CƯU MANG VÀ SINH HẠ MỘT THẾ GIỚI MỚI

CƯU MANG VÀ SINH HẠ MỘT THẾ GIỚI MỚI

Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Hôm nay các mục đồng vào hang đá và nhận thấy một Hài Nhi sơ sinh nằm trong máng cỏ. Hài Nhi Giêsu chào đời khai sinh một thế giới mới. Đức Mẹ đã sinh ra một
con người mới.

Đức Mẹ sinh ra một thế giới mới để sửa chữa thế giới cũ do Evà sinh ra. Thế giới cũ của bà Evà là một thế giới đổ vỡ. Từ chỗ bất tuân lệnh Thiên Chúa, thế giới đã đi đến chỗ bất hoà với nhau: ông Adong đổ lỗi cho bà Evà, bà Evà đổ lỗi cho con rắn. Không những bất hoà với nhau mà còn bất hoà cả với súc vật, cỏ cây, ruộng đất. Và từ chỗ bất hoà đi đến bất hạnh: Anh em Cain và Aben giết lẫn nhau. Con người phân tán, chia rẽ. Thế giới đổ vỡ này phát sinh từ lòng kiêu ngạo và thói ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình.

Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới vâng phục Thiên Chúa. Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha nên đã sinh xuống thế làm người và từ bỏ ý riêng, sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên thập giá.
Đức Mẹ vâng phục thánh ý Thiên Chúa khi thưa “Xin vâng” với thiên thần. Thánh
Giuse vâng phục Thiên Chúa nên trở về nhận Đức Mẹ làm bạn. Các mục đồng vâng
theo lời thiên thần đến hang Bêlem tìm Chúa. Ba Vua vâng phục theo ánh sáng
ngôi sao đến thờ lạy Chúa.

Thế giới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới hài hoà. Sự hài hoà không phải chỉ có giữa Chúa Giêsu với Đức Mẹ và Thánh Giuse. Cảnh Chúa Giêsu nằm giữa thiên nhiên, trong hơi ấm của bầy chiên bò, với đoàn mục đồng và Ba Vua quây quần chung quanh nói lên một thế giới chung sống hoà bình. Chúa sống hoà hợp với trời đất, với con người và với thiên nhiên. Con người sống hoà hợp với Chúa và với nhau.

Thế giới mới mà Đức Mẹ sinh ra là một thế giới quên mình. Chúa Giêsu đã quên địa vị mình là Thiên Chúa để xuống ở với nhân loại. Chúa Giêsu đã quên mình là Đấng thánh thiện để đến với người tội lỗi. Chúa đã quên mình là Thầy, là Cha, nên quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ, các con cái của mình. Và nhất là Chúa đã quên mình là vô tội đến nỗi sẵn lòng hiến thân chịu chết cho loài người tội lỗi. Thánh Giuse và Đức Mẹ quên mình để đi vào chương trình của Thiên Chúa. Mục đồng quên mình, giữa đêm khuya lạnh lẽo, bỏ giấc ngủ đến tìm Chúa. Ba Vua quên mình bỏ nhà cửa tiện nghi, lên đường, chịu vất vả khó nhọc đến thờ lạy Chúa. Sự quên mình, quan tâm lo lắng chăm sóc cho người khác đã khai sinh một thế giới mới chan chứa tình yêu thương và ấm áp sự hoà thuận. Đó chính là cảnh thái bình đáng mong ước.

Ngày đầu năm mới, Giáo Hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn đặt thế giới vào tay Đức Mẹ để thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình.

Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cầu nguyện cho hoà bình thế giới, mong ước con người hãy biết sống hài hoà với nhau trong vâng phục Thiên Chúa, trong quên mình vì người khác để có một nền hoà bình thực sự trường cửu. Vì hoà bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh nhưng còn là con người sống hài hoà trong tình tương thân tương ái.

 

Ngày đầu năm mới, Giáo Hội cũng mời gọi tất cả mọi người chúng ta hãy cùng với Đức Mẹ cưu mang và góp phần sinh hạ một thế giới mới. Cưu mang chắc chắn phải nặng nhọc. Sinh hạ chắc chắn phải đớn đau. Nhưng nếu mỗi người đều noi gương Chúa Giês, Đức Mẹ, Thánh Giuse, Ba Vua, các mục đồng và cả súc vật trong hang đá Bêlem biết vâng phục Thiên Chúa, biết sống hài hoà và quên mình thì mới mong kiến tạo được một nền hoà bình viên mãn.

Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con trở nên con người mới, góp phần cưu mang và sinh hạ một thế giới mới như lòng Chúa mong ước. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn có mơ ước một thế giới mới không? Thế giới đó phải bắt đầu từ đâu trước?
Từ chính bạn hay từ người khác?

2. Thế giới của Đức Mẹ có gì khác thế giới của bà Evà?

3. Đầu năm mới này, bạn dự tính làm gì để đổi mới thế giới chung quanh bạn?

Tất Cả Chỉ Là Hư Vô

Tất Cả Chỉ Là Hư Vô

Có một câu chuyện vui về phù thủy Mundaca. Ông nổi tiếng nhất trên thế giới vì có thể làm cho người chết được trở về sống lại trên trần gian này.

Một hôm, ông đến đọc thần chú trước ngôi mộ của một người nổi tiếng nhất trong vùng đã qua đời từ nhiều thế kỷ trước. Ngôi mộ mở ra và một vị sang trọng bước ra cúi mình chào vị phù thủy và nói:

– Xin cám ơn Ngài rất nhiều vì đã làm phép mầu  cho tôi được trở lại từ cõi chết, đó là Ngài thực hiện một công việc hết sức quan trọng cho những người cùng thời với Ngài. Thế giới sẽ sống an vui và hạnh  phúc hơn với công việc tôi sắp làm. Ngài có biết không, ngày xưa tôi sinh ra trong một dòng dõi sang trọng, tôi đã dùng hết sự giàu sang của mình để thực hiện những điều lợi ích cho mọi người chung quanh tôi sinh sống. Vì thế, giờ đây tôi được trở về trần gian, tôi sẽ dùng hết những việc tốt khi xưa để xây dựng hạnh phúc cho mọi người.

Nói xong những lời trên, người sang trọng vừa sống lại đó hăng hái bước về thành phố, nơi quê hương của mình sinh trưởng. Nhưng chỉ sau một ngày, phù thủy Mundaca đã thấy người vừa được sống trở lại gặp ông và năn nỉ:

– Xin hãy vui lòng đưa tôi trở về lòng đất.

Nhà phù thủy với giọng rất ngạc nhiên hỏi:

– Nhưng tại sao ông lại muốn chết trở lại?

Người sang trọng trả lời:

– Khi tôi trở về lại nơi tôi sinh sống, không ai biết tôi là ai cả, và cũng không có ai tin lời tôi nói. Tôi đã cố gắng nhắc lại cho họ về những điều tốt tôi đã làm cho mọi người khi trước, nhưng cũng không ích lợi gì. Dân tôi sinh sống ngày nay không còn nhớ gì nữa cả, đền đài kỷ niệm mà xưa tôi đã xây nên để ghi nhớ những gì tôi đã làm, nay không còn nữa. Giờ đây tôi mới hiểu câu nói: “Mọi vinh quang và vinh dự của con người đều chóng qua, tất cả chỉ là hư vô mà thôi”.

Nói xong những lời trên, người sang trọng xin nhà phù thủy cho về lại cõi chết.

***

Câu chuyện vui trên trình bày một quan điểm sống trần tục và vinh quang. người sang trọng kia lúc còn sống đã làm những điều tốt cho anh chị em mình để có tiếng tốt, để danh tánh được khắc ghi trên bia mộ lưu danh từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là những toan tính trần tục. Người khi được từ cõi chết trở về, danh tiếng từ thời trước bị lãng quên không còn nữa. Người sang trọng kia không còn đủ nghị lực để tạo lập sự nghiệp mới mà bi quan muốn trở về với cõi chết. Nếu chúng ta sống cõi đời này chỉ có một quan niệm trần tục như vậy thì sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ rơi vào tình trạng trống rỗng bi quan.

Mỗi người chúng ta cần xét lại quan điểm sống của mình theo ánh sáng lời dạy của Chúa. Mỗi người chúng ta cần xác tín rằng: tôi được sinh ra trên trần gian này để thi hành sứ mạng yêu thương: yêu thương phục vụ Thiên Chúa, và yêu thương phục vụ anh chị em. Những việc lành tốt để chứng tỏ tình yêu thương đối với Thiên Chúa dầu có được người đời biết hay không? có nhìn nhận hay không? không phải là quan trọng. Điều quan trọng là tôi có thật lòng làm vì yêu mến Chúa hay không, và việc yêu mến Chúa và phục vụ anh chị em một cách thiết thực hữu hiệu một cách có thể.

***

Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương cho chúng con noi theo. Là một vị Thiên Chúa, Chúa đã không màng chi đến việc sinh xuống trần gian làm người thấp hèn, để trở nên giống mọi người. Dầu con người có biết ơn và tin nhận Chúa hay không. Chúa thực hiện những dấu lạ, những hành động tốt để mời gọi chúng con, nhưng không bao giờ ép buộc cúng con phải tin Chúa. Chúa luôn thi ân cao cả cho dầu những chống đối khước từ. Xin giúp con sống theo gương mẫu của Chúa. Amen.

R. Veritas

Anh chị Thụ & Mai gởi

LƯU MANH HÓA TRÍ THỨC

LƯU MANH HÓA TRÍ THỨC
“Không ít trí thức Việt nam dễ dàng bán mình cho những quyền lợi tầm thường và phi pháp.” (Dr. Nikonian)

Nói chung là bán đắt không ai mua thì phải bán rẻ thúi.

TL: Thỉnh thoảng mình được đọc note của một bạn trẻ có nickname là Tiếu Bối, đâu chừng ngoài 20 tuổi. Hôm nay lại được đọc bài này. Nếu tuổi trẻ đã ưu tư những chuyện như thế này của đất nước thì VN vẫn còn hồng phúc lắm…Tự an ủi mình như vậy!

Tượng trí thức (Thổ Nhĩ Kỳ)
Theo số liệu thống kê cho biết : Cả nước hiện có hơn 9. 000 Giáo Sư, 24.000 tiến sĩ, 101.000 thạc sĩ và 2.700.000 cử nhân đại học [1]. Một con số lý tưởng
cho nền kinh tế tri thức. Việt Nam hiện nay có nhiều điều kiện để trở thành nước có nền kinh tế phát triển như: nguồn lao động trẻ, thuận tiện giao thông, có nhiều loại tài nguyên,….Tuy vậy, nước ta vẫn trong cái vòng luẩn quẩn của nghèo nàn, lạc hậu. Nguyên nhân chính là ở yếu tố con người, do đất nước chúng ta không tôn trọng giá trị con người, không tôn trọng trí thức đích thực. Yếu tố con người chưa được quan tâm thích đáng trong khi nó mới là nhân tố chính cho sự hưng thịnh/ suy yếu của 1 quốc gia.
Một xã hội bảo thủ, trọng thành tích, hám danh sĩ diện với bằng cấp thường đi đôi với sự coi thường sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật đương nhiên sẽ tụt hậu. Và Việt Nam đã và đang tụt hậu. Cũng theo số liệu thống kê cho biết các chuyên gia WB tính toán
“Việt Nam phải mất rất lâu nữa mới đuổi kịp các nước trong khu vực Đông Nam Á: 158 hoặc cũng có thể là 175 năm với Singapore, 95 năm với Thái Lan và 51 năm với Indonesia.” [2]
Vấn đề đầu tư vào giáo dục luôn quyết định hưng, suy của một quốc gia. Nền giáo
dục của Việt Nam và cả xã hội Việt Nam làm nhân tài không có đất dụng võ. Với
bằng cấp tràn lan, làm người Việt ảo tưởng về mình. Mỗi năm chúng ta có rất nhiều kỹ sư, cử nhân, tiến sĩ, giáo sư mới nhưng nền kinh tế của chúng ta lẹt đẹt, èo uột, đất nước chúng ta lạc hậu. Nếu tính từ hàm Thứ trưởng trở lên, số người có trình độ tiến sĩ ở Việt Nam cao gấp 5 lần Nhật Bản [3]. Và với số lượng hùng hậu GS, TS, Ths, Cử nhân đã nêu trên, một con số lý tưởng cho nền kinh tế tri thức. Nhưng hiện vẫn đốt đuốc tìm lao động chuyên gia, thiếu hẳn những công trình khoa học – sáng tạo – sáng chế được ứng dụng vào thưc tiễn cuộc sống…Trong khi nền kinh tế sản xuất vẫn là nhân công giá rẻ, miệt mài với gia công phụ thuộc, công nghệ thì vẫn đang loay hoay ở trình… “sản xuất mì tôm”.
Người Hàn Quốc họ có quyền tự hào vì họ xây dựng được những sản phẩm mang tính thương hiệu quốc tế như: Sam Sung, Huyndai. Người Nhật có thể vỗ ngực tự hào với Sony, Toyota. Sing có quyền hãnh diện về hàng xuất khẩu điện tử của mình ra khắp thế giới,…Hoàn toàn thiếu một sản phẩm Việt sánh ngang tầm các quốc gia khác trên thế giới.
Thực tế này cho thấy, chất xám Việt đang bị lãng phí. Lãng phí từ khâu đào tạo
(đào tạo quá nhiều GS, TS, Ths giả và dỏm), lãng phí cả khâu sử dựng (Nhân tài
thực sự chưa được tin dùng và sử dụng hợp lý và trọng dụng họ).
Người Việt, trí thức Việt, dân Việt trách móc Xã hội này đôi khi, nhưng nếu nhìn kỹ lại, thì chính họ chính chúng ta tạo nên Xã hội này. Trí thức Việt nói riêng, dân Việt nói chung nhiều lúc đôi khi có xu hướng, chờ đợi mong mỏi một vị minh quân, 1 vị lãnh đạo tài ba xuất chúng nào đấy xuất hiện để đưa lối dẫn đường họ và lãnh đạo đất nước đang tụt hậu này, nhưng họ quên rằng không ai dẵn dắt và không ai hành động tốt hơn họ tự dẫn dắt mình định hướng cho mình. Đã đến lúc cả dân tộc này và giới trí thức Việt cần nhìn thẳng và nhìn thật vào chính mình, nhìn vào thực tế và tự gánh trách nhiệm cũng như vài trò của mình để tự thoát ra cái vòng luẩn quẩn này chứ không phải một ai đó, 1 vị cứu tinh nào đó hay 1 vị minh quân còn ẩn dật đâu đó.
Nghèo, dốt, thua kém người khác chưa hẳn là cái tội. Cái tội là ở chỗ: nghèo, đói, lạc hậu, thua kém người khác nhưng lại không biết, hay biết mà không chịu thừa nhận và tệ hơn là phải phủ nhận mình nghèo bằng mọi giá vì cái sĩ, để rồi không chịu tìm tòi hướng đi, lối thoát cho mình. Và nếu chúng ta không khắc phục được sự yếu kém của đất nước, nạn nhân cũng chính là chúng ta. Chúng ta là nạn nhân của chúng ta.
Bất cứ xã hội nào, trí thức và yếu tố con người mới là yếu tố hàng đầu để đưa
đất nước đi lên. Nước Mỹ phồn vinh với giấc mơ Mỹ và là miền đất Hứa của biết
bao người trên thế giới, Người Hàn Quốc chấp nhận “ăn mày chất xám” ở phương
tây, tinh thần Samurai của Nhật…Sao không để cho trí thức Việt được tự do trong
sáng tạo, tự do trong tư tưởng, tự do trong lựa chọn của mình !? Để họ được
cống hiến !?
Ở một góc độ nào đó, có thể nói và khẳng định rằng, đất nước không phát triển
được như người ta là vì trí thức Việt chưa phát huy hết vai trò và sứ mệnh của
mình. Và lại ở 1 góc độ nào đó, họ bị kiềm kẹp, bị cột, bị trói chặt tư duy, tư tưởng, và cả ý thức hệ, họ cũng muốn sống, muốn cống hiến lắm, muốn được hy sinh nhưng ý thức hệ, sự khác biệt trong tư duy và tư tưởng đã làm cho họ không được chọn, và họ bị cuốn vào vòng xoáy luẩn quẩn của giới trí thức Việt bao đời nay, vòng xoáy của một xã hội mà ngay cả đến trí thức cũng bị đẩy vào con đường “lưu manh hóa”, ở đó nhân phẩm của trí thức bị người khác chà đạp và tự mình chà đạp lên mà sống ,để rồi họ không kịp nhận ra họ vừa là “nạn nhân” mà còn đồng thời là “thủ phạm”. Họ hành hạ nhau và dẫm đạp lên nhau mà sống:
-Một bác sĩ với mức lương èo uột, 3 đồng 3 cọc , chết đói, anh ta tìm đủ cách làm khó bệnh nhân để được nhận “lót tay”. Nhưng khi anh ta sử dụng các dịch vụ khác, anh ta lại bị làm khó lại.
-Một thương gia (doanh nhân) vì chạy theo lợi nhuận và tham đồng tiền bất chính không ngại bán rẻ lương tâm mình sản xuất ra những hàng hóa chất lượng kém, độc hại tới sức khỏe của người tiêu dùng, miễn sao lợi nhuận nhiều, xả chất thải độc hại ra môi trường, nhưng rồi chính anh ta hủy hoại môi trường chung anh ta đang sống trong đó và sẽ ra sao nếu anh ta mua phải những sản phẩm độc hại khác do người khác cũng vì tham lam mà sản xuất ra như anh ta.
-Từ Vụ sập cầu Cần Thơ, cho đến sập cầu cống, hàng loạt công trình thủy điện quốc gia công trình dân sự khác,… những kỹ sư làm việc trên công trình đó đã làm hại hoặc tiếp tay cho người khác làm hại rất nhiều người. Sẽ ra sao nếu như những kỹ sư này đứng dưới công trình của chính họ thiết kế và xây dựng?
-Một nền giáo dục thay vì dạy con người ta cách học, nó chỉ dạy con người ta cách tin và phải đặt niềm tin vào đấy, kết quả tạo ra khg phải 1 thế hệ mà nhiều thế hệ cứ bắt thế hệ nối tiếp sau cứ tiếp tục đặt niềm tin. Bởi lẽ thế hệ này tiếp tục “dẫn dắt” (chăn dắt!?) thế hệ kia.
-Một công chức, phải bỏ ra 1 khoản tiền lớn để mua chạy chức, hối lộ cho người
này, cho cơ quan kia để có cái ghế, cái chức. Khi có cái ghế, cái chức rồi lại quay lưng ra cướp phá, cướp bóc , hạch sách nhũng nhiều người khác để lấy lại những thứ mà mình từng bỏ ra. Và xem điều đó là lẽ đương nhiên và cái vòng luẩn quẩn ấy cứ tiếp diễn!
-Một nhà báo, nhà văn, người cầm bút vì lợi ích cá nhân riêng, có thể nhẫn tâm
bẻ cong ngoài bút, viết láo và viết liều để nhận được những đồng tiền bẩn tưởng
chừng như chỉ làm tổn hại tới người đọc nói riêng và nền văn báo chí văn hóa
nước nhà nói chung nhưng anh ta cũng đang tự biến mình thành trò bỉ ổi và lố
bịch trong mắt người đọc, vì người đọc bây giờ đủ thông minh để nhận biết đâu
đúng, đâu sai. Bởi trước khi hốt bùn để ném vào mặt người khác, thì bàn tay anh
ta cũng đã lấm bùn trước rồi…
Và cứ thế, mỗi người trong xã hội cứ tự hại mình và hại người khác. Có thể nói
trí thức Việt Nam nói riêng và người Việt nói chung vừa tự hại mình và hại
người, nạn nhân của nhau, nạn nhân của định hướng xã hội, nạn nhân của sự lãnh
đạo và dẫn dắt tồi tệ.
Trong một xã hội, khi “sự thật” bị bóp méo, bị bẻ cong Trí thức Việt từ chỗ “người sáng” cũng trở thành “người mù”, người thẳng cũng thành “còng lưng”. Hoặc im lặng, cúi đầu chấp nhận để mà sống yên ổn thay vì cất tiếng nói phản kháng rồi bị vùi dập.
Với mức giá, mức lương hiện tại, Xã hội còn nhiều trí thức không sống được vói
mức lương thực của mình. Người lao động trí thức bị bần cùng hóa và bị đẩy đến
chỗ không còn có thể nghĩ gì khác ngoài việc làm sao kiếm cho đủ tiền để sống.
Đây chính là một trong những lý do làm nên sự tha hóa, biến chất của giới lao
động trí thức, thay vì đầu tư vào nghiên cứu, nâng cao chuyên môn tay nghề,
phát minh ra cái này, khám phá ra cái kia họ lao đầu vào kiếm tiền kiếm sống,
làm sao phải sống được cái đã. Chính điều này dẫn họ tới kết quả làm nhiều việc
trái nghề, trái lương tâm, trái đạo đức xã hội…
Mua quan, bán chức, mua vị trí công tác diễn ra đều đặn trong giới lao động trí thức trong Xã hội để rồi khi lên nắm quyền thì Vua quan thi nhau chia chác, nhũng nhĩu, quan liêu, thằng lên sau thì dốt hơn nhưng lưu manh, khốn nạn hơn thằng trước. Khốn khổ cho một xã hội!
Chưa dừng lại ở đó, Giới lao động trí óc ở Việt Nam không những bị bần cùng hóa
về đời sống vật chất, mà còn bị bần cùng hóa hay tự bần cùng hóa cả về tư duy đời sống tinh thần khác. Hiện tượng này đang thành ra phổ biến : những người, lẽ ra , phải làm việc với sách vở lại rất ít đọc sách, không quan tâm đến các vấn đề xã hội. Họ tự phủ nhận vai trò và trách nhiệm xã hội của họ. Hoặc học nhiều đọc nhiều, có bằng này bằng nọ chỉ để tự hào, để khoe khoang, để lên lớp nhau, để mơn trớn nhau vì cái tính sĩ diện hảo. Và cách người Nga đáp trả: Mày giỏi (giáo dục cao, học giỏi…) sao mày không giàu (sao mày không thể bán chút kiến thức để kiếm tí tiền tiêu cho sang trọng). Có lẽ câu nói đó hơi sống sượng. Nó hơi chợ búa. Nhưng nó chỉ ra một thứ rất đáng nghĩ rằng: nếu như kiến  thức của bạn không mang lại giá trị cho chính bản thân bạn thì bạn cần kiến thức đó làm gì. Để trang trí hả? Để khoe mẽ hả? Nói thẳng ra, nó hơi chợ búa, nhưng đấy là cách nghĩ của một con buôn chứ không phải 1 trí thức.
Mặt khác, một số đông trí thức và tự nhận mình là trí thức lại cố định, cột chặt và để người khác cột, trói chặt tư duy và suy nghĩ của mình bằng những định kiến có sẵn, những quan điểm tâm lý đám đông và những quy luật bất thành văn khác về tư duy và quan điểm của họ . Điều này dẫn đến họ không tự do tư duy, không có tính bức phá không có khả năng phán xét đâu đúng đâu sai, họ chỉ biết nghe, biết chấp nhận những điều từ người khác mớm cho, từ trên đưa xuống không cần phán xét coi nó đúng hay sai, lợi hại ra sao. Sự bần cùng hóa tinh thần là một trong những nguyên nhân khiến giới lao động trí óc ở đây đánh mất sức mạnh, đánh mất khả năng phân biệt đúng sai, phải trái, và khiến họ có thể vi phạm các chuẩn mực đạo đức mà vẫn cảm thấy yên ổn lương tâm. Họ tìm sự yên ổn bằng cách sử dụng các lý lẽ mang tính ngụy biện để bào chữa hoặc hợp pháp hóa cho sự vi phạm đạo đức hay sự vi phạm pháp luật. Họ đã dùng cái sai này để ngụy biện bao che, phủ lấp cái sai khác, trong khi những giải pháp đúng đắn, khoa học đã không được lựa chọn.
Chính sự bần cùng và tự bần cùng hóa về tư duy, đạo đức và tinh thần, đời sống,
trí tuệ đã khiến cho trí thức Việt Nam bị tha hóa nhiều mặt, mất cả năng lực
làm việc trong lĩnh vực chuyên môn của mình, mất luôn cả bản lĩnh văn hóa, cả ý
thức về sự đúng sai, cả phẩm chất đạo đức công dân. Để tự giữ cho mình trong
sạch, chuẩn mực còn khó, nói chi đến chuyện dám đứng lên bảo vệ công lý, bảo vệ
sự thật ! Chính vì thế nhiều người còn chút lương tri họ chấp nhận cắn răng
chiệu đựng và thõa hiệp với cái ác và cái xấu để yên ổn mà sống.
Họ dối trá, tiếp tay cho sự dối trá, họ lừa lọc, tiếp tay cho sự lừa lọc, họ sĩ diện và tiếp tay cho sự sĩ diện. Tất cả nó làm nên dung mạo của nền trí thức bị “lưu manh hóa”.
Đất nước này đã phải trả cái giá quá đắt cho tệ nạn “lưu manh hóa trí thức” này
rồi, bây giờ đã đến lúc chúng ta phải biết tự đứng dậy, dám nhìn thẳng, nhìn
thật vào sự thật, nhìn vào thực tế,… tự bản thân mình thoát ra khỏi cái vòng
luẩn quẩn ấy, đừng tự hại mình và hại người nữa.
[1] Số liệu Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn (ĐH New South Wales, Úc) đưa ra.
[2] Tính toán của các chuyên gia dựa trên báo cáo của WB năm 2007
[3]Theo TS Nguyễn Khắc Hùng, nguyên Chuyên viên Đối ngoại, Học viện Hành chính Quốc Gia.
OH, 30/12/2012
Cám ơn Nguyễn Thọ gởi

Tận thế mỗi ngày

Tận thế mỗi ngày

Sat, 29/12/2012

Tác giả:

Sưu tầm
nguồn: thanhlinh.net

‘Tận thế’ mỗi ngày

Chúng ta đang chết một cái chết không đột ngột nhưng dần dần và phải nói là ‘tức tưởi’.

