CÂY PHIỀN MUỘN!

CÂY PHIN MUN!

Br. Huynhquảng

Ở một ngôi làng nhỏ tại Ba Lan có một nhà thông thái được nhiều người nể trọng; dân làng thường tìm đến ông để tâm sự, chia sẻ những nỗi phiền muộn trong cuộc sống.  Hằng ngày, ông lão nghe rất nhiều nỗi phiền muộn trong từng gia đình.

Họ cho rằng, ông trời không công bằng khi để cho họ mang quá nhiều gánh nặng so với những người hàng xóm:

– “Tại sao ông ấy thảnh thơi hơn tôi? –  Tại sao chồng chị ấy lại chăm chỉ còn chồng tôi lại ngày đêm nhậu nhẹt? –  Tại sao vợ của tôi chỉ thích đi mua sắm còn vợ của anh ấy thì lại đảm đang lo cho gia đình? –  Tại sao tôi phải mang căn bệnh nan y này còn ông hàng xóm thì sống bê tha mà lại tỉnh bơ phây phây?  –  Dù tôi không làm gì sai trái nhưng tại sao đời tôi vẫn không bình an như ông kia?”…..

Đó là những nỗi phiền muộn trách cứ mà dân làng tìm đến để nhờ ông lão giúp tìm câu trả lời…

Sau một thời gian, ông lão nảy ra một sáng kiến như sau.  Ông tổ chức một ngày hội.  Trong ngày ấy, mỗi người hãy chuẩn bị một cái bao với tên của mình được ghi ngoài bao.  Mỗi người dân trong làng hãy mang nỗi phiền muộn của mình, những khó khăn của mình và “đặt” chúng trong cái bao ấy và treo chúng lên một cây có tên gọi là “Cây Phiền Muộn” ở giữa làng nơi sẽ diễn ra lễ hội.  Sau khi chờ mọi người treo “bao phiền muộn” của mình lên cây, họ có quyền chọn bao của người khác và mang nó về nhà.

Việc tìm kiếm trao đổi “bao phiền muộn” rất sôi nổi, vì ai ai cũng muốn bỏ đi bao của mình và tìm bao “nhẹ” hơn, “dễ chịu” hơn của người khác.  Sau một hồi tìm kiếm, ai cũng tìm được cho mình một bao mà theo họ là vừa ý nhất.  Nhưng khi về đến nhà, những “bao phiền muộn” mà họ ôm lấy từ người khác cũng chẳng khác gì bao nhiêu so với “bao phiền muộn” của họ.  Không ai bảo ai, người dân làng hiểu rằng ai ai cũng mang nỗi phiền muộn, không ai nặng hơn và không ai nhẹ hơn.  Cách tốt nhất là đừng tìm cách đổi chác hay chạy trốn khỏi chúng, nhưng chấp nhận nỗi phiền muộn như là phương cách giúp họ đồng cảm và chia sẻ thân phận làm người với nhau.  Họ cũng nhận ra rằng khi cảm thấy nỗi đau của đồng loại là lúc họ trưởng thành hơn, biết yêu nhau hơn, và từ đó họ tìm thấy niềm vui trong cuộc sống nhiều hơn.

***

Bạn thân mến, câu chuyện trên minh họa cho chúng ta thấy việc chạy trốn nỗi khổ đau, hay tìm phương cách để thay đổi chúng…đều không phải là cách tốt nhất để hóa giải sự đau khổ, phiền muộn trong đời mình.

Theo Đức Phật, đời người là biển khổ: “Sinh khổ, hủy diệt khổ, chết khổ, và không sở hữu được điều mình muốn cũng khổ.”

Chúng ta có thể ví đau khổ và phiền muộn trong kiếp người như con rắn rượt đuổi mỗi chúng ta.  Nếu chúng ta không dừng lại và can đảm đối diện với nó, thì một lúc nào đó chúng ta sẽ bị kiệt sức với trò rượt bắt này.  Chỉ có phương cách là chấp nhận nó, đón nhận nó và sống với nó từng ngày như là một phần của đời ta.

Với một cảm nghiệm siêu phàm, thánh Gioan Thánh Giá đã khuyên những ai đang gặp khó khăn đen tối trong cuộc đời với những lời khuyên rất tâm huyết: “Hãy tìm kiếm sự khó khăn nhất thay vì sự dễ dàng thoái mái;… hãy sẵn sàng mang lấy bất lợi, sự cô đơn hơn là sự thuận lợi, an ủi…”

Thật là nghịch lý và khó hiểu khi chúng ta học hỏi những suy nghĩ và lối sống của các bậc thánh nhân, nhưng đó là con đường mà họ đã đi qua với bao kinh nghiệm xương máu.  Chính trong kinh nghiệm xương máu với lòng can đảm đón nhận và ôm chầm lấy đau khổ muộn phiền, họ gặp được niềm vui vô cùng lớn lao mà như thánh Gioan Thánh Giá gọi là: “Ôi đêm tối ngọt ngào và dịu êm.”

Br. Huynhquảng

Chữ Hiếu

Chữ Hiếu

Chỉ một câu thôi – Người đàn bà nhà quê chân chất đã vươn mình đứng cao hơn hết thảy những người con . Cao hơn bởi trái tim nhân hậu , sẵn sàng trao tặng, cho đi “vô điều kiện” !

Một câu chuyện ngắn, ý nghĩa về chữ hiếu.

Chuyện xảy ra ở hành lang một bệnh viện. Cô con dâu nhăn mặt nói với chồng:
– ở nhà đủ thứ phải lo, làm sao mà vô trong đây hầu ba được? Anh nói cô Năm hay cô Bảy ở không thì chia nhau vô chăm sóc ba “.
Anh con trai chưa kịp trả lời thì có lẽ cô Năm hay cô Bảy gì đó đã cong môi phản đối:
– Tui cũng có đủ thứ chuyện để lo chứ bộ, quên tui đi”.
Một cậu con trai khác cau cau lông m … ày:
-Nói chung là ai cũng bận hết, với lại ba mắc bệnh lây nhiễm, vô hầu ba rồi lỡ bị lây thì làm sao ?
Cô con dâu trưởng phán một câu:
-Thôi khỏi bàn tán gì hết, mướn người nuôi là xong chuyện.

Chữ hiếu

Tất nhiên sau đó, sự việc xảy ra đúng như hoạch định của họ. Một phụ nữ khỏe mạnh, có dáng vẻ nông dân đang nuôi một người bệnh nằm giường bên cạnh ông cụ đã chủ động đề nghị nuôi bệnh cho ông cụ luôn. Công việc tỉ mỉ, cần sự chu đáo, từ việc cho uống sữa, uống thuốc đến thay quần áo, lau người (ông cụ đã mất hết cảm giác vệ sinh), nhưng chị vẫn làm với sự chăm chút, không để lộ bất cứ thái độ ghê tởm nào, lại còn có vẻ hiền hậu, dịu dàng như con đối với cha mẹ. Trong lúc ấy, có lẽ yên tâm vì cha đã có người chăm sóc, đám con trai, con gái, dâu, rể hơn một chục người của ông cụ thỉnh thoảng mới lượn qua như một luồng gió nhẹ. Tiếc thay, sự chăm chút của chị phụ nữ không kéo dài bao lâu, chỉ hơn một tuần sau là ông cụ đã qua đời. Con cái, cháu chắt ông kéo vào mới đông chứ. Họ khóc lóc khá ồn ào nhưng vẫn bình tĩnh chỉ huy việc khâm liệm ông cụ, và ở hành lang lại xảy ra một cuộc cãi vã xem người nào phải chi nhiều nhất cho đám tang ?…

Anh con trai trưởng cầm một xấp tiền đến trả cho chị phụ nữ đã nuôi bệnh cha mình. Hai mắt đỏ hoe, chị trả lời:
Tôi nuôi cụ ấy vì thấy xót xa cho cụ có lắm con nhiều cháu mà chẳng ai đoái hoài, chứ tôi có làm cái nghề này đâu mà lấy tiền ?
Đám người đang khóc mếu, cãi nhau… đột nhiên im bặt. Rồi từng người một lẻn ra ngoài…

Giờ của bệnh tật

Giờ của bệnh tật


Dương Kim Hằng

7/17/2013

Thỉnh thoảng mình cảm thấy cơ thể suy nhược và rất yếu… Có thể đó là thời khắc mà bệnh tật để phát sinh….Do tạo hóa, thời tiết và những ngày trong năm…

Vào một số khoảng thời gian, thể trạng con người đặc biệt yếu, dễ bị “đánh gục” bởi mầm bệnh hoặc bệnh tái phát. Chuyên gia giải thích mối liên quan giữa quy luật thời gian và biến hóa của sức khỏe.

*Một ngày

Một ngày có hai giờ “ma quỷ”. Từ 6-9h sáng, các bệnh về tim mạch và não như thiếu máu cơ tim, co thắt ngực, loạn nhịp tim, tai biến… thường phát sinh. Tổ chức Y tế thế giới điều tra 4.769 người bệnh tử vong vì nhồi máu cơ tim, trong đó 28% phát bệnh từ 6-10h sáng. Người già và người mắc bệnh tim mạch sau khi dậy sớm nên tránh đột ngột ra khỏi nhà hoặc mở cửa sổ ngay, có thể vận động nhẹ nhàng trong phòng để lưu thông máu, để cơ thể quen với thời tiết giữa bên ngoài và trong phòng. Thời gian nguy hiểm cho sức khỏe tiếp theo là, sau chập tối, lúc này tỷ lệ phát tác của bệnh tim lại tăng lên. Nếu uống rượu khoảng 7h tối, thì sẽ cần nhiều thời gian để gan bài tiết rượu, so với các thời điểm khác trong ngày. Do đó, khoảng 7h tối uống rượu sẽ khiến gan dễ bị tổn hại, và người uống dễ bị say hơn. Sức sống của con người về đêm là rất thấp, huyết áp, thân nhiệt, hô hấp, nhịp mạch đều chậm dần, tuần hoàn máu cũng chậm theo, nồng độ hormone xuống thấp, cơ bắp giãn, phản ứng chậm chạp. Vì thế, cần hạn chế làm việc thâu đêm và thời điểm cuối ngày cần để cơ thể nghỉ ngơi, tránh căng thẳng…

*Một tuần

Các nhà khoa học Đức và Phần Lan phát hiện, vào thứ hai, số người bị đột quỵ cao nhất trong tuần và nguy cơ tử vong cũng cao hơn ngày thường 40%. Do đó, các chuyên gia sức khỏe Đức đã gọi thứ hai là ngày thứ hai đen. Điều này liên quan tới đồng hồ sinh học trong một tuần của cơ thể. Thứ hai thường được coi là ngày khởi đầu một tuần làm việc, học tập, nên khá nhiều người thấy căng thẳng khi đến ngày này, đặc biệt lại sau hai ngày cuối tuần được thư giãn. Đây cũng là ngày các căn bệnh dễ phát sinh và trầm trọng.

*Một tháng

Sau và trước ngày trăng tròn trong một tháng là thời điểm thể trạng con người dễ yếu, điều này liên quan đến khí tượng thiên văn. Sự lên xuống của thuỷ triều liên quan đến sức hút Mặt trăng, lực hút này cũng tác động đến lượng máu trong cơ thể của con người, khiến áp lực của dòng máu trong mạch giảm xuống, dẫn đến áp lực trong và ngoài thành mạch chênh lệch, khi sự chênh lệch này lớn sẽ dễ dẫn đến các bệnh tim mạch như tai biến mạch máu não.

*Một năm

Mỗi năm có hai thời điểm dễ ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Đó là tháng cực lạnh hay cực nóng. Những năm có mùa đông với nhiều đợt lạnh kéo dài, số bệnh nhân nội trú tại viện tăng cao, tỷ lệ tử vong cũng tăng. Thời tiết lạnh sâu thường khiến sức đề kháng giảm, tinh thần dễ trầm cảm, trao đổi chất chậm. Thời tiết nắng nóng kéo dài lại dễ gây các bệnh lý tiêu hóa, tim mạch (trời nóng dễ mất nước, không bù đủ nước, máu có thể bị cô đặc lại tăng gánh nặng cho tim và dòng máu khó lưu thông).

Bí quyết Sống Vui Hạnh Phúc.

Nhiều tiền ít tiền , không phung phí là được
Ai phải , ai sai , mình không sai là được
Biết ít biết nhiều , làm xong việc là được
Người già người trẻ , mạnh khỏe là được
Người giàu người nghèo , hoà Thuận là được
Ông xã về sớm về trễ, miễn về là được ,
Bà xã cho ăn cơm , cơm nóng cơm nguội có ăn là được
Người xấu người đẹp , có duyên là được
Nhà lớn nhà nhỏ , ấm no là được
Sung túc hay nghèo nàn , bình an là được
Xe mới xe cũ , chạy là được
Và……phải nhớ rằng …
Vui cười không mệt , buồn phiền mới mệt
Yêu thương không mệt , ghen ghét mới mệt
Chân thật không mệt , gian dối mới mệt
Tương ái không mệt , tương tàn mới mệt
Rộng rãi không mệt , ích kỷ mới mệt
Khoan dung không mệt , khó khăn mới mệt
Khiêm nhường không mệt, khoe khoang mới mệt
Mỉm cười không mệt, tức giận mới mệt,
Đơn thuần không mệt, phức tạp mới mệt
Tương tư không mệt, đơn phương mới mệt
Chung tình không mệt, Đa tình mới mệt
Tình bằng hữu không mệt, tư tình mới mệt
Chân thành không mệt,giả dối mới mệt
Được mất không mệt, tính toán mới mệt
Thể chất mệt không phải mệt,tâm can mệt mới mệt
Đọc những điều này không mệt , thực hành mới mệt

ƠN CỨU CHUỘC CHỨA CHAN NƠI NGƯỜI

ƠN CỨU CHUỘC CHỨA CHAN NƠI NGƯỜI

LỄ CHÚA CỨU THẾ Ga 3, 13-18.21

Anmai, CSsR


Khi ấy, Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống.  Như ông Mô-sê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.  Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.  Ai tin vào Con của Người, thì không bị luận phạt; nhưng kẻ không tin, thì bị luận phạt rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.  Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”

Trong dòng chảy lịch sử cứu độ, chúng ta bắt gặp được Lời Chúa nói với chúng ta. Chúa hiện diện với chúng ta qua lời của Ngài.

Trong kho tàng Thánh Kinh, ta thấy được tâm tình của dân Thiên Chúa. Lúc thì như có vẻ trách móc sao Thiên Chúa bỏ dân nhưng có những lúc dân lại cảm nghiệm được tình thương của Ngài.

Đặc biệt trong lúc chơi vơi, trong lúc kêu cứu, tâm tình tin tưởng của Dân Chúa đã được biệu lộ rõ ràng. Có một số Thánh vịnh đề cao đặc biệt tâm tình này, khiến chúng ta gặp được một nền đạo đức thiêng liêng thật siêu thoát. Có lẽ loại Thánh vịnh này phát xuất từ môi trường Lêvi. Qua các bài thơ, bài hát, chúng ta như được chia sẻ sự an bình, thanh thản và niềm vui nội tâm bất tận của những con người đã chọn Chúa làm gia nghiệp, tin tưởng, phó thác tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngoài chiều kích nội tâm sâu xa, chúng ta còn thấy được niềm tin kiên vững của vịnh gia giữa bao gian truân, uẩn khúc của cuộc đời. Niềm vui, sự an bình của những con người có đời sống nội tâm kết hợp với Thiên Chúa còn được phơi bày ra qua lòng yêu mến, gắn bó của họ với đền thờ, nơi Chúa ngự. Từ đó họ thường kết thúc bài Thánh vịnh tin tưởng bằng cách mời gọi mọi tìn hữu hãy tìm cách nương thân nơi Thiên Chúa bằng cách ẩn náu nơi nhà Chúa.

Dừng lại một chút để chúng ta nghe, đọc, suy gẫm Thánh Vịnh 130.

Thánh Vịnh 130 (129) (Psalm 130, cũng được dùng làm Kinh Vực Sâu – De Produndis) là một trong 15 Thánh Vịnh Lên đền (Từ thánh vịnh 120 cho đến 134) và là một trong 7 Thánh Vịnh Sám hối. Bản Thánh Vịnh này cũng nằm trong Kinh Thần vụ, thường được đọc hay hát trong giờ kinh chiều và luôn luôn được đọc hay hát trong kinh Thần vụ cầu cho người qua đời.

Nội dung của Thánh Vịnh này là cầu xin Thiên Chúa khoan dung, cũng như tỏ bày lòng tín nhiệm vào Thiên Chúa. Thánh vịnh này nói lên niềm hy vọng ơn tha thứ của Thiên Chúa.

Ở một số nơi, người ta đọc Thánh Vịnh này trước 9 giờ tối, khi chuông nhà thờ đổ. Còn ở Ireland, Thánh Vịnh này thường được đọc trong thánh lễ sau bài Phúc Âm cuối lễ để cầu cho các nạn nhân bị bắt/bách đạo trước kia.

Theo “Chỉ nam các ân xá” mới được duyệt lại thì Giáo hội Công giáo đồng ý ban ơn tiểu xá cho tín hữu mỗi khi đọc Thánh Vịnh 130 này.

Tiếng kêu từ vực thẳm

Ca khúc lên Đền.
Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa,
muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con.
Dám xin Ngài lắng tai để ý
nghe lời con tha thiết nguyện cầu.
Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội,
nào có ai đứng vững được chăng?
Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ
để chúng con biết kính sợ Ngài.
Mong đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi,
cậy trông ở lời Người.
Hồn tôi trông chờ Chúa,
hơn lính canh mong đợi hừng đông.
Hơn lính canh mong đợi hừng đông,
trông cậy Chúa đi, Israen hỡi,
bởi Chúa luôn từ ái một niềm,
ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa.
Chính Người sẽ cứu chuộc Israen
cho thoát khỏi tội khiên muôn vàn.

Ơn cứu chuộc nơi Người chan chứa.

“Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử (Giê-su)” (Dt 1,1-2).

Thánh Tử Giêsu không chỉ phán dạy bằng lời mà phán bằng chính cuộc đời của Ngài.

Sinh ra vì tình yêu, sống cho tình yêu và chết cho tình yêu.

Trên đồi cao, trong gió lao xao gọi mời tình yêu
Giêsu gục ngã, treo thân thập giá dang cánh tay ôm tội đọa đầy
Thân tàn hơi con Chúa Trời nghe hồn chợt đơn côi
Ôi nhân loại hỡi, sao chưa hoài tới mà nỡ quên ân tình biển khơi
Chỉ vì tình yêu Chúa chịu nhục thân chết cho trần gian
Vì Ngài chỉ đến sống cho tình yêu, chết cho tình yêu
Để cứu muôn người lỗi tội
Đưa về trời đẹp tươi
Trên đồi cao trong tiếng ngân chuông chiều vọng tình yêu
Giêsu lặng lẽ, môi khô bờ hé, tim nát tan gai nhọn bạo tàn
Ân tình sâu ai có mau quay về nguồn yêu thương
Ôi Cha Người hỡi xin tha lầm lỗi những tháng năm ru đời biệt tăm

Chúa đã chết cho tình yêu.

Vì tội lỗi, vì kiêu căng, con người đã treo Đấng Cứu Độ trần gian trên cây thập giá nhưng chính từ cây thập giá, ơn cứu độ lại trào tràn cho muôn dân.

Trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe thánh Gioan thuật lại : Khi ấy, Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống.  Như ông Mô-sê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.  Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.  Ai tin vào Con của Người, thì không bị luận phạt; nhưng kẻ không tin, thì bị luận phạt rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.  Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.”

Họ sẽ nhìn lên chính Đấng mà họ đâm thâu. Như xưa con rắn đồng được treo lên để ai bị rắn cắn sẽ được chữa lành thì con người tội lỗi ngày hôm nay nhìn lên cây thập giá hay nói đúng hơn là nhìn lên Đấng treo trên thập giá và tin và Đấng ấy thì sẽ được cứu độ.

Ơn cứu độ của Thiên Chúa trào tràn từ cây thập giá, từ Đấng chịu treo trên đó : “Ơn cứu độ chứa chan người Người”

Chúng ta còn nhớ hình ảnh của anh trộm lành trên đồi Gôngôta ngày xưa. Ý thức được thân phận tội lỗi của mình để rồi anh xin với Chúa Giêsu : “Khi nào Ngài vào Thiên Đàng, xin hãy nhớ đến tôi”. Chúa Giêsu quay qua bên anh và nhìn anh, thỏ thẻ nói với anh: “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với ta”.

Lời hứa cứu độ được trao ban cho người trộm lành, cho con người tội lỗi.

Ơn cứu độ từ cây thập giá lan tràn.

Thâp Giá Đức Ki-tô, niềm vinh dự của ta.

Thập giá Đức Ki-tô, đã khơi nguồn ơn thánh hóa.

Nhờ máu nước tim Ngài, từ khổ giá tuôn trào mà Ngài thương giải thoát cứu độ ta.

Chính Thánh Phaolô đã xác nhận niềm tin vào ơn cứu độ đó qua tâm tình của Ngài gửi cho Timôtê : Đây là lời đáng tin đáng nhận, Chúa Giêsu đã chết và sống lại để cứu những người tội lỗi và người đầu tiên đó là tôi.

Trong thư của Ngài gửi giáo đoàn Côrintô : “Khi ở với anh em, tôi không biết chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, Đức Giêsu Kitô trên thập giá” (1Cr 2, 2).

“Người đã chịu đóng đinh vì mang thân phận yếu hèn, nhưng nay Người đang sống nhờ quyền năng của Thiên Chúa. Cả chúng tôi nữa, trong Đức Kitô, chúng tôi cũng mang thân phận yếu hèn, nhưng cùng với Người, chúng tôi sống nhờ quyền năng Thiên Chúa để xử sự với anh em” (2Cr 13, 4).

“Đức Giêsu Kitô đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,8 nhưng chính vì thế mà Đức Giêsu Kitô được siêu tôn là Chúa. “Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,19).

“Tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh”(Cl 1,24).

“Ước chi tôi chẳng hãnh diện về điều gì, ngoài thập giá Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Nhờ thập giá Người, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với tôi, và tôi đối với thế gian.”(Gl 6,14).

Nhìn lại chặng đường đã qua, dân Do Thái trong Cựu Ước tiêu biểu qua các vịnh gia, trên đỉnh đồi thập giá qua người trộm lành và qua người môn đệ đầy yếu đuối như Phaolô chúng ta lại có quyền tin nhận và hy vọng ơn cứu độ chứa chan nơi Người từ Người treo trên Thập giá, Người bị thiên hạ đâm thâu.

Ngày hôm nay, chúng ta dừng lại, chúng ta nhìn lên cây thập giá, nhìn lên Đấng Cứu Độ trần gian, nhìn lên Ơn cứu chuộc chứa chan nơi Người đó tâm tình chúng ta như thế nào ? Có hy vọng, có tin vào nguồn ơn cứu độ đó hay lại cứ loay hoay mãi đi tìm cái gì khác ngoài ơn cứu độ.

Dĩ nhiên, trong cái thời đại chạy theo danh vọng, chạy theo đồng tiền, chạy theo chức quyền mà nói về ơn cứu độ quả là khó. Khó nói lắm bởi lẽ thực tế cái người ta đi tìm là đi tìm vinh quang của thế gian, lợi lộc của trần gian chứ người ta không đi tìm cái Đấng mà người ta treo trên thập giá nữa. Nếu thật lòng người ta đi tìm Đấng mà người ta treo trên thập giá, tìm Nguồn Ơn Cứu Độ chứa chan nơi Người thì cuộc sống của ta sẽ khác.

Vẫn là con người mang trong mình phận yếu đuối của con người để chúng ta vẫn còn lần bước trong những thực tại của trần gian, của cơm áo gạo tiền. Dĩ nhiên tất cả những thứ đó cần cho cuộc sống của chúng ta nhưng nó không phải là căn cốt, là cùng đích của đời ta.

Chuyện quan trọng, chuyện căn cốt của cuộc đời này đó là được cứu độ hay bị hư mất mà thôi. Giàu sang, phú quý, nghèo hèn, cuối cùng cũng phải trở về với cát bụi mà thôi. Và vì thế, chuyện quan trọng, chuyện căn cốt là ta có tin vào Đấng Cứu Độ trần gian để được cứu hay bị hư đi mà thôi.

Dòng Chúa Cứu Thế ! Rất hãnh diện được mang tên Chúa Cứu Thế, được ghi dấu Chúa Cứu Thế trên đời mình.

Tất cả tu sĩ linh mục Dòng Chúa Cứu Thế trong tu viện cũng như những ai hay lui tới với Đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp cũng được gọi là những người con của Chúa Cứu Thế ngoài tu viện cũng hãnh diện về danh hiệu, về tước hiệu Chúa Cứu Thế trên đời mình.

Chúng ta có quyền hãnh diện nhưng chúng ta cũng phải dừng lại để xét lại niềm tin, niềm trông cậy, niềm hy vọng của chúng ta vào ơn cứu độ chứa chan nơi Người.

Đừng mang tên Dòng Chúa Cứu Thế, con cái Chúa Cứu Thế như là cái nhãn, cái mác hay là cái tên như để trang trí bên mình nhưng hãy sống hãy diễn tả niềm tin vào Ơn Cứu Chuộc chan chứa nơi Người bằng chính đời sống đượm tình bác ái yêu thương của chúng ta.

Hãy cùng với tu sĩ linh mục Dòng Chúa Cứu Thế cất lên lời nguyện xin :

Lạy Chúa, giữa lòng Giáo Hội, Chúa đã muốn cho gia đình Dòng Chúa Cứu Thế được khai sinh như một cây nho chính tay Chúa trồng và săn sóc từ thuở ban đầu cho đến ngày nay.

Tất cả chúng con xin hết lòng hân hoan tạ ơn Chúa. Chúa đã thương trồng cây nho bé mọn Dòng này. Bao lần, Chúa đã mạnh tay quét sạch khó khăn, dẹp hết chướng ngại. Chúa đã khẩn hoang bốn bề quang đãng để nó bén rễ sâu và lan rộng khắp các lục địa. Chúa cũng đã cho bóng nó rợp các núi non, nhánh nó vươn dài đến các đại dương, chồi nó nảy lên mạnh mẽ. Chúa lại ban cho nó một tương lai hứa hẹn. Nguyện xin Chúa tiếp tục bảo vệ cây nho tay phải, Chúa đã vun trồng, xin cho nó vươn lên mãi, lá xanh, hoa tốt để mang lại cho thế giới những chùm quả ơn cứu chuộc chứa chan nơi Chúa. Amen.

Xin Chúa thương gìn giữ anh em tu sĩ linh mục Dòng Chúa Cứu Thế trong tu viện cũng như ngoài tu viện trong tình yêu thương chan chứa của Ơn Cứu Chuộc Chúa Chan nơi Đức Kitô.

Anmai, CSsR

Những Người Tù Ngoại Trú

Những Người Tù Ngoại Trú

Tưởng Năng Tiến


Cái sự coi mỗi công dân là một người tù dự khuyết mở đầu cho một thời đại khốn nạn. Rồi đây chúng ta sẽ phải trả giá cho sự thất nhân tâm này.
Vũ Thư Hiên – Đêm Giữa Ban Ngày
————————————————————-

Từ Hà Nội, Zoe Daniel, ABC News, tường thuật:

“Vụ xét xử một luật sư nhân quyền đang làm dấy lên những lời kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam phóng thích những người chỉ trích chính quyền khỏi nhà tù. Chỉ trong năm nay, hơn 50 người đã bị kết án và tống giam trong các phiên toà chính trị.”

Con số “hơn 50 người đã bị kết án và tống giam trong các phiên toà chính trị” trong năm nay, ngó bộ, hơi nhiều à nha. Đã vậy, còn có “tin đồn vỉa hè là số blogger có thể bị bắt giữ lên đến 20” mạng – theo như bản tin của Thuỳ My, qua RFI :

“Hiện nay các blogger tại Việt Nam thường xuyên liên lạc với nhau để biết ‘ai còn, ai mất’, cũng như chuẩn bị sẵn tinh thần để ‘lên đường’ khi có tin xấu nhất.”


Dù giọng nói của thông tín viên Thuỳ My nghe rất nhẹ nhàng và khả ái, nội dung bản tin mà bà vừa chuyển tải (vào hôm 3 tháng 7 năm 2103 vừa qua) vẫn khiến người ta lên tưởng đến cái không khí đe doạ nặng nề đã bao chụp lên đời sống của những người bất đồng chính kiến – vào những năm cuối thập niên 1960 – ở miền Bắc Việt Nam:

“Bình bàng hoàng khi biết mình có ‘đuôi’….  Anh như ngửi thấy cái mùi của nhà tù. … Đó là đòn đánh ngang đầu. Là đất sụt nơi mình đứng. Là cuộc đời bỗng nhiên không còn là cuộc đời nữa.

Trời đất đảo lộn. Cuộc sống dù sao cũng là cuộc sống. Vẫn có trời. Có gió. Có mây. Có cánh đồng, có đường phố. Có lúc giận vợ. Có lúc nô đùa với các con. Và viết. Nay sắp mất tất cả… Và có cảm giác của một con thú bị nhốt trong chuồng lồng lộn nhưng không sao thoát được. Thì ra họ có toàn quyền làm những việc họ thích. Họ huy động cả guồng máy khổng lồ để hại mình.”

(Bùi Ngọc Tấn. Chuyện Kể Năm 2000, tập I. CLB Tuổi Xanh, Westminster, CA: 2000).

Cái “guồng máy khổng lồ” của nhà nước Việt Nam, vào thời điểm này, đã mang đến nỗi sợ hãi (cũng như phẫn uất) cho rất nhiều người nằm trong vòng quay của nó:

“Hôm ấy là ngày 24-12 hôm trước của Nô-en 1967.

Từ sớm đã có báo động máy bay. Trẻ con nhà tôi đã đi sơ tán cả, ở nhà chỉ còn có hai vợ chồng. Hai chúng tôi nhảy xuống cái hố cá nhân ở mảnh sân con trước cửa nhà. Đứng nép hai người dưới cái hố cá nhân chật chội, nghe tiếng bom nổ, tôi nói:

– Ước gì một quả bom rơi xuống trúng hố cho chúng mình chết luôn. Có đôi.

Nghe tôi nói, vợ tôi mỉm cười buồn rầu. Vợ tôi hiểu tâm trạng của tôi là tâm trạng của một con thú bị săn đuổi không có đường chạy tháo thân.

Thế là sau đợt bắt bớ thứ nhất hồi tháng 7, đến tháng 10 đã diễn ra đợt bắt bớ thứ hai. Số người bị bắt bao nhiêu tôi không rõ, chỉ biết là nhiều hơn lần trước và trong đó có Kiến Giang.

Thông báo số 1, Thông báo số 2… Nghe ghê cả người!

…..

Tối hôm đó vợ tôi chuẩn bị cho tôi một ba lô đầy chăn màn, quần áo ấm. Sáng sớm lại chạy đi mua một đôi bánh mì cặp nhân đầy lên, đút cả vào ba lô. Vừa xong thì báo động máy bay. Đạn cao xạ ầm ầm…

Một lát lâu sau có tiếng commăngca đỗ xịch ngoài sân. Tôi chưa kịp định thần đã thấy xuất hiện hai viên thiếu úy trẻ tuổi nai nịt chỉnh tề, một người dừng lại trấn giữ cửa, người kia bước xộc vào. Tôi giật thót mình.

Viên thiếu úy thứ hai nói như ra lệnh:

– Anh đứng nghiêm nghe lệnh!

Anh ta rút trong sắc cốt ra một tờ giấy nhỏ bằng trang vở học trò, tuyên đọc:

Lệnh bắt giam.

Ra lệnh bắt: Tên phản cách mạng

Trần Thư.

Vì tội: có hành động nguy hại đến nền an ninh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nơi giam: Hỏa Lò.

Ký tên

Đại Tá Kinh Chi. Cục Trưởng Cục Bảo Vệ

Lệnh vắn tắt một cách đanh thép, không có những câu thừa như căn cứ điều khoản bao nhiêu của bộ luật nào đó v.v… Bắt, thế thôi, không oong đơ (un deux) gì cả…

Âu thế cũng là xong. Chứ sống như những ngày tháng vừa qua thì tôi không chịu nổi nữa rồi.

Tôi có cảm giác được giải thoát.

Cái cảm giác được giải thoát ấy nó mạnh đến nỗi khi hai cánh cổng nặng chịch của nhà tù Hỏa Lò mở ra cho chiếc xe chở tôi từ từ bò vào trong sân, tôi không có gì xao xuyến, lo âu.”

[Trần Thư. Tử Tù Xử Lí Nội Bộ (Hồi Ký Của Anh Cả Cò). Văn Nghệ, Westminster, CA:1995]

Nhà báo Trần Thư bị bắt vào cuối năm 1967. Từ đó đến nay đã gần nửa thế kỷ trôi qua. Nhà giam Hoả Lò vẫn vẫn trơ gan cùng tế nguyệt, và vẫn lầm lì đe doạ như xưa. Nhà nước Việt Nam cũng thế.

Chỉ có thái độ của lớp người cầm bút thuộc thế hệ tiếp thì hoàn toàn đổi khác. Họ coi “cái guồng máy khổng lồ” của nhà nước toàn trị hiện nay không có kí lô nào hết trơn hết trọi, còn nhẹ hơn bông nữa. Blogger Mẹ Nấm là một trong số những người có thái độ (bông lơn) như vậy đó:

“Vừa nhận được một email của bà bạn, gửi cho mình ngắn gọn thế này: ‘Tui báo cho bà biết, bà nằm trong danh sách mà người ta gọi là Top 20. Hai mươi người này được phía bạn giao cho chính phủ để ‘nhập kho’. Liệu mà viết.

Hi hi… Xem cái thư này mình không thể nhịn cười…

Hai mươi con người với hàng ngàn bài viết có thể làm chế độ lo sợ và lung lay. Họ không phải là những con số nằm im để cho nhà nước ném vào thống kê tội phạm. Hai mươi con người ấy dù không làm được gì lớn lao nhưng chắc chắn là họ không hề thiếu niềm tự hào vì đã dám nghĩ và viết những điều mà 17 ngàn nhà báo Việt Nam không dám.

17 ngàn là con số. Hai mươi người là những con người, những con người cầm viết.

Con người, hai mươi cái tên trong danh sách Top 20 kia thật đáng tự hào. Mình sẽ thật sự kiêu hãnh nếu được nằm trong cái danh sách ấy.”

Ý trời, đất, qủi, thần, thiên địa ơi! Còn “tự hào” với “kiêu hãnh” nữa chớ. Không biết con cái nhà ai mà ăn nói (nghe) bán mạng vậy cà? Con nhỏ “khiêu khích” thấy rõ. Và cái thái độ “gây gỗ” tương tự cũng có thể tìm thấy ở một “con nhỏ” khác, blogger Còn Huỳnh Thục Vy:

“Bấy nay yên lặng vì bận thôi chứ không phải sợ đâu.“

Thiệt là quá đáng, và … quá đã!

Còn đối với những blogger thuộc lớp trước nữa thì sự kiện đã được họ đón nhận một cách… nhẹ nhàng hơn và cũng giễu cợt hơn – theo như cách bầy tỏ của ông Huỳnh Ngọc Chênh, một trong những nhân vật (“đang nằm”) trong cuộc và … trong rọ:

“He he, ngày xưa có rừng để trốn, bây giờ thì có chỗ nào chui? Thôi thì… ‘hãy cứ vui như mọi ngày, dù ngày mai không ai thăm nuôi’ như Đỗ Trung Quân vẫn nghêu ngao hát.

Hôm qua nghe Nguyễn Trọng Tạo nói về danh sách lên đến 20 người thì bao nhiêu chút sợ hãi còn vương vất lại trong chúng tôi đều bay đi sạch. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nội, từ Hà Nội bay vào với tâm trạng phơi phới rủ chúng tôi đi nhậu. Nghe nói anh cũng có tên trong danh sách nầy.

Rượu vào rồi thì chuyện tới trời cũng xem như chuyện đùa bỡn. Những bạn bè ngồi trong bàn mà không có tên trong danh sách tự dưng thấy thiệt thòi. Nhưng các bạn ấy cũng không ganh tị và tự nguyện phân công nhau lo thăm nuôi những người được xem là có tên.

Nguyện vọng thăm nuôi của nhà văn Nguyễn Quang Lập là một cái laptop, nếu có ba gờ nữa thì càng tốt để anh tiếp tục viết blog và liên lạc với thế giới bên ngoài. Nhà thơ kiêm họa sĩ Đỗ Trung Quân thì cần giá vẽ với màu xịn để vẽ và một chút ánh trăng qua cửa sổ…để làm thơ. Còn nguyện vọng của tôi: Cứ gởi đều đặn viagra vào. Các bạn hỏi: Để làm gì trong đó? Tôi nói: Buồn quá để đục vô tường chơi cho vui. he he.”

huynh ngoc chenh

Nguồn ảnh: huynhngocchenh.blogspot

Tính tôi vốn (vô cùng) đa cảm nên nhìn mấy vị xồn xồn (từ phải qua trái: Đỗ Trung Quân, Nguyễn Quang Lập, Phạm Xuân Nguyên, Huỳnh Ngọc Chênh) có tên trong danh sách top 20 mà không khỏi sinh lòng ái ngại. Không phải tôi ái ngại vì cái bàn rượu  quá hoành tráng so với tình trạng sức khoẻ (chắc) đã hom hem của họ mà là ái ngại khi nghĩ đến thân phận của những người cầm viết ở Việt Nam, trước đó.

Trước đó, chỉ mới nằm “trong tầm ngắm” mà nhà văn Nguyên Bình đã cảm thấy “bàng hoàng,” cùng với cái “cảm giác của một con thú bị nhốt trong chuồng lồng lộn nhưng không sao thoát được.” Và giữa hoàn cảnh cùng quẫn, tuyệt vọng này thì nhà báo Trần Thư ước chỉ ước mong sao có “một quả bom rơi” để được chết chung với người thân, cho nó xong đời.

Còn bây giờ thì những kẻ “ở trong tầm ngắm” vẫn cứ ngồi nhậu lai rai, với “tâm trạng phơi phới” cứ y như là họ đang còn ở tuổi đôi mươi và vừa có tên trong sanh sách thi đậu tú tài vậy.

Thiệt là hết thuốc!

Sẵn trớn đang ái ngại, tôi cũng cảm thấy ái ngại (luôn) cho tướng Trần Đại Quang, vị Bộ Trưởng Công An đương nhiệm, khi chợt nhớ đến người tiềm nhiệm của ông: Trần Quốc Hoàn. Nhân vật này – rõ ràng – đã sinh ra đời dưới một ngôi sao cực tốt, và ở vào một thời đại cực thịnh của chế độ công an trị. Muốn bắt ai thì bắt, muốn hiếp ai thì hiếp, và muốn giết ai rồi vứt xác ra đường cũng được mà cả nước vẫn cứ im thin thít.

Cái thời vàng son đó, tiếc thay, không còn nữa. Giờ đây, ông Quang mới đổi có mấy cái bảng số xe (từ trắng ra xanh) và đổi tên tuổi mình (chút xíu) thôi mà trên diễn đàn Dân Luận đã có lắm điều tiếng eo xèo rồi: “cơ hội, thoái hoá, đổi trắng thay đen, thao túng luật pháp…

Dân tình, rõ ràng, mỗi lúc một thêm khó dạy và… khó chịu. Đưa ra nguyên một cái danh sách dài thòng (Top 20) mà không thấy dư luận “rúng động” gì ráo trọi, chỉ nghe có những tiếng cười (“he he”) hồi đáp – từ bàn nhậu – thôi hà.

Những tiếng cười giễu cợt tương tự đã vang lên từ mọi ngõ ngách ở đất nước Việt Nam, và mọi người đều nghe thấy – trừ ông Trần Đại Quang, và những người thuộc giới lãnh đạo của đất nước này. Họ vẫn cứ hành xử như thể là “chưa” có chuyện gì đáng tiếc xẩy ra. Họ không có khả năng thích nghi với tình thế và thời thế; bởi thế, họ sẽ không thể tiếp tục tồn tại nữa.

Tưởng Năng Tiến

ĐỂ LỜI CHÚA SOI DẪN CUỘC ĐỜI

ĐỂ LỜI CHÚA SOI DẪN CUỘC ĐỜI

LM. Ignatiô Trần Ngà

Hôm ấy, các đệ tử của Thầy hăng say thảo luận về nguyên nhân đau khổ của nhân loại.  Người thì nói là do lòng tham vô đáy của con người thúc đẩy, kẻ thì cho là do tính ích kỷ thâm căn cố đế hoặc tính kiêu căng và óc thống trị xui khiến, một số khác cho là do sự chia rẽ chủng tộc hay tôn giáo phát sinh…

Sau cùng, các đệ tử quay sang hỏi ý kiến Thầy, Thầy nói: “Mọi đau khổ đến từ việc con người thiếu khả năng ngồi yên lặng một mình để lắng nghe…” (Phỏng theo Cha Anthony de Mello)

*******************************

Yên lặng để lắng nghe!  Để nghe Chúa nói, để nghe lời khôn ngoan…  Đó cũng là điều mà Cô Maria thể hiện qua đoạn Tin Mừng hôm nay.

Hôm ấy, Chúa Giêsu đến thăm gia đình Mácta.  Mácta tất bật lo việc nấu dọn để hầu hạ Chúa, hy vọng Chúa sẽ rất hài lòng về sự tiếp đãi ân cần, chu đáo và tận tình như thế.  Vậy mà Chúa Giêsu lại đề cao thái độ chăm chú lắng nghe của Maria hơn và trách Mácta:

“Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi.” (Lc 10, 41-42)

Nhiều lần trong Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định với mọi người rằng lắng nghe và thi hành Lời Chúa là điều tối cần thiết và quan trọng nhất.

Lắng nghe Lời Chúa là chuyện cần thiết nhất vì Lời Chúa là đèn soi cho loài người tiến bước trong đêm tối và vượt qua bao giông tố của cuộc đời. “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (TV 119,105).  Nhờ ngọn đèn nầy, người lầm lạc thấy được chân lý, người tội lỗi được hoán cải để sống đời thánh thiện, người thất vọng được tìm thấy niềm tin và hy vọng tràn trề… Thiếu Lời Chúa, nhân loại như đang chìm trong tối tăm.

Một chiếc xe vượt qua nhiều đoạn đường đèo quanh co, cheo leo hiểm trở trong đêm tối mà xe lại chạy không đèn thì chắc chắn sẽ lao xuống vực.  Đời người với bao nhiêu thăng trầm thách thức của cuộc sống khác gì chiếc xe vượt đèo kia, nếu không được ánh sáng của Lời Chúa soi dẫn, thì sẽ không thoát khỏi tai ương.  Đối với những ai biết đón nhận Lời Chúa và nhận lấy ánh sáng Lời Chúa soi dẫn cho hành động, người ấy sẽ đạt được những thành quả tốt đẹp trong đời mình.  Lời Chúa thật sự đã mang lại giải pháp tối ưu cho mọi vấn đề của cuộc sống.

Trong thời kỳ đất nước Việt Nam của chúng ta bị đặt dưới ách đô hộ của người Pháp thì tại nam Á, một quốc gia khác to lớn hơn nhiều cũng bị đặt dưới ách thống trị của người Anh.  Đó là quốc gia Ấn-độ.  Đế quốc Anh cũng hùng cường không thua kém gì đế quốc Pháp.  Cả nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân Ấn đều đứng lên để lật đổ chế độ thực dân và giành độc lập cho xứ sở mình.

Trong cuộc đấu tranh nầy, nhân dân Việt Nam phải dùng đến bạo lực, đến khí giới và đã trả giá cho nền độc lập bằng vô vàn sinh mạng và máu xương!

Trong khi đó, tại Ấn-độ, dưới tài lãnh đạo của thánh Gandhi, vị anh hùng của nhân dân Ấn và là người được dân Ấn gọi là thánh, người dân Ấn đấu tranh bằng đường lối ôn hoà bất bạo động mà thánh Gandhi học được từ Tin Mừng của Chúa Giêsu: “Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét các ngươi… Ai vả má bên nầy thì hãy chìa má bên kia ra…” Bằng đường lối bất bạo động học từ Tin Mừng của Chúa Giêsu, Gandhi và nhân dân Ấn-độ đã lật đổ được đế quốc Anh, bẻ gảy ách thống trị của người Anh, giành lại độc lập cho quê hương xứ sở mà không cần đến khí giới.

Vài chục năm, tại đất nước Hoa-kỳ, Mục sư Martin Luther King cũng đã dùng Lời Chúa soi sáng cho cuộc đấu tranh bất bạo động của mình, và ông đã đạt được thắng lợi vẻ vang, buộc người da trắng nhìn nhận, tôn trọng quyền lợi và phẩm giá của người da đen mà không cần đến khí giới.

Như thế, Lời Chúa quả đã đem lại những giải pháp tối ưu cho mọi vấn đề và thách thức trong cuộc sống.  Hôm nay, Chúa Giêsu lại đem Tin Mừng của Ngài trao tặng miễn phí cho chúng ta để làm đèn soi cho chúng ta trong cuộc sống nhiều mây mù u tối nầy.

Cuộc đời chúng ta như những chuyến xe phải vượt những chặng đường đèo cheo leo hiểm trở giữa màn đêm.  Lời Chúa vẫn mãi mãi là đèn soi dẫn.  Ước gì chúng ta đón nhận Lời Chúa để soi sáng cho hành trình còn lại trong cuộc đời chúng ta.

LM. Ignatiô Trần Ngà

KHÔNG THỂ TÁCH RỜI HOẠT ĐỘNG VÀ CHIÊM NIỆM

KHÔNG THỂ TÁCH RỜI HOẠT ĐỘNG VÀ CHIÊM NIỆM

Lm. Jude Siciliano, OP

Mẹ tôi sinh ra trong một gia đình có  chín người con. Ông ngoại tôi là một người lao động chân tay; bà ngoại tôi thì làm việc quần quật suốt cả ngày và kiêm luôn việc nhà. Còn mẹ tôi, mẹ đã nuôi nấng chúng tôi mà không hề có máy giặt, máy sấy hay máy rửa chén. Mẹ phải làm việc quần quật suốt cả ngày như thế. Tôi không nhớ là mẹ có bao giờ đi tĩnh tâm hay không. Mẹ tôi không đọc Kinh thánh nhiều lắm, nhưng một Chúa nhật nọ, sau khi nghe câu chuyện về cô Mácta và Maria như hôm nay tại nhà thờ, thì mẹ về nhà và nói: “Nếu mẹ xé đi một trang Kinh thánh thì Maria và Mácta sẽ thế nào nhỉ !” Với lịch làm việc rất bận rộn, mẹ sẽ đứng về phía Mácta và cho rằng Maria là một đứa em gái hư hỏng.

Câu chuyện Phúc âm này chỉ có  trong Tin mừng theo thánh Luca, và được dùng để so sánh đời sống hoạt động của người Kitô hữu (Mácta) với đời sống chiêm niệm (Maria). Như thế, hình thức của đời sống Kitô hữu này được đặt tương phản với hình thức kia. (Thêm nữa, dường như dùng một phụ nữ để đem ra so sánh với người khác, hoặc hai chị em tranh cãi với nhau về công việc nhà, không phải là một hình ảnh lấy làm hãnh diện về người phụ nữ trong Tin mừng). Cách hiểu vội vàng có lẽ sẽ cho rằng việc lắng nghe Lời Chúa thì có giá trị hơn là hoạt động. Tuy nhiên, trong toàn bộ Tin mừng, các môn đệ đều hội tụ cả việc lắng nghe lẫn hành động (6,47; 11,28).

Cũng như trình thuật Tin mừng này đã từng chọc giận mẹ tôi, thì nó cũng xảy ra tương tự như thế với những phụ nữ hiện đại nữa, những người coi vai trò của cô Mácta như một ví dụ điển hình về các yêu cầu đưa ra cho họ khi cố gắng để cân bằng trách nhiệm giữa công việc trong gia đình với việc bên ngoài. Có vẻ Đức Giêsu không khen ngợi những người “băn khoăn lo lắng về nhiều chuyện”, vì họ muốn phải được trở thành như thế này như thế nọ.

Nguyên nhân nào dẫn đến người ta chỉ trích Đức Giêsu? Có phải là do thái độ phục vụ của cô Mácta không? Đó có phải là một lời phê bình các Kitô hữu trong cộng đoàn của thánh Luca, và xa hơn nữa, là những người đang phục vụ người khác ở bên ngoài, nhưng lại không làm việc với cả tấm lòng hay không? Hoặc chỉ đơn giản là do cô Mácta đã chuẩn bị bữa ăn với nhiều món quá thịnh soạn cầu kỳ, trong khi đó, nếu một bữa ăn đạm bạc hơn sẽ giúp cô có cơ hội cùng với em gái của mình, giống như một người môn đệ, ngồi dưới chân Chúa mà lắng nghe lời Người?

Một số nhà chú giải cho rằng câu chuyện về Mácta và Maria không phản ánh được thái độ của Đức Giêsu, nhưng đã có một cuộc xung đột xảy ra sau đó trong Hội thánh tiên khởi về vai trò của phụ nữ trong công tác tông đồ. Ủng hộ cho quan điểm này, chúng tôi lưu ý rằng Mácta đã gọi Đức Giêsu là “Chúa”, tước hiệu này chỉ có sau ngày Đức Giêsu phục sinh. Điều này cho thấy đây là một bối cảnh và tranh luận diễn ra sau này. Ngoài ra, hạn từ “diakonia” cũng được dùng để nói về việc phục vụ của cô Mácta và ám chỉ đến công tác tông đồ.

Trong nhiều bối cảnh Tân ước, phụ  nữ đóng nhiều vai trò quan trọng như: giảng dạy, truyền giáo, và lãnh đạo. Chẳng hạn như Hội thánh ở Kenkhơrê có chị Phêrê là một “nữ trợ tá” (Rm 16,1). Nhưng trong Giáo hội tiên khởi, không phải tất cả mọi người đều đồng ý về vai trò của phụ nữ. Trong khi đó, thánh Phaolô đã tán thành vai trò hỗ tương của người nam và người nữ trong cuộc hội họp phụng vụ (1 Cr 11,3-4), chèn vào tiếp sau đó là bản văn hướng dẫn người phụ nữ phải biết giữ thinh lặng  (1 Cr 14,3-4). Dường như tình tiết trong câu chuyện về cô Mácta và Maria cho thấy một cuộc xung đột tương tự đang diễn ra trong cộng đoàn của tác giả Luca. Liệu câu chuyện về cô Mácta và Maria có phản ánh nỗ lực của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đang muốn bịt miệng phụ nữ lại hay không?

Cũng nên lưu ý: có một quan niệm khác về cô Maria và Mácta trong Tin mừng theo thánh Gioan. Khi em trai của hai cô này là Ladarô qua đời, cô Mácta đã nổi bật như một trọng tâm và đã thốt lên cùng một lời tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu (11,25-27) như ông Phêrô đã tuyên xưng trong ba Tin mừng nhất lãm [Mátthêu, Máccô và Luca]. Người ta cũng có thể tìm thấy luận cứ để chứng tỏ rằng những phụ nữ trong Tin mừng theo thánh Gioan thì mạnh mẽ và nổi bật hơn trong Tin mừng theo thánh Luca.

Phần mở đầu tình tiết câu chuyện hôm nay cho thấy Đức Giêsu đang đi trên hành trình. Từ (9,51), Người đã lên đường đi Giêrusalem. Thánh Luca cũng đã nói cho chúng ta những sự cố xảy ra trên đường đi; mỗi câu chuyện là một lời nhắc nhở về những đòi hỏi đối với những người trung thành bước theo Đức Giêsu. Hôm nay, chúng ta được nhắc nhở về những khó khăn phải chịu hầu giữ được cân bằng trong cuộc sống giữa hành động và sự suy tư, lắng nghe Lời Chúa và đem Lời ấy ra thực hành. Đối với người môn đệ thì sự cân bằng giữa chiêm niệm và hoạt động là điều cần thiết khi chúng ta diễn tả việc phục vụ tha nhân.

Đoạn mở đầu câu chuyện chính là kiểu mẫu cho một đời sống phát triển không ngừng của Giáo hội. Chúng ta nghe nói rằng cô Mácta đã đón tiếp Đức Giêsu. Cô đang thực hiện một nhiệm vụ quan trọng ở vùng Trung Đông, nơi có nhiều lễ nghi; nhiều nghi thức tẩy rửa tay chân; có dầu dùng để xức trên đầu và dùng trong chế biến thực phẩm. Nhưng trổi vượt hơn phong tục ấy, cô Mácta đang “phục vụ” Chúa, đây cũng là nhiệm vụ của mỗi người Kitô hữu. “Phục vụ” là một từ ngữ thiêng liêng đối với các Kitô hữu; từ này diễn tả ơn gọi của chúng ta như những thừa tác viên của Tin mừng, chúng ta “phục vụ” Chúa qua việc phục vụ tha nhân.

Trong câu chuyện cô Mácta và Maria, chúng ta có được sự hướng dẫn để làm một người Kitô hữu. Hãy lưu ý đến bối cảnh của câu chuyện, câu chuyện không xảy ra trong Đền thờ. Đức Giêsu đến thăm và giảng dạy ngay trong một gia đình. Thật ra, hầu hết những hoạt động và việc giảng dạy của Đức Giêsu đều diễn ra ở bên ngoài Đền thờ. Đó là cuộc sống thường nhật của chúng ta, nơi đó ta tìm thấy, học hỏi và có thể phục vụ Thiên Chúa. Chúng ta có xu hướng tạo ra sự phân chia rạch ròi giữa “nơi thánh thiêng” và “chốn thế tục”. Đức Giêsu giảng dạy ngay trong nhà cô Mácta và Maria, và đó cũng là nơi hai người phụ nữ này tìm thấy những nghĩa vụ của người môn đệ phải thực thi, đó là: phục vụ và lắng nghe Lời. Việc Đức Giêsu sửa lỗi cho cô Mácta không phải là một bản án, nhưng là một lời mời gọi: trong lúc phục vụ, chúng ta cần được bén rễ trong Lời của Người.

Cũng như cô Mácta, chúng ta có những mối bận tâm chính đáng thúc bách hằng ngày. Chúng ta sẽ giống như cô Mácta nếu lo tiếp đón và phục vụ Chúa trong nhà mình và những nơi khác nữa. Ta lại sẽ bắt chước như cô Maria một khi chăm chú lắng nghe và tìm kiếm sự hướng dẫn phát ra từ môi miệng Thiên Chúa.

Chính Đức Giêsu cũng bận rộn trăm bề. Bối cảnh câu chuyện hôm nay rất quan trọng. Tình tiết câu chuyện về  cô Maria và Mácta diễn ra sau dụ ngôn người Samari Nhân hậu, câu chuyện nói về những việc tốt lành mà Đức Giêsu đã dạy bảo với lời kết: “Hãy đi và làm như vậy”. Tiếp sau đó là phần lắng nghe và học hỏi hôm nay. Ngay sau bối cảnh này, Đức Giêsu cầu nguyện và đáp ứng yêu cầu của các môn đệ khi dạy các ông cầu nguyện với “Kinh Lạy Cha”. Hãy lưu ý tới trình tự của những câu chuyện này: trước tiên là hướng dẫn cho việc phục vụ để đáp ứng nhu cầu của người thân cận, và tiếp sau đó là việc dạy cầu nguyện. Chèn vào giữa hai câu chuyện này là câu chuyện hôm nay nhằm kết nối tầm quan trọng của việc phục vụ được nuôi dưỡng qua việc lắng nghe Lời.

Đức Giêsu cũng có thừa tác vụ hoạt động của mình, nhưng Người vẫn dành thời gian để cầu nguyện và Người hằng kỳ vọng các môn đệ cũng làm như vậy. Trong Tin mừng theo thánh Luca, Đức Giêsu thường xuyên cầu nguyện để xin ơn Chúa Thánh Thần trước khi làm việc. Chúng ta không phải chỉ đơn thuần được kêu gọi để trở nên như cô Mácta không ngớt lo việc phục vụ, hay nên như cô Maria chỉ biết ở yên một chỗ để lắng nghe Lời, nhưng phải là cả hai. Chúng ta được kêu gọi lắng nghe Lời Chúa và tiếp sau đó là đem ra thực hành trong những hoạt động tích cực.

Chúng ta nhớ đến thánh Catarina Siena (1347-1380), người chị em Đaminh của chúng ta. Thánh nữ sống trong thời hỗn loạn xảy ra bệnh dịch hạch và chiến tranh do các đoàn quân đánh thuê đánh chiếm nhiều nơi. Đức giáo hoàng đã để lại sự hỗn loạn cho Rôma và đi đến Avignon, Pháp. Những viên giám quản triều đình thì lại bỏ mặc cho Rôma điều khiển Giáo hội.

Thánh nữ Catarina đã dâng hiến chính mình cho Chúa Kitô và đón nhận tu phục người giáo dân Đaminh (“Dòng ba”). Thánh nhân bắt đầu sống đời chiêm niệm ngay trong nhà mình, dành ra ba năm cầu nguyện và chiêm niệm chuyên chăm trong một căn phòng nhỏ bé dưới gầm cầu thang. Sau đó, thánh nữ nghe Đức Kitô mời gọi ra khỏi căn phòng kín ấy để đi phục vụ tha nhân. Ngài dành ra một năm sau đó để phục vụ bệnh nhân, bố thí cho người nghèo, thăm viếng các tù nhân và nạn nhân của bệnh dịch hạch. Ngài cũng phục vụ trong vai trò một sứ giả hòa bình giữa các gia đình thù hằn với nhau ở Siena và các tiểu bang thành phố dọc khắp Italia. Thánh Catarina Siena đến Avignon, gặp Giáo hoàng Gregory XI đang phải sống lưu vong, và thuyết phục ngài trở về Rôma. Năm 1970, thánh Catarina Siena đã được tuyên phong tiến sĩ Hội thánh.

Mặc dù thánh nữ Catarina khởi đầu “phục vụ” Thiên Chúa qua việc dành ra ba năm sống trong cô  tịch, và tiếp sau đó là hoạt động với lòng tràn đầy nhiệt huyết. Thậm chí trong những thời gian bận rộn nhất, thánh nữ vẫn cầu nguyện và tìm kiếm sự hướng dẫn của Chúa. Cũng giống như cả những Kitô hữu lừng danh hay bình dị, thánh Catarina đã kết hợp tài tình giữa Maria và Mácta trong cuộc sống. Chúng ta, những người Đaminh, có một phương châm kết hợp cả hai khía cạnh minh họa cho trình thuật Tin mừng hôm nay: “Chia sẻ cho tha nhân những thành quả chiêm niệm của mình.”

Chuyển ngữ: Anh em HV Đaminh Gò Vấp

Từ Têrêsa  Ngọc Nga &

Anh chị Thụ &Mai gởi

LẼ SỐNG 7

LẼ SỐNG 7

01 Tháng Bảy

Một Cách Trả Thù

Những người thổ dân Nam Phi thường đề cao sự tha thứ bằng câu chuyện sau đây:

Có hai người thổ dân rất thù ghét nhau. Một ngày kia, một trong hai người gặp cô gái nhỏ của kẻ thù mình trong rừng. Hắn đã bắt lấy cô gái và lấy dao chặt đứt hai ngón tay của cô bé. Cô bé vừa chạy về vừa khóc lóc đau đớn, còn tên hung thủ thì vừa đi vừa đắc trí hô lớn: “Ta đã trả thù được rồi”.

Mười mấy năm sau, cô bé đáng thương ấy đã lớn lên rồi có gia đình. Một hôm, có một người ăn xin đến gõ cửa nhà cô. Cô nhận ra tức khắc người hành khất chính là kẻ đã chặt tay cô cách đây mười mấy năm. Không một chút oán hờn, không một lời trả đũa, cô vội vàng vào nhà và mang thức ăn ra hầu hạ cho kẻ đã từng hành hạ mình. Khi người hành khất đã ăn no rồi, người đàn bà liền đưa bàn tay cụt mất hai ngón cho ông ta xem và nói: “Tôi cũng đã trả được thù rồi”.

“Lấy ân trả oán”: đó phải là phương châm hành động của người Kitô chúng ta. Không có cách trả thù nào cao quý hơn bằng yêu thương, tha thứ cho chính kẻ thù. Nói như thánh Phaolô, chúng ta không mắc nợ với nhau đều gì ngoài tình thương mến.

Chỉ có tình thương, chỉ có lòng tha thứ mới có thể tiêu diệt được hận thù, lấy bạo động để tiêu diệt bạo động: con người chỉ đổ thêm dầu vào hận thù và bạo động mà thôi.

Cuộc cách mạng bạo động và đẫm máu nào cũng chỉ mang lại tang thương, chết chóc và không biết bao nhiêu hệ lụy khổ đau khác.

Chỉ có một cuộc cách mạng duy nhất có thể cứu vãn được nhân loại: đó là cuộc cách mạng mà Chúa Giêsu đã đề ra. Chỉ có cuộc cách mạng tình thương ấy mới có thể tiêu diệt được hận thù. Đó là cuộc cách mạng mà người Kitô chúng ta cần phải đeo đuổi mỗi ngày. Thay vì tiêu diệt kẻ thù, chúng ta hãy tiêu diệt chính sự thù hận trong tâm hồn chúng ta.

02 Tháng Bảy

Đấng Cứu Thế Đang Có Mặt

Ngày kia, có một đan viện phụ Công giáo tìm đến một vị tu sĩ Ấn Giáo tại chân núi Himalaya. Với tất cả ưu tư phiền muộn, vị đan viện phụ trình bày về tình trạng bi đát của tu viện do ông điều khiển. Trước kia, tu viện này là một trong những trung tâm Công giáo thu hút không biết bao nhiêu khách hành hương. Nhà nguyện lúc nào cũng vang lên tiếng ca hát của các tu sĩ và giáo dân đến từ khắp nơi. Các căn phòng lúc nào cũng có người ở… Nay tu viện gần như trở thành một ngôi chùa trống vắng. Làn sóng những người trẻ tìm đến tu viện hầu như tắt lịm. Nhà nguyện vắng kẻ ra người vào. Một số nhỏ tu sĩ còn lại sống trong uể oải buông thả… Vị viện phụ muốn hỏi nhà tu sĩ Ấn Giáo: đâu là nguyên nhân đã đưa đến tình trạng này? Phải chăng vì một tội lỗi tày đình nào đó mà bàn tay Chúa đã đè nặng trên cộng đoàn?

Sau khi nghe đức viện phụ kể lể, vị tu sĩ Ấn Giáo mới ôn tồn nói: “Cái tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn: đó là tội vô tình”. Vị tu sĩ Ấn Giáo mới giải thích như sau: “Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người giữa chư vị, nhưng chư vị đã vô tình không nhận ra Ngài”.

Nhận được lời giải thích của vị tu sĩ Ấn Giáo, đức viện phụ mới hối hả trở về tu viện, trong lòng ông không khỏi miên man đặt câu hỏi: “Ai là người được Đấng Cứu Thế đang mượn hình dáng để trở lại với loài người?”. Cả tu viện chỉ có tất cả không đầy mười người. Đấng Cứu Thế không thể là chính ông, vì ông tự biết mình là một con người tội lỗi yếu hèn. Nhưng ông cũng biết rõ các tu sĩ khác trong tu viện: có người nào toàn vẹn để Đấng Cứu Thế mượn lấy hình dáng? Thế nhưng, ông vẫn tin theo lời của vị tu sĩ Ấn Giáo để xác quyết rằng Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người nào đó trong cộng đoàn…

Với niềm xác tín ấy, ông quy tu tất cả các tu sĩ lại và loan báo cho mọi người biết rằng Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người trong nhà. Đôi mắt của mỗi người mở to ra và ai cũng bắt đầu dò xét từng người trong nhà. Chỉ có điều chắc chắn là: bởi vì Đấng Cứu Thế đã cải trang, cho nên, không ai có thể nhận ra Ngài được. Thành ra mỗi người trong nhà đều có thể là Đấng Cứu Thế… Từ đó, ai ai cũng đối xử với nhau như đối xử với chính Đấng Cứu Thế. Không mấy chốc, bầu khí yêu thương, huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Sự thánh thiện ấy không mấy chốc được đồn thổi đi khắp nơi. Các tín hữu từ khắp nơi trở lại tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều ngưởi trẻ cũng đến gõ cửa Nhà Dòng…

Nếu người người, ai ai cũng nhìn nhau và đối xử với nhau như đối xử với chính Chúa Giêsu, thì có lẽ hận thù, chiến tranh sẽ không bao giờ có lý do để tồn tại trên mặt đất này. Sự vắng bóng của Thiên Chúa trong xã hội, hay đúng hơn sự vô tình của con người để không nhận ra Thiên Chúa trong cuộc sống: đó là đầu mối của mọi thứ bất hòa, chiến tranh, xáo trộn trong xã hội.

Chối bỏ Thiên Chúa cũng có nghĩa là chối bỏ con người. Sự băng hoại của những xã hội xây dựng trên chủ thuyết vô thần là một bằng chứng hùng hồn về hậu quả của sự chối bỏ Thiên Chúa. Khi con người chối bỏ Thiên Chúa, con người cũng trà đạp con người…

Con người là hình ảnh cao quý của Thiên Chúa đến độ Ngài đã trở thành con người và tự đồng hóa với con người. Từ nay, con người chỉ có thể nhận ra Ngài trong mỗi người anh em của mình mà thôi. Thánh thiện hay tội lỗi, giàu sang hay nghèo hèn, bạn hữu hay thù địch: mỗi một con người đều là hình ảnh của Thiên Chúa và chỉ có xuyên qua tình yêu đối với con người, con người mới có thể đến với Thiên Chúa…

03 Tháng Bảy

Vị Tiên Tri Cô Độc

Người Ấn Độ có kể lại câu chuyện ngụ ngôn sau đây:

“Vì tội lỗi của loài người, Thượng đế dọa sẽ trừng trị họ bằng một trận động đất. Đất sẽ nứt nẻ và nước sẽ rút hết vào trong lòng đất… Một thứ nước độc sẽ tràn ngập mặt đất. Ai uống vào sẽ trở nên bất bình thường.
Một vị tiên tri nọ đã không xem thường lời đe dọa của Thượng đế. Ông chuẩn bị đương đầu với biến cố bằng cách từng ngày đem nước lên một ngọn núi cao. Số nước dự trữ đủ cho ông sống đến ngày tàn của cuộc đời…

Động đất đã xảy đến, bao nhiêu sông nước trên mặt đất đều bốc hơi, một thứ nước khác được thay thế vào.

Một tháng sau, vị tiên tri trở lại đất bằng để xem những gì đang xảy ra cho loài người. Đúng như lời đe dọa của Thượng đế, mọi người sống trên mặt đất đều hóa ra điên dại. Nhưng kỳ lạ thay, loài người không ý thức được tình trạng điên dại của mình. Trái lại, ai cũng muốn ra đường để chế diễu vị tiên tri vì họ cho rằng ông mới là người điên dại…

uồn tình, vị tiên tri trở lại chốn núi cao của mình. Ông sung sướng vì nước dự trữ vẫn còn và ông vẫn là người duy nhất còn có một tâm trí lành mạnh, bình thường…

Nhưng ngày qua ngày, ông cảm thấy không chịu nổi sự cô đơn của mình. Ông khao khát được sống một cách bình thường với những người đồng loại. Thế là một lần nữa, ông trở lại đồng bằng. Và một lần nữa, ông lại bị dân chúng ruồng rẫy, vì họ cho rằng ông không còn giống họ nữa.

Không còn chịu được sự hắt hủi của những người đồng loại, vị tiên tri đã đổ hết số nước dự trữ của mình và ông uống lấy nước mới của người đồng loại để cũng trở nên điên dại như họ…”

Con đường dẫn đến chân lý không phải là con đường rộng thênh thang. Người đi tìm chân lý thường là người cô độc…

Hôm nay chúng ta kính nhớ thánh tông đồ Toma. Ai cũng biết lời bất hủ của Toma khi tuyên bố về sự sống lại của Chúa: Nếu tôi không xỏ tay tôi vào lỗ đinh và cạnh sườn Ngài, tôi không tin… Theo phương pháp khoa học, nhiều người đã lấy câu nói của Toma làm châm ngôn cho việc đi tìm chân lý. Nghĩa là, nếu tôikhông kiểm chứng được, nếu tôi không sờ mó được, tôi không chấp nhận điều đó là đúng…

Thái độ đó chưa hẳn là thái độ thực tiễn trong cuộc sống. Giá trị cao cả nhất trong cuộc sống: đó là sự tin tưởng, tín nhiệm đối với người khác. Đau yếu, chúng ta đi mua thuốc, chúng ta buộc phải tin tưởng ở người bán thuốc. Lạc đường, chúng ta buộc phải tin tưởng ở lòng thành thật của người chỉ lối…

Thái độ đó càng đúng hơn trong lĩnh vực Đức Tin… Chúng ta tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu không phải vì chúng ta đã thấy Người hiện ra, nhưng chỉ vì lời chứng của các tông đồ, của các tiền nhân… Một thái độ như thế đòi hỏi rất nhiều phấn đấu của lý trí. Lắm khi, chung ta chỉ là một thiểu số cô độc.

Chúng ta dễ dàng rơi vào nỗi cô độc của những người đang đi tìm chân lý. Người Kitô thường phải đi ngược dòng. Điều người đời cho là bất bình thường, có lẽ phải là cái bình thường đối với người Kitô. Điều người đời cho là yếu nhược, có khi phải là sức mạnh của người Kitô. Điều người đời cho là điên dại, có khi phải là lẽ khôn ngoan của người Kitô.

04 Tháng Bảy

Củ Cà Rốt Của Tôi

Một lão bà nọ qua đời, được các Thiên Thần mang đến tòa phán xét. Trong khi duyệt xét các hành động của bà lúc còn sống, Đấng phán xét đã không tìm thấy bất cứ một hành động bác ái nào, ngoại trừ có một lần bà đã cho người ăn mày một củ cà rốt. Tuy nhiên, Đấng phán xét tối cao đầy lòng nhân từ cũng xem hành động ấy có đủ sức để mang người đàn bà lên Thiên Đàng. Dĩ nhiên, củ cà rốt sẽ được dùng như sợi xích vững để người đàn bà bám vào và leo lên các bậc trong chiếc thang dẫn về Thiên Đàng.

Người ăn mày cũng chết vào khoảng trong thời gian ấy. Anh cũng được diễm phúc bám vào gấu áo của người đàn bà để được đưa lên Thiên Đàng.

Một người khác cũng qua đời vào ngày hôm đó. Người này cũng níu lấy chân của người hành khất. Không mấy chốc, chiếc thang bắt đầu từ củ cà rốt mỗi lúc một dài ra đến gần như vô tận: mọi người đều níu kéo nhau để lên Thiên Đàng. Nhưng từ trên đỉnh thang nhìn xuống, người đàn bà bỗng châu mày khó chịu. Bà thấy sợi dây mỗi lúc một dài, bà sợ nó sẽ căng ra rồi đứt chăng. Cho nên trong cơn bực tức, bà cố gắng dành riêng cho mình củ cà rốt và la lên: “Các người giang ra, đây là củ cà rốt của tôi”.

Người đàn bà cố gắng giữ củ cà rốt cho riêng mình cho nên sợi dây tạo nên chiếc thang bắc lên Trời bị đứt. Bà rơi nhào xuống đất và cả đoàn người bám víu vào sợi dây ấy cũng rơi theo.

Một tác giả nào đó đã nói như sau: “Nguyên nhân của tất cả các sự dữ trên trần gian đều bắt đầu từ câu nói điều này thuộc về tội, điều kia thuộc về tôi”.

Khi con người muốn chiếm giữ cho riêng mình là lúc con người cũng muốn chối bỏ và loại trừ người khác. Nhưng càng muốn chiếm giữ cho riêng mình, con người không những chối bỏ người khác mà cũng đánh mất chính bản thân mình. Tình liên đới là điều thiết yếu cho sự thành toàn của bản thân chúng ta. Càng ra khỏi chính mình để sống cho người khác, chúng ta càng gặp lại bản thân, chúng ta càng lớn lên trong tình người. Đó là nghịch lý mà Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Ai mất mạng sống mình, người đó sẽ tìm gặp lại bản thân”. Hạnh phúc của bản thân chính là làm sao cho người khác được hạnh phúc.

05 Tháng Bảy

Con Người Tự Do

Đại thi hào Rabindranath Tagore của Ấn Độ có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau:

Khi còn trẻ, tôi cảm thấy tràn đầy năng lực… Một buổi sáng nọ, tôi ra khỏi nhà và hô lớn: “Tôi sẵn sàng phục vụ bất cứ ai muốn”. Thế là tôi hăm hở lên đường và trong tư thế sẵn sàng phục vụ bất cứ ai chờ đợi. Từ đằng xa, đức vua và đoàn tùy tùng tiến đến. Vừa nghe tiếng tôi, ngài đã dừng lại và nói với tôi: “Ta đưa ngươi vào cung hầu hạ ta và bù lại, ta sẽ ban cho ngươi quyền hành”. Ngẫm nghĩ, không biết dùng quyền hành để làm gì, tôi đành lặng lẽ bỏ đi…

Tôi tiếp tục ra đi và hô lớn: “Tôi sẵn sàng phục vụ bất cứ ai muốn”. Chiều hôm đó, có một cụ già ngỏ ý thuê tôi và để đền bù, cụ cho tôi những đồng bạc mà âm thanh vang lên như bản nhạc. Nhưng tôi cảm thấy không cần tiền bạc, cho nên đành tiếp tục ra đi.

Tôi tiếp tục ra đi và tiến gần đến một căn nhà xinh đẹp. Một em bé gái xinh đẹp chào tôi và đề nghị với tôi: “Tôi thuê anh và bù lại, tôi sẽ tặng cho anh nụ cười của tôi”. Tôi cảm thấy do dự. Một nụ cười sẽ kéo dài bao lâu? Chỉ trong chớp nhoáng, cô bé đã biến vào bóng tối…

Khi tôi rời bỏ căn nhà xinh đẹp, thì trời cũng đã tối. Tôi ngã người trên thảm cỏ và ngủ thiếp. Sáng ngày hôm sau, tôi thức giấc trong sự mệt mỏi. Khi mặt trời vừa lên, tôi đi lần ra bãi biển. Một cậu bé đang chơi đùa trên cát. Vừa thấy tôi, nó ngẩng đầu lên, mỉm cười như thể đã từng quen biết với tôi. Một lúc sau, nó nói với tôi: “Tôi sẵn sàng thuê anh và bù lại, tôi không có gì để cho anh cả”. Tôi đón nhận ngay giao kèo của cậu bé. Và chúng tôi bắt đầu chơi đùa với nhau trên bãi cát. Những người qua lại ngỏ ý muốn thuê tôi, nhưng tôi từ chối, bởi vì từ ngày hôm đó, tôi mới thực sự cảm thấy mình là một con người tự do.

Không gì quý bằng độc lập tự do: không chừng câu khẩu hiệu quen thuộc này ứng dụng một cách rất xác thực vào đời sống Đức Tin của chúng ta… Chúng ta tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thoát, bởi vì Ngài đến để giải phóng chúng ta, Ngài đến để làm cho chúng ta được tự do. Và tự do mà Ngài mang lại cho chúng ta là gì nếu không phải là tự do khỏi tội lỗi, tự do khỏi đam mê, tự do khỏi ích kỷ, tự do khỏi danh vọng, tiền bạc và tất cả những gì ràng buộc con người…

06 Tháng Bảy

Thiên Chúa Trong Ánh Mắt

Theo một câu chuyện cổ tích của người Nhật Bản, ngày xưa, có một đôi vợ chồng sống rất hạnh phúc bên cạnh một đứa con gái nhỏ. Người chồng là một hiệp sĩ samourai, nhưng anh chỉ sống khiêm tốn trong một khu vườn nhỏ ở đồng quê. Người vợ là một người trầm lặng đến độ nhút nhát. Chị không bao giờ muốn ra khỏi nhà.

Một hôm, nhân dịp lễ đăng quang của Nhật hoàng, với tư cách là một hiệp sĩ, người chồng cảm thấy có bổn phận phải về kinh đô để bái lạy quân vương. Sau khi đã làm xong nghĩa vụ của một hiệp sĩ, anh ghé ra chợ mua quà cho vợ con. Riêng cho người vợ, anh mua một tấm gương soi mặt bằng bạc…

Đón nhận món quà, ngời đàn bà bỡ ngỡ vô cùng: chị chưa bao giờ trông thấy một tấm gương, chị chưa một lần nhìn thấy mặt mình. Do đó, vừa nhìn thấy mặt mình trong gương, người vợ mới ngạc nhiên hỏi chồng: “Người đàn bà này là ai?”. Người đàn ông mỉm cười đáp: “Mình không đoán được đó là gương mặt kiều diễm của mình sao?”.

Một thời gian sau, người đàn bà lâm bệnh nặng. Trước khi chết, bà cầm tay đứa con gái và nói nhỏ: “Mẹ không còn sống trên mặt đất này nữa. Sáng chiều, con hãy nhìn vào tấm gương này và sẽ thấy mẹ”.

Sau khi người mẹ qua đời, sớm tối, lúc nào đứa con gái ngây ngô cũng nhìn vào tấm gương và nói chuyện với chính hình ảnh của nó. Nó nói chuyện với hình trong tấm gương như với chính mẹ nó.

Ngày kia, bắt gặp đứa con gái đáng nói chuyện với chính mình nó trong tấm gương, người cha tra hỏi, đứa con gái mới trả lời: “Ba nhìn kìa, mẹ con không có vẻ mệt mỏi và xanh xao như lúc bị bệnh. Mẹ lúc nào cũng trẻ và cũng mỉm cười với con”.

Nghe thế, người đàn ông không cầm nổi nước mắt, nhưng không muốn cho nó biết sự thật, ông nói với nó: “Nếu con nhìn vào gương để thấy mẹ con, thì ba cũng nhìn vào con để thấy mẹ con”.

Tha nhân chính là tấm gương phản chiếu gương mặt của chúng ta. Khi chúng ta lạc quan, khi chúng ta vui tươi, khi chúng ta yêu đời, khi chúng ta hòa nhã chúng ta sẽ nhận ra nét đó trên khuôn mặt của những người xung quanh. Trái lại, khi chúng ta cau có, khi chúng ta giận dữ, khi chúng ta buồn phiền, khi chúng ta thất vọng, chúng ta cũng sẽ thấy được những nét ấy trên gương mặt của người khác…

Tha nhân cũng chính là hình ảnh của Thiên Chúa. Nếu đứa con có thể nhìn thấy gương mặt khỏe mạnh, vui tươi của người mẹ trong tấm gương, nếu người cha nhìn thấy hình ảnh của người vợ trong đứa con, thì với ánh mắt của tin yêu chúng ta cũng có thể nhìn thấy gương mặt Tình Yêu của Thiên Chúa trong mọi người.

Có Thiên Chúa trong ánh mắt, nhìn thấy Thiên Chúa trong mọi người, chúng ta sẽ thấy rằng đời có ý nghĩa, tha nhân không phải là hỏa ngục đáng xa lánh…

Chúng ta hãy nhìn vào tấm gương của tha nhân với nụ cười của trẻ thơ để luôn luôn nhận ra được bộ mặt Tình Yêu của Thiên Chúa trong mọi người.

07 Tháng Bảy

Để Cho Lòng Tha Thứ Tiếp Tục Hiện Hữu

Chuyện “Nghìn lẻ một đêm” của Ba Tư có kể lại một phiên tòa như sau:

Có hai người anh em ruột nọ bắt chói được thủ phạm giết cha mình. Họ lôi kéo tên sát nhân đến trước quan tòa và yêu cầu xử theo luật mắt đền mắt răng đền răng. Kẻ sát nhân đã dùng đá để ném chết cha của họ, thì hắn cũng phải bị ném đá theo như luật đã quy định… Trước mặt quan tòa, tên sát nhân đã thú nhận tất cả tội lỗi của mình. Nhưng trước khi bị đem ra xử, hắn chỉ xin một ân huệ, đó là được trở về nhà trong vòng ba ngày để giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến một người cháu được ký thác cho hắn trông coi từ nhỏ. Sau thời hạn đó, hắn sẽ trở lại để chịu xử tử… Quan tòa xem chừng như không tin ở lời cam kết của tên tử tội. Giữa lúc quan tòa đang do dự, thì trong đám đông những người tham dự phiên tòa, có một người giơ tay cam kết: “Tôi xin đứng ra bảo đảm cho lời cam kết của tử tội. Nếu sau ba ngày, hắn không trở lại, tôi sẽ chết thế thay cho hắn”.

Tên tử tội được tự do trong ba ngày để giải quyết việc gia đình. Sau đúng kỳ hạn ba ngày, giữa lúc mọi người đang chờ đợi để chứng kiến cuộc hành quyết, hắn hiên ngang bước ra giữa pháp trường và dõng dạc tuyên bố: “Tôi đã giải quyết mọi việc trong gia đình. Giờ đây, đúng theo lời cam kết, tội xin trở lại đây để chịu tội. Tôi muốn trung thành với lời cam kết của tôi để người ta sẽ không nói: Chữ tín không còn trên mặt đất này nữa”.

Sau lời phát biểu dõng dạc của kẻ tử tội, người đàn ông đã đứng ra bảo lãnh cho hắn cũng ra giữa đám đông và tuyên bố: “Phần tôi, sở dĩ tôi đứng ra bảo lãnh cho người này, là vì tôi không muốn để cho người ta nói: Lòng quảng đại không còn trên mặt đất này nữa”.

Sau hai lời tuyên bố trên , đám đông bỗng trở nên thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi để thể hiện những gì là cao quý nhất trong lòng người…

Từ giữa đám đông, hai người thanh niên bỗng tiến ra và nói với quan tòa: “Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta sẽ không còn nói: Lòng tha thứ không còn hiện hữu trên mặt đất này nữa”.

Giữa sa mạc cằn cỗi, một cụm cỏ hay một cánh hoa dại là cả một bầu trời hy vọng cho những người lạc lõng. Giữa sa mạc nóng cháy, một tiếng suối róc rách là cả một nguồn hy vọng tràn trề cho những ai đang đói khát… Giữa một xã hội khô cằn tình người, giữa một xã hội mà những giá trị tinh thần và đạo đức đã bị bóp nghẹt, chứng từ của người tín hữu Kitô cần thiết hơn bao giờ hết. Giữa biển khơi mù mờ, có biết bao kẻ chới với đang cần một chiếc phao của chữ tín, của lòng thành, của lòng quảng đại, của sự tha thứ…

Người tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói; Niềm tin vào cuộc sống, ý nghĩa của cuốc đời vẫn còn cháy sáng giữa xã hội.

Người tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói: Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương con người.

Người tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói: Con người vẫn có thể yêu thương nhau và sống cho nhau.

Người tín hữu Kitô phải sống thế nào để người ta có thể nói: Tôn giáo không là thuốc phiện mê hoặc quần chúng, nhưng là sức mạnh để cải thiện xã hội.

08 Tháng Bảy

Sự Hiện Diện Của Con Dê

Để khuyên chúng ta chấp nhận cuộc sống, người Đức thường kể câu chuyện sau đây:

Có một nhà hiền triết nọ chuyên cố vấn giúp đỡ cho những ai gặp buồn phiền, chán nản trong cuộc sống. Bất cá ai đến xin chỉ bảo cũng đều nhận được lời khuyên thiết thực… Một hôm, có một người thợ may mặt mày thiểu não chạy đến xin cầu cứu. Gia đình ông gồm có ông, vợ ông và bảy đứa con trai nhỏ. Tất cả chen chúc nhau trong một căn nhà gần như đổ nát. Người vợ phải la hét suốt ngày vì bị sự quấy phá của bảy đứa con. Xưởng may của ông lúc nào cũng lộn xộn, bẩn thỉu vì những nghịch ngợm của lũ con. Thêm vào đó là những tiếng la hét, khóc nhè suốt ngày, khiến người thợ may không thể chú tâm làm việc được.

Nghe xong câu chuyện, nhà hiền triết mới đề nghị với người thợ may như sau: “Anh hãy ra chợ mua cho kỳ được một con dê, rồi dắt nó về cột ngay trong xưởng may của anh”. Người đàn ông đàng thương không đoán được ẩn ý của nhà hiền triết, nhưng đặt tất cả tin tưởng vào ông, cho nên anh về thu gom hết tiền của trong nhà để ra chợ mua cho kỳ được con dê.

Chúng ta hãy tưởng tượng: sự hiện diện của con dê trong xưởng may sẽ giúp được gì cho anh ta? Con vật hôi hám ấy không những phóng uế nhơ bẩn lại suốt ngày còn kêu những tiếng không êm tai chút nào. Cái xưởng may chỉ trong một ngày đã biến thành một chuồng súc vật bẩn thỉu không thể chịu đựng được… Người thợ may lại đến than phiền với nhà hiền triết vì sự hiện diện của con dê. Lúc bấy giờ, nhà hiền triết mới bảo anh: “Anh hãy tức khắc mang nó ra chợ và bán lại cho người khác”. Người đàn ông cảm thấy như nhẹ nhõm cả người. Anh dắt con vật ra chợ. Trong khi đó, ở nhà, vợ anh mang nước vào tẩy uế cái xưởng may. Bảy đứa nhóc con của anh bắt đầu trở lại xưởng may và hò hét trở lại. Người đàn ông nhìn xuống xưởng may rồi mỉm cười nhìn mấy cậu con trai của anh đang chạy nhảy la hét. Anh tự nhủ: dù sao, tiếng la hét của mấy đứa con của anh, so với tiếng kêu của con vật dơ bẩn, vẫn dễ chịu hơn… Và chưa bao giờ anh cảm thấy hạnh phúc hơn ngày hôm đó.

Tâm lý thông thường, chúng ta dễ có thái độ “đứng núi này nhìn núi nọ”. Những cái quen thuộc, những cái trước mặt, những cái thường ngày, những cái nhỏ bé thường dễ bị khinh thường…

Mang lấy thân phận con người, sống trọn vẹn kiếp người, Chúa Giêsu mặc cho tất cả mọi thực tại của cuộc sống một ý nghĩa mới, một giá trị mới. Chỉ qua những thực tại từng ngày, chỉ qua các sinh hoạt hàng ngày con người mới có thể gặp gỡ được Thiên Chúa.

Giá trị của mỗi một phút giây hiện tại chính là mang nặng sự hiện diện của chính Chúa. Giá trị của cuộc sống chính là được dệt bằng những gặp gỡ triền miên giữa Thiên Chúa và con người…

Không ai trong chúng ta chọn lựa để được sinh ra. Không ai trong chúng ta chọn lựa cha mẹ và gia đình để được sinh ra. Có người sinh ra trong cảnh giàu sang phú quý. Có người sinh ra trong cảnh nghèo nàn. Có người thông minh. Có ngưòi đần độn… Mỗi người chúng ta đến trong cuộc đời với một hành trang có sẵn. Chúa mời gọi chúng ta đón nhận cuộc đời như một Hồng Ân của Chúa. Ngài mời gọi chúng ta đón nhận từng phút giây của cuộc sống như một ân huệ… Nói như Thánh Phaolô: “Tất cả đều là ân sủng của Chúa”: tất cả đều phải được đón nhận với lòng biết ơn và tín thác.

09 Tháng Bảy

Nụ Hôn Của Đứa Bé

Người Ả Rập thường kể câu chuyện ngụ ngôn như sau:

Một ông lão tên là Bi Quan, đãng trí và vô tình đến độ không còn nhớ được mình đã một lần trải qua tuổi hoa niên. Kỳ thực, cả cuộc sống, dường như ông chưa bao giờ biết sống là gì. Ông đã không học biết sống, cho nên cũng không học chết cách nào cho hợp lý, cho xứng đáng với con người…

Ông không có hy vọng, cũng chẳng có ưu tư. Ông không biết cười cũng chẳng biết khóc. Không gì trên trần gian này có thể gây được sự chú ý và ngạc nhiên cho ông. Suốt ngày, ông ngồi trước cửa lều, nhìn trời mà không biết trời xanh hay trời đục…

Ngày kia, có người tìm đến vấn kế vì nghĩ rằng tuổi đời chồng chất, ông hẳn phải là bậc thông thái khôn ngoan. Không mấy chốc, thiên hạ tuôn đến căn lều để tham khảo ý kiến… Những người thanh niên hỏi ông: “Làm thế nào để có được niềm vui?”. Ông trả lời: “Niềm vui là một bày vẽ của những kẻ ngu dốt”.

Những người có tâm huyết phục vụ đến xin ông chỉ giáo để trở nên người hữu dụng cho xã hội. Họ hỏi ông: “Làm thế nào để xả thân phục vụ người anh em một cách hữu hiệu?”. Ông trả lời: “Ai xả thân hy sinh cho nhân loại, người đó là một thằng điên”.

Các bậc phụ huynh đến hỏi ông: “Làm thế nào để hướng dẫn con cái trên đường ngay nẻo chính?”. Ông trả lời: “Con cái chỉ là loài rắn độc. Chúng chỉ có thể phun ra nọc độc mà thôi”.

Các nghệ sĩ, thi sĩ cũng đến xin chỉ giáo để diễn tả được những gì là cao quý nhất trong tâm hồn, ông trả lời: “Tốt nhất là nên thinh lặng”. Những lời chỉ giáo của con người chưa biết sống, biết yêu, biết chết ấy không mấy chốc được quảng bá trên khắp thế giới. Tình yêu, lòng thiện hảo, nghệ thuật không mấy chốc biến khỏi Trái đất. Cuộc sống con người chìm ngập trong ảm đạm buồn thảm…

Nhận thấy những tai hại do những lời chỉ giáo của ông lão Bi Quan gây ra trên mặt đất, cho nên Thượng đế mới tìm cách chữa trị. Thì ra, suốt cả đời, ông lão này chưa hề nhận được một cái hôn nào. Thế là Thượng đế mới sai một em bé đến với ông lão. Đứa bé đã vâng lệnh Thượng đế, nó tìm đến với ông lão Bi Quan, bá lấy cổ ông và đặt lên gò má sần sù của ông một nụ hôn… Ông lão như sực tỉnh. Lần đầu tiên trong đời, ông biết ngạc nhiên và ngây ngất. Ông mở mắt nhìn đứa bé, nhìn vào cuộc đời, rồi nhắm mắt xuôi tay mà nụ cười vẫn còn tươi nở trên môi nhờ nụ hôn của đứa bé.

Cô đơn là nguyên nhân làm cho con người bi quan. Người cô đơn không những không cảm nhận được tình yêu mà cũng không biết yêu.
Tín hữu Kitô phải là người lạc quan bởi vì họ cảm nhận được Tình Yêu của Chúa và được mời gọi để loan báo và san sẻ tình yêu ấy cho người khác.

Có biết bao nhiêu tâm hồn già nua vì không cảm nhận được tình yêu, vì không tìm thấy ý nghĩa cho cuộc sống. Có biết bao nhiêu tâm hồn khô cằn, chai đá vì không hề nhận được một nghĩa cử yêu thương của những người xung quanh…

Người tín hữu Kitô không những sống lạc quan, nhưng còn có sứ mệnh mang lại tinh thần lạc quan cho những người xung quanh. Có biết bao nhiêu người xung quanh đang chờ đợi một cái mỉm cười, một nụ hôn, một cái bắt tay, một lời chào hỏi, một cử chỉ an ủi, đỡ nâng… Bầu trời của cuộc đời sẽ trong sáng biết bao, nếu người người chỉ biết đối xử với nhau bằng Tình thân ái, sự tử tế, lòng quảng đại, tha thứ…

10 Tháng Giêng

Hạt Giống Của Hy Vọng

Văn hào Shakespeare của nước Anh đã nói rằng: liều thuốc duy nhất còn lại cho những người khốn khổ chính là niềm Hy Vọng. Bao lâu còn hy vọng, bấy lâu con người muốn tiếp tục sống.

Những người Mỹ tại một thành phố nọ thường truyền tụng cho nhau nghe câu chuyện nuôi niềm hy vọng của một gia đình nọ như sau: Có một đôi vợ chồng nọ vừa yêu người cũng lại vừa yêu thiên nhiên. Ngoài năm đứa con ruột thịt ra, họ còn nhận thêm năm đứa con nuôi. Niềm vui chung của mọi người trong nhà là được săn sóc vườn hoa và những thứ cây cảnh trong nhà. Người vợ tưởng chừng như không biết thế nào là đau khổ. Nhưng cả bầu trời như sụp xuống, vườn hoa trở thành hoang tàn, khi người chồng ngộ nạn, qua đời. Kể từ đó, người đàn bà không còn muốn ra khỏi nhà nữa. Thiếu bàn tay săn sóc của bà, ngôi vườn cũng mỗi lúc một tàn lụi.

Mùa đông đến càng làm cho ngày tháng càng thêm ảm đạm hơn. Thế nhưng, một bữa sáng nọ, người đàn bà bỗng nghe tiếng cười nói và cào xới trong ngôi vườn. Kéo tấm màn cửa sổ phòng ngủ lên, bà thấy các con của bà đang hì hục xới đất. Trước sự ngạc nhiên của bà, người con cả trong gia đình chỉ mỉm cười đáp: “Má sẽ biết khi mùa xuân đến”. Và nguyên một mùa đông, ngày nào các con của bà cũng ra vườn để xới đất.

Thế rồi khi mùa xuân đến, bao nhiêu hoa đẹp đều nở rộ trong vườn. Những hạt giống mà những người con đã âm thầm gieo vãi trong mùa đông nay thức giấc bừng dậy làm cho ngôi vườn trở thành tươi mát, sặc sỡ.

Cùng với hạt giống của các thứ hoa, những người con đã gieo vào lòng người mẹ một thứ hạt giống khác: đó là hạt giống của Hy Vọng. Chính niềm hy vọng đó đã đem người đàn bà trở lại cuộc sống và đánh tan mọi buồn phiền trong tâm hồn bà.

Câu chuyện trên đây có lẽ cũng chính là bức tranh của không biết bao nhiêu thăng trầm trong cuộc sống hiện tại của chúng ta. Có những ngày tháng, mọi sự xem chừng như vô vọng. Có những lúc mây mù của khổ đau bao phủ kín khiến chúng ta không còn thấy đâu là lối thoát. Chính trong những lúc đó, chúng ta hãy nhớ đến hạt giống của niềm Hy Vọng. Thánh Phaolô đã viết trong thư gửi cho các tín hữu Rôma như sau: “Chính trong niềm Hy Vọng mà chúng ta được cứu thoát. Chính trong niềm Hy Vọng đó, chúng hãy nhìn thấy Sức Sống đang chờ đợi chúng ta. Chính trong niềm Hy Vọng đó, chúng ta hãy nhìn thấy những hoa trái của những hạt giống mà chúng ta đã vất vả gieo vãi.

Một người Hòa Lan và một người Mỹ bàn về ý nghĩa của hai lá cờ quốc gia. Người hòa Lan phát biểu một cách mỉa mai như sau: lá cờ của chúng tôi có ba màu: đỏ, trắng, xanh. Chúng tôi tức giận đỏ cả người lên, mỗi khi chúng tôi bàn đến thuế má. Chúng tôi run sợ đến trắng bệch cả người mỗi khi chúng tôi nhận được giấy thuế má. Và chúng tôi xanh như tàu lá sau khi đã trả hết các thứ thuế. Người Mỹ cũng nói lên một cảm tưởng tương tự mỗi khi nhận được các thứ giấy đòi nợ, nhưng lại bảo rằng: bù lại, chúng tôi chỉ thấy toàn các thứ sao.

Sao trên bầu trời là biểu hiện của chính niềm Hy Vọng. Bên kia những vất vả thử thách, bên kia những mất mát, bên kia những thất bại khổ đau, phải chăng người Kitô chúng ta không được mời gọi để thấy được các ngôi sao của niềm Hy Vọng.

11 Tháng Bảy

Một Quy Luật Đơn Sơ

Hôm nay Giáo hội tôn kính nhớ thánh Bênêđictô, bổn mạng của toàn thể Châu Âu.

Vào cuối thế kỷ thứ 5, đế quốc La Mã bị lung lay vì cuộc xâm lăng của những người mà thế giới Kitô tại Âu Châu gọi là dân man di.

Một người thanh niên thuộc dòng dõi quý tộc tại miền trung nước Italia muốn trốn thoát khỏi cuộc loạn nhiễu nhương ấy, cho nên đã leo lên ngọn núi Subiaco để dìm mình trong cuộc sống ẩn dật. Chính giữa nơi thanh tịnh thoát tục ấy mà chàng đã nghe được tiếng Chúa phán trong tâm hồn: có nhiều giá trị của đế quốc La Mã cần phải được bảo tồn. Càng ra sức làm việc để đem lại sự thống nhất và văn minh cho các dân xâm lược ấy.

Lấy những thôi thúc ấy làm lý tưởng cho cuộc sống, Bênêđictô, người thanh niên quý tộc ấy đã quy tụ xung quanh mình một số người đồng chí hướng và thiết lập tu viện đầu tiên tại Montecassino.

Chàng đã nói với Mauro, Placido và những người môn đệ đầu tiên như sau: “Chúng ta giam mình trong bốn bức tường kiên cố không phải là để xa cách những người khác, nhưng là để tiếp nhận từ trên cao ánh sáng của Chúa và thông đạt cho thế giới, để học hỏi một cách sâu xa hơn nền văn minh vừa Kitô giáo vừa nhân bản và làm cho nền văn minh ấy chiếu sáng giữa những người anh em của chúng ta. Tôn chỉ của chúng ta là thập giá và cái cày, bởi vì một dân tộc chỉ có thể phát sinh và lớn lên với sự cầu nguyện, nghiên cứu học hỏi và lao động”.

Những điểm chính trong quy luật của chúng ta là: Hát bảy lần một ngày để ca tụng Chúa và làm cho màn đêm tăm tối cũng được ấm cúng với lời ca tụng này. Thứ đến, mỗi ngày bỏ ra nhiều giờ để lao động ngoài đồng áng, học hỏi những sự trên trời và dịch lại những tác phẩm cổ điển. Sau cùng, phục vụ nhau như những người anh em của nhau, nhất là tại bàn ăn, là nơi vừa nghe đọc sách vừa thưởng thức chút rượu.

Vị thánh đã đưa ra chút quy luật đơn sơ trên đây đã được chọn làm bổn mạng của toàn thể Âu Châu, bởi vì nền văn minh của Kitô giáo hiện nay, nền văn minh nhân bản của thế giới ngày nay đã phát sinh từ chính lý tưởng cao quý ấy: sống chung trong yêu thương để ca tụng Chúa và phục vụ con người.

Giữa cơn khủng hoảng của đời sống tu trì như người ta đang chứng kiến hiện nay tại hầu hết các nước Tây phương, người ta lại thấy một dấu hiệu đầy hy vọng: các tu viện sống đời chiêm niệm vẫn tiếp tục thu hút thanh niên thiếu nữ. Giữa một thế giới dư dật, nhưng trống rỗng, hơn bao giờ hết, người ta càng ngày càng cảm thấy có nhu cầu phải cầu nguyện, phải sống kết hợp với Chúa.

Đời sống tu trì, dù bất cứ dưới hình thức nào đi nữa, cũng không là một lẩn trốn đầy sợ hãi trước thế gian… Người tu sĩ đích thực xa lánh thế gian, chứ không xa lánh con người. Người tu sĩ đích thực xa lánh sự sa đọa của thế gian, để rồi lại kiến tạo một xã hội nhân bản hơn, dễ thở hơn, dễ sống hơn.

Đó không chỉ là sứ mệnh của người được Chúa chọn cho cuộc sống chiêm niệm và cầu nguyện, mà cũng là sứ mệnh của mọi người Kitô. Người tín hữu Kitô luôn được mời gọi để thoát tục, để đi ngược lại tinh thần của thế tục, để tiêu diệt nơi mình những sức mạnh của sự dữ để ra sức kiến tạo một thế giới đáng sống hơn. Sống giữa thế giới, nhưng không thuộc về thế gian: đó là thế đứng của người Kitô. Ơn gọi và sứ mệnh của họ là kiến tạo Nước Chúa nghĩa là xây dựng những giá trị vĩnh cửu ngay trên chính những cái chóng qua ở đời này.

12 Tháng Bảy

Những Niềm Vui Nhỏ

Biết tận hưởng những niềm vui nhỏ trong cuộc sống: đó là một trong những bí quyết của hạnh phúc.

Người Nhật Bản thường kể câu chuyện như sau: Một người đàn ông nọ đi qua một cánh đồng, thình lình bị cọp đuổi… Anh ta chạy bán sống bán chết mà vẫn không tìm ra chỗ dung thân. Anh chạy mãi để rồi cuối cùng thấy mình đứng bên bờ vực thẳm. Phía sau lưng, con cọp vẫn không buông tha. Không còn biết làm gì nữa, người đàn ông phải lấy sức để đu lên một cành cây bắc qua vực thẳm. Nhìn xuống dưới thung lũng, anh ta lại thấy một con cọp khác cũng đang nằm chờ chực. Người đàn ông đáng thương chỉ còn niềm hy vọng duy nhất: đó là nằm chờ đợi cho đến khi hai thú vật mệt mỏi bỏ đi… Chờ đợi trong lo sợ vẫn là cực hình lớn lao nhất đối với con người.

Giữa lúc anh ta đang phải chiến đấu với sợ hãi và mệt mỏi, thì tình cờ bỗng có hai con chuột bỗng từ đâu xuất hiện trên chính cành cây anh đang đu vào. Hai con vật bắt đầu gặm nhấm lớp vỏ xung quanh cành cây. Bình thường, chuột là một trong những loài thú mà anh gớm ghiếc nhất vì sự dơ bẩn của nó. Tiếng kêu của nó cũng là một âm thanh làm cho lỗ tai anh khó chịu. Thế nhưng, trong cơn sợ hãi tột cùng này, người đàn ông bỗng nhìn thấy hai con chuột thật đáng yêu. Những hàm răng mũm mĩm của chúng trông dễ thương làm sao! Tiếng kêu của hai con vật cũng trở thành một âm thanh êm dịu hơn tiếng gầm thét của hai con cọp.

Giữa lúc anh đang theo dõi từng động tác của hai con chuột, thì một con chim bỗng từ đâu bay lại, thả rớt trên cành cây một trái dâu rừng. Anh đưa tay nhặt lấy trái dâu và thưởng thức hương vị ngọt ngào của trái rừng bỗng nên thơ đáng yêu lạ lùng.

Thiên Chúa tạo dựng con người để được sống hạnh phúc và hạnh phúc ngay từ trên cõi đời này. Do đó, hạnh phúc không chỉ đến trong cuộc sống mai hậu, hạnh phúc không hẳn nằm ở ngoài tầm tay với con người. Kitô giáo không chỉ hướng chúng ta đến hạnh phúc đời sau, nhưng còn mời gọi chúng ta hưởng niềm hạnh phúc ấy trong cõi đời này.

Mang lấy thân phận con người, nhập cuộc vào trần gian này, Chúa Giêsu như mang hạnh phúc Thiên Đàng đến với con người. Ngài mời gọi chúng ta hưởng niềm hạnh phúc ấy, Ngài nói với chúng ta rằng cuộc sống trần gian này là một cuộc đời đáng sống. Chấp nhận cuộc sống, chấp nhận chính bản thân, chấp nhận ngay cả những nghịch cảnh trong cuộc sống: đó chính là bí quyết của hạnh phúc trên đời này.

Bí quyết của hạnh phúc cũng chính là biết đón nhận những niềm vui nhỏ trong cuộc sống mỗi ngày. Có những ngày tù đày, chúng ta mới thấy được giá trị của hai chữ tự do. Có sống xa gia đình, chúng ta mới nhung nhớ những ngày sống bên những người thân. Có những lúc nằm quằn quại trên giường bệnh, chúng ta mới thấy được giá trị của sức khỏe… Cuộc sống của chúng ta tràn ngập những niềm vui nhỏ mà chỉ khi nào mất đi, chúng ta mới cảm thấy luyến tiếc.

“Hãy quẳng gánh lo đi và vui sống”: đó là lời kêu gọi Chúa Giêsu không ngừng nhắn gửi cho chúng ta khi Ngài mời gọi chúng ta chiêm ngắm hoa huệ ngoài đồng và chim chóc trên rừng… Hãy quẳng gánh lo đi và vui sống có nghĩa là đón nhận từng phút giây trong cuộc sống với cảm mến và hân hoan. Hãy quẳng gánh lo đi và vui sống cũng có nghĩa là biết nhìn thấy xuyên qua những mất mát, thua thiệt, và ngay cả tội lỗi, bàn tay quan phòng nâng đỡ của Chúa… Chúa Giêsu không bao giờ loan báo cái chết một cách riêng rẽ, Ngài luôn gắn liền nó với sự Phục Sinh.

13 Tháng Bảy

Niềm Vui Và Kho Tàng

Theo một bảng thống kê thì hằng năm tại Hoa Kỳ, có khoảng 60 triệu toa bác sĩ cho mua thuốc Valium. Valium hiện nay được xem là loại thuốc an thần công hiệu nhất.

Nói chung, xem chừng như văn minh càng tiến bộ, con người càng bất an. Niềm vui đích thực trong tâm hồn dường như đã vỗ cánh bay xa.

Nhưng an bình và vui tươi là vấn đề sống còn của con người. Đạt được tất cả, có tất cả nhưng không có niềm vui trong tâm hồn, thì sống như thế chẳng khác nào như một thây chết.

Người Ai Cập thời cổ tin rằng khi chết con người phải trình diện trước thần Osires để trả lời cho hai câu hỏi: “Ngươi có tìm thấy niềm vui không? Ngươi có mang lại niềm vui cho người khác không?”. Số phận đời đời của họ tùy thuộc vào cách họ trả lời cho hai câu hỏi ấy.

Số phận đời đời của con người, tương quan của con người với Thiên Chúa tùy thuộc ở niềm vui của họ trong cuộc sống này.

Một ngày kia, người ta hỏi nhạc sĩ Franz Joseph Haydn tại sao nhạc tôn giáo của ông lúc nào cũng vui tươi? Nhà nhạc sĩ tài ba của thế kỷ thứ 18 đã trả lời như sau: “Tôi không thể làm khác hơn được. Tôi viết nhạc theo những cảm xúc của tôi. Khi tôi nghĩ về Chúa, trái tim tôi tràn ngập niềm vui đến nỗi các nốt nhạc như nhảy múa trước ngòi bút của tôi”. Người tín hữu Kitô, theo định nghĩa, không thể không là người của niềm vui. Họ phải vui mừng bởi vì Thiên Chúa chính là gia nghiệp của họ, bởi vì tâm hồn của họ luôn có Chúa.

Trong quyển sách có tựa đề “Những sự thuộc về Chúa Thánh Thần”, Đức Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Đức Kitô đến để mang lại niềm vui: niềm vui cho con cái, niềm vui cho cha mẹ, niềm vui cho gia đình và bạn hữu, niềm vui cho công nhân và trí thức, niềm vui cho người bệnh tật, già cả, niềm vui cho toàn nhân loại. Theo đúng nghĩa, niềm vui là trọng tâm của sứ điệp Kitô và ý lực của Phúc Âm. Chúng ta hãy là sứ giả của niềm vui”.

Nhưng niềm vui không phải là một kho tàng có sẵn: nó đòi hỏi phải được kiến tạo. Người ta kiến tạo niềm vui bằng cách làm cho người khác được vui. Càng chia sẻ, càng trao ban, niềm vui càng lớn mạnh.

Mỗi ngày chúng ta van xin người khác không biết bao nhiêu lần: xin vui lòng. Chúng ta xin người “vui lòng”, nhưng chúng ta lại không muốn làm cho lòng mình vui lên. Nếu chúng ta muốn người khác “vui lòng” để ban ân huệ cho chúng ta, thì có lẽ chúng ta phải làm cho lòng mình vui lên bằng bộ mặt vui tươi hớn hở của chúng ta, bằng những chia sẻ vui tươi của chúng ta, bằng những nụ cười vui tươi của chúng ta, bằng những chịu đựng vui tươi của chúng ta.

14 Tháng Bảy

Tự Do Đích Thực

Trong tập thơ mang tựa đề Gitanjali, thi hào Tagore đã có bài thơ về tù nhân như sau:

“Hỡi tù nhân, hãy nói cho ta hay ai đã xiềng xích ngươi. Tù nhân đáp, thưa chính là chủ tôi. Tôi đã muốn thắng vượt mọi người, bằng của cải và quyền lực, cho nên tôi đã vơ vét vào kho tàng của tôi tất cả tiền bạc của chủ. Mệt mỏi vì cuộc chạy đua theo tiền của tôi, cuối cùng tôi đã thiếp ngủ ngay trên chính giường của chủ tôi. Khi thức dậy, tôi thấy mình đã bị giam hãm ngay trên kho tàng của tôi.

Hỡi tù nhân, hãy nói cho ta hay ai đã rèn chiếc xích sắt này cho ngươi. Tù nhân đáp: tôi đã muốn giam hãm tất cả thế giới, vì như thế tôi sẽ được tự do và không còn ai quấy rầy. Ngày đêm, tôi đã dùng lửa, búa và chiếc dũa để rèn sợi xích này. Khi nó được hoàn thành, và chiếc mốc cuối cùng được nối lại, tôi đã để cho sợi xích giam hãm cả cuộc đời của tôi, khiến không có gì bẻ gãy được”.

Năm 1989, nước Pháp đã mừng kỷ niệm 200 năm cuộc cách mạng 1789. Cùng với việc lật đổ chế độ quân chủ, bản tuyên ngôn nhân quyền được công bố ngày 04 tháng 8 năm 1789 đã đánh dấu một bước dài của nhân loại tiến đến tự do, dân chủ.

Nhưng oái oăm thay, người ta đã nhân danh tự do để chống lại tự do và phạm không biết bao nhiêu tội ác đối với con người. Nhân danh tự do, Robespierre đã giết hại 25 ngàn người cũng như cấm chế nhiều quyền tự do trong đó cơ bản nhất là quyền tự do tôn giáo.

Lịch sử cũng đã được lập lại trong rất nhiều cuộc cách mạng sau này. Mới đây tại Trung Quốc, người ta đã nhân danh tự do dân chủ để đạp đổ Nữ Thần Tự Do và sát hại không biết bao nhiêu người đòi tự do.

Nhân danh tự do để chối bỏ tự do của người khác, nhân danh quyền con người để chà đạp quyền sống của người khác: đó là thảm trạng của không biết bao nhiêu cuộc cách mạng trong thời đại ngày nay. Chính khi con người chối bỏ tự do và chà đạp quyền sống của người khác là cũng chính lúc con người tự giam hãm mình trong nô lệ, nô lệ cho quyền lực, nô lệ cho tiền bạc, nô lệ cho bất an… Lắm khi con người tự rèn lấy cho mình xích xiềng để tự chói lấy mình. Nhà tù ấy, sợi xích ấy chính là lòng tham lam nơi con người: tham lam tiền của, tham lam quyền lực, tham lam danh vọng.

15 Tháng Bảy

Dây Chuyền Của Liên Đới

Một người Ả Rập nọ có một con ngựa rất đẹp… Ai thấy cũng gợi lòng tham muốn. Một người láng giềng tìm đủ mọi cách để mua cho kỳ được con ngựa, nhưng chủ nhân vẫn một mực từ chối. Không còn biết làm cách nào để thuyết phục chủ nhân, người đó đành phải nghĩ ra mưu kế để chiếm đoạt.

Biết người chủ ngựa thường hay đi qua sa mạc, hắn mới cải trang thành một người hành khất nằm rét run bên vệ đường. Người chủ ngựa là một người tốt bụng, gặp bất cứ ai hoạn nạn cũng đều ra tay cứu giúp. Vừa thấy người hành khất, người đó cảm thấy thương hại, mới đề nghị trở về một quán trọ để săn sóc.

Khi người chủ ngựa vừa mở miệng đề nghị, thì tên bất nhân mới than thở: “Đã mấy ngày nay, tôi không có được một hạt cơm trong bụng, lấy sức đâu để leo lên ngựa”. Nghe thế, con người tốt bụng xuống ngựa để giúp người hành khất leo lên lưng ngựa. Nhưng vừa leo lên lưng ngựa, tên bất lương hiện nguyên hình… Hắn giựt dây cương và thúc vào hông ngựa mà chạy… Người chủ ngựa đáng thương chỉ còn biết nhìn theo mà hối tiếc! Nhưng ông cũng cố gắng chạy theo và nói với tên bất lương như sau: “Ngươi đã ăn cắp con ngựa của ta. Nhưng ta sẵn sàng bỏ qua cho. Ta chỉ xin ngươi một điều là đừng bao giờ kể cho bất cứ ai nghe mưu mẹo ngươi đã dùng để cưỡng chiếm con ngựa của ta. Một ngày nào đó, sẽ có những người bệnh thật sự nằm rên rỉ bên vệ đường và kêu cầu sự giúp đỡ. Ta e ngại rằng sẽ không còn ai dám dừng lại để cứu giúp kẻ hoạn nạn nữa”.

Dè dặt, thủ thế, nghi kỵ có lẽ là thái độ thường tình của tất cả những ai đang sống dưới chế độ độc tài. Lừa lọc, phản bội, tố cáo lẫn nhau đã khiến cho lòng người mỗi ngày một thêm khép kín… Sợi dây chuyền của khép kín mỗi lúc một dài ra và quấn lấy con người.

Mỗi một hành động xấu, trong dây chuyền của tình liên đới, đều gia tăng đau khổ cho người khác. Khi tôi lừa đảo, không những hành động của tôi chỉ trực tiếp hãm hại một vài người có liên hệ, nhưng nó cũng góp phần giảm thiểu niềm tin của không biết bao nhiêu người xung quanh. Khi tôi bạo động, không những tôi chỉ xúc phạm đến người trong cuộc, nhưng hành động của tôi cũng xóa mờ đi phần nào lòng tự ái của nhân loại… Tôi là một phần của nhân loại. Cả nhân loại sẽ đau đớn rên rỉ vì một vết thương của tôi cũng như vì một nhát gươm của tôi.

Người Kitô luôn được mời gọi để nhìn nhận hình ảnh của Chúa nơi mọi người và đón nhận mọi người như anh em của mình. Trong cái nhìn ấy, cuộc sống của chúng ta phải luôn hướng đến người anh em của chúng ta: niềm đau của người anh em cũng chính là niềm đau của chúng ta, hạnh phúc của người anh em cũng chính là hạnh phúc của chúng ta.

16 Tháng Bảy

Không Gì Đẹp Bằng…!

Trả lời cho một thanh niên mong mỏi được biết rõ về mình, một cụ già nọ đã kể một câu chuyện như sau:

Ngày nọ, từ một đỉnh núi cao, người ta thấy ở một chân trời xa tắp có hai bóng đen ôm lấy nhau. Một em bé thơ ngây buộc miệng nói: “Hai bóng đen đó là ba với má đang ôm nhau”. Một chàng thanh niên đang mơ mộng phát biểu: “Đó là hai tình nhân đang quấn quýt nhau”. Người có tâm hồn cô đơn thì nhận xét: “Hẳn phải là hai người bạn gặp lại nhau sau hằng vạn thế kỷ xa nhau”. Kẻ có lòng tham lam chỉ nghĩ đến tiền bạc thì lại quả quyết: “Đây hẳn phải là hai thương gia vừa ký với nhau một giao kèo làm ăn”. Một người đàn bà có quả tim trìu mến thì thào thốt lên: “Đây là một người cha trở về từ chiến trận đang ôm lấy đứa con gái của mình”. Một tên sát nhân đứng gần đó góp ý: “Đây phải là hai người đàn ông đấm đá vật lộn nhau trong một cuộc giao chiến một mất một còn”. Một người đàn ông không màng đến những gì đang xảy ra xung quanh mình lên giọng gắt gỏng: “Ai mà biết được họ ôm nhau hay cắn xé nhau”.. Nhưng cuối cùng, một vị thánh có quả tim chứa đầy Thiên Chúa mới mỉm cười giảng hòa: “Không có gì đẹp bằng hai người ôm nhau”.

Kể xong câu chuyện trên đây, cụ già kết luận: “Mỗi một tư tưởng của bạn để lộ bạn là ai. Bạn nên tự vấn lương tâm xem thử bạn thường tưởng nghĩ đến những gì. Hơn bất cứ một bậc thầy nào, những tư tưởng của bạn có thể nói cho bạn biết bạn là ai”.

“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, chúng ta thường trích dẫn câu thơ này của cụ Nguyễn Du để nói lên hình ảnh của tư tưởng, của tâm cảnh đối với ngoại giới. Khi chúng ta vui, cảnh cũng vui lây, người cũng vui lây. Khi chúng ta buồn, cảnh cũng buồn, mà người cũng buồn lây. Khi chúng ta vui, chúng ta muốn cho mọi người cùng vui với chúng ta. Khi chúng ta buồn, chúng ta cũng cảm thấy khó chịu khi người khác vui.

Hãy chất đầy tâm hồn bằng những tư tưởng vui tươi, lạc quan: đó là một trong những bí quyết để được hạnh phúc trên đời này. Riêng đối với người Kitô hữu chúng ta, bí quyết sống hạnh phúc của chúng ta chính là: trở thành Đền thờ sống động của Chúa. Có Chúa ngự trị trong tâm hồn, chúng ta sẽ nhìn đời, nhìn người bằng chính cái nhìn của Ngài.

17 Tháng Bảy

Điều Quý Giá Nhất Trên Đời

Có hai người lái buôn và cũng là hai người bạn thân quyết chí lên đường đi tìm cho kỳ được điều quý giá nhất trên trần gian này. Mỗi người ra đi một ngả và thề thốt sẽ gặp lại nhau sau khi đã tìm được điều quý giá nhất ấy.

Người thứ nhất lặn lội đi tìm cho kỳ được viên ngọc mà ông cho là quý giá nhất trên trần gian này. Ông băng rừng, vượt biển và không bỏ sót thành phố, làng mạc nào mà không ghé qua. Bất cứ nơi nào có bán đá quý, ông đều tìm tới. Cuối cùng, ông mãn nguyện vì đã tìm được viên ngọc mà ông cho là quý giá nhất trần gian. Ông trở lại quê hương và chờ đợi người bạn của ông.

Nhiều năm trôi qua mà người bạn của ông vẫn biệt vô âm tín. Thì ra điều ông đi tìm kiếm không phải là vàng bạc, châu báu, mà là chính Chúa. Ông đi khắp nơi để thọ giáo những bậc thánh hiền. Ông cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm, nhưng vẫn không tìm gặp được Chúa.

Ngày nọ, ông đến ngồi thẫn thờ bên một dòng sông. Nhìn dòng nước trôi lững lờ, ông bỗng thấy một con vịt mẹ và một đàn vịt con đang bơi lội. Đàn vịt con tinh nghịch cứ muốn rời mẹ để đi kiếm ăn riêng. Đi tìm con này đến con nọ, con vịt mẹ cứ phải lặn lội đi tìm đàn con mà không hề tỏ dấu giận dữ hay gắt gỏng… Nhìn thấy cảnh vịt mẹ cứ mãi đi tìm con như thế, người đàn ông mỉm cười và đứng dậy trở về quê hương.

Vừa gặp nhau, người bạn đã tìm được viên ngọc quý mới buột miệng hỏi trước: “Cho tôi xem thử điều quý giá nhất mà anh đa tìm được. Tôi nghĩ đó phải là điều tuyệt diệu, bởi vì gương mặt anh dường như đang nở nụ cười mãn nguyện chưa từng thấy”.

Con người trở về với hai bàn tay trắng, nhưng tâm hồn tràn ngập hân hoan trả lời: “Tôi đã đi tìm Chúa và cuối cùng tôi đã khám phá ra rằng chính Ngài là Đấng đi tìm tôi”.

Có con vịt mẹ đi tìm con không biết mệt mỏi, có lời loan báo của sứ thần cho các mục tử trong đêm Giáng Sinh, có ánh sao lạ dẫn đường chỉ lối cho các nhà đạo sĩ… Có trăm phương nghìn cách qua đó Thiên Chúa không ngừng đi tìm con người và ngỏ lời với con người.

Thiên Chúa không ngừng đi tìm kiếm và ra dấu cho con người. Ngài ra dấu cho chúng ta qua muôn kỳ công trong vũ trụ. Ngài ra dấu cho chúng ta qua những khám phá kỳ diệu của con người. Ngài ra dấu cho chúng ta qua những thiện chí thực thi tình người của chính con người… Bao nhiêu vẻ đẹp là bấy nhiêu những vì sao dẫn đường chỉ lối cho con người.

Nhưng Thiên Chúa không dẫn đường chỉ lối bằng những ánh sao lạ, Ngài còn mời gọi chúng ta bằng những tiếng gọi âm thầm. Có tiếng gọi âm thầm của buổi bình minh, của chiều tà, của những đêm không trăng sao. Có tiếng gọi âm thầm của một nụ cười vừa hé mở. Có tiếng gọi âm thầm của tiếng khóc câm lặng. Có tiếng gọi âm thầm của những mất mát, đổ vỡ.

Mỗi một khoảnh khắc qua đi là một tiếng gọi âm thầm. Phải, Ngài đang có mặt trong từng phút giây của cuộc sống chúng ta, bởi vì tên của Ngài là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

18 Tháng Bảy

Tình Yêu Mời Gọi

Vua Friedrich Wilhelm cai trị nước Phổ vào khoảng đầu thế kỷ thứ 18. Ông nổi tiếng là người nóng nảy khó tính. Ông không thích những nghi thức rườm rà. Ông chỉ thích đi dạo một mình giữa các đường phố Berlin. Thích sống đơn giản, nhưng ông lại rất nhạy cảm với bất cứ một sự xúc phạm nào của thần dân. Nếu chẳng may có người nào chạm đến ông giữa đám đông, ông sẽ không ngần ngại dùng gậy đập túi bụi vào người đó. Thành ra, khi thấy đức vua đang đi đến, mọi người đều tìm cách lẩn tránh.

Lần kia, khi ông dang đi giữa phố Berlin, một người đàn ông đang đi tới, bỗng lẩn tránh đi nơi khác. Vừa ngạc nhiên, vừa bực tức vì dân chúng lẩn tránh mình, vua Friedrich mới chận người đàn ông lại và hỏi lý do tại sao ông ta lẩn tránh đi nơi khác. Người đàn ông luống cuống mãi, cuối cùng đành phải thú nhận rằng sở dĩ ông ta lẩn tránh nhà vua là vì sợ hãi. Nghe đến đó, vua Friedrich nổi tam bành, ông túm lấy vai người đàn ông đáng thương, vừa lắc mạnh, vừa thét lên: “Tại sao ngươi dám sợ ta. Ta là vua của ngươi. Ngươi phải yêu mến ta. Ngươi phải yêu mến ta, ngươi có biết điều đó không?”.

Chỉ có con người mới biết yêu bởi vì chỉ có con người mới có tự do. Không ai có thể cưỡng bách người khác phải yêu mình… Tạo dựng con người có tự do, Thiên Chúa vẫn luôn tôn trọng tự do ấy. Ngài không cưỡng bách con người phải yêu mến Ngài, nhưng chỉ mời gọi và tỏ tình. Bằng công cuộc tạo dựng, bằng cuộc sống và cái chết của Con Một Ngài, Thiên Chúa đã tỏ tình với con người… Tình yêu luôn đi bước trước. Bước trước ấy là một lời nói, một ánh mắt, một nụ cười, một món quà, một nghĩa cử.

19 Tháng Bảy

Đôi Cánh Thiên Thần

Một người Nga, sai khi mãn tù, đã kể lại tâm trạng mình như sau: Dáng vẻ bên ngoài của tôi xấu xí đến độ không có ai muốn gần tôi. Trong thời gian lao động cải tạo, thay vì làm trại chung với các trại viên khác, tôi đã tự giam mình dưới hầm… Tình cờ một tai nạn xảy ra, khiến tôi bị gù lưng.

Một ngày kia, có một cậu bé nhìn tôi thật lâu rồi hỏi một cách ngây thơ: “Chú ơi, chú mang cái gì trên lưng thế?”. Tôi nghĩ rằng cậu bé chế nhạo tôi, dù vậy tôi bình thản trảlời: “Cục bướu đấy cháu ạ”.

Tôi chờ đợi cậu be tiếp tục trò chơi gian ác của nó… Nhưng không, nó nhìn tôi một cách trìu mến và nói: “Không phải thế đâu chú ạ. Chúa là tình yêu. Ngài không cho ai hình thù kỳ dị cả. Không phải chú có cục bướu đâu. Chú đang mang trên lưng một cái hộp đó. Trong cái hộp, có dấu đôi cánh của Thiên Thần… Rồi một ngày nào đó, cái hộp mở ra và chú sẽ bay lên trời với đôi cánh đó”. Ý nghĩ ngộ nghĩnh của cậu bé đã làm tôi sung sướng đến khóc thành tiếng.

Biết nhìn xa hơn đằng sau mặt nạ của mỗi người: đó là cái nhìn của thánh nhân. Thánh nhân là người biết nhìn thấy Thiên Chúa trong những nỗi bất hạnh, là người biết nhìn thấy sự may mắn ngay cả trong những mất mát, thua thiệt và nhất là biết nhìn thấy Thiên Chúa trong những người không ai muốn nhìn đến… Nhưng để được cái nhìn ấy, người ta cần có cái nhìn thông suốt và tràn ngập ánh sáng của Thiên Chúa.

20 Tháng Bảy

Ai Cũng Có Lý

Cách đây không lâu, tại nhà của một quan tòa ở Milano, bên Italia, đã xảy ra một câu chuyện như sau: Có hai người tranh chấp với nhau lâu ngày, cuối cùng đã đưa nhau đến quan tòa của thành phố nhờ phân xử dùm. Người thứ nhất trình bày câu chuyện và tự biện hộ cho mình. Anh vừa dứt lời thì quan tòa dõng dạc tuyên bố: “Anh có lý”. Đến lượt người thứ hai phân trần, anh cũng đem ra mọi lý lẽ để làm nghiêng cán cân công lý về phía mình. Sau kho nghe anh trình bày dông dài, quan tòa cũng tuyên bố: “Anh có lý”.

Cậu con trai nhỏ của quan tòa theo dõi câu chuyện từ đầu. Nó ngạc nhiên vô cùng: làm thế nào cả hai đều có lý cả? Quan tòa cũng đưa ra phán quyết về nhận xét của con mình như sau: con cũng có lý. Mỗi người chúng ta ai cũng có lý của mình, nhưng có lẽ chúng ta không muốn nhận ra phần có lý của người khác cũng như chính phần lỗi của mình. Và đó chính là đầu mối của mọi bất hòa.

Vô nhân thập toàn, nhưng cũng không có ai là người xấu hoàn toàn. Nếu chúng ta biết khiêm tốn nhận ra những giới hạn của mình và chấp nhận giá trị của người khác, thì có lẽ chúng ta sẽ không bất mãn về người khác cũng như đối với chính mình. Cuộc sống chỉ có thể thở được nếu mỗi người chúng ta biết cư xử bằng sự cảm thông và tha thứ.

21 Tháng Bảy

Lúa Mì VàHoa Mồng Gà

Hòa Lan là một nước nổi tiếng về hoa. Ở phía bắc Hòa Lan, có những cánh đồng hoa chạy dài tắp tít vượt cả tầm nhãn giới. Nhiều loại hoa sặc sỡ tuyệt đẹp làm say mê khách du lịch. Phía nam của Hòa Lan, trái lại, chỉ có những cánh đồng lúa mì bát ngát và khi lúa chín thì khắp nơi chỉ còn là một màu vàng ối làm nổi bật màu đỏ tím của những bông hoa mồng gà.

Cảnh đó đẹp với thi sĩ và họa sĩ nhưng rất đáng buồn đối với nông gia vì mồng gà càng sặc sỡ thì vụ lúa càng kém. Chẳng có cách nào nhổ hết được những cây mồng gà này mà không làm hư hại lúa, đằng khác hoa mồng gà càng nhiều và càng đẹp thì khách du lịch càng làm hư hại lúa nhiều, mỗi khi họ nhảy xuống ruộng để hái hoa.

Sự chung đụng của lúa mì và hoa mồng gà: đó là bức tranh tuyệt hảo của nhân loại chúng ta. Thiên Chúa tạo dựng lúa mì để nuôi sống chúng ta, nhưng Người cũng cho hoa mồng gà mọc lên để làm vui mắt chúng ta. Có lúa mì thì cũng có hoa mồng gà. Có nhà nông thì cũng có thi sĩ, họa sĩ.

Thiên Chúa cho nắng mưa hòa nhịp với nhau. Người nông gia không thể đòi hỏi chỉ có mưa cho lúa tốt. Người nghệ sĩ không thể đòi hỏi chỉ có ánh mặt trời… Sống là biết chấp nhận sự đa diện của vũ trụ như một bức tranh tuyệt hảo. Sống là biết lấy đau khổ, mất mát của mình làm hạnh phúc cho người khác.

22 Tháng Bảy

Người Bị Mạo Nhận

Ngoại trừ Mẹ Của Chúa Giêsu, trong các Phúc Âm ít có phụ nữ nào được viét đến nhiều và với đầy sự tôn kính bằng thánh nữ Maria Madalena mà Giáo Hội mừng lễ hôm nay.

Tuy nhiên, người ta có thể gọi Maria Madalena là thánh nữ của sự vu oan vì tuy các Phúc Âm nói đến ba phụ nữ cùng mang tên Maria, nhưng truyền thống trong Giáo hội Tây phương đồng hóa cả ba thành một người phụ nữ duy nhất. Bởi lẽ đó, Maria Madalena cũng được cho là người phụ nữ tội lỗi không được nêu tên trong đoạn 7 của Phúc Âm thánh Luca, người đã bất chợt đem bình dầu thơm xức chân Chúa Giêsu rồi lấy tóc lau và sau đó được Chúa Giêsu tha thứ mọi tội lỗi, vì bà đã yêu mến nhiều.

Ngày nay, người ta phân biệt ba thánh nữ mang cùng một tên Maria, mà từ lâu lịch phụng vụ của Giáo Hội Hy Lạp đã kính riêng rẽ. Đó là Maria làng Batania, chị bà Martha và ông Lazarô. Rồi người phụ nữ đã được tha nhiều vì yêu mến nhiều và sau cùng là bà Maria Madalena, hoặc Maria làng Madala, người được Chúa chữa khỏi “7 quỷ dữ”. Cách nói “7 quỷ dữ” này không thể hiểu là Maria Madalena đã sống một cuộc đời vô luân, nhưng chỉ có nghĩa là bà bị quỷ ám nặng nề.

Đoạn 8 của Phúc Âm thánh Luca thuật lại hoạt động của thánh nữ Maria Madalena và một ít phụ nữ khác như sau: “Sau đó, Chúa rảo qua các thành, các làng mà rao giảng… Có nhóm Mười Hai đi với Ngài và ít phụ nữ đã được chữa lành khỏi quỷ dữ cùng bệnh hoạn: Maria gọi là người Madala, đã được đuổi khỏi 7 quỷ dữ và Gioanna… cùng nhiều bà khác: Họ đã lấy của cải mình mà trợ giúp Ngài”.

Và con đường nối gót theo thầy Giêsu đã dẫn Maria Madalena từ Galilêa đến Giuđêa, cho tới chân thập giá và chính Marian Madalena cũng là người trước tiên tìm đến mộ Thầy, vào sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, để được thấy Chúa Giêsu Phục Sinh và được trao cho nhiệm vụ đi báo cho các tông đồ: “Hãy đi gặp anh em Ta và nói với họ: Ta lên cùng Cha ta và cũng là Cha anh em, Thiên Chúa của ta và Thiên Chúa của anh em”.

Theo truyền thống Hy Lạp, sau này Maria Madalena đến sống tại Êphêsô cho đến khi qua đời.

Trải qua nhiều thế kỷ, thánh nữ Maria Madalena bị mạo nhận là người đàn bà tội lỗi. Nhưng thiết nghĩ: Thánh nữ chỉ mỉm cười và xác quyết rằng: “Sự mạo nhận này cũng không có gì là quá đáng, vì chúng ta tất cả là những người tội lỗi, cần thống hối ăn năn và cần ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nhưng quan trọng hơn là chúng ta hãy chấp nhận sứ mệnh rao truyền Tin Mừng Phục Sinh qua cuộc sống chứng tá của chúng ta”.

23 Tháng Bảy

Những Lọ Đựng Muối Tiêu

Sưu tầm là một giải trí rất phổ thông hiện nay. Người ta sưu tầm tem, nhãn hiệu, lon bia, chai lọ, sách quý… và lâu lâu đem triển lãm.

Tại một nhà thờ nọ tại Chicago bên Hoa Kỳ, trong một cuộc triển lãm các vật sưu tầm, người ta thấy có cả một khu dùng để triển lãm các lọ đựng muối tiêu. Một ông khách nọ vừa bước vào, sau khi mua một cái bánh Hamburger ở cửa vào, đã vội vã đi một vòng quan sát. Khi tới khu triển lãm các lọ đựng muối tiêu, ông mới sực nhớ ra cái Hamburger của mình nhạt quá. Thế là ông đã cầm lấy một lọ muối và xốc nhiều lần. Nhưng xốc đến lọ thứ mười hai mà ông vẫn chưa thấy muối. Ông đành phải trở lại cửa xin người bán hàng cho ít muối và phàn nàn: “Gần hai trăm cái lọ muối thế kia mà không có lấy một hột muối”.

Đó là hình ảnh của cuộc đời Kitô chúng ta. Mang lấy danh hiệu là muối đất, nhưng lắm lúc chúng ta chỉ là những lọ trống không. Muối dùng để ướp đồ ăn cho khỏi ươn thối. Muối dùng để sát trùng, chữa những vết thương. Muối dùng để nêm cho thức ăn được thêm đậm đà…

Trong một xã hội đang thối rữa vì những tệ đoan, người Kitô cần phải là muối để thanh tẩy và đem lại cho cuộc sống thêm đậm đà hương vị. Một lời nói, một hành động của chúng ta, nếu có chút muối của Đức Tin, Đức Ái sẽ mang lại cho những người xung quanh niềm vui và sức sống.

24 Tháng Bảy

Một Lời Thề Hứa

Từ tháng 5 đến tháng 7 năm 1990 vừa qua, du khách trên khắp thế giới đã đổ xô về làng Oberammergau bên Tây Đức để thưởng thức tuồng Thương Khó Chúa Giêsu… Việc diễn tuồng Thương Khó này là một lời thề hứa mà dân làng Oberammergau đã trung thành giữ từ trên 400 năm nay.

Năm 1633, một nạn dịch khủng khiếp đã giết hại không biết bao nhiêu sinh mạng trong vùng Bavaria. Để đề phòng nạn dịch, dân làng Oberammergau đã đóng kín các cửa làng để không một người lạ mặt nào có thể lọt vào trong làng… Chẳng may, một người đào huyệt trong làng đã bị lây. Anh ta quyết định được chết trong ngôi làng thân yêu của mình. Anh đã qua mắt được những người canh cửa để lọt vào trong và rồi lây bệnh cho nhiều người khác trong làng…

Chỉ trong vòng hai tuần lễ, 88 người dân làng đã bị thiệt mạng, ngay cả hai vị linh mục trong xứ cũng không tránh khỏi ôn dịch. Một vị linh mục khác được sai đến. Dân làng không biết làm gì khác hơn là cùng với vị linh mục đến trước Thánh Thể Chúa để thề hứa. Qua sự cam đoan của linh mục chính xứ cũng như của những người đại diện, toàn dân đã cam kết rằng nếu được Chúa cho tai qua nạn khỏi, họ sẽ trình diễn tuồng Thương Khó của Chúa cứ 10 năm một lần…

Năm 1634, nghĩa là một năm sau khi nạn dịch chấm dứt, dân làng Oberammergau đã giữ lời hứa với Chúa. Già trẻ lớn bé, tất cả mọi người trong làng đã sốt sắng tham dự vào việc trình diễn tuồng Thương Khó. Lần trình diễn đầu tiên ấy chỉ thu hút được khoảng 200 khán giả đến từ các làng lân cận. Và kể từ năm 1680, họ đã quyết định trình diễn 10 năm một lần. Đến năm 1770 thì khách thập phương đã bắt đầu đổ xô về Oberammergau…

10 năm một lần: khoảng cách của 10 năm là để dân làng được chuẩn bị chu đáo hơn. Diễn viên của vở tuồng phải là người dân làng. Các nhân vật được chọn lựa và huấn luyện kỹ càng. Riêng người được chọn đóng vai Chúa Giêsu và Đức Mẹ sẽ được dân làng chào hỏi một cách kính cẩn bằng chính danh hiệu của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Và trong suốt thời gian chuẩn bị cũng như trình diễn, tất cả mọi nhân vật đều được mời gọi để sống chính tâm tình của các nhân vật lịch sử trong vở tuồng… Vì là một lời thề của tổ tiên để lại, cho nên đêm trước buổi trình diễn đầu tiên, toàn dân làng sẽ tham dự Thánh lễ và sốt sắng rước Mình Thánh Chúa. Buổi tình diễn sẽ bắt đầu vào lúc 8 giờ sáng và kết thúc vào lúc 5 giờ chiều… Và vì đây là một buổi trình diễn có tính cách tôn giáo, cho nên toàn dân làng Oberammergau không cho phép bất cứ một cuộc thu hình nào.

Kinh thánh thuật lại rằng trên đường tiến về Đất Hứa, có lần nhiều người Do Thái bị rắn cắn chết giữa sa mạc.. Chúa đã truyền lệnh cho Môi Sen đúc một con rắn đồng và treo lên cây. Tất cả những ai bị rắn cắn nhìn vào con rắn đồng ấy đều được chữa lành…

Chúa Giêsu đã ví con rắn đồng ấy với chính Ngài bị treo trên thập giá. Ngài mời gọi chúng ta hãy ngắm nhìn Ngài trong cảnh bị treo ấy. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá đã gắn liền với tội lỗi của từng người trong chúng ta. Người dân làng Oberammergau đã hiểu được mối tương quan ấy. Họ diễn lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu để tưởng nhớ công lao cứu sống của Ngài.

Một cách nào đó, mỗi người chúng ta cũng là một diễn viên của vở tuồng Thương Khó Chúa Giêsu. Mỗi người chúng ta được mời gọi để sống chính tâm tình của Chúa Giêsu. Tân tình của Chúa Giêsu trong cuộc khổ nạn chính là cảm mến, vâng phục, yêu thương đối với Chúa Cha và quảng đại, tha thứ đối với tha nhân. Ngắm nhìn Ngài trên thập giá, chúng ta cũng được mời gọi sống lại tâm tình ấy. Và đó cũng chính là sức sống của người Kitô chúng ta, bởi vì người Kitô luôn được mời gọi để sống cho Thiên Chúa và tha nhân…

25 Tháng Bảy

Hạt Giống Rơi Xuống Đất Có Thối Đi…

Giacôbê, vị thánh mà Giáo Hội kính nhớ hôm nay là con ông Giêbêđê và bà Salomê và là anh của thánh Gioan tông đồ. Người ta quen gọi thánh Giacôbê Tiền để phân biệt với thánh Giacôbê, giám mục đầu tiên của Giêrusalem, được gọi là Giacôbê Hậu, kính ngày 03/5 cùng với thánh Philipphê.

Giacôbê và Gioan là hai anh em được Chúa Giêsu kêu gọi sau khi Ngài đã chiêu mộ hai anh em Phêrô và Anrê. Phúc Âm thánh Matthêu thuật lại: Hai anh em ông được Chúa gọi ở bờ hồ Genezareth, trong lúc đang ở trong thuyền vá lưới với cha. Được Chúa gọi, hai ông bỏ thuyền và người cha để theo Chúa ngay lập tức. Điều này chứng tỏ lòng hăng hái nhiệt thành của hai anh em, nên hai người được Ngài cho biệt hiệu là “con cái của sấm chớp” như chúng ta thấy xảy ra ít là trong hai trường hợp sau đây:

Trường hợp thứ nhất khi người xứ Samaria ngăn cản không cho Chúa Giêsu và đoàn môn đệ đi qua lãnh thổ của họ để tiến về Giêrusalem, hai anh em Giacôbê đã hỏi Thầy: “Thưa Thầy, Thầy có bằng lòng để chúng tôi khiến lửa trên trời xuống thiêu hủy họ không?”.

Sau đó, trong chuyến đi Giêrusalem lần cuối cùng, cả hai đã đến xin ngồi bên phải và bên trái Thầy, khi Chúa Giêsu sẽ thống trị trong vinh quang. Và khi không hiểu hoàn toàn ý nghĩa câu hỏi của Chúa: “Anh em có uống được chén Ta sẽ uống không?”, hai ông đã nhất quyết thưa: “Chúng tôi uống được”. Vì thế, sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, như các môn đệ khác, Giacôbê cũng can đảm làm chứng những điều mắt thấy tai nghe về Thầy Giêsu, dầu bị cầm tù, đòn vọt, nhưng đã vui mừng vì được đau khổ vì Chúa Giêsu.

Năm 42, vua Hêrôđê, cháu của Hêrôđê cả, người đã âm mưu giết con trẻ Giêsu, đã bách hại một số thủ lĩnh của các tín hữu Kitô, trong số đó có cả thánh Giacôbê, như sách Tông Đồ Công Vụ ghi: “Cùng thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay bắt bớ và làm khổ mấy người trong Giáo Hội, vua đã truyền chém ông Giacôbê, anh của ông Gioan. Thấy điều này làm vừa lòng người Do Thái, ông lại bắt cả ông Phêrô nữa”.

Với nguồn tin này, chúng ta biết thánh Giacôbê là vị tông đồ đầu tiên đã đổ máu đào minh chứng cho niềm tin của mình.

Trong thời nội chiến 1936-1939 tại Tây Ban Nha, các quân phiến loạn đốt nhà thờ, nhà thương, tu viện và giết hại nhiều linh mục cũng như nữ tu. Ngày nọ, một vị linh mục già nua bị phiến quân bắt và bị kết án tử hình. Khi bị trói và dẫn đến trước mặt đội lính hành quyết, cha nói với tên trưởng toán: “Xin anh làm ơn cắt dây trói này, để tôi có thể giơ tay chúc lành cho anh và xin Thiên Chúa cũng tha thứ và chúc lành cho các anh”.

Lịch sử ghi nhận đa số các tông đồ đã kết thúc cuộc đời chứng tá cho niềm tn bằng những cái chết đau thương, khởi đầu cho những lớp người chứng tá khác trải qua bao thế hệ. Và cũng như vị linh mục trong câu chuyện trên, hàng trăm, hàng ngàn chứng nhân của niềm tin vẫn còn đang bị giam cầm, tra vấn, đày đọa vì niềm tin. Họ chấp nhận những khổ hình một cách bình thản, không oán hận, trái lại, noi gương Chúa Giêsu, họ sẵn sàng tha thứ cho những ngươi làm khổ họ.

“Hạt giống rơi xuống đất có mục nát và chết đi, mới nảy mầm và phát sinh hoa trái”. Không gì minh chứng hùng hồn cho lời tuyên bố này của Chúa Giêsu bằng những cuộc sống chứng tá của các tín hữu Kitô đang chịu đau khổ, giam cầm và tử hình vì niềm tin.

Tử đạo là một ơn gọi đặc biệt, nhưng mọi tín hữu Kitô đều được kêu gọi dâng những ốm đau, bệnh tật, những hy sinh nho nhỏ hằng ngày để cầu cho Nước Cha được trị đến.

26 Tháng Bảy

Vết Sẹo Nơi Bàn Chân

Ông Khấu Chuẩn, người đời nhà Tống, đất Hạ Bì, lúc nhỏ là một cậu bé lêu lổng, ham chơi. Bà mẹ vốn là người nghiêm khắc, nên thường hay quở phạt ông. Tuy nhiên, tính nào vẫn tật ấy, Khấu Chuẩn vẫn không thay đổi. Một hôm, ông trốn học đi chơi, bà mẹ giận quá cầm quả cân ném phải chân ông, máu chảy đầm đìa… Từ đó, ông đã bỏ hẳn tính lêu lổng phóng túng, chỉ lo chuyên cần học tập. Về sau đỗ đạt, ông được bổ làm tể tướng. Mỗi khi sờ đến vết sẹo ở bàn chân, ông khóc nức nở: “Chính vết thương này đã làm ta nên người”.

Sống là một cuộc chiến đấu không ngừng. Thương tích dường như là một điều thiết yếu trong cuộc sống. Vấp ngã là điều thường tình trong thân phận con người. Chúng ta không nhìn lại những vết sẹo trong tâm hồn để nuối tiếc quá khứ, nhưng để nhận rõ dấu chỉ của một tình thương bao la cao cả hơn. Phải, Thiên Chúa mạnh hơn sự chết và tội lỗi của con người. Nói như thánh Phaolô: nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi đó ân sủng của Chúa càng dồi dào.

27 Tháng Bảy

Ánh Sáng Cho Đền Thờ

Tại một khu phố cổ của Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền Ấn Giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không bao giờ được đốt lên thường xuyên. Dù vậy, từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, người ta thấy có treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu. Bình thường, ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng, cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn soi lối để đi qua các khu phố, họ cũng mang chính ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong đền thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, thì ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách kỳ lạ…

Ngôi đền thờ chỉ sáng lên nhờ chính những ngọn đèn mà các tín hữu mang đến. Đó có lẽ phải là hình ảnh đích thực của đời sống đạo chúng ta.
Chúng ta lãnh nhận đức tin từ một cộng đồng Giáo Hội và đức tin của chúng ta chỉ có thể sống và lớn mạnh trong cộng đồng Giáo Hội mà thôi. Không ai có thể là người tín hữu Kitô mà có thể ở ngoài Giáo Hội.

Cộng đồng giáo xứ nơi chúng ta được sinh ra và lớn lên trong đức tin thường được biẻu trưng bằng một ngôi thánh đường. Chính nơi đó người tín hữu Kitô gặp gỡ nhau, chính nơi đó, người tín hữu Kitô chia sẻ và củng cố đức tin cho nhau. Ngôi thánh đường sẽ chỉ là một đền thờ lạnh tanh và tăm tối nếu mỗi người tín hữu không mang đến chính ánh sáng của mình. Mỗi người một ít, nhưng chính nhờ sự đóng góp ấy mà ngôi đền thờ trở nên rực sáng và tràn đầy sức sống.

Mỗi một người tín hữu Kitô trong cộng đồng Giáo Hội cũng giống như một ánh đèn chiếu sáng trong tay để làm cho ngôi thánh đường của cộng đồng giáo xứ được sáng lên.

28 Tháng Bảy

Những Kỷ Niệm Nhỏ

Tổng thống Wilson của Hoa Kỳ, người đã đưa nước Mỹ can thiệp vào thế chiến thứ I, là người rất thận trọng đối với những kỷ niệm nhỏ.

Lần kia, ông và phu nhân cùng với nhiều nhân vật cấp cao trong chính phủ dừng lại một thành phố thuộc tiểu bang Montana.

Cảnh sát làm hàng rào không cho bất cứ ai đến gần vị tổng thống. Nhưng, không hiểu làm thế nào mà có hai cậu bé đã chui lọt hàng rào cảnh sát để đến gần chỗ ngồi của tổng thống. Hai cậu bé ngắm nhìn một cách say sưa vị nguyên thủ quốc gia. Một cậu bé tìm cách tặng cho kỳ được lá cờ nhỏ bé của nước Mỹ mà em đang cầm trên tay. Cảnh sát cố tình ngăn chận cậu bé, nhưng bà Wilson đã đưa tay đón lấy lá cờ và vẫy tay em một cách nhiệt tình.

Cậu bé khác cảm thấy buồn hiu vì em không có gì để dâng tặng cho tổng thống. Em cố gắng mò mãi trong túi quần và cuối cùng lôi ra được một đồng xu nhỏ. Em cố gắng vượt qua mọi chướng ngại để chạy đến trao cho tổng thống. Em sung sướng vô cùng, bởi vì chính tổng thống Wilson là người chìa tay ra để đón nhận món quà của em với tất cả trang trọng.

Năm năm sau, tổng thống Wilson qua đời. Bà Wilson xếp đặt lại các đồ dùng quen thuộc của chồng. Mở chiếc ví của ông, bà thấy có một bọc giấy được giữ gìn cẩn thận. Tháo chiếc bọc giấy, bà nhận ra ngay tức khắc đồng xu nhỏ mà cậu bé đã tặng cho chồng bà cách đây năm năm. Ông quý đồng xu nhỏ ấy đến độ đi đâu ông cũng mang nó theo.

Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Ngài giàu có biết bao, nhưng những đồng xu nhỏ mà chúng ta trao tặng cho Ngài, Thiên Chúa đón nhận và cất giữ như báu vật… Một Thiên Chúa giàu sang dường như không ưa thích của cải dư dật của chúng ta cho bằng những đồng xu nhỏ của lòng thành, sự quảng đại, những âm thầm hy sinh, phục vụ quên mình của chúng ta…

Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy được cái nhìn trang trọng của Chúa đối với lòng thành của con người. Lần kia, Ngài vào đền thờ và quan sát những người đang dâng cúng tiền của. Ai ai cũng bỏ tiền vào hòm, chợt có một người đàn bà góa chỉ bỏ có một đồng xu nhỏ. Vậy mà Ngài đã tuyên bố: Người đàn bà này đã dâng cúng nhiều hơn ai hết, bởi vì trong khi mọi người bố thí những của dư thừa của mình, còn người đàn bà nghèo này lại dâng cúng tất cả những gì mình có để độ nhật…

Thiên Chúa luôn trân trọng và quý mến tất cả những gì chúng ta dâng tặng Ngài. Những lễ vật càng đơn sơ, nhỏ bé dưới mắt người đời, càng có giá trị trước mặt Chúa. Chỉ có Chúa mới thấy được giá trị của những âm thầm đau khổ, của những hy sinh quên mình từng ngày, của những việc làm vô danh…

29 Tháng Bảy

Một Tiếng Cám Ơn

Trong một bài huấn đức ngắn ngủi trước khi đọc kinh truyền tin, Đức Gioan Phaolô I, vị Giáo Hoàng của mỉm cười, đã kể một câu chuyện như sau:

Trong một gia đình nọ, một người đàn bà phải lo phục dịch cho một người chồng, một người anh và hai người con trai lớn. Bà phải làm tất cả mọi sự trong nhà: từ đi chợ, nấu ăn, giặt giũ đến quét dọn trong nhà. Một ngày Chúa Nhật nọ, sau một buổi sáng đi dạo ngoài trời trở về, những người đàn ông bỗng nhận thấy có một điều lạ trong nhà, bàn ăn đã được chuẩn bị cho bữa trưa, nhưng thay vì thức ăn, họ chỉ thấy toàn cỏ khô. Mọi người đều nhao nhao phản đối người đàn bà… Chờ cho mọi người im tiếng, người đàn bà mới bình tĩnh giải thích:

“Tất cả thức ăn đều có sẵn rồi, nhưng cho phép tôi được nói một điều. Tôi phải chuẩn bị thức ăn hằng ngày cho các người, tôi phải dọn dẹp trong nhà, tôi phải giặt giũ quần áo cho các người, tôi phải làm mọi sự trong nhà này, nhưng chưa bao giờ các người mở miệng khen lấy một tiếng, hay nói một lời cám ơn… Các người chỉ chực có một thiếu sót của tôi để la ó, phản đối mà thôi”.

Vô ơn là thái độ thường xuyên của mỗi người trong chúng ta. Chúng ta dễ thấy những thiếu sót của người khác đối với chúng ta, nhưng chúng ta lại thiếu nhạy cảm đối với những gì người khác đang làm cho chúng ta. Một chút tế nhị, một chút cảm thông, một lời nói an ủi vỗ về, một tiếng cám ơn, đó là men làm dậy niềm vui trong cuộc sống của chúng ta.

30 Tháng Bảy

Người Tử Tù

Tại một nhà tù nọ, có một người đàn ông bị kết án tử hình. Nhưng người ta thấy anh không hề tỏ ra nao núng, trái lại lúc nào cũng vui tươi ca hát.

Ngày nọ, các quản giáo bắt gặp anh đang chơi tây ban cầm trong sân chơi của trại tù. Đám đông bu quanh anh, lúc đầu còn nhút nhát, về sau mọi người cùng hát theo tiếng đàn của anh. Thấy thế, ban giám đốc nhà tù mới ra lệnh không cho anh được chơi đàn nữa.

Nhưng ngày hôm sau, tù nhân đã có bản án tử hình ấy vẫn tiếp tục ra sân chơi và đàn ca như mọi ngày. Đám đông tù nhân cũng tuôn đến ca hát với anh. Không chịu nổi nữa, những người canh tù sấn đến túm lấy anh và chặt đứt những ngón tay của anh. Họ nghĩ rồi đây anh sẽ không còn chơi đàn được nữa và như vậy đám đông cũng không còn tụ tập được nữa. Nhưng ngày hôm sau, cũng người tử tội ấy, cũng đám đông ấy tụ tập lại trong sân tù và với đôi tay cụt, anh vẫn có thể đàn được những điệu nhạc càng thảm thiết hơn. Lần này, những tên canh tù lôi anh đi và đập nát chiếc đàn.

Ngày hôm sau, con người đáng thương ấy cũng trở lại sân chơi và cất tiếng hát vang. Tiếng hát ca của anh dặt dìu, tha thiết và mời gọi đến nỗi đám đông cũng kéo đến hòa cùng tiếng hát với anh. Lần này, những tên canh tù mới đưa anh đi và họ cắt lưỡi anh. Họ nghĩ rằng tiếng đàn đã bị dập tắt, tiếng ca cũng sẽ bị tắt lịm và như vậy, không còn ai sẽ tụ tập trong sân nữa.

Nhưng trước sự ngạc nhiên của mọi người, ngày hôm sau, người tử tội vẫn trở lại sân chơi. Lần này, anh không đàn, không hát, nhưng nhảy múa theo một điệu nhạc câm mà chỉ mình anh mới có thể nghe được. Không mấy chốc, đám đông tù nhân kéo đến và họ nhảy múa xung quanh con người khốn khổ ấy.

Câu chuyện trên đây nhắc chúng ta nhớ đến một vũ công Ấn Độ tên là Sudha Chandran. Chính lúc cô đạt đến tuyệt đỉnh của danh vọng cũng là lúc bàn chân phải của cô phải bị cưa. Nhưng người vũ công đầy ý chí này đã không bỏ cuộc… Sau khi bình phục, cô đã ráp chân giả và luyện tập cho đến khi nhuần nhuyễn trở lại như trước. Khi được hỏi: “Làm thế nào để có thể nhảy múa bình thường trở lại?”. Cô trả lời: “Chúng ta không nhất thiết cần có chân mới có thể nhảy múa được”.

Thiên Chúa không ban cho chúng ta một số lượng nén bạc đồng đều. Kẻ được năm nén, người được hai nén, kẻ chỉ được một nén… Một nén đó có thể là một nén của nghèo nàn, bất hạnh, rủi ro, mất mát. Nhưng trong Tình Yêu Quan Phòng của Chúa, nén bạc vẫn có thể sinh lời được những hoa trái của yêu thương, của tin tưởng, của lạc quan vui sống…

Chúng ta không nhất thiết cần có đôi chân mới nhảy múa được. Chúng ta có thể nhảy múa với tâm hồn phấn khởi, chúng ta có thể ca hát với lòng tin yêu, vui sống..

Không gì có thể tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Chúa. Dù tù đày, dù bệnh tật, dù khốn khổ đến đâu, nếu chúng ta có lòng mến, thì cuộc sống trơ trụi, nghèo hèn của chúng ta vẫn luôn là bài ca chúc tụng, tri ân dâng lên Chúa.

31 Tháng Bảy

Tiếng Kêu Của Ếch

Một vị ẩn sĩ đạo đức nọ nổi tiếng là người có thể sai khiến được thú vật.

Một buổi tối nọ, ông đang tịnh niệm cầu nguyện, một con ếch không biết từ đâu cất tiếng kêu lên inh ỏi. Vị ẩn sĩ cố gắng tập trung ý chí vào lời cầu nguyện để không còn nghe tiếng ếch kêu nữa. Nhưng ông càng cố gắng, tiếng ếch càng kêu to. Không còn tự chế được nữa, vị ẩn sĩ quát lên: “Hãy câm miệng cho ta cầu nguyện được không?”.

Mệnh lệnh đầy uy lực của nhà ẩn sĩ đã bịt miệng được chú ếch. Thinh lặng trở lại với không gian. Nhưng cũng chính lúc đó, nhà ẩn sĩ như nghe vang vọng trong tâm hồn ông một tiếng kêu khác. Ông nghe như có người nói với ông rằng: “Có lẽ Chúa cũng ưa thích tiếng kêu của ếch như lời cầu kinh của ngươi”. Vị ẩn sĩ hỏi vặn lại: “Tiếng kêu của ếch mà cũng làm cho lỗ tai của Chúa vui được sao?”. Tiếng kêu trong tâm hồn ông đáp trả: “Vậy thì ngươi có biết tại sao Chúa tạo ra âm thanh không?”.

Vị ẩn sĩ chợt hiểu được bài học từ trong nội tâm… Ông đến bên cửa sổ và ra lệnh cho chú ếch: “Nào, hãy hát lên đi”. Tiếng kêu của chú ếch vang lên, mấy chú ếch xung quanh cũng hòa theo một nhịp tạo thành một bài ca lúc trầm lúc bổng, lúc dặt dìu, lúc tha thiết… Đêm vắng bỗng trở nên vui hơn.

Với sự khám phá trên đây, trái tim của nhà ẩn sĩ bỗng trở nên hài hòa với vũ trụ và lần đầu tiên trong đời, ông hiểu được thế nào là cầu nguyện.

Sự cầu nguyện thường cần phải có một khung cảnh thích hợp. Có một không gian đặc biệt dành cho cầu nguyện, có một quãng thời gian đặc biệt dành cho cầu nguyện, có một bầu khí đặc biệt dành cho cầu nguyện. Đó là điều thiết yếu dành cho cuộc sống con người… Đó là lý do hiện hữu của một bàn thờ nhỏ trong nhà, đó là mục đích của các ngôi thánh đường.

Tuy nhiên, sự cầu nguyện sẽ đánh mất của nó, nếu con người đóng khung nó trong một khung cảnh và bầu khí đặc biệt. Cầu nguyện là một gặp gỡ với Chúa và đồng thời cũng là một giao kết với tha nhân. Thiên Chúa, chúng ta không thể đóng khung trong bốn bức tường vắng lặng của nhà thờ. Con người, chúng ta phải gặp gỡ ngay trên chợ đời.

Thành ra, lời cầu nguyện đích thực phải là lời cầu nguyện mà con người có thể dâng lên Thiên Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào, trong bất cứ lúc nào, bằng tất cả cuộc sống. Lời cầu nguyện đích thực là lời cầu nguyện được thốt lên trong thời thuận tiện cũng như không thuận tiện. Lời cầu nguyện đích thực là cả một cuộc sống tuân phục ý Chúa, một cuộc sống hài hòa với tha nhân, một cuộc sống “xin vâng” trong từng phút giây

NGƯỜI KHÁCH MUỐN GÌ?

NGƯỜI KHÁCH MUỐN GÌ?

(Luca 10,38-42 – CN XVI TN – C)

Lm FX Vũ Phan Long, ofm

1.- Ngữ cảnh

Chúng ta vẫn đang ở trong chuyến đi lên Giêrusalem. Vì có lý để nghĩ rằng hai chị em Mácta và Maria chính là những nhân vật của Ga 11,1tt, tức ở Bêtania, gần Giêrusalem, chúng ta phải tự hỏi tại sao tác giả Luca lại đặt truyện này ở đây, vì đến lúc này truyện vẫn gần với Galilê hơn Giêrusalem. Hơn nữa, ngài lại bỏ tên Bêtania đi, mà chẳng lẽ ngài lại không biết? Như thế, hẳn ngài có ý gì đó khi đặt truyện này ở đây chứ không phải ở chỗ khác (chẳng hạn ở ch. 19 hoặc 20).

Chúng ta xem truyện này liên hệ với các bản văn trước thế nào. Maria được mô tả như người “lắng nghe lời” Đức Giêsu. Đức Giêsu công bố rằng chính việc “lắng nghe lời” này sẽ không bị lấy mất. Trước đó, Đức Giêsu mới nói đến quan hệ sâu sắc, duy nhất, mà Người đang có với Chúa Cha (10,22). Quan hệ này được nói đến vì nó liên hệ đến các môn đệ Đức Giêsu: họ được chúc phúc bởi vì họ được Người mạc khải Chúa Cha cho; họ được nghe và thấy những điều Người biết về Chúa Cha. Như thế, các môn đệ có một đặc quyền lớn lao là được thấy và nghe những điều mà thậm chí các ngôn sứ và các vua chúa ước ao hết sức mà không được.

Ở đây, tác giả Lc nhắc lại đặc quyền đó. Ngài mô tả Maria trong tư thế tốt đẹp nhất: lắng nghe lời dạy của Đức Giêsu. Khi lắng nghe Người, Maria nghe Người mạc khải về Chúa Cha. Chính vì thế, tác giả đã nhắc lại động từ “lắng nghe” (cc. 24.39) như để nối kết các ý tưởng của hai đoạn văn. Sau đó, Lc trình bày cuộc đối thoại về “điều răn lớn” (10,25-37), với câu kết: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (c. 37). Mục đích của ngài khi bố trí truyện Mácta-Maria ở đây là để nêu bật tầm quan trọng tối hậu của giáo huấn của Đức Giêsu trong Lc 10,25-37: giáo huấn này là một mạc khải mà “các vua chúa và ngôn sứ” không được đón nhận.

Truyện Mácta-Maria cũng có thể được đặt ở đây để điều chỉnh một sự hiểu lầm có thể có đối với dụ ngôn Người Samari nhân hậu. Ông này đã “chạnh lòng thương” (esplanchnisthê): vậy, hành vi luân lý của chúng ta rất có thể được hướng dẫn bởi các tình cảm của con người! Lc muốn sửa lại: chính giáo huấn của Đức Giêsu mới điều hành hành vi luân lý.

Và để dùng truyện hai chị em Mácta-Maria này mà hỗ trợ cho dụ ngôn Người Samari nhân hậu, mà dụ ngôn này thì được đặt tại ch. 10, trong khi đến 19,28 thì mới “tiến lên Giêrusalem”, để khỏi gây ra một điểm thiếu hợp lý trong lộ trình, tác giả bỏ tên làng “Bêtania” đi.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành hai phần:

1) Phần tường thuật: Khung cảnh và các nhân vật (10,38-40a);

2) Phần đối thoại: Mácta và Đức Giêsu (10,40b-42).

3.- Vài điểm chú giải

– một làng kia (38): Trong TM III, làng này không có tên (x. 9,56). Cứ theo bản văn, “làng” này còn gần Galilê hơn là Giêrusalem. Theo Ga 11,1; 12,1-3, ta biết rằng Mácta và Maria, hai chị của Ladarô, ở tại Bêtania, một làng gần Giêrusalem.

– Maria (39): Cô này cũng được xác định là em gái của Mácta trong Ga 11,1. Không được đồng hóa cô này với Maria Mácđala ở 8,2.

– ngồi bên chân Chúa (39): Đây là tư thế của người môn đệ đang lắng nghe (x. 8,35).

– Chúa (39): Ngoại trừ c. 38 (không dùng tên “Giêsu” như trong Bản dịch CGKPV, mà dùng đại từ chủ ngữ “Người” [autos]), trong những câu sau, Đức Giêsu được gọi bằng danh hiệu “Chúa” (Kyrios). Như vậy, ở đây, chúng ta đang gặp một bài tường thuật có chất liệu của mầu nhiệm Phục Sinh. Tác giả chuyển các độc giả vào kinh nghiệm của cộng đoàn tín hữu về sự phục sinh của Chúa Giêsu.

– Cô tiến lại (40): Động từ ephistêmi có nghĩa là “tự trình diện”, “dừng lại bên cạnh”, “đưa mình ra trước”.

– giúp con một tay (40): Động từ synantilambanô có nghĩa là “cộng tác với”, dạng trung bình synantilambanomai có nghĩa là “đến trợ giúp”, “cứu trợ”. Trong Tân Ước, động từ này chỉ được dùng ở đây và ở Rm 8,46 nói về vai trò của Chúa Thánh Thần.

– chị băn khoăn lo lắng (41): Merimnâs do động từ merimnaô, “băn khoăn lo lắng”; thorybazô, “xáo trộn; mất sự thinh lặng”. Thorybos là “sự ồn ào”; trong Hy-ngữ hiện đại, thorybos là “xe cộ giao thông”.

– Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi (42): dịch sát: “Chỉ cần một điều mà thôi”. Lời Đức Giêsu đáp lại yêu cầu của Mácta dường như lúc đầu nhằm trấn an cô, bằng cách bảo cô rằng cô chỉ cần dọn một món thôi. Nhưng khi nghe trọn câu nói của Đức Giêsu, ta mới hiểu ra rằng “một điều” không chỉ là “một món” mà còn có ý nghĩa khác. “Một điều” đây chính là “phần tốt nhất” (= lắng nghe lời Chúa). Và Đấng là thành phần của “phần tốt nhất” ấy bảo đảm là Maria sẽ không bị lấy mất.

– phần (42): “Meris” có thể là phần lương thực, nhưng ưu tiên dùng để chỉ phần gia tài, phần của cải.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Phần tường thuật: Khung cảnh và các nhân vật (38-40a)

Chúng ta vẫn đang ở trong chuyến đi lên Giêrusalem (x. 9,51). Đức Giêsu đã dừng lại tại một làng kia (hẳn là Bêtania, nhưng tác giả không nêu tên, để khỏi gây một nét thiếu hợp lý trong lộ trình của Đức Giêsu), để thăm gia đình những người bạn thân. Các độc giả được mời chiêm ngưỡng Người không chỉ như là “Giêsu Nadarét”, mà là “Đức Chúa Phục Sinh” (Kyrios). Cô chủ Mácta đón Người vào và tất bật phục vụ. Còn cô em Maria thì cứ bình thản ngồi bên chân Đức Giêsu mà nghe Người giảng dạy. Theo truyền thống của các kinh sư, chỉ phái nam mới được ban cho những lời giảng dạy và những huấn thị; các phụ nữ bị loại ra bên ngoài. Nhưng Đức Giêsu nhìn nhận các phụ nữ có cùng một phẩm giá như phái nam, nên Người  ngỏ lời cả với phụ nữ. Ở đây tác giả đã không ngần ngại mô tả một người nữ như là môn đệ ngồi bên chân Đức Giêsu. Thái độ của Đức Giêsu cũng khiến chúng ta nhớ đến Cn 31,26.

“Cô Mácta thì tất bật lo việc phục vụ” (c. 40a). Có hai từ nói lên tất cả lòng hiếu khách của Mácta: hypodechomai, “đón vào nhà mình” (c. 38b) và diakonia, “sự phục vụ” (c. 40a, tăng cường bằng động từ diakonein ở c. 40b). Với những ý hướng tốt nhất và phù hợp với thói tục thời đó, Mácta tất bật (periespato) phục vụ người khách, nhưng sự bận bịu này đang sa sút thành sự phân tán. Vì bận tâm phục vụ, cuối cùng cô lại không chăm sóc người khách.

* Phần đối thoại: Mácta và Đức Giêsu (40b-42)

Bấy giờ Mácta mới lên tiếng nhận định về Maria và về bản thân mình: thái độ của cô rất tự tin, cô “đưa mình ra trước, cô tiến lại” (epistasa) mà nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao?” (c. 40b). Lời trách của cô có lý, vì hoàn cảnh quá rõ: một người khách quý vừa đến nhà. Phải làm mọi sự để đón tiếp người ấy cho chu đáo; nhất là hẳn là còn cả đoàn môn đệ của Đức Giêsu nữa! Nhà chỉ có hai chị em; thế mà Maria cứ để cho chị phải xoay sở một mình. Mácta có lý khi yêu cầu em giúp mình. Tuy nhiên, một đàng Mácta nghĩ mình có lý đến độ dám gợi cho Đức Giêsu cách thức cư xử (“Xin Thầy bảo nó giúp con một tay”), nhưng đàng khác, dường như cô cũng hoài nghi về chính cô, dường như cô đang tự hỏi là phải chăng cô đã can thiệp quá đáng (điều này được gợi ra bởi động từ rất mạnh, rất phong phú, gắn kết chặt chẽ với ân ban Thánh Thần, là synantilambanomai, “cộng tác với”). Mácta can thiệp hầu như với vũ lực, nhưng phong thái của cô dường như lại diễn tả một tình trạng yếu đuối cùng cực. Điểm mấu chốt trong lời của cô được diễn tả bằng sự tương phản giữa “(phục vụ) nhiều” (c. 40a: pollên diakonian) và “một mình (con)” (c. 40b: monên me): nhiều/phức tạp là việc phục vụ, còn một mình là Mácta. Khôi hài là Mácta can thiệp vì nghĩ rằng Đức Giêsu cũng chia sẻ cái nhìn đó với cô, nhưng sự thật lại không phải thế!

Mácta có lý, nếu vấn đề là phải tiếp đãi người khách cho tươm tất. Nhưng nhận định của Đức Giêsu khiến chúng ta phải tự hỏi: vấn đề phải chăng là như thế? Người khách phải chăng chỉ muốn được tiếp đãi ân cần chu đáo? Đối với Người, điều gì quan trọng nhất? Những câu hỏi này, Mácta không hề đặt ra cho mình. Ngay từ đầu, hầu như là do thói quen, cô tưởng là mình biết tình thế cần cái gì. Không hề tự hỏi là người khách thật sự muốn gì, cô áp đặt cho người khách ấy điều cô nghĩ là hợp lý hơn, cần thiết hơn, vào lúc này. Chắc chắn Mácta có hảo ý. Nhưng cô không mấy quan tâm đến các sở thích và ý hướng của người khách. Đức Giêsu giúp cô hiểu rằng trước tiên Người không muốn được đón tiếp, không muốn được phục vụ. Sau này Người sẽ nói: “Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (22,27). Ở đây, Đức Giêsu đang muốn một điều hết sức quan trọng.

Đức Giêsu hiểu, Người không trách mắng Mácta, Người trả lời bằng giọng khuyên dạy, chứ không thân tình như thánh Âutinh nghĩ: “Mácta! Mácta ơi! Chị lo lắng và làm ầm ĩ về nhiều chuyện quá” (c. 41). Mácta bị ngột ngạt vừa do các lo lắng về trách nhiệm (merimnâs), vừa do thứ tiếng ồn liên tục (thorybazô) không cho cô sống trong thinh lặng, lại vừa do cô tự hào (epistâsa) về tất cả những chuyện cô đang sống, đang làm. Tất cả và chuyện đó chỉ là tương đối, là phụ thuộc; trước tiên hãy tìm Nước Thiên Chúa (x. 12,31), rồi tất cả những chuyện còn lại sẽ đến theo. Tìm kiếm Nước Thiên Chúa cũng có nghĩa là trước tiên, tìm kiếm ân huệ Thánh Thần, tìm làm sao để nhận được ân ban Lời Chúa, rồi các thứ khác sẽ đến sau. Chúng ta ghi nhận chính Đức Chúa (Kyrios) trả lời Mácta. Ở đây có một nét khôi hài: Mácta dùng mà không ý thức danh hiệu Kyrios mà bây giờ tác giả lấy lại với sắc thái thần học để đưa lại nét long trọng và dứt khoát cho câu trả lời. Mácta nại đến “Chúa” vì mong được Người yểm trợ, nhưng “Chúa” lại bác bỏ các chờ đợi của Mácta. Mácta nói đến “việc phục vụ nhiều/phức tạp (pollê)”, nay Đức Giêsu nói đến “nhiều chuyện (polla): như thế, cô không chỉ bận bịu, mà là bị phân tán. Mácta phản ứng do sự tương phản giữa “nhiều” và “một mình”, các lời của Đức Giêsu lấy lại sự tương phản này, nhưng chuyển dịch sang sự đối lập giữa “nhiều chuyện (polla)” và “một chuyện (henos)”. “Một chuyện” này là gì? Phần kết của bản văn sẽ cho biết.

Còn Maria chỉ là em của Mácta, tức là được xác định trong tương quan với chị mình. Maria ý thức về sự nghèo nàn, về tình trạng bất lực, về sự yếu đuối  của mình. Cô chỉ còn có thể làm một việc: ngồi bên chân Chúa mà lắng nghe Người dạy (c. 39). Đây là điều duy nhất cần thiết và là điều luôn luôn đúng: lắng nghe Chúa. Đức Giêsu đến nhà Mácta và Maria trước hết không phải để được đón tiếp vào bữa tiệc, nhưng là để được lắng nghe. Với tất cả thiện chí, Mácta đã sao nhãng ý muốn này của Đức Giêsu. Chỉ có Maria là đã gắn bó với điều Đức Giêsu muốn. Trước hết, Người muốn cống hiến, chứ không muốn đón nhận. Trước hết, Người không muốn có một sinh hoạt chuyên chăm cần cù, qua đó người ta chứng tỏ người ta luôn biết điều gì là đúng và điều gì phải làm; nhưng Người muốn người ta suy nghĩ và ở yên để lắng nghe, suy tư và để cho Đấng khác nói với mình điều thật sự quan trọng và điều thật sự mình phải làm.

Thái độ của Maria, nếu nhận định hời hợt, là giải pháp thoải mái, lười biếng, thật ra lại là một sự chọn lựa (eklegomai). Sự chọn lựa này phù hợp với cái nhìn của Thiên Chúa trong tương lai cánh chung (“sẽ không bị lấy đi”): thái bị động thần học kết thúc bài tường thuật gợi ý gián tiếp đến sự xét xử của Thiên Chúa.

+ Kết luận

Khi viết 10,38-42, tác giả Lc không hề muốn phân biệt giữa đời sống tu trì chiêm niệm và đời sống tu trì hoạt động, cũng không hề coi thường việc phục vụ người khác. Ngài chỉ muốn nhấn mạnh đến “phần duy nhất cần thiết” là: làm môn đệ Đức Giêsu, là lắng nghe giáo huấn của Người, để Người tiếp tục hướng dẫn.

Nhìn lại ngữ cảnh rộng, chúng ta có thể cho rằng Lc đặt bản văn 10,38-42 ở đây nhắm nêu bật giáo huấn của Đức Giêsu ở 10,25-37 (Điều răn lớn) như là đáng để mọi người lưu ý, như là thuộc về “điều duy nhất cần thiết”, và như mạc khải về Chúa Cha, Đấng mà không ai biết như Đức Giêsu, đồng thời để dạy rằng động lực của mọi hành vi luân lý Kitô hữu phải tuyệt đối là giáo huấn của Đức Giêsu. Chỉ nhờ nghe lời giáo huấn của Đức Giêsu, trong lòng người nghe mới phát sinh tình yêu đối với người lân cận. Bản văn này còn cho thấy có những liên hệ đầy ý nghĩa với lời giải thích dụ ngôn hạt giống/Lời Thiên Chúa (Lc 8,11-15): sự bận rộn thái quá của Mácta khiến ta nhớ đến loại đất thứ ba (8,14), còn sự chọn lựa của Maria nhắc nhớ đến mảnh đất tốt, tại đó Lời sẽ sinh hoa trái (8,15).

5.- Gợi ý suy niệm

1. Đối với Mácta, tiếp khách là chuyện quan trọng nhất. Thường thường chúng ta gặp nguy cơ bị thu hút bởi mối bận tâm đối với các nhu cầu vật chất, đối với đồ ăn thức uống, chuyện ăn mặc, nhà cửa trú ngụ, những tiện nghi, và chúng ta dùng hết năng lực và thì giờ cho những chuyện ấy. Dĩ nhiên, cần phải quan tâm đến những điều ấy. Nhưng cũng phải thấy rằng chỉ lo chừng ấy chuyện thì chưa đủ. Phải có một bậc thang các giá trị để đi theo.

2. Các Kitô hữu cần thường xuyên xét lại hệ thống các xác tín và các thói quen của mình để sẵn sàng điều chỉnh. Người tín hữu cần được thanh thoát, không bị ràng buộc bởi những thói quen cá nhân, khuynh hướng hưởng thụ, mức sống. Không phải chỉ đơn giản chấp nhận những gì môi trường chung quanh coi là thông thường, cần thiết và đúng đắn, là đã đủ. Người Kitô hữu còn cần phải suy nghĩ về những gì là thật sự cần thiết và đúng đắn. Đức Giêsu đặt việc lắng nghe lời Người vào chỗ nhất. Như thế, Kitô hữu chúng ta cần có một thời gian yên tĩnh và suy tư để cầu nguyện. Chúng ta cần phải thường xuyên lắng nghe Đức Giêsu và để Người chỉ đường. Khi đó, chúng ta không được tránh né cố gắng và thậm chí đau khổ để có thể tái định hướng và thay đổi.

3. Trong đời sống chung (cộng đoàn tu trì, gia đình, giáo xứ…), cần biết thường xuyên đặt câu hỏi: “Những người khác đang muốn gì? Họ đang cần gì, ngoài những của cải vật chất?”. Khi đó, hẳn là ta sẽ thấy rằng những người ấy đang đặc biệt cần được chúng ta quan tâm và cần có thì giờ của chúng ta. Các em bé không chỉ cần được ăn cái gì mà thôi. Các cha mẹ phải có giờ cho chúng, để chơi với chúng, để trả lời những câu hỏi của chúng, để giúp chúng kể những kinh nghiệm của chúng. Những người già cũng muốn xin chúng ta có thì giờ cho họ, muốn chúng ta lắng nghe họ, chúng ta hiệp thông vào các suy tư, các mối bận tâm, và cả những kỷ niệm của họ. Những người thợ trong một hãng xưởng không chỉ cần một đồng lương hậu hĩ; họ cũng cần được quan tâm và nhìn nhận, cần một lời khen và một lời nói nhân ái. Giúp đỡ về vật chất mà thôi thì chưa thỏa mãn được nhu cầu số một là có giờ cho nhau, lắng nghe nhau trong kiên nhẫn và yêu thương và sống cho nhau.

4. Không nên dựa vào những nhận định của Đức Giêsu mà chê Mácta. Dĩ nhiên, đến một lúc nào đó, Mácta sẽ ngưng việc bếp núc để lắng nghe Đức Giêsu, cũng như đến một lúc nào đó, Maria sẽ ngưng việc lắng nghe Đức Giêsu để tiếp tay với chị mà dọn cơm đãi khách. Nhưng nói như thế là đơn giản cho rằng truyện này phản ánh một hoàn cảnh lịch sử chính xác với những đường nét được tường thuật. Trong thực tế, truyện này là một mẩu sinh hoạt được cắt khỏi khung cảnh thực tế để biến thành một dụ ngôn nói về việc ưu tiên lắng nghe giữ Lời Chúa. Đàng khác, theo Tin Mừng Luca, và phải nói là theo truyền thống Kinh Thánh nữa, lắng nghe có nghĩa là tuân giữ, là vâng phục. Ngày lễ thánh Mácta 29-7 chính là một cách cho thấy truyện này như là một tấm huy chương duy nhất có hai mặt: một bên, ta có Maria, và bên kia, ta có Mácta.

Lm FX Vũ Phan Long, ofm

Đức Tin: Bảo Hiểm Sức Khỏe và Nhân Thọ

Đức Tin: Bảo Hiểm Sức Khỏe và Nhân Thọ.Ý Nghĩa

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

(Bài chia sẻ cho Tối Tĩnh Tâm Mùa Vọng Thứ Hai ngày 10/12/2012

ở Cộng Đoàn Westminter Giáo Xứ Blessed Sacrament,

và đã được Nguyệt San Hiệp Nhất phổ biến ở số báo Tháng 1/2013)

Mùa Vọng hay Advent có 2 ý nghĩa chính: ý nghĩa thứ nhất, nếu căn cứ vào 4 tuần lễ tượng trưng cho 4 ngàn năm trông đợi Đấng Thiên Sai của Cựu Ước thì Mùa Vọng là Mùa Phụng Vụ Chờ Mong Chúa đến; ý nghĩa thứ hai, nếu căn cứ vào chính chữ “Advent – Đến” thì Mùa Vọng là Mùa Phụng Vụ về Mầu Nhiệm Chúa Đến trên gian nơi Mầu Nhiệm Giáng Sinh như một EmmanuelThiên Chúa ở cùng chúng ta.

Thế nhưng, lịch sử cho thấy Chúa Kitô đã đến rồi. Bởi thế, hai ý nghĩa trên đây của Mùa Vọng liên quan đến Cựu Ước nhiều hơn Tân Ước. Tuy nhiên, vì Phụng Niên của Giáo Hội là để cử hành tất cả Mầu Nhiệm Chúa Kitô, từ khi Người Nhập Thể Giáng Sinh đến thế gian lần thứ nhất cho tới khi Người đến lần thứ hai trong vinh quang “để phán xét kẻ sống và kẻ chết, Nước Người sẽ không bao giờ cùng”, mà Phụng Niên không thể thiếu Mùa Vọng.

Do đó, việc cử hành Mùa Vọng của Giáo Hội theo ý nghĩa Tân Ước đây bao gồm một ý nghĩa lưỡng diện bất khả phân ly, ở chỗ Mùa Vọng liên quan chẳng những đến Mầu Nhiệm Giáng Sinh mà còn đến cả Mầu Nhiệm Tái Giáng: Thiên Chúa “đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta” (Gioan 1:14) nơi Mầu Nhiệm Giáng Sinh, và cũng là Đấng “sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mathêu 28:20) khi Người Tái Giáng.

Đó là lý do ngay Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, các bài đọc của phần Phụng Vụ Lời Chúa, nhất là bài Phúc Âm, bao giờ cũng mang ý nghĩa của Mầu Nhiệm Tái Giáng, một mầu nhiệm mà chung con người và riêng Kitô hữu cần phải mong đợi trong “tỉnh thức và cầu nguyện luôn để có thể thoát được những việc sẽ xẩy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Luca 21:36; xem cả Mathêu 24:42 và Marco 13:33,37).

Dụ ngôn sâu xa của cuộc Chung Thẩm cũng đã chất chứa cả hai Mầu Nhiệm Giáng Sinh và Mầu Nhiệm Tái Giáng: Tại sao khi Tái Giáng trong vinh quang Chúa Kitô lại phán xét kẻ sống và kẻ chết theo tiêu chuẩn bác ái liên quan đến thành phần anh chị em hèn mọn nhất của Người – nếu không phải là vì Người là Vị Thiên Chúa đã hóa thân làm người, đã nên giống nhân loại mọi đàng ngoại trừ tội lỗi, đã trở thành một con người khốn cùng nhất hay sao?

Tuy nhiên, trong Cuộc Chung Thẩm này, cả hai thành phần chiên và dê, tiêu biểu cho thành phần “kẻ sống (chiên) và kẻ chết (dê)” được Chúa Kitô Tái Giáng phán xét, đều thưa cùng Người một câu giống nhau, đó là chúng tôi có thấy Chúa đâu (xem Mathêu 25:37,44). Vậy tại sao chỉ có chiên mới được rỗi còn dê lại bị hư đi, nếu không phải cả hai khác nhau ở chỗ “đức tin hoạt động qua đức ái” (Gallata 5:6), tức không thấy mà cứ sống bác ái!

Đúng thế, đức ái là dấu hiệu của đức tin, là hoa trái của đức tin và là tầm mức của đức tin, và phần rỗi của chung con người và riêng Kitô hữu hoàn toàn lệ thuộc vào đức tin. Trong Năm Đức Tin nói về đức tin thì rất thích hợp, nhưng tại sao đức tin lại liên quan đến vấn đề bảo hiểm sức khỏe và nhân thọ, một đề tài dường như rất lạ lùng trong Mùa Vọng là thời điểm Giáo Hội đang hướng tới và long trọng tưởng niệm Mầu Nhiệm Nhập Thể của Chúa Kitô?

Thật ra Đức Tin là Bảo Hiểm Sức Khỏe và Nhân Thọ là đề tài rất hay trong Mùa Vọng là thời điểm sửa soạn cử hành Mầu Nhiệm Giáng Sinh. Bởi vì, nếu Mầu Nhiệm Giáng Sinh là mầu nhiệm “Lời đã hóa thành nhục thể” (Gioan 1:14), đã mặc xác làm người thì sức khỏe và sự sống thể lý của con người trần gian chúng ta đã không hề liên quan gì với Mầu Nhiệm Giáng Sinh hay chăng, hay cả hai còn có một chiều kích thần linh và có một giá trị vô giá hơn nữa!

Chính vì sức khỏe và sự sống của con người chúng ta đã được thần linh hóa hết sức cao trọng như vậy nơi Mầu Nhiệm Nhập Thể của Vị Thiên Chúa đã Hóa Thân Làm Người nơi Mầu Nhiệm Giáng Sinh mà chúng ta cần phải trân trọng sức khỏe và sự sống thể lý, chẳng những của chính bản thân mình mà còn của cả tha nhân nữa, nhất là thành phần anh em hèn mọn nhất về thể lý được liệt kê trong cuộc Chung Thẩm (xem Mathêu 25:35-36,42-43).

Sống trong xã hội Hoa Kỳ này, nhiều người trong chúng ta, nhất là những người đi làm cho các hãng xưởng, đều có bảo hiểm sức khỏe, và không ít mua thêm bảo hiểm nhân thọ. Thế nhưng, thực tế cho thấy không một hãng bảo hiểm sức khỏe hay nhân thọ nào có thể bảo đảm sức khỏe và sự sống của chúng ta. Do đó, không thể nói các hãng ấy bảo hiểm sức khỏe hay bảo hiểm nhân thọ mà chỉ có thể nói họ bảo hiểm về sức khỏe hay về nhân thọ.

Trong khi đó, đức tin không phải chỉ là một thần đức hay một nhân đức đối thần, hoàn toàn có tính chất siêu nhiên và thần linh, không hề có liên quan dính dáng gì tới thể lý, tới đời sống tự nhiên, tới thân xác của con người. Trái lại, nếu Thiên Chúa Nhập Thể Giáng Sinh là để cứu chuộc cả linh hồn lẫn thân xác của con người vướng mắc nguyên tội thì Đức Tin quả thực là một thứ Bảo Hiểm Sức Khỏe và Nhân Thọ đúng nghĩa nhất và tác hiệu nhất.

Không phải hay sao, chính nhờ đức tin mà con người Kitô hữu mới có thể chẳng những sống mạnh khỏe ngay trên trần gian là nơi sinh lão bệnh tử này mà còn được hưởng sự sống vinh phúc trong cõi vĩnh hằng nữa. Thực tế đã không cho thấy hay sao đã có những con người Kitô hữu nhờ đức tin đã sống thật khỏe mạnh hầu như không bệnh nạn, thậm chí khỏe mạnh ngay cả khi mắc bệnh, đôi khi còn được khỏi bệnh, và cải tử hoàn sinh.

1- Đức tin: Bảo Hiểm Sức Khỏe

Tôi có một người bạn mà trong suốt 16 năm quen biết (1966-1982), hầu như không bị bệnh gì hết, ngoại trừ một lần duy nhất hơi bị cảm, cho dù hằng năm cộng đồng chúng tôi chung sống có nhiều người bị cúm rất hay lây lan. Cho tới này, sau 30 năm gặp lại, những người sống gần với con người này vẫn làm chứng rằng chẳng thấy anh ấy bị bệnh nạn gì. Trong khi đó, anh có một thân xác gầy gầy, nhỏ nhắn, ăn ít, ngủ không nhiều mà lại làm việc nhiều. Đặc biệt là lúc nào cũng cười, không một ai bắt gặp anh có bất cứ một phản ứng tự ái nào, với bất cứ một ai, dù người đó trẻ hơn anh hay cố ý chọc tức anh. Trong số bạn bè, người tôi khâm phục nhất là anh về đời sống thánh thiện của anh, một đời sống thánh thiện có thể nói đã chi phối cả đời sống tự nhiên liên quan đến thâm xác hầu như phi bệnh nạn của anh.

Kinh nghiệm tu đức nơi đời sống đạo của Kitô hũu chứng thực cho thấy rằng đức tin quả thực là một thứ bảo hiểm sức khỏe và nhân thọ cho họ trong cuộc hành trình đức tin của họ trên trần gian này nữa. Ở chỗ, nhờ đức tin, họ có thể sống bình an trong tâm hồn, không bị các chứng bệnh tâm thần (mental health) thường xẩy ra như căng thẳng (stress) hoặc lo âu (anxiety) hay trầm cảm (depression) v.v.

Và cũng nhờ đức tin, họ sống khỏe mạnh cả về phần xác, chẳng những ăn được ngủ được mà còn dồi dào nghị lực để hăng say hoạt động tông đồ không biết mệt mỏi nữa. Kết quả của một con người có được một hồn an và xác mạnh như thế là ở chỗ họ sẽ được hưởng một tuổi thọ hơn bình thường, bởi ít bị bệnh trầm trọng, hay cho dù có bị bệnh nan y, họ cũng có sức chịu đựng và chết một cách an bình.

Thật vậy, trong đời sống đạo của Kitô hữu, đức tin là bảo hiểm về sức khỏe, ở chỗ, họ nhận biết sức khỏe là vàng, là tặng ân Chúa ban cho, cần phải trân quí và gìn giữ hết sức cẩn thận, để nhờ đó có thể phụng sự Ngài trong đời sống cộng đồng của xã hội trần thế cũng như của Giáo Hội hiện thế. Nếu Kitô hữu chỉ gìn giữ và trau dồi sức khỏe với mục đích duy nhất để khỏe mạnh và đỡ bệnh tật hơn là để phục vụ thì cũng chưa đủ, vì sức khỏe của họ chẳng khác gì như nén bạc còn nguyên, không bị con người chủ thể lạm dụng và tác hại, nhưng vẫn không sinh lợi nên vẫn bị trừng phạt (xem Mathêu 25:26-27).

Do đó, về phương diện tiêu cực, họ tránh những gì gây nguy hại cho sức khỏe của họ, chẳng hạn họ không bao giờ nghiện ngập gây tác hại cho sức khỏe của họ, hay không bao giờ chạy xe ẩu kẻo bất ngờ gây ra tai nạn khiển bản thân bị thương tật hay thậm chí mất mạng cho cả bản thân mình lẫn người khác, hoặc cầm hãm những đồ ăn thức uống, cho dù rất ngon miệng đến đâu chăng nữa, nhưng không hợp với tình trạng sức khỏe của họ, nhờ đó có thể tránh được những chứng bệnh nguy tử rất thông dụng ngày nay như cao máu (high blood pressure), cao mỡ (cholesterol) hay tiểu đường (diabetes)…

Trái lại, về phương diện tích cực, họ liên lỉ bảo tồn và trau dồi sức khỏe của mình, không phải chỉ để đỡ bệnh tật mà nhất là để có sức làm việc cho Chúa và phục vụ gia đình, xã hội cùng cộng đồng Dân Chúa. Việc bảo tồn và trau đồi sức khỏe của họ có thể kể đến những việc rất thực tế như ăn uống và ngủ nghỉ điều độ, tập thể dục thể thao hằng ngày, khám sức khỏe định kỳ để kịp phòng bệnh hơn chữa bệnh (nhất là các thứ ung thư hầu như bất khả kiểm soát) v.v.

Như thế, chính khi Kitô hữu ăn uống và ngủ nghỉ điều độ, tập thể dục thể thao hằng ngày, khám sức khỏe định kỳ, ở một ý nghĩa nào đó, là việc họ sống đức tin, chứ không phải chỉ là những việc thuần túy bảo tồn và trau dồi sức khỏe về phần xác mà thôi. Thậm chí, chính khi họ thực hiện những việc làm để bảo trì và trau dồi sức khỏe có vẻ thuần phần xác như thế, ở một nghĩa nào đó, họ đồng thời cũng thực sự sống bác ái yêu thương đối với gia đình của họ, và đang âm thầm gián tiếp làm việc tông đồ đối với cộng đồng xã hội và Giáo Hội của họ.

Đức tin chẳng những giúp Kitô hữu sống khỏe mạnh phi bệnh nạn mà còn khỏe mạnh khi bị bệnh hoạn nữa. Ở chỗ, sau khi họ đã cố gắng hết sức tránh lánh tất cả những gì có thể gây nguy hại cho sức khỏe của mình, và liên lỉ bảo trì cùng trau dồi sức khỏe cho công ích, chẳng may họ bị tai nạn khiến họ bị thương tật, hay mắc phải một chứng bệnh nguy tử, với đức tin sẵn có được áp dụng vào mọi lãnh vực của cuộc sống đời thường như thế, họ vẫn có thể sống một cách hềt sức an bình và vui tươi, cho dù thân xác của họ có quằn quại đớn đau đến thế nào chăng nữa, và họ chấp nhận một cái chết tự nhiên khi tới giờ của Chúa chứ không chấp nhận một cái chết triệt sinh trợ tử hay triệt sinh an tử.

Đúng thế, trong khi xã hội văn minh vật chất theo cá nhân chủ nghĩa, duy nhục dục và phá thai, thì không phải là hiếm thấy trường hợp thai mẫu sẵn sàng chịu khổ và chịu chết cho thai nhi của mình được sống. Thành phần Kitô hữu thai mẫu hiếm hoi này không phải là đã nhờ đức tin sống khỏe mạnh hơn những người chị em thai mẫu đương thời của mình không bị đớn đau vì thai nhi nhưng vẫn sát hại đứa con trong bụng của mình hay sao!?

Tôi có quen với một nam Kitô hữu, nay vẫn còn sống ở Orange County . Ông là một trong những thân chủ của tôi khi tôi còn làm việc cho Vietnamese Community of Orange County (1982-1985), với vai trò là Counselor for Handicapped – Cô Vấn cho Người Khuyết Tật. Vào năm 1983, tôi đã giúp ông xin tiền Trợ Cấp Tật Nguyền SSI và sau 3 lần ông mới được hưởng tiền này cho tới nay. Tuy nhiên, trước khi được hưởng tiền SSI, ông mượn tiền GR (General Relief) của Orange County để có thể sống tạm. Mỗi tháng County này cho ông mượn tiền trả tiền nhà, và cho mượn thêm 85 Mỹ kim để ăn uống và tiêu xài các thứ khác trong tháng. Với 85 Mỹ kim này, ông chỉ được tiêu pha 3 Mỹ kim một ngày cho 3 bữa ăn, chưa kể tiền mua sắm quần áo v.v. Trong khi đó, ông bị đủ mọi thứ bệnh tật, nhất là những thương tật từ khi còn ở trên trại tỵ nạn Thái Lan gây ra bởi đám dân địa phương ở đây. Ông sống cuộc đời tỵ nạn ở Hoa Kỳ rất cô đơn (vợ con chết hết trên biển) và khổ sở (bởi bệnh tật hành hạ). Thế mà, có lần, ông đã trích ra 20 Mỹ kim, gửi về Đền Thánh Khiết Tâm Đức Mẹ ở Carthage Missouri của Chi Dòng Đồng Công Hoa Kỳ để xin khấn. Không phải xin cho được khỏi bệnh nạn tật nguyền mà là xin cho được giữ vững đức tin.

Đức tin chẳng những là một thứ bảo hiểm sức khỏe trong đời thường của Kitô hữu mà còn được chứng thực trong Thánh Kinh nữa, nhất là trong Phúc Âm, điển hình nhất là hai trường hợp sau đây:

Trước hết là trường hợp được Phúc Âm Thánh Marcô, ở đoạn 5 từ câu 25 đến câu 34, thuật lại rõ nhất (trong bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm, dù cũng được thuật lại ở Phúc Âm Thánh Mathêu 9:20-22 và Luca 8:43-48) về “một người đàn bà trong miền bị bệnh loạn huyết suốt 12 năm trường” (câu 25), không bác sĩ nào chữa khỏi, trái lại bệnh trạng “càng trở nên tồi tệ hơn nữa” (câu 26), cho đến khi bà nghe về Chúa Giêsu thì cố gắng chen đến cho bằng được “ở đằng sau của Người giữa đám đông” (câu 27), với ý nghĩ trong đầu rằng: “Chỉ cần tôi sờ vào áo của Người thì tôi sẽ được lành mạnh” (câu 28), và quả nhiên “lập tức máu cầm lại và bà cảm thấy toàn thân được lành mạnh” (câu 29).

Và tác dụng vô cùng thần hiệu “đức tin của con đã cứu con” này nơi người phụ nữ bị bệnh loạn huyết 12 năm ấy đã được chính Đấng cảm thấy có một lực gì đó xuất ra khỏi mình và tìm kiếm trong đám đông chen lấn chung quanh Người xem “ai đã chạm đến áo của Thày?” (câu 30), đến độ cái đụng chạm nhẹ nhàng hết sức kín đáo ấy có thể gây ra cái biến động đột xuất nơi cơ thể của Người như vậy, cho tới khi ánh mắt của Người “thấy người phụ nữ đã làm điều này” (câu 32), khiến bà hoảng sợ và “phục xuống trước mặt Người mà thú thật tất cả mọi sự” (câu 33), để được Người khẳng định rằng: “Chính đức tin của con đã chữa cho con được khỏi – your faith that has cured you” (câu 34).

Sau nữa là trường hợp cũng được Phúc Âm Thánh Marcô thuật lại ở đoạn 10 từ câu 46 đến 52, với một số chi tiết đặc biệt hơn đoạn cũng được Thánh Luca thuật lại (18:35-43), về “một người ăn xin mù loài tên là Bartimê ngồi ở vệ đường” (câu 46) lúc “Chúa Giêsu đang rời thành Giêrico” (câu 46), và “khi nghe thấy đó là Đức Giêsu Nazarét thì bắt đầu kêu lên rằng: ‘Ngài Giêsu, Con Vua Đavít, xin thương xót tôi‘” (câu 47), để rồi càng bị “nhiều người nạt nộ bảo im lặng thì anh ta lại càng la lớn hơn nữa: ‘Ngài Giêsu, Con Vua Đavít, xin thương xót tôi‘” (câu 48). Có lẽ vì tiếng la to của anh ta được Chúa Giêsu nghe thấy nên Người “đã dừng bước mà bảo: ‘Hãy gọi ông ta tới đây‘” (câu 49).

Khi nghe thấy “Người gọi anh kìa!” (câu 49) thì “anh ta đã lập tức quẳng chiếc áo khoác qua một bên, nhẩy chồm ngay đến với Chúa Giêsu” (câu 50), Đấng đã lên tiếng hỏi anh ta rằng: “Anh muốn tôi làm gì cho anh đây?” (câu 51), và anh đã bày tỏ ước vọng sâu xa của mình rằng: “Lạy Thày, tôi muốn được nhìn thấy” (câu 51). Niềm ước mong chính đáng này của anh, sau khi anh chân thành bày tỏ cùng Chúa Giêsu bằng thái độ tin tưởng mảnh liệt của của anh bất chấp áp lực của đám đông, vứt bỏ những gì mình đang có và hớn hở đến với Đấng anh van xin, đã được toại nguyện “lập tức lấy lại nhãn quan của mình” ngay sau lời Người phán: “Anh hãy đi. Đức tin của anh đã chữa lành cho con – Your faith has healed you” (câu 52).

Đức tin là bảo hiểm sức khỏe được tỏ hiện một cách hiển nhiên nhất trong thời đại văn minh về khoa học và kỹ thuật duy thực dụng này ở chỗ các phép lạ chữa lành phần xác nhờ đức tin của thành phần bệnh nhân bất khả trị hay nguy tử ở khắp nơi trên thế giới, nhất là ở Âu Châu. Chẳng hạn như đã xẩy ra 68 phép lạ được Giáo Hội chính thức công nhận trên tổng số 1858 trường hợp (từ năm 1858 là năm Đức Mẹ hiện ra cho tới năm 2012) ở Linh Địa Thánh Mẫu Lộ Đức. Hay như ở các trường hợp tin tưởng nhờ lời chuyển cầu của các vị đáng kính trước khi được phong chân phước, như của Chân Phước Têrêsa Calcutta hay của Chân Phước Gioan Phaolô II.

3- Đức tin: Bảo Hiểm Nhân Thọ

Trên đây là hai trường hợp điển hình cho thấy Đức Tin quả thực là một thứ bảo hiểm sức khỏe – health insurance, ở chỗ không phải đóng vai tác nhân (agent) trong việc chi trả cho vấn đề tốn kém từ những thứ chữa trị bệnh tật, mà là một năng lực phi thường có thể chữa lành được cả các thứ bệnh tật về phần xác, như thbệnh loạn huyết nơi người đàn bà trong Phúc Âm mà các bác sĩ đã bó tay, hay thứ tật mù lòa bất trị nơi người đàn ông chỉ còn biết ngồi ăn xin bên vệ đường.

Sau đây là một trường hợp cho thấy đức tin còn là bảo hiểm nhân thọ – life insurance nữa, không phải ở chỗ như là một tác nhân cần phải chi trả một số tiền tượng trưng nào đó theo hợp đồng qui định cho thân nhân của người quá cố, mà là một quyền lực siêu việt có thể cải tử hoàn sinh cho cả  thân xác con người đã chết 4 ngày bắt đầu xông mùi rữa nát, như nơi trường hợp của Lazarô, người anh em của Matta và Maria trong Phúc Âm Thánh Gioan ở đoạn 11 từ câu 1 đến 44.

Thật thế, trong trường hợp Lazarô được cải từ hoàn sinh, đức tin không xuất phát từ chính bản thân Lazarô, vì Lazarô bấy giờ đã chết và đang ở trong mồ, vào lúc Chúa Giêsu xuất hiện trước mồ của anh. Vậy thì đức tin nào đã giúp anh nhờ đó được cải tử hoàn sinh, nếu không phải là đức tin nơi bà chị ruột Matta của anh, người chẳng những tin thân xác của loài người sẽ phục sinh vào ngày tận thế (xem Gioan 11:24), mà còn tin Chúa Kitô “là sự sống lại và là sự sống, và ai tin vào (Người) thì dù có chết cũng được sống…” (Gioan 11:25-26), cho dù người chết đã được chôn cất trong mồ “4 ngày, hẳn là xông mùi hôi thối” (xem Gioan 11:39-40).

Vấn đề mua bảo hiểm nhân thọ, thực tế ở xã hội Hoa Kỳ hiện nay cho thấy, nếu là thành phần cao niên và có tiền, thì do chính họ tự lo, để khỏi phiền nhà đến con cái, nhưng nếu là thành phần con cái thì được bố mẹ mua cho. Trong trường hợp đức tin của Matta đã giúp cho người em Lazarô của chị nhờ đó được cải tử hoàn sinh cũng có thể so sánh với trướng hợp người thân trong gia đình mua bảo hiểm nhân thọ cho nhau. Tuy nhiên, đức tin là bảo hiểm nhân thọ trong trường hợp của Lazarô không phải là một số tiền bồi hoàn 10 ngàn hay 100 ngàn Mỹ kim từ một tác nhân bảo hiểm nào đó cho cái chết của anh mà là chính sự sống về phần xác của anh đã được thực sự hồi sinh “bước ra khỏi mồ” (Gioan 11:44).

Vào giữa thập niên 1990, khi còn làm cho Regional Center of Orange County, cơ quan phục vụ thành phần chậm phát triển (serving developmentally disabled population) ở Orange County, với vai trò là một Phối Hợp Viên Dịch Vụ (Service Coordinator), tôi đã đến thăm một gia đình Việt Nam ở Orange để thăm một trong cả trăm thân chủ (client) lớn nhỏ của tôi. Thân chủ này là một em gái bấy giờ 7 tuổi, bị chậm phát triển, gây ra bởi tình trạng trục trặc ngay lúc được sinh vào trần gian.

Theo lời của cha mẹ trẻ trung khoảng ngoài tam thập nhi lập của cháu kể lại thì bấy giờ gia đình cháu còn ở bên Louissiana, khi mẹ cháu chuyển bụng thì gọi xe đến đưa gấp vào nhà thương. Tuy nhiên, mãi hai tiếng đồng hồ sau xe mới tới. Trong thời gian đó, nước ối trong bào thai đã tuôn ra hết nhưng thai nhi vẫn còn trong tử cung của người mẹ. Tức là cho tới khi người mẹ sinh con thì bào thai bị ngộp vì không còn nước ối như khi được cưu mang, do đó bộ óc của thai nhi đã bị hư hại ngay trước khi sinh ra, và trở thành một bé gái bị chậm phát triển, khờ khạo, cả đời chỉ ở trong tình trạng đơn sơ hồn nhiên như trẻ nhỏ. Tôi đã an ủi cha mẹ em là người Công giáo rằng: Nước Trời đã thuộc về em ngay trên trần gian này, vì em vĩnh viễn là một trẻ nhỏ không biết đến tội lỗi là gì!

Thế nhưng, vấn đề ở đây liên quan tới đề tài Đức Tin: Bảo Hiểm Sức Khỏe và Nhân Thọ không phải là bé gái thân chủ bị chậm phát triển này của tôi mà là đứa em trái của cháu. Tiện kể lại câu chuyện về đứa con gái đầu lòng hết sức tội nghiệp của mình, cha mẹ cháu còn kể cho tôi nghe cả câu chuyện về đứa con trai của anh chị nữa. Theo anh chị thì khi cháu được cưu mang, bác sĩ sản phụ khoa của mẹ cháu khuyên cha mẹ cháu phá thai. Lý do là vì chị cháu bị dị tật bẩm sinh chậm phát triển thì cháu cũng sẽ bị như thế. Theo tâm lý, như được thấy nơi một số gia đình có con bị chậm phát triển tôi được hân hạnh phục vụ, thường không dám có thêm đứa thứ hai, vì chỉ sợ lại sinh ra một đứa con bị “tàn tật” nữa, vừa tội nghiệp cho nó vừa nặng gánh cho mình.

Cảm thấy lo âu về tương lai của đứa con thứ hai của mình trước lời khuyên của bác sĩ, hai vợ chồng cảm thấy buồn và suy nghĩ cầu nguyện rất nhiều, để rồi, khi nghe bác sĩ (Công giáo!) của mình khuyên giục đến lần thứ 3, anh chị đã nhã nhặn nhưng cương quyết trả lời rằng: “Chúng tôi là người Công giáo, chúng tôi không được phá thai!” Và chính nhờ quyết định mãnh liệt rất Công giáo này mà đứa con trai thứ hai của anh chị, bầy giờ đứng trước mặt tôi, quả thật là một cháu trái kháu khỉnh và khỏe mạnh tốt lành. Như thế, trong trường hợp này, nều nhờ đức tin của bố mẹ mình mà cháu trai này đã được thoát chết, thì đức tin không phải là một thứ bảo hiểm nhân thọ hay sao?

Thực tế cũng cho thấy đức tin quả thực là một thứ bảo hiểm nhân thọ nữa nơi những Kitô hữu sống bởi đức tin. Thật vậy, vào ngày mùng 3 tháng 8 năm 1992, người ta thấy một người đàn ông 40 tuổi nằm chết trong một chiếc xe hơi cũ, đậu dưới bóng cây trong một sân chùa ở Miền Nam California, bỏ lại 1 người vợ … và 2 con trai. Người đàn ông tự tử này chính là Thi sĩ … có tiếng trong cộng đồng người Việt hải ngoại nói chung và Khu Tiểu Sài Gòn nói riêng. Anh rời Việt Nam năm 1980 ở Pháp và sang Mỹ năm 1981, định cư ở Orange County . Thi Sĩ … bắt đầu làm thơ từ thiếu thời, … từ năm 1966 khi mới lên 14 tuổi…  Thế nhưng, thơ của anh chỉ nổi tiếng khi thơ của anh được một số thầy giáo gửi đăng báo của nhà văn Mai Thảo, và được nhạc sĩ Phạm Duy và Nguyễn Đức Quang phổ nhạc… Thế rồi, cuộc đời của một thi sĩ trẻ khá tiếng tăm như vậy đã kết thúc bằng một cái chết được coi là tự tử vì thất tình!

Sau thời gian này một thời gian khoảng 4 năm, tôi có một người bạn khá nổi tiếng trong cộng đồng Công giáo Việt Nam Giáo Phận Orange, lớn hơn thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên 6 tuổi. Cũng có vợ và 2 người con trai, thế nhưng bị vợ bỏ ở vào tuổi ngũ tuần. Ở trong tình trạng mất cả vợ lẫn con, lại long đong lận đận về nghề nghiệp, anh đã cảm thấy buồn khổ đến cùng tận. Có đêm anh không ngủ được và đã gọi đến nói chuyện với tôi để tâm sự trong nước mắt đầy những nghẹn ngào, tìm một chút an ủi nơi tôi là người bạn hết sức thông cảm với anh và tìm cách an ủi nâng đỡ tinh thần cho anh.

Anh đã thú nhận với tôi rằng: “Tâm lý chẳng giúp gì mình được, chỉ có đức tin mà thôi!”. Đúng thế, trong trường hợp của người bạn này, đức tin quả thực là bảo hiểm nhân thọ cho anh ta, bằng không, anh cũng có thể rơi vào trường hợp của Thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên khi số phận oan khiên đầy nghiệt ngã đẩy anh vào ngỏ cụt “no way out” của cuộc sống bằng cái chết đáng thương như người thi sĩ ấy. Đức tin trong trường hợp của anh bạn này phải nói là một thứ super therapy – siêu trị liệu, nhờ đó, anh bạn của tôi chẳng những không nản chí buông xuôi tất cả mọi sự, mà còn nhờ đó biết mình hơn và biết Chúa hơn bao giờ hết, bằng lời tuyên xưng sâu xa rằng: “Con biết Chúa nghe con!”.

Thế nhưng, để làm sao có được một đức tin là bảo hiểm sức khỏe và nhân thọ như thế, là một thứ siêu trị liệu – super therapy như vậy, là một quyền lực có thể ảnh hưởng đến cả phương diện thể lý của Kitô hữu, nếu không phải ở chỗ Kitô hữu sống đức tin của mình bằng chính việc hết lòng trân quí, cẩn thận bảo trì và nỗ lực trau dồi sức khỏe của mình được trời ban cho để nhờ đó nó trở thành phương tiện hữu dụng và đắc lực phục vụ Chúa và Giáo Hội của Ngài!?

Tuy nhiên, cho dù con người có cẩn thận gìn giữ và trau dồi sức khỏe là vàng mấy đi nữa, bởi hậu quả của nguyên tội và định luật đào thải của thiên nhiên theo bản tính hữu hạn của tạo vật, con người cũng vẫn không thể nào trường thọ bất diệt trên trái đất và trần gian mau qua tạm gửi này được. Trong khi đó, tận thâm tâm của con người, qua nỗi lo sợ bị chết đi, hằng khao khát được trường sinh vĩnh phúc.

Bởi thế, một con người dồi dào sức khỏe và sống lâu trăm tuổi mà làm gì cuối cùng không được sống vinh phúc trong cõi vĩnh hằng thì chỉ là vô nghĩa và đáng tiếc. Không có một hãng bảo hiểm nào có thể bồi thường cho tình trạng đời đời hư đi vô cùng khốn nạn của họ. Chỉ có một bảo hiểm duy nhất có thể bảo đảm sự sống đời đời của chung con người và riêng Kitô hữu mà thôi, đó là đức tin, một thứ bảo hiểm nhân thọ không phải về phương diện tự nhiên mà là về lãnh vực siêu nhiên, một thứ bảo hiểm cần phải được họ mua bằng đức bác ái của họ: vì “đức tin hoạt động qua đức mến” (Galata 5:6), để nhờ đó họ được bồi hoàn 100% trong cuộc chung thẩm cho cả thành phần chiên lẫn dê (xem Mathêu 25:31-46).

Kỳ vọng gì vào chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch VN?

Kỳ vọng gì vào chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch VN?

Chân Như, phóng viên RFA

RFA
2013-07-18

TruongTanSangOBama-HaNoi.jpg

Chủ tịch VN Trương Tấn Sang gặp gỡ TT Hoa Kỳ Barack Obama tại Hội nghị cấp cao APEC 19 tháng 11/2011

AFP photo

Vào ngày 25 tháng 7 tới đây, chủ tịch nước Việt Nam ông Trương Tấn Sang sẽ có chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ. Thông cáo của Nhà trắng cho biết cuộc gặp này là cơ hội để hai bên thảo luận nhằm thắt chặt hơn nữa quan hệ đối tác liên quan đến các vần đề chiến lược trong khu vực và cải thiện hợp tác giữa Mỹ và khối Asean. Cũng như vấn đề về nhân quyền, thay đổi khí hậu và thảo thuận đối tác xuyên Thái Bình Dương cũng sẽ được thảo luận.

Giới blogger và các nhà dân chủ trong nước đánh giá sao về chuyến đi này của chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang? Chia sẻ với chúng tôi, blogger JB Nguyễn Hữu Vinh, từ Hà nội cho rằng ông không đặt nhiều kỳ vọng lớn lắm cho cuộc gặp này vì khó lòng để có được 1 sự thay đổi sau chuyến thăm của ông Trương Tấn Sang:

Theo cách  nghĩ của tôi , việc ông Trương Tấn Sang đi thăm Mỹ thì chúng tôi là những người trong nước và chúng tôi cũng biết được việc viếng thăm của các ông ấy nhưng chúng tôi cũng không đặt một kỳ vọng nào lớn lắm về những chuyến viếng thăm như vậy.

Tôi còn nhớ năm 2007, ông Nguyễn Minh Triết sang Mỹ, thậm chí người ta còn đề cập đến những phiên tòa như phiên tòa xử “bịt mồm linh mục Thadeus Nguyễn Văn Lý”. Và ông ta khẳng định những phiên tòa mà bịt mồm như thế là không thể chấp nhận được. Thế rồi trở lại Việt Nam thì  có những  phiên tòa không chỉ bịt mồm mà có  bịt  tất cả các lối vào các phiên tòa ấy. Cho nên những vấn đề ấy vẫn như thế đối với những bloggers, những người phát biểu những chính kiến không vừa lòng nhà nước vẫn bị bắt bớ và bắt bớ hàng loạt.


“Chúng tôi là những người trong nước và chúng tôi cũng biết được việc viếng thăm của các ông ấy nhưng chúng tôi cũng không đặt một kỳ vọng nào lớn lắm về những chuyến viếng thăm như vậy.
– JB Nguyễn Hữu Vinh”

Đây là một quá trình dài chứ không phải là một cá nhân hay một nhân vật hay một chuyến đi thăm của một ông Chủ tịch nước, một ông Tổng bí thư hoặc ông nọ, ông kia mà nó có thể tạo ra một sự thay đổi để mà hy vọng. Chúng tôi không có hy vọng như vậy bởi vì đây là sản phẩm của một chế độ, một thể chế, một chính sách của một đảng lãnh đạo chứ không phải một cá nhân nào làm nên điều đó.

Do vậy việc ông Trương Tấn Sang sang Mỹ hay như vừa rồi ông sang Trung Quốc, tôi cảm thấy càng ngày càng thấy nản hơn vì chính sách đối ngoại như thế nên tôi không quan tâm để mà hy vọng có một cái gì đó cho vấn đề nhân quyền hay những vấn đề khác.

Bà Bùi Thị Minh Hằng, một tiếng nói đấu tranh cho nhân quyền tại Việt Nam cũng đồng quan điểm như blogger JB Ngyễn Hữu Vinh, bà cho rằng với chuyến thăm Hoa Kỳ lần này, người dân trong nước cũng không có một động thái gì để tin tưởng rằng sẽ có mục tiêu tốt đẹp, bà cho biết:

Liên tiếp trong những ngày vừa qua thì những nhà lãnh đạo của Việt Nam thi nhau đi công du các nước. Trước chuyến đi Mỹ của chủ tịch nước Trương Tấn Sang thì ông ta đã qua thăm Trung Quốc trước.

Rõ ràng người dân Việt Nam thấy rất thất vọng bởi vì ngay sau chuyến viếng thăm Trung Quốc thì đã có  câu trả lời cho nhân dân Việt Nam : đấy là những cuộc tấn công của những tàu Trung Quốc vào ngư dân Việt Nam. Điều đó cho ta thấy là nhà cầm quyền Việt Nam đã bị lún quá sâu vào sự quị lụy đối với nhà cầm quyền Trung Quốc.


“Theo đánh giá của tôi thì chuyến đi của ông Sang sang Hoa Kỳ sẽ nhằm nâng cao vị thế của Việt Nam và cân bằng quan hệ với Trung Quốc.
– LS Nguyễn Văn Đài “

Trong chuyến đi Mỹ tới đây, nhân dân Việt Nam ở trong nước có lẽ sẽ không có một động thái gì để mà tin tưởng là sẽ có một mục tiêu tốt đẹp; sẽ không có một sự thay đổi nào đối với xã hội Việt Nam trong tình cảnh hiện nay. Những động thái cho thấy là họ hoàn toàn không muốn thay đổi theo cái hướng dân chủ và tốt đẹp đối với người dân. Do vậy trước chuyến đi của chủ tịch nước Trương Tấn Sang thì người dân đều có những dư luận phán đoán nó sẽ là những cuộc mặc cả về dân chủ thì đúng hơn là sự cải thiện về dân chủ.

Đối với những người hoạt động nhân quyền như LS Nguyễn Văn Đài thì ông mong rằng chuyến đi này của ông Trương Tấn Sang sẽ giúp cải thiện nhân quyền cho Việt Nam, ông chia sẻ:

Theo đánh giá của tôi thì chuyến đi của ông Sang sang Hoa Kỳ sẽ nhằm nâng cao vị thế của Việt Nam và cân bằng quan hệ với Trung Quốc. Như chúng ta đã biết, một trong những trở ngại chính trong quan hệ giữa Việt nam và Hoa Kỳ là vấn đề nhân quyền. Trong suốt từ năm 2007 đến nay thì mỗi một năm trôi qua, Việt Nam lại gia tăng đàn áp nhân quyền đối với người dân rất là cao.

Đặc biệt trong những tháng đầu năm nay thì đã có đến khoảng 40 người bị xét xử và cầm tù, có ngưới với mức án cao nhất là chung thân và tổng cộng lên đến hàng trăm năm tù. Đối với những người hoạt động nhân quyền và thúc đẩy tiến trình dân chủ ở Việt Nam như chúng tôi thì chúng tôi cũng mong rằng việc ông Sang sang Hoa Kỳ sẽ nhằm mang lại sự cải thiện tình trạng nhân quyền ở Việt Nam, nhằm giúp cho tất mọi người dân Việt Nam có được bầu không khí chính trị cởi mở hơn và từ đó sẽ là bước đệm để mở ra một kỷ nguyên mới cho Việt Nam trong việc hội nhập quốc tế cũng như là cải cách dân chủ.

Được biết nhân chuyến thăm Hoa Kỳ lần này, đã có ít nhất 2 thỉnh nguyện thư đã được phát động trên mạng, nhằm thu hút chữ ký của hàng ngàn người cả trong lẫn ngoài nước, để kêu gọi TT Hoa Kỳ đặt nhân quyền Việt Nam là ưu tiên trên các vấn đề về mậu dịch với Việt Nam. Ngoài các thỉnh nguyện thư trên mạng, còn có chiến dịch kêu gọi mọi người viết thư tay gửi thẳng đến các lãnh đạo Hoa Kỳ, đề nghị nêu vấn đề nhân quyền trong cuộc gặp cấp cao Việt-Mỹ tại Tòa Bạch Ốc vào tuần tới.Đây là lần đầu tiên ông Trương Tấn Sang thăm Mỹ trong cương vị Chủ tịch nước, và cũng là lần thứ hai một Chủ tịch Việt Nam tới Washington.

Phái đoàn Việt Nam tham dự Ngày Giới trẻ Thế giới

Phái đoàn Việt Nam tham dự Ngày Giới trẻ Thế giới

WHĐ (11.07.2013) – Trong tình hiệp thông với Đức Thánh Cha và các bạn trẻ đến từ bốn phương, đại diện giới trẻViệt Nam sẽ có mặt trong Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 28, được tổ chức tại thành phố Rio de Janeiro, Braxin, từ ngày 23 đến 28 tháng 7 năm 2013. Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ đến gặp gỡ các bạn trẻ trong dịp này. Ngài sẽ chủ sự giờ canh thức cầu nguyện đêm thứ bảy 27-07 và thánh lễ sáng 28-07.

Với chủ đề “Các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ!” (Mt 28,19), các bạn trẻ được mời gọi học hỏi và suy tư về sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo Hội, đồng thời cũng là sứ mạng của người trẻ trong xã hội hôm nay.

Rio là thành phố lớn thứ hai của Braxin, đã chuẩn bị sẵn sàng để tiếp đón các tham dự viên đến từ khắp nơi trên thế giới.

Phái đoàn Việt Nam gồm 3 giám mục (Đức cha Micae Hoàng Đức Oanh, Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp và Đức cha Giuse Vũ Văn Thiên) và 24 thành viên, trong đó có 14 linh mục và 10 giáo dân. Hiện nay phái đoàn đang hoàn tất những thủ tục để xin visa nhập cảnh và sẽ lên đường vào ngày Chúa nhật 21-07-2013.

Chúng ta cầu nguyện cho sự thành công của Ngày Giới trẻ Thế giới và cho phái đoàn Việt Nam thực sự mang đến cuộc gặp gỡ này những nét văn hóa rất riêng của người công giáo là con cháu Lạc Hồng.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Ngày Giới trẻ Thế giới Rio 2013 qua những con số

WHĐ (17.07.2013)– Những ngày này, khi hàng trăm ngànbạn trẻ Công giáo lũ lượt tuốn về Brazil, cũng là lúc các điều phối viên Ngày Giới trẻ Thế giới (GTTG) Rio de Janeiro đang hoàn tất những chuẩn bị cuối cùng cho Đại hội dự kiến sẽ đón tiếp đến 2,5 triệu người.

Tính đến ngày 15 tháng Bảy, hơn 320.000 người đã ghi danh tham dự sự kiện này. Điều phối viên truyền thông Carol Castro cho biết nhiều người sẽ ghi danh khi đến nơi, và sẽ có nhiều người tham gia các sự kiện mà không ghi danh.

Các quốc gia có số người ghi danh đông nhất là Brazil, Argentina và Hoa Kỳ, nhưng cũng có những bạn trẻ đến từ những nơi xa như Slovakia, Philippines và Việt Nam.

Hơn 8.400 linh mục từ khắp nơi trên thế giới đã xin xác nhận để tham gia sự kiện này. Khoảng 5.500 phóng viênđã được cấp phép để tường thuật chuyến tông du quốc tế đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô.

Trong số người tham dự đã ghi danh có 55 phần trăm là nữ và 60 phần trăm trong độ tuổi từ 19 đến 34. Khoảng 300.000 giường tại các gia đình, trung tâm thể thao và trường học ở Rio được dành sẵn cho các tham dự viên Ngày GTTG.

Ban tổ chức cho biết có hơn 270 địa điểm giảng dạy giáo lý bằng 26 ngôn ngữ, trong đó có tiếng Ba Lan, Latvia, Quan Thoại và Flemish.

Trong suốt tuần lễ Đại hội, sẽ có 60.000 tình nguyện viên, trong đó 7.000 là người nước ngoài, sẵn sàng giúp đỡ và hướng dẫn khách hành hương đến các địa điểm diễn ra các sựkiện ở Rio. Gần 800 ca sĩ, vũ công, diễn viên và nhạc sĩ sẽ tham gia vào những sự kiện chính.

Ban tổ chức đã chuẩn bị 4 triệu bánh lễ và 100 tòa giải tội.

Ngày 25 tháng Bảy, Đức Thánh Cha sẽ chào đón khách hành hương trên một lễ đài nhìn ra bãi biển Copacabana. Để phục vụ những người không thể đến được khu vực chính, ban tổ chức đã đặt 2 màn hình lớn và 16 màn hình nhỏ hơn cùng với 26 tháp âm thanh.

Đêm canh thức 27 tháng Bảy được tổ chức bên ngoài thành phố, tại một khu vực rộng tương đương 150 sân bóng đá, được gọi là Campus Fidei (Cánh đồng Đức Tin). Đây cũng là nơi Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành Thánhlễ bế mạc vào ngày 28 tháng Bảy. Có 33 màn hình lớn ngoài trời giúp mọi người dễdàng tham dự Thánh lễ.

Những người nghỉ qua đêm tại khu vực này sẽcó thêm tiện nghi thoải mái với 4.673 phòng tắm di động, trong đó có 270 phòng thiết kế cho người khuyết tật.

Hơn 12 triệu lít nước được cung cấp cho cáckhách hành hương, phân bố ở 177 địađiểm trên khắp khu vực.

Lực lượng vũ trang của Brazil chịu trách nhiệm bảo đảm an toàn cho những người hành hương tại Campus Fidei. 1.500 binh sĩ sẽ đóng quân bên trong CampusFidei trong khi lực lượng an ninh quốc gia có 1.300 người tuần tra cả bên trong và bên ngoài khu vực canh thức.

Trong suốt thời gian diễn ra Đại hội, hơn 10.200 đơn vị quân đội sẽ phụ trách giữ an ninh cho khách hành hương. Sốthành viên của các lực lượng vũ trang được huy động để bảo đảm an ninh cho khách hành hương đã tăng thêm (từ 8.500) sau các cuộc biểu tình chính trị-xã hội gần đây tại một số thành phố ở Brazil. Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ được 600 nhân viên quân sự và 80 người thuộc cảnh sát liên bang Brazil bảo vệ, không kể cảnh sát Vatican cùng đi với ngài.

(Theo CNS)

Minh Đức

TÌM HIỂU SỨ ĐIỆP NGÀY GIỚI TRẺ THẾ GIỚI 2013 CỦA ĐỨC THÁNH CHA BÊ-NÊ-ĐÍC-TÔ XVI

H. Ngày Giới Trẻ Thế Giới còn được gọi là ngày gì?

T. Ngày Giới Trẻ Thế Giới còn được gọi là Ngày Quốc Tế Giới Trẻ.

H. Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế Giới Trẻ) năm 2013 sẽ diễn ra khi nào và ở đâu?

T. Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) năm 2013 diễn ra từ ngày 23 đến ngày 28 tháng 7 năm 2013 tại thành phố Rio de Janeiro thủ đô Bra-xin.

H. Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế Giới Trẻ) năm 2013 là Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ bao nhiêu?

T. Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế Giới Trẻ) năm 2013 là Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế Giới Trẻ) lần thứ 28, kể từ ngày được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II thành lập.

H. Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế Giới Trẻ) 2013 là của Đức Giáo Hoàng nào?

T. Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế Giới Trẻ) 2013 là của Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI. Ngài công bố Sứ điệp này vào ngày 16/11/2012 khi Ngài còn tại chức Giáo Hoàng.

H. Đức Giáo Hoàng nào sẽ hiện diện trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) tại Rio de Janeiro?

T. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô sẽ hiện diện trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế Giới Trẻ)  tại Rio de Janeiro.

H. Chủ đề của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế Giới Trẻ) 2013 của Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI là gì?

T. Chủ đề của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế Giới Trẻ) 2013 của Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI là:  “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ”

H. Chủ đề của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế Giới Trẻ) 2013 có xuất xứ từ đâu?

T. Chủ đề của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế Giới Trẻ) 2013 có xuất xứ từ chính Lời của Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh nói với các Tông đồ, trong Tin Mừng Mát-thêu, chương 28 cầu 19.

H. Trong Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế Giới Trẻ) lần thứ 28 Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI triển khai chủ đề như thế nào?

T. Trong Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế Giới Trẻ) lần thứ 28 Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI triển khai chủ đề qua lời mở đầu và 6 số

Số 1:  Một lời mời gọi cấp bách

Số 2:  Trở nên môn đệ của Đức Ki-tô

Số 3:  Các con hãy ra đi

Số 4:  Hãy qui tụ muôn nước

Số 5:  Hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ

Số 6:  Hãy kiên vững trong đức tin

Số 7:  Với toàn thể Giáo Hội

Số 8: “Lạy Chúa, này con đây”

Và lời kết thúc

H. Trong “lời mở đầu” của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) lần thứ 28 Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI viết/nói gì với người trẻ

T. Trong “lời mở đầu” của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) lần thứ 28 Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI

(a) gửi lời chào đầy niềm vui và yêu thương đến tất cả các người trẻ,

(b) mời gọi các người trẻ tham dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế Giới Trẻ) lần thứ 28 tại Rio de Janeiro (Bra-xin) từ ngày 23 đến 28 tháng 7 năm 2013,

(c) nhắc đến tượng Chúa Giê-su Ki-tô Chúa Cứu Thế tại Rio de Janeiro là một biểu tượng nhiều ý nghĩa,

(d) mời gọi các người trẻ chuẩn bị cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) lần thứ 28 tại Rio de Janeiro (Bra-xin) bằng việc suy niệm trên chủ đề của Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế Giới Trẻ) năm 2013: “Hãy đi và làm cho muôn đân trở thành môn đệ” (Mt 28,19).

H. Trong tựa đề “một lời mời gọi cấp bách” (số 1) của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) lần thứ 28 Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI viết/nói gì với người trẻ?

T. Trong tựa đề “một lời mời gọi cấp bách” (số 1) của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) lần thứ 28 Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI

(a) nhắc đến nhiều người đã đóng góp cho việc mở mang Nước Chúa:

“với sự quảng đại bỏ mình, đã có những đóng góp lớn lao cho Nước Thiên Chúa và sự phát triển của thế giới này ngang qua việc công bố Tin Mừng. Được đổ đầy với lòng nhiệt thành, họ đã mang Tin Mừng Tình Yêu được biểu lộ nơi Đức Kitô; họ sử dụng những phương thế và những khả năng yếu kém hơn nhiều so với những gì chúng ta có hôm nay.

(b) nhắc lại tầm quan trọng của đức tin:

Đức tin giúp chúng ta hiểu rằng đời sống của mỗi người là vô giá vì mỗi người trong chúng ta là hoa trái của tình yêu. Thiên Chúa yêu thương mọi người, kể cả những ai đã rời xa hay xem thường Ngài. Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn chờ đợi. Thực vậy, Thiên Chúa đã cho con một của mình chết và sống lại để giải phóng chúng ta khỏi mọi tội lỗi. Đức Kitô đã sai các môn đệ của mình lên đường để mang niềm vui cứu độ và sự sống mới này đến với muôn dân trên khắp muôn nơi.”

(c) khẳng định sự trông chờ của Giáo Hội nơi người trẻ:

“Tiếp nối sứ mạng Phúc Âm Hoá này, Giáo hội trông chờ nơi các con. Các bạn trẻ thân mến, các con sẽ là những nhà truyền giáo tiên phong trong thời đại của các con.”

(d) nhắc lại sứ điệp của Công Đồng Vatican II và Đức Thánh Cha Phao-lô VI gửi các người trẻ ngày 12 tháng 8 năm 1965:

“Các bạn trẻ nam và nữ thân mến, chính các con là những người mà Công đồng muốn nhắn nhủ những thông điệp cuối cùng của mình. Vì chính các con là những người đã lãnh nhận ngọn đuốc từ tay những người đi trước, là những người sống trong một thế giới có những sự biến chuyển lớn lao chưa từng có trong lịch sử. Chính các con, khi đón nhận các mẫu gương sống động cũng như những lời khuyên nhủ của cha mẹ và thầy cô, các con sẽ là những người khuôn đúc nên xã hội mai sau. Một xã hội mà các con có thể được cứu hay bị diệt vong trong đó. Thông điệp kết thúc với những từ ngữ: “Với lòng nhiệt thành, các con hãy xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn”

(e) nhấn mạnh rằng:

“hôm nay đây lời gọi này vẫn còn cần thiết”

H. Trong tựa đề “trở nên môn đệ của Đức Ki-tô” (số 2) của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) lần thứ 28 Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI viết/nói gì với người trẻ?

T. Trong tựa đề “trở nên môn đệ của Đức Ki-tô” (số 2) của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) lần thứ 28 Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI

(a) nhắc nhở các người trẻ nhớ kỹ: “ơn gọi truyền giáo gắn liền với hành trình phát triển đức tin”.

(b) khẳng định với các người trẻ điều tối quan trọng:

Trở nên một nhà truyền giáo nghĩa là gì? Trên hết, nó có nghĩa là trở nên môn đệ của Đức Ki-tô. Nó có nghĩa là lắng nghe sự mới mẻ trong lời mời gọi theo Ngài và cậy dựa vào Ngài: “Hãy học với tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29). Một người môn đệ là người chú ý đến lời của Đức Giê-su; người hiểu rằng Đức Giê-su là Thầy và là Đấng đã yêu thương chúng ta đến nỗi hiến mạng sống mình vì chúng ta. Vì thế, mỗi một người trong chúng ta nên để cho mình được khuôn đúc bởi lời của Thiên Chúa mỗi ngày. Điều này làm cho chúng ta trở thành bạn của Thiên Chúa, Đức Giê-su, và có thể dẫn những người trẻ khác đến và trở nên bạn với Ngài.”

(c) khuyến khích các người trẻ:

Cha khuyến khích các con hãy nhớ đến những quà tặng đã lãnh nhận từ Thiên Chúa, để đến lượt mình, các con cũng có thể trao ban cho người khác. Hãy đọc lại lịch sử cá nhân đời mình. Hãy ý thức về những di sản tuyệt các con đã lãnh nhận được từ các thế hệ trước. Có rất nhiều người, được đổ đầy bởi niềm tin, đã can đảm để trao ban đức tin cho dẫu phải đối diện với bao nhiêu thử thách và hiểu lầm. Chúng ta đừng bao giờ quên mình là những mắt xích quan trọng trong một dây chuyền vĩ đại nơi đó những người nam và người nữ đã thông truyền chân lý đức tin và họ cần chúng ta để có thể thông truyền nó cho người khác. Trở nên một nhà truyền giáo giả thiết một sự hiểu biết về di sản này, đức tin của Giáo Hội. Thật cần thiết để ý thức rằng các con tin vào điều gì để có thể công bố điều đó.”

H. Trong tựa đề “các con hãy ra đi” (số 3) của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) lần thứ 28 Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI viết/nói gì với người trẻ?

T. Trong tựa đề “các con hãy ra đi” (số 3) của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) lần thứ 28 Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI

(a) nhắc lại lệnh truyền của Chúa Giê-su Ki-tô:

“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án” (Mc 16,15-16).

(b) nêu một cách hiểu chính xác và sâu sắc về Phúc Âm hóa:

Phúc Âm hoá có nghĩa là mang Tin Mừng Cứu Độ đến cho người khác và giúp họ hiểu rằng Tin Mừng chính là một con người: Đức Giê-su Ki-tô. Khi tôi gặp gỡ Ngài, khi tôi khám phá ra Thiên Chúa đã cứu độ tôi và Ngài yêu tôi biết dường bao. Lúc đó, tôi cảm thấy không chỉ khao khát nhưng còn là một nhu cầu để làm cho Thiên Chúa được người khác biết đến. Khởi đầu Tin Mừng của Thánh Gio-an, chúng ta thấy Anrê, sau khi gặp Đức Giê-su đã lập tức dẫn người em mình là Simon đến với Ngài (Ga 1,40-42). Phúc Âm hoá luôn khởi đi từ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Những người đã đến với Đức Giê-su và đã kinh nghiệm về tình yêu của Ngài, lập tức họ sẽ muốn chia sẻ vẻ đẹp và niềm vui phát sinh từ tình bạn có được với Đức Ki-tô. Càng biết về Đức Giê-su, chúng ta càng muốn nói về Ngài. Càng thưa chuyện với Đức Ki-tô, chúng ta càng khao khát để nói về Ngài. Càng để Đức Giê-su chiếm đoạt mình, chúng ta càng khao khát lôi kéo người khác về với Ngài.”

(c) nhắc đến tầm quan trọng của các Bí Tích và Chúa Thánh Thần:

Ngang qua Bí Tích Rửa Tội, Bí tích mang cho chúng ta sự sống mới, Chúa Thánh Thần cư ngụ nơi chúng ta và Ngài thắp lên ngọn lửa trong tâm trí và con tim ta. Chúa Thánh Thần sẽ dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa và giúp chúng ta đi sâu với tình bạn với Đức Ki-tô. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng khích lệ chúng ta làm điều thiện, phục vụ người khác và từ bỏ mình. Qua Bí Tích Thêm Sức, chúng ta được trở nên mạnh mẽ nhờ ơn huệ của Thánh Thần để có thể làm chứng cho Tin Mừng một cách trưởng thành hơn. Do đó, chính Thánh Thần của tình yêu là nguồn trợ lực cho sứ mạng chúng ta. Thánh Thần thúc đẩy chúng ta biết “đi ra” khỏi mình và “ra đi” để loan truyền Tin Mừng”.

(d) khuyên các người trẻ:

“Các con hãy để cho chính mình được dẫn dắt bởi tình yêu Thiên Chúa. Hãy để cho tình yêu đó giúp các con vượt qua mọi khuynh hướng khép kín lại nơi thế giới, nơi các vấn đề và thói quen của mình. Hãy can đảm để “đi ra” khỏi mình, “để đến” với người khác và chỉ cho họ thấy con đường gặp gỡ Thiên Chúa.”

H. Trong tựa đề “hãy qui tụ muôn nước” (số 4) của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) lần thứ 28 Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI viết/nói gì với người trẻ?

T. Trong tựa đề “hãy qui tụ muôn nước” (số 4) của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) lần thứ 28 Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI

(a) lưu ý các người trẻ về nhu cầu truyền giáo và kêu gọi họ ra đi:

“Các con hãy mở mắt và nhìn xem xung quanh mình vẫn còn đó biết bao nhiêu người trẻ không tìm thầy ý nghĩa của cuộc đời. Hãy ra đi! Đức Giêsu cần các con. Hãy để cho chính mình bị bắt chộp và bị lôi kéo bởi tình yêu của Ngài. Hãy ở lại để phục vụ tình yêu lớn lao này vì nhớ đó tình yêu này có thể vươn tới mọi người, đặc biệt là những người “ở xa”.

(b) lưu ý các người trẻ về các lãnh vực cần họ dấn thân:

Các quốc gia” mà chúng ta được mời gọi để đi đến, không chỉ là những quốc gia trên thế giới nhưng cũng chính là những lãnh vực khác nhau trong đời sống chúng ta, như gia đình, cộng đoàn, môi trường học đường và làm việc, các nhóm bạn và những nơi chúng ta trải qua thời gian rảnh rỗi của mình. Việc công bố Tin Mừng trong niềm vui có nghĩa là Tin Mừng được công bố cho mọi lĩnh vực của đời sống chúng ta, không có một loại trừ nào.”

(c) cách riêng hai lãnh vực:

“truyền thông xã hội, cụ thể là thế giới mạng” vàdu lịch và di dân”

H. Trong tựa đề “hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (số 5) của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) lần thứ 28 Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI viết/nói gì với người trẻ?

T. Trong tựa đề “hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (số 5) của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) lần thứ 28 Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI

(a) nhắc lại lời của chính Chúa Ki-tô:

“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20).

(b) kêu gọi các người trẻ tự vấn về hành động truyền giáo:

Con đường để làm cho muôn dân trở thành môn đệ là thông qua Phép Rửa và việc học giáo lý. Như vậy, để dẫn người khác đi vào cuộc gặp gỡ với Đức Giê-su trước hết phải là một cuộc gặp gỡ sống động ngang qua Lời và các Bích Tích. Theo cách này, họ có thể tin vào Ngài; họ có thể đi đến việc biết Người và sống trong ân sủng của Ngài. Cha muốn mỗi người trong các con hãy tự vấn chính mình: Tôi đã bao giờ có đủ can đảm để đề nghị một người trẻ lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội chưa? Tôi đã bao giờ mời gọi ai đó dấn thân vào hành trình khám phá niềm tin Ki-tô giáo chưa? Các bạn thân mến, đừng e ngại đề nghị một cuộc gặp gỡ với Đức Ki-tô cho con người trong thời đại hôm nay. Hãy cầu xin sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần sẽ chỉ cho các bạn con đường để hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa nhiều hơn, và để trở nên đầy sáng tạo trong việc công bố Tin Mừng.”

H. Trong tựa đề “kiên vững trong đức tin” (số 6) của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) lần thứ 28 Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI viết/nói gì với người trẻ?

T. Trong tựa đề “kiên vững trong đức tin” (số 6) của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) lần thứ 28 Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI

(a) mời các người trẻ đi sâu vào cầu nguyện và các Bí Tích nhất là Bí Tích Thánh Thể:

Vì thế cha mời gọi các con hãy bén rễ trong cầu nguyện và trong các Bí Tích…. Các con hãy biết tìm đến Thánh Thể là nguồn mạch của đời sống đức tin và của chứng tá Ki-tô hữu của chúng con. Hãy trung thành tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật và bất cứ khi nào có thể. Năng chạy đến với Bí tích Hòa Giải: là một cuộc gặp gỡ quý báu với Lòng Thương Xót Chúa, hằng đón nhận chúng ta, thứ tha và đổi mới con tim chúng ta trong tình yêu. Nếu chúng con chưa lãnh nhận Bí tích Thêm Sức, đừng ngần ngại để lãnh nhận Bí tích ấy, chuẩn bị mình với việc quan tâm và dấn thân. Giống như Bí tích Thánh Thể, Bí tích Thêm Sức là bí tích của sứ mạng, bởi lẽ Bí tích ấy trao cho chúng ta sức mạnh và tình yêu của Thần Khí, để chúng ta tuyên xưng đức tin mà không còn sợ hãi. Cha khuyên các con hãy thực hành chầu Thánh Thể. Thời gian các con lắng nghe và thưa chuyện với Chúa Giê-su hằng hiện diện trong Mình Thánh sẽ trở nên nguồn lực mới mẻ lòng hăng say mới trong truyền giáo.”

(b) khuyến khích các người trẻ kiên trì trong đức tin:

Cha khuyến khích các con hãy kiên trì trong đức tin, tin chắc rằng Đức Ki-tô hằng ở cạnh bên các con trong mọi cơn gian nan thử thách. Ngài hằng lặp đi lặp lại với các con rằng “Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người đời sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế” (Mt 5, 11-12).

H. Trong tựa đề “với toàn thể Giáo hội” (số 7) của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) lần thứ 28 Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI viết/nói gì với người trẻ?

T. Trong tựa đề “với toàn thể Giáo hội” (số 7) của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) lần thứ 28 Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI

(a) nhắc các người trẻ nhớ đến chiều kích cộng đoàn của ơn gọi:

“Không ai có thể làm chứng cho Tin Mừng một mình. Đức Giê-su đã sai các môn đệ vào sứ vụ cùng với nhau. Ngài nói với họ trong số nhiều, khi nói: “Các con hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ.” Chứng tá của chúng ta thường được trao ban với tư cách là thành viên của một cộng đoàn, và sứ mạng của chúng ta chỉ sinh hoa trái nhờ vào sự thông hiệp với Giáo Hội.”

(b) diễn tả lòng biết ơn của ơn gọi của Người đối với các nhà truyền giáo:

Tại đây, cha không thể không diễn tả lòng biết ơn của mình đối với món quà lớn lao của những nhà truyền giáo, những người đã dâng hiến toàn bộ cuộc đời của mình cho công cuộc công bố Tin Mừng đến tận cùng thế giới. Cha cũng tạ ơn Chúa vì các linh mục, các tu sĩ, những người đã dâng hiến mình trọn vẹn để Đức Giê-su Ki-tô được biết đến và được yêu thương. Ở đây, cha cũng muốn khuyến khích những người trẻ, những người được Thiên Chúa kêu gọi hãy nhiệt thành dấn thân vào sứ mạng: “cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Vì đối với những ai từ bỏ mọi thứ để theo Ngài, Đức Giêsu đã hứa ban cho họ gấp trăm ở đời này cùng với sự sống vĩnh cửu ở đời sau (Mt 19,29).

Cha cũng tạ ơn Chúa vì tất các những người giáo dân nam nữ, những người đã nỗ lực hết mình để trở thành nhà truyền giáo bất cứ nơi nào họ đến, dù là ở nhà hay công sở, để Đức Giê-su Ki-tô được yêu mến và được phục vụ và để Nước Thiên Chúa được lớn lên. Một cách đặc biệt, cha nghĩ về những người đang làm việc trong các lĩnh vực giáo dục, chăm sóc sức khỏe, kinh doanh, chính trị và tài chính, và trong nhiều lĩnh vực khác của tông đồ giáo dân. Đức Giê-su cần sự dấn thân và sự làm chứng của các con. Cho dẫu là khó khăn hay thiếu sự hiểu biết, các con đừng để mình bị nản chí trong việc mang Tin Mừng của Đức Giê-su đến bất cứ nơi đâu mà các con hiện diện. Mỗi người trong các con là một mảnh ghép quý giá trong bức tranh Mosiac của công cuộc loan báo Tin Mừng.”

H. Trong tựa đề “lạy Chúa này con đây” (số 8) của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) lần thứ 28 Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI viết/nói gì với người trẻ?

T. Trong tựa đề “lạy Chúa này con đây” (số 8) của Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) lần thứ 28 Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô XVI

(a) nhắc lại lời của ngôn sứ I-sai-a thưa với Chúa, để các người trẻ làm theo:

“Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con!” (Is 6,8).

(b) nói/viết “lời kết thúc” cho Sứ Điệp Ngày Giới Trẻ Thế Giới (hay Ngày Quốc Tế  Giới Trẻ) lần thứ 28, gồm 2 việc:

(*) Đức Thánh Cha dâng lên lời cầu xin với Đức Maria là Ngôi Sao của công cuộc Tân Phúc Âm hóa, để xin Mẹ đồng hành với mỗi người trong sứ mạng làm chứng cho Tình Yêu Thiên Chúa.

(*) Đức Thánh Cha ban phép lành Tòa Thánh cho từng người trong Giới Trẻ.

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội trình bày.