Công xã Paris Đồng Tâm?

Công xã Paris Đồng Tâm?

 

Công an phải rút lui sau khi dân làng ở Mỹ Đức trực diện đối mặt.

Công an phải rút lui sau khi dân làng ở Mỹ Đức trực diện đối mặt.

Kỷ niệm hai chục năm chẵn của cuộc nổi dậy Thái Bình năm 1997, Bộ Chính trị đảng như “lên ruột” trước một cơn cuồng phong mới: Đồng Tâm 2017.

Cơn cuồng phong mới

Một hình ảnh hoàn thiện tái hiện dĩ vãng. Cũng bùng lên từ nguồn cơn giới nha lại địa phương tham nhũng đất đai, tham ô đủ thứ và nhũng nhiễu nông dân. Cũng đê vỡ toác trước con sóng trào phẫn uất vượt cả giới hạn sợ hãi của người dân. Cũng một tinh thần đoàn kết và đồng lòng, đồng tâm cao độ đến bất ngờ của nông dân, như thể một sự xúc phạm quá lớn đối với cảnh nạn phân hóa rã đám trong hệ thống chính quyền và công an trị thời nay.

Nhưng khác biệt cũng không nhỏ. Giờ đây, không còn là Quỳnh Phụ cách Hà Nội hàng trăm cây số, mà cái tên Đồng Tâm thình lình hiện ra ngay tại thủ đô, tạo dấu ấn chưa từng có kể từ thời “Hà Tây về Hà Nội”.

Hà Nội lại là ngự phủ của toàn bộ giới lãnh đạo chóp bu. Hiểm họa “Cách mạng tháng Tám” đang quá kề cổ.

Và cũng khác hẳn với quá khứ với một số lần người dân các nơi bắt giữ lẻ tẻ vài ba công an viên trong một số vụ việc bất công và bức xúc gây ra bởi chính quyền, cái tên Đồng Tâm đã tạo nên cột mốc lịch sử khi lần đầu tiên người dân dám bắt giữ cả một đơn vị cấp trung đội cảnh sát cơ động của Công an Hà Nội, trong đó có cả “đồng chí Trung đoàn trưởng cảnh sát cơ động” và “đồng chí phó trưởng công an huyện Mỹ Đức mặc thường phục”.

Ở vào thế cùng kiệt về kế sinh nhai lẫn sinh mạng, nông dân chỉ còn biết hành động “người đổi người”.

Hãy đừng bao giờ cho rằng những nông dân hiền hòa ở xã Đồng Tâm ấy chỉ chực chờ nổi loạn chống chính quyền, theo cách mà bộ máy tuyên truyền của công an, tuyên giáo và giới dư luận viên mất sạch liêm sỉ luôn chực chờ tung ra. Thử hỏi khi vùng đất Đồng Tâm đang yên lành, nếu không có chuyện Đỗ Mười – Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng – ký một quyết định thu hồi hơn 47 ha đất nông nghiệp của nông dân Đồng Tâm từ năm 1980 để “phục vụ dự án an ninh quốc phòng và sân bay Miếu Môn”, làm sao có thể phát sinh hậu quả ghê gớm như ngày hôm nay? Thử hỏi, nếu không có chuyện chính quyền huyện Mỹ Đức, sau khi nhận lại số đất nông nghiệp trên từ Lữ đoàn 28 của Quân chủng Phòng không – không quân do sân bay Miếu Môn không làm được, nhưng lại nhập nhèm suốt 10 năm từ 2007 đến nay mà không làm quyết định giao đất cho bà con nông dân, trong khi lại xảy ra hàng loạt vụ việc một số quan chức địa phương bảo kê cho người thân chiếm dụng đất và giờ đây còn định để cho Tập đoàn Viễn thông quân đội (Viettel) “cướp” đất của dân, làm sao bà con nông dân lại phải rồng rắn kéo đoàn khiếu kiện đông người trong ròng rã nhiều năm trời? Và thử hỏi, nếu không có chuyện giới công an trị sử dụng “biện pháp nghiệp vụ”, mà thực chất là thủ đoạn “điệu hổ ly sơn”, để bắt giữ trái phép một số đại diện của dân xã Đồng Tâm, làm sao người dân xã này lại phải nghĩ đến việc bắt giữ lại các cảnh sát cơ động và quan chức công an để “trao đổi tù binh”?

Đồng Tâm lại đang trở thành một phiên bản của Ô Khảm. Sáu năm trước, cái làng nhỏ Trung Quốc chưa hề có tên trên địa đồ thế giới ấy thậm chí đã được báo The New York Times ví như “Công xã Paris Ô Khảm”.

Công xã Paris Ô Khảm

Năm 2011, Ô Khảm thuộc huyện Lục Phong, Quảng Đông đã nổi lên đánh đuổi lũ cường hào ác bá cộng sản ăn chặn của dân và tham nhũng đất đai ra khỏi làng này. Ô Khảm còn vùng lên dữ dội hơn nhiều sau khi một người đại diện cho dân làng là Tiết Cẩm Ba bị công an Trung Quốc tống giam và chết thảm trong tù vì bị tra tấn.

Nguồn cơn gây sóng trào phản kháng của dân giữa Ô Khảm và Đồng Tâm là y hệt nhau: chính quyền.

50 lần là chênh lệch giữa giá bán đất ra thị trường mà chính quyền đã toa rập cùng doanh nghiệp để thu lợi bất chính, so với giá bồi thường đất cho nông dân.

Khi đó, cũng như Đồng Tâm đương đại, Ô Khảm bị chính quyền khống chế và cô lập, bên trong thì cắt điện, bên ngoài thì chặn Internet và giới truyền thông, đồng thời sử dụng đến vài ngàn công an và quân đội vây kín.

Chỉ có điều, “Công xã Paris Ô Khảm” đã giành thắng lợi lớn. Cuộc đấu tranh quyết liệt, bền bỉ và sáng tạo của 13 ngàn người dân Ô Khảm, quyết tâm đi bộ đến tận Bắc Kinh để khiếu kiện, đã khiến thủ tướng Trung Quốc thời đó là Ôn Gia Bảo phải ngã lòng chuyên chính. Thế rồi Bộ Chính trị Trung Quốc bắt buộc phải nhân nhượng. Ít ngày sau, Ô Khảm đã ghi danh vào lịch sử dưới ách cai trị của đảng Cộng sản: làng đầu tiên ở Trung Quốc được tiến hành bầu cử tự do, với người phụ trách làng được chính nhân dân bầu ra.

Công xã Paris Đồng Tâm?

Đồng Tâm cũng có thể được như Ô Khảm. Bức xúc lên đến đỉnh điểm, tinh thần đoàn kết cùng ý thức tổ chức cao của 6 ngàn nông dân Hà Nội có thể tạo nên một Công xã Paris ngay trong lòng thủ đô.

Không những thế, tiếp ngay sau phong trào biểu tình phản kháng Formosa và phản đối chính quyền của vài chục ngàn ngư dân, giáo dân ở Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, vụ Đồng Tâm đang phát ra tín hiệu bùng nổ dây chuyền, một vết dầu loang cực lớn ở một số tỉnh thành miền Bắc – những nơi đã tích tụ đủ phẫn uất trước nạn cường hào ác bá và đã tích lũy đủ mầm mống để vào bất cứ lúc nào cũng có thể biến thành “khởi nghĩa”.

Vẫn là một câu ngạn ngữ thời nay: “Nếu cho chính quyền cộng sản cả sa mạc, chính quyền đó vẫn phải nhập khẩu cát”. Trong nhung nhúc các nhóm lợi ích trong một chế độ “ăn của dân không chừa thứ gì”, bao giờ cũng vẫn là quá muộn. Một tác nhân Viettel tiếp tay khiến nông dân bị bần cùng hóa hoàn toàn xứng đáng bị giới tiêu dùng ở Việt Nam và quốc tế tẩy chay.

Để khi đó, đừng mong đợi hão huyền “quân đội sẽ ra tay trấn áp các lực lượng thù địch”.

Không, kể từ thời quả bom Đoàn Văn Vươn nổ tung ở Hải Phòng năm 2012, đã và sẽ chẳng có quân đội nào chịu biến thành công cụ hèn tủi để bảo vệ cho giới quan chức “tiền trên bàn thờ”, đàn áp và chống lại Nhân Dân – những người đã sinh thành mình.

TỈ PHÚ MỸ GIÁU NHẤT THẾ GIỚI XÀI TIỀN NHƯNG THẾ NÀO?

 CÔ GÁI NẦY LÀ AI?

Jennifer Katherine Gates!! Con gáí của Bill Gates, người giàu nhất hành tinh

Rất khâm phục con gái của người giàu nhất Thế giới!

Thật giản dị, đẹp, phúc hậu và dễ thương vô cùng …. phải không?

TỈ PHÚ MỸ GIÁU NHẤT THẾ GIỚI XÀI TIỀN NHƯNG THẾ NÀO?

Là vợ của Bill Gates, người đàn ông giàu nhất hành tinh nhưng Melinda không mấy quan tâm đến những cửa hàng thời trang sang trọng, những loại mỹ phẩm đắt tiền hay những tác phẩm nghệ thuật danh giá. Thay vào đó, suốt ngày bà chúi mũi vào những chuyện đại loại như… chu trình sống của con muỗi.

Ngay sau khi cưới nhau, vợ chồng Bill Gates bắt đầu làm từ thiện nhưng làm một cách dè dặt, trong đó có lần tặng máy vi tính xách tay cho các ngôi làng ở khu vực cận Sahara (Phi châu). Nhưng rồi hai người nhận ra người dân lục địa đen cần thức ăn để no bụng và thuốc men để chống lại cái chết hơn là phần mềm Windows xa xỉ. 

Thế là họ tậu bao nhiêu là sách về các bệnh lây lan vì ký sinh trùng, về hệ miễn dịch, về cách phòng bệnh… “Bạn không thể nói về chuyện tài trợ cho thuốc chống sốt rét nếu như bạn không hiểu rõ chu trình sống của con muỗi. Làm từ thiện không chỉ đơn giản là ký séc chi tiền”, Melinda nói. “Tại sao lại phải nhọc công đến thế? ” Melinda có thể tận hưởng một cuộc sống trong nhung lụa, dành thời gian chăm sóc con cái.

“Khi cưới nhau, tôi và Bill định khi về già sẽ chia sẻ tiền bạc với người khác… Lần đầu tiên chúng tôi đến châu Phi là nhân một chuyến đi săn năm 1993. Chúng tôi không thể nào tận hưởng thiên nhiên hoang dã vì cảnh tượng mọi người đi chân đất, phụ nữ phải vừa bế con vừa xách nước đi hàng cây số và bởi lời mời từ một bộ lạc về việc dự buổi lễ cắt âm vật phụ nữ.

Sau đó về nhà, chúng tôi tìm đọc Báo cáo về phát triển thế giới năm 1993 và không khỏi giật mình. Trẻ con đang chết hàng loạt chỉ vì căn bệnh tiêu chảy và những loại bệnh cơ bản mà trẻ con ở nước chúng tôi đã được tiêm vắc-xin. Chúng tôi tự thấy mình phải có trách nhiệm tìm hiểu sự thật và càng tìm hiểu, chúng tôi càng thấy không thể chờ vì bệnh tật không đợi chúng tôi. Tôi đi vòng quanh thế giới để xem điều gì đang xảy ra. Nỗi sợ hãi khi quay về quá khủng khiếp đến độ tôi không dám hy vọng. Nhưng rồi bạn thấy đó, kinh tế đang thay da đổi thịt ở các nước phát triển và tự nó cải thiện mọi chuyện. Điều đó đã vực Bill và tôi dậy”. “Chúng ta có xem rẻ mạng sống của người Phi châu hơn mạng sống của chúng ta không? Bill và tôi cho rằng không có sinh linh nào mang giá trị hơn hay kém so với sinh linh khác. Chính sự công bằng này là lý do để quỹ từ thiện của chúng tôi hoạt động”.

Quỹ từ thiện Bill & Melinda Gates (BMGF) bắt đầu hoạt động với quy mô nhỏ vào năm 1997 rồi chính thức khai trương vào năm 2000. Vợ chồng Gates đã cam kết sẽ trao tặng hết 95% tài sản khổng lồ của mình (hiện ước tính khoảng 46 tỉ USD). Vắc-xin và tạo hệ miễn dịch cho trẻ em là mục tiêu chính của quỹ. Đến nay BMGF đã chi tổng cộng 28,8 tỉ USD. Hồi đầu năm, BMGF đã tặng cho Liên minh Vắc-xin và miễn dịch toàn cầu (Gavi) 750 triệu USD – một trong những món quà cá nhân lớn nhất lịch sử. Những lần tài trợ trước đó của vợ chồng Bill Gates đã giúp tiêm phòng viêm gan siêu vi B cho 43 triệu trẻ em, giúp giảm 39% tỷ lệ trẻ em bị sởi…

Ngoài ra, BMGF còn chi mạnh cho các dự án khoa học nghiên cứu vắc-xin và thuốc men, trong đó phải kể đến chương trình trị giá 35 triệu USD để thử nghiệm vắc-xin chống sốt rét ở Zambia. Hẳn nhiều người sẽ ngạc nhiên vì ông bà Gates không dành phần lớn tài sản của mình để lại cho con cái. Hiện họ đang có 3 đứa con nhỏ nhưng Melinda không tỏ ra lo lắng: “Bất cứ lúc nào gia đình tôi nói tới chuyện tài sản, chúng tôi đều nói đến trách nhiệm phải trao tặng nó cho thế giới. Các con của chúng tôi đã có tài khoản riêng của chúng. Không phải lúc nào chúng muốn mua gì cũng được nấy, mà phải đợi đến những dịp như sinh nhật mới được tặng hay đợi cho đến khi chúng tự để dành đủ tiền”.

Hiệp hội Bill & Melinda Gates đã chi bao nhiêu cho ai? Tính đến đầu năm 2005, tỷ phú này đã cam kết số tiền 28 tỷ USD cho nhiều dự án cứu tế, từ thiện, y tế và giáo dục. Tức ông đã đem cho không đến 38% tổng tài sản của mình. 12,5 tỷ USD là tổng số tiền mà tỷ phú giàu nhất thế giới Bill Gates đã chi cho các công cuộc từ thiện cứu tế và giáo dục thông qua hiệp hội mang họ tên mình thành lập vào năm 2000. Chúng được chia ra như sau:

– Sức khoẻ: 5,4 tỷ USD (gồm chi An lược sức khoẻ toàn cầu.)

– 2,3 tỷ USD nghiên cứu trị HIV/AIDS,

– Bệnh lao và y tế sinh sản 1,5 tỷ USD;

– Các bệnh lây lan khác 1,1 tỷ USD;

– Nghiên cứu phát triển công nghệ y tế toàn cầu, 0,4 tỷ USD;

– Nghiên cứu y tế, chiến dịch y tế toàn cầu… 0,1 tỷ USD) 
– Giáo dục: 2,4 tỷ USD
– Chương trình xây dựng thư viện toàn cầu: 0,3 tỷ USD. 
– Những dự án đặc biệt khác: 0,6 tỷ USD. 
– Các chương trình từ thiện ở khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương: 0,6 tỷ USD.

– Quỹ Thiếu Niên Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc: 1,2 tỷ USD.
– Quỹ hoạt động Tổ chức Liên Hiêp Quốc: 1 tỷ USD.
– Quỹ Tổ chức Y Tế Thế Giới: 1 tỷ USD.

Anh chị Thụ & Mai gởi

HẠNH PHÚC CÓ THẬT

 HẠNH PHÚC CÓ THẬT

 * Huy Phương

 

 

 

 

 

 

Đức Khổng Tử đi chơi núi Thái Sơn, gặp ông Vinh Khải Kỳ ngao du ngoài đồng, mặc áo cừu, thắt lưng dây, tay gẫy đàn cầm vừa đi vừa hát. Đức Khổng Tử hỏi:

“Tiên sinh làm thế nào mà thường vui vẻ như thế?” 

Ông Vinh Khải Kỳ nói:

“Trời sinh muôn vật, loài người quí nhất mà ta được làm người. Trong loài người đàn ông quí hơn đàn bà mà ta được làm đàn ông. Người ta sinh ra có đui què, non yểu mà ta hoàn toàn khỏe mạnh, nay đã chín mươi tuổi. Đó là ba điều đáng vui, có gì mà phải lo buồn”. 

Đó là chuyện xưa bên Tàu. Chuyện nay bên Mỹ thì tôi vừa nhận được một thiệp Giáng Sinh, xin lược ghi lại vài câu hay hay để trình các bạn:

  1. Nếu bạn có thức ăn trong tủ lạnh, quần áo mặc trên người, một mái nhà để nương náu và một nơi để nghỉ ngơi, bạn đã giàu có hơn 75% dân số trên quả đất này. 
  2. Nếu bạn có tiền gởi trong ngân hàng, để trong ví và tiền lẻ rải rác đâu đó trong nhà, bạn đã ở trong 8% những người giàu có trên địa cầu này. 
  3. Nếu sáng nay thức dậy, bạn thấy khỏe mạnh hơn là đau ốm, bạn đã có phước hơn cả một triệu người sẽ không sống qua tuần lễ này. 
  4. Nếu bạn chưa bao giờ trải qua cơn dằn vật của đói khát, nguy hiểm của chiến tranh, lẻ loi vì tù đày hay đau đớn vì bởi tra tấn, bạn là người có phước hơn 500 triệu người trên hành tinh này. 
  5. Nếu bạn có thể đi đến nơi thờ phượng theo tôn giáo của bạn mà không sợ bị sách nhiễu, bắt bớ, nhục hình hay thậm chí bị mất mạng thì bạn đã có phước hơn 3 tỉ người trên thế giới này. 
  6. Nếu song thân của bạn còn sống và còn ở với nhau, trường hợp này rất hiếm hoi ngay tại nước Mỹ này. 
  7. Nếu bạn có thể đọc những dòng chữ này, bạn hạnh phúc hơn hai tỉ người khác mù chữ trên quả đất này.  

Và trong kinh Phật, chúng ta cũng đọc được những câu như sau: 

  1. Hạnh phúc thay, ta sống không hận thù giữa đám người thù hận.
  2. Hạnh phúc thay, ta sống mạnh khỏe giữa những người đau yếu.
  3. Hạnh phúc thay, ta sống không khao khát (dục lạc) giữa những người khao khát. 

Con người ta thường lạc quan hơn là bi quan: hy vọng trúng số độc đắc hơn là nghĩ mình sẽ chết chiều nay (số người chết vì tai nạn, bệnh tật trong ba ngày chờ xổ số ở Cali là hằng nghìn trong khi người trúng số độc đắc chỉ là một, hoặc đôi khi không có người nào).

Tuy vậy khi nhìn lại mình, hầu hết đều cho mình là khổ nhiều hơn là hạnh phúc. Chúng ta thường than cuộc đời buồn chán phải uống rượu, hút thuốc hay đánh bạc để giải sầu. Nào chuyện làm ăn khó khăn, nhà cửa bề bộn, chủ sở càu nhàu, gia đình xào xáo, mới bị ticket, con hư, bạn bè không tốt, trời hôm nay lạnh quá, kẹt xe trên xa lộ, bill ngập đầu…

Trời ơi, sao bao nhiêu chuyện khổ sở thế này? Tôi là người khổ nhất trên thế giới này… Bạn coi, có ai khổ hơn tôi không? 

Thật tình, các bạn, những người hôm nay giở trang báo này ra, tình cờ ghé thăm mục Tạp Ghi của chúng tôi, dù bạn đang ngồi trong xe, đứng ngoài đường, nơi chỗ làm việc, hay nằm nhà thì bạn là những người hạnh phúc nhất. Hạnh phúc vì những điều chúng tôi mạn phép ghi lại ở trên: 

  1. Mạnh khoẻ, mắt còn rõ và đọc được sách báo, có cơm ăn, có xe đi.
  2. Không thì cũng có tiền lên xe bus, có một mái nhà hay có thêm một hai người thân để tối nay có thể về nghỉ ngơi.
  3. Sum họp, trong ví chắc chắn là có tiền.
  4. Không nhiều thì ít, ăn được bát phở còn thấy ngon miệng, không bị ai hăm dọa, mắng nhiếc, đánh đập…

Ôi, quá sung sướng, hạnh phúc được làm người như bạn. 

Hiện nay chúng ta không làm ruộng mà có đủ cơm ăn, hơn hẳn những nông dân chân lấm tay bùn ở Việt Nam. Chúng ta không phải là phu mỏ mà có than đốt mùa đông, hơn cả triệu phu mỏ nghèo đói bất hạnh ở Trung Quốc. Chúng ta không dệt vải mà có áo quần mặc ấm, hơn cả trăm nghìn công nhân ngành dệt khốn khổ ở Bắc Hàn. 

Vậy mà cứ tới mùa Giáng Sinh vẫn có người đi theo Chúa khóc lóc, lải nhải: 

“Chúa ơi ! Chúa ơi ! Người ta lại bỏ con rồi, Chúa ơi !” 

Chúa bỗng quay lại nói với người ấy rằng:

“Con nhìn thế giới này chiến tranh, dịch bệnh, đói nghèo, tai ương, chết chóc, thù hận… Con có biết con là người hạnh phúc nhất không.

Hiện nay trên trái đất này có 800 triệu người bị vợ hay bạn gái đánh đập, mắng nhiếc hay khinh bạc mà không thể dứt ra, riêng con lại được nàng bỏ đi thì còn than vãn nỗi gì?

Nỗi khổ của con có đáng thá gì mà phải kể. Thôi về đi, chớ có theo ta mà rên rỉ mãi! 

Hy vọng đến đây, bạn có thể nở một nụ cười. Thêm một điều chứng minh rằng bạn đang hạnh phúc. Rồi ra bạn sẽ thấy được niềm hạnh phúc của mình, và xin nhắc nhở với mọi người là chúng ta đang sống trong hạnh phúc mà chúng ta không hề hay biết. Cũng xin bạn san sẻ hạnh phúc ấy với những người chung quanh bạn.

* Huy Phương

Chuyển từ Hùng Đỗ & Hồ Xưa

TẠI SAO CHÍNH QUYỀN KHÔNG DÁM ĐÀN ÁP DÂN ?

From facebook: Hoa Kim Ngo shared Đôn An Võ‘s post.
 
 
Image may contain: 2 people, people standing and outdoor
Đôn An VõFollow

 

TẠI SAO CHÍNH QUYỀN KHÔNG DÁM ĐÀN ÁP DÂN ?

Qua hai vụ bạo loạn xảy ra gần đây tại huyện Lộc Hà, Hà Tĩnh và xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội.

Người dân Đồng Tâm đã nổi dậy phá 5 xe ô tô, bắt giữ hơn 20 cảnh sát cơ động nhốt trong nhà văn hóa tẩm xăng dọa thiêu sống và đánh bất tỉnh 1 viên an ninh mặc thường phục ở Hà Tĩnh.

Đến nay chính quyền chỉ khởi tố vụ án hình sự trên giấy, mà không dám khởi tố bị can và bắt giam bất kỳ người dân nào, cho dù chứng cứ phạm tội rất rõ ràng, lan truyền khắp các trang mạng xã hội.

Theo qui định pháp luật thì hành vi trên của những người dân đã phạm vào tội: “Gây rối trật tự công cộng”, “Chống người thi hành công vụ”, “Cố ý gây thương tích”, “Hủy hoại tài sản”.

Điều gì đã khiến chính quyền không dám đàn áp và bắt giam người dân gây bạo loạn ? phải chăng chính quyền sợ dân, hay chính quyền sợ dư luận ?

Thật sự thì chính quyền chẳng bao giờ sợ dân, cũng chẳng sợ dư luận, họ chỉ sợ các nước phương tây can thiệp và Mỹ bắn tên lửa Tomahawk mà thôi.

Nếu chính quyền khởi tố, bắt giam người dân tham gia bạo loạn thì tình hình sẽ thêm phức tạp. Khi tình hình phức tạp dễ dẫn đến khó kiểm soát, buộc chính quyền phải ra tay đàn áp người dân… Nếu đàn áp đổ máu, thì các nước phương tây lên tiếng và Mỹ sẽ can thiệp bằng tên lửa Tomahawk như trường hợp Syria.

Giả sử, nếu chính quyền ra lệnh đàn áp nhân dân Đồng Tâm, Mỹ dùng tên lửa Tomahawk tấn công Hà Nội, thì quan chức chính quyền sẽ chạy đi đâu ?

Chạy vào hang Pác Bó trốn, các quan chức bỏ lại những căn biệt thự, nhà hàng, khách sạn trị giá hàng chục triệu Đô La không người trông giữ. Gia đình các quan chức có cuộc sống vương giả, khi chui vào hang Pác Bó liệu có sống được không ?

Đó là những điều mà nhà cầm quyền hiện nay rất lo sợ !

NHỮNG NGỤY BIỆN PHÒ CHẾ ĐỘ

From facebook:    Pham Doan Trang‘s post.

Pham Doan Trang

 

NHỮNG NGỤY BIỆN PHÒ CHẾ ĐỘ

Đâu đó trên mạng, ta vẫn thấy những ý kiến đầy băn khoăn, ưu tư về vụ Đồng Tâm, như là: Ừ, cứ cho là việc cưỡng chế đất của dân là sai đi, nhưng dân bắt giữ người thi hành công vụ thì là hành vi nguy hiểm, phạm pháp rồi.

Trong cách nói ấy, có sự tương đồng với kiểu công an TP. Hà Nội, vào ngày 16/4, ra công văn “đề nghị huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn đối với ông Kình vì ông đã khai báo về hành vi phạm tội, nhân thân chưa có tiền án tiền sự, không cần thiết áp dụng biện pháp tạm giữ”.

Tương đồng ở chỗ họ lờ tịt đi những kẻ thực sự đã có hành vi nguy hiểm và phạm pháp.

Dân bắt giữ công an bởi họ cần tự vệ trước một lực lượng dùng vũ lực cướp đất của họ, đặc biệt là tấn công họ, bắt bớ họ trái pháp luật. Sao chỉ xoáy vào hành vi của dân mà lờ tịt tội của những kẻ nhân danh thi hành công vụ kia đi?

(Xin nói thêm: Trong khi các vị ấy lo dân tạo tiền lệ bắt giữ công an, thì chuyện công an bắt người trái phép đã thành truyền thống của ngành rồi. Nói về bắt giữ người tùy tiện, trái pháp luật, lực lượng an ninh hẳn là quá thừa kinh nghiệm).

Công an “hủy bỏ biện pháp ngăn chặn” với cụ Lê Đình Kình, là hệ quả của việc trước đó công an đã bắt giam trái phép cụ Kình, đánh gãy xương hông cụ, ngay cả bây giờ vẫn đang giam lỏng cụ nhân danh “chăm sóc” (thực tế thì không rõ đã có anh chị công an nào đổ bô cho cụ chưa?). Sao dám bảo cụ đã “khai báo về hành vi phạm tội” (hành vi gì?) mà lờ tịt trọng tội của những kẻ nhân danh thi hành công vụ kia đi?

* * *

Các công dân phò chế độ kia sẽ nói: Ừ, thì cứ cho là bên công an cũng có phần sai đi. Nhưng thấy công an sai thì dân phải báo cáo, phản ánh với chính quyền, có gì thì khiếu nại, rồi từ từ tìm biện pháp giải quyết chứ sao lại cũng làm sai nốt? Chẳng hóa ra thấy người ta vi phạm pháp luật, mình cũng vi phạm theo?

Luận điệu đầy tinh thần “thượng tôn pháp luật” này chỉ thể hiện một sự đạo đức giả, lấp liếm và dối trá. Không hơn.

Lấy gì đảm bảo người dân sẽ không bị thiệt hại khi “thượng tôn” thứ pháp luật chưa bao giờ bảo vệ quyền của họ mà chỉ thuần túy là công cụ quản lý của nhà nước?

Khi người dân “thượng tôn pháp luật” theo kiểu mà các ngụy biện gia kia đề nghị, và rồi họ hứng đủ thiệt thòi, tai họa, thậm chí nguy hiểm về tính mạng, thì các ngụy biện gia và cái nhà nước mà cả đám đang phò có chịu trách nhiệm gì không? Câu trả lời tất nhiên là không.

Công lý – là bảo vệ sự bình đẳng về quyền, là bảo vệ quyền con người, bảo vệ người yếu thế. Trong quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, công lý là đảm bảo quyền lợi của người yếu thế (nhân dân), là buộc kẻ mạnh (nhà nước và bộ máy công cụ của nó) phải chấp nhận phần thiệt về phía mình, chấp nhận khó mình và lợi cho dân.

Thử hỏi, cái gọi là nhà nước ở Việt Nam hiện nay có bao giờ chịu nhận phần thiệt về phía mình không, hay ngược lại, nó chỉ ra sức bóc lột, chèn ép, hà hiếp người yếu thế?

Nhìn lại lịch sử để nói rộng thêm: Hơn 80 năm qua, đã bao giờ cái đảng cầm quyền này chịu nhượng bộ trước dân – bên yếu thế – chưa? Thời tiền chiến, chúng kêu gọi dân hiến tài sản, hiến vàng hiến nhà cho cách mạng. Thời chiến, chúng kêu gọi dân hy sinh xương máu. Thời bình, chúng kêu gọi dân yên tâm chấp hành đường lối chủ trương chính sách của nhà nước, và khi có chuyện gây bức xúc thì thông cảm và tạo mọi điều kiện cho các cấp chính quyền, cho cơ quan chức năng thi hành nhiệm vụ.

* * *

Các ngụy biện gia cũng có thói quen chung là, hễ cứ có xung đột, mâu thuẫn, vấn đề gì trong xã hội là lại chĩa mũi dùi vào dân, phê phán “tư duy bầy đàn”, “văn hóa tiểu nông”, “căn tính bạo lực” của người dân Việt Nam. Hỏi sao không chỉ trích nhà nước, họ sẽ ưu tư: Chính quyền thì cũng từ dân mà ra, dân như thế thì chính quyền sao khác được.

Cách nói của họ dẫn đến cách hiểu: Cuối cùng là hòa cả làng, dân cũng như quan, đều dở cả; tuy nhiên khởi thủy thì tội của dân là chính.

Hay nhỉ, họ cứ làm như nhà nước này do dân bầu ra không bằng.

Trỗi dậy nôm na vài điệu cũ,

Suy Tư Tin Mừng Chúa nhật thứ 2 Phục Sinh 23/4/2017

Tin Mừng Phục Sinh Ga 20: 19-31

Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.”

Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Điđymô, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” Ông Tôma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Rồi Người bảo ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Ông Tôma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin! “

&    &    & 

Trỗi dậy nôm na vài điệu cũ,”

“Năm canh tâm sự vẫn chưa tàn.”

                                                                (dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mai Tá lược dịch.

Trỗi dậy, nhà thơ khi xưa còn chưa trỗi. Chỉ mỗi nôm na điệu cũ, vẫn chưa tàn. Tín thác, nhà Đạo hôm nay rày xác tín. Cũng một tâm sự vẫn chưa an. Chưa an, giống như tâm sự của thánh Tôma tông đồ với lòng dạ chưa vững, dù Chúa có thăm viếng đồ đệ, với chúng dân.

Trình thuật hôm nay, thánh Gioan cũng trình và cũng thuật sự kiện Chúa về với đồ đệ để trấn an dân con của Ngài còn hãi sợ, và do dự. Sợ là sợ người Do thái tiếp tục lùng tìm đồ đệ của Ngài, mà hãm hại. Do dự, là bởi các ngài chưa hoàn toàn tin vào Thày mình dám trở về với anh em.

Niềm tin của thánh Tôma sở dĩ kém cỏi, là bởi thánh nhân chưa một lần đích thân gặp lại Thày mình, kể từ ngày Thầy trỗi dậy, vào Phục Sinh.

Với Hội thánh, tâm trạng thánh Tôma biểu trưng cho động thái của cộng đoàn cho rằng Chúa vẫn đang sống với họ theo cung cách nào đó, rất đặc biệt. Đặc biệt, là: họ thấy Chúa vẫn hiện diện trong quan hệ mật thiết với các ngài. Quan hệ, có nhận thức. Có tính cách mật thiết và thân cận khiến họ chẳng muốn thổ lộ cho ai biết. Bởi, có để lộ quan hệ này theo cung cách nào đi nữa, họ cũng chẳng có người để cảm thông. Có khi còn bị bài bác, bách hại nữa là đàng khác.

Vì thế, cộng đoàn nay càng đi vào quan hệ riêng tư với Chúa, càng thấy mình có khả năng duy trì sự tư riêng kín đáo ấy hơn là bày tỏ công khai như mọi người. Cũng từ đó, quan hệ giữa các thánh với Chúa Sống lại trở nên thiêng liêng và quan yếu khiến họ sống chức năng cộng đoàn mình.

Cộng đoàn này, ước ao Hội thánh khắp nơi chú ý đến giáo huấn mở rộng, bao gồm cả các tín hữu thuộc đủ mọi thành phần, ngay từ đầu. Và, thánh Tôma đã đại diện cho cộng đoàn đặc biệt luôn bận tâm tìm mọi cách để được chấp nhận làm thành phần của Hội thánh chính mạch, thời tiên khởi. Và việc thẩm nhập như thế, quả thật không dễ.

Tâm trạng chung của hầu hết các tín hữu Đức Kitô bình thường rất thực tế. Điều mà cộng đoàn tiên khởi tin tưởng, đã được cắm sâu trong giòng đời lịch sử, rất thiết thực. Lịch sử ấy, ghi lại việc dân con bình thường ở Hội thánh thấy Đức Giêsu vẫn quan hệ cởi mở với chúng dân. Nhờ đó, mà cuộc sống công khai của Ngài được mọi người nhận biết rất rõ. Nhận và biết, rằng cung cách sống Chúa thể hiện cụ thể trong đời công khai của Ngài là đứng về phía người nghèo không sợ sệt. Dù, có bị công quyền thách thức và đe doạ, vẫn không sợ. Chính vì thế, Ngài đã bị loại trừ khỏi mọi thế sự bằng cái chết rất nhục nhã, trên thập giá.

Trình thuật thánh Gioan viết về thánh Tôma còn để nói lên việc Chúa Phục Sinh là sự tiếp nối những gì Ngài đã thực hiện trong quãng đời lịch sử do Cha điều động. Tiếp nối cung cách sống khả dĩ khiến con người cần phải có. Trình thuật mở ra cho mọi người thấy nhãn quan rất khác biệt về tương lai của niềm tin nơi Hội thánh. Đó là điểm khác biệt giữa Tin Mừng theo thánh Gioan và Tin Mừng nhất lãm.

Tin Mừng nhất lãm không chú trọng nhiều về “truyền thống Tôma”, tức những khía cạnh nội tâm thâm trầm trong quan hệ với Chúa như Tin Mừng thánh Gioan chủ trương. Nói cách khác, khi lồng vào nội dung của Tin Mừng mình, thánh sử Gioan chấp nhận “con đường chật hẹp”; tức: chọn lựa lập trường trung lập giữa nhóm phái “Ngộ Đạo” và “Chính thống” trong Đạo giáo thời tiên khởi.

Vào thời ấy, đã thấy xuất hiện nhiều nhóm/phái rất khác biệc trong cung cách và lập trường tuyên tín, tuy vẫn tin vào Đức Chúa Phục Sinh. Phải mất một thời gian dài, mãi đến thế kỷ thứ 2 và 3, Antiôkia và Rôma mới đi đến hợp nhất đúc kết thành một hình thái duy nhất của Đạo Chúa. Và từ đó, đã tồn tại qua nhiều thế kỷ. Cũng vì lý do đó, nhiều lúc nhìn về dĩ vãng, ta có khuynh hướng gọi những đường lối khác biệt là “rối đạo”, tức mũ chụp của kẻ chiến thắng tặng cho người chiến bại, trong tranh chấp.

Khi thánh Gioan viết Tin Mừng thứ tư, theo “nguồn mạch Chính thống” mà lúc ấy chưa nổi hẳn, nên thánh nhân được xem như xuất từ nhóm/phái tin vào những trải nghiệm về linh đạo nội tâm hơn các nhóm khác. Và lúc đó, thánh nhân đã ở vào tình huống công nhận và bao gộp một số nhóm phái giống như mình vào giòng chảy niềm tin sâu rộng và phổ cập.

Thánh Gioan chống đối lối suy tưởng của nhóm đích thực “Ngộ Đạo”, là bởi thánh nhân nghĩ rằng các vị ấy đã sai sót về Kinh thánh của người Do thái. Dù thế, thánh nhân vẫn mở rộng cửa cho các vị không thuộc nhóm “Ngộ Đạo” nhưng lại trải nghiệm niềm tin của mình không theo cung cách của truyền thống công khai và những chuyện hoàn toàn mang tính phàm trần, rất trái đất. Và đó là lý do khiến thánh nhân sử dụng truyện thánh Tôma kém lòng tin nhưng lại trải nghiệm riêng tư mật thiết mà nhóm của thánh Tôma là đại diện.

Chính vì thế, ta mới có tài liệu gọi là “Tin Mừng theo thánh Tôma”, hoặc Tin Mừng thứ năm, tuy không được Giáo Hội đưa vào Sách Tân Ước, để ta tin. Việc này xảy đến vào thế kỷ thứ hai, tức: vào thời thánh Gioan còn sống, có lẽ từ miền Đông nước Syria. Tài liệu Tin Mừng này, hoàn toàn không mang tính “rối đạo”, sai sót, cũng chẳng thuộc nhóm “Ngộ Đạo”, nhưng vẫn không thuộc nhóm chính mạch truyền thống theo nghĩa nhất lãm, hoặc nổi lên vào thời sau này của Đạo Chúa.

Dân con Đạo Chúa hôm nay có nhiều phương án khác nhau về niềm tin. Chí ít, là tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Một số vị vẫn còn “ngoài luồng”. Một số thì niềm tin vào Phục sinh đã ngự trị ngay trong tâm can của họ. Dù trong hay ngoài, có lẽ vẫn nên đọc lại truyện thánh Gioan kể về thánh Tôma đến với niềm tin như thế nào. Có đọc lại như thế, ta mới mở rộng vòng tay để cho người anh người chị ở khắp nơi, cả nơi ta đang ở, mới có đất trống để thực sự tin vào sự sống lại. Của Đức Giêsu. Và, của mọi người.

Dù gì đi nữa, ta không thể nào có được niềm tin vững chãi vào sự Sống Lại của Đức Giêsu, nếu không có ánh sáng của Thánh Thần Chúa soi dọi mọi người. Nói cách khác, ta chỉ tin và công nhận Chúa đã Sống Lại theo cung cách nào đó, đều nhờ có Thánh Thần Chúa dẫn dắt, mà thôi.

Xem thế thì, việc Đức Giêsu hiện đến xác định một Sống Lại thật với thánh Tôma hay các môn đồ ở chốn kín cổng cao tường, vẫn là Lễ Hiện Xuống mới rất đích thực, cho mọi người. Nói cho cùng, tin Chúa Sống Lại tức đã tin vào Quyền Uy Sức Mạnh của Thánh Thần Chúa, vào mọi lúc.

Trong tâm tình ấy, ta ngâm lại lời của người từng đấu tranh nhiều cho niềm tin riêng mình, như sau:
“Non sông bốn mặt mơ màng,

Thức, chỉ mình ta dạ chẳng an.

Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối,

Gió thu lọt cửa cọ mài chăn.

Khóc giùm thân thế hoa rơi lệ,

buồn giúp công danh dế dạo đàn.

Trỗi dậy nôm na vài điệu cũ,

Năm canh tâm sự vẫn chưa tàn.

(Hàn Mặc Tử – Đêm Không Ngủ)

Chúa sống lại, hẳn người người cũng mất nhiều đêm, rất không ngủ. Thức hay ngủ, để nghĩ suy, bằng tâm tình trọn niềm tin nơi Chúa. Chí ít, là niềm tin Chúa Sống lại.

Là, thách thức khiến “dạ chẳng an”. Là, thách thức vẫn chưa tàn, cuộc tình ta vẫn có với Chúa, ở chốn riêng tư hay ngoài mặt. Là tâm tình ta có được, nhờ Thánh Linh giúp trỗi dậy. Hôm nay. Mai ngày. Và, mãi mãi cõi miên trường.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –

Mai Tá lược dịch.

Ô kìa, bầy chim bỗng tới líu lo, líu lo sau nhà

 

Video : Ô Kìa! Đời Bỗng Dưng Vui – Mai Phương ft Dương Hiếu Nghĩa [Official]

httpv://www.youtube.com/watch?v=0FycdlXt8t0

Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần thứ 2 Phục Sinh năm A 23/4/2017

 Ô kìa, bầy chim bỗng tới líu lo, líu lo sau nhà

Ô kìa, người yêu bỗng tới tự tình với ta

Ô kìa, Ô kìa kìa vươn hoa bỗng dưng kết hoa, kết hoa muôn màu

Trời xanh mây trắng xóa

Người yêu xinh quá khiến ta bỗng yêu đời.”

(Hoàng Thi Thơ – Ô kìa, đời bỗng líu lo)

(1 Côrinthô 1: 26-31)

 Trần Ngọc Mười Hai

 Ơ hay! Sao anh lại cứ hát những lời “líu lo” hoặc lo toan đến líu cả lưỡi, nên mới thế. Ơ kìa! Líu lo với lo-toan đến độ líu lưỡi, đâu có gì mà phải hát lên như thế. Rồi anh còn hát líu lo, đến “vang rần”, “trời hồng trên má”, rất như sau:

 “Ô kìa, đàn em bỗng tới hát ca,

hát ca vang rần

Ô kìa, bồ câu bỗng tới tự tình trước sân

Ô kìa, Ô kìa kìa dàn hoa mướp kia bướm ong,

bướm ong la đà

Người yêu duyên đáng quá

Trời hồng trên má khiến ta bỗng yêu đời

Ha! Xin cho ta vui, cơn vui như điên

Xin cho ta say cơn vui hôm nay

có bao giờ đâu

Dù trong phút giây đời ta biết say

Ha! Xin cho ta vui cơn vui đang lên

xin cho ta say cơn vui đang lay

có bao giờ đâu đời ta bỗng vui.”

(Hoàng Thi Thơ – bđd)

Thôi thì, “có say cơn vui đang lay” hoặc “có bao giờ đâu đời ta bỗng vui”, vẫn là những nhận-định của nhiều người để rồi, tất cả mọi người sẽ cùng với người viết nhạc ca lên những lời cuối như sau:

 “Ha ha ha, Ô kìa bầy ngan bỗng tới cắn yêu,

cắn yêu chân người

Ô kia người yêu bỗng khóc giận hờn với tôi

Ô kìa, Ô kìa kìa một đôi bướm say lướt bay,

lướt bay trên trời

Người yêu như bối rối,

lặng nhìn không nói khiến tôi bỗng yêu đời

Khiến đời bỗng thành vui.”

(Hoàng Thi Thơ – bđd)

Đời bỗng thành vui”, đó chính là ý-nghĩa của câu hát vang trong đời, rất thảnh thơi. Đời có “bỗng thành vui” hay không, hãy cứ hỏi han nhiều người xem họ có ý-kiến phản hồi ra như thế nào. Hãy cứ hỏi xem các cụ nhà Đạo mình thấy được những ai “khiến đời bỗng thành vui”, như đấng bậc ở chốn chop bu nhà Đạo, như lời hỏi/đáp được trích dịch, ở bên dưới:

“Thưa Cha,

 Trong 4 năm trời Đức Phanxicô đã thực-hiện vai-trò then chốt của ngài rất tốt đẹp. Nhưng, con đây lại nghe có nhiều người kể rất nhiều điều về ngài, như: ngài là vị Giáo hoàng vĩ-đại, thông thoáng, một vị rối đạo hoặc cả đến cuộc bầu bán năm ấy bầu ngài lên, cũng không đúng. Vậy thử hỏi, con đây nên nghĩ thế nào về Đức Giáo Hoàng nhà ta, và phải phản-ứng thế nào với những lời bình như thế? Xin cha giải-thích cho biết”.

 Cha Đạo nhà mình hễ cứ nghe những lời thưa/gửi líu lo hỏi về những lời kết tội Đức Giáo chủ ra như thế, chắc chắn sẽ thấy ngứa tay quay tít mù, bèn lấy giấy bút trả lời ngay tức thời rằng:

“Vâng. Cả tôi nữa, cũng từng nghe những lời nhận-định như thế bèn hiểu là biết bao nhiêu người đi Đạo của ta cứ lẫn lộn nhiều điều về Đức đương kim Giáo hoàng Phanixô, Đạo mình. Vậy thì, ta nên ứng-xử cách nào đây?

 Trước hết, ta không nên đặt những câu hỏi đầy ngờ-vực về tính hiệu-lực khi mật-viện hồng-y họp bàn để bầu cử ngài lên làm Giáo-Hoàng. Mọi việc ngang qua thủ-tục bầu bán hôm ấy đều được thực-thi rất đúng cách. Trong suốt thời-gian này, chẳng có ai thắc-mắc gì về tính hiệu-lực hết; bởi thế, ta cũng không nên làm thế vào lúc này. Thánh Thần Chúa đã tạo hứng khiến các vị hồng-y sáng-suốt đủ để Ngài ban cho ta một vị Giáo-hoàng mà Chúa muốn tặng ban.

 Thứ hai là, cho đến hôm nay, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã làm biết bao nhiêu điều tốt đẹp cho toàn-thể Giáo-hội. Ngay từ đầu, ngài đã khiến mọi người trong/ngoài Hội-thánh mến chuộng, từ nụ cười nhẹ-nhàng cho đến cung-cách cởi-mở và lối sống giản-đơn. Ngài tự chọn cho mình chỗ ở để sống thường ngày tại Căn nhà mang tên Mácta ở Vatican, hơn là trú-ngụ tại căn-phòng to tát dành cho các Giáo-hoàng. Làm như thế, là để gần cận chúng-dân hơn.

 Rõ ràng là, ngài có lòng thương mến cách đặc-biệt những người nghèo-khổ hoặc bị bỏ rơi bên lề xã-hội. Ngài kêu gọi tình người xót thương hơn là dính cứng với lề luật, và còn nhiều điều tốt đẹp này/khác nữa.        

 Đức Phanxicô thực-sự nổi tiếng, không chỉ với người Công-giáo mà thôi, nhưng cả với người không theo Đạo Chúa, cũng hệt thế. Ngài là vị Giáo-hoàng đầu tiên mở tài-khoản Instagram vào tháng Ba năm 2016 và đã phá kỷ-lục từ trước đến giờ, với hơn một triệu người theo-dõi trong không đầy 12 tiếng đồng hồ. Tạp chí TIME đã chọn ngài là “Người Của Năm 2013” và nhiều nhà xuất bản khác lại cũng đưa hình ngài lên trang bìa sách/báo của họ nữa.

 Đức Phanxicô đem đến cho ta nhiều tông-huấn đáng kể, để đời. Tông-thư đầu tiên do ngài viết có tên là “Lumen Fidei” (tức: “Ánh-sáng Đức Tin”) nói về đặc-trưng của niềm tin, được phát-hành vào tháng 6 năm 2013, tức: chỉ vài tháng rất ngắn sau khi ngài nhậm chức.

 Tiếp theo đó, là Tông-thư “Evangelii Gaudium” (tức: “Niềm Vui Tin Mừng”)ban-hành vào dạo tháng 11 cùng một năm 2013, đã tạo lực đẩy lớn và chỉ-dẫn thiết-thực để loan-truyền Lời Chúa cách hữu-hiệu hơn cho thế-giới đặc-biệt ngang qua niềm vui cuộc đời ta đang sống. Loan-truyền Phúc Âm, là trọng-tâm cho sứ-vụ của Giáo-hội  -Đức Giáo Hoàng Phaolô đệ Lục từng viết: Giáo-hội ta hiện-hữu là để truyền-bá Phúc Âm mà thôi.”

 Đó là vai-trò sinh-tử của Giáo-hội ta vào lúc này; và Đức Phanxicô lại biến sự việc này thành chủ-đề trọng-yếu trong nhiệm-kỳ Giáo-hoàng của ngài. Cả Tông-thư thứ hai do ngài viết mang tên “Laudato Si” đặt nặng trọng-tâm lên môi-trường sống, tức căn nhà chung của chúng ta, cũng đã xuất-hiện vào tháng Sáu năm 2015.

 Tông-thư ngài viết, được mọi người tuyên-dương cách rộng rãi, nói lên nhu-cầu của ta là những người có bổn-phận chăm-nom cho hành-tinh nhỏ bé do Chúa tặng ban cho con người. Vấn-đề này cũng quan-trọng không kém vào thời buổi này, nhưng vẫn có nhiều nhà bình-luận đã nắm bắt một số ý-kiến phát-biểu qua sự thể là: ta có thể tỏ ý bất-đồng quan-điểm với Đức Giáo Hoàng, cũng không sao.

 Sự thật thì, trong bất kỳ trường-hợp nào, ta cũng đã bỏ qua giáo-huấn nòng-cốt, bất diệt là như thế. Một trong các mục-tiêu lớn nhất mà những người chỉ-trích Đức Phanxicô thường hay nhắm đến, là: Tông-thư “Amoris Laetitiae” vốn bàn về chuyện gia-đình, được ban-hành vào tháng Tư năm 2016 vừa qua…

 Hỏi rằng: Đức Phanxicô có là vị Giáo-hoàng tự-do/ phóng-khoáng hay không? Thì, thiết tưởng, ta cũng không nên áp-đặt các cụm-từ chính-trị như thế với bất cứ vị Giáo hoàng nào cũng vậy. Đơn-giản là, đừng nên đánh giá ngài theo cung-cách chính-trị, rất không tốt. Bởi, nếu tự-do/phóng-khoáng là người biết lo cho người nghèo/khổ, đau yếu, bệnh-tật và cao-niên, tị-nạn, người sống ngoài lề xã-hội và môi-trường sống, thì đúng thế, Đức Giáo hoàng Phanxicô là người như thế, rất phóng-khoáng.

 Thế nhưng, những gì có thể bảo-thủ hoặc theo truyền-thống hơn như ngài từng lặp đi lặp lại rất nhiều lần về ác-thần/sự dữ đang hiện hữu, về nhu-cầu cần xưng-thú lỗi tội, về lòng đạo-đức sốt sắng đến với thánh cả Giuse, với Đức Mẹ và Tiệc Thánh Thể, cũng như duy-trì giáo-huấn của Hội-thánh chủ-trương kế-hoạch-hoá sinh-sản, phá thai và sự việc không thể truyền-chức linh mục cho nữ-giới ?

 Có điều chắc chắn phải nói ở đây, tức: Đức Phanxicô không hề là bè rối. Không có gì chứng-tỏ Ngài là như thế, đến bây giờ. Có thế nói, nhiều lúc rất nhiều người không hiểu rõ ý của ngài, nhưng tuyệt nhiên ngài không bao giờ là kẻ rối đạo hết.

 Có điều tốt, là ta phải thực-hiện cho bằng được là lời ngài thường xuyên thúc-giục mọi người trong Đạo “Hãy cầu nguyện cho Cha”. Bởi, nếu có ai ưu-tư nhiều về đường-hướng mà Đức Phanxicô đang theo-đuổi vấn-đề nào đó cách đặc-biệt hoặc vui thích về những gì ngài đang làm, thì tốt hơn hết là ta cũng nên nguyện cầu cho ngài. Đó là cách hay nhất để giúp ngài, vào lúc này.”(Xem Lm John Flader, Question time: Four years with Pope Francis: A Pontificate filled with surprises, The Catholic Weekly 02/4/2017 tr. 20)

Nói cho cùng, thì: vấn đề được người hỏi đưa ra ở đây, đâu phải là những ngỡ-ngàng từ vị Giáo chủ nổi cộm, này đâu. Có lẽ, vì quá nổi cộm nhờ vai-trò làm chủ cả một nhóm/hội đông đến hàng tỷ người, thì Đức Ngài cũng không tài nào tránh được các nhận-xét có hơi quá đáng, và đôi lúc cũng hơi “quá lời”, mà thôi.        

Nổi cộm nhờ vai-trò làm chủ cả một Giáo-hội, đôi lúc cũng vì mọi người dưới trướng cứ quan niệm rằng: Đức Ngài vốn dĩ “vô ngộ” nên hễ cứ nói lên lời nào cũng thành sự thật cả. Lời ấy, không bao giờ sai, quấy.

Nay, nhân có những lời phẩm bình về Đức Giáo Chủ Phanxicô, tưởng cũng nên coi lại và suy-nghĩ thêm xem Đức Ngài có “vô ngộ” hay không? Dù, ngài có ngồi trên ghế bành Toà Thánh mà phán với đoán. Về điểm này, nay cũng nên tìm lại các chi-tiết được viết trong bản văn Công Đồng Vatican 1 năm 1870 từng bảo rằng:

“Đức Giám-mục Giáo-phận La Mã, khi ngài ngôi trên ghế tông-toà để phán-bảo điều gì, thì đó là lúc ngài sử-dụng quyền-hành của đấng chăn-dắt và dạy dỗ hết mọi tín-hữu Đức Kitô như một giáo-thuyết của niềm tin hoặc đạo-đức mà toàn-thể Giáo-hội sẽ theo đó mà thi-hành. Và, điều đó có sự giúp-đỡ của Thiên-Chúa đã hứa ban cho ngài ngang qua thánh Phêrô là người có đặc-tính bất khả ngộ và kết-quả là: các phán-quyết của Đức Giám-mục Giáo-phận La Mã không thể nào lật ngược được….”  (X. The Catholic Encyclopedia tập 7, chữ “Infallibility” tr. 976)

Đành rằng, đặc-trưng “bất khả ngộ” của Đức Giáo-chủ là “không thể lật ngược” được, nhưng trong lịch-sử Giáo hội Công-giáo, cũng thấy nhiều vị Giáo-hoàng đã bất đồng ý-kiến với nhau, đến độ các ngài không tin là những gì vị tiền-nhiệm mình đề-cập, là “vô ngộ” hết. Chẳng thế mà, Tự-điển bách khoa Công-giáo lại cũng viết thêm như sau:

 “Vị Giáo hoàng kế-nhiệm Đức Formosus là Stêphanô VI (896-897) đã ra lệnh cho một thày dòng đi lấy thi-hài của vị Giáo-hoàng trước đó là Đức Formosus (891-896) từ sông Tiber, nước Ý đem về phục hồi chức-danh đấng kế-thừa ngai vàng thánh Phêrô. Ít năm sau, tại một buổi họp thượng đỉnh, vị Giáo hoàng này đã huỷ bỏ các quyết-định từng có vào thời tông-toà Stêphanô VI và tuyên-bố là mọi lệnh-truyền do Đức Formosus khi trước đã ban, đều có hiệu-lực…” (Xem thêm Ralph Woodrow, Are Popes Infallible?, Babylon Mystery Religion 1981, tr.100)     

 Nói tóm lại, “vô ngộ” hoặc “bất khả ngộ” là đặc-trưng quyền-hành của các Đức Giáo-chủ. Nhưng, thông-thường thì, ngày nay, ít có vị nào lại sử-dụng quyền ấy, hoặc cho rằng mình nắm vững chân-lý, cả khi đề-cập đến tín-lý hay tín-điều nữa.

Nói cho cùng, có là nhân-vật nổi cộm hay nổi tiếng thế nào đi nữa, tưởng cũng nên đề-nghị bạn, đề-nghị tôi, ta trở về với trích-đoạn của bài hát với những lời như:

“Ô kìa, đàn em bỗng tới hát ca, hát ca vang rần

Ô kìa, bồ câu bỗng tới tự tình trước sân

Ô kìa, Ô kìa kìa dàn hoa mướp kia bướm ong,

bướm ong la đà

Người yêu duyên đáng quá

Trời hồng trên má khiến ta bỗng yêu đời

Ha! Xin cho ta vui, cơn vui như điên

Xin cho ta say cơn vui hôm nay

có bao giờ đâu

Dù trong phút giây đời ta biết say

Ha! Xin cho ta vui cơn vui đang lên

xin cho ta say cơn vui đang lay

có bao giờ đâu đời ta bỗng vui.”

(Hoàng Thi Thơ – bđd)

 Hát thế rồi, nay cũng nên đi vào vùng trời lời đấng thánh hiền ở nhà Đạo để có thêm một hỗ trợ về đạo giáo, rằng:

“Anh em thử nghĩ lại xem:

khi anh em được Chúa kêu gọi,

thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời,

đâu có mấy người quyền thế,

mấy người quý phái.

Song, những gì thế-gian cho là điên dại,

thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan,

và những gì thế gian cho là yếu kém,

thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh.”

những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có,

thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có,

hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người.

Phần anh em, chính nhờ Thiên Chúa

mà anh em được hiện hữu trong Đức Kitô Giêsu,

Đấng đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta,

sự khôn ngoan phát xuất từ Thiên Chúa,

Đấng đã làm cho anh em trở nên công chính,

đã thánh hoá và cứu chuộc anh em,

hợp như lời đã chép rằng:

Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa.

(1Corinthô 1: 26-31)

Nghe thế rồi, nay đề nghị bạn và tôi, ta lại sẽ đi vào vùng trời truyện kể có những điều để kể như sau:

“Chim Chiền Chiện làm tổ trên một cánh đồng lúa mì non. Ngày ngày trôi qua, khi những thân lúa đã vươn cao thì bầy chim con mới nở ngày nào, đã lớn nhanh như thổi. Rồi một ngày, khi lúa những ngọn lúa chín vàng đung đưa trong gió, Bác aNông Phu và những người con đi ra đồng.

 Bác Nông Phu nói:

-Lúa này bây giờ gặt được rồi đây. Chúng ta phải kêu cả những người hàng xóm và bạn bè đến giúp cho chúng ta thu hoạch.”

 Bầy chim Chiền Chiện con trong tổ ngay sát đó nghe vậy hết sức sợ hãi, vì chúng biết rằng chúng sẽ gặp nguy lớn nếu không kịp dời tổ trước khi thợ gặt đến. Khi chim Chiền Chiện Mẹ kiếm ăn trở về, lũ chim con kể lại cho mẹ những gì chúng nghe được. Chiền Chiện mẹ nói:

-Đừng sợ, các con ạ. Nếu Bác Nông Phu bảo rằng ông ấy sẽ kêu hàng xóm và bạn bè của ông đến giúp, thì đám lúa này cũng còn một thời gian nữa mới gặt được.

 Vài ngày sau, khi lúa đã quá chín và khi có gió lay động thân lúa, một loạt các hạt lúa rào rào rơi xuống đầu lũ Chiền Chiện con.

 Bác Nông Phu bảo:

-Nếu không gặt gấp đám lúa này, chúng ta sẽ thất thoát đến cả nửa vụ mùa. Chúng ta không thể chờ đợi bạn bè được nữa. Ngày mai chúng ta sẽ bắt đầu tự gặt lấy.

 Khi lũ Chiền Chiện con kể lại với mẹ những gì chúng nghe ngày hôm nay, nó bảo:

-Thế thì mình phải dọn tổ đi ngay. Khi người ta đã quyết định tự mình làm mà không trông nhờ vào ai khác nữa, thì chắc chắn là họ chẳng trì hoãn gì nữa đâu.

 Cả nhà chim tíu tít lo bay tới bay lui dọn tổ đi ngay buổi trưa đó, và đến khi mặt trời mọc sáng hôm sau, lúc Bác Nông Phu và những người con ra đồng gặt lúa, họ chỉ gặp một cái tổ rỗng không. “

 Và lời bàn của người kể những nói rằng:

“Trong cuộc sống, khi đã quyết định tự mình làm việc gì, đừng quá trông mong vào sự giúp đỡ người khác. Tự cứu mình là tốt nhất.” (truyện do St sưu tầm trên mạng vi-tính).

 Kể và đọc những lời bàn như thế, cũng chỉ để bảo nhau và hát cho nhau những lời sau đây:

“Ô kìa, bầy chim bỗng tới líu lo,

líu lo sau nhà”

Ô kìa, người yêu bỗng tới tự tình với ta

Ô kìa, Ô kìa kìa vươn hoa bỗng dưng kết hoa,

kết hoa muôn màu

Trời xanh mây trắng xóa

Người yêu xinh quá khiến ta bỗng yêu đời.”

(Hoàng Thi Thơ – Bđd)

Và lời cuối hôm nay, vẫn là những lời dặn dò: hãy cùng nhau ca hát nhiều hơn là bình-phẩm về ai đó, thì tốt hơn. Bởi, dù có phẩm-bình hoặc chê trách cách nào đi nữa, ta cũng chẳng bao giờ xây dựng được việc gì, dù có gọi đó là “góp ý”, “để xây dựng” hay sao đó, cũng đều thế.

Trần Ngọc Mười Hai

Với đề nghị giản-đơn

là luôn hát những lời như:

Ô kìa, người yêu bỗng tới

tự tình với ta,

dù xa lạ hay quen biết.     

42 năm, lại nói chuyện hòa hợp hòa giải

42 năm, lại nói chuyện hòa hợp hòa giải

Cát Linh, phóng viên RFA
2017-04-21
 
Tổng thống Dương Văn Minh, vị tổng thống cuối cùng của Sài Gòn, rời dinh tổng thống ngày 30 tháng 4 năm 1975 sau khi tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh.

Tổng thống Dương Văn Minh, vị tổng thống cuối cùng của Sài Gòn, rời dinh tổng thống ngày 30 tháng 4 năm 1975 sau khi tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh.

AFP photo
 
 Tròn 42 năm kết thúc cuộc nội chiến của người dân Việt Nam, tháng 4 năm 1975 – 2017, vấn đề hoà hợp hoà giải dân tộc được nhà nước Việt Nam nhắc đến nhiều lần nhưng thực tế như thế nào?

Rất khó

Trong suốt mấy mươi năm đó, không phải một lần, mà rất nhiều lần, cụm từ “hoà hợp hoà giải dân tộc” được nhắc đến trong các cuộc họp Đại hội Đảng, Hội nghị Trung ương, hay bất cứ nơi nào có lời phát biểu của những vị đứng đầu nhà nước.

Cụ thể là Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004 của Bộ Chính trị và nghị quyết 23 NQ/TW ngày 16 tháng 1 năm 2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam.

Chưa kể đến những chương trình giao lưu họp mặt do Uỷ ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài tổ chức.

Thế nhưng, 42 năm, một quãng thời gian đủ dài để đánh dấu sự trưởng thành của một con người, nhưng không đủ nhiều để cho một dân tộc có thể quên đi những tổn thương nặng nề do chiến tranh để lại. Đó cũng là điều Tiến sĩ Nguyễn Quang A nhận thấy về chủ trương hoà hợp hoà giải dân tộc:

“Tôi nghĩ vấn đề hoà giải dân tộc là một vấn đề rất là khó, do lịch sử để lại rất nhức nhối. Người ta nói nhiều về chuyện ấy nhưng làm không được mấy, bởi vì cái hố ngăn cách giữa bên này bên kia, người này người nọ, nhất là hố phân cách do cái tư duy chỉ có đen và trắng.”

Tôi nghĩ vấn đề hoà giải dân tộc là một vấn đề rất là khó, do lịch sử để lại rất nhức nhối
– Tiến sĩ Nguyễn Quang A

Đối với ông, thực chất cuộc sống phong phú hơn rất nhiều. Giữa đen và trắng còn có màu xám và triệu gam màu khác tồn tại ở giữa.

Không cần suy xét đâu xa, chỉ cần nhìn lại những sự kiện diễn ra rất gần đây, có thể thấy cái khó mà Tiến sĩ Nguyễn Quang A e ngại hoàn toàn có cơ sở.

Chỉ trong nửa đầu năm 2017, Hàng loạt những câu chuyện “cười ra nước mắt” đã diễn ra ngay trong xã hội Việt Nam, nơi có cả người thuộc “bên này”, kẻ thuộc “bên kia” cùng chung sống.

Từ việc  ra mắt cuốn sách nghiên cứu về nhân vật Trương Vĩnh Ký bị “lệnh miệng” đình lại cho đến những ca khúc nhạc vàng nổi tiếng từ trước năm 1975, cụ thể là năm ca khúc Cánh thiệp đầu xuân (Lê Dinh – Minh Kỳ), Rừng xưa (Lam Phương), Chuyện buồn ngày xuân (Lam Phương), Đừng gọi anh bằng chú (Diên An), Con đường xưa em đi (Châu Kỳ – Hồ Đình Phương)  bị cấm hát vĩnh viễn, rồi lại cho phép trình diễn trở lại vài ngày sau đó.

Theo lời giải thích của ông Lương Hồng Quang, việc cấm các ca khúc trước 1975 hoàn toàn không liên quan đến ý thức hệ, mà vấn đề là do Việt Nam đang tăng cường quản lý sở hữu trí tuệ. Và ông cũng khẳng định cơ quan quản lý nhà nước đang gặp nhiều lúng túng.

Có lẽ cái lúng túng ông Lương Hồng Quang nhắc đến chính là gam màu xám ở giữa mà Tiến sĩ Nguyễn Quang A đã nhắc đến?

Từ Nghệ thuật

Mặc dù, không thể phủ nhận rằng rất nhiều nghệ sĩ trong lĩnh vực âm nhạc đã quay trở về phục vụ cho người Việt trong nước sau mấy mươi năm rời quê hương. Thế nhưng, nhà văn Nguyễn Đông Thức, từ Sài Gòn có đưa ra một nhận xét: “Cho tới giờ, tất cả những show diễn của Phạm Duy, Khánh Ly đều không được phép quảng cáo ở Thành phố Hồ Chí Minh, một cái bandrole cũng không có. Cuộn phim tài liệu về Phạm Duy về nước làm tám năm nay vẫn không được phép phát hành!”

Ông từng nói mình không tin bên nội địa thật lòng. Những lời kêu gọi hoà hợp hoà giải là “Màu mè, hình thức thôi. Còn lâu mới có hoà hợp hoà giải trong văn học văn nghệ, lãnh vực thượng tầng, quyết định tư tưởng, mà chính quyền Việt Nam luôn đặt lên hàng đầu.”

Còn lâu mới có hoà hợp hoà giải trong văn học văn nghệ, lãnh vực thượng tầng, quyết định tư tưởng, mà chính quyền Việt Nam luôn đặt lên hàng đầu.
– Nhà văn Nguyễn Đông Thức

Vào đầu năm nay, tại buổi lễ trao giải thưởng văn học 2016, chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam, ông Hữu Thỉnh đã đưa ra ý kiến mời các nhà văn, nhà thơ người Việt hải ngoại, kể cả đó là những người cầm bút phục vụ chế độ cũ (Việt Nam Cộng hoa) về tham dự.

Nhà văn Phạm Phú Minh, được biết với bút danh là Phạm Văn Đài, từ California khẳng định không thể thực hiện được trong thời gian này. Ông tiếp nhận và xem sự việc này như “thái độ thăm dò có tính chính trị.” Đặc biệt ông khẳng định điều đó cần một thời gian rất dài, nếu không muốn nói là rất khó xảy ra.

Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng, đặt ra sự nghi vấn về “thâm ý chính trị”.

“Đối với Hữu Thỉnh, trước mắt phải làm sao để Hội nhà văn tồn tại và có kinh phí tồn tại. bây giờ phải bày ra chuyện để làm. Thực chất nó là như vậy và nó nằm trong chủ trương chiêu dụ người Việt hải ngoại.”

“Thứ hai nữa là họ muốn làm cũng không có khả năng, vì việc đi quan hệ tiếp xúc và thuyết phục giới nhà văn hải ngoại để về nước rồi nói cái gì là vô cùng khó đối với họ. Ở đây chỉ có vài văn đoàn độc lập mà họ còn không chịu tiếp cận, không chịu tiếp xúc không chịu chia sẻ thì làm sao tiếp cận giới nhà văn hải ngoại?”

000_ARP4290790.-400.jpg
Một đám tang người lính Việt Nam Cộng Hòa tại Nghĩa trang Quân đội Quốc gia Biên Hòa, nay được gọi là nghĩa trang Bình An. Ảnh chụp hôm 29/4/1975. AFP photo

Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng cho biết, sau khi đề ra Nghị quyết 36, rất nhiều trí thức hải ngoại nói chung vẫn chưa tìm được tiếng nói tương đồng với chính quyền Việt Nam. Sức mạnh sáng tác của họ vẫn phải bó hẹp trong những qui chuẩn mang tính chính kiến.

Tất cả những nhận xét ấy cho thấy có một tầng lớp thuộc giới trí thức trong xã hội Việt Nam chưa tin rằng hoà hợp hoà giải sẽ là điều có thể xảy ra.

Đến văn hoá

Khi chủ trương hoà hợp hoà giải dân tộc của Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam vẫn đang được kêu gọi, thì trong lúc đó, người dân Sài Gòn phải ngậm ngùi chia tay từng di tích văn hoá lịch sử một. Từ hình ảnh Thương xá Tax từng đi vào ca khúc Chiều trên phá Tam Giang của cố nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, cho đến những bậc tam cấp giản dị của nhà hát Công Nhân, thánh đường cải lương được xây dựng từ thập niên 40 của thế kỷ trước… tất cả lần lượt bị xoá bỏ.

Người dân tiếc thương như một phần ký ức cuộc đời của họ bị lấy mất. Họ không chấp nhận đó là sự thay đổi theo chủ trương phát triển của quốc gia.

Những trận đánh Gạc Ma, chiến tranh biên giới hoàn toàn không tồn tại trong sách giáo khoa lịch sử thời Xã hội chủ nghĩa. Người trẻ đi tìm kiếm thông qua thế giới mạng, để họ kêu gọi nhau trân trọng những gì vốn dĩ thuộc về sự thật và lịch sử.

Thừa nhận lịch sử

Nói về vấn đề này theo phương diện sử học, Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã cho rằng một trong những yếu tố quan trọng để dẫn đến hoà hợp hoà giải dân tộc, đó là thừa nhận vai trò của Việt Nam Cộng Hoà.

“Theo tôi bất cứ một giai đoạn lịch sử nào cũng có vai trò của nó. Nếu thừa nhận vai trò đó, của hai bên, nó sẽ dễ dàng hoà hợp.”

“Các nhà nghiên cứu, làm sử đặt ra vấn đề là phải thừa nhận Việt Nam Cộng hoà là một thực thể. Trong giai đoạn đó có một thực thể, trong đó có vấn đề đối nội đối ngoại, có những điểm tốt, không tốt, lịch sử phải khách quan. Ví dụ như trong vấn đề Hoàng Sa, phải chấp nhận là Việt Nam Cộng hoà đã có trách nhiệm, và Hoa Kỳ cũng đã có phản ứng. Mà khi có phản ứng tức là Trung Quốc đã xâm lược. Đó là một điều phải khẳng định.”

Khi nói về hoà hợp hoà giải ở lĩnh vực văn học trước đây, nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên có bày tỏ rằng để đi đến sự hoà hợp đó thì

“Về phía phát tín hiệu trong nước là thật tâm, thật tình. Và phía người Việt ngoài nước là con dân mang trong mình dòng máu Việt, thấy đó là thật tâm thật tình thì đáp ứng.”

Đây cũng là một yếu tố được Tiến sĩ Nguyễn Quang A nhắc đến phương cách thực hiện chủ trương hoà hợp hoà giải.

“Nếu người cầm quyền mà người ta có thật tâm, lúc đó đã có những hành động, cử chỉ có thể tạo điều kiện cho điều khoản này thực hiện tốt hơn, êm thấm hơn, nhưng đáng tiếc nó đã không xảy ra.”

“Có lẽ là phải đợi đến thế hệ sau, thế hệ mà ký ức đau buồn đó nó đã bớt đi rất nhiều. Những người mà không sinh ra sau năm 1975. Hiện tại số người đó chiếm một phần rất lớn của người Việt ở khắp mọi nơi. Tôi nghĩ chỉ có những người thoát ra khỏi cái tư tưởng trắng đen đó, thắng thua, Bắc Nam…lúc đó chuyện này mới tiến triển được.”

Nhân nói đến thế hệ trẻ, câu chuyện về những thanh niên sinh ra sau năm 1975 bày tỏ thái độ và chí hướng đối với lá cờ của Việt Nam Cộng hoà trên mạng xã hội được nhắc đến. Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng đó là những người trẻ vẫn còn mang nặng tư duy trắng đen.

Theo tôi bất cứ một giai đoạn lịch sử nào cũng có vai trò của nó. Nếu thừa nhận vai trò đó, của hai bên, nó sẽ dễ dàng hoà hợp.
– Tiến sĩ Nguyễn Nhã

“Nếu họ thoát khỏi tư duy đó thì có lẽ họ không gợi lại cái đấy để làm gì, mà xây những viên gạch mới, viên gạch khác thay vì những việc làm cho hố ngăn cách càng nhức nhối thêm.”

Chiến tranh kết thúc 42 năm. Song không thể phủ nhận trong tâm trí của người dân Việt Nam yêu nước vẫn còn đó nỗi trăn trở sâu thẳm bởi vết thương chiến tranh của dân tộc Việt Nam quá lớn. Thế nhưng, cũng có rất nhiều người đặt hy vọng như Tiến sĩ Nguyễn Quang A,“mọi người bắt tay vào làm những việc chung như kinh doanh, học tập, sáng tạo, tìm ra những giá trị mới trong khoa học, văn học nghệ thuật, chứ không cần phải nói đến những điều to tát nhưng trống rỗng.”

Thông điệp này có lẽ không xa lạ với những ai đọc qua sự tích Trăm trứng nở trăm con và câu chuyện cổ tích về bài học Bó đũa.

I forgive, but I cannot yet forget (Tạm dịch: Tôi tha thứ, nhưng tôi chưa thể quên)

VÌ SAO TƯỚNG CHUNG HUỶ CUỘC HẸN Ở ĐỒNG TÂM?

From facebook:  Lang Văn  Chaudok, Vietnam ·

 

Thử tham khảo một góc nhìn:

VÌ SAO TƯỚNG CHUNG HUỶ CUỘC HẸN Ở ĐỒNG TÂM?

Mấy đời bánh đúc có xương,
Mấy đời ăn cướp mà thương dân lành!

Vụ tranh chấp đất đai ở Đồng Tâm đã hơn một tuần vẫn chưa được chính quyền Hà Nội giải quyết êm thắm. Dân vẫn tiếp tục giữ các cscđ tham gia đàn áp làm con tin, và ông Chung cũng không xuống Đồng Tâm để trao đổi, giải quyết nguyện vọng của dân, trong khi công an vẫn đang chuẩn bị cuộc tấn công, giải cứu con tin; còn tứ trụ triều đình thì hoàn toàn im lặng, bỏ mặc đảng ủy, chính quyền Hà Nội giải quyết.

Đó là sự thâm hiểm tột cùng của những kẻ lúc nào cũng ra rả vì dân, vì nước… nhưng luôn luôn trốn tránh trách nhiệm khi người dân cần họ. Từ thảm họa Formosa đến “xả lũ đúng quy trình” ở Hố Hô, từ vụ cướp đất ở Tiên Lãng, đến Văn Giang… giờ đến Đồng Tâm, Mỹ Đức.

Ông Nguyễn Đức Chung lúc đầu mạnh miệng, dù không hứa hẹn nhưng tuyên bố qua điện thoại: “… Cần thiết thì mai tôi sẽ về trực tiếp về tận nơi Đồng Tâm…!” Nhưng rồi xù, không xuống.
Thái độ từ chối gặp trực tiếp dân ở Đồng Tâm của ông Chung không phải là sự thất hứa mà là sự hèn nhát, đúng bản chất của những người như ông.
Có thể trong lòng, ông Chung muốn giải quyết êm đẹp vụ Đồng Tâm, nhưng vướng phải cơ chế độc tài của bộ máy, Chung đành bó tay, không có quyền hạn để làm theo ý mình.

Thỏa mãn nguyện vọng của người dân Đồng Tâm, ông Chung sẽ tạo nên một tiền lệ “xấu” trong việc đấu tranh bảo vệ đất đai cho dân chúng sau này, điều mà đảng của ông rất sợ hãi, vì tiền lệ đó sẽ phá vỡ nền tảng căn bản của bộ luật đất đai: “Đất đai là sở hữu của toàn dân, do nhà nước quản lý”.
Sự biến Đồng Tâm đã diễn ra nhiều ngày, chắc chắn ông Chung đã xin ý kiến của bộ chính trị và tứ trụ về phương hướng giải quyết. Tuy nhiên như đã nói, bản chất của hệ thống là không ai dám nhận lãnh trách nhiệm, nên chắc chắn sẽ không có một chỉ thị rõ rệt nào được đưa ra về vụ Đồng Tâm.
Không có chỉ thị rõ ràng, nếu hành động theo ý mình mà thất bại, ông Chung phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Đó chính là cốt lõi của vấn đề.

Nếu người dân cương quyết không thả con tin để chờ một thoả thuận giải quyết nguyện vọng của mình bằng giấy trắng, mực đen, thì ông Cung sẽ không còn lựa chọn nào khác, ngoài dùng vũ lực để giải cứu con tin.
Việc cù cưa, tìm cách kéo dài thời gian đàm phán chỉ là thủ đoạn khiến dân mệt mỏi, chán chường, hao mòn ý chí đấu tranh, đến một lúc nào đó sẽ phải buông tay đầu hàng. Lúc đó, công an và có thể cả quân đội sẽ tấn công vào làng, nhiều người sẽ bị bắt, đưa đi mất tích, Đồng Tâm, Mỹ Đức sẽ bị xóa sổ, tất cả chỉ còn lại tiếng vang.

Cuộc nổi dậy của nông dân Quỳnh Lưu, Nghệ An năm 1956 là một bài học cho những ai còn cả tin. So với Quỳnh Lưu về tầm mức, số lượng dân tham gia, sự việc Đồng Tâm tương đối nhỏ, với chỉ 6.000 người, trong khi ở Quỳnh Lưu, cao điểm lên tới 60.000 người, khiến chính quyền phải điều động 2 sư đoàn chính qui bao vây, đàn áp.

Tuy nhiên, hiện trạng xã hội VN năm 1956 khác với thời điểm này rất nhiều.
– Nội bộ đảng không phân tán, chia rẽ, đấu đá, tố cáo, hãm hại nhau kịch liệt như bây giờ. Hồ Chí Minh vẫn còn là thần tượng của hầu hết dân miền Bắc.
– Thông tin, báo chí, truyền thông đại chúng thời gian đó… do nhà nước kiểm soát hoàn toàn nên tin tức dễ dàng bị ém nhẹm, che giấu, thế giới không ai biết được tình hình căng thẳng xẩy ra tại Quỳnh Lưu năm 1956.
Giờ đây tình hình đã thay đổi. Dù chỉ có 6.000 dân tham gia, nhưng phương tiện truyền thông, mạng xã hội đã đưa tin lan đi khắp nơi trên thế giới. Mọi cuộc đàn áp bằng vũ lực sẽ bị cả thế giới lên án ngay khi phát súng đầu tiên nổ ra. Người ta còn chần chừ một phần nào cũng vì lý do này. Bên cạnh đó, dù không coi trọng mạng người, dân cũng như lính, công an… nhưng nếu tấn công vào lúc này, coi như ký án tử cho 20 cscđ. Sự thí mạng 20 người này sẽ gây phản ứng tâm lý dây chuyền, khiến cho lòng trung thành của công an, quân đội giảm sút nặng nề, dễ khiến họ nổi loạn hoặc quay súng trở lại bắn vào cấp chỉ huy khi có biến.

Trở lại vấn đề con tin. Nếu ngây thơ, tin tưởng vào lời hứa của bất kỳ lãnh đạo nào mà thả con tin ra trong lúc này, thì tình hình sẽ trở nên bất lợi hơn cho người dân. 20 con tin chắc chắn sẽ bị thiêu sống, nếu ông Chung dám manh động. Cả thế giới sẽ biết đến biến cố long trời lở đất này, và ông Chung sẽ trở thành một con dê tế thần cho chế độ. Ông Chung biết điều này nên không dại dột làm càn.

Là người hiểu biết, khôn ngoan, ông Chung phải tìm cách giải thoát 20 cscđ trước khi tấn công vào làng.

Hy vọng vào một cuộc đối thoại có tình, có lý giữa người dân với chế độ qua ông Chung, chỉ là hy vọng hão huyền, hoang tưởng.
Để lên tới cấp tướng công an, Chung hiểu rõ cách vận hành của chế độ này. Họ sẽ không bao giờ giữ lời hứa, ngay trong những văn bản đã ký kết với quốc tế:
– Hiệp định Genève, Paris chữ ký chưa ráo mực, họ đã xé toạc, vứt vào sọt rác.
– Hiệp định hồi hương 60.000 khách thợ ở Đông Đức ký với Cộng Hòa Liên Bang Đức năm 1990, sau khi nhận một nửa số tiền, họ cũng trở mặt, giở mọi thủ đoạn, tìm cách từ chối thi hành.
– Những hiêp định sau này ký với Liên Hiệp Quốc về nhân quyền, tự do báo chí…
Thế thì dân Đồng Tâm “là cái thá gì” để Chung xuống tận nơi, đàm phán? Và cho dù có đàm phán, thỏa thuận được điều gì đi nữa, thì sau đó chuyện lật lọng cũng chẳng khó đoán.

Người viết không kích động bạo lực, không muốn thấy máu người dân Đồng Tâm đổ ra, nhưng viễn ảnh có được một cuộc dàn xếp êm đẹp, thấu tình, đạt lý giữa người dân và chế độ thật quá xa vời, khó lòng thực hiện.

Thạch Đạt Lang

HƠN 500 QUẢ BOM ĐOÀN VĂN VƯƠN ĐÃ ĐƯỢC CHÂM NGÒI TẠI TP HCM

HƠN 500 QUẢ BOM ĐOÀN VĂN VƯƠN ĐÃ ĐƯỢC CHÂM NGÒI TẠI TP HCM

“Tất cả đều muốn nổi điên lên khi nhận được thông báo nhổ sạch cây trồng, dọn nhà, trả đất lại cho Công ty Cây Trồng TP-HCM! Họ ùn ùn lên công ty để yêu cầu giải trình, nhưng Giám đốc biến mất, viện lý cớ đi họp, dù đã được báo trước 1 tuần lễ, chỉ để cho phó phòng tổ chức hành chánh Cao Mạnh Hoàng tiếp hàng trăm hộ nhận khoán, và y không trả lời được câu hỏi nào. Tiếng kêu thấu trời, oán than ngập đất.

_____

Trung Văn

20-4-2017

Sau 20 năm nhận khoán đất tại nông trường Phạm Văn Hai và An Hạ, thuộc huyện Bình Chánh, nay sát nhập lại thành Công ty TNHH Một Thành viên Cây Trồng TPHCM, người nông dân đã đổ vào vùng đất trũng phèn cực nặng này nhiều tỉ đồng, vẫn còn chưa ai thu hồi được gì cả, nay lại có lệnh phải nhổ sạch cây, dọn nhà, trả đất lại… khiến nhiều người sững sờ, choáng váng. Nhiều người ngất xỉu, phải chở đi cấp cứu. Căm phẫn dâng trào lên trong lòng người, khi Ban Giám đốc lại từ chối gặp mặt để trả lời mọi câu hỏi.

Trong khi đó, mọi văn bản pháp luật về đất đai luôn quả quyết hợp đồng được ưu tiên tái ký, và nếu có thu hồi lại, cũng phải được đền bù xứng đáng với công sức bỏ ra. Vì sao có hành động vô đạo đức, bất chấp pháp luật ngay giữa trung tâm một thành phố lớn nhất nước, mà tấm gương một Đoàn Văn Vươn xảy ra 5 năm trước vẫn còn sờ sờ trước mắt? Ông kẹ nào đứng sau sự việc này?

Hợp đồng giao khoán đất trồng xoài, thời hạn 20 năm, ký kết năm 1997 giữa Nông trường Phạm văn Hai với các hộ nhận khoán, căn cứ vào nghị định số 01/CP ngày 4-01-1995 của Thủ tướng Chính phủ về việc giao khoán đất sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản trong các doanh nghiệp Nhà nước. Căn cứ Thông tư 02/NN/CSQL/TT ngày 17-03-1994 của Bộ Nông nghiệp về việc hướng dẫn các hình thức khoán trong các doanh nghiệp nông nghiệp. Căn cứ chỉ thị số 21/CT/UBNN ngày 16-05-1994 của UBND-TPHCM về việc phát triển cây ăn trái ở TP-HCM. Căn cứ thông báo số 852/TB/VP ngày 12-09-1996 của UBND-TPHCM về việc quy hoạch phát triển cây ăn trái tại TP-HCM. Căn cứ Kế hoạch sản xuất của Nộng trường được cấp trên giao. Căn cứ vào quyền hạn của Giám đốc NT đã được quy định.

Hợp đồng có điều khoản 3, mục 4: Bên B được ưu tiên gia hạn hợp đồng khi kết thúc thời hạn, nếu chủ trương chung không thay đổi. Điều 4: Nếu chủ quan của bên A do chủ trương cần thay đổi phương hướng sản xuất, bên A muốn thu hồi đất khoán một phần hay toàn phần, phải báo trước cho bên B ít nhất 2 tháng, đồng thời bồi thường cho bên B thỏa đáng trên cơ sở quy định chung của Nhà nước.

Với những cam kết và bảo đảm “chắc lụi” như vậy của các cấp Nhà nước, làm người ta vô cùng an tâm, dốc toàn lực toàn tâm lao vào sản xuất. Khổ nỗi, đây là vùng trũng phèn cực nặng, trước năm 1975 không một bóng người ở, dù chỉ cách trung tâm thành phố khoảng 20 km, và được xem là vùng oanh kích tự do cho các phi cơ chiến đấu xuất phát từ Tân sơn nhất và Biên hòa. Sau 1975, thanh niên xung phong được huy động để đào kênh thoát nước và quy hoạch thành 3 nông trường: Phạm Văn Hai, An Hạ, Lê Minh Xuân với tổng diện tích khoảng 3.000 ha. Dân đi kinh tế mới được chia mỗi hộ 1.000 m2 dọc theo trục lộ, ngang 20, dài 50 mét. Đến thời kỳ đổi mới, năm 1995 ra đời nghị định số 01/CP giao khoán đất cho nông dân, mỗi hộ nhận từ 1 đến 8 ha. Có tổng số khoảng 500 hộ nhận khoán, bởi thông tin được tiết lộ rất giới hạn, đặc biệt trong giới cán bộ đi kháng chiến. Lúc ban đầu bao nhiêu cây xoài trồng lên đều tàn lụi sau vài năm, vì rễ ăn sâu xuống gặp phải phèn. Cả nông trường lẫn hộ nhận khoán đều liên tục thay đổi cây trồng. Kết quả cũng giống nhau, chỉ tốt lúc ban đầu, sau đó tàn lụi. Vì thế tiền đầu tư đổ vào như đổ xuống giếng!

Anh Ba Nghi, lô 8A/K5, nay 68 tuổi vay nợ người em ruột tại Hoa kỳ 40.000 Mỹ kim, và bà con bên vợ 35 cây vàng, gây nên một vườn ổi, với mỗi cây là một đường ống nhỏ giọt theo kiểu Israel, cho đến nay vẫn không trả nổi một đồng nào. Vợ anh khóc ròng nói: phải bỏ xứ không dám trở về nhà nhìn mặt anh em. Riêng anh Nghi, khi nhận được thông báo: nhổ sạch cây trồng, giao trả đất lại đã phải ngất xỉu, đưa đi bệnh viện cấp cứu.

Anh Ba Phúc, 67 tuổi, lô 8A/K4 vay nợ bà con bên vợ tại Hoa kỳ 150.000 Mỹ kim, nay vẫn còn nguyên chưa trả được xu nào. Anh Lê Tấn Cẩm, 80 tuổi, vốn là đại tá, tham mưu trưởng Quân đoàn 4 đã về hưu tại Kênh 1, lương tháng 12 triệu, trút hết vào mảnh đất 4,5 ha suốt 20 năm, vị chi là 2,8 tỉ đồng chưa kể tiền của vợ hàng tỉ khác nữa, nay vườn bưởi khá xum xuê, bắt đầu thu hoạch, lại được thông báo … nhổ sạch giao trả đất! Nghe hung tin anh cũng bị choáng váng rồi ngã quỵ và được gia đình mang đi cấp cứu mấy ngày sau đó. Chị Đặng thị Ngọc Thúy, 60 tuổi, phu nhân cựu Giám đốc Sở Nông nghiệp Trương Hoàng, dưới thời bí thư thành ủy Trương Tấn Sang, đổ vào mảnh đất nhận khoán 2,5 ha, khoảng 7 tỉ đồng, tạo ra một vườn bưởi trứ danh. Chủ tịch nước Trương Tấn sang đã có lần mang bưởi này sang Pháp, tặng cho ông bác sĩ giải phẫu của mình. Nông trường Phạm Văn Hai nhiều lần đến mua bưởi của chị để … quảng cáo thành tích của mình! Cựu tổng giám đốc Tổng công ty Nông nghiệp Sài gòn Nguyễn Trung Tín, cũng trút hết lương hưu vào mảnh đất nhận khoán, chưa thu hoạch gì cả. Cựu đại tá Công An Nguyễn Duy Hùng đổ vào mảnh đất rộng 2 ha đã 3 tỉ đồng vẫn còn trắng tay. Anh Đặng Sĩ Thanh, 70 tuổi, đổ vào mảnh đất 2,5 ha 4 tỉ với một vườn bưởi đã thu hoạch, nhưng năm 2015 bị ngập nước chết sạch. Cựu trung tướng Nguyễn văn Chia (ba Chia), tư lệnh quân khu 7 đã trút hết tài sản mình vào mảnh đất khoán 3 ha, thuộc kinh 6 An hạ, trước khi bất ngờ qua đời cách nay 7 năm vì té cầu thang. Hàng mấy trăm trường hợp đau lòng điển hình như thế.

Tất cả đều muốn nổi điên lên khi nhận được thông báo nhổ sạch cây trồng, dọn nhà, trả đất lại cho công ty Cây trồng TP-HCM! Họ ùn ùn lên công ty để yêu cầu giải trình, nhưng Giám đốc biến mất, viện lý cớ đi họp, dù đã được báo trước 1 tuần lễ, chỉ để cho phó phòng tổ chức hành chánh Cao Mạnh Hoàng tiếp hàng trăm hộ nhận khoán, và y không trả lời được câu hỏi nào. Tiếng kêu thấu trời, oán than ngập đất.

Kịch bản này giống hệt như Đoàn Văn Vươn 5 năm trước đây. Để tránh tái diễn thảm kịch đó, Quốc hội đã ban hành luật đất đai năm 2013, và nghị định Chính phủ số 43-2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành, trong đó điều 74 khoản 2 quy định: Hộ gia đình, cá nhân, trực tiếp sản xuất nông nghiệp, đang xử dụng đất nông nghiệp được Nhà nước giao, công nhận, nhận chuyển quyền xử dụng đất, khi hết thời hạn xử dụng đất thì được tiếp tục xử dụng đất theo thời hạn quy định tại khoản 1 điều 126 (là 50 năm) và khoản 3 điều 210 (thời hạn tiếp tục bắt đầu từ lúc hết hạn 20 năm) của luật đất đai mà không phải làm thủ tục điều chỉnh thời hạn xử dụng đất. Kỹ lưỡng hơn nữa, nghị định số 168/2016/NĐ-CP ngày 27-12-2016 do Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc còn nói rất rõ về khoán rừng, vườn cây và diện tích mặt nước trong các ban quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên nông lâm nghiệp Nhà nước. Điều 6, khoản 1 quy định thời hạn khoán: Thời hạn khoán ổn định, theo chu kỳ cây trồng, vật nuôi, hoặc chu kỳ sản xuất kinh doanh hoặc theo thỏa thuận giữa bên khoán và bên nhận khoán, nhưng tối đa không quá 20 năm và trong thời hạn bên khoán được nhà nước giao đất, cho thuê đất nông nghiệp. Trường hợp hợp đồng hết hạn, nếu bên khoán không vi phạm hợp đồng, đáp ứng được các tiêu chí quy định tại điều 4 nghị định này, có nhu cầu nhận khoán thì được tiếp tục ký hợp đồng.

Tóm lại mọi quy định pháp luật, kể cả ngay trong hợp đồng mà hộ nhận khoán đã từng ký kết với nông trường cách nay 20 năm đều cho phép ưu tiên tiếp tục nhận khoán. Do đó thông báo dọn sạch cây trồng, vật nuôi, giao trả lại đất là hoàn toàn không có căn bản pháp lý nào cả, không dựa vào đạo lý nào cả. Mà chỉ là luật giang hồ, kẻ mạnh đàn áp kẻ yếu thế. Không có giá trị thực hiện, ngoại trừ bạo lực. Nhưng bạo lực chắc chắn sẽ được đáp trả bằng bạo lực, đổ vỡ cho tất cả 2 bên.

Vì sao giám đốc công ty Hứa Văn Hưng lại cả gan ký một thông báo như thế, bất chấp luật pháp và tình người? Bởi vì khai khẩn một vùng đất hoang vu, không người ở hoàn toàn, không phải đơn giản như là chuyện cắm một cây cọc sắt xuống đất, đến hết thời hạn thì nhổ cọc đi, trả lại đất. Đó là trồng một vườn cây, phải đổ ra bao nhiêu mồ hôi, công sức và tiền của mới được xanh um, tươi tốt. Chỉ cần buông lỏng trong 2 tháng không chăm sóc là cỏ mọc che kín, hoang hóa trở lại như ban đầu. Với thời gian, nó sanh sôi gốc rễ, tàn lá xum xuê, nhổ đi là cả một vấn đề. Đó là chưa kể cây đã phải trồng đi trồng lại nhiều lần. Các nhà làm luật và mọi người bình thường ai ai cũng biết rõ chuyện này, nên đã có những văn bản pháp luật chặt chẽ để bảo vệ quyền lợi người nông dân. Khi bị truy hỏi, ông Hưng trả lời lấp liếm: Do lệnh của tổng công ty Nông nghiệp Sài gòn chủ quản, ban xuống phải thi hành, nếu không sẽ bị đuổi việc! Cứ cho là như thế. Vậy Tổng công ty Nông nghiệp Sài gòn là ai? Ai chỉ đạo? Không ai khác ngoài TGĐ Lê Tấn Hưng, em ruột của … cựu bí thư thành ủy Lê Thanh Hải! Không cần nói nhiều, ai cũng biết rõ nhân vật này như thế nào rồi. Chỉ cần vào YouTube hay Google, gõ tên là biết ngay “thành tích” của các đại ca!

Giao một tài sản đất đai khổng lồ cho những con người bất chấp luật pháp và tình người như thế quản lý, thử hỏi đất nước và nhân dân này sẽ đi về đâu? Chắc chắn 500 quả bom Đoàn Văn Vươn này sẽ làm long trời lở đất vùng ngoại ô phía bắc thành phố Hồ Chí Minh, nếu không có ai đó dập tắt kịp thời cái ngòi nổ mà giám đốc Hứa Văn Hưng đã châm lửa.  

Thông báo cướp đất của Công ty TNHH Một Thành viên Cây Trồng TPHCM

Một số nạn nhân trong vụ cướp này

Hai thanh niên hoạt động xã hội trẻ tuổi bị “côn an” bắt cóc và hành hung dã man

Hai thanh niên hoạt động xã hội trẻ tuổi bị “côn an” bắt cóc và hành hung dã man –

CTV Danlambao

 – Vào 5h15 phút sáng ngày 13/4, bạn Huỳnh Thành Phát (sinh năm 1999, quê An Giang) và Trần Hoàng Phúc (SN 1994, quê Sài Gòn) đã bị “côn đồ” bắt cóc khi đang đứng đón xe tại bến xe Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình.

7-8 tên “côn đồ” bịt mặt, đi trên một chiếc xe ôtô Innova loại 7 chỗ ngồi, không có biển kiểm soát đã tấn công và bắt 2 bạn lên xe, chở đi. Sự việc diễn ra nhanh chóng đến nỗi những người dân khác có mặt tại đây không kịp có bất cứ phản ứng nào.

Trên xe, bọn “côn đồ” đã sử dụng áo để trùm đầu và bắt đầu hành hung 2 nạn nhân.

Bạn Huỳnh Thành Phát kể lại: “Trong lúc xe di chuyển thì cứ 10 phút họ đánh 1 lần. Họ thường đánh tập trung vào phần mang tai, thái dương, đầu, xương sườn, xương sống và phần phổi.”

Xe di chuyển liên tục trong khoảng 4 tiếng đồng hồ thì dừng lại một khu vực vùng núi hẻo lánh thuộc huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An.

Dừng xe, nhóm “côn đồ” lột sạch quần áo, giày dép, tư trang và trói tay, chân của Phát và Phúc lại. Chúng kéo lê 2 nạn nhân vào một khu vực rừng vắng người và dùng gậy tre và giây thắt lưng để quất liên tục vào 2 bạn.

Hành hạ trong khoảng 30 phút thì bọn chúng nghe điện thoại của ai đó, rồi tất cả cùng lên xe chạy đi. Bỏ mặc 2 nạn nhân đầy thương tích, không quần áo, phương tiện liên lạc tại khu vực hoang vắng này.

Loay hoay cởi trói cho nhau, lấy áo quấn quanh người, cả 2 men theo đường mòn ra khỏi rừng để tìm kiếm sự giúp đỡ.

Vừa ra khỏi bìa rừng thì cả hai đã được một tốp công an đứng chờ sẵn. Họ chở cả hai về công an xã Tam Quang thuộc huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An để làm bản tường trình lại sự việc nhưng từ chối việc giúp đỡ 2 nạn nhân liên lạc với gia đình, bạn bè. Cả 2 được công an cấp một người 100.000 đồng và sau đó ép cả hai lên một chuyến xe khách di chuyển về Vinh. Tại Vinh, được sự quan tâm, giúp đỡ của bạn bè và anh chị em khắp nơi nên 2 bạn đã di chuyển ra Hà Nội để về Sài Gòn.

Trả lời CTV Danlambao về những người đã bắt cóc và hành hung mình, bạn Phát nói: “Em nghĩ họ là côn đồ có sự bảo kê của nhà cầm quyền. Em ở cùng bạn ở Sài Gòn ra Quảng Bình để thăm hỏi bà con Cồn Sẻ. Chẳng thù oán gì ai cả. Nên côn đồ bắt em thì chỉ có “côn đồ đảng”.

Huỳnh Thành Phát

Huỳnh Thành Phát và Trần Hoàng Phúc là những thanh niên trẻ tuổi đã sớm có nhận thức, lên tiếng và tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội như: Hoạt động thiện nguyện sau lũ ở Quảng Bình, bảo vệ cây xanh tại Sài Gòn, tuần hành vì môi trường, chống tệ nạn ấu dâm… Đặc biệt Trần Hoàng Phúc là thành viên YSEALI (Sáng kiến Lãnh đạo Trẻ Đông Nam Á).

Vào giữa tháng 5/2016, Huỳnh Thành Phát đã bị bắt về đồn công an tại Sài Gòn vì đã tham gia biểu tình yêu cầu nhà cầm quyền phải sớm tìm ra lý do vì sao cá chết hàng loạt ở dọc bờ biển 4 tỉnh miền Trung. Các công an đã tra khảo Phát nhiều tiếng đồng hồ về động cơ quan tâm đến các chết! Công an thả Phát ra vào giữa khuya nhưng đã bố trí cho côn đồ đeo khẩu trang chận đánh đập dã man khi vừa mới ra khỏi đồn côn an.

21.04.2017

CTV Danlambao

danlambaovn.blogspot.com

Cưỡng chế đất ở Bắc Ninh

Cưỡng chế đất ở Bắc Ninh

RFA
2017-04-20
 
Công an, cảnh sát cưỡng chế đất ở Bắc Ninh sáng 20/4/2017.

Công an, cảnh sát cưỡng chế đất ở Bắc Ninh sáng 20/4/2017.

Photo: Thái Văn Đường 
 

Gần 1000 người gồm công an và lực lượng chức năng thực hiện cưỡng chế thu hồi 14 mẫu đất tại thôn Vọng Đông, xã Yên Trung huyện Yên Phong, Bắc Ninh. Tin được truyền đi trên trang cá nhân của Facebooker Thái Văn Đường vào khoảng 6 giờ chiều ngày 20 tháng 4.

Những hình ảnh và video clips do người này đăng tải cho thấy rất nhiều cảnh sát cơ động mang khiên chắn và đội mũ bảo vệ tập trung vào khu đất của thôn Vọng Đông.

Cũng từ nguồn tin này, vào ngày 19/4/2017, chính quyền đã cử nhiều công an về làng và dọa vào 6h30 sáng ngày 20/4/2017 sẽ cưỡng chế. Nhưng do tình hình dân căng thẳng, chính quyền dùng biện pháp mời dân đến họp để thương lượng, sau đó hơn 500 cảnh sát cơ động vào cưỡng chế người dân mà không có thông báo. Tin cho biết có người già bị ngất và gãy tay, có số người bị bắt lên xe với lý do quay phim, chụp hình.Em chỉ nắm được họ đưa gần 1000 lực lượng vào cưỡng chế. Bà con đã cắm chốt, cắm lều, dựng bạc ở ngoài khu đất bị thu hồi nhiều ngày nay rồi. bà con mua sẵn cả mấy cái quan tài đã đốt hương sẵn để ngoài đó. khi lực lượng vào đánh thương 1 cụ già và đánh gãy tay 1 người dân, bắt đi những người quay phim chụp ảnh.

Theo nội dung ghi trên trang cá nhân của Thái Văn Đường, Thôn Vọng Đông có khu ruộng có tên là đồng Cốc với diện tích là 14 mẫu (tương ứng 5,040 m2). Đây là khu ruộng tốt nhất của thôn với sản lượng cao so với các khu ruộng khác. Chính quyền cấp xã và các tổ chức liên quan đến việc đền bù giải phóng mặt bằng nhiều lần yêu cầu người dân bàn giao số đất trên nhưng người dân không đồng ý với tiền đề bù là 21,000 đồng/m2.