Con người với bản năng sinh tồn vốn có cộng với lòng tham của bản chất khiến cho chúng ta yêu và muốn níu kéo cuộc sống này hơn bao giờ hết. Điều này càng khó xảy ra với Việt Nam hơn khi mà nước ta với GDP ở top trên 100 nhưng chỉ số hạnh phúc là nhất, nhì thế giới. Vậy chúng ta được gì và mất gì với cuộc sống mà ta đang nắm giữ? Xin lý giải tại sao tôi – một người cực kỳ bình thường về tâm lý và thể trạng sức khỏe lại mong ngày tận thế đến như vậy.

Nền kinh tế kỹ trị tăng trưởng theo hình xoắn ốc với tốc độ nhanh chưa từng có và kéo theo nó cũng là sự xuống dốc trầm trọng về văn hóa, đạo đức và lối sống. Và vô vàn các ví dụ khác, những tiên đoán của các nhà khoa học về cái giá phải trả của sự phát triển giờ đã thành sự thật.

Sự phân hóa giai cấp đang tăng dần bất kể nước giàu hay nghèo, miễn ở đâu có quyền lực, ở đó có bất bình đẳng. Và khi áp lực đó gia tăng nhờ sự đè nén và chèn ép quy luật của tự nhiên, con người trở nên man rợ chưa từng thấy. Khoan hãy nói về vấn đề văn hóa, tôi sẽ đưa ra ví dụ để cho thấy loài người man rợ như thế nào. Loài nhện là một trong những loài hiếm hoi mà xảy ra hiện tượng ăn thịt đồng loại, con cái ăn thịt con đực nhưng thay vào đó là sự ra đời của những lứa đời sau khỏe mạnh hơn.

Con người thì khác, họ tranh giành nhau từng mảnh đất, bờ cõi phục vụ cho những mưu đồ chính trị, phát triển những ngành nghiên cứu khoa học vượt thời đại về chất xám để rồi phục vụ cho y học thì ít mà cho chiến tranh thì nhiều. Với số lượng bom nguyên tử mà các quốc gia hiện đang nắm giữ có uy lực phá hủy 6 lần trái đất. Vậy cuộc sống chúng ta có phải quá mong manh như ngàn cân treo sợi tóc, như ngọn đèn hắt hiu trước gió hay không khi mà chỉ cần một bộ não của một kẻ uy quyền nào đó đang thiếu hụt năng nề tính nhân bản có thể “bấm bút” và “bùm”. Cát bụi sẽ trở về với cát bụi. Hiroshima hay Nagashaki sẽ không còn là nhân chứng sống duy nhất nữa mà biết đâu đấy, chúng ta không còn cơ hội để nhìn thấy nhân chứng thứ hai. Đến lúc đó, cuộc sống phỏng còn có ích chi?

Nếu bạn đã đọc Lá thư được viết vào năm 2070 của cựu thủ tướng Ấn Độ thì bạn sẽ phải sửng sốt về những điều thực sự nói không ngoa chút nào. “Mọi người trông như những bóng ma: thân thể họ lờ đờ vì yếu đuối, nứt nẻ vì thiếu nước trầm trọng và bị lở loét vì ung thư da do bầu khí quyển không còn khả năng ngăn chặn tia tử ngoại khi tầng ozone bị phá hủy”. Nếu như bạn là người hay xem phim, hãy bỏ thời gian cho hai bộ phim là Thần rừng Lorax và In time. Khi mà nguồn tài nguyên quý
giá nhất của con  người là nước, không khí, thậm chí cả những thứ vô hình như
thời gian cũng khan hiếm thì người ta sẽ sẵn sàng bằng mọi giá để giành giật
lấy nó như giành giật lấy sự sống này vậy.

Nhưng đó chỉ là những suy nghĩ về môi trường sống của chúng ta sẽ bị hủy hoại như thế nào, thực chất, điều bị hủy hoại mà tôi muốn nói ở đây là đạo đức, là văn hóa, là nhân phẩm con người. Không biết tự cái thuở nào con người vẫn còn sinh ra trong cái nôi gia đình với “Nhân chi sơ tính bản thiện” vậy mà giờ đây được nền văn minh nhào nặn để trở nên tham lam và vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân xâm chiếm lợi ích cộng đồng, tài nguyên bị bòn rút để tập trung vào tay một số kẻ có quyền lực.

Văn hóa du nhập, lai căng, những nét đẹp dân tộc giờ đây bị coi là cổ hủ và lạc hậu, nhường chỗ cho ngành truyền thông và quảng cáo. Chúng ta đang chết một cái chết không đột ngột nhưng dần dần và phải nói là “tức tưởi”. Đó mới là cái chết đau đớn
biết bao.

Chắc bạn đã nghe câu chuyện về cái cây ở bệnh viện phụ sản không thể chặt được với lý do có quá nhiều linh hồn nhỏ bé trú ngụ trên đó. Về thực chất câu chuyện đúng sai, duy tâm duy vật thế nào tôi không biết, chỉ có điều, một thực trạng trông thấy là
những linh hồn đang vất vưởng ngoài kia là những hài nhi chưa thành hình, là
sản phẩm của những phút nông nổi của giới trẻ, là kết quả của sự pha tạp văn hóa, hoặc những “giờ dạy con” của các bậc cha mẹ đã bị đánh cắp bởi cuộc đua tiền bạc dẫn đến sự vô định hướng của giới trẻ.

Khi mà con người ta lấy thước đo giá trị làm chuẩn mực để đánh giá một con người thì dường như mọi thứ bị đảo lộn, một thực tại không thể chối cãi được. Ở một quốc gia mà nhà nghỉ, khách sạn, nhà tù, phòng khám tư phá thai nhiều hơn cả trường học, bệnh viện cho người nghèo thì thử hỏi các bậc cha mẹ làm sao không khỏi đau đầu? 10 năm nữa liệu Việt Nam có còn coi “Mỗi đứa con là một món quà của trời cho” nữa không hay khi đó, việc duy trì nòi giống cần phải có sự can thiệp khuyến khích từ chính phủ.

Đi đến đây, tôi, bạn và chúng ta đã nhìn thấy những vết thủng lỗ chỗ trên nền văn minh đương đại, chúng ta có thể làm gì, nói gì nữa đây. Nếu bạn không phải là người nhạy cảm thì xin hãy cứ hát lên khúc ca của riêng mình và sống một cuộc sống như thể ngày mai là tận thế, cònnếu bạn giống tôi – người suốt ngày suy nghĩ thì hãy ngồi và cầu nguyện (hoặc thiền) cho một sự thay đổi cực lớn của nhân loại. Có thể là kết thúc của một hoàng hôn nhưng sẽ là bắt đầu của một bình minh. Tận thế ơi là tận thế!

 

Nói cho con người: Lm. Chân Tín (31)

Nói cho con người: Lm. Chân Tín (31)

Đăng bởi lúc 2:09 Sáng 2/01/13

nguồn:Chuacuuthe.com

VRNs (02.01.2013) – Sàigòn –

Tự do Tôn giáo

(Thư kính gửi Đức Hồng y Phạm Đình Tụng, Chủ tịch HĐGMVN)

Vũng Tàu, ngày 10 tháng 7 năm 1998

Kính thưa Đức Hồng y,

Hôm kỷ niệm 49 năm thụ phong linh mục của Đức Hồng y và của 3 anh em chúng con (6.6.1998), con có điện thoại cho Đức Hồng y dâng lên Thiên Chúa lời tạ ơn. Đức Hồng y có nhã ý mời con ra Hà Nội nhưng con không đi được vì bận dạy giáo lý tân lòng và cũng vì những vết thương ở chân và tay con chưa lành hẳn. Những vết thương này là do “người ta” cố ý gây tai nạn giao thông, trong khi anh Nguyễn Ngọc Lan chở con vào Tân Sơn Nhất để dự đám tang của cụ Nguyễn Văn Trấn thọ 84 tuổi và đã trên 60 tuổi Đảng, đồng thời cũng là người bạn thân của chúng con trong cuộc tranh đấu cho nhân quyền và cho tự do báo chí ở Việt Nam.

Nay con về Vũng Tàu vài hôm, con xin gửi đến Đức Hồng y một vài trăn trở của con, khi đọc những chỉ thị của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo, ra ngày 2 tháng 7 vừa qua.

Trước hết, khi đề cập đến tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo, Bộ Chính trị nói: “Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, Đảng và Nhà nước chủ trương và thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng tôn giáo, không tín ngưỡng và không tôn giáo của nhân dân”. Con xin thưa với Đức hồng y: Đây không phải là một nhu cầu của một bộ phận nhân dân nhưng là của đại đa số nhân dân, chỉ có một số nhỏ không tín ngưỡng. Đã là nhu cầu tinh thần của đại đa số thì Đảng và Nhà nước càng phải tạo điều kiện để các tôn giáo phát huy những giá trị tinh thần của đại đa số nhân dân, phải tôn trọng các giáo hội xây dựng đời sống tinh
thần của các tín đồ. Nhưng trong thực tế hiện nay Đảng và Nhà nước gây nhiều
khó dễ cho các giáo hội, hạn chế hoạt động tôn giáo và gây khó khăn cho việc đào tạo các chức sắc và các tu sĩ của các giáo hội, bóp nghẹt các giáo hội bằng cách hạn chế việc chiêu sinh.

Riêng phái Công giáo thì như trong giáo phận Sài Gòn, từ 1975 đến nay có khoảng 250 linh mục qua đời và Nhà nước chỉ chấp thuận 150 tân linh mục. Chính con đã viết thư cho Đức Hồng y Etchegaray ngày 7 tháng năm 1989: “Tự do tôn giáo đích thực mặc nhiên bảo đảm  cho Giáo hội được tự do chọn các giáo sư và các chủng sinh. Thế mà hiện nay, việc tổ chức các chủng viện phải chịu đủ thứ hạn chế, chẳng hạn ấn định tỷ số về các chủng sinh. Việc tuyển chọn chủng sinh và các giáo sư chủng viện phải lệ
thuộc sự chấp thuận của Nhà nước… Hiện nay tại Sài Gòn chúng con có một khóa
tuyển sinh 50 chủng sinh cho 10 giáo phận phía Nam. Thời hạn ấn định cho khóa
này là 6 năm, không có tuyển khóa mỗi năm mà chỉ có mãn khóa đầu. Cụ thể mỗi
giáo phận gửi vào chủng viện 5 chủng sinh. Sau 6 năm, 2 chủng sinh có thể tự ý
xin rút lui, một anh khác có thể không được phong chức vì không hợp nhãn Nhà
nước, một anh khác có thể không đạt tiêu chuẩn của Giáo hội, chỉ còn một chủng
sinh thôi. Trong thời gian đó có biết bao linh mục chết đi vì già, vì bệnh, vì
tai nạn”. (Xem hồ sơ Chân Tín: Nói cho con người. tr.27, nxb Tin Paris,
1993). Thế có nghĩa là từ 1975 đến 1989, không có một khoá đào tạo nào trên
toàn thể Đất nước. Và từ 1989 đến nay có đổi đôi chút nhưng không thấm vào đâu,
như thư của một vị giám mục viết sau hội nghị Thường niên Hội đồng Giám Mục
Việt Nam (tháng 10.1997): “Hội đồng Giám mục Việt Nam chúng ta hôm nay chỉ có
33 vị. Về tuổi tác, đại đa số nay đã già, về sức khỏe hầu hết đều bệnh hoạn,
hoàn cảnh các linh mục cũng không khác nhau bao nhiêu vì việc đào tạo và phong
chức đã bị gián đoạn nhiều năm”. Về vấn đề chủng viện, lá thư ấy nói tiếp:
“Giáo hội Việt Nam trước đây có hàng chục đại và tiểu chủng viện… nhưng hiện
nay chúng ta chỉ có 6 đại chủng viện cho toàn quốc với tổng số 752 chủng sinh.
Cơ sở vật chất thì chật chội, ban giảng huấn thì vừa cao niên vừa thiếu hụt. Từ
lâu, Hội đồng Giám mục đã xin phép mở thêm hai đại chủng viện nữa nhưng đến nay
vẫn chưa được”. (Tin Nhà số 31, tr.13).

Kính thưa Đức Hồng y,

Phải chăng những gì con viết vào năm cho Đức Hồng y Etchegaray thì nay vẫn còn y nguyên. Người ta cố tình giết chết Giáo hội khi không cho phép mở thêm chủng viện đào tạo linh mục và tự do chiêu sinh.

Với những hạn chế như thế mà Bộ Chính trị dám nói: “Chính sách tín ngưỡng tôn giáo của Đảng và Nhà nước đã đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân, củng cố niềm tin đối với Đảng và Nhà nước, tạo được tinh thần phấn khởi cho đồng bào tín đồ các tôn giáo… tín đồ các tôn giáo ngày càng yên tâm tin tưởng và hăng say thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước”. Ôi thật mỉa mai!

Tự do in sách tôn giáo cũng chẳng có. Nhà nước đòi áp đặp một số luật về in ấn sách kinh tôn giáo. Mấy ông vô thần và vô tín ngưỡng lại đòi kiểm soát sách tôn giáo thì thật là ngô nghê. Biết gì về Đạo, hiểu gì về Đạo mà đòi kiểm soát về giáo lý của các tôn giáo và các hoạt động nội bộ của tôn giáo.

Chỉ thị của Bộ chính trị còn nêu ra một điều trái ngược với bản chất tôn giáo: “Một số người không phải là nhà tu hành truyền đạo vi phạm pháp luật”. Ta phải nói thẳng: không có quyền lực nào cấm tín đồ của một tôn giáo truyền đạo cho kẻ khác. Đối với đạo Chúa Kitô đó là mệnh lệnh, là một nghĩa vụ tối cao của mỗi tín ngưỡng của mỗi tín hữu phải đem Tin Mừng Cứu độ cho mọi người, chứ không riêng gì người tu hành mới giảng đạo. Nhà nước không có quyền áp đặt hạn chế đó. Hội đồng Giám mục phải lên tiếng chống lại ý đồ của Đảng và Nhà nước. Họ lăm le áp đặt nay mai nhiều luật lệ phá đạo: “Nhà nước chưa kịp thời bổ sung các văn bản hướng dẫn và qui định cụ thể
về các hoạt động tôn giáo. Chính phủ bổ sung nghị định qui định về hoạt động
của tôn giáo, soạn thảo pháp lệnh tôn giáo trình ủy ban thường vụ Quốc hội ban
hành”.

Một vấn đề quan trọng khác là vấn đề các dòng tu, các tu hội. Chỉ thị Bộ Chính trị viết: “Chính phủ có qui định và hướng dẫn cụ thể về hoạt động của các tôn giáo”. Trong vấn đề các dòng tu và tu hội, các bề trên các dòng tu cùng với Hội đồng Giám mục phải có tiếng nói và đưa ra đường hướng để tránh sự lệch lạc của mấy người vô thần duy vật muốn định đoạt sinh hoạt của người tu hành dấn thân phục vụ con người nói chung và con người Việt Nam nói riêng.

 

Ngoài chỉ thị công khai của Bộ Chính trị nói trên còn chỉ thị ngầm qua Ban Tôn giáo trung ương. Trong dịp Hội nghị thường niên của Hội đồng Giám mục Việt Nam vào tháng 10.1997, ông Lê Quang Vịnh, Trưởng Ban Tôn giáo trung ương có đề cập dài dòng về Ủy ban Đoàn kết Công giáo. Giáo sư Đỗ Mạnh Tri gọi là ngôn ngữ gỗ thứ luận điệu cũ rích về chính sách tự do tôn giáo. Đòi hỏi đoàn kết chưa đủ, ông Vịnh còn thêm vào thái độ cha chú, quan lại một cách ngây thơ (để khỏi nói là ngu xuẩn)” (Tin Nhà số 32, tr.11).

Có thể là ông Lê Quang Vịnh dựa vào chỉ thị ngầm của Bộ Chính trị để có thái độ cha chú. Điểm cần nói ở đây có thể là một âm mưu mới của Đảng Cộng sản muốn biến một số linh mục, giám mục làm tay sai trong cái gọi là Ủy ban Đoàn kết Công giáo. Họ không thể tạo ra một giáo hội tự trị như ở Trung Quốc, hoặc một giáo hội quốc doanh. Do đó, họ muốn có những linh mục, giám mục trong Ủy ban Đoàn kết công giáo để chi phối hoạt động của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Họ muốn củng cố lại Ủy ban Đoàn kết đang tan rã để làm một thứ giáo hội quốc doanh ngay trong lòng Giáo hội Việt Nam. Họ có tham vọng “muốn cứu vớt Ủy ban Đoàn kết với bất cứ giá nào” (Đỗ Mạnh Tri, tài liệu đã dẫn) và hơn nữa muốn dùng Ủy ban Đoàn kết để phá hoại Giáo hội Việt Nam từ bên trong.

Trong bài phát biểu về vấn đề “Đảng Cọng sản Việt Nam thật sự tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng”, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu có nói với lãnh đạo các tỉnh, các ban, bộ, ngành trung ương đã về dự đại hội: “Đảng ta thật sự tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng, nhân dân ta có quyền theo đạo, đổi đạo, bỏ hoặc không theo đạo. Không một thế lực nào ngăn cản hoặc vi phạm quyền tự do đó”. Nhưng thực tế trong các cơ quan người ta không tôn trọng tự do tín ngưỡng, nhân viên cao cấp và đảng viên phải từ bỏ đạo Công giáo. Ông Tổng bí thư nói thế nghĩa là đảng viên và công chức cao cấp
Chính phủ không phải là nhân dân, thế họ là thứ gì? Như vậy, chính sách tôn
giáo của Đảng Cộng sản vẫn trước sau như một, nghĩa là chống phá tôn giáo, chứ
chưa có gì đổi mới.

Kính thưa Đức Hồng y,

Trên đây là những trăn trở của một người con Giáo hội Công giáo Việt Nam và cũng chắc là trăn trở của mọi Kitô hữu chân chính, Đức Hồng y và Hội đồng Giám mục Việt Nam cần phải lên tiếng đòi hỏi tự do tín ngưỡng một cách cụ thể, tách riêng trong những vấn đề căn bản của Giáo hội và mong rằng những vấn đề quan trọng ấy cần được công khai hóa, chứ không thể âm thầm gửi cho Nhà nước để rồi lặng lẽ chờ người ta trả lời và không bao giờ có câu trả lời của Nhà nước, như thư của Hội đồng Giám mục gửi cho Nhà nước tháng 10.1997 vừa qua. Cần phải công khai hóa để gây ý thức cho mọi người, để Dân Chúa cùng một lòng đấu tranh cho tự do tín ngưỡng.

 

Kính chúc Đức Hồng y nhiều sức khỏe, sáng suốt và can đảm.

Xin Đức Hồng y chúc lành cho chúng con.

Kính thư,

Lm. Chân Tín

38, Kỳ Đồng, Q.3, Tp.HCM

(TN số 35,1998)

Giáo Lý Cộng Đồng: Tuần 1 – Tháng 01/2013

Giáo Lý Cộng Đồng: Tuần 1 – Tháng 01/2013

Tháng 1/2013

Sau lễ Giáng Sinh, Hội Thánh có Mùa Giáng Sinh, mời gọi các tín hữu tiếp tục học hỏi, cử hành và sống đức tin vào Đấng Thiên Chúa làm người. Vì thế, chủ đề của tháng này là : ĐỨC TIN LÀ MỘT HỒNG ÂN.

Chúng ta sẽ tìm hiểu chủ đề này trong 4 tuần lễ:

Tuần 1: Đức tin là một hồng ân.

Tuần 2: Đức tin là một nhân đức.

Tuần 3: Đức tin là một di sản.

Tuần 4: Hồng ân và trách nhiệm.

TUẦN 1 ĐỨC TIN LÀ MỘT HỒNG ÂN

Khai triển nội dung:

1. Khi thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Người nói với ông rằng không phải huyết nhục mặc khải cho ông điều ấy, nhưng là Cha của Người, Đấng ngự trên trời (Mt 16,17). Khi chứng kiến những người đã thấy các phép lạ Người làm mà vẫn không tin, Chúa Giêsu thưa với Chúa Cha: “Con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11,25). Tất cả đều nói lên đức tin trước hết là một hồng ân chứ không phải là kết quả của nỗ lực nhân loại.

2. Đức tin là một hồng ân vì chính Thiên Chúa đi bước trước. Như thai nhi Giêsu trong lòng Đức Trinh Nữ Maria tìm đến Gioan Tẩy giả trong lòng bà Elisabeth, chính Thiên Chúa đến tìm con người trước khi con người tìm kiếm Ngài. Thiên Chúa đi bước trước bằng nhiều cách: “Để có được đức tin, cần có ân sủng Thiên Chúa đến trước giúp đỡ và sự trợ giúp bên trong của Chúa Thánh Thần. Ngài đánh động và quy hướng con tim về cùng Thiên Chúa, Ngài mở mắt lý trí và cho mọi người cảm thấy dịu ngọt khi ưng thuận và tin vào chân lý” (Hiến chế Dei Verbum, số 5).

3. Đức tin là một hồng ân nhưng không Thiên Chúa ban cho con người. Tuy nhiên chúng ta có thể đánh mất hồng ân vô giá đó như thánh Phaolô nói: “Một số người đã vứt bỏ lương tâm ngay thẳng, nên đức tin của họ đã bị chết chìm” (1Tm 1,19). Vì thế người tín hữu phải gìn giữ và vun trồng đức tin bằng cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa trong đời sống.

Để ghi nhớ (Sách Toát Yếu GLHTCG)

Hỏi: Chỉ với ánh sáng tự nhiên của lý trí, con người có đủ khả năng để nhận biết mầu nhiệm Thiên Chúa hay không?

Thưa: Chỉ với ánh sáng của lý trí, con người sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc nhận biết Thiên Chúa. Hơn nữa, tự mình, con người không thể nào đi vào mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa. Vì thế Thiên Chúa đã muốn soi dẫn con người bằng cách mặc khải cho họ, không những về những gì vượt quá sự hiểu biết nhân loại, mà cả về những chân lý tôn giáo và luân lý, tự chúng vốn không vượt quá khả năng của lý trí, như vậy mọi người có thể biết được những chân lý đó cách dễ dàng, chắc chắn và không sợ sai lầm (số 4).

Hỏi: “Đức tin là một hồng ân” nghĩa là gì?

Thưa: Đức tin là hồng ân Thiên Chúa ban không, và tất cả những ai khiêm tốn cầu xin đều có thể đạt tới (x. số 28).

Ý cầu nguyện:

Lạy Chúa, con tin, nhưng xin Chúa nâng đỡ lòng tin yếu kém của con (x. Mc 9,24).

Năm mới tâm linh

Năm mới tâm linh

TRẦM THIÊN THU

Năm hết, Tết đến, ai cũng lo “đổi mới” bề ngoài, vậy cũng cần lắm đối với mọi người về việc “canh tân” đời sống tâm  linh trong năm mới. Hãy tập thói quen canh tân đời sống tâm linh, và hãy dạy trẻ em đổi mới tâm hồn ngay từ tuổi nhỏ.

Một năm mới bắt đầu, một khởi sự mới cũng bắt đầu. Do đó, đừng chỉ đặt ra các quyết định bình thường như giảm cân, bỏ hút thuốc, bớt say xỉn, bớt lải nhải, bớt độc đoán, bớt chuyên quyền, bớt ích kỷ, cố gắng ngoan ngoãn, cố gắng học tập,… Cũng đừng đặt ra các mục đích quá lớn hoặc xa vời, mà hãy đặt ra các mục đích đơn giản và thiết yếu, nhất là cố gắng cải thiện mối quan hệ với Thiên Chúa. Đây là vài cách khả thi:

1. Canh tân đời sống cầu nguyện

Cầu nguyện luôn cần thiết, vì Chúa Giêsu dạy: “Hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26:41). Có thể đó là việc đơn giản, cũng có thể phức tạp, nhưng không dễ thực hiện trong một sớm một chiều. Hãy cố gắng siêng năng hơn trong việc cầu nguyện hằng ngày. Nhiều người có quyết định này nhưng lại mau thất bại, vì họ muốn nhảy vọt ngay từ bước đầu tiên. Nếu bạn đã từng không thường xuyên cầu nguyện, bây giờ muốn cầu nguyện nhiều ngay thì rất khó. Hãy  bắt đầu tập bằng cách cầu nguyện mỗi buổi sáng khi vừa thức dậy, dù là bạn cầunguyện khi bạn đang đánh răng. Hãy bắt đầu dành cho Chúa mỗi sáng 5 phút. Rồi dần dần bạn cố gắng thêm 2, 3 hoặc 5 phút nữa. Bạn sẽ mau cảm thấy thích thú tâm sự với Chúa trước khi làm bất cứ điều gì. Đừng lo phải nói gì với Ngài, cứ hướng tâm hồn lên với Ngài, bạn cứ nói chuyện với Ngài bất cứ điều gì, hoặc có thể chỉ im lặng chiêm ngưỡng Ngài. Bạn sẽ thấy kết quả kỳ diệu.

2. Đọc trọn bộ Kinh thánh

Tập cho quen đọc Lời Chúa cũng là một quyết định quan trọng trong năm mới đối với mỗi Kitô hữu. Có nhiều kế hoạch cho việc đọc Kinh thánh để có thể đọc trọn bộ Kinh thánh trong một năm. Hãy quyết định đọc Kinh thánh mỗi buổi tối trước khi đi ngủ. Có thể bạn không đọc hết bộ Kinh thánh, nhưng có thể dùng cả năm để tập trung vào các chủ đề đặc biệt hoặc các vấn đề liên quan đời sống mà bạn muốn Thiên Chúa giúp bạn cải thiện. Hãy lập một “kế hoạch” về Kinh thánh, và quyết tâm thực hiện trong năm mới.

3. Giúp đỡ người khác

Qua Kinh thánh, Thiên Chúa mời gọi chúng ta làm việc thiện. Có nhiều cách giúp đỡ người khác, nhất là giúp đỡ người nghèo: “Người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có” (Ga 12:8). Chi tiêu là việc cần thiết, nhưng đừng lãng phí. Tiết kiệm có lợi cho bản thân và gia đình, đồng thời cũng để có thể giúp người khác một cách thực tế. Hãy coi việc giúp đỡ người khác là một phần trong hoạt động của cuộc đời bạn trên cuộc lữ hành trần gian. Đa số các giáo xứ đều có các hoạt động “ngoại khóa”, hoặc bạn có thể tham gia các hoạt động từ thiện của giáo xứ, của hội đoàn, của trường học, của xã hội,… Có rất nhiều người cần sự giúp đỡ của bạn, việc giúp đỡ người khác là cách tốt để sống đức tin, sống yêu thương, làm gương sáng, và chúng tỏ mình là người có niềm tin vào Thiên Chúa.

4. Sinh hoạt giáo xứ

Đa số các giáo xứ đều có các hội đoàn hoặc nhóm sinh hoạt việc đạo đức (Dòng Ba Đa-minh, Cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót, Hội Con Đức Mẹ, Gia đình Phạt tạ Thánh Tâm, Hội cầu nguyện, Hội các Bà mẹ Công giáo, Ca đoàn, Lễ sinh, Thiếu nhi Thánh Thể, Giáo lý viên, lớp Giáo lý, lớp Kinh thánh,…). Hãy tham gia các sinh hoạt chung trong giáo xứ dành cho lứa tuổi của mình. Nhiều nhóm sinh hoạt gặp nhau hằng tuần hoặc hằng tháng, các cuộc họp mặt này là cách tốt để tạo sự thân thiện với nhau, tạo sự hỗ trợ lẫn nhau trong sinh hoạt hằng ngày và sinh hoạt tâm linh.

5. Khiêm nhường phục vụ

Một trong các vấn đề khó khăn đối với các Kitô hữu là chuyện phục vụ, đó là quá trình rất cần thiết: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28). Ai cũng được người khác phục vụ, bằng cách này hoặc cách khác, trực tiếp hoặc gián tiếp, vì thế chúng ta cũng phải biết phục vụ người khác. Tuy nhiên, Chúa Giêsu dạy là phải phục vụ, nhưng phục vụ trong khiêm nhường: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi” (Lc 17:10).

6. Đọc sách thiêng liêng

Hãy dùng cách nào đó có lợi cho bạn, có thể là việc đọc sách thiêng liêng như đọc các sách đạo đức hoặc hạnh các thánh, miễn sao cách đó giúp bạn phát triển trên đường nhân đức. Các dòng tu thường có giờ đọc sách thiêng liêng, giáo dân ít có người có thói quen tốt lành này. Tốt nhất vẫn là đọc Kinh thánh. Đọc Kinh thánh là giao tiếp với Thiên Chúa, là phần thiết yếu của mọi người trong đời sống Kitô hữu, vì Kinh thánh là Lời Chúa, mà Lời Chúa thì chính xác đến độ “một chấm, một phẩy cũng không sai” (x. Mt 5:18) . Đọc sách là thời gian tĩnh lặng, giúp tâm hồn lắng đọng, có thể thấy rõ mình hơn.

7. Sống Đức Tin

Bạn đã loan truyền Phúc âm bao nhiêu lần cho bạn bè hoặc gia đình? Truyền giáo không phải đi xa tới nơi này, nơi nọ, mà có thể là truyền giáo ngay trong gia đình, cho bạn bè, cho láng giềng, thậm chí là tái truyền giáo cho chính mình bằng cách sống thể hiện đức tin. Nếu có điều kiện thì làm như Thánh Phanxicô Xaviê, không thì hãy bắt chước “bông hoa nhỏ” Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Sống đức tin là gieo hạt yêu thương, làm nảy mầm bác ái, bảo vệ công lý, tôn trọng nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền. Cứ  hiểu nhân quyền một cách đơn giản là “quyền sống của con người” để cảm thấy không “nặng nề”. Cứ hành động, đừng lo đến kết quả, như Thánh Phaolô nói: “Tôi trồng, anh Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên. Vì thế, kẻ trồng hay người tưới chẳng là gì cả, nhưng Thiên Chúa, Đấng làm cho lớn lên, mới đáng kể” (1 Cr 3:6-7).

8. Hiểu và cảm thông lẫn nhau

Trong hàng tỷ chiếc lá chẳng có hai chiếc lá giống nhau. Con người cũng vậy. Mỗi người là một cá thể với trình độ và hoàn cảnh sống khác nhau, như tục ngữ nói: “Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính”. Vì thế người này cần chịu đựng người kia, cảm thông lẫn nhau, hiểu và tha thứ cho nhau. Đó là Luật Yêu Thương của Chúa: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34; Ga 15:12). Còn Thánh Phaolô khuyên: “Anh em đừng mắc nợ gì ai ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13:8). Cuộc sống nhiêu khê, nhiều vấn đề phức tạp, khó tránh khỏi xung đột. Ngay cả cha mẹ và con cái cũng vẫn xung khắc, ngay cả vợ chồng cũng vẫn bất đồng ý kiến, ngay cả trong các dòng tu cũng vẫn xảy ra tranh chấp. Vấn đề là khiêm nhường, hiểu biết và cảm thông.

9. Giúp người khác sống đạo đức hơn

Nghe chừng đơn giản nhưng lại cần nhiều can đảm mới có thể giúp người khác sống đạo đức hơn – nói chung, và siêng năng tham dự các giờ phụng vụ tại nhà thờ – nói riêng. Giúp người trong gia đình hoặc bạn bè cùng tôn giáo đã là khó, huống chi với người khô khan đạo hạnh. Thậm chí có những người sẽ cho là bạn “lên mặt đạo đức” hoặc “lên lớp” họ. Khó lắm, thế nên phải tế nhị và khéo léo lắm. Tuy nhiên, việc giúp người khác sống đạo đức hơn là nhiệm vụ truyền giáo chung: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16:15).

Năm Quý Tỵ, năm con Rắn, xin chúc mọi người năm mới hạnh phúc và thánh thiện, khôn ngoan như con Rắn chứ đừng xảo quyệt như con Rắn. Việt ngữ khó diễn tả “hết ý” như Anh ngữ: HAPPY NEW YOU and HOLY NEW YOU. Thiết nghĩ đó là một cách nói và là lời chúc hay với bất kỳ ai.

TRẦM THIÊN THU

Giao thừa Tết Dương lịch 2013

Maria Thanh Mai gởi

Mẹ vẫn chờ con

Mẹ vẫn chờ con
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Người ta kể rằng: có một cô gái ở nơi xa về thăm nhà, vừa mới xuống xe đã nhìn thấy mẹ đứng phía trước. Cô gái rất ngạc nhiên vì mẹ cô không hề biết cô sẽ trở về liền hỏi: ”Sao mẹ biết con về vậy?”. Thì ra cuối tuần nào người mẹ cũng ra chỗ này để “đón” cô.

Tâm tư người mẹ luôn như vậy, luôn lấy thường xuyên thành trùng hợp, biến có thành không khiến những đứa con không khỏi ngạc nhiên cũng không đoán trước được. Mẹ thường che dấu tình cảm của mình. Nước mắt của mẹ luôn chảy ngược vào tim khiến con cái không thể thấy nỗi khổ của mẹ mà chỉ thấy sự diu ngọt từ mẹ. Quả đúng như ai đó đã nói:

“Mẹ là dòng suối nước trong

Thơm, ngon, mát, ngọt như lòng mẹ yêu

Mẹ là gió nhẹ ban chiều

Khẽ ru con ngủ cưng chiều con thơ”

Tình mẹ thật mênh mông. Tình mẹ không có bến bờ chỉ có dạt dào tình yêu và tuôn chảy trên cuộc đời con cái. Vì:

Mẹ là biển rộng xanh lơ

Tình thương bát ngát đôi bờ đại dương

Mẹ là mây phủ ngàn phương

Chở che con dại trên đường nắng rơi

Mẹ là tất cả mẹ ơi!”

Là những người con khi đã nhận ơn của mẹ thì luôn mong mỏi được sống bên mẹ. Không chỉ để được mẹ yêu mà còn để phụng dưỡng ơn mẹ. Không chỉ để được mẹ vỗ về mà cả thèm nghe sự la rầy đầy tình yêu nồng nàn của mẹ.

“Con mong bên mẹ từng giây

Con thèm nghe tiếng la rầy mắng yêu

Bên mẹ nắng sớm mưa chiều

Để con săn sóc mẹ yêu suốt đời”

Trong đời sống thiêng liêng chúng ta cũng có một người mẹ thật yêu thương chúng ta. Mẹ cũng đánh đổi cuộc đời mình vì yêu thương chúng ta. Mẹ hy sinh cuộc đời, gác bỏ việc riêng để gánh lấy nhân loại chúng ta. Tình mẹ cũng mênh mông, bát ngát luôn theo sát con mẹ, đó chính là Mẹ Maria.

Với lời xin vâng, Mẹ Maria đã gác bỏ những dự định riêng của đời mình để sẵn lòng thực thi chương trình của Chúa. Dưới cây thập giá, Mẹ một lần nữa đã nói lời xin vâng khi đón nhận nhân loại làm con của Mẹ. Lời Chúa Giê-su đã thưa cùng Mẹ. “Thưa bà, đây là con của bà”. Mẹ đã không khước từ. Dù rằng, dưới cây thập giá lòng Mẹ đang tan nát bởi cái chết người Con yêu. Mẹ tiếp tục xin vâng để lại làm Mẹ nhân loại theo thánh ý Thiên Chúa.

Và hôm nay, Mẹ tiếp tục hiện diện trong cuộc đời từng người con để vỗ về, để yêu thương, để dìu dắt như ngày nào Mẹ đã yêu thương Con Chúa Trời. Mẹ tiếp tục đứng đó trên những đỉnh đồi thương đau của từng người con như Mẹ đã từng đứng bên thập giá để chia sẻ với Con yêu quý của mình. Mẹ vẫn đang đứng đợi con cái về bên Mẹ như bao bà mẹ vẫn mong con sum vầy bên Mẹ để được Mẹ dậy bảo, để được Mẹ vỗ về yêu thương.

Hôm nay, ngày đầu năm mới, Giáo hội mừng lễ Mẹ Thiên Chúa để nhắc nhở cho chúng ta về sự hiện diện của Mẹ Maria vẫn đi bên cạnh cuộc đời chúng ta. Sự hiện diện của Mẹ bên cuộc đời chúng ta qua biết bao ơn lành hồn xác chúng ta lãnh nhận nhờ lời cầu bầu của Mẹ. Biết bao người vẫn được ơn này ơn kia qua lời cầu khẩn của Mẹ. Biết bao người vẫn đang bám vào Mẹ như sự ủi an duy nhất giữa chốn ba đào đầy khó nguy. Và có lẽ, Mẹ Maria vẫn đang chờ những con cái Mẹ biết chạy đến cùng Mẹ mỗi khi khó khăn, biết nương tựa vào Mẹ mỗi khi thất bại, biết cầm lấy tay Mẹ mỗi khi vấp ngã để Mẹ tiếp tục chia sẻ những thăng trầm trong cuộc đời chúng ta.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ thật có phúc vì đã cưu mang Con Thiên Chúa. Mẹ thật diễm phúc vì Mẹ được chọn làm Mẹ Thiên Chúa. Và  hôm nay chúng con cũng thật có phúc vì có Mẹ là Mẹ của chúng con. Chúng con xin cám ơn Mẹ đã nhận chúng con là con của Mẹ để tiếp tục chăm sóc chúng con. Xin cho chúng con luôn biết chạy đến cùng Mẹ mỗi khi gặp những khó khăn. Xin cho chúng con luôn sum vầy bên Mẹ để được Mẹ yêu thương chúc lành. Amen.

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Maria Thanh Mai gởi

TRI THIÊN MỆNH – ĐẠT LAI LẠT MA

ĐẠT LAI LẠT MA – TRI THIÊN MỆNH


“Sức mạnh của trẻ thơ là tiếng khóc. Sức mạnh của đàn bà là phẩn nộ. Sức mạnh của kẻ cướp là vũ khí. Sức mạnh của vua chúa là quyền uy. Sức mạnh của kẻ ngu là áp đảo. Sức mạnh của bậc hiền trí là cảm hóa. Sức mạnh của người đa văn là thẩm sát. Sức mạnh của sa môn là nhẫn nhục.”

“Bởi chúng ta không thể thay đổi được thế giới xung quanh, nên chúng ta đành phải sửa đổi chính mình, đối diện với tất cả bằng lòng từ bi và tâm trí huệ”

“Ra đời hai tay trắng. Lìa đời trắng hai tay. Sao mãi nhặt cho đầy. Túi đời như mây bay.”

“Thành thật đối diện với mâu thuẫn và khuyết điểm trong tâm mình, đừng lừa dối chính mình”.

“Sự khác biệt giữa con người là do mức tiến hóa khác nhau qua các kiếp sống. Có khi nào ta thù ghét một kẻ kém ta đâu? Suy luận rằng: “vạn vật đồng nhất”, ta sẵn sàng tha thứ cho kẻ khác, vì họ không hiểu biết, không ý thức hành động của mình, vả lại họ và ta nào có khác nhau đâu. Khi ta hiểu rằng: “nhất bổn tám vạn thù”, ta nhìn vạn vật như chính mình, từ loài người qua loài thú, thảo mộc, kim thạch, và ý thức
rằng mọi vật đều có sự sống, đều có Thượng đế ngự ở trong, ta sẽ cởi bỏ thành
kiến, mở rộng lòng thương đến muôn loài”.

“Là con Phật, nếu  không nói được những gì Phật nói, hãy im lặng như chánh pháp, đừng nói những lời ác, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, làm tổn hại kẻ khác, nếu không làm được những gì Phật làm, hãy im lặng và lắng nghe, quán sát, học hỏi những thiện tri thức, đừng vọng động làm những điều thương tổn đến tha nhân”.

“Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Anh càng nguyền rủa họ, tâm anh càng bị nhiễm ô, anh hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của anh”.

“Người mà trong tâm chứa đầy cách nghĩ và cách nhìn của mình thì sẽ không bao giờ nghe được tiếng lòng người khác”.

“Khi trong tay anh nắm chặt một vật gì mà không buông xuống, thì anh chỉ có mỗi thứ ấy, nếu anh chịu buông xuống, thì anh mới có cơ hội chọn lựa những thứ khác.
Nếu một người luôn khư khư với quan niệm của mình, không chịu buông xuống thì
trí huệ chỉ có thể đạt đến ở một mức độ nào đó mà thôi.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma

 

 

Nói cho con người: Lm Chân Tín (29)

Nói cho con người: Lm Chân Tín (29)

Đăng bởi lúc 2:00 Sáng 31/12/12

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (31.12.2012) – Sàigòn –

Trả lời phỏng vấn của đài VNCR

VNCR: Xin linh mục cho biết tiểu sử của linh mục khá chi tiết để đồng bào hải ngoại biết và hiểu linh mục hơn.

Lm Chân Tín: Tục ngữ Pháp có câu “Cái tôi là cái đáng ghét”. Nói về mình thật là khó nói. Nhưng vì được đài VNCR yêu cầu để tạo sự thông cảm giữa đồng bào hải ngoại với tôi, nhất là trước 75, có người cho tôi là “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản”, nên tôi xin nói qua tiểu sử của tôi.

Tôi là linh mục Chân Tín, Dòng Chúa Cứu Thế- Việt Nam, 76 tuổi. Sinh ngày
15.11.1920, tại làng Vạn Xuân, họ đạo Lim Long, ngoại ô thành phố Huế, ngày
trước là thủ phủ của các Chúa Nguyễn.

Tôi học các lớp tiểu học ở trường làng và trường họ đạo. Học bốn năm trung học
ở trường Đệ tử Dòng Chúa Cứu Thế- Huế, và hai năm cuối ở trường Thiên Hựu cũng
được gọi là Providence. Sau khi thi đậu tú tài, tôi ra Hà Nội vào nhà tập Dòng
Chúa Cứu Thế, học các lớp thần học tại tu viện Dòng Chúa Cứu Thế- Hà Nội. Nhà
nước cộng sản đã biến tu viện này thành bệnh viện đa khoa của quận Đống Đa vào
năm 1954.

Tôi thụ phong linh mục ở Hà Nội năm 1949, cùng với Hồng y Trịnh Văn Căn, Hồng y
Phạm Đình Tụng. Năm 1950 tôi sang Italia để nghiên cứu vấn đề xã hội và trình
luận án tiến sĩ thần học. Đậu tiến sĩ tháng 6/1953, tôi trở lại Việt Nam vào tháng 10/1953 dạy khoa thần học và làm giám đốc Học viện Dòng Chúa Cứu Thế- Đà
Lạt. Không đầy một năm sau, vào ngày 19.5.1954, anh cả tôi đã chết trong một vụ
nổ mìn của Việt cộng, giết hại nhiều người vô tội trên chuyến tàu hàng Đà Nẵng-Huế. Ngày 19.5 được Đảng Cộng sản Việt Nam coi như ngày sinh của ông Hồ và vụ thảm sát đã được các con của anh tôi coi như một món quà sinh nhật đẫm máu mà Đảng Cộng sản Việt Nam dâng cho ông Hồ. Qua năm 1961, tôi trở về Sài Gòn điều khiển cơ quan ngôn luận của Dòng Chúa Cứu Thế- Việt Nam: chủ nhiệm nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, sáng lập và làm chủ nhiệm nguyệt san Tuổi Hoa, xuất bản sách Tuổi Hoa, sáng lập và chủ nhiệm nguyệt san Đối  Diện, Đứng Dậy. Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp có tính cách giáo dục Đức tin Kitô giáo, Tuổi Hoa nhằm giáo dục trẻ em, thanh thiếu niên vào đời. Đối Diện, Đứng Dậy có tính cách xã hội chính trị, chống
chiến tranh, chống sự hiện diện quân đội Mỹ trên miền Nam, hoạt động cho Hoà
bình, tranh đấu đòi trả tự do cho tù chính trị. Cũng vì thế mà chế độ cũ đã
nhiều lần đưa tôi ra toà và lần cuối năm 1972 với án tù năm năm cấm cố phạt một
triệu đồng và đóng cửa Đối Diện, Đứng Dậy. Nhưng tôi chưa đi tù và chịu
phạt tiền vì còn kháng cáo.

Trong những ngày cuối của chế độ Sài Gòn, khi các sư đoàn Bắc Việt bao vây Sài
Gòn và bắt đầu pháo vào thành phố, sáng ngày 29.4.1975 tướng Dương Văn Minh vừa
mới nhận chức tổng thống hôm trước đã gởi một phái đoàn chính phủ vào trại
David ở Tân Sơn Nhứt để thương thuyết với phái đoàn Mặt trận Giải phóng miền
Nam, nhưng không thành công. Vào buổi chiều cùng ngày, tổng thống Dương Văn Minh nhờ luật sư Trần Ngọc Liễng, giáo sư Châu Tâm Luân và tôi là những người được coi là thành phần thứ ba ở miền Nam đến thuyết phục Mặt trận. Chúng tôi gặp
tướng Nguyễn Anh Tuấn và đại tá Võ Đông Giang, yêu cầu đừng bắn phá vào Sài Gòn
và họ đồng ý pháo chút ít để làm áp lực tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng.
Quân Bắc Việt bắt đầu tiến quân vào Tân Sơn Nhứt nên ba anh em chúng tôi không
về nhà được nên đành ở lại trong hầm của đại tá Võ Đông Giang cho đến 16 giờ
chiều ngày 30.4.1975 mới trở về nhà được.

Từ ngày 30.4.1975, tôi vẫn tiếp tục tranh đấu cho hoà giải dân tộc, cho nhân
quyền. Nguyệt san Đứng dậy tái bản và bị đóng cửa năm 1978 vì đường lối của
chúng tôi đi ngược mưu đồ của ĐCSVN.

Đứng trước sự kiên trì của tôi trong việc tố cáo những vi phạm nhân quyền của
chế độ cộng sản, họ đày tôi đi Cần Giờ ngày 16.5.1990 và quản chế tôi ba năm ở
xã Cần Thạnh, bị tước quyền công dân, không được ra khỏi xã, cấm làm lễ, giảng
dạy và 15 ngày trình diện công an. Cùng lúc ấy, Giáo sư Nguyễn Ngọc Lan cũng bị
lục soát nhà ở quận 10 và cũng bị quản chế ba năm. Ba ngày trước khi hết hạn ba
năm quản chế, anh tôi là linh mục Nguyễn Văn Cơ, bề trên Dòng Chúa Cứu Thế- Nha
Trang bị tai biến mạch máu não và đã ra đi vĩnh viễn ngày 12.5.1993. Tôi được
thông báo cùng ngày là thời gian quản chế của tôi đã mãn và tôi ra Nha Trang
làm đám tang cho người anh, và trở lại Sài Gòn hoạt động như cũ cho đến nay.

Từ khi trở về Sài gòn, tôi vẫn tiếp tục công việc linh mục của tôi và vẫn lên
tiếng chống lại những vi phạm nhân quyền ở Việt Nam, như tôi đã nói trên đài
RFI ba tháng sau khi được thả tự do, trước ngày Liên Hiệp Quốc tổ chức Đại hội
về Nhân quyền ở Vienne, nước Áo, cũng như trên đài RFI nhân dịp Đảng Cộng sản
này chiếm miền Nam được 20 năm (30.4.1995). Và vừa rồi, nhân lễ Giáng sinh tôi
cũng tố cáo vi phạm nhân quyền, đặc biệt là quyền tự do tôn giáo trên Đài
truyền thanh Oslo ở Na-Uy và hôm nay tôi cũng tiếp tục tố cáo vi phạm nhân
quyền qua quý đài ở Cali. Đó là vài nét về tiểu sử và hoạt động của tôi trong
thời gian qua như anh mong muốn.

– Thưa linh mục, cách đây sáu năm, linh mục đã giảng ba bài sám hối, từ ngày đó đến nay đã có những thay đổi nào, tốt hay xấu trên lĩnh vực nhân quyền? Xin cho một ví dụ cụ thể.

– Tôi đã chân thành kêu gọi Đảng và Nhà nước cộng sản sám hối, tôn trọng nhân quyền và dân quyền. Nhưng thay vì sám hối và đổi mới, Nhà nước cứ ngày càng lún sâu vào con đường bạo lực chống lại con người và người dân Việt Nam.

Những ví dụ cụ thể không thiếu, ngay việc họ đày tôi ra Cần Giờ và quản chế ba
năm, ba ngày sau khi tôi quả quyết quyền của người dân và của Giáo hội phê phán
sai trái của Nhà nước, cũng như họ quản chế giáo sư Nguyễn Ngọc Lan ba năm tại
gia là một bằng chứng họ không sám hối, tiếp tục vi phạm trắng trợn đến quyền
tự do phát biểu ý kiến của người dân.

Cũng trong thời gian đó, họ quản chế ông Tạ Bá Tòng và ông Nguyễn Hộ là những
Đảng viên lão thành vì đã tập hợp những người kháng chiến cũ để đấu tranh cho
nhân quyền. Luật sư Đoàn Thanh Liêm bị đưa ra tòa và bị án tù 12 năm, đã đưa
một đề nghị hòa giải dân tộc. Ông Đỗ Ngọc Long đã bị bắt giam ba năm vì đã cộng
tác với một người mỹ tên Morrow để làm ăn. Thích Quảng Độ, Thích Huyền Quang bị
bắt giam vì đã tổ chức cứu nạn lụt ở Đồng bằng sông Cửu Long mà không theo hệ
thống của giáo hội Phật giáo quốc doanh, bị lên án đã chia rẽ tôn giáo, và
trong năm vừa qua, ông Hoàng Minh Chính, ông Đỗ Trung Hiếu, ông Hồng Hà và ông Hà Sĩ Phu cũng bị bắt giam vì nói thẳng nói thật với Nhà nước về những vi phạm
nhân quyền. Riêng Giáo hội Công giáo Việt Nam, Nhà nước can thiệp vào nội bộ
một cách trắng trợn, chống lại việc Tòa thánh đề cử các giám mục cho các giáo
phận không còn người lãnh đạo.

Đặc biệt giáo phận Sài Gòn, Tòa thánh đã đặt đức Cha Nguyễn Văn Thuận làm tổng
giám mục phó từ trước 30.4.1975. Nhà nước chụp mũ có nợ máu với nhân dân để
giam ngài trong 13 năm và sau khi ngài ra khỏi tù, lại trục xuất ngài ra khỏi
Việt Nam. Khi cố tổng giám mục Nguyễn Văn Bình đau nặng sắp chết, Tòa thánh đặt
Đức Cha Huỳnh Văn Nghi, giám mục Phan Thiết, làm giám quản Tông tòa giáo phận
Sài Gòn, họ báo sát ngài, theo dõi ngài từng ngày, từng giờ, cản trở ngài về
Sài Gòn thăm giáo phận hay thăm họ hàng.

Đó là những việc nổi cộm. Nhưng còn bao nhiêu vụ vi phạm tự do tôn giáo,
như họ hạn chế các chủng viện, hạn chế sĩ số, kiểm soát lý lịch của giáo sư,
ngăn cản việc phong linh mục, làm khó dễ hoặc chuyển các cha từ họ đạo này sang
họ đạo khác vv… và vv…

Tất cả những sự việc nói trên cũng đủ chứng minh là Nhà nước vẫn vi phạm trắng
trợn và thô bạo đến nhân quyền và dân quyền của người Việt Nam.

– Đạo là con đường cứu đời, cứu người và cả loài người nhưng trong một cuộc
phỏng vấn của một ký giả Ba Lan vào năm 1995, ông Hoàng Minh Chính đã cho rằng Giáo hội Công giáo ở Việt Nam đã chịu khuất phục Nhà nước và từ chối can thiệp cho những người tù nhân lương tâm. Hội Văn bút Ba Lan đã làm môi giới để xin Giáo hội Thiên chúa giáo ở Việt Nam can thiệp cho tù nhân lương tâm, nhưng họ
đã từ chối. Ý kiến của linh mục như thế nào?

– Trong bài giảng Sám hối thứ hai, cách đây sáu năm, tôi đã nói đến tư cách
ngôn sứ của Giáo hội và đã thẳng thắn nói thật nói thật với các vị lãnh đạo
Giáo hội cũng như với giáo dân, là Giáo hội chưa thực thi chức năng đó, chưa
bênh vực phẩm giá con người, của người dân Việt Nam. Chết hay đi tù vì con
người cũng là tử đạo.

Từ đó đến nay, tôi thấy chưa có gì thay đổi. Ít nhất là bên ngoài, giáo hội
chưa đòi hỏi Nhà nước tôn trọng những nhân quyền và dân quyền của người Việt
Nam bất phân tôn giáo. Hình như các giám mục chỉ đòi hỏi Nhà nước tôn trọng tự
do tôn giáo chứ không đề cập đến những vi phạm nhân quyền và dân quyền. Đó là
điều đáng tiếc. Hàng giáo phẩm phải mạnh dạn bênh vực con người. Anh cho biết
có một ký giả nói với ông Hoàng Minh Chính là Hội Văn bút Ba lan có có xin Giáo
hội Công giáo Việt Nam can thiệp cho những người tù lương tâm đã bị từ chối.
Điều đó chúng tôi không được biết. Nhưng nếu có lời xin đó và Giáo hội Công
giáo từ chối, tôi rất tiếc, nhưng tôi cũng không ngạc nhiên, vì các ngài xưa
nay chỉ lên tiếng khi các quyền lợi của Giáo hội bị vi phạm chứ chưa lên tiếng
bênh vực con người Việt Nam nói chung. Phải chăng các ngài sợ bị chụp mũ làm
chính trị, sợ gây khó khăn cho sinh hoạt tôn giáo của mình, như vậy là muốn cầu
an, thêm vào đó các ngài nghĩ rằng nói cũng chẳng đi đến đâu, chỉ thêm rắc rối,
bị trả thù. Như vừa rồi, Hội đồng giám mục trong một bức thư gửi Thủ tướng Võ
Văn Kiệt đã nói thẳng nói thật về những vi phạm đến quyền lợi thiêng liêng của
Giáo hội, thì Nhà nước trả thù bằng cách cấm các giám mục qua Rôma hội kiến Đức
Giáo Hoàng Gioan-Phaolô. Các ngài đã có nhiều kinh nghiệm về cái vô hiệu của
lời phản kháng của mình và lối trả thù của Nhà nước. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng
các giám mục phải lên tiếng dù không kết quả, dù bị trả thù, vì đó là sứ mạng
của Giáo hội với con người. Trong Tin Mừng, Gioan Tẩy giả đã nói với Hêrôđê nên
bị tống ngục và bị chặt đầu. Chúa Giêsu đã nói thật nên đã bị đóng đinh trên
thập giá. Các tông đồ Gioan và Phêrô đã trả lời thẳng với các vị lãnh đạo Do
Thái “Thà vâng lời Chúa còn hơn vâng lời người”, và họ bị tống giam và
lấy mạng sống của mình để trả giá. Và qua lịch sử Giáo hội, các thánh tử đạo
Việt Nam cũng đã từ chối khuất phục và mạnh dạn thi hành sứ mạng ngôn sứ. Các
giám mục Việt nam đã thiếu can đảm để hoàn thành sứ mạng cứu người, cứu nhân
loại bằng gióng lên tiếng nói lương tâm và tiếng nói của Chúa. Họ quá khôn
ngoan theo khôn ngoan của người đời, muốn cầu an, chứ không chấp nhận phải bị
bách hại vì Chúa và vì con người là hình ảnh Thiên Chúa.

– Cũng trong cuộc đàm đạo ký giả Ba-Lan có nói với ông Hoàng Minh Chính là
các lực lượng đối lập ở Ba Lan gồm Giáo hội Công giáo, trí thức, Công đoàn đoàn
kết giành tự do cho Ba lan thay thế độc tài chuyên chính bằng một chế độ dân
chủ tự do, đấu tranh trả tự do cho tù chính trị. Trong bài giảng sám hối hai,
linh mục có nhắc đến hồng y Wyzinsky ở Ba Lan và Đức cha Tomaswk ở Tiệp Khắc
với cuộc biểu tình hằng trăm hằng ngàn người tín hữu, linh mục có nghĩ rằng
những người thiện chí cần học bài học đấu tranh cho nhân quyền?

– Ba Lan là Ba Lan, Việt Nam là Việt Nam. Ba Lan là một nước gồm đại đa số công
giáo và có một nền nhân bản Kitô giáo, cho nên cuộc đấu tranh cho nhân quyền là
những giá trị Kitô giáo, được đại đa số hưởng ứng và dễ đoàn kết để đấu tranh
có hiệu quả. Việt Nam, chỉ có một nhóm nhỏ sáu, bảy triệu công giáo trên 70
triệu dân, đa số theo Nho giáo, Phật giáo… công giáo chỉ là số nhỏ. Nho giáo ăn
sâu vào con người Việt Nam với một nền quân chủ chuyên quyền và một nền luân lý
độc đoán của người cha gia đình. Vua quan là cha mẹ dân. Mà cha mẹ có toàn
quyền sinh tử trên con cái. Thì những người cai trị coi mình có toàn quyền.
Người Việt Nam anh hùng chống ngoại xâm, nhưng nói chung cam chịu số phận, lụy
thuộc cha mẹ và vua quan. Nho giáo không có một nền luân lý tự do dân chủ, nên
dễ chấp nhận độc tài của vua quan. Phật giáo dạy diệt dục, diệt tham sân si,
kêu gọi sự nhẫn nhục. Nói chung cuộc đấu tranh cho người Việt Nam không dễ dàng
và đồng bộ như ở Ba Lan.

Tuy vậy, bài học của Ba Lan và của Tiệp Khắc rất quý giá cho những người thực
thi đấu tranh cho nhân quyền, tuy khó khăn hơn.

– Từ giữa năm 1995, sau khi các ông Hoàng Minh Chính, Đỗ Trung Hiếu, Thích
Huyền Quang, Thích Quảng Độ vị kết án rất trái pháp luật, dư luận thế giới đã
mong đợi giới độc lập trong nước đưa ra một bản kiến nghị lên án chế độ để
người bên ngoài hưởng ứng. Hồi cuối năm Hà Sĩ Phu, Hồng Hà cũng bị bắt giam,
linh mục có thấy động tĩnh gì về phía các lực lượng đấu tranh ở trong nước
không?

– Tôi không ngạc nhiên khi anh em ngoài thắc mắc chẳng thấy động tĩnh gì trước
một loạt bắt bớ giam cầm các vị chân tu và đảng viên có tinh thần dân tộc và
dân chủ. Không phải những lực lượng tranh đấu cho dân quyền, cho dân chủ trong
nước sợ không dám lên tiếng hay làm nhơ trước bạo lực và cảnh tù đày của các
anh đó. Chúng tôi ngồi yên nhìn các ngu dốt và cái sa lầy của một chế độ đang
trên đà tan rã. Họ càng bắt bớ, họ càng sa lầy, càng gây ý thức nơi người dân
về sự sa sút, thối nát và độc ác của họ. Họ nói họ bảo vệ chủ nghĩa xã hội, vậy
chủ nghĩa xã hội là cái gì? Đó là chủ nghĩa muốn xóa bỏ quyền tư hữu. Không
chấp nhận kinh tế thị trường, chỉ chấp nhận kinh tế tập trung vào Nhà nước, vào
các xí nghiệp quốc doanh. Nhưng nay ta thấy cái gì? Cái kinh tế đó đã đưa Việt
Nam đến tận cùng nghèo đói, lạc hậu. Bây giờ họ bỏ hết, chạy theo kinh tế thị
trường, chạy theo đô la thay vì phát triển để độc lập, họ xóa chữ “c” và chữ
“p” thành đô la rồi. Và theo đo la không phải cho dân nhờ, nhưng để bỏ túi. Vô
số những vụ tham nhũng, buôn lậu được tổ chức qui mô. Chủ nghĩa xã hội là một
thứ treo đầu heo bán thịt chó: một tập đoàn tham nhũng, buôn lậu mà nhân dân
gọi là mafia. Có gì là chủ nghĩa xã hội đâu. Trước sự tan rã này, những cuộc
bắt bớ kia chỉ làm trò đùa cho người dân. Làm trò cười khi bắt giam trái phép,
càng làm họ cười khi đưa ra xét xử rồi lên một cái án tức cười. Cho nên chẳng
cần kiến nghị, chả cần nói, chả cần động tĩnh gì, chỉ ngồi coi chơi và các anh
đang bị tù chắc cũng cười như anh Nguyễn Ngọc Lan và tôi cũng đã cười trong ba
năm quản chế, trước biện pháp lấy thịt đè người của Nhà nước.

– Chúng tôi ở ngoài được tin ông Hà Sĩ Phu ra Hà Hội để thảo luận bản Hiến
chương những nhân quyền cho Việt Nam tương tự như Tiệp Khắc, xin linh mục cho
biết tin tức này có cơ sở không. Nếu đáng tin, thì Nhà nước có dập tắt ngọn lửa
này. Theo linh mục có ai sẽ tiếp tục?

Tôi không nghe tin đó. Có những người bạn cho biết là anh Hà Sĩ Phú ra Hà Nội
thăm bạn bè và trao đổi về đủ thứ chuyện trên đời. Khi ra khỏi nhà bạn, công an
mời về bót và lục soát xắc tay của Hà Sĩ Phu và thấy có bức thư của Thủ tướng
Võ Văn Kiệt viết cho Bộ Chính trị về tự do dân chủ. Công an hỏi ai trao thư
này. Nghe nói Hà Sĩ Phu và Hồng Hà đều bị bắt giam. Chắc anh đã biết nội dung
bức thư của ông Võ Văn Kiệt? Ông Võ Văn Kiệt công khai hóa sự chia rẽ trầm
trọng trong Bộ chính trị. Võ Văn Kiệt chống việc đưa khu vực quốc doanh lên
hàng chủ đạo, chống dân chủ tập trung, đòi hỏi xây dựng Nhà nước Pháp quyền. Có
thế mới loại trừ nạn tham nhũng, buôn lậu.

– Trong ba bài giảm sám hối, linh mục đã kêu gọi cá nhân, Giáo hội, Đảng và
Nhà nước sám hối. Riêng linh mục, linh mục có sám hối không, vì trước 75 nhiều
người trong chế độ Sài Gòn đã coi linh mục như một người ăn cơm quốc gia, thờ
ma cộng sản như linh mục đã nói đầu cuộc phỏng vấn. Phải chăng qua những hoạt
động của linh mục trước 75 có ảnh hưởng đến thành công của cộng sản trong việc
làm sụp đổ miền Nam?

– Lòng sám hối phải là một thái độ mọi người phải có. Không ai dám tự cho mình
đã hoàn thành trách nhiệm của mình. Vì thế, tôi cũng phải sám hối. Nhưng không
vì đã hoạt động bảo vệ con người trong chế độ cũ. Chính chế độ vi phạm nhân
quyền, nên cộng sản mới lợi dụng những vi phạm ấy, lôi kéo dân chúng theo họ.
Và chính thiếu tài năng, thiếu đạo đức và tình trạng tham nhũng tuy nhỏ hơn bây
giờ, nhưng cũng đủ để cộng sản lợi dụng tuyên truyền, lôi kéo người dân theo
họ, đi lính cho họ và đã thắng chế độ cũ đưa đẩy Đất nước vào tròng nô lệ.

– Vừa rồi ông Nguyễn Đức Trấn đã viết một cuốn sách tố cáo vi phạm nhân
quyền. Chế độ đã lên án cuốn sách đó, ra lệnh tịch thu. Linh mục có biết hậu
quả của lệnh này có ai bị bắt bớ gì không?

– Ủy ban Nhân dân TP.HCM ra lệnh tịch thu cuốn sách Viết cho Mẹ và cho Quốc
hội
của bác Nguyễn Văn Trấn, một đảng viên cộng sản lão thành đã 81 tuổi.
Bác Trấn lên án chế độ, bằng cách đưa ra những vi phạm nhân quyền từ ngày có
Đảng Cộng sản ở Liên Xô cũng như ở Việt Nam. Đảng đã phân tích cuốn sách này và
đánh giá còn nguy hại cho Đảng  hơn cả những bài viết khác, như của Nguyễn
Hộ chẳng hạn. Tiếp theo bản phân tích đó, Ủy ban Nhân dân TP.HCM đã tuân lệnh
ra thông báo tịch thu, nhưng lại không cho phổ biến công khai trên báo chí, chỉ
nhằm tịch thu. Nhưng tịch thu ờ  đâu? Họ lại lục soát nhà bác Trấn. Lại có
vị đi mua về độc với một giá cao đặc biệt và ai đã đọc thì cất giữ kỹ và cho
bạn hữu đọc. Lệnh ấy cũng lạ kỳ, phải chăng, được lệnh trên, người ta làm thông
cáo cho có. Vì vậy cuốn sách càng được khắp nơi biết tới và nghe nói ở Hà Nội
cũng in ra dữ dội hơn. Và tôi cũng được biết ở bên Mỹ cũng đã in ra và được
đồng bào ta hoan nghênh. Như vậy, chưa có ai bị bắt vì cuốn sách này kể cả tác
giả. Tôi có nghe nói bí thư thành ủy có mời bác Trấn lên xác nhận những vi phạm
của Đảng, nhưng trách bác Trấn không viết những sự việc tích cực của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Bác Trấn bảo: chả có gì là tích cực cả. Thế là huề cả làng. Người
ta hăm dọa bác để sau đại hội VIII rồi sẽ tính. Mà làm gì bác, thì chế độ càng
hố. Chúng ta chờ một đám tang lớn: đám tang chế độ.

– Đúng là sách của bác Trấn được in ở Mỹ, in 2000 cuốn bán hết sạch, sắp in lần
thứ hai. Xin cảm ơn linh mục đã trả lời thẳng thắn những câu hỏi của chúng tôi.
Linh mục có nói thêm gì với đồng bào không?

– Năm cũ sắp qua, tôi xin gởi đến đồng bào trong nước cũng như ngoài nước lời
chúc mừng Năm Mới. Chúc đồng bào dồi dào sức khỏe, may mắn, hạnh phúc, đoàn kết một lòng đấu tranh để xây dựng đất nước giàu mạnh, tự do, dân chủ, con người và
gia đình được tôn trọng.

Thân ái chào đồng bào ở trong cũng như ngoài nước.

(28.1.1996)

(Tin Nhà số 23,tháng 3.96)

 

Giới trẻ, định hướng cho cuộc đời

Giới trẻ, định hướng cho cuộc đời

Tâm Thương

WGPSG — Người em cùng quê với tôi sắp thi tốt nghiệp ngành điều dưỡng.
Chỉ còn mấy ngày nữa thi nên tôi thấy em miệt mài học bài đến khuya. Tối nay có
sinh nhật nhỏ bạn nên em gác lại chuyện học bài để đi mừng sinh nhật. Tối hôm
trước khi thi môn thứ hai em cũng lai rai một két bia với mấy người bạn. Em
bình tĩnh dường như chẳng có chuyện gì xảy ra. Hình như chuyện thi cử đối với
em cũng bình thường thôi. Em học bài ôn thi kiểu cuốn chiếu. Hoàn toàn không có
sự đầu tư thật kỹ càng từ xa.

Bạn thân mến, câu chuyện trên đây làm tôi liên tưởng đến lối sống của
nhiều bạn trẻ hôm nay. Dường như họ không xác định được cái gì chính và cái gì
là phụ trong cuộc sống thường ngày. Dường như họ chỉ biết sống như lục bình
trôi sông hoàn toàn không có mục đích và định hướng. Bởi vậy mới có hiện tượng
học “cuốn chiếu”, gian lận trong thi cử, hay thi rớt và nợ môn không thể ra
trường được. Điều này dẫn đến biết bao tai hại cho chính bản thân người trẻ,
cho gia đình, nhà trường và xã hội. Vậy, nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng
tiêu cực như thế là gì? Làm thế nào để người trẻ hôm nay sống một cuộc đời có ý
nghĩa và có định hướng? Còn đối với giới trẻ Công giáo chúng ta thì sao?

Nhiều bạn trẻ không biết mình đang muốn cái gì?

Trước tiên, nhiều người trẻ hôm nay sống không có định hướng. Nguyên nhân
sâu xa là do họ không biết mình đang muốn cái gì. Thật vậy, họ có thể biết
nhiều thứ văn minh hiện đại, nhưng không biết được chính mình. Nào là điện
thoại di động đắt tiền hiện đại với nhiều chức năng. Nào là nhiều nhà hàng nổi
tiếng với những món ăn đắt tiền. Nào là vi tính xách tay trị giá mấy chục
triệu. Nào là facebook, yahoo messenger hay những kỹ thuật vi tính như đồ họa,
lập trình, tạo trang web. Nào là sưu tầm những game thật hot v.v… Giá trị của
người trẻ phải chăng hệ tại ở những phương tiện vật chất như thế?

Người em cùng quê với tôi cũng rơi vào vết xe đổ như đã nêu trên. Tôi
nhận thấy em không có một định hướng và động cơ học hành nghiêm túc. Cứ tà tà
rồi cũng qua. Như vậy không được. Hơn nữa nghe nói rằng cái ngành điều dưỡng mà
em đang học là do cha mẹ của em chọn. Đã có lần em muốn bỏ cuộc giữa chừng cuốn
gói về quê làm thợ hồ phụ cha. Vậy đó, em làm cái điều mà mình không thích thì
làm sao có được động lực dấn thân cho ngành điều dưỡng được. Hơn nữa, cái ngành
này đòi hỏi cái Tâm và sự khéo léo tỉ mỉ của đôi bàn tay thầy thuốc. Nếu em
không muốn học thì hậu quả sẽ tai hại biết bao!

Thế nên, sống có mục đích và định hướng là chìa khóa dẫn con người dẫn
tới thành công. Thế nhưng, thực tế nơi phần đông những người trẻ thì ngược lại.
Bởi vậy, một tác giả đã nhận định thế này: “Ngày nay, khi chúng ta đang ở vào
thời điểm cạnh tranh gay gắt, nhiều người vẫn không biết mình sẽ làm gì ở tương
lai. Bởi vì họ chưa từng lên kế hoạch cho cuộc đời của mình. Hoạch định cuộc
đời là yếu tố quan trọng để bạn có một phương châm và đường đi đúng đắn rõ ràng
trong cuộc sống.” Quả thật, từ việc không biết chính mình dẫn đến việc đánh mất
chính mình. Lối sống không có định hướng dẫn đến những lệch lạc và mất định
hướng cho cuộc đời. Đó là lối sống chỉ biết hưởng thụ và lệch lạc nơi phần đông
người trẻ hôm nay.

Nhiều bạn trẻ chỉ biết sống hưởng thụ và lệch lạc

Bạn tôi không thích học hành và làm việc. Xu hướng của bạn ấy thích nhiều
thứ vui tiêu khiển như rượu chè, cờ bạc, hát karaokê, tiệc tùng, chở bạn gái đi
ăn uống vui chơi v.v… Anh ta chỉ biết đến cái nhất thời mà quên đi cả một tương
lai dài phía trước. Anh lấy cái phụ làm cái chính cho cuộc sống của mình. Anh
đánh bài thua sạch hết tiền. Anh đã từng bị mất hai chiếc xe. Ở Sài Gòn này
toàn người dưng nước lã nên biết mượn ai bây giờ. Anh chỉ biết điện về nhà cầu
cứu bà mẹ làm nghề đan lát ở dưới quê. Anh nói dối mẹ rằng anh bị mất tiền, mất
xe…Anh kéo lê cuộc đời trong những thú vui hưởng thụ lệch lạc như thế. Rồi cuộc
đời anh sẽ đi về đâu? Hoàn toàn không định hướng. Hoàn toàn không có một tương
lai ở phía trước.

Thực tế lối sống của phần đông người trẻ hôm nay là thế. Có mấy ai chịu
đầu tư cho chuyện học hành thi cử? Có mấy bạn trẻ ưu tư chọn cho mình một ngành
nghề hợp với sở thích, khả năng và có thể kiếm được nhiều tiền để nuôi sống bản
thân và gia đình? Thật vậy, nhiều người trẻ hôm nay lãng phí quá nhiều thứ.
Lãng phí thời gian. Lãng phí sức khỏe. Lãng phí tiền bạc. Lãng phí tuổi trẻ
v.v… Như lục bình trôi lênh đênh trên dòng nước, nhiều người trẻ sống không có
mục đích và định hướng cho đời mình. Họ không tìm ra được ý nghĩa và giá trị
của cuộc sống này là gì. Giá trị của con người là gì? Giá trị của tiền bạc là
gì? Giá trị của tình yêu là gì? Tôi sẽ là ai và làm gì trong tương lai? Thực tế
cho thấy họ thích sống tự do và hưởng thụ tối đa. Vậy lối sống ấy có làm cho
cuộc đời họ hạnh phúc, bình an không?

Phải chăng khởi đi từ những thực tế trên đây mà nhạc sĩ Ý Vũ đã sáng tác
những lời ca như sau: “Ta đi, ta đi tìm lại màu xanh. Cho hôm nay tuổi trẻ tràn
dâng sức sống” (Bài hát Xanh Lên Màu Mạ Non). Còn một tác giả nào đó đã mời gọi
người trẻ thế này: “Hãy định hướng cho tương lai của bạn ngay từ khi còn học
phổ thông theo đúng năng lực và sở trường để bạn không phải hối hận. Tiếp đó,
bạn nên hoạch định cụ thể cuộc đời của mình. Mất bao nhiêu năm để bạn tìm kiếm
điều mình muốn? Hãy biết nắm giữ tương lai của mình, đừng bao giờ sợ những gì
trong tương lai bởi vì chúng ta không hề biết tương lai sẽ là gì!” Còn đối với
những người trẻ Công giáo chúng ta phải sống thế nào?

Vậy, giới trẻ Công giáo phải làm gì để sống có ý nghĩa?

Bạn thân mến, mỗi người trẻ Công giáo chúng ta ít nhiều cũng bị lây nhiễm
những khuynh hướng xấu của xã hội. Sống không định hướng. Sống lệch lạc và
buông thả. Sống tự do muốn làm gì thì làm. Lối sống ấy nguy hại đến đời sống
đức tin và cuộc đời mỗi người trẻ chúng ta. Bởi thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ
chúng ta rằng: “Anh em đừng có rập khuôn theo đời này, nhưng hãy cải biến con
người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên
Chúa: cái gì là tốt, cái gì là đẹp lòng Thiên Chúa, cái gì là hoàn hảo” (Rm
12,2). Vậy, một cuộc đời có ý nghĩa đối với mỗi chúng ta là một cuộc đời có
Chúa. Không để lạc mất Chúa trong đời sống thường ngày.

Cuối cùng, cái gọi là “hoàn hảo” mà thánh Phaolô nói tới là gì? Xin mượn lời một bài hát để chúng ta suy nghĩ và tự trả lời cho mình: “Tuổi trẻ hôm nay, không biết hận thù. Tuổi trẻ vô tư, tâm hồn cao cả… Tuổi trẻ hôm nay, không sống riêng mình. Tuổi trẻ thênh thang, tâm hồn trời biển. Tuổi trẻ hôm nay, sống cho lý tưởng. Hiến dâng chính mình, dệt thắm màu xanh” (Bài hát Xanh Lên Màu Mạ Non, Ý Vũ).

Maria Thanh Mai gởi

Giấc Mơ Nước Mỹ

Giấc Mơ Nước Mỹ

(12/10/2012)

nguồn: Vietbao.com

Bài dự viết về nước Mỹ gửi từ Sài Gòn bằng email, được đăng nguyên văn, không thêm bớt. Bài viết ngắn, tác giả 30 tuổi, cho biết đây là những câu hỏi mong được các chú bác anh em ở Mỹ trả lời.

Tôi muốn được đặt chân tới Mỹ!

Đó là điều mơ ước cháy bỏng của tôi từ khi biết nhận thức sau khi rời Trung Học
để bước vào đời. Vì sao ư? Để tôi tìm hiểu về nền văn hóa, chính trị, giáo dục,
kinh tế của nước này. Để tôi tự trả lời cho nhiều câu hỏi cứ thôi thúc trong
đầu mình bao nhiêu năm qua từ khi tôi biết nhận thức về đời sống.

Tôi muốn đến Mỹ, để tôi hỏi vì sao đồng bào tôi có mặt ở đây, và sự ra đi này kéo dài hơn một thế hệ rồi, mà đến bây giờ hằng ngày đi ngang Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn vẫn còn lũ lượt người chờ đợi một tấm vé đặt chân vào Mỹ, dù đất nước Việt tôi đã im tiếng súng đã lâu, từ khi tôi chưa chào đời.

Tôi muốn đến Mỹ xem coi có phải đó là Thiên Đường không mà đồng bào tôi, bạn bè
tôi sau khi định cư vài năm có trở về thăm quê họ như một con người khác, lịch
sự nhã nhặn, có kiến thức giỏi giang hơn rất nhiều. Tôi tự hỏi điều gì đã làm
nên đôi hia bảy dăm đó?

Tôi muốn đi để hỏi các cô gái lấy chồng “Việt Kiều Mỹ” niềm vui rạng ngời hơn các cô gái phải bán thân đi Đài Loan, Hàn Quốc, Campuchia?

Tôi muốn đi để thấy, để biết Tổng Thống Mỹ có phải ông Trời không mà sao cả thế
giới phải nghe ngóng, chờ đợi mỗi mùa bầu cử Tổng Thống Mỹ?

Và tôi muốn đi để hỏi các Chú Bác những chiến hữu của Ba tôi ngày xưa được chìa
khóa HO để đến thiên đường nước Mỹ, có còn nhớ đến bạn bè chiến hữu, quê hương
hay không. Mà sao ai cũng chen chân bỏ lại “chùm khế ngọt” mà hân hoan làm kẻ
lưu vong?

Tôi muốn gặp những người cùng lứa tuổi tôi là Người Mỹ Gốc Việt để thử xem cách
xa hai nửa bán cầu, tuổi trẻ có gì giống và khác nhau.

Cuối cùng tôi muốn đi để xem vì sao, hấp lực gì mà hàng triệu người miền Nam đổ
xô ra biển không định hướng những năm sau 1975 đến những năm 1990 và tiếp tục
đến bây giờ bằng nhiều cách.

Nhưng đường đến nước Mỹ với mình chắc xa diệu vợi. Thôi thì các Chú, Bác anh em
đồng bào ở Mỹ có ai còn tâm tình với những người bên này vui lòng trả lời dùm
tôi, một thanh niên 30 tuổi những câu hỏi vừa nêu, để tôi khỏi khắc khoải về
một nước Mỹ vô cùng lạ lẫm, và thần kỳ. Nếu vậy thì âu cũng là một niềm vui lớn
rồi, chứ chưa dám nghĩ ngày nào đó mình đạt chân đến Mỹ quốc!

Mong lắm thay!

Nguyên Giang