TỪ BÈ TAM ĐIỂM ĐẾN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

TỪ BÈ TAM ĐIỂM ĐẾN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Ngày 26-11-1929, sau trận chiến nội tâm ”tàn-khốc”, ông Einar Berrum quyết định gởi thư đến trụ sở hội tam điểm tại Na-Uy, xin rút tên ra khỏi hội.

Thư gửi đi, ông tức khắc tìm được niềm an bình hạnh phúc khôn tả! Cùng ngày đó, ông đến gặp Cha Sở nhà thờ chính tòa Công Giáo Oslo, thủ đô Na-Uy, xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo .. Bốn năm sau, ông lấy giấy ghi lại cuộc trở về với Giáo Hội Công Giáo.

Con đường dẫn tôi đến với Giáo Hội là con đường bình thường. Có lẽ không bao giờ tôi viết lại, nếu không có người xin tôi viết. Và khi chấp nhận lời yêu cầu, cùng lúc tôi muốn bày tỏ lòng yêu mến và ghi ơn Giáo Hội Công Giáo, Mẹ chúng ta.

Tôi sinh năm 1872 tại Osolo và được may mắn lớn lên trong gia đình Kitô. Thân phụ tôi là tín hữu tin lành mộ đạo.

Sau khi mãn bậc tiểu học, tôi được cha mẹ gửi sang Anh quốc, bắt đầu bậc trung học đệ nhất cấp tại trường Thánh Olave ở thành phố York.

Đây là trường học tin lành. Dĩ nhiên người ta nói với chúng tôi về ông tổ tin lành Luther và trình bày cho chúng tôi biết tất cả thành kiến xấu về Giáo Hội Công Giáo và Vị Giáo Hoàng của Giáo Hội này! Chính trong bầu khí bài xích Giáo Hội Công Giáo mà tôi đi vào thế giới của tôn giáo và của văn chương khoa học.

Tôi không bao giờ quên Chúa Nhật đầu tiên tại thành phố York. Hôm ấy tôi bước vào nhà thờ mang tên Thánh Olave, vị thánh người Na-Uy. Đó là nhà thờ Anh giáo. Ban đầu tôi cứ ngỡ mình đang ở trong nhà thờ Công Giáo, vì lúc ấy, tôi chưa thạo tiếng Anh cho lắm..

Lần đầu tiên trong đời, tôi học biết quỳ gối. Và những nghi lễ trang trọng cùng với thánh ca có nhạc cụ đi kèm, nghe thật du dương và thật sốt sắng. Buổi phụng vụ Chúa Nhật ghi vào lòng tôi một ấn tượng tốt đẹp. Từ đó, tôi có thói quen đến nhà thờ này vào mỗi Chúa Nhật để tham dự các nghi lễ phụng vụ.. Sau này, khi trở lại Oslo, tôi cũng thường đến tham dự các buổi cử hành phụng vụ tại nhà thờ Anh giáo. Tôi đến đây không phải vì tâm tình mộ đạo cho bằng bị lôi cuốn bởi nét đẹp của các buổi cử hành. Thế thôi.

Sau khi mãn bậc trung học đệ nhất cấp tại Anh quốc, tôi trở về Na-Uy học tiếp. Đến năm 1908 – tôi 36 tuổi – xảy ra biến cố làm thay đổi cuộc đời. Thân phụ tôi giữ chức vụ cao trong hội tam điểm. Ông muốn các con trai ông phải ghi tên vào hội này. Ngày 24-4-1908, anh em tôi chính thức ghi tên gia nhập hội tam điểm.

Năm 1918, tôi thành hôn với thanh nữ Đan-Mạch sống tại thủ đô Copenhagen. Hiền thê tôi là tín hữu tin lành đạo đức và là phụ nữ trí thức. Nàng say mê văn chương và thích nghe bài giảng hay. Khi thành hôn với tôi, nàng về sinh sống tại tỉnh nhỏ ở Na-Uy. Chỉ có điều duy nhất nàng cảm thấy nhung nhớ, đó là những bài giảng hay trong các nhà thờ tin lành ở thủ đô Copenhagen.

Một Chúa Nhật mùa chay năm 1928, khi trở về nhà, nàng hớn hở nói với tôi nàng vừa tìm ra vị giảng thuyết thật hay, tại nhà thờ Công Giáo thánh nữ Brigitte. Tôi tỏ dấu tức giận và hờn dỗi, vì thấy vợ tự ý đi tìm nhà thờ Công Giáo, với vị giảng thuyết Công Giáo. Dầu vậy, từ đó, chúng tôi đều đặn đến nghe giảng tại nhà thờ này .. Tuy nhiên, hạnh phúc lứa đôi bắt đầu lung lay. Đôi khi chúng tôi còn cãi vả to tiếng với nhau nữa. Trong khi đó, vợ tôi mỗi ngày một đến gần Giáo Hội Công Giáo.

Ngày 2-12-1928, Chúa Nhật Mùa Vọng, sau khi bất bình với nhau về nhiều sự, vợ tôi vẫn cố gắng thuyết phục tôi đi lễ nơi nhà thờ Các Linh Mục dòng Đaminh tại Oslo. Tôi miễn cưỡng nghe lời vợ. Đến nơi, tôi chọn ngồi vào hàng ghế sau cùng. Nhưng thay vì cảm thấy khó chịu, tôi lại cảm thấy lòng thanh thản lạ thường. Vị Linh Mục chủ lễ và giảng hôm đó là
người Pháp. Vậy mà ngài nói rành tiếng Na-Uy, không thể chê được. Thêm vào đó, bài giảng thật hay. Tôi xúc động thật sự.

Năm sau, ngày 4-10-1929, vợ tôi chính thức gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Cuộc chiến nội tâm của tôi còn kéo dài đến ngày 26-11 cùng năm. Sau đó tôi quyết định ra khỏi hội tam điểm và xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Từ đó tôi tận hưởng niềm an bình hạnh phúc thật sự.

(”Stella Maris”, Octobre/1993, trang 30-31).


Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Maria Thanh Mai gởi

ĐGH Gioan XXIII sau 50 năm Công đồng Vatican II

ĐGH Gioan XXIII sau 50 năm Công đồng Vatican II
Tác giả: Trầm Thiên Thu
Nửa thế kỷ qua, từ sau khi Chân phước GH Gioan XXIII triệu tập Công đồng Vatican II (1962-1965), Giáo hội Công giáo đã được canh tân. Người triệu tập Công đồng Vatican II là một “ông già vui vẻ”, được mệnh danh là “Giáo hoàng Tốt lành” (Good Pope). Ngài đã được Chân phước GH Gioan Phaolô II tôn phong chân phước năm 2000. Liệu vị “Giáo hoàng Tốt lành” có được tôn phong hiển thánh? Có nên như vậy?
Chiều ngày 3-6-1963, ĐGH Gioan XXIII đã đi vào cõi vĩnh hằng sau 4 năm rưỡi làm giáo hoàng. Văn phòng báo chí Tòa Thánh chỉ nói ngắn gọn: “Ngài không còn chịu đau khổ nữa”.
Ngay lập tức, có một phong trào nổii lên do một số người thân cận với ngài muốn ngài được phong thánh, như các vị thánh trong những thế kỷ đầu của Giáo hội. Khóa họp thứ nhất của Công đồng Vatican II kế thúc vào tháng 12-1962, ĐGH Gioan XXIII đã công bố Tông thư Pacem in Terris (Hòa bình trên Thế gian) vào tháng 4-1963 tạo bước ngoặt của đời ngài.
Ngài được lòng nhiều người trên thế giới, những người hiểu biết mức độ quan trọng của lịch sử đối với triều đại giáo hoàng ngắn ngủi và dự án Công đồng Vatican II của ngài.
Được biết, vào lúc ĐHY Leo Suenens (Bỉ), thân cận với ĐGH Gioan XXIII, và có tiếng nói uy tín trong Công đồng Vatican II, ủng hộ việc mau chóng phong hiển thánh cho Chân phước Gioan XXIII. ĐHY Suenens nói rằng người ta cần những con người đương thời mới làm khuôn mẫu cho việc phong thánh để gợi hứng cho họ trong đời sống tâm linh.
Một lời đề nghị được lan truyền trong các giám mục, thúc đẩy tiến hành nhanh, nhưng các vị lãnh đạo theo truyền thống và Bộ phong thánh đã thắng. Người kế vị ĐGH Gioan XXIII là ĐGH Phaolô VI đã tuyên bố năm 1965 rằng hai án phong thánh cùng được mở: ĐGH Piô XII và ĐGH Gioan XXIII. Hai cuộc điều tra được tiến hành, và một vị được phong chân phước năm 2000 là ĐGH Gioan XXIII, ngày xưa gọi là á thánh, bước cuối cùng là hiển thánh.
Ngoài Thánh Phêrô, mới chỉ có 80 trong 264 giáo hoàng được chính thức tôn kính trên bàn thờ. Trong 400 năm qua, Giáo hội vẫn nghiệm ngặt trong việc chính thức mở án phong thánh, điều tra và xác nhận phép lạ. Vì thế, dù thế nào thì cơ hội cho bất kỳ vị giáo hoàng nào được tôn phong hiển thánh cũng rất ít.
Tuy nhiên, ĐGH Gioan XXIII lại khác. Khi hài cốt ngài được chuyển từ hầm mộ  giáo hoàng (papal crypt) bên dưới Đền thờ Thánh Phêrô và cải táng bên dưới Bàn thồ Thánh Jerome ở lầu chính của Đền thờ vào năm 2001, khoản 40.000 người đã tham dự nghi thức cải táng này.
Khi mở quan tài, thi hài ĐGH Gioan XXIII vẫn nguyên vẹn, không hề hư nát (remarkably uncorrupted). Sau gần một ngày, người ta thấy được khuôn mặt của ĐGH Gioan XXIII. ĐHY Virgilio Noe, người giám sát và chịu trách nhiệm vụ này, đã diễn tả khuôn mặt của ĐGH Gioan XXIII vẫn “nguyên vẹn và thanh thản” (intact and serene). Ngài nói rằng các nhân chứng hiện diện khi mở nắp quan tài đã ngạc nhiên và vui mừng khôn tả. Thế giới chỉ mong chờ một phép lạ được xác định là của Chân phước Gioan XXIII là đủ thủ tục.
Rất có thể ngài sẽ được tôn phong hiển thánh vào năm 2013, sau 50 năm ngài qua
đời. Tại sao? Công đồng Vatican II của ĐGH Gioan XXIII đúng là một phép lạ!
Người Công giáo tin rằng, nhờ Chúa Thánh Thần, Công đồng Vatican II đã cứu Giáo
hội Công giáo khỏi tình trạng xơ cứng và suy sụp. Người ta vẫn nói rằng, cứ khoảng 300 năm tới 500 năm, Giáo hội lại cần tái tự kiểm tra và kiểm tra vị trí của mình trên thế giới. Đó là điều đã xảy ra tại Công đồng Nicê (Nicaea) hồi thế kỷ thứ 4 và Công đồng Trentô (Trent) hồi thế kỷ 16 – và đặc biệt là Công đồng Vatican II trong thế kỷ 20.
ĐGH Gioan XXIII tìm cách canh tân Giáo hội, ngài vẫn luôn luôn sống bác ái và
khiêm nhường, qua những tháng ngày đen tối nhất của lịch sử thế giới, khi còn là một linh mục trẻ và một binh sĩ, khi là nhà ngoại giao của Giáo hội, nhất là khi trở thành người kế vị Thánh Phêrô. Chứng cớ đời sống nội tâm của ngài được  ghi rõ trong “Journal of a Soul” (Tờ báo của một Linh hồn), một kiệt tác tôn giáo và phản ánh rõ nét mà ngày nay nên đọc nhiều.
ĐGH Gioan XIII thực sự là một vị thánh, đã và đang được nhiều người yêu mến trên khắp thế giới. Họ không cần sự chấp nhận chính thức của Tòa Thánh xác nhận những gì đã được ghi tạc vào tâm hồn họ.
TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ ReligionNews.com)

Khai mạc “Năm Đức Tin”, 11-10-2012

Chuỗi Mân Côi và Thánh Đa Minh

Chuỗi Mân Côi và Thánh Đa Minh

Tác giả: Robert Feeney

 

Bà Jane ở Aza thánh thiện đến nỗi chiếu sáng như những vì sao trên bầu trời ban đêm. Bà sinh năm 1140, sống ở một lâu đài tại Tây Ban Nha với chồng là Felix, một người được
kính trọng với chức hiệp sĩ. Bà là một phụ nữ hay thương người, đầy lòng trắc ẩn với những người kém may mắn, và giúp đỡ vật chất cho người nghèo.

Bà Jane có 2 con trai là Mannes và Anthony, nhưng bà muốn con thêm nhiều con. Một hôm, bà tới tu viện Silos để cầu xin có thêm một con trai nữa, xin Dòng Silos cầu nguyện giúp bà. Một tu sĩ Dòng Đa Minh nói: “Này chị, lời cầu của chị đã được nghe và Thiên Chúa sẽ ban cho chị một người con trai. Người con đó sẽ là tôi tớ vĩ đại của Thiên Chúa và có thể làm nhiều điều phi thường cho Chúa Kitô và Giáo hội”.

Khi tạ ơn, bà Jane đặt tên cho con trai là Dominic (Đa Minh).

Trước khi sinh con, bà Jane đã có giấc mơ tiên tri linh cảm việc giảng thuyết mà thánh Đa Minh, trong hình con chó trắng đen, chạy đi với ngọn đuốc sáng ngậm ở miệng, thắp sáng khắp thế giới. Bà Jane sinh bé trai Đa Minh tại Calaroga, thuộc Old Castile, năm 1170. Khi Đa Minh được rửa tội tại nhà thờ xứ, mẹ đỡ đầu của ngài cũng thấy ánh sáng chói lọi, nhìn như ngôi sao, trên lông mày của bé Đa Minh. Lúc đó Đa Minh được tiền định là một luồng sáng, một người sẽ soi sáng những người ở trong bóng tối.

Thánh Đa Minh được trông mong nhiều, nhưng ngài không làm thất vọng. Ngài là một thanh niên thông minh, vui vẻ, có chiều cao trung bình, điển trai, diện mạo khá hồng hào, có tiếng nói ấm và vang. Ngài thừa hưởng ở người mẹ lòng súng kính Đức Mẹ, biết giá trị của việc kết hợp việc cầu nguyện bằng lời và bằng tâm linh, nghe biết những câu chuyện về cuộc đời Chúa Giêsu mà ngài biết đó là những mầu nhiệm, và ngài sẽ rao giảng.

Thánh Đa Minh tận hiến cho Thiên Chúa, trở thành linh mục và phục vụ 9 năm ở Osma, sống theo tu luật thánh Augustinô. Có lòng trắc ẩn trước nỗi đau khổ của người khác, ngài cầu nguyện và khóc thương những người tội lỗi và những người đau khổ. Ngài được
nhiều người yêu mến và kính trọng.

Năm 1203, lúc 33 tuổi, ngài rời Osma đi thành phố Fanjeaux thuộc vùng Languedoc, miền Nam Pháp quốc, tại đây ngài giảng đạo gần 13 năm. Trong những hành trình tông đồ, ngài thường dừng lại để cầu nguyện ở Nguyện đường Maria ở Prouille, một làng nhỏ nằm giữa
Fanjeaux và Montreal, không xa núi Pyrenees.

Công việc của ngài không hề dễ dàng. Lúc đó, Pháp quốc bị tà thuyết An-bi-gen (*) đe dọa. Những người theo tà thuyết này cho rằng sự sống trên trái đất là công việc của ma quỷ. Niềm tin này sản sinh một nền văn hóa sự chết khủng khiếp. Những người theo tà thuyết này từ bỏ tính thánh thiện của hôn nhân và sự sinh sản con cái. Việc tự tử được khen ngợi vì nó chấm dứt vấn đề hiện hữu. Những người theo tà thuyết này hoàn toàn bác bỏ các giáo huấn của Giáo hội, kể cả mầu nhiệm Nhập thể.

Mọi thứ có vẻ không suôn sẻ, khi thánh Đa Minh cầu nguyện và khóc ở Nguyện đường Đức Maria năm 1208, ngài than thở với Đức Mẹ về việc thiếu kết quả của việc rao giảng cho
những người theo tà thuyết An-bi-gen. Đang lúc đó thì Đức Mẹ hiện ra với ngài.

Đức Mẹ nói: “Đừng lo, đến nay con đã đạt được một ít kết quả như vậy nhờ sức lao động của con. Con phải dùng kết quả đó trên vùng đất khô cằn, chưa được tưới bằng sương hồng
ân. Khi Thiên Chúa muốn canh tân bộ mặt trái đất, Ngài sẽ bắt đầu bằng cách cho mưa tuôn sự chào đón của thiên thần (rain of the Angelic Salutation). Hãy truyền bá Chuỗi Mân Côi gồm 150 câu chào của sứ thần và 15 kinh Lạy Cha, con sẽ bội thu”
.

Thánh Đa Minh không có thời gian. Theo mệnh lệnh của Đức Mẹ, ngài bắt đầu truyền bá Chuỗi Mân Côi, bắt đầu từ Toulouse, một thành phố không xa Prouille. Theo ghi chép của thánh Louis Montfort, một nhà truyền giáo người Pháp hồi thế kỷ 18, thánh Đa Minh đã tới
nhà thờ, nơi các thiên thần rung chuông mời gọi mọi người. Khi thánh Đa Minh rao giảng, Thiên Chúa đã hỗ trợ: Trái đất rung chuyển, mặt trời tối sầm, sấm chớp dữ dội. Hầu như cả dân thành Toulouse đều bỏ niềm tin lầm lạc và bắt đầu sống đời Kitô hữu.

Sau thành công tại Toulouse, thánh Đa Minh đi từ thành phố này tới thành phố khác ở Pháp quốc, Tây Ban Nha và Ý để truyền bá Kinh Mân Côi. Trên hành trình, ngài tỏ ra rất chịu đựng, đến nỗi những người đương thời diễn tả ngài là “vận động viên mạnh mẽ”.
Sức chịu đựng của ngài gây ấn tượng. Bất cứ đi đâu ngài cũng rao giảng chân lý Phúc âm tập trung vào cuộc đời vui mừng, sầu thương, và vinh quang của Đức Kitô. Nói đến một mầu nhiệm và giảng một câu về đời sống của Chúa Giêsu, ngài mời người nghe lần một hạt trong chuỗi hạt – thường được dùng để đếm các lời cầu nguyện – rồi đọc kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng, các yếu tố của đức tin vẫn nhắm vào những người theo tà thuyết An-bi-gen. Chú ý những lời đầu tiên Đức Mẹ nói với ngài, và một lần Chúa Giêsu hiện ra hướng dẫn ngài khơi lòng người ta yêu mến cầu nguyện trước khi giảng thuyết chống lại tội lỗi, thánh Đa Minh và các linh mục khác đều đọc kinh Kính Mừng chung với giáo dân trước khi giảng
thuyết để xin Ơn Chúa. Ngài giải thích rằng kinh Kính Mừng chứa đầy các ví dụ về cuộc sống hàng ngày.

Phương pháp đó tác dụng. Hầu như ở các thành phố ngài rao giảng, ngài đều thành lập Hội ái hữu Mân Côi (Confraternity of the Rosary). Thánh Montfort nói rằng các giáo huấn của
thánh Đa Minh tạo sự nhiệt thành đến nỗi hoán cải được những người tội lỗi chai lỳ nhất. Thánh Montfort viết rằng một người đàn ông bị ma quỷ chiếm hữu đã kêu lớn tiếng rằng lời rao giảng của thánh Đa Minh đã làm hoảng sợ cả hỏa ngục. Chuỗi Mân Côi cũng được tin là tạo chiến thắng của đội quân Công giáo do Count  Simon de Montfort dẫn đầu, trong trận Muret hồi tháng 9-1213 ở miền Nam Pháp quốc, gồm 800 binh sĩ chống lại vua Aragon và 40.000 quân của tà thuyết An-bi-gen.

Năm 1215, thánh Đa Minh thu hút 6 người bạn cùng làm việc tông đồ và cho họ mặc trang phục như ngài. Đó là một dòng tu đang hình thành với chương trình cầu nguyện, sống
chung, và chương trình học tập với Alexander Stavensky, tiến sĩ thần học người Anh. Rao giảng, dạy dỗ, và làm việc để cứu các linh hồn là lý tưởng của thánh Đa Minh. Một người giàu có tên là Phêrô Siela đến xin theo thánh Đa Minh, giao cho ngài nhà cửa của mình ở gần Narbonne Gate tại Toulouse. Cũng trong năm 1215, thánh Đa Minh đi Rôma và quỳ trước mặt ĐGH Innocent III để xin phê chuẩn Dòng Anh Em Thuyết Giáo (OP – Order of Preachers). ĐGH hướng dẫn ngài dùng tu luật hiện có để sống theo. Thánh Đa Minh và các tu sĩ đồng ý chọn tu luật của thánh Augustinô. Ngày 22-12-1216 có tân giáo hoàng là ĐGH Honoriô III, ngài đã phê chuẩn và tuyên bố thánh Đa Minh là “ánh sáng thật của thế giới”.

Khi sinh thời, thánh Đa Minh đã chữa lành các bệnh nhân, phục sinh người chết, và biến lương thực ra nhiều (các phép lạ vẫn tiếp tục xảy ra cho đến sau khi ngài qua đời). Ngài
khuyến khích  người trẻ và trìu mến với những người mà ngài gặp. Dù ngài già theo thời gian, nhưng tâm hồn ngài vẫn trẻ trung và vui vẻ. Sau khi dòng được phê chuẩn 5 năm, thánh Đa Minh qua đời ngày 6-8-1221 tại Bologna, Ý. Ngay khi  hấp hối, ngài vẫn an ủi người khác. Ngài nói: “Anh em đừng khóc. Tôi sẽ có ích hơn cho anh em dù tôi đi bất cứ nơi đâu, có ích hơn khi tôi sống trên đời này”.

Ước mơ từ lâu của chân phước Jane, mẹ của thánh Đa Minh, đã thành hiện thực: Con trai bà đã thắp lửa sáng khắp thế giới.

Thánh thi hay Chuỗi Mân Côi?

Trong thời thánh Đa Minh, Chuỗi Mân Côi được nhắc tới như “Thánh thi của Đức Maria”, và mãi tới thế kỷ 15 Chuỗi Mân Côi mới được sử dụng. Nhưng 100 năm sau khi thánh Đa Minh giới thiệu Chuỗi Mân Côi, người ta vẫn không hề nhớ tới.

Chữ ros có thể lấy từ tiếng Latin, nghĩa là “sương”, ám chỉ lời Đức Mẹ nói với thánh Đa Minh về “sương hồng ân” hoặc do tiếng Latin là rosarium, nghĩa là “triều thiên hoa hồng” –từ ngữ “Chuỗi Mân Côi” (Rosary) có sau khi Lm Alan de la Roche, Dòng Đa Minh,
người Pháp, được thị kiến Chúa Giêsu, Mẹ Maria, và thánh Đa Minh khuyến khích
ngài khôi phục Chuỗi Mân Côi.

Dạng Chuỗi Mân Côi như chúng ta thấy ngày nay cũng không có trong thời thánh Đa Minh. Việc thêm các mầu nhiệm đã mất nhiều thế kỷ để chỉnh sửa và xác định. Thánh GH Piô V, cũng là tu sĩ Dòng Đa Minh, đã làm điều này năm 1569. Ngày 16-10-2002, chân phước GH
Gioan Phalô II đề nghị thêm 5 Mầu nhiệm Sự Sáng vào Chuỗi Mân Côi truyền thống. Gọi là “Mầu nhiệm Sự Sáng” vì gồm các mầu nhiệm trong sứ vụ công khai của Chúa Kitô từ khi chịu Phép Rửa tới Cuộc Khổ Nạn.

Tặng phẩm của scapular

Năm 1218, tại Rôma, Đức Mẹ hiện ra với một tu sĩ Dòng Đa Minh là Master Reginald, ở Orleans, là giáo sư nổi tiếng về giáo luật tại ĐH Paris trước khi gặp thánh Đa Minh và gia
nhập dòng này. Các bài giảng thuyết của ngài đã thu hút nhiều người vào dòng. Lúc Đức Mẹ hiện ra, Reginald bị bệnh. Mỉm cười với ngài, Đức Mẹ xức dầu cho ngài, chữa bệnh cho ngài, và giới thiệu với ngài một áo dòng trắng (scapular). Đức Mẹ nói: “Đây là áo dòng của con”.

Tại sao lần Chuỗi Mân Côi?

Thế kỷ 15, Lm Alan de la Roche, OP, bảo đảm Chuỗi Mân Côi là nguồn vô biên của các phúc lành:

1.    Tội nhân được tha thứ.

2.  Linh hồn nào khao khát sẽ được thỏa khát.

3.   Ai khổ sầu sẽ tìm thấy hạnh phúc.

4.    Ai bị cám dỗ sẽ được bình an.

5.    Người nghèo được giúp đỡ.

6.    Tu sĩ được canh tân.

7.    Ai không hiểu biết sẽ được hướng dẫn.

Về Chuỗi Mân Côi, chân phước GH Gioan Phaolô II nói: Lần Chuỗi Mân Côi là giao phó những gánh nặng cho Thánh Tâm Thương Xót của Chúa Kitô và Đức Mẹ”.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ CatholicDigest.com)

(*) Albigensianism (Albigensianian): Phong trào Kitô giáo được coi là hậu duệ thời trung cổ của Mani giáo (Manichaeism) ở miền Nam nước Pháp hồi thế kỷ XII và XIII, có đặc
tính của thuyết nhị nguyên (đồng hiện hữu của hai quy luật đối nghịch là Thiện và Ác). Thuyết này bị kết án là lạc giáo thời Tòa án Dị giáo (Inquisition hoặc Catharism).

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Đơn Sơ Chân Thật – Nhạc Bất Quần

Br. Huynhquảng
Thưa quí bạn, chúng ta đã lần lượt suy ngẫm về ba đề tài: Tha Thứ, Hiệp Nhất,
và Sống Hiện Tại. Thực ra, sống giây phút hiện tại không gì khác hơn chính là
sống thật với con người mình. Sống hiện tại luôn luôn níu kéo chúng ta trở lại
với hiện tại, với bản chất con người thật của mình. Vì lý do đó, mục Sống Đẹp
hân hạnh giới thiệu đến quí bạn đề tài mới: Đơn Sơ – Chân Thật, chỉ với hy vọng
phần nào góp thêm chất liệu màu sắc để bạn và tôi cùng nhau hoàn thiện bức
tranh của chính mình. Kỳ này mục Sống Đẹp xin mượn nhân vật Nhạc Bất Quần trong
tiểu thuyết võ hiệp lừng danh của Kim Dung để giúp ta hiểu thêm hậu quả của sự
gian trá, không chân thật. Nhưng quan trọng hơn, nhân vật này có thể giúp ta
dừng lại để lắng nghe tiếng nói trong con tim: Động cơ gì đã dẫn quân tử kiếm
Nhạc Bất Quần dùng mọi thủ đoạn âm mưu để lừa gạt, để hại người, hại gia đình,
và hại chính mình.
Nhạc Bất Quần
Kim Dung thoạt đầu miêu tả Nhạc Bất Quần như một bậc chính nhân quân tử thuộc chính phái. Ông là chưởng môn phái Hoa Sơn, luyện thành công môn Tử Hà Công; ông ăn nói nhỏ nhẹ, thái độ khoan thai cộng với võ nghệ cao cường nên ông được nhiều người trong chốn giang hồ kính nể, đặc biệt Lệnh Hồ Xung, chàng một lòng kính phục sư phụ mình.
Dầu vậy, do tham vọng hợp nhất năm môn phái thành một, và sau đó sẽ làm minh
chủ Ngũ Nhạc Phái, Nhạc Bất Quần đã lừa gạt mọi người và dùng Lệnh Hô Xung để
che đậy tội lỗi của ông. Ông đã ăn cắp Tịch Tà Kiếm Phổ của nhà họ Lâm; ông
đoạt ngôi minh chủ trên tay Tả Lãnh Thiền, người cũng có tham vọng làm minh chủ
Ngũ Nhạc Kiếm Phái, và tệ hại hơn, ông đã đánh lừa chính vợ con ông và bản thân
ông khi ông tự thiến để luyện Tịch Tà Kiếm Phổ. Cuối cùng, Nhạc Bất Quần đã
thành công và đã đạt được mục đích; ông trở thành minh chủ Ngũ Nhạc Phái; ông
đã luyện thành công Tịch Tà Kiếm Phổ; ông đã có tất cả những gì ông khao khát,
nhưng cuối cùng ông đã đánh mất đi chính bản thân ông. Khi ông được tất cả cũng
chính là lúc ông mất tất cả.
Kim Dung tài tình lột dần mặt nạ của Nhạc Bất Quần, để dù Nhạc Bất Quần đã có
trong tay tất cả những gì ông muốn, nhưng khi mặt nạ đã bị lột bỏ, thì dù là
minh chủ của Ngũ Nhạc Phái, bên ông không còn ai là bạn hữu, không còn ai là đệ
tử, và cuối cùng phải chết dưới tay Ni-Cô Nghi Lâm phái Hằng Sơn. Bộ mặt thật
“ngụy quân tử” của Nhạc Bất Quần lộ ra khi ông có trong tay mọi thứ ông tham vọng và khao khát. Cảnh cuối đời của Nhạc Bất Quần diễn tả đúng với tên gọi của ông, nghĩa là “không chơi với ai.” Vì thực ra dù trước khi bị lột mặt nạ, ông có rất nhiều bạn hữu và được nhiều người kính nể, nhưng thực ra ông đâu có thực lòng giao tình bằng hữu với ai đâu! Với ông, tất cả các mối quan hệ đều ngấm ngầm tính toán hơn thua; ông dùng mọi người kể cả đại đệ tử, vợ ông, và con ông làm bàn đạp cho ông thực hiện âm mưu bá chủ võ lâm. Mối quan hệ của ông từ trong gia đình ra ngoài xã hội đều dựa trên sự gian dối, lừa gạt,
âm mưu… chứ không dựa trên sự thật, đơn sơ, chân chính của người võ sư.
* * *
Thưa bạn, cũng như Nhạc Bất Quần, điều nguy hiểm nhất cho cuộc đời chúng ta là đôi khi chúng ta đã gạt bỏ những gì chúng ta đang có để cố chụp giựt cho được điều mà chúng ta thích, vui. Động cơ này dễ dàng thúc dục chúng ta tìm mọi phương cách để đạt được mục đích kể cả khi phải dùng những kỹ xảo thấp hèn. Gạt bỏ những gì sẵn gần bên ta, trong gia đình ta, trong tâm hồn ta để rong ruổi tham vọng những sự xa ta, ngoài gia đình ta, và ngoài tâm hồn ta… đó là thất bại lớn nhất của một đời người. Chạy theo dục vọng để chiếm hữu, để được làm chủ một điều gì ngoài ta là một cuộc rong ruổi nguy hiểm và dễ dàng đánh mất chính ta; vì thực ra khi ta chỉ lo kiếm tìm những sự “bên ngoài” thìchắc một điều, sự “bên trong” không được quan tâm và chăm sóc cho chu đáo. Được điều gì khi ta thắng trận mà ta không biết ta trở về đâu. Hóa ra, cái sự thật căn bản vẫn là chính ta, trong ta chứ không phải bên ngoài được tô điểm bằng danh thơm hão huyền hư ảo. Từ đó ta học được rằng, dù xã hội có thể ban tặng cho ta tước hiệu hoa mỹ đến đâu đi chăng nữa, nhưng ta không thật với lòng ta, thì ta cũng mất tất cả – và điều mất mát lớn nhất trong cuộc đời chính là mất đi chính ta. Mong rằng chúng ta cùng giúp nhau mỗi ngày khám phá ra sự thật
về chính mình; cùng giúp nhau cẩn tĩnh về hiểm họa của những tiếng mời gọi ta
đi ra khỏi lòng ta. Thực tế cho thấy, “Đôi khi thế giới [con người] cứ lôi kéo bạn theo một hướng, mà theo con tim, bạn không mong muốn đi theo.”
Thưa bạn, nếu Nhạc Bất Quần biết nhận ra tài năng và thật tâm của Lệnh Hồ Xung,
nhận ra một gia đình hạnh phúc trong giá trị hiện tại của đời ông, chắc một điều ông sẽ đạt được cả “bên trong” lẫn “bên ngoài.” Nhưng đáng buồn thay ông đã không làm như vậy. Còn bạn thì sao?

Giận Dữ

Giận Dữ
Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức
Trong một dịp hàn huyên, Mục sư Phan Thanh Bình bên San Diego có chia xẻ như sau về sự Giận Dữ.
Giận dữ là bản tính tự nhiên của con người. Giận là một trong những thất
tình: Mừng, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, muốn
.
Giận thì buồn phiền, hờn dỗi cho những người yếu thế. Giận thì quát tháo, chửi
rủa, đập phá, đánh nhau đôi khi giết nhau cho những người ở thế mạnh.
Người xưa đã chia giận làm hai loại: Giận huyết khí và giận nghĩa lý. “Huyết
khí chi nộ bất năng hữu. Nghĩa lý chi nộ, bất năng vô”.
Cái giận nóng tính
không nên có. Cái giận nghĩa lý, chẳng nên không.
Người huyết khí chi nộ” hầu hết là người yếu về trí xét đoán: giận đã, xét sau;
yếu về tinh thần, không kiềm chế nổi sự giận dữ nơi mình; yếu về lòng thương
sót, thông cảm.
Người biết giận “nghĩa lý chi nộ” là người rất mạnh. Mạnh về trí xét đoán, mạnh
về tinh thần dù thể xác có yếu và đầy lòng thương xót.
Với tinh thần “cầu an” chúng ta thường bò “ Nghĩa lý chi nộ”. Nhưng chúng ta thường tỏ ra “anh hùng” với “huyết khí chi nộ”.
Người xưa đã phân định: “Người không biết giận là người dại, người không muốn giận là người khôn”. Người kiềm chế được cơn giận phải là người giàu
nghị lực.
Kinh Thánh dạy: “Người nào cũng phải mau nghe, chậm nói, chậm giận”(Gia-cơ
1:19).
Biết bao lần chúng ta hối tiếc đã để cơn giận bùng lên chỉ vì nghe chưa thấu, xét chưa tường, mà đã hàm hồ phán đoán
Nếu phải nổi giận vì cái “nghĩa lý chi nộ”, cũng phải cẩn thận : “Ví bằng anh em đương cơn giận thì chớ phạm tội, chớ giận cho tới khi mặt trời lặn, và đừng tạo cơ hội cho ma quỷ” (Ê-phê-sô 4:26-27).
Ôn lại quá khứ, bởi giận mà chúng ta làm cho “cái sảy nảy cái ung”, “giận chuột ném vỡ bình quý, “giận con rận, đốt cái áo”. Tất cả đều là giận dại. Là không còn sáng suốt hiểu biết chân lý để nói.
“Giận lên là nổi cơn điên
Người khôn hóa dại, người hiền hóa ngu”
Cảm ơn Mục sư Phan Thanh Bình, người đã viết tới 99 cuốn sách về Chúa Jêsus,
Kinh Thánh, Chứng đạo, Gia đình…
Thưa Mục sư,
Nhà Phật cũng dạy: “Ôm lấy sự giận dữ chẳng khác chi nắm cục than hồng định
liệng vào người khác, nhưng trước khi ném thì tay đã phỏng cháy”.
Hoặc theo lời khuyên của Thomas Jefferson: “Khi giận hãy đếm tới 10 trước
khi nói. Nếu giận tràn hông thì đếm tới 100”.

Mới đếm tới bảy tám mươi đã ngủ khì thì còn giận gì nữa.

Sao mà khéo khuyên!!! Nhẹ nhàng nhưng công hiệu.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Anh chị Thụ Mai gởi

Có thể thật lòng yêu kẻ thù ?

Có thể thật lòng yêu kẻ thù ?

Đăng bởi pleikly lúc 2:17 Sáng 9/10/12

VRNs (09.10.2012) – CatholicHerald – “Thiên Chúa nói với Môsê: Hãy nói với toàn thể cộng đồng về con cái Israel và hãy nói với họ. Hãy nên thánh, vì Tôi là Đức Chúa, là
Thiên Chúa của ông, là Đấng Thánh”.

Sách Lê-vi tóm tắt các giới răn khác theo giới răn này: Như Chúa là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta cần nên thánh. Sự thánh thiện mô tả mọi thứ mà Thiên Chúa đặt lên trên sự sáng tạo sai trái. Sự thánh thiện là điều gì đó hơn cả việc giữ trọn lề luật như nô lệ. Nên thánh là
vào trong ý nghĩ và trái tim của Chúa, phân xử như Chúa phân xử, hiểu như Chúa hiểu.

Khi những câu trong sách Lê-vi mở ra, chúng ta bắt đầu đánh giá hố ngăn cách (gulf) giữa thói quen tội lỗi của con người và sự thánh thiện của Thiên Chúa. Nhiều người coi sự thù hằn là cách phản ứng tự nhiên nhất đối với sự thiệt hại mà chúng ta chịu. Sự thánh thiện mà
chúng ta được mời gọi đòi hỏi cách phản ứng khác, đó là cách phản ứng có vẻ đi ngược với bản chất. Bạn không được thù ghét anh em, bạn không được trả thù, bạn không được đố kỵ.

Một trong các hậu quả của tội là xu hướng phê phán thù hận. Sách Lê-vi loại trừ điều này bằng giới răn, được Chúa Giêsu lặp lại, rằng chúng ta phải yêu người như chính mình. Giới răn quá quen thuộc đến nỗi chúng ta có thể dễ dàng làm ngơ sự thay đổi cơ bản của con tim mà giới răn ám chỉ. Tội lỗi khiến chúng ta tự nhận là “trung tâm vũ trụ”, vô tình xác nhận rằng mọi thứ phục vụ chính mục đích của chúng ta. Yêu người như chính mình đảo lộn ý nghĩ này. Đây là sự thánh thiện mà Thiên Chúa đặt chúng ta lên trên tội lỗi, đưa chúng ta vào ý nghĩ và trái tim của Thiên Chúa.

Tiếp theo Bài Giảng Trên Núi, Phúc âm nhấn mạnh hố ngăn cách giữa sự thánh thiện và thái độ tội lỗi đã thâm căn cố đế (ingrained attitudes of sin). Luật “mắt đền mắt, răng đền răng” có vẻ rất cân xứng. Điều gì đó trong chúng ta bắt đầu nổi loạn khi chúng ta được khuyên không chống lại kẻ độc ác, đưa má cho người ta vả, không chỉ đưa áo trong mà
đưa luôn cả áo ngoài cho kẻ áp bức mình.

Sự không thoải mái mà chúng ta cảm thấy đã ăn rễ sâu trong chúng ta. Chúng ta bị giằng co: sự công thẳng và ân sủng. Đức Kitô không đến thế gian này để đối xử công thẳng với chúng ta. Ngài đến để mạc khải tình yêu của Chúa Cha, một hồng ân vượt trên mọi thứ mà chúng ta đáng hưởng. Bài Giảng Trên Núi mời gọi chúng ta đạt đến sự thánh thiện để đối xử với tha nhân bằng sự độ lượng mà chúng ta đã lãnh nhận. Chỉ bằng cách này thì chúng ta mới có thể nên thánh như Chúa Cha là Đấng Thánh, và hoàn thiện như Chúa Cha là Đấng hoàn thiện.

Chỉ là tự nhiên để cảm thấy bất xứng trước các yêu cầu của Chúa Giêsu trong Bài Giảng Trên Núi. Chúng ta có thực sự yêu kẻ thù và làm điều tốt cho những người làm hại mình? Thư của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Côrintô đặt yêu cầu của Chúa Giêsu ngược với những ân sủng mà chúng ta lãnh nhận.

“Bạn không nhận ra mình là đền thờ của Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần sống trong bạn sao?”. Đó là tặng phẩm của Chúa Thánh Thần mà chúng ta có thể nên thánh như Chúa Cha là Đấng Thánh, độ lượng như Ngài. Thánh Phaolô tiếp tục làm tương phản sự khôn ngoan của thế gian với sự điên dại của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan của thế gian đòi hỏi sự công bình. Sự điên dại của Thiên Chúa là ân sủng vị tha. Đây là tính thánh thiện mà chúng ta
được mời gọi.

ĐGM David McGough

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ CatholicHerald.co.uk)

 

BẢN CHẤT KINH MÂN CÔI

BẢN CHẤT KINH MÂN CÔI

Rosaire

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Căn cứ vào bản chất, Kinh Mân Côi là một kinh có giá trị tuyệt đỉnh, vượt trên tất cả mọi kinh nguyện khác, xét về ba phương diện sáng tác, diễn xuất và nội dung như sau:

Về phương diện sáng tác: Hai kinh chính họp lại thành Kinh Mân Côi, đó là Kinh Lạy Cha và Kinh Kính Mừng.  Ngoài Kinh Lạy Cha là kinh chính Chúa Giêsu dạy, Kinh Kính Mừng – kinh nòng cốt và kinh chính yếu của Kinh Mân Côi-, là lời ngợi khen của Chúa Cha nói với Mẹ qua sứ thần Gabriel và của Chúa Thánh Thần nói với Mẹ qua bà thánh Isave (Lc
1,41-42).  Kinh Thánh Maria, phần cuối của Kinh Kính Mừng, là lời tuyên nhận của Chúa Giêsu nói với Mẹ qua Giáo Hội, Nhiệm Thể của Người, qua Công đồng chung Êphêsô năm 431.

Còn lời nào giá trị hơn Lời của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Kinh Mân Côi là tổng hợp Lời của Thiên Chúa Ba Ngôi, do đó, đã có một giá trị  vô cùng.  Trong một lá thơ đề ngày 04/04/1970, chị Lucia đã viết như sau: “Kinh Mân Côi là kinh nguyện đẹp lòng Thiên Chúa nhất, vì nhờ Kinh Mân Côi, chúng ta chúc tụng Ngài cách tuyệt hảo nhất.”

Về phương diện diễn xuất: Lời Kinh Mân Côi nói chung và Kinh Kính Mừng nói riêng, về
nội dung, chẳng những là lời của Thiên Chúa Ba Ngôi, về hình thức, còn là lời  mà cả trời đất tuyên tụng và tuyên nhận Mẹ nữa.

* Sứ Thần Gabriel là đại diện của các thần trời, đã chúc tụng khen Mẹ bằng lời của Chúa Cha, Đấng đã sai ngài đến với Mẹ (Lc 1,26): “Kính mừng Maria đầy ơn phúc!  Đức Chúa Trời ở cùng Bà.  Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ” (Lc 1,28).

* Bà Isave là đại diện của các thánh, đã chúc mừng Mẹ bằng lời của Chúa Thánh Thần, Đấng mà bà “được tràn đầy” (Lc 1,41) khi vừa nghe lời Mẹ chào: “Bà có phúc hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ” (Lc 1,42).

* Giáo Hội là đại diện của con cái Thiên Chúa nói riêng và của loài người đã được dựng nên theo hình ảnh Ngài nói chung, đã tuyên nhận Mẹ bằng lời của Chúa Giêsu là Đầu của mình (Ep 1,22): “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội khi này và trong giờ lâm tử.”

Trong lời kinh Thánh Maria này, Mẹ chẳng những được Giáo Hội, qua con cái mình, trực tiếp tuyên nhận Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, khi họ đọc: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời”, gián tiếp, Mẹ còn được con cái mình tuyên nhận Mẹ là Mẹ Nhân Loại nói chung và Giáo Hội nói riêng, khi đọc: “Cầu cho chúng con”, là Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, khi đọc: “là kẻ có tội”, và là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc, khi đọc: “khi này và trong giờ lâm tử”.

Do đó, còn lời kinh nào giá trị cao cả cho bằng lời kinh mà cả đất trời đồng thanh tuyên xưng và chúc tụng Đấng đã nói tiên tri về chính mình: “Thiên Chúa đã thương đến phận hèn tôi tớ của Ngài; từ nay muôn đời sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 1,48). Khi đọc Kinh Kính Mừng cũng là Kinh Mân Côi, chính là chúng ta hợp với tất cả trời đất cùng lời Thiên Chúa Ba Ngôi tuyên tụng Mẹ của mình vậy.

Về phương diện nội dung: Vì Kinh Mân Côi là lời Thiên Chúa Ba Ngôi chúc khen Mẹ qua các thụ tạo tốt lành của Ngài, bởi thế, Kinh Mân Côi chứa đựng một ý nghĩa vô cùng sâu
xa.  Chính  ý nghĩa vô cùng sâu xa này đã làm Kinh Mân Côi có một giá trị khôn sánh.

(Trích từ Chuỗi Mân Côi trong đời sống hằng ngày của tác giả Paula Hoesl do Trầm Tĩnh Nguyện phóng tác)

nguồn: Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Quyền năng tuyệt diệu của chuỗi Mân Côi

Quyền năng tuyệt diệu của chuỗi Mân Côi

Kim Hà

Sau đây là lời chia sẻ của LM Amorth, một nhà trừ quỷ nổi tiếng trên thế giới và là Nhà Trừ Quỷ chính tại Tòa Thánh Vatican:

Lý do tại sao chúng ta cần cầu nguyện bằng Chuỗi Kinh Mân Côi?

LM Gabriel Amorth, Nhà trừ quỷ chính (Chief Exorcist) của Tòa Thánh Vatican
viết:

-Một ngày kia, người bạn đồng nghiệp của tôi nghe ma quý nói trong một cuộc trừ quỷ như sau:

“Mỗi một Kinh Kính Mừng giống như một cú đánh mạnh vào đầu tôi. Nếu những người KiTô Giáo biết được quyền năng vĩ đại của Kinh Mân Côi thì sẽ là ngày kết thúc của tôi.”

Điều bí mật làm cho chuỗi kinh Mân Côi rất hữu hiệu là khi đọc Chuỗi kinh này người ta vừa cầu nguyện và vừa suy niệm. Kinh Lạy Cha dâng lên Chúa Cha, Kinh Kính Mừng dâng lên Đức Mẹ Maria và Kinh Sáng Danh dâng lên Thiên Chúa Ba Ngôi. Và lời suy niệm nhắm đến Chúa KiTô.

Xin hãy đọc và suy gẫm từng chữ của chuỗi Kinh Mân Côi một cách rõ ràng. Đừng vội vàng đọc theo người khác. Đừng cướp lời kinh của người hướng dẫn. Xin hãy nhớ rằng khi đọc kinh này, chúng ta đang thưa chuyện cùng Đức Mẹ Maria, Mẹ chúng ta và thật là vô lễ khi người khác đang nói chuyện mà mình nói leo.

Trong trường hợp lần chuỗi Mân Côi chung thì thường có hai bè xướng kinh tức là nói chuyện. Một bè là người hướng dẫn, một bè khác là những người đối đáp. Khi một bè nói chuyện với Đức Mẹ thì bè kia cần thinh lặng.

Hãy đọc kinh cần thận và đọc với trái tim khi chúng ta suy niệm về các Mầu Nhiệm, rồi áp dụng các Mầu Nhiệm trong đời sống hàng ngày.

Hãy truyền bá phương cách cầu nguyện Chuỗi Kinh Mân Côi vì đó là lời nguyện quyền năng nhất để trừ quỷ. Lời kinh Mân Côi dâng lên Thiên chúa Ba Ngôi, lên Đức Mẹ và đó là một lời kinh Toàn Hảo.

Mỗi khi đọc một Chuỗi Kinh Mân Côi là ta suy niệm Năm Mầu Nhiệm. Đức Mẹ cùng
đọc kinh với chúng ta, nên Kinh này có thêm quyền năng. Mẹ và ta đọc đến 53
Kinh Kính Mừng.

Đức Chúa Cha đã dùng một người thụ khải để nói với chúng tôi khi chúng tôi đọc
kinh Mân Côi chung rằng:

“ Khi các con đọc câu kinh: ‘Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, Cầu cho chúng con
là kẻ có tội. ..’ Thì Đức Mẹ đến ngay bên cạnh các con và cầu nguyện chung với các
con. Và Mẹ không đến một mình mà Mẹ đem theo các thiên thần với Mẹ. Vì Mẹ Là Nữ
Vương Các Thiên Thần nên Mẹ đem rất nhiều thiên Thần đến với Mẹ. Mẹ và Chúa
Giêsu luôn kết hợp với nhau, không bao giờ lìa xa nhau. Và Chúa Giêsu không rời
xa Thiên Chúa Ba Ngôi nên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần cùng đến. Và khi Thiên
Chúa Ba Ngôi đến thì tất cả các loài thụ tạo cùng quây quần. Thật là một cảnh
tượng đẹp đẽ và chan hòa ánh sáng mà các con không thể tưởng tượng nổi. Mẹ
Thánh của các con đến với tước hiệu là Đức Mẹ Ban Ơn với đôi tay xòe ra. Những
tia sáng chiếu giãi từ đôi tay Mẹ sẽ xuyên thấu qua thể xác các con, chữa lành
và tuôn đổ trên các con với muôn ơn lành. Đó là ân huệ từ trái tim Chúa Giêsu
đổ xuống từ trên cây thánh giá khi người lính đâm thấu Trái Tim Chúa với ngọn
giáo, chảy qua một máng xối thông ơn tinh tuyền để nhận lãnh ân huệ cao quý ấy,
đó là Đức Mẹ.

Bây giờ nếu các con cầu nguyện Chuỗi Kinh Mân Côi
hay khi các con đọc một kinh Kính Mừng, các con sẽ nhận được một phần của những
ân huệ này. Những ai đến gặp Mẹ Maria và cầu nguyện Chuỗi Kinh Mân Côi thì
Satan không thể đụng đến họ.”

Thật là một điều kỳ diệu cho những ai siêng năng cầu nguyện Chuỗi Kinh Mân Côi
với trọn trái tim vì họ sẽ được chúc phúc và được bảo vệ. Lời nguyện của họ
dành cho người khác rất mạnh thế.

Vậy sau khi đọc bài chia sẻ này, xin quý vị hãy khiêm nhường và tìm mọi cách
tốt lành và hoàn hảo để rao truyền việc đọc kinh Mân Côi. Nhờ đó mà Satan không
còn có thể làm hại bản thân chúng ta và gia đình chúng ta được nữa.

Nguồn: Zenit

Kim Hà

nguồn: Sơn Đỗ gởi

Từ một cầu thủ dã cầu trở thành Linh Mục

Từ một cầu thủ trở thành Linh Mục

Thầy dòng Desme (bên trái)

 

Silverado, California: Sau nhiều năm sống trong một thế giới vội vã, luôn luôn ồn ào tiếng nhạc, cuối cùng anh Grant Desme,

một cầu thủ dã cầu đã tìm được an bình trong Chúa.

Vào mùa giáng sinh hai năm trước, anh Desme cùng 7 thanh niên khác đã đến tu viện St Michael , sẵn sàng cho một cuộc sống mới.

Anh Grant Desme đã xin đổi tên và đã được giám mục Eugene Hayes đổi tên là Mathew Desme. Trong vòng hai năm qua , anh Mathew Desme đang là tập sinh của chức vụ linh mục cũng như là một thầy dòng ở tu viện Norbertine.

Hai năm trước, anh Grant Desme là một  cầu thủ xuất sắc của hiệp hội dã cầu thiếu niên The Arizona Fall và đã từng được chọn là cầu thủ xuất sắc nhất trong năm 2009.

Cũng trong năm 2009, anh đã được đội dã cầu Oakland Athelics chọn và ký hợp đồng năm đầu với số lương 430 ngàn Mỹ kim.

Nhưng sau một thời gian suy nghĩ, anh ta đã bỏ tất cả, tiền tài danh vọng, để đi học làm một thầy dòng và một linh mục.

 

THIÊN THẦN BẢN MỆNH

THIÊN THẦN BẢN MỆNH

LỄ NHỚ NGÀY 02/10

Tác giả: Lương Văn Liêm

nguồn: Thanhlinh.net

 

Theo niên lịch phụng vụ, ngày 02 tháng 10, Giáo Hội mời gọi con cái mình kính nhớ đến các Thiên Thần Bản Mệnh. Trước là để ta dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ tri ân vì Ngài đã ban tặng cho ta những người bạn tuyệt vời, luôn ở kề bên để chăm sóc, gìn giữ, nhắc nhở và bảo vệ ta trên bước đường lữ thứ, kế đến là nhắc nhở ta luôn biết cám ơn các Thiên Thần Bản Mệnh, tâm sự với các ngài, xin các ngài cầu thay nguyện giúp và nhất là ta xin các ngài hướng dẫn ta sống sao cho đẹp lòng Chúa, gìn giữ ta khỏi những mưu mô, chước độc của satan.

Các Thiên Thần Bản Mệnh là ai? Các Ngài có ảnh hưởng gì đến đời sống tâm linh cũng như thể chất của ta? Các ngài song hành và ở bên ta dưới hình thức nào…? Quả thật, đây là những câu hỏi mà gần như ít người quan tâm, bận tâm và tìm hiểu! Ngay như vị thánh Bổn Mạng là vị thánh mà cha mẹ ta chọn cho ta khi ta được chịu phép Rửa Tội, ấy thế mà
nhiều khi ta chẳng nhớ, chẳng biết và không mấy quan tâm!

Phải chăng hình ảnh và sự hiện diện của các Thiên Thần Bản Mệnh chỉ là hư cấu, thêu dệt cho thêm phong phú trong quá trình giữ đạo và sống đạo của người Kitô hữu? Phải chăng các Thiên Thần Bản Mệnh được Thiên Chúa sinh dựng để ngày đêm túc trực bên Thánh Nhan Chúa, luôn dâng lời ca tiếng hát chúc tụng, ngợi khen Thiên Chúa, và tô điểm cho ngai tòa Thiên Chúa? Xin thưa, không phải thế, giờ ta cùng tìm hiểu về hình ảnh, nhiệm
vụ của các Thiên Thần Bản Mệnh trước thánh nhan Thiên Chúa và nhất là trong  cuộc sống lữ hành của ta. Để rồi trong từng ngày sống, ta cảm nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho ta lớn lao biết là dường nào qua sự đồng hành của các Thiên Thần Bản Mệnh. Từ đó, ta luôn hướng về các ngài, xin các ngài giúp đỡ, xin các ngài cầu thay nguyện giúp cho ta.

Sách giáo lý Công Giáo dạy ta: “Các thiên thần là những thụ tạo thiêng liêng, không có thân xác, vô hình và bất tử; đó là những hữu thể có ngôi vị, có lý trí và ý chí. Họ không ngừng chiêm ngắm Thiên Chúa diện đối diện và tôn vinh Thiên Chúa; các ngài phục vụ Thiên Chúa và là những sứ giả của Ngài để thực hiện sứ vụ cứu độ loài người. (x. sách GLCG 350). Thánh Basiliô cả xác tín  rằng “Bên cạnh mỗi tín hữu đều có một thiên thần như đấng bảo trợ và mục tử, hướng dẫn họ đến sự sống”. Trong Kinh Thánh rất nhiều chỗ tường thuật lại việc các Thiên Thần Bản Mệnh thực hiện mệnh lệnh của Thiên Chúa để bảo vệ, nâng đỡ , dẫn dắt con người nhân loại.

  • Trình thuật của sách Sáng Thế, sau khi con người đầu  tiên là A-đam và E-va phạm lỗi vì nghe theo lời đường mật của satan. Đức  Chúa đã cắt đặt các thần hộ giá canh giữ đường đến cây trường sinh (x.  St.3, 1-24);
  • Sách Xuất Hành Đức Chúa phán với  ông Mô-sê: “ Này  Ta sai Thiên Sứ đi trước ngươi, để gìn giữ ngươi khi đi đường, và đưa  ngươi vào nơi Ta dọn sẵn. Trước mặt người, ngươi hãy ý tứ và nghe lời  người…” (Xh.23,20-21).
  • Sách các Vua quyển 1 trình thuật việc Thiên Sứ đến an  ủi, tiếp tế lương thực cho ngôn sứ Ê-li-a trên đường ông lên núi  Khô-rếp(x.1V.19,1-8)
  • Sách Tô-bi-a trình thuật việc Chúa Sai thiên sứ  Ra-Pha-en đến để đồng hành, dẫn đường cho Tô-bi-a và việc chữa lành cho  thân phụ của Tô-bi-a là ông Tô-bít (x.Tb.5,1-23;11,1-19).
  • Thánh Vịnh 90 trình thuật lại lời xác tín sự hiện diện  của các Thiên Thần Bản Mệnh thực hiện mệnh lệnh của Thiên Chúa bảo vệ con  cái của Ngài: “ Bạn sẽ không gặp điều ác hại , và tai ương không bén bảng tới  nhà. Bởi chưng Thiên Chúa truyền cho thiên sứ giữ gìn bạn trên khắp nẻo  đường, và thiên sứ sẽ tay đỡ, tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào đá” (x.Tv.90,1-16).
  • Thánh Phao-lô trong thư gửi cho giáo đoàn Do-thái đã  viết về các Thiên Thần: “Nào tất cả các vị đó không phải là những bậc  thiêng liêng chuyên lo phụng thờ Chúa, được sai đi phục vụ để mưu ích cho những kẻ được thừa hưởng ơn cứu độ sao?”(Dt.1,14).
  • Sách Tin Mừng trình thuật rất nhiều về sự hiện diện của  các Thiên Thần (Sứ thần) của Thiên Chúa: Sứ thần truyền tin cho Đức Maria,  ông Dia-ca-ri-a (x.Lc.1,538); Sứ thần truyền tin cho Thánh Cả Giuse  (xMt.1,18-25;2,13-23); Đạo binh các thiên thần hát vang trong đêm Đức Kitô  giáng sinh(x.Lc.2,1-20); Sứ thần loan báo tin vui Phục Sinh (x.Mt.25,1-8);  Sứ Thần giải thích cho các thánh Tông Đồ về sự kiện Đức Giêsu về Trời
    (x.Cv.1,9-11). Đặc biệt là lời dạy dỗ, nhắc nhở của Đức Giêsu về hình ảnh  và vai trò của các Thiên Thần: “ Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai  trong những kẻ bé mọn này, quả thật, Thầy nói cho anh em biết: các thiên  thần của họ ở trên trời không ngừng chiêm ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự  trên trời” (Mt.18,10).
  • Giáo Hội xác tín sự hiện diện, nâng đỡ của các Thiên  Thần Bản Mệnh qua lời nguyện nhập lễ kính nhớ các ngài: “ Lạy Chúa! Chúa  sai các Thiên Thần đến gìn giữ chúng con. Xin ban cho chúng con đời này  được các Ngài luôn bênh vực che chở, và đời sau được cùng các Ngài hưởng phúc vinh quang”.

Vâng! Theo ý muốn và tình thương của Thiên Chúa, Ngài đã tác dựng các Thiên Thần, để các ngài trở thành cánh tay nối dài của Thiên Chúa trong việc săn sóc, đồng hành, gìn giữ, nhắc nhở và che chở ta khỏi mưu chước của quyền lực sự dữ, các thiên Thần Bản Mệnh hằng cầu nguyện cho ta trước thánh nhan Chúa, ghi chép tất cả những công việc, tư tưởng, ước
muốn của ta mà dâng lên cho Thiên Chúa.

Mẹ Maria đã mạc khải cho một vị thánh về vai trò của các Thiên Thần bản Mệnh của mỗi người khi họ tham dự thánh lễ. Mẹ phán: “ Khi các con đến tham dự thánh lễ, đến phần vị chủ tế chuẩn bị dâng của lễ. Các con có biết, Thiên Thần Bản Mệnh của các con sẽ thay các con tiến về phía bàn thờ, trên đôi tay của các ngài là những tâm tư, ước nguyện mà các con muốn tiến dâng lên cho Thiên Chúa khi tham dự thánh lễ, cũng có những Thiên Thần tiến lên bàn thánh, nhưng trên tay của các ngài không có chút của lễ nào vì người tham dự thánh lễ không ý thức và đến tham dự thánh lễ một cách máy móc, chia trí, lo ra… Thiên Thần Bản Mệnh của những người tham dự thánh lễ như thế rất buồn và liên lỉ cầu nguyện cho họ” ( trích Mẹ Maria mạc khải thánh lễ).

Có thể nói, rất nhiều người không biết, không hiểu và lãng quên sự hiện diện của các Thiên Thần Bản Mệnh. Các ngài chính là ân sủng, là quà tặng mà Thiên Chúa ban nhưng không cho ta trên bước đường lữ hành. Sự hiện diện của các ngài là dấu chỉ Thiên Chúa luôn ở cùng và ở với ta trong từng ngày sống. Các Thiên Thần luôn hướng dẫn ta trong đời
sống đạo, luôn bênh đỡ ta và gìn giữ ta, nhắc nhở ta mỗi khi ta phạm lỗi bằng tiếng nói của lương tâm. Thế nhưng, nhiều khi ta không nhận ra tiếng nói lương tâm thôi thúc, nhắc nhở ta là tiếng nói của các Thiên Thần Bản Mệnh. Nhiều lần ta thoát khỏi những tai nạn, tai ương trên bước đường, ta không nhận ra chính các Thiên Thần đã bảo vệ, cầu nguyện cho ta, đem lại cho ta sự bình an…!

Nhiệm vụ của Thiên Thần Bản Mệnh là thực hiện mọi công việc mà Thiên Chúa giao phó cho các ngài, dẫu trong đời sống ta thường xuyên vô ơn, lãng quên các ngài, nhưng các ngài không hề bỏ rơi ta hằng ở luôn bên ta, âm thầm bảo vệ, gìn giữ và nhắc nhở ta sống và đi theo đường ngay nẻo chính, giúp ta thực hiện những việc lành phúc đức, hướng dẫn ta
và dắt ta về với Thiên Chúa là Cha luôn yêu thương con cái mình. Ta hãy nghe lời của Thiên Thần nói với ông Tô-bít và Tô-bi-a khi các ông được người dẫn đường nói cho biết sự thật ngài là Ra-pha-en một trong bảy thiên sứ hằng hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển Chúa, các ông đã hoảng sợ, nhưng sứ thần nói tiếp: “Đừng sợ! Bình an cho các người! Hãy chúc tụng Thiên chúa đến muôn đời! Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi không phải do lòng tốt của tôi, mà do do ý muốn của Thiên Chúa….”(x.Tb. 121-22).

Theo dòng lịch sử của Giáo Hội, có rất nhiều câu chuyện kể về những ơn lành và sự đồng hành của các Thiên thần Bản Mệnh. Xin mượn câu chuyện sau để kết thúc đôi dòng suy tư về các Thiên Thần Bản Mệnh

Tại một xứ đạo vùng sâu, vùng xa ở nước Pháp, vào một đêm khi cha sở họ đạo chuẩn bị lên giường nghỉ, bỗng có tiếng gõ cửa và tiếng kêu cứu xin cha sở tới xức dầu cho một bệnh nhân đang trong cơn nguy tử. Trời khuya, muốn tới nhà bệnh nhân, cha sở phải băng qua khu rừng vắng. Với trách nhiệm và bổn phận, cha sở chuẩn bị tư trang để lên đường.
Khi tới đầu khu rừng vắng, với một thân một mình, bỗng trong tâm trí ngài cảm thấy sợ, lúc bấy giờ ngài nhớ tới Thiên Thần Bản Mệnh, ngài cầu nguyện và xin Thiên Thần đi cùng. Ngài đã đến kịp thời ban các phép và cầu nguyện cho bệnh nhân trước khi bệnh nhân trút hơi thở cuối cùng.

Thời gian trôi qua khoảng 10 năm.Vào một buổi chiều người ta đến báo cho ngài có một một người rất muốn gặp Cha, người đó là một tử tù sắp bị hành quyết. Ngài vội lên đường. Khi đến nơi, người tử tù nói:

  • Thưa Cha! Cha có phải là cha sở họ đạo X? Vị mục tử gật đầu và hỏi:
  • Sao anh biết tôi? Người tử tù kể lại
  • Thưa Cha! Cha có nhớ vào một buổi tối cách đây 10 năm,  tại khu rừng vắng, vào thời điểm đó, con đang là một tên cướp của, giết  người đang bị truy nã. Con dự tính sẽ cướp và giết bất cứ ai con gặp. Và  rồi con thấy cha, nhưng thật là xúi quẩy cho con, vì cha không đi một mình, con thấy người đi cùng với cha rất đẹp và rất cao to, con chợt nghĩ
    đây không phải là đối thủ của mình nên đành dậm chân, lui gót xa rời con mồi mà mình đã và đang chờ đợi. Rồi anh kể tiếp:
  • Thưa Cha! Con là người có đạo, nhưng con đã sống bê tha  và trở thành kẻ cướp của giết người, giờ đây con đáng bị người đời trừng  trị, xin cha cho con biết người thanh niên đi cùng cha là ai, vì con thấy  dung mạo của anh ta rất khác thường, hiền lành nhưng uy nghi làm con sợ.  Sững lại ít giây, vị mục tử liền trả lời:
  • Chàng thanh niên đó là Thiên Thần Bản Mệnh. Người tử tù nghe thế liền khóc và xin vị mục tử cho anh xưng tội và chịu các phép sau cùng.

Lạy Chúa! Xin cho con luôn biết kính trọng, yêu mến và cậy trông vào sự che chở của các Thiên Thần Bản Mệnh là những người bạn mà Chúa đã quan phòng ban tặng cho con trên bước đường về quê trời. Xin giúp con luôn biết lắng nghe những lời nhắc nhở của các ngài qua tiếng nói lương tâm, để nhờ ơn Chúa giúp và sự đồng hành của các Thiên Thần Bản Mệnh mà con luôn sống trong bình an và sống đẹp lòng Chúa bây giờ và mãi mãi.Amen

Sài Gòn, ngày 22/09/2012

Antôn Lương Văn Liêm

Bằng chứng Chúa Giêsu hiện hữu

Bằng chứng Chúa Giêsu hiện hữu

Tác giả Tiến sĩ ADRIAN ROGERS (*)

 

 

Chúa Giêsu đã bước đi trên thế gian này. Ngài đã sinh ra và chết đi. Làm sao chúng ta biết được? Có ba bằng chứng cho chúng ta biết.

Các thánh

Cv 10:39-41 nói: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại”.

Hơn 500 người đã thấy Chúa Giêsu sau khi Ngài sống lại, và đa số những người này đã chết vì đức tin. Người ta có thể sống để nói dối, nhưng rồi họ chết vì cái gì chứ?

Kinh thánh

Cv 10:43 nói: “Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội”. Khi tác giả nói “các tiên tri”, tác giả đang nói về các ngôn sứ từ sáng thế tới ngôn sứ Malaki (nhớ rằng hồi đó chưa có Tân ước).

Sách Sáng thế, chương 3, nói về Đấng sẽ đạp dập đầu con rắn. Sách Sáng thế, chương 12, nói về Đấng đó đến từ dòng dõi Áp-ra-ham. Trong Sáng  thế 22, chúng ta đọc về việc hiến tế Isaac trên núi, nơi mà sau đó Chúa Giêsu chịu đóng đinh! Toàn bộ sách Lê-vi đầy những hình ảnh về việc hiến tế đổ máu để cứu khỏi tội lỗi. Trong Thánh vịnh 22 có những lời tiên tri về Chúa Giêsu chịu đóng đinh: “Tưởng mình như tan dần ra nước, toàn thân con xương cốt rã rời, con tim đau đớn bồi hồi, mềm như sáp chảy tơi bời ruột gan. Nghe cổ họng
khô ran như ngói, lưỡi với hàm dính lại cùng nhau, chốn tử vong Chúa đặt vào…Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn…”
. Trong Mikha 5:2, nói rõ Chúa Giêsu sẽ sinh ra tại Belem: “Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en cho đến thời một phụ nữ sinh con. Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en”.

Tôi có thể tiếp tục, nhưng cuối cùng là: Có kế hoạch cứu độ trong Kinh thánh và qua Máu cứu độ của Thiên-Chúa-Làm-Người, tức là Đức Giêsu Kitô.

Chúa Thánh Thần

Chúa Thánh Thần dùng Lời Chúa và nói: “Amen. Điều đó đã được viết. Đó là sự thật”. Tôi tạ ơn Chúa vì tôi không phải cố gắng thuyết phục bạn tin Chúa Giêsu. Nếu tôi có nói điều gì để thuyết phục bạn thì có thể có ai đó nói bạn ra khỏi đó!

1 Ga 5:9-11 nói: “Chúng ta vẫn nhận lời chứng của người phàm, thế mà lời chứng của Thiên Chúa còn cao trọng hơn, vì đó là lời chứng của Thiên Chúa, lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người. Ai tin vào Con Thiên Chúa, người đó có lời chứng ấy nơi mình. Ai không tin Thiên Chúa, thì coi Thiên Chúa là kẻ nói dối, vì kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người. Lời chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta
sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người”
.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Jesus.org)

(*) Qua đời ngày 15-11-2005.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi