Nữ tu Miriam Baourdi Ả Rập sẽ sớm trở thành một vị thánh

Nữ tu Miriam Baourdi Ả Rập sẽ sớm trở thành một vị thánh

Chuacuuthe.com

VRNs (14.09.2014) -Sài Gòn- Được phong chân phước vào ngày 13 Tháng 11 năm 1983, do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, có đời sống khiêm tốn và bình dị đến phi thường, Chị Miriam Baourdi tiếp tục là một điểm tham chiếu cho các Kitô hữu tại Đất Thánh.

Theo Terrasanta, trong thánh lễ nhớ được tổ chức hôm 26.8 vừa qua, nhiều người đã đến Tu viện Cát Minh ở Bethlehem, nơi Chân phước sống để kỷ niệm và cầu nguyện trước các di tích và hình ảnh của nữ tu Ả Rập Bé nhỏ, người được Giáo hội tôn kính như biểu tượng của hòa bình.

Cộng đoàn Chị em thánh Anna cho biết: “Chị Miriam Baourdi là Chân phước Nhỏ bé của chúng tôi. Đối với chúng tôi, cô ấy là một biểu tượng đẹp, đặc biệt là khi các Kitô hữu ở Trung Đông đang sống giữa biển bạo lực. Cô là một Chân phước cũng đã từng trải qua những hình thức bạo lực như vậy, và cuộc đời cô là một phép lạ; cô đã được sự trợ giúp của Đức Maria. Đối với tất cả các Kitô hữu, cô ấy là một biểu tượng của phép lạ và là sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Người, cho dù trong bạo lực.”

Sinh ngày 15 Tháng 1 năm 1846, tại thành phố Abelen ở Galilê, Miriam là con cầu con khẩn của bà Maria và ông Jorge Baourdy Chayin. Tại Bêlem, sau khi đi thăm nhà thờ Giáng Sinh và nhà thờ Milk Groto (Hang Sữa), đôi vợ chồng này đã cầu nguyện với Đức Mẹ để ban cho họ món quà là một người con gái. Phép lạ xảy ra và em bé sinh ra đã được đặt tên là Miriam để tôn vinh Đức Trinh Nữ Maria.

Thánh lễ nhớ được giám mục của Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Melkite, Đức Tổng Giám mục Joseph Jules Zerey chủ tế, cùng với đông đảo tín hữu tham dự.

Sau thánh lễ họ đã đến trước các di tích của Chân phước được trưng bày trong nhà thờ để cầu nguyện và tỏ lòng sùng kính. Hàng năm có hàng trăm khách hành hương đến viếng thăm nơi này.

Đức Giám mục Joseph Zerey nói rằng, “Thời điểm bạo lực khó khăn đang xảy ra này sẽ giúp chúng ta nên thánh. Tất nhiên điều này không dễ dàng gì và chúng ta cần ân sủng của Chúa Giêsu Kitô và ân ban của Chúa Thánh Thần. Tham dự thánh lễ kính nữ tu Chân phước Mariam của Chúa Giêsu chịu đóng đinh hôm nay là một hồng ân.”

Cha Abdu, linh mục Dòng Cát Minh cho biết, đời sống của Nữ tu Ả Rập Bé nhỏ là một ví dụ của sự thánh thiện trong một thế giới khao khát một chứng nhân đích thực. Cha không giấu giếm sự mong đợi của mình đối với việc tuyên thánh cho Chân phước trong tương lai.

Cha Abdu nói thêm, cuộc đời của nữ tu nhắc nhở chúng ta một thông điệp rằng việc sống thánh có thể được thực hiện ngay trong thời đại hôm nay”.

Pv. VRNs

Đức Giáo hoàng cảnh báo về Đệ Tam Thế Chiến

Đức Giáo hoàng cảnh báo về Đệ Tam Thế Chiến

Đức Giáo hoàng Phanxicô thăm nghĩa trang Áo-Hung tại Fogliano ở Redipuglia, 13/9/2014.

Đức Giáo hoàng Phanxicô thăm nghĩa trang Áo-Hung tại Fogliano ở Redipuglia, 13/9/2014.

13.09.2014

Đức Giáo hoàng Phanxicô nói rằng nhiều cuộc xung đột trên khắp thế giới ngày nay có thể được xem là một cuộc Thế chiến thứ Ba “từng phần”.

Phát biểu ngày hôm nay khi đến thăm một đài tưởng niệm ở Italia dành cho 100.000 binh sĩ thiệt mạng trong Thế chiến thứ Nhất, Đức Giáo hoàng mô tả Thế chiến thứ Ba này là một cuộc chiến tranh được tiến hành với “tội ác, giết người tập thể và phá hoại.”

Nhà lãnh đạo Tòa thánh Vatican đã liên tục kêu gọi trong thời gian qua cho việc chấm dứt những cuộc xung đột ở Ukraine, Iraq, Syria, Gaza và nhiều khu vực ở Phi châu.

Trong bài thuyết giảng tại thánh lễ hôm nay ở đài tưởng niệm Thế chiến thứ Nhất, Đức Giáo hoàng nói rằng “loài người cần khóc và đây chính là lúc để khóc.”

Ngài nói thêm rằng “chiến tranh là điên cuồng.”

Triển lãm CCRĐ: Khoét thêm vết thương để bao che tội ác? Phần II

Triển lãm CCRĐ: Khoét thêm vết thương để bao che tội ác? Phần II

J.B. Nguyễn Hữu Vinh, viết từ Hà Nội
2014-09-11

Nhao1.jpg

Nhà địa chủ và nhà nông dân

Photo by JB. NguyenHuuVinh

Thật ra, trước khi đến tham dự cuộc Triễn lãm này, hẳn nhiên là mọi người dân Việt Nam từ già đến trẻ không ai không ít nhất một vài lần trong đời đã được nghe, được nói đến sự rùng rợn, sự bất nhân trong cuộc CCRĐ đã từng xảy ra trên đất nước ta. Thế nên, việc người ta đến, để xem, để tham quan, tham dự không chỉ là việc xem nó ra sao, mà điều cơ bản là để xem thái độ nhìn nhận với những tội ác đã gây ra như thế nào.

Như trên đã nói, việc trưng bày hiện vật tại cuộc Triển lãm này, gợi nên một cuộc đấu tố mới, mà nạn nhân là oan hồn của hàng trăm ngàn người đã chết, đã điêu đứng, đã tán gia bại sản trong biến cố cả xã hội lên đồng cướp đoạt có tổ chức mang tên CCRĐ.

Những vật dụng đời thường của người dân xưa kia được mua sắm bằng sức lao động, trí tuệ và công sức mồ hôi, nước mắt của họ được đưa ra như những bằng chứng tố cáo họ đã “bóc lột người dân Việt Nam hết sức thậm tệ” mới có những thứ này. Đó là sập gụ, tủ chè, nồi đồng, áo quần đẹp.. bên cạnh người nông dân bị bóc lột là tấm áo vá chằng vá đụp, ngôi nhà tranh vách đất được tạo dựng lại. Nhìn những vật dụng này, nó gợi cho người xem lòng căm thù bọn bóc lột. Sự bóc lột đó ra sao? Đó là những chiếc thùng hai đáy, khi người vay đến đáy trên và khi trả thì phải trả đáy dưới. Thế là bóc lột, thế là ngồi mát, ăn bát vàng. Mặc dù việc vay, trả là thỏa thuận giữa người vay và người cho vay.

Thế nhưng, khi xem những hiện vật kia, những câu hỏi sau đây hiện ra cần lời đáp. Đó là vì sao, ngày xưa Đảng nhất định phải lãnh đạo nhân dân lật đổ địa chủ thống trị, cướp bóc, bắn giết họ và tiêu diệt họ?

Thunghaiday-400.jpg

Chiếc đấu hai đáy

Nếu những vật dụng như đang trưng bày kia đã nung nấu căm thù của người dân? Vậy thì ngày nay người dân sẽ xử lý thế nào với những cán bộ cộng sản đi những chiếc xe trị giá 3.000 con trâu? Những ngôi biệt thự giá hàng ngàn cây vàng mà cán bộ cộng sản “mượn” của dân nhưng không trả trong khi dân còn phải tự tử để lấy tiền phúng viếng cho con đi học?

Nếu vì những chiếc thùng hai đáy kia làm cho người dân khốn khổ. Thì nhân dân Việt Nam ngày nay cần phải làm gì khi họ nghiễm nhiên bị trấn lột từ phía nhà nước từ tiền viện phí, học phí, giá cả, xăng dầu, các loại thuế, phí từ cầu đường, cho đến nhà vệ sinh… và cả nghĩa địa. Thậm chí ngay cả nhà cửa đất đai cha ông họ đổ máu xương mới xây dựng lên được mà đảng thích áp đặt ra sao thì buộc người dân phải chịu như vậy, nếu không thì đã có… nhà tù và súng đạn?

Nếu người nông dân phải vùng lên lật đổ chính quyền phong kiến ngày xưa, vì quan lại sống trong những ngôi nhà đẹp đẽ trái ngược với những ngôi nhà đất xiêu vẹo, thì ngày nay, sau hơn hai phần ba thế kỷ theo sự lãnh đạo của đảng đi cướp phá giai cấp bóc lột, họ sẽ phải làm gì khi những đảng viên đang sống trong những biệt thự xa hoa, lộng lẫy? còn người dân sống trong những “đặc khu ổ chuột giữa Sài Gòn”, Hà Nội, thậm chí bị cướp mất đất đai nhà cửa khi phải lưu vong trên chính quê hương mình?

Phải chăng, tội lỗi của địa chủ, quan chức phong kiến ngày xưa là ở chỗ họ không biết cách có cô em nuôi cho tiền xây biệt thự lộng lẫy như Tổng Thanh tra Chính phủ, không biết cách dán hộp các tông ngoài giờ kiếm tiền mua nhà khủng như Thống đốc ngân hàng nhà nước Lê Đức Thúy, không biết cách trồng cao su xây biệt thự như Chủ tịch Bình Dương hoặc không biết đẻ con nhiều tiền để xây dinh cơ khổng lồ như Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương?

Thực chất, những địa chủ khi xưa, những quan lại phong kiến thời đó, họ chỉ thiếu và thua một điều: Họ không đủ khả năng và không có cơ hội để trơ trẽn và bất chấp liêm, sĩ, nhân cách như những đảng viên ưu tú kia của Đảng CS. Có lẽ, cái hạn chế của bọn đế quốc, phong kiến so với đạo đức, văn minh CS là chỗ đó, tức là đã không tạo ra được những cán bộ ưu tú như “Đảng ta”. Và kết cục là đã thua, “đảng ta” đã cướp được chính quyền từ họ.

Bên cạnh tôi, các nhà báo, đài truyền hình đua nhau phỏng vấn, ghi hình những người nói lên cảm xúc khi thăm triển lãm, ca ngợi cuộc CCRĐ vĩ đại. Một người đang “chém gió” hăng say trước máy quay truyền hình rằng: “Nhiều tác phẩm như Tắt Đèn, Kim Lân… nhưng bây giờ tôi mới thấy một chiếc áo nông dân vá chùm vá đụp…”. Tôi hỏi ông ta:

– Thưa ông, ông nghĩ gì cuộc CCRĐ để nhằm “đưa lại ruộng cày cho nhân dân”, giờ ruộng đất lại vào tay quan chức của nhà nước, của đảng. Vậy ông nghĩ gì và liệu có phải làm lại cuộc CCRĐ đó không?

Câu trả lời của ông ta là: Chính sách đất đai là sở hữu toàn dân, nhà nước quản lý, là nọ, là kia… nhưng ruộng đất bây giờ ai chiếm hữu thì… tôi không biết.

Nạn nhân ca ngợi thủ phạm và mơ ước tiếp tục CCRĐ

Với súng, đạn, sắt thép và nhà tù cùng với hệ thống loa tuyên truyền triền miên, dai dẳng mọi nơi mọi lúc, thật sự đảng CS đã làm được một điều kỳ diệu: Tẩy não người dân.

Cái gọi là Cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa của Cộng sản thành công đến mức các nạn nhân tự nguyên tung hô, ca ngợi thủ phạm. Đau đớn và xót xa cho thân phận những kẻ cả tin và mê muội đến tận cùng. Tôi đã từng nghe về những nạn nhân cho đến khi bị đảng chặt đầu vẫn hô vang “Hồ Chủ tịch muôn năm” hay “Đảng CS muôn năm” mà không thể nào tin nổi.

bacaidau-400.jpg

Ba cái đầu

Thế nhưng, đời lắm sự bất ngờ.

Trong phòng triển lãm, một ông già, ngực đeo mấy tấm huân chương tự xưng là con địa chủ, xúm quanh là các phóng viên truyền hình. Ông đang say sưa kể cho các phóng viên về truyền thống mấy đời yêu nước của nhà mình. Nào là ông cậu của bố ông là ông Hai Hiên, người làm đầu bếp đã đầu bỏ thuốc đầu độc cả Trung đoàn lính Pháp tại Hà Nội trong vụ Hà Thành đầu độc nổi tiếng trước đây và bị chặt đầu, còn ông thì đi bộ đội chiến đấu vì đảng, vì nước. Tôi hỏi ông:

– Bác cho biết, cuộc trưng bày này có ý nghĩa gì không? khi mà quan chức nhà nước giờ còn nhiều đất đai hơn cả địa chủ ngày xưa?

– Nếu bây giờ có CCRĐ, thì bác sẽ xung phong làm đao phủ để đi chém những thằng đã chiếm lại đất đai, tài sản của nhân dân, của những người nghèo. Hiện nay còn nhiều tầng lớp ăn trên ngồi trốc.

– Vì sao?

– Vì bây giờ nó bóc lột dân tợn quá.

– Bây giờ vẫn còn bóc lột sao?

– Bóc lột quá đi chứ.

– Xin hỏi bác thêm một câu: Vừa rồi, bác nói một câu là nhờ có “bác Hồ”. Vậy “bác Hồ” là người đứng đầu chính phủ lúc bấy giờ có chịu trách nhiệm gì về vấn đề này không? Hay mấy giọt nước mắt đó ông đã phủi hết trách nhiệm về tội ác của CCRĐ?

– Nói thế thì… hôm nay tôi không mang một tài liệu của Hoàng Tùng nói về việc này…

Vậy đấy, với những nạn nhân, họ vẫn luôn coi “bác Hồ” và đảng vô tội. Đó mới là thành công, mới là ngoạn mục.

Tò mò, tôi gặp lại ông sau triển lãm. Ông cho biết: Ông tên là Lê Đình Phúc, năm nay 73 tuổi. Bố ông là Lê Đình Hàm, một người có công với đảng và tuyệt đối tin tưởng “bác Hồ”. Thế nhưng, khi cơn bão CCRĐ do đảng CS đưa đến, lưỡi hái của đảng đã không chừa cả người bạn của đảng là bố ông. Ông Lê Đình Hàm bị bắn chết cùng một lúc với bà Nguyễn Thị Năm vào ngày 09/7/1953 tức là 29/5 âm lịch.

Điều mà ông tâm đắc là cho đến nay, là ngay khi bị bắn chết, bố ông vẫn hô to: “Hồ Chủ tịch muôn năm”, “Đảng Lao động VN muôn năm” và coi đó như hành động vẻ vang chứng tỏ sự vô tội của bố mình. Tiếc thay, dù đã hô thật to cả Đảng và “Bác” thì cái mạng cũng không thể bảo toàn. Nghe ông say sưa kể, tôi chợt nghĩ: Không rõ, nếu có “Bác” ở đó, thì liệu “bác” có cứu Cụ Lê Đình Hàm khỏi lưỡi hái của đảng hay không?

Và từ đó đến nay, ông đi khiếu nại từ trung ương đến địa phương, nhưng chưa có chỗ nào giải oan cho bố ông, ngoại trừ ông Trần Đức Lương cấp cho bố ông Huân Chương kháng chiến. Ông đưa tấm ảnh ba cái đầu đặt trên đất nói rằng: Đây là đầu của Hai Hiên, cậu bố ông đã bị Pháp giết man rợ khi đầu độc nhà bếp của chúng. Tôi buồn cười bảo:

Đầu độc giết cả trung đoàn của Pháp mà nó giết thì có man rợ bằng bây giờ dân không làm gì mà đưa vào đồn công an ra còn cái xác và được báo là tự tử không ông?

Ông ngẩn mặt nhìn tôi rồi nói: “Anh nói đúng, nhưng… thẳng thắn quá”.

Hà Nội, Ngày 10/9/2014

J.B Nguyễn Hữu Vinh

*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.

iBook Cải Cách Ruộng Đất:

http://www.rfa.org/vietnamese/people_stories/land_reform-12022013161432.html

Chuyên đề Cải Cách Ruộng Đất:

http://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/landreform

Sài Gòn và Hà Nội

Sài Gòn và Hà Nội
September 07,  2014
Tạp ghi Huy Phương

Sau khi đi tù về vài năm, khoảng 1985, tôi có mở một tiệm làm hình và tráng phim gia công trên đường Lý Thái Tổ, Sài Gòn.

Nhờ vậy, ở đây tôi có dịp tiếp xúc với nhiều người đủ mọi tầng lớp xã hội và ở khắp mọi miền, nhất là dân miền Bắc, sau Tháng Tư, 1975, đổ xô vào Nam kiếm ăn rất nhiều. Vì dù miền Nam sau ngày “giải phóng” đã xuống cấp tột cùng, trông cũng còn khá giả, tươm tất hơn ở miền Bắc sau 20 năm dưới chế độ cộng sản.

Sài Gòn ngày nay. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Một ngày nọ, tôi gặp một người trung niên miền Bắc, trông mặt mày cũng khôi ngô, nhưng áo quần nhàu nát, làn da xanh mét như người thiếu ăn, anh vào tiệm, ngửa tay ra, nói mấy câu. Nghe giọng nói tôi biết ngay là người này ở ngoài Bắc mới vào, đang hành nghề xin ăn.

Tôi hỏi anh, “Tận ngoài Bắc, sao anh vào đây đi ăn xin?”

Không hề ngượng nghịu, anh nói rõ, “Vào đây xin 10 người cũng có được 6 người móc túi cho, lại chẳng bao giờ bị chửi bới. Ngoài Bắc, nhất là Hà Nội, thì đừng hòng! Có mà chết đói.”

Ðó là điều tôi nhận ra, như vậy là có sự khác biệt nhau giữa Sài Gòn và Hà Nội. Hà Nội đại diện cho miền Bắc và Sài Gòn phản ánh cho những đặc tính của miền Nam.

Cộng Sản vào không phải làm điện khí hóa cho nông thôn trở thành thành thị, nhưng thật tình đã “nông thôn hóa” thành thị, nên dân Sài Gòn thường trực bị cúp điện, nhiều nơi tìm cách đào giếng để kiếm nước và sẵn sàng bới sân gạch lên để trồng khoai lang cải thiện, hay như ông bạn tôi ở chung cư Thanh Ða, bớt chỗ sinh hoạt để nuôi hai con heo nái trên sân thượng.

Sài Gòn sau thời gian đổi tên, nguyên do chỉ vì cái bến Nhà Rồng chết tiệt, chẳng mấy chốc xuống gần bằng Hà Nội. Bằng Hà Nội hơn, nhất là sau khi họ ồ ạt “vào thành phố” như một câu hát của Trịnh Công Sơn, với những “cửa hàng thịt phụ nữ,” “cửa hàng chất đốt thanh niên” mọc ra, cái cảnh phơi áo quần trên cửa sổ, treo khăn lông trong “xe con,” nuôi heo, trồng rau ngay trong sân nhà, hay hai anh bộ đội lái xe khác chiều dừng xe ngay giữa lộ để nói chuyện với nhau, bất cần tiếng chửi của thiên hạ.

Mới thoạt nhìn, Sài Gòn bỏ ngỏ và bắt đầu nhếch nhác giống Hà Nội, nhưng sự thật trong gan ruột, hai thành phố đối cực, đối đầu này đang có những điều khác biệt, một bên là “nơi hang ổ cuối cùng và đâu cũng thấy tàn dư Mỹ Ngụy,” và Hà Nội, “thủ đô của lương tri, phẩm giá con người!” Vì vậy mà ngày nay, sau gần 40 năm “thống nhất” người ta còn đi tìm và thấy ra có quá nhiều khác biệt giữa Sài Gòn, Hà Nội. Cách biệt vì cách đối xử chính trị như vậy, trách sao Sài Gòn và Hà Nội không cách biệt về văn hóa, mặc dầu lúc nào hai bên cũng cho bên kia là “quê hương tù dày!” Tuy vậy, Hà Nội thắt lưng, buộc bụng, tẩy não, “dốc hết hạt gạo, cục muối cho miền Nam đánh Mỹ,” làm sao so được với Sài Gòn “bơ thừa sữa cặn!”

Nói về giáo dục, sau Tháng Tư, 1975, đồng bào và thầy cô giáo miền Nam hẳn đã biết loại văn hóa ăn nói vô lễ, thô tục của lũ trẻ miền Bắc mới vào Nam, vì miền Bắc không có khẩu hiệu “tiên học lễ, hậu học văn” treo trong các lớp tiểu học. Ngày ra Bắc, lên tận Hoàng Liên Sơn, tôi đã trông thấy những nét văn hóa tiêu biểu, được viết bậy lên vách tường nhà trường tiểu học, chưa kịp xóa sạch, nói đến sự quan hệ của ngành công an và giáo dục: “Công An (đ.) Cô Giáo!”

Trên đường làng Cẩm Nhân, Yên Bái, chúng tôi đi ngang một nhà giữ trẻ của hợp tác xã, nghe tiếng trẻ khóc la và tiếng quát của một phụ nữ: “Bố mẹ chúng mày đéo cho lắm vào, để chúng mày làm khổ thân bà!” “Bà” đây là người giữ trẻ của hợp tác xã nông nghiệp, bà có nhiệm vụ giữ trẻ thì khỏi ra đồng như các hợp tác xã viên khác. Liệu lũ trẻ này lớn lên dưới sự chăm sóc của những người này này, ngôn ngữ của chúng sẽ ra sao?

Trên các blog và báo chí trong nước, đề tài “những sự khác biệt giữ Sài Gòn và Hà Nội” tương đối là một đề tài hấp dẫn.

Tôi dẫn một vài ví dụ:

Giao tiếp:

– Ở Sài Gòn, bạn dửng dưng khi thấy cô bán hàng cúi gập người chào bạn.
– Ở Hà Nội, bạn xúc động đến sững sờ khi thấy ai đó nói lời cảm ơn.

Hàng quán:

– Tô hủ tíu mì Sài Gòn được bưng ra với tô được đặt trên chiếc đĩa.
– Bát phở gà Hà Nội được khuyến mại với ngón tay cái của con bé bưng bê!

Ca ve:

– Khi bạn vừa thanh toán xong tiền cho cave…

Cave Hà Nội: “Cho em xin thêm 10 nghìn để còn đi xe ôm về.”
Cave Sài Gòn: “Em bớt cho anh 10 ngàn, lần sau nhớ kiu em nha!”

Nhà sách:

– Hà Nội: Nhân viên hách dịch.
– Sài Gòn: Vào đọc chùa thoải mái, nhất là các em bé, có thể ngồi tại chỗ đọc mà không sợ bị đuổi!

Trong quán ăn:

– Sài Gòn: “Vâng em làm ngay đây.”
– Hà Nội: “Làm gì mà cuống lên thế! Muốn nhanh thì xéo sang hàng khác!”

Bạn bè:

– Hà Nội: Hay để bụng, ghét mà trước mặt vẫn chơi, về nhà nói xấu.
– Sài Gòn: Mau huề, ghét là biến, không chạm mặt!

Nhưng liệu những sự khác biệt này kéo dài được bao lâu nữa? Bây giờ, Sài Gòn và Hà Nội đã bắt đầu đầu giống nhau, ảnh hưởng và bị đồng hóa, vì người Nam ra Bắc thì ít mà người Bắc vô Nam càng ngày càng đông, như một người tên Jor Dan viết trên blog: “Mỗi người có một cách suy nghĩ riêng. Nhưng đa phần chỉ nói yêu Hà Nội, nhưng lại thích được sống ở Sài Gòn. Ca sĩ Hà Nội vào Sài Gòn lập nghiệp nhiều quá còn gì!”

Sau gần 40 năm bây giờ hai thành phố này đã có những chuyện giống nhau. Ở đâu cũng kẹt xe kinh khủng, và sau một trận mưa, không chỉ ở thành phố “bác” mà ở Hà… cũng lội!

Vô kỷ luật:

Sinh viên:

– Hà Nội: Nhiều em cave trông như sinh viên.
– Sài Gòn: Nhiều em sinh viên trông như cave.

Giao thông:

– Sài Gòn: Bạn có thể vượt đèn đỏ thoải mái.
– Hà Nội: Bạn có thể lượn lờ trước mũi xe hơi.

Chúng ta không hy vọng gì Hà Nội và Sài Gòn sẽ mãi mãi khác nhau. Sự đồng hóa và việc di dân ồ ạt sẽ làm cho Sài Gòn càng ngày càng gần với Hà Nội. Ðiều rõ nhất là Hà Nội trước năm 1954 và Hà Nội bây giờ hoàn toàn khác nhau. Năm 1954, sau Hiệp Ðịnh Geneva, một số người đã mang sự thanh lịch của Hà Thành năm xưa đi xa, để “Hà Lội” ngày nay cho những người mới vào tiếp thu, từ giọng nói đến văn hóa cư xử đã hoàn toàn khác biệt.

Người Sài Gòn hôm nay sẽ không còn là người Sài Gòn của những ngày tháng cũ, tất cả chỉ còn là chuyện thời gian.

Chỉ sợ sau ngày Sài Gòn trở lại tên cũ, chất Sài Gòn sẽ không còn nữa.

Chúng ta yêu Sài Gòn chính là yêu chính chúng ta, cái bóng của dĩ vãng. Muốn Sài Gòn không đổi thay, chính lòng mình phải không thay đổi.

 

Con đường xưa em đi

“Con đường xưa em đi

người ta kéo dây chì, thế là anh hết đi.

Đưa em về bên tây nguyên,

xích lô nàng không chịu đi, Nàng đòi đi taxi!”

(Hát nhái bài Con Đường Xưa Em đi của Hồ Đình Phương)

(Mt 5: 21-24)

Trần Ngọc Mười Hai

Rõ ràng “Con đường xưa em đi”, là để em cùng anh và mọi người dùng nó mà đi, dù cho người ta có kéo dây chì hoặc làm anh sạch túi, hay sao đó, ta vẫn đi.

Con Đường, là để mọi người được đi, dù anh có hát nhại gì gì đi nữa, cũng sẽ thấy là:

“Em ơi dù tốn bao nhiêu, dù phải hao “tì”

lòng này anh chẳng màng

Nhưng than ôi khi hiểu ra rằng

Em chẳng thương chi thì làm cho anh sạch túi?”

(Hát nhái bài Con Đường Xưa Em đi như đã dẫn)

“Con Đường” như thế là đường đời, dành cho mọi người, ở đời. Còn, “Con Đường” nhà Đạo, thì sao? Câu trả lời, xin dành ưu tiên cho cựu linh mục Nguyễn Ngọc Lan từng có câu để đời như:

“Đạo là đường, Đạo bao giờ mà chẳng là đường. Sao lại còn có thể tự hỏi: Đạo là đường hay là lô-cốt, pháo đài? Vấn-đề thoạt tiên nghe có vẻ kỳ cục. Chúng ta cứ mở bất kỳ một quyển Hán-Việt Tự điển nào mà xem. Đạo là đường. Dĩ nhiên. Thắp đuốc mà tìm cũng không bao giờ thấy Đạo có nghĩa là pháo-đài, lô-cốt cả. Đạo là đường, không thể là gì khác. Thật là giản dị. Đạo là đường như muôn vàn nẻo đường đã in vết chân chúng ta hay đang chờ chúng ta đi đến. Đạo là con đường lớn nhất, dài nhất, xa nhất như cả cuộc đời chúng ta là một con đường.

Riêng tiếng Việt lại sẵn kiểu nói thật là ý-nghĩa: “đi đạo”. Như thế, hiểu đạo là đường chưa đủ, còn cần phải nói cho rõ hơn. Không biết có tiếng nào trên thế giới biết dùng một chữ gì tương đương với kiểu nói “đi đạo” dễ thương như vậy không.

Thế nhưng, vấn-đề có vẻ kỳ cục kia –Đạo là đường hay là pháo đài– vẫn không phải là chuyện thừa. Vì Đạo là đường chỉ là lý đương nhiên trong các quyển tự-điển, theo nguyên tắc, còn trong thực-tế đã chắc gì Đạo vẫn chỉ là con đường. Người mình bảo “đi đạo” nhưng biết đâu trong thực-tế vẫn có nhiều người “giữ đạo” như canh gác lô-cốt hơn là có nhiều người “đi đạo” như còn ở trên con đường dài. