên gia môi trường bị nhà nước Việt Nam bắt giữ. Hàng loạt tổ chức phi chính phủ bảo vệ môi trường đã phải đóng cửa, ngưng hoạt động.

Một trong những nhà hoạt động môi trường tiêu biểu là luật sư Đặng Đình Bách, 46 tuổi. Ông Bách đã bị bắt vào ngày 2-7-2021, sau đó bị kết án 5 năm tù về tội “trốn thuế”. Gia đình ông Bách cho biết, sáng 2-2-2024, tại trại giam số 6, tỉnh Nghệ An, ông bắt đầu tuyệt thực, đòi chính quyền Việt Nam phải thực thi nghiêm túc hiến pháp và pháp luật, nhằm bảo vệ quyền con người.

Theo tin từ bà Kate Holcome, thuộc Liên minh Luật Môi trường Toàn cầu (ELAW Environmental Law Alliance Worldwide) cho biết, bà Trần phương Thảo, vợ của LS Đặng Đình Bách, đã gửi thư đến các toà Đại sứ tại Việt Nam, các tổ chức bảo vệ môi trường, các bạn và đồng nghiệp của chồng bà trên toàn cầu, loan tin ông Bách bắt đầu tuyệt thực ngày 2-2-2024 để phản đối trại giam không thực thi pháp luật, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tù nhân. Bà Thảo kêu gọi sự giúp sức của mọi người trong cuộc tranh đấu đòi công lý và tự do cho chồng bà và cũng chuyển lời LS Bách đến chính quyền Việt Nam:

“Trên tinh thần xây dựng một nhà nước pháp quyền, Việt Nam cần bảo đảm thực thi nghiêm túc hiến pháp và pháp luật nhằm bảo vệ quyền con người, điều mà bấy lâu nay không được bảo vệ đầy đủ nên tạo ra những bức xúc và bất công trong toàn xã hội. Thực thi pháp luật là yếu tố tiên quyết thể hiện thiện chí của nhà nước Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế”.

Chương trình xin tài trợ 15,5 tỷ đô la từ JETP của chính phủ Việt Nam hiện đang gặp chống đối dữ dội từ Liên minh bảo vệ Khí hậu Việt Nam (VCDC – Vietnam Climate Defenders Coalition), gồm hàng trăm các tổ chức bảo vệ môi trường toàn cầu (2) vì trong hai năm qua nhiều chuyên gia hoạt động môi trường ở Việt Nam bị bắt giữ. Tổ chức này cho tuyên bố:

“Trong khi các quan chức công khai cam kết làm chậm lại vấn đề biến đổi khí hậu, thì chính phủ Việt Nam vẫn tiếp tục bắt và giam giữ những nhà hoạt động môi trường hàng đầu như LS môi trường Đặng Đình Bách“.

“Chính phủ Việt Nam hoan nghênh tài trợ từ các nỗ lực quốc tế như Đối tác Chuyển đổi Năng lượng Công bằng (JETP) trị giá 15,5 tỷ đô la, đồng thời bịt miệng các nhà hoạt động. Chính phủ Việt Nam đang cố che giấu điều gì với cộng đồng quốc tế và các nhà đầu tư?“

VCDC nêu lên sự vi phạm của chính phủ Việt Nam về khía cạnh “công bằng” của JETP khi xã hội dân sự ở Việt Nam bị hạn chế nghiêm trọng về khả năng tham gia vào quá trình này. VCDC cũng lên tiếng đòi hỏi sự giám sát của Nhóm Đối tác Quốc tế (G7 và Hoa Kỳ) và các nhà tài chính của JETP.

Để có một quá trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam, các nhà chức trách cần:

– Tìm cách trả tự do ngay lập tức cho ông Đặng Đình Bạch, bà Hoàng Thị Minh Hồng và các nhà lãnh đạo xã hội dân sự khác đang bị cầm tù bất công ở Việt Nam.

– Tiến hành thẩm định nghiêm ngặt các mối đe dọa đối với những người bảo vệ môi trường và nhân quyền cũng như các hạn chế đối với hoạt động môi trường và sự tham gia của người dân ở Việt Nam, phù hợp với các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường và xã hội của các bên liên quan của JETP, vì chúng liên quan đến việc tài trợ và thực hiện dự án do JETP tài trợ.

– Bảo đảm tuân thủ nghiêm ngặt chính sách “tham gia cộng đồng mà không sợ bị trả thù“ được cam kết bởi các bên liên quan JETP, bao gồm IFC, ADB và Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP); và phát triển các quy tắc điều chỉnh cụ thể để chủ động ứng phó với các hành động trả thù nếu chúng xảy ra.

– Yêu cầu việc tài trợ và thực hiện dự án JETP phụ thuộc vào các biện pháp bảo vệ rõ ràng, chống lại sự trả thù và trả đũa đối với những người bảo vệ môi trường và các nhà hoạt động nhân quyền, cùng với các khung chính sách để xã hội dân sự tham gia một cách tự do và an toàn vào việc thiết kế, ra quyết định, giám sát và thực hiện dự án của JETP. 

– Thúc đẩy các điều kiện thuận lợi cho xã hội dân sự, được quy định bởi các tiêu chuẩn và hiệp ước quốc tế nhằm tạo ra và duy trì, về mặt luật pháp và trên thực tế, một môi trường thuận lợi an toàn cho xã hội dân sự tự do hoạt động, bao gồm cải cách luật pháp và chính sách liên quan đến đăng ký và các yêu cầu về thuế đối với dân sự, các hiệp hội xã hội quá nặng nề và không phù hợp với các quyền cơ bản, bao gồm quyền tự do hội họp, lập hội và biểu đạt.

Quá trình chuyển đổi năng lượng xanh sẽ không thành công cho đến khi các chuyên gia bảo vệ môi trường như LS Đặng Đình Bách và các nhà hoạt động môi trường được quyền lên tiếng công khai và tự do dẫn đầu phong trào.

_______

Ghi chú:

(1) https://www.euronews.com/green/2024/02/02/air-pollution-is-so-bad-in-this-asian-capital-that-flights-are-being-diverted-due-to-low-v

(2) https://www.standwithbach-viet.org/


 

 Cảm nhận về nền kinh tế sẽ quyết định kết quả bầu cử

 Ba’o Nguoi-Viet

February 6, 2024

Hiếu Chân/Người Việt

Cử tri Mỹ thường lựa chọn bỏ phiếu theo quan niệm của họ về hiện tình của đất nước, trong đó kinh tế là yếu tố chính. “Kinh tế mới là vấn đề, đồ ngu à” (It’s the economy stupid) – câu nói nổi tiếng của ông James Carville, cố vấn chiến dịch tranh cử của ứng cử viên Bill Clinton, năm 1992 đến nay vẫn được coi là kim chỉ nam cho các cuộc vận động tranh cử tổng thống. Yếu tố kinh tế, hay đúng hơn là cảm nhận của người dân Mỹ về nền kinh tế hiện nay ra sao, và điều đó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến lựa chọn của họ?

Tổng Thống Joe Biden nói chuyện về kinh tế tại Superior, Wisconsin, hôm 25 Tháng Giêng. (Hình minh họa: Stephen Maturen/Getty Images)

Vài ngày trước, bà Nikki Haley – người đang nỗ lực giành chiếc vé đại diện đảng Cộng Hòa trong cuộc đua vào Tòa Bạch Ốc cuối năm nay –  tuyên bố: “Chúng ta có một nền kinh tế đang hỗn loạn với lạm phát vượt ngoài tầm kiểm soát.” Nhiều cử tri Cộng Hòa nghe theo và tin lời bà.

Một cuộc thăm dò ý kiến của tổ chức YouGov với câu hỏi: “Nhìn chung, quý vị nghĩ nền kinh tế đang tốt hơn hoặc tệ hơn,” ghi nhận trong số cử tri Cộng Hòa có 71% tin rằng nó đang tệ hơn, chỉ có 7.4% cho rằng nền kinh tế đang tốt hơn trước. Ở phía đảng Dân Chủ, cuộc thăm dò ghi nhận có 48.1% cho rằng nền kinh tế đang tốt hơn, 17.6% cho rằng nó đang xấu đi.

Một cuộc khảo sát khác, do Trung Tâm Nghiên Cứu Các Vấn Đề Công Cộng NORC phối hợp với hãng tin AP thực hiện vào đầu Tháng Hai ghi nhận 35% số người Mỹ trưởng thành nói rằng nền kinh tế đang tốt, tăng so với 30% trong cuộc khảo sát cuối năm ngoái và 24% so với cuộc khảo sát một năm trước. Trong khi đó, vẫn có 65% cho rằng nền kinh tế đang tệ hơn, dù con số này có cải thiện so với 76% của năm ngoái.

Tổng hợp các cuộc khảo sát ý kiến, nghiên cứu của Pew Research Center công bố cuối tháng trước cho thấy chỉ có 28% người Mỹ nhận xét nền kinh tế hiện nay là tốt hoặc rất tốt, trong đó phía Dân Chủ có 44% và phía Cộng Hòa có 13%.

Ở phía các chuyên gia, ông Jerome Powell, chủ tịch Ngân Hàng Liên Bang (Fed), trong cuộc họp báo Thứ Tư tuần trước, tuyên bố: “Hãy thành thật, kinh tế hiện nay tốt.” Nhà bình luận Paul Krugman của nhật báo The New York Times, người được giải Nobel về kinh tế học, thì cho rằng nền kinh tế Mỹ đang vừa nóng vừa lạnh, nóng về tốc độ tăng trưởng và thị trường việc làm nhưng lạnh về lạm phát.

Với một nền kinh tế phát triển và khổng lồ như Hoa Kỳ, các con số lý tưởng được các kinh tế gia nhắm tới là 3-2: tăng trưởng 3%/năm và lạm phát 2%/năm – đủ để người dân năm sau khá giả hơn năm trước.

Số liệu thống kê chính thức cho thấy tổng sản lượng nội địa (GDP) của Mỹ tăng 3.3% trong quý cuối năm 2023. Tính chung cả năm 2023, mức tăng GDP của Mỹ đạt 2.5%. Tỉ lệ này thấp hơn Canada (3.3%) và Anh (4.2%) nhưng cao hơn nhiều nền kinh tế phát triển khác như Pháp (2.2%), Đức (1.9%), Nhật (1.1%), và Ý (0.9%). So với thời trước đại dịch COVID-19, nền kinh tế Mỹ ngày nay đã “lớn” thêm 7% trong khi nền kinh tế của khu vực đồng tiền chung Châu Âu chỉ “lớn” thêm 3%.

Tăng trưởng kinh tế của Mỹ được cho là nhờ người tiêu dùng chi tiêu mạnh, thị trường lao động bền vững, và chi tiêu của chính phủ vào cơ sở hạ tầng và năng lượng sạch. Những khoản trợ cấp lớn của chính phủ liên bang trong hai năm 2020-2021 đã thúc đẩy các gia đình Mỹ chi tiêu và tiết kiệm. Tiền lương tăng và giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán cũng tăng càng thúc đẩy người dân phóng tay chi dùng sau mấy năm thắt lưng buộc bụng vì dịch bệnh.

Tuy vậy, những người cho rằng nền kinh tế tệ hơn trước đổ lỗi cho sự điều hành của chính quyền Joe Biden và đảng Dân Chủ với những chính sách như thay thế năng lượng hóa thạch bằng năng lượng sạch, thay dần xe chạy xăng bằng xe chạy điện, tăng mức lương tối thiểu cho công nhân lao động và tăng đầu tư sửa chữa cơ sở hạ tầng đường sá. Những chính sách này được cho là yếu tố tạo ra lạm phát và gây khó khăn cho cuộc sống người dân. Cá biệt, cựu Tổng Thống Donald Trump còn tuyên bố vô căn cứ rằng sở dĩ thị trường chứng khoán tăng mạnh gần đây là do nhà đầu tư tin tưởng ông sẽ quay lại Tòa Bạch Ốc đầu năm tới và mang lại cho họ cơ hội gia tăng lợi nhuận!

Trên thị trường lao động, trong Tháng Giêng có thêm 353,000 việc làm và tỉ lệ thất nghiệp vẫn giữ mức 3.7% – chỉ cao hơn chút đỉnh so với mức thất nghiệp cách đây nửa thế kỷ. Tính chung trong ba năm cầm quyền của Tổng Thống Joe Biden, đến cuối năm, nước Mỹ đã có thêm 14 triệu việc làm – một con số ấn tượng. Trong ba năm đầu cầm quyền, ông Trump cũng góp phần tạo ra 6 triệu việc làm cho nền kinh tế nhưng thành tích đó bị xóa sạch trong thời đại dịch. Ông Trump kết thúc nhiệm kỳ tổng thống với hàng triệu việc làm bị mất và tỉ lệ thất nghiệp lên tới 8.05%. Bây giờ, trước thành tích tạo việc làm của chính quyền Biden, ông Trump không ngần ngại tuyên bố những con số ấn tượng đó là “tin giả” (fake news).

Truyền thông vẫn đưa tin liên tục về chuyện các công ty công nghệ lớn sa thải hàng vạn nhân viên, nhưng người bị sa thải tỏ ra không quá bi quan trong một thị trường lao động mạnh, họ có thể tìm được việc làm khác hoặc tự khởi sự doanh nghiệp không quá khó khăn.

Nếu tăng trưởng GDP và công ăn việc làm là “điểm nóng” của nền kinh tế Mỹ như nhận định của Giáo Sư Krugman thì lạm phát là “điểm lạnh” đáng chú ý nhất. Lạm phát không chỉ tác động đến túi tiền của người dân, đến chi tiêu hàng ngày mà còn ảnh hưởng nặng nề đến cảm nhận của họ về nền kinh tế. Có thể nói, chính tỉ lệ lạm phát cao những năm 2021-2022 làm cho người Mỹ có cái nhìn bi quan về thực trạng nền kinh tế – một cảm nhận tồn tại dai dẳng cho đến nay bất chấp dữ kiện thực tế.

Số liệu của Bộ Lao Động công bố hôm 11 Tháng Giêng ghi nhận tốc độ lạm phát của Mỹ trong năm 2023 vừa qua là 3.4%/năm. Nếu không tính giá của những mặt hàng có độ tăng giảm lớn là thực phẩm và xăng dầu thì mức “lạm phát lõi” (core inflation rate) chỉ còn dưới 2%, đạt mục tiêu mà Fed nhắm tới và Fed đang tính chuyện giảm lãi suất căn bản.

Lạm phát, hay giá cả tăng cao, là một hiện tượng toàn cầu, xảy ra ở hầu hết các quốc gia do đại dịch COVID-19 và cuộc chiến tranh Nga-Ukraine làm gián đoạn các nguồn cung cấp hàng hóa, thấy rõ nhất ở giá xăng dầu và giá thực phẩm. Trong ba năm qua, lạm phát ở Mỹ đã lên đến đỉnh điểm 7%/năm vào năm 2021, sau đó giảm xuống 6.5% năm 2022 ,và hiện là 3.4%/năm. Như vậy, trong khi nhiều nước khác vẫn đang vật lộn với tốc độ lạm phát cao ngất ngưởng thì lạm phát ở Mỹ có xu hướng giảm đều. Tính chung, so với thời trước đại dịch, giá cả hàng hóa tăng thêm khoảng 20% trong khi tiền lương của người lao động cũng gia tăng ở mức tương đương.

Không phải ai cũng được tăng lương trong thời gian đó nhưng vật giá leo thang thì tác động đến túi tiền của tất cả mọi người, cho nên trong cảm nhận của người dân, lạm phát vẫn là một nỗi lo lắng thường trực. “Điểm lạnh” lạm phát dễ dàng khiến người ta bỏ qua hoặc lãng quên những “điểm nóng” về tăng trưởng GDP và thị trường lao động.

Và thế là xảy ra một nghịch lý như nêu trên: Trong khi nền kinh tế có bằng chứng phát triển tích cực thì cảm nhận của người dân về nền kinh tế lại tiêu cực. Ông Biden cầm quyền trong thời kỳ mà kinh tế Mỹ tăng trưởng tốt, thị trường chứng khoán lập những đỉnh cao kỷ lục nhưng cho đến nay người Mỹ vẫn không mấy lạc quan. Tỉ lệ cử tri ủng hộ ông Biden vẫn lẹt đẹt ở mức 38%, thấp nhất trong các đời tổng thống và không thay đổi nhiều trong suốt hai năm qua. Về thành tích điều hành kinh tế của chính quyền Biden, đánh giá của cử tri còn tệ hơn nữa, chỉ 35% ủng hộ cái gọi là “Bidenomics.”

Niềm tin của người dân vào triển vọng kinh tế của đất nước luôn xếp đầu bảng trong các mối quan tâm của cử tri và có thể là yếu tố quyết định kết quả cuộc bầu cử cuối năm nay. Tổng Thống Biden và các phụ tá của ông đã cố gắng nhấn mạnh các thành tích của nền kinh tế trong các cuộc vận động tranh cử, nhưng nỗ lực đó là quá muộn và bị pha loãng vì những vấn đề nóng khác như chiến tranh ở Trung Đông và sự hỗ trợ của chính quyền Biden cho chính phủ cực hữu Israel gây thảm họa nhân đạo ở Dải Gaza, tình trạng bế tắc trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng an ninh ở biên giới phía Nam…

Thêm nữa, người dân ít khi nhìn nền kinh tế qua các số liệu thống kê khô khan rối rắm mà theo cảm nhận cá nhân. Họ đánh giá độ mạnh yếu của kinh tế qua số tiền lương chuyển vào trương mục ngân hàng, qua hóa đơn tiền thực phẩm, qua số tiền đổ xăng hằng ngày, hoặc qua tiền thuê nhà phải trả mỗi tháng. Người ta bàn với nhau số phân lời khi vay tiền ngân hàng mua nhà đã lên tới 7%, 8% trong khi báo cáo của Freddie Mac – cơ quan lo việc cho vay tiền mua nhà – xác nhận có hơn 60% người vay mua nhà chỉ trả tiền lời dưới 4%, tức là họ vay từ trước khi tăng lãi suất và không bị phân lời cao ảnh hưởng.

Nếu không sớm có những biện pháp điều chỉnh hiệu quả trong chiến dịch tranh cử đang diễn ra sao cho người dân Mỹ cảm thấy họ được lợi từ sự phát triển kinh tế mấy năm nay và chính sách kinh tế của ông đem lại tăng trưởng bền vững cho tương lai nước Mỹ, ông Biden có thể gặp khó. [đ.d.]


 

Trump không được miễn truy tố vụ 6 Tháng Giêng

Ba’o Nguoi-Viet

February 6, 2024

WASHINGTON, DC (NV) – Cựu Tổng Thống Donald Trump không được hưởng quyền miễn truy tố trong vụ âm mưu lật ngược kết quả bầu cử năm 2020, tòa kháng án liên bang thống nhất phán quyết hôm Thứ Ba, 6 Tháng Hai, theo CNBC.

Ba chánh án Tòa Kháng Án Hoa Kỳ ở District of Columbia thẳng thừng bác bỏ việc cựu Tổng Thống Trump tranh luận rằng ông được hưởng quyền miễn truy tố vì ông là tổng thống vào lúc xảy ra vụ đó.

Cựu Tổng Thống Donald Trump. (Hình minh họa: David Becker/Getty Images)

“Chúng tôi không thể chấp nhận rằng các cựu tổng thống được đứng trên luật pháp suốt thời gian sau đó,” ba chánh án của Tòa Kháng Án Liên bang ở District of Columbia viết trong phán quyết.

Phán quyết này là thất bại pháp lý lớn mới nhất cho cựu Tổng Thống Trump, ứng cử viên tổng thống năm 2024 hàng đầu của đảng Cộng Hòa. Theo dự trù, ông sẽ nhanh chóng yêu cầu Tối Cao Pháp Viện hủy bỏ phán quyết này, hoặc yêu cầu toàn bộ chánh án Tòa Kháng Án Hoa Kỳ ở DC xét xử lại vụ này.

Cuộc chiến pháp lý liên quan tới việc cựu Tổng Thống Trump được hưởng quyền miễn truy tố hay không xuất phát từ vụ án hình sự can thiệp bầu cử do ông Jack Smith, công tố viên đặc biệt, đưa ra tòa liên bang ở DC.

Cựu Tổng Thống Trump bị truy tố bốn tội trong vụ âm mưu lật ngược kết quả bầu cử tổng thống năm 2020, gồm đồng lõa lừa đảo Hoa Kỳ và đồng lõa cản trở công việc của chính phủ. Ông không nhận tội.

Ông Steven Cheung, phát ngôn viên ban tranh cử cựu Tổng Thống Trump, chỉ trích phán quyết hôm Thứ Ba. Ông Cheung ra tuyên bố cho hay, nếu không được hưởng quyền miễn truy tố “hoàn toàn,” “bất cứ tổng thống nào trong tương lai sau khi hết nhiệm kỳ cũng sẽ bị đảng đối lập truy tố ngay lập tức.”

Ba chánh án Tòa Kháng Án Hoa Kỳ ở DC ra phán quyết hôm Thứ Ba gồm hai người do Tổng Thống Joe Biden (Dân Chủ) đề cử và một người do cựu Tổng Thống George H.W. Bush (Cộng Hòa) đề cử.

Ông Smith, công tố viên đặc biệt, cáo buộc cựu Tổng Thống Trump hô hoán sai trái rằng cuộc bầu cử năm 2020 bị gian lận lan tràn để lấy cớ cố lật ngược chiến thắng của Tổng Thống Biden bằng hàng loạt âm mưu hình sự. Những âm mưu đó gồm tung ra đại cử tri giả ủng hộ ông Trump ở các tiểu bang mà ông Biden thắng, cố dùng Bộ Tư Pháp để thực hiện những cuộc điều tra bầu cử “giả mạo,” và chống đối thủ tục chứng nhận kết quả bầu cử hợp pháp hôm 6 Tháng Giêng, 2021.

Cựu Tổng Thống Trump gọi vụ truy tố này là “vụ săn phù thủy” nhằm làm hại chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2024 của ông. Thời gian qua, ông cố làm dư luận lo sợ rằng, nếu ông bị tước quyền miễn truy tố, hàng loạt cựu tổng thống khác cũng sẽ bị truy tố.

Ngoài vụ này, cựu Tổng Thống Trump còn bị truy tố trong ba vụ hình sự khác, gồm can thiệp kết quả bầu cử ở Georgia, đem tài liệu mật về nhà riêng ở Florida, và làm ăn gian lận ở New York. (Th.Long) [qd]

Xem them: VOA


 

Hãy hạnh phúc ngay bây giờ!

Chúng ta tự thuyết phục mình rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn sau khi chúng ta kết hôn, có con, có công việc và có một ngôi nhà mới. Sau đó, chúng ta lại thất vọng khi những đứa con của chúng ta chậm lớn và chúng ta không đạt được những điều mình mong muốn.

Sự thật thì không có thời gian nào tốt hơn để hạnh phúc cho bằng ngay bây giờ! Bởi nếu không phải bây giờ thì là khi nào?

Cuộc sống của bạn luôn luôn đầy ắp những sự thách thức. Dù thế nào đi nữa, cách tốt nhất là bạn hãy tự thừa nhận điều này và quyết định một cuộc sống hạnh phúc.

Hãy đánh giá cao mỗi khoảnh khắc bạn có và đánh giá cao hơn nữa bởi vì bạn chia sẻ nó với một số người đặc biệt – đủ đặc biệt để bạn dành thời gian với họ… Và nhớ rằng thời gian không chờ ai!

Vì thế mà hãy dừng việc chờ đợi…

… cho đến khi bạn có một ngôi nhà

… cho đến khi bạn có một chiếc xe hay một công việc mới

… cho đến khi bạn quay lại trường học

… cho đến khi bạn… giảm đi vài cân

… cho đến khi bạn hoàn thành chương trình học ở trường

… cho đến khi bạn kết hôn

… cho đến khi bạn ly hôn

… cho đến khi bạn có con

… cho đến khi những đứa con của bạn rời khỏi gia đình

… cho đến khi bạn nghỉ hưu

… cho đến mùa hè

… rồi lại mùa thu

… mùa đông

… mùa xuân

… và cho đến khi bạn không còn nữa!

Hạnh phúc không có nghĩa là mọi thứ đều hoàn hảo. Hạnh phúc là khi bạn quyết định nhìn thấy tầm xa của sự dở dang nào đó.

Không có thời gian nào tốt hơn bây giờ để hạnh phúc… Hãy tin rằng bạn hạnh phúc vào ngay ngày hôm nay!

Khát vọng tuổi trẻ

From: haiphuoc47 & NguyenNThu


 

CUỘC ĐỜI CHỈ CẦN VẬY LÀ ĐỦ!

Trên chuyến tàu về quê ăn Tết, tôi ngồi gần ông bà cụ ấy! Hình như ông cụ còn phải đeo máy trợ thính, thuốc trợ tim và hộp xịt bệnh hen suyễn luôn kè kè bên cạnh. Ông cụ có vẻ mệt hơn bà cụ nhiều vì đường khá xa, nhưng ông không hề kêu ca, chỉ chăm chú để ý bà, thi thoảng hỏi “Bà có mệt không? Có cần nằm không thì tôi xuống đất ngồi để bà nằm ghế”.

Bà chỉ lẳng lặng lắc đầu, rồi lại nhìn ra phía cửa. Thi thoảng ông lại nắm tay bà hỏi lại “Bà có mệt không? Có cần nằm không?”

Lúc bà mệt và gục vào ông ngủ, tôi hỏi ông bà lấy nhau bao lâu rồi? Ông bảo ôi ông cũng chả rõ. Lâu lắm rồi. Giờ bà ấy già lẫn còn không nhớ ra ông là ai nhưng vẫn ở bên ông vì cảm giác ông quen quen hơn mọi người khác.

Tôi nhớ nhiều lần nằm cạnh nhau, H hỏi, “M ơi nếu sau này em tầm 60 tuổi mà đã mất trí nhớ ấy, anh có dắt em ra ngoài đường bỏ em ngoài không ?”. Những lần như thế tôi nổi giận hét :” vợ với con liên thiên à, im ngay không tớ tống chuối vào mặt bây giờ”. Vì tôi nghĩ vợ mình toàn kiểu thẩn thơ lo vớ lo vẩn.

Hôm nay tôi mới hiểu, cuộc đời người đàn bà, ai cũng chỉ mong yêu được, lấy được một người chồng mà cho tới khi già cỗi, chẳng còn phân biệt được ai với ai, vẫn có người ấy thật lòng ở bên chăm sóc, nắm tay nhau cho đến lúc hơi tàn. Giống như ông bà cụ mà tôi gặp hôm nay.

Tình yêu, là thương lấy mọi thứ của nhau, dù là khi còn trẻ, hay là lúc nhăn nheo tuổi già.

Giờ nếu mụ vợ mất não của tôi, nó mà dụi mặt hỏi tôi liệu có bỏ nó nếu nó già đi và lú lẫn không, tôi sẽ không bao giờ nổi nóng  doạ đập chuối vào mặt nó nữa. Vì đi nhiều, gặp nhiều, tôi đã hiểu được trong lòng nó luôn lo sợ điều gì.

Tôi cũng chỉ mong sau này nếu lỡ tôi già trước, tôi quên nó trước, nó vẫn ngồi cạnh tôi, trên chuyến tàu nào đó chẳng hạn, nắm lấy tay và thi thoảng hỏi, “M ơi ông có mệt không?”

Chắc cuộc đời, chỉ như vậy là đủ.

DieuLe__Sưu tầm

From: haiphuoc47 & NguyenNThu


 

NGHIỆP ĐỜI CÒN Ở ĐÂU ĐÂY…?! – NGUYỄN GIA VIỆT

NGUYỄN GIA VIỆT

Một người vừa mất, bà con đầu tiên là hơi chất ngất vì lẽ sanh lão bịnh tử, kế nữa là hay hỏi một câu “Xét công nghiệp, vị đó đã làm lợi gì cho dân tộc?”

Khi Thiền sư Nhất Hạnh vừa qua đời, hỏi rằng ông đã làm gì lợi cho dân tộc mình?

Tôi có quen một vị sư trù trì một ngôi chùa cổ, khi nói về sự uyên bác của Thiền Sư Thích Nhất Hanh thì cái gì ông cũng ok, duy nhứt có một cái ông ngập ngừng và lắc đầu.

Nhiều nguồn tin nói Thiền sư Nhất Hạnh xuất gia tu học từ năm 16 tuổi nhưng đã từng có vợ con, bà vợ tên Cao Ngọc Phượng!

CNP Là ai? là bà ni sư đi Chân Kh trong Làng Mai đó . Albert Einstein từng nói “Không có gì trên đời là tuyệt đối. Cái duy nhất tuyệt đối là cái tương đối.”

Viết cái này không phải kể xấu thiền sư Thích Nhất Hạnh mà chỉ nói lên một sự thực

Nói vầy sẽ nhớ tới vụ “Thầy ông nội”

Ðúng theo Ðạo Phật thì người xuất gia (mà chúng ta quen gọi là Sư Tăng) không được lập gia đình

Thiền sư Thích Nhất Hạnh sau khi gần như bị VNCH trục xuất ra khỏi VN đã ở tư thế lưu vong,ông có công lớn trong việc phổ biến dòng thiền Làng Mai ra toàn thế giới, song ông bị dính hai vấn đề, thứ nhứt là dính chánh trị , thứ nhì là dính….

Nhiều tài liệu khẳng định thiền sư ở với bà CNP có hai đứa con gái

Ngày nay sư cô Chân Kh cũng là một nhân vật quan trọng trong Làng Mai,  phát ngôn rổn rảng.

Cuốn “Đi vào cõi thơ” ấn hành năm 1969 tại SG của Bùi Giáng, ông Bùi Giáng chê ông Thích Nhất Hạnh bằng một câu:

“Nhất Hạnh có nguồn thơ chứa chan. Chúng ta không hiểu vì lẽ gì nguồn thơ đó lại không đủ sức ngăn cản ông, khiến ông hì hục hiện đại hóa Phật Giáo Uyên Nguyên. Trường hợp Nhất Hạnh là trường hợp một thi sỹ thiên tài bị vướng phải cạm bẫy của triết học Tây Phương”.

Vào ngày 5/2/ 1966 ông Thích Nhất Hạnh sáng lập tại Việt Nam dòng tu “Tiếp Hiện”, tiếng Anh là The Order of Interbeing, tiếng Pháp là L’ordre de l’interêtre.

Dòng tu này dành cho người xuất gia cũng như người thế tục, nam cũng như nữ.

Quan trọng là dòng này cho phép người tu lập gia đình.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh có công giới thiệu đạo Phật theo giáo phái Làng Mai của ông ấy cho giới thị dân Âu Mỹ trong thế giới lậm khoa học làm nhiều người bị stress và mất phương hướng.

Tạm gọi Thiền sư Thích Nhất Hạnh tạo ra “Đạo Bụt” gồm thiền và lời nói dạng “diễn xướng” phần nhiều .

Thiền mà đụng nhau tay chân quơ quào,ôm ấp yêu thương có gì đó nó trần tục quá.

Cái vụ bông hồng cài áo trắng hay đỏ là của ông Hạnh làm trong mùa Vu Lan năm 1962.

Thực ra màu mè, mẹ là thuật ngữ linh thiêng, không cớ gì phân màu ra trắng hay đỏ, không cớ gì một bên hể hả vui sướng vì còn mẹ, một bên phải đau đớn ràn rụa nước mắt vì mất mẹ.

Đức Phật chủ trương chúng sanh bình đẳng. Vậy sao lại phân loại tâm lý giữa hồng trắng và đỏ?

Rồi những thuật ngữ như phải ôm mẹ, phải nói rằng:”Mẹ ơi, con thương mẹ lắm” cũng có gì đó đầu môi chót lưỡi.

Thiền môn là tự tâm, tự lòng, từ con tim. Kính mẹ là từ hành động, yêu mẹ là từ thực tế, không có chỉ là chót lưỡi

Rồi Đạo Phật thành Đạo Bụt có gì đó liêu trai chí dị.

Làng Mai của ông Nhất Hạnh không niệm “A Di Đà Phật” hay “Mô Phật” thì đổi lại thành “A Di Đà Bụt” hay “Mô Bụt”

Họ niệm Phật cũng khác “Nam Mô Bụt Thích Ca Mâu Ni” thay vì “Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật”

Nghe trái trái lổ tai.

Đạo Phật thành Đạo Bụt có gì đó hơi cải lương.

Sư Ông Làng Mai Thích Nhất Hạnh trả lời: “Sở dĩ chúng tôi dùng chữ đạo Bụt mà không dùng chữ đạo Phật, vì chúng tôi nghĩ rằng chữ Bụt có tính dân tộc hơn chữ Phật”.

Nhưng ông quên rằng người Việt từ lâu đã phân định Bụt là một ông Tiên râu tóc bạc phơ, cầm phất trần của Lão giáo.

Còn Phật thì khác.

Dù trong lịch sử VN thời Bắc Kỳ xưa có kêu chữ Buddha là Bụt.

Chữ Phạn Buddha (बुद्ध) có nghĩa là người “đánh thức”,”thức tỉnh” hay “giác ngộ”.

Bud là giác, dha là người..Buddha không phải là tên họ ai hết, nó là cái danh hiệu ca tụng công đức Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Tên khai sanh của Ngài là Siddhārtha (Sĩ Đạt Ta hoặc Tất Ðạt Ta),.họ là Gautama.(Cồ-đàm). Cha là vua Tịnh Phạn (śuddhodana) và mẹ là Hoàng hậu Tịnh Diệu (Māyādevī)

Bắc Kỳ đọc Buddha thành “Bụt-đà” hay “Bụt-đà-da”,.sau dài quá mỏi mồm,.đọc thành Bụt.

Nhưng sau này Bụt thiên về Lão giáo rồi, Phật tách biệt rõ ràng.

Chữ Bụt là chữ của Miền Bắc, bằng chứng là trong Tấm Cám có ông Bụt ban phép, nhưng râu tóc bạc phơ, tức là văn hóa Miền Bắc lái chữ Bụt qua Tiên Ông của Đạo giáo.

Thành ra Đạo Bụt của thiền sư Thích Nhất Hạnh làm mưa làm gió ở trời Tây vì Tây nó không hiểu văn hóa Việt Nam, nhưng đem về Việt Nam và Á Châu thì bị dội ngược không ai nghe theo vì hai nơi này có lịch sử Phật lâu đời.

Ông Thích Nhất Hạnh là một thiền sư, một triết gia, một nhà văn hay là một nhà hoạt động chánh trị vẫn là câu hỏi khó trả lời.

Riêng cá nhân tôi không thích cũng không ghét ông.

Tôi chưa bao giờ đọc và không có ý định đọc những cuốn sách thiền của ông.

Cuốn”Hoa Sen Trong Biển Lửa”xuất bản 1967 của ông mang hơi hám đậm màu chánh trị phe phái quá.

Thích Nhất Hạnh tất nhiên gọi vụ HT Thích Quảng Đức là “tự thiêu”

Nhưng ông cũng luồn lách, lòng vòng câu chữ dữ lắm về vụ này, thí dụ:

“Hôm rời Nữu Ước về Stockholm, tôi gặp một nữ bác sĩ người Hoa Kỳ cùng đi một chuyến bay. Bà hỏi tôi rất nhiều chuyện về Việt Nam. Bà rất tán thành quan điểm của những cuộc vận động chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam nhưng bà cực lực phản đối việc tự thiêu của Hoà Thượng Quảng Đức.

Theo bà, chỉ có những người tâm trí không bình thường mới đi làm cái công việc tự thiêu ấy

Bà cho sự tự thiêu là dã man, là bạo động, là cuồng tín, là mờ ám, là mất thăng bằng. Dù tôi đã nói hết lời cho bà biết rằng Hoà Thượng Quảng Đức là một vị tăng sĩ trên bảy mươi tuổi, rằng tôi có sống chung với Ngài ở chùa Long Vĩnh gần suốt một năm trời, rằng tôi nhận thấy rằng Ngài là một người đầy nhân ái và rất sáng suốt, rằng lúc tự thiêu Ngài đã tỏ ra rất trầm tĩnh và đầy chủ lực tinh thần, bà cũng không tin. Tôi đành im lăng vì biết rằng bà không thể hiểu hoặc không có khả năng để hiểu. Bà không thể hiểu vì bà chỉ có thể đứng ở một quan điểm khác để nhìn, thế thôi

Thế giới đặt nhiều nghi ngờ, nhiều giả thiết về “những người Phật Giáo” ở Việt Nam. Có nhiều người suốt đời không có một quan niệm rõ rệt nào về đạo Phật. Phật Giáo, họ nghĩ, là một thứ tín ngưỡng tạp nhạp. Những ông thầy tu là những người thiếu học, mê tín, tin ngây thơ vào luân hồi. Họ cạo đầu, ăn chay và đọc kinh để mong thoát khỏi luân hồi.

Họ gây rối loạn ở Việt Nam, cản ngăn công việc chống Cộng.

Hoặc họ có tham vọng quyền hành, hoặc họ bị Cộng sản lợi dụng, hoặc họ ngây thơ tin rằng họ có thể đối địch với Cộng sản, cái ngây thơ của một con cừu tin tưởng vào một con chó sói. Rồi người ta đặt vấn đề Phật tử chiếm mấy mươi phần trăm dân số. Người ta phân biệt Phật tử thực hành và Phật tử chỉ có tên là Phật tử

Người ta phân biệt Phật tử quá khích (militant) và Phật tử ôn hoà. Nhưng rốt cuộc, người ta vẫn không hiểu được Phật giáo Việt Nam là gì và do đó, không thể hiểu được vấn đề Việt Nam. Vấn đề khá phức tạp, nếu người ta chỉ bằng lòng với dăm ba điều hỏi thăm lặt vặt đây đó rồi dựa vào đấy để tìm hiểu và nhảy ào tới kết luận, thì người ta chỉ có thể quan niệm vấn đề một cách sai lạc”.

Dài dòng, biện chứng tư duy như vậy để rốt cuộc ông chốt Hoà Thượng Quảng Đức “tự thiêu” là chân lý, phải như vậy mới đúng Phật giáo kiểu VN.

Chúng ta sau 1975 thấy rằng có một số người tự thiêu, cái này là tự đổ xăng, tự châm lửa nha, nhưng hình như chẳng ai biết, mà có biết thì thế giới cũng im re. Ông Nhất Hạnh không đá động tới. Té ra tinh thần Phật giáo cũng còn chữ tùy.

Sau 1963 thầy Thích Nhất Hạnh thuộc phe Ấn Quang ở nước ngoài .Ông không xưng Hòa thượng, ông xưng ông là Thiền sư.

Danh xưng thiền sư 禪師(Zen Master). Thiền sư là Người đã Kiến Tánh.

Kiến tánh là nhận rõ cái tánh chơn thật của chính mình trong thiền tông tu tập.

Tại sao ông Thích Nhất Hạnh không xưng là 和尚 hoà thượng như những vị sư của thiền phái khác?

Và trong cuốn sách “Hoa sen…” kể trên lượm ra vô số những thuật ngữ quen quen.

Ông viết vầy:

“Trong tâm trí người Việt Nam hồi đó nhất là người dân quê, Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ anh hùng ái quốc chống Pháp và dành độc lập cho Việt Nam “.

Thích Nhất Hạnh viết “Cách Mạng Tháng Tám năm 1945″, ” ủng hộ Nam Bộ kháng chiến”.

Thiền sư gọi HCM là “cụ” -cụ Hồ Chí Minh, nhưng khi viết về hai nhân vật lịch sử khác thì gọi trống không là Bảo Đại và Ngô Đình Diệm.

Ông viết quần chúng, chiến khu, phong trào yêu nước hướng về cs.

Xài từ “người Công Giáo yêu nước”.

Lưu ý là chữ Cộng Sản thì ông Nhất Hạnh viết hoa và chữ “quốc gia”ông viết thường, cho vô ngoặc kép

Cụ thể:

“Quần chúng không ai ủng hộ Bảo Đại, cũng như không ai ủng hộ sự trở lại của người Pháp.

Quần chúng hướng về phía chiến khu, về lực lượng kháng chiến.

Quần chúng trong thời gian đó, vẫn chỉ nghĩ đến công cuộc kháng chiến như là một phong trào yêu nước dành độc lập và ít để ý đến sự bành trướng của thế lực Cộng Sản trong đó.

Các chính phủ “quốc gia” dưới thời của Quốc Trưởng Bảo Đại cũng tuyên truyền chống Cộng, nhưng sự tuyên truyền không có hiệu lực, bởi vì quần chúng không thể tin một điều gì do người Pháp và chính quyền bù nhìn của họ nói ra. Tất cả những gì họ làm, họ nói, trong ý niệm của quần chúng, đều là trái chống quyền lợi dân tộc Việt Nam”

Ông ghét TT Ngô Đình Diệm khi viết ông này có “một mớ uy tín”. Uy tín mà Thiền sư tính mớ như tôm cá, rau hành, tỏi ớt vậy .

Ông gọi cs là lực lượng kháng chiến.

“Quần chúng tiếp tục nghe lời tuyên truyền của lực lượng kháng chiến, trong đó có những phần tử Cộng sản và bắt đầu tin rằng chính sách Mỹ, vốn đang ủng hộ chính phủ Ngô Đình Diệm, như một chính sách theo đuổi quyền lợi của Tây phương, và Hoa Kỳ đang theo đuổi một chính sách “thực dân mới”.

Ông đổ thừa cho Miền Nam vì không chịu tổng tuyển cử nên Bắc Việt đánh xuống Miền Nam.

Thích Nhất Hạnh quảng cáo”Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam”:

“Điều không ai không thấy là trong Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam có vô số phần tử yêu nước, quốc gia và không Cộng sản. Họ gia nhập Mặt Trận không phải vì họ ưa thích chủ nghĩa Cộng Sản mà họ đồng ý với Mặt Trận là phải chống đối lại với chính quyền Ngô Đình Diệm và chính sách của người Hoa Kỳ”.

Những hành động cố gắng làm VNCH nổi sóng từ bên trong của ông Nhất Hạnh cũng là cách rút củi đáy nồi Miền Nam sờ sờ trong lịch sử.

Đọc xong cuốn hoa sen,t ự thấy đây là thiền sư chánh trị và có thiên kiến khá rõ.

Ông viết rằng:”Ở Việt Nam ngay nay chống Cộng đã thành chuyện thương mãi”

Mỗi người có một ý thức trong “cái tôi” tôn giáo của mình, chúng ta tôn trọng những gì Thiền Sư Thích Nhất Hạnh đã làm cho Làng Mai, xiển dương thiền Việt ra thế giới.

Tuy nhiên như đã nói ở trên là không thích đọc sách của ông.

Bùi Giáng nói trúng, thầy Thích Nhất Hạnh làm nhà thơ, nhà văn hay hơn nhà tu hành.

Thế nào thì có lịch sử sau này hạ hồi phân giải .

Lịch sử công bằng lắm…!

Nguyễn Gia Việt


 

Có Một Kiểu Người Sẽ Không Bao Giờ Già Đi


Mỗi ngày một câu chuyện thú vị

Có một kiểu người cả đời chẳng hề già đi, năm tháng dường như đã lãng quên họ. Cái già đi chỉ là tuổi tác, còn khí chất và thần thái là không hề thay đổi. Tất cả là bởi họ mang trên mình những điều rất đặc biệt này.

  1. Một tâm hồn chất phác ngây thơ

Thật khó khi kinh qua trường đời mà vẫn giữ được một tâm hồn chất phác ngây thơ. Đó không phải là kiểu “hồn nhiên như cô tiên” mà là sau những cay đắng của cuộc đời vẫn tin tưởng vào điều tốt đẹp. Đó là một tâm hồn trong sáng, không đánh mất sự hồn nhiên hiếu kỳ đối với vạn vật. Người như vậy thường hạnh phúc và tươi trẻ.

  1. Coi trọng dáng vẻ hàng ngày

Ăn mặc tươm tất, chú trọng vẻ ngoài cũng là một điều quan trọng. Người già chúng ta không nên “tuổi chưa cao mà hồn đã lão”, tâm trí lúc nào cũng đặt trong cảnh tương lai mờ mịt, quá khứ u buồn, cảm thấy chăm chút bản thân là việc của giới trẻ.

Người trẻ tuổi có sự hấp dẫn tự nhiên nên không cần phải để tâm vào việc ăn mặc. Còn người có tuổi, bất luận ở nhà hay ra ngoài đều nên tùy thời phục sức, tao nhã đúng mức, mang lại niềm vui cho bản thân và mọi người. Khi bạn ăn mặc trang nhã, hiển lộ tinh thần sung mãn, thì tự nhiên cũng tự tin hơn, nhìn vào thấy trẻ ra cả chục tuổi.

  1. Kiên trì đọc sách học tập, du lịch

Những người nhìn vào trẻ trung phần lớn đều kiên trì với phương châm “không ngừng tinh tiến, không ngừng học hỏi”. Trong bụng đã có một bồ sách, một kho thi thư thì ắt tâm hồn phong phú, dung mạo phong lưu.

Đọc sách giúp mở rộng nhân sinh quan, thế giới quan, du lịch giúp mở mang tầm mắt. Người ham thích đọc sách và du lịch, đối với bất cứ sự việc gì đều tự có kiến giải, không phải kiểu người bảo sao hay vậy, tự nhiên thần thái ung dung, tràn đầy sức sống của tuổi thanh xuân.

  1. Tấm lòng lương thiện

Những người nhìn vào trẻ trung, thường là thuần phác, thiện lương. Quá trình tu tâm dưỡng tính của họ thăng hoa thể hiện thành thần thái, tướng mạo bên ngoài. Cũng bởi tướng tùy tâm sinh, nên người có tâm từ bi, có lòng nhân ái, luôn luôn phát ra một loại hào quang. Với người khoan dung, hơn nửa gương mặt là có phúc tướng. Với người mà tính tình dịu dàng thì tướng mặt đã toát lên sự thân thiện.

  1. Có mục tiêu theo đuổi

Người mà nhìn vào trẻ trung sẽ luôn trong trạng thái tinh thần phấn chấn và tràn trề sức sống. Dù là đã nghỉ hưu rồi, trong cuộc sống nên đặt những mục tiêu mới. Trong phạm vi mà khả năng cho phép, hãy tích cực tham gia các loại hoạt động như ca hát, chụp ảnh, khiêu vũ… Như vậy, cuộc sống bày ra trước mắt bạn sẽ có sức sống hơn, cũng sẽ khiến bạn không bao giờ thấy mình già đi vậy.

  1. Biết cảm mến cuộc đời

Đam mê cuộc sống vẫn chưa đủ, nếu như có thể có chút lòng cảm mến với nó thì sẽ hoàn mỹ hơn. Không hưởng thụ những ưu việt mà đồng tiền mang lại, nguyện ý bỏ tâm tư trồng mấy chậu cây cảnh hay bắt tay chế tác mấy món đồ chơi, có những đam mê sở thích khác. Người như vậy, thời gian làm sao nhẫn tâm để bạn già đi đây?

  1. Kiên trì vận động

Thân thể khỏe mạnh mới là nền tảng duy trì sự trẻ trung. Người mà trông không có vẻ già đi nhất định đều kiên trì vận động, khiến bản thân từ trong đến ngoài đều tỏa ra sức sống.

  1. Tâm thái trẻ trung

Người có tâm thái trẻ trung sẽ tích cực trải nghiệm những điều mới mẻ, luôn hiếu kỳ khám phá những điều mới lạ. Trên người họ, bạn có lẽ cũng có thể nhìn thấy nếp nhăn nơi khóe mắt chân mày. Nhưng điều khiến bạn nhìn không chớp mắt là gương mặt với thần thái ung dung và tâm trạng yêu đời của họ.

Nhà văn Murakami Haruki đã từng nói: “Con người ta không phải là dần dần trở nên già đi, mà là trở nên già đi chỉ trong nháy mắt“. Con người trở nên già đi, không phải bắt đầu từ nếp nhăn đầu tiên, hay cọng tóc bạc đầu tiên, mà là bắt đầu từ ngay cái thời khắc buông bỏ chính mình. Chỉ có những ai không từ bỏ chính mình, mới có thể sống thành người không sợ già, và cũng sẽ không thấy mình già đi.

Sưu tầm


 

T ự T r ọ n g ! – Peter Nguyen

Peter Nguyen

Tôi có người bạn già tri kỉ năm nay 94 tuổi, lãng tai nhưng không lãng trí, suy nghĩ vẫn sắc bén lúc chuyện trò bàn luận. Bà lựa chọn lối sống ở riêng mình, không muốn đến ở nhà hai con trai đã có gia đình riêng và con cái. Hai con trai bà đã thành tài và thành danh, nắm giữ vai trò cao trong công ti với đồng lương rất khá. Khi bà còn trẻ, đã bị người chồng phụ rẫy rồi đi đến tình trạng li di! Từ trong nước sang đến hải ngoại, bà nhất quyết ở vậy nuôi con mặc dù có rất nhiều cơ hội tái giá, nhưng bà chọn cách sống một mình.

Con cái đưa gia đình đi nghỉ hè đó đây, lúc còn khỏe, chúng đưa mẹ đi chung. Hài hoà và hạnh phúc với con và cháu cháu vào những dịp lễ Tết, Sinh nhật, đi ăn chung! Tự do thoải mái đầy tự tin với lối sống và lựa chọn của riêng mình! Bà với tôi đã nhiều lần trao đồi trò chuyện, đã trở thành tri âm tri kỉ lúc nào không hay mặc dù bà trên tôi cả 23 năm.

Vì đã biết và hiểu nhau do thời gian lâu dài, có cả trên 30 năm, kể từ lúc tôi còn độc thân cho đến lúc lập gia đình. Bà và tôi đã đồng hành làm việc thiện nguyện, tham dự hội thảo, sinh hoạt chung với nhau qua nhiều biến cố chìm nổi cuộc đời, và bà vẫn là người tôi có thể học hỏi nhiều về một số giải đáp sắc bén của một người từng trải, dày dạn kinh nghiệm cuộc đời đã trui luyện nên bà.

Xuất thân từ một gia đình diệt đạo, phá đạo là Vua Minh Mạng, nhưng do cơ duyên, do cuộc hôn nhân đổ vỡ, bà đã gia nhập đạo Chúa, đã tìm được Đấng Tình Quân cho cuộc đời tan náy của mình. Từ dạo ấy đến nay, đời sống bà là những vần thơ đầy xúc cảm, như một bạn hữu của Cha hiền…

Tâm sự trò chuyện với Ngài hàng ngày!

Peter Nguyen


 

PHIẾM CUỐI NĂM: NGƯỜI GIÀ – PHONG CHÂU

PHONG CHÂU

Người già tức là người lớn tuổi, còn gọi là người nhiều tuổi hay người cao niên… Thế thì bao nhiêu tuổi mới được gọi là người già, người lớn tuổi hoặc người cao niên? Hồi xưa lúc còn ở Việt Nam tôi thường nghe nói đến những người từ 50 tuổi trở lên được (bị) gọi là người già. Chỉ gọi là “người già” chứ không ai gọi “người lớn tuổi” hay “người cao niên” như sau này. Ra đường thấy “người già” thì gọi “ông già” “bà già” chứ không ai gọi “ông cao niên” hoặc “bà cao niên”. Nhưng nói chung, cho dù gọi bằng thứ chữ nghĩa nào thì “ông già” vẫn là “ông già” và “bà già” vẫn cứ là “bà già”. Để biết được ai là người già, chỉ cần nhìn qua vóc dáng bên ngoài như tóc bạc, da nhăn, đi đứng chậm chạp, nói năng từ tốn, mắt kém, tai lảng…vân vân…Nhưng với những “xảo thuật” của văn minh nhân loại, người ta có thể biến “tóc bạc” thành “tóc đen”, biến “da nhăn” thành “da láng cón”, đôi mắt “lờ mờ” thành đôi mắt sáng, tai điếc thành tai hết điếc…Kể ra có rất nhiều món ăn chơi khiến mấy ông già bà già vực lại vóc dáng mĩ miều như xưa đôi chút và những cơ phận suy thoái trong cơ thể cũng được phục hồi phần nào.

Người già – đặc biệt là “các bác già gái” có thể ngụy trang bằng “tóc giả”, bằng “răng giả”, bằng “mắt giả”, bằng “tiền vệ giả”, bằng “hậu vệ giả…nhưng những bộ phận bên trong thì không thể nào có “đồ giả” được như trái tim, lá phổi, bộ não…Đó là chưa kể đến những thứ mà thời chưa phải là “ông già” hay “bà già” chưa có được, nay lại có để mang vào mình. Chẳng gì xa lạ! Đó là những “con bịnh”. Đây chính là kẻ thù của những ông già lẫn bà già. “Nam nữ bình quyền” nên “bịnh” không chừa một ai. Ba căn bịnh thông thường mà đa số người già thường mang “từ đầu đến chân” là: cao máu, cao mỡ và cao đường. Nhiều lần tôi nghe câu phán như đinh đóng cột này: “Ba cao một thấp” tức là ba loại “cao” nói trên cùng với một thấp là “thấp khớp”. Những bịnh khác đáng kể là đau cột sống, đau thần kinh tọa, trụy xương đầu gối… Đó là chưa kể một số bịnh “cao cấp” khiến ai cũng ngán như đau tim, liệt não, đau thận, ung thư…Có cả tá bịnh dành tặng cho người già kể ra không hết.

Đừng nói chi đâu xa, như tôi đây cũng được ông trời tự động cho đứng chung hàng ngũ với những người già mà không cần phải làm đơn cứu xét gì cả. Cách nay chừng hơn ba mươi năm lúc còn ở Việt Nam, một hôm đang ngồi nghỉ trưa ở ghế thì bỗng dưng nghe cái đầu bừng bừng khó chịu. Đi cho bác sĩ khám. Kết quả: cao máu! Ở Mỹ dạo còn đi làm, giờ nghỉ ăn trưa xong độ ba mươi phút sau thấy ruột cồn cào, người mệt, toát mồ hôi, về nhà mét vợ, vợ phán: tiểu đường! Khuya đang ngủ bỗng nghe ngón chân cái đau điếng như có ai lấy miểng chai rạch vào. Hôm sau đi bác sĩ lại nghe phán: gout! Đại khái đó là những con bịnh chính, còn những bịnh khác thì tính ra cũng kha khá chẳng hạn như có một ngày đẹp trời, lái xe ghé phòng bác sĩ khám mắt. Khám xong phán: mắt cườm! Phải mổ. Mổ thì mỗ. Mỗi tuần mổ một con. Rồi cầm cái toa đi làm kiếng, mỗi bên mỗi độ khác nhau. Lại bày đặt làm cái kiếng hai tròng. Tròng trên đeo vào để thấy đường lái xe. Tròng dưới mang vào để đọc sách, đọc email, đọc facebook, đọc đủ loại messages, messengers từ bốn phương trời gửi tới …nhưng không có ai gửi thư viết tay như thư tình chẳng hạn để đọc…Chưa hết…cũng vào một ngày đẹp trời…vợ từ dưới nhà gọi vọng lên lầu. Nghe thoang thoảng tưởng nàng đang cất giọng hát “anh có nghe mùa thu mưa giăng lá đổ…Anh có nghe nai vàng hát khúc yêu đương…Và anh có nghe…”. Cứ tưởng tiếng ca du dương đang lọt vào tai nên cứ ngồi yên thưởng thức. Chừng phút sau tiếng hát trở thành tiếng quát “Anh có nghe hay không? Xuống bưng dùm nồi canh…” Thế là xuống lầu bê nồi canh nóng hổi ra khỏi bếp điện. Mà chẳng phải một lần đâu! Nhiều và rất nhiều lần như thế. Chán mớ đời! Cho đến một ngày vợ xúi đi bác sĩ khám tai. Đốc tờ làm hai ba cái test xong phán: điếc tai bên trái! Phải mang trợ thính! Mang thì mang sợ gì (chữ ‘sợ gì’ học được của ông Chính Đầu Đò). Nhét hai máy trợ thính vào hai tai thì nghe toàn những tiếng lao xao, xì xào, rột rẹt, cót két…đôi khi nghe như tiếng sắt tiếng chì khiến nhức cả cái đầu. Rồi ba lần bốn lượt thay đổi máy, vẫn đâu vào đấy! Cho đến một hôm cũng đẹp trời, con gái rõ chuyện nên mời bố già lên xe và chở thẳng vào nhà thương khám tai làm test rồi cũng phán: đeo trợ thính! Chiếc máy này giá cả làm tôi đau cái bụng quá nhưng đành phải mang vì con gái lo cho cha già nên nỡ nào không đeo. Ban đầu bà đốc tờ dụ khị mua hai cái và cho đeo thử, không thích thì mang trả. Mang được vài ngày nghe êm êm nhưng tai bên phải vốn nghe rõ, nay mang vào nghe cũng không tác dụng gì hơn, phí tiền nên mang trả. Kết quả là máy mới này khi đeo vào nghe nó êm tai chứ không còn nghe tiếng rì rào xột xoạt gì nữa. Tuy vậy nhiều lúc ở nhà cũng quên đeo nên vợ phải lên tiếng “gọi người yêu dấu xa vời…” Lúc đi ra ngoài gặp gỡ bạn bè thì mang nhưng lắm lúc quên đeo nên bạn bè cứ nói và ta cứ làm bộ như đang nghe rõ và gật gật cái đầu như người đã hiểu chuyện. Vụ này có thể nào là tội “gian dối” với bạn bè? Nghĩ lại, bạn bè già nhiều khi chỉ nói những chuyện “trời ơi đất hỡi” nên không lọt vô hai lỗ nhĩ cũng không sao…

Chẳng những một mình tôi bị điếc mà tôi biết chính xác trong đám bạn bè của tôi cũng có cả đám điếc, có đứa mang máy, có đứa không nên cũng sinh ra nhiều chuyện tức cười. Hôm tháng mười tôi đi dự một đám cưới, có hai anh bạn tôi biết là điếc ngồi gần nhau, không biết có mang máy điếc hay không nhưng hai người nói chuyện ra điều tâm đắc lắm…nói nói cười cười và người nào cũng chăm chú nghe. Khi tan tiệc tôi hỏi anh A (giấu tên): bồ nói chuyện gì với ông B mà thấy vui quá vậy? Anh ta trả lời: “Có nghe mẹ gì đâu!”. Tôi lại hỏi anh B: Ông và ông A nói chuyện gì mà vui vẻ thế? Anh B trả lời: Có nghe mẹ gì đâu! Thật chán mớ đời cho mấy ông già điếc…như tôi.

Chuyện của người già là chuyện dài bất tận. Vui có. Buồn có. Nhưng vui ít buồn nhiều. Mỗi người một hoàn cảnh. Mỗi người lãnh vào người năm ba thứ bịnh khác nhau. Tôi có nhiều bạn ở khắp nơi, thường liên lạc nên biết người này mới bị đột quỵ, người kia mới mổ tim, kẻ ngồi xe lăn, người đi chống gậy…Mới đây tôi làm một chuyến du hành sang California để tham gia sinh hoạt hội đoàn vừa thăm viếng bạn bè. Đến San Jose có bạn bệnh nặng không ra ngoài gặp bạn bè được, người khác vừa mổ tim hai tháng, ốm tong teo như cây sậy, đang phục hồi. Một trự khác vừa gặp bèn cầm bàn tay tôi đặt vào ngực chàng, thì ra chàng đang mang máy trợ tim. Xuống tới nam California gặp người bạn thân mới biết anh bị đột quỵ nặng, chữa khỏi và sức khỏe kém xưa rất nhiều. Cầu cho các bạn tôi chóng phục hồi sức khỏe. Như vậy, so với một số bạn của tôi, tôi vẫn là người tuy có mang những bệnh trời cho nhưng sức khỏe của tôi vẫn hơn một số bạn bè.

Tiếp tục câu chuyện người già. Cũng không đâu xa. Nơi tôi ở cũng nhiều bạn bè, già có, trẻ có. Đặc biệt là các bạn già thân thiết. Vài trường hợp đang diễn ra như sau:

Thứ nhất, bạn tôi từ thời trung học người rất khỏe, ăn nói hoạt bát, thể dục đều đặn và thường xuyên khuyên tôi phải ăn thứ này phải uống thứ nọ cho khỏe. Bỗng có một thời gian chừng hơn hai tháng không gặp nên tôi lái xe đến nhà thăm thì biết anh đột quỵ nhẹ và đã chữa khỏi hoàn toàn, sức khỏe bình thường trở lại. Nhưng anh cho biết là vợ con của anh không cho anh lái xe nữa! Anh rất buồn. Tôi hỏi “mày còn lái được hay không?”. Anh trả lời: Được chứ sao không! Tao vẫn còn khỏe mà…”. Vài lần tôi khuyên chị vợ nên để cho anh tiếp tục lái xe, chỉ lái vòng vòng gần nhà nhưng chị bảo con chị đã giấu chìa khóa xe. Anh ta than với tôi về điều này và từ đó anh chỉ loanh quanh trong nhà, thỉnh thoảng con cái đến rước đi ra ngoài ăn uống rồi thảy lại về nhà. Chuyện đã hơn ba năm và mỗi lần tôi ghé thăm anh mừng lắm và chuyện trò vui vẻ. Như tôi đã đoán là anh sẽ lâm tình trạng “trầm cảm” nếu vợ con anh cứ nhất mực nhốt anh ở nhà. Mới đây tôi ghé thăm anh. Thấy lưng anh khòm, bước đi chậm chạp hẳn, giọng nói yếu ớt… Hỏi đến đâu anh trả lời đến đó, tôi gợi lại vài chuyện xưa, anh cũng nhớ. Nói xong anh ngồi im, quay mặt đi chỗ khác, mặt đờ đẫn trông rất tội nghiệp… Trường hợp thứ hai, tôi chơi rất thân với một anh bạn vong niên. 90 tuổi nhưng anh vẫn khỏe mạnh, thường lái xe đi đường xa đường gần và có mặt trong các cuộc sinh hoạt với bạn bè. Thế mà vào mùa xuân năm nay (2023) anh cho biết là đôi chân của anh tự dưng yếu hẳn, không bước đi được mà phải chống gậy “bước từng bước thầm” trong nhà. Anh không lái xe được nữa! Anh yêu cầu tôi nếu có gặp gỡ bạn bè trong nhóm thì ghé nhà chở anh đi. Tôi đã làm theo lời yêucầu của anh lâu nay.

Trường hợp thứ ba. Bạn tôi là một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng, trước ở Sacramento, sau dời về Houston. Chúng tôi thường gặp nhau trong các buổi sinh hoạt văn nghệ, đi cắm trại…mặc dầu đôi chân của anh yếu, phải có gậy chống mỗi khi đi ra ngoài. Anh không còn lái xe được nữa! Thế rồi một hôm – anh kể – mở cửa bước đi thì bị vấp té – lý do là mắt anh không còn thấy rõ nữa. Tôi ghé thăm và thấy anh mò mẫm viết trên những trang giấy không hàng không lối. Con anh chở đi bác sĩ suốt cả năm trời nhưng bệnh tình không có dấu hiệu thuyên giảm. Anh rất buồn và mỗi lần muốn gặp bạn bè thì tôi ghé nhà chở anh đi. Cách nay hai năm anh di chuyển về tiểu bang North Carolina để tiếp tục điều trị nhưng, theo lời anh “mắt không bớt mù mà lại còn mù thêm! Tôi có hỏi “thị lực” của anh bây giờ ra sao? Anh cho biết “khoảng chừng 20 đến 25 phần trăm”. Vào thượng tuần tháng 11 vừa rồi anh gọi điện thoại cho tôi và báo:”Tôi đã đi được nửa đường”. Tôi hỏi: “Nửa đường là sao? Anh trả lời” “tôi đang trên đường về lại Houston…đi bằng Greyhound…”. Hôm sau tôi ghé nhà con anh để đón anh đi uống cà phê. Anh nói ở bên đó (North Carolina) buồn quá nên về lại đây thỉnh thoảng gặp anh em cho vui. Anh kể cho tôi nghe anh nghĩ ra cách để xử dụng bàn phím computer để tiếp tục viết truyện. Anh đã hoàn thành truyện ngắn “Người Mù” và về Houston anh sẽ tiếp tục viết và đặc biệt viết về đề tài “Mù”.

Do “Duyên”, tôi đã trở thành tài xế Uber cho ba người bạn của tôi. Tôi thương và quý trọng họ. Ngày nào tôi còn lái xe được, tôi vẫn đến đón họ – âu đó cũng là một việc Thiện mà trong Hướng Đạo dùng hai chữ “Giúp Ích”.

Cần nói thêm việc người già và thuốc men. Dĩ nhiên bịnh là phải uống thuốc. Đối với tôi, tôi thi hành khá đứng đắn việc uống thuốc, nhất là các loại thuốc nằm trong nhóm “ba cao”: máu – mỡ – đường. Nếu chỉ tính từ ngày qua Mỹ đến nay là 32 năm, mỗi ngày uống một viên thuốc cao máu, cho đến nay tôi đã ních hết 11,650 viên. Thuốc cao mỡ mỗi ngày 4 viên, 32 năm xơi đủ 46, 600 viên. Thuốc trị cao đường mới uống 22 năm, tính ra tổng cộng là 8,030 viên nằm trong bụng! Chưa kể những loại thuốc khác để trị các bịnh loại linh tinh như nhức xương, đau khớp, đau vai, đau bàn tay, nhức đầu sổ mũi hay bệnh gout…tổng cộng sơ sơ cả ngàn viên. Tạm đúc kết cho đến nay khi đang ngồi gõ gõ trên máy tôi đã nhét vào trong bao tử 86,280 viên thuốc đủ các loại! Riêng về món thuốc trị gout, theo chỉ dẫn của đốc tờ thì mỗi ngày ních một viên. Dĩ nhiên tôi thi hành đúng khi hai ngón chân đang quằn quại. Sau một tuần hết đau thì tôi ngưng uống thuốc một thời gian khá lâu, chừng cả năm. Sau đó tôi bắt đầu uống lại dù bịnh chưa tái phát nhưng chỉ uống hai viên mỗi tuần. Tôi tự giải thích như sau: vì tôi khoái xơi món phở bò và thích uống rượu vang là hai món giúp làm tăng lượng Acid uric trong máu nên phải uống cầm chừng cả vài năm nay, thấy cũng phê! Phở bò là món “quốc hồn quốc túy” khó mà từ bỏ được. Còn món rượu vang thì theo nhà báo Lê Văn là “Món Quà Của Thượng Đế”. Thượng Đế đã ban cho nhân loại mà không nhận hưởng thì khi chết xuống địa ngục hay leo lên được Thiên đàng e rằng khó trả lời với Ngài…

Trở lại chuyện của tôi “đáng ghét”. Trước ngày lễ Tạ Ơn vừa qua trong khu vực tôi ở “Berkshire Community” có tổ chức “Chạy bộ” và “Đi bộ”. Để rà soát sức khỏe của mình nên tôi liều ghi danh môn “Chạy bộ”. Chạy hai miles. Đi bộ chỉ một mile. Khoảng ba mươi người chạy bộ đủ lứa tuổi già trẻ lớn bé nam nữ. Tôi chạy theo đám đông và không thể nào theo kịp mấy ông Mỹ ông Mễ nhưng cố bám sát, có lúc phải bước sãi rồi lại lết tiếp cho đến khi về đến đích. Đến nơi ban tổ chức tròng vào cổ tôi một chiếc Medal. Tối hôm đó nằm ngủ nghe hai bắp vế đau nhức dữ dội nên hôm sau lái xe vào Gym ngồi trong Spa cho nước nóng nựng hai bắp đùi. Liên tục ba ngày thấy hết đau hết nhức. Gặp bạn bè, người quen ai cũng bảo sức khỏe tôi tốt! Mừng ghê đi! Năm tới tôi sẽ bước lên bục tuổi tám bó…

Phong Châu
Tháng 12 – 2023

From: NGOC PHAN & KimBang Nguyen


 

NHỚ TẾT NGÀY XƯA – Bài của Mạc Van Trang

Nguyễn Xuân Diện

Bài của Mạc Van Trang

Cứ Tết đến, những kỷ niệm Tết xưa từ ngày thơ bé lại hiện về, gợi nhớ nao nao…Xin kể lại cái Tết của nhà mình vào trước cách mạng 1945.

Mình nhớ sâu đậm nhất là cái Tết vào năm 1944 (Giáp Thân) lúc mình 6 tuổi, “tuổi ta” là 7 tuổi. Sau đó là cách mạng 1945, rồi chiến tranh, không bao giờ còn cái Tết như ngày xưa nữa.

Trước Tết chừng một tháng đã thấy không khí rạo rực rồi. Trong nhà thấy ai cũng nói đến Tết. Trẻ con được sắm quần áo mới, không được cả bộ thì cũng được cái áo hay cái quần mới. Rồi cắt tóc hay cạo đầu mới. Mẹ, Dì hai rồi các thím, các chị thì nhuộm lại răng cho đen nhánh. Mình cứ tò mò xem nhuộm răng thế nào. Hoá ra thuốc nhuộm người ta đã quết sẵn vào những miếng lá nón bằng ngón tay trẻ con; buổi tối, các bà, các chị súc miệng, lau răng khô rồi dán thuốc vào răng, sáng hôm sau bóc miếng lá nón ra, răng đen nhánh. Nhưng phải ăn cháo cả ngày, đến hôm sau mới dám ăn cơm, để giữ cho thuốc nhuộm bám chắc. Tài thật, thế mà răng đen bền rất lâu. Cùng với đó là chuẩn bị mua trầu, cau, vỏ, lọ bình vôi cho đầy đủ để Tết ăn trầu cho ấm người, má hồng, môi đỏ…

Trẻ con rất tò mò thấy những người lạ gánh hàng Tết đi bán rong dọc làng, chủ yếu là vàng, hương, trầu, cau, vôi, vỏ, hạt tiêu … Hay nhất là mấy người thợ “rum”, đi nhuộm thuê quần áo, chủ yếu là nhuộm yếm và các thắt lưng. Các bà thì thắt ‘bao tượng” đũi giản dị thôi. Nhưng các chị, các cô thì thích mặc yếm đào, áo mớ ba mớ bảy và thắt lưng ba bốn màu. Các màu ưa nhất là màu xanh lá mạ, màu đỏ tía hay hoa đào, màu vàng, màu mận chín… Chị Vượng còn có bộ dây “xà tích” bằng bạc để đeo cùng với mớ thắt lưng, khi đi, vừa thấy màu sắc thắt tung tẩy, vừa nghe tiếng “xà tích” lanh canh… Ra Tết, Hội làng, các chị, các cô mới thích diện, nhất là nhún cây đu cho thắt lưng rực rỡ tung bay và tiếng “xà tích” leng keng”…

Trước ngày cúng ông Công ông Táo, Bố dẫn mấy anh em đi TẢO MỘ. Bố vác cuốc, anh Trân hơn mình 4 tuổi thì cầm cái cái liềm với mồi rơm giữ lửa, mình cầm mấy thẻ hương. Trời gió rét mà 3 bố con cứ đi chân đất ra cánh đồng.

Bố dẫn đến mộ Ông nội ở bên kia đê, là ngôi mộ xa nhất, rồi giải thích tại sao lại để mộ Ông ở đây…

Mộ Ông cỏ mọc um tùm. Bố lấy cuốc khua khua vào đám cỏ và bảo, có rắn rết thì nó chạy đi. Bố bảo anh Trân lấy liềm cắt cỏ trên mộ. Mộ Ông không xây gạch, không có bia như bây giờ. Mộ chỉ là một mô đất tròn tròn, cao nhô lên và có một cục đá xanh cắm ở bên để đánh dấu. Bố lấy cuốc vạc cỏ ở chung quanh mộ và đánh mấy vầng cỏ đắp vào chỗ lõm trên mộ…

Ngắm ngôi mộ sạch sẽ, tươm tất, mới mẻ, bố mới lấy 3 nén hương, châm mồi lửa thắp lên, cắm trên mộ và khấn vái. Hai anh em cũng làm theo bố. Bố giải thích là mời Ông về ăn Tết với con cháu.

Sau đó về Đống Con Cá rồi Đống Con Phượng sửa sang mộ của Cụ ông, Cụ Bà rồi mộ hai Bà… Tất cả đến 7-8 ngôi mộ.

Xong việc tảo mộ đến DỌN DẸP nhà cửa. Phải lấy cái chổi rơm mới, buộc vào đầu sào để quét mạng nhện trên mái nhà, vách nhà… Rồi lau dọn Bàn thờ gia tiên. Đồ thờ bằng đồng, bằng gỗ phải đem cọ rửa, lau khô và sắp đặt y như cũ… Mâm “ngũ quả” cũng toàn cây nhà lá vườn đơn sơ thôi. Bố chỉ bảo cho các con trai làm từng việc; còn Mẹ và con gái lo các thứ chuẩn bị gói bánh chưng và mâm cỗ cúng tất niên.

Ngày xưa chuẩn bị cho cái Tết từ nửa năm trời. Mấy nhà vào loại trung nông như nhà mình thường hẹn nhau đụng một con lợn, thường chọn con lợn ỷ, được nuôi cẩn thận, gần Tết vỗ béo, cho ăn nhiều cám, ít bèo…Rồi gà phải thiến trước 5-6 tháng; măng, mộc nhĩ phải phơi, cất gác bếp; lá dong gói bánh chưng trồng ngoài vườn, phải chăm sóc trước mấy tháng… Cái mo cau để bó giò xào, giò thủ cũng để sẵn trên gác bếp, đem ngâm nước cho mềm ra…

Trong nhà xong rồi thì dọn dẹp ngoài sân, vườn, cổng ngõ. Tất cả phải gọn gàng, sạch sẽ, kẻo năm mới bà con đến chúc Tết, người ta cười cho, có mà rông cả năm!

Nhà cửa tươm tất rồi, Bố mới dẫn mấy anh em ra bụi tre, chọn cây tre cao, thẳng, làm CÂY NÊU. Cây tre được róc nhẵn nhụi, chỉ để mấy cành lá trên ngọn, trên đó treo một mảnh vải điều, Bố viết mấy chữ Nho, mấy tua sợi xanh, đỏ, tím, vàng, mấy cái chuông, khánh nhỏ. Cây Nêu dựng lên, anh em có vẻ thích lắm: Cây Nêu nhà mình có khi cao nhất nhì trong xóm, và khoái chí thấy tấm vải điều, mấy sợi tua ngũ sắc cùng với cành lá tre bay phất phơ, tiếng chuông khánh kêu leng keng…

Tiết mục hồi hộp nhất là sáng 30 Tết MỔ LỢN. Trong xóm đã nghe tiếng lợn nhà ai kêu “éc ec”… rồi. Nhà mình cũng sắp mổ lợn. Ngày xưa trẻ con xúm đến xem mổ lợn, giã giò, gói bánh chưng… lại được khuyến khích: Này lũ trẻ, phải nhìn cho kỹ, sau này có cái ăn còn biết làm cho ra tấm ra miếng…

Con lợn ỷ chừng 60 cân hơi, mổ ra chắc được hơn 40kg cả xương lẫn thịt, chia 4 phần. Nhà mình đông người ăn “một góc”. Các nhà khác lại chia đôi, tức là ăn “một khoé” (⅛). Mấy đứa trẻ con tranh nhau cái bong bóng lợn. Người lớn phải phân giải: nhà thằng Trân nuôi lợn, lại ăn một góc nên nó được cái bong bóng. Nói vậy, nhưng cả đám trẻ xúm lại đem cái bóng lợn vào bếp, lấy tro nóng nhồi, bóp rồi rửa sạch, thổi phồng lên và ra tung, ném chơi với nhau….

Lạ nhất là món Tiết canh, lòng lợn. Mấy người lớn, “hãm” rồi “đánh” tiết canh thế nào mà nhà ăn một góc lợn được 2 bát, nhà ăn một “khoé” được một bát… Rồi những thứ đậu rang lên giã ra trộn với các thứ lá và tiết để dồi vào bộ lòng lợn. Lòng luộc xong cũng được chia phần như chia thịt.

Bố bỏ thịt vào cái nia, lọc xương ra, bảo để ninh măng. Thịt nạc thăn lọc ra, bảo chú Đạt với anh Vượng (anh cả) giã lấy cái giò nạc; thịt vai, mông thái ra ướp hạt tiêu, nước mắm để gói bánh chưng. Bố đã tính, thái 40 miếng thịt to đều nhau để gói 20 cái bánh chưng; mấy miếng thịt vụn để gói bánh chưng con cho mỗi đứa trẻ một cái.

Bố với anh cả Vượng làm mấy cái giò lụa, giò sỏ, giò xào rồi gói bánh chưng. Xế chiều mới bắc bếp luộc bánh ở góc sân. Trẻ con hồi hộp ngồi vây quanh nồi bánh, vừa sưởi ấm, vừa tiếp củi, vừa nướng ngô, khoai ăn với nhau và háo hức mong ngóng chiếc bánh chưng con.

Trong khi đó Mẹ, Thím Đạt, chị Sen (dưới anh cả Vượng) cùng với chị Vượng thì lo thịt gà, nấu cỗ làm cơm cúng tất niên. Vậy là mâm cúng tất niên chỉ có xôi, gà, thịt ba chỉ luộc và các món nấu, chưa có bánh chưng và các món giò…

Rượu thì cô Kham lấy chồng ở làng Hóp, chuyên nấu rượu, đem cho một vò. Cô Mùi lấy chồng ở Đồn Phao (Phả lại) chuyên làm nước mắm thì đem cho một hũ mắm ngon…

Nhưng bọn trẻ chưa được ăn. Người lớn thì đi gội đầu bằng nước nóng đun với cây Mùi già; trẻ con bị lôi ra góc sân tắm với loại nước thơm đó, rét run cầm cập…

Bố với chú Đạt cúng xong thì trải chiếu ra sân gạch, sắp ba mâm, vì cả nhà mình đã 10 người, cùng với bốn mẹ con thím Nhiên và vợ chồng chú Đạt, lúc đó cùng ở quây quần trên mảnh vườn của Ông Nội để lại. Cỗ 30 Tết cả nhà đông vui, lại có xôi, thịt gà, lòng lợn, thịt lợn luộc, các món xào nấu…Chỉ có Bố, Chú, các anh mới được ăn tiết canh, uống rượu. Nhưng với trẻ con, cỗ Tết thế này cũng ngon ơi là ngon…

Ăn cơm xong thấy anh Vượng, anh Trân lấy vôi ra vẽ ở góc sân một cái cung lắp mũi tên, bắn ra ngoài. Bốn góc sân đều vẽ như vậy. Anh Vượng bảo, các mũi tên chĩa ra bốn phía Đông, Tây, Nam, Bắc để trừ ma quái không dám vào nhà.

Bọn trẻ con chầu chực phải tối lâu lâu, bánh con mới được vớt ra, mỗi đứa một chiếc. Nhưng bánh nóng, nhũn quá, phải ngâm vào nước, nắn cho vuông, treo lên, sáng hôm sau mới được ăn…

Sáng Mùng một cả nhà ai cũng hồi hộp, dậy sớm xem anh Vượng, anh Trân đốt pháo. Có 2 bánh pháo tép, đốt lên nổ đì đẹt, mùi khét khét, thơm thơm, xác pháo màu hoa đào, bay tung tóe trên sân trước cửa nhà. Để thế mới đẹp. Năm mới không được quét sân, quét nhà, hót của đổ đi!

Trẻ con được người lớn lôi ra rửa mặt bằng nước mùi thơm, đun lên pha nóng, mặc quần áo mới, ăn bánh chưng con và sướng nhất được mấy xu mừng tuổi…

Thấy bố đặt bánh chưng và mấy thứ lên bàn thờ, thắp hương khấn vái, rồi bảo anh Trân với mình theo Bố ra lễ Đình làng. Mấy bà thì chuẩn bị đi lễ Chùa…

Lần đầu tiên mình được mặc áo the (chưa có khăn xếp), nhưng được đi guốc theo Bố đi lễ.

Sân Đình cắm đầy cờ Thần, bay phấp phới. Dân làng đã khá đông, chúc tụng nhau râm ran.

Bố giải thích về Thành hoàng làng có hai vị. Đệ nhất Thành hoàng là Tiến sĩ Tuấn Lương, Ngài làm quan đời Lý, khi nhà Trần lên, Ngài chạy về làng, lúc ấy là xóm Trại hẻo lánh bên sông để ở ẩn, rồi mở lớp dạy chữ cho dân làng, bảo ban dân làng mở mang làm ăn… Đệ nhị Thành hoàng là một tướng nhà Trần, đánh quân Tàu xâm lược trên sông Bạch Đằng, tử trận, trôi về bờ sông bên làng, đùn lên thành đống mối. Làng chôn cất Ngài ở Đống Nhất…

Buổi trưa Mồng một Lễ cúng gia tiên mới đúng là Tết, có đủ bánh chưng, giò nạc, giò thủ, giò xào, các món xào, nấu … Cơm cúng là cơm gạo Dự, cơm mới sôi lên ở dưới bếp đã thơm lừng cả nhà. Thường gia đình trung nông trở lên, nhà ai cũng cấy một – hai sào lúa Dự (giống như lúa Tám thơm) để ăn vào những dịp Giỗ, Tết. (Từ khi vào HTX thì giống lúa này tuyệt chủng, vì năng suất thấp).

Mọi người đã bàn đến cỗ cúng trưa Mùng ba hóa vàng, đây cũng là bữa cỗ to, kết thúc “ăn Tết”. Rồi bàn đến “Vào Đám” mùng 6 tháng Giêng, giã bánh dày đi Hội… Thấy các bà, các chị bảo, năm nay Phường Chèo mãi đâu sẽ về diễn Quan Âm Thị Kính. Người thì bảo Quan Âm Thị Kính, năm kia xem rồi. Người khác lại bảo thì xem phường này diễn có hay không? Phường trước, con Thị Màu già quá, nhưng nó hát hay, diễn lẳng ơi là lẳng… Người khác lại bảo, sao bảo diễn vở Trương Viên hay Phạm Tải Ngọc Hoa… Xem ra các bà, các chị thuộc hết các vở chèo, nhưng cứ diễn đi, diễn lại, mỗi phường một khác nhau, vẫn hay…

Rồi con trai, con gái làng này lại đi sang các làng khác xem Hội của nhau. Đúng kiểu “Tháng Giêng là tháng ăn chơi”…

Nay nghĩ lại thấy, đời sống dân làng mình khá đồng đều, nên Tết cả làng rất vui. Làng có chừng 150 gia đình; có ba nhà xứng đáng là Địa chủ (họ giỏi làm ăn nhiều đời, chứ chả dám gây ác với dân làng; chuyện hách dịch thì có); có chừng 7 nhà Phú nông (cũng làm ăn giỏi, căn cơ); chừng 30 nhà Trung nông như nhà mình. Số còn lại ở mức nghèo khác nhau, nhưng ít người bị đói. Năm đói 1945, làng mình chỉ chết đói có hai người; một người già và một anh tên là Ất, mồ côi cả cha lẫn mẹ, đêm đi bẻ trộm ngô mãi bãi sông, về ngã xuống mương nước chết rét…

06/2/2021

M.V.Tr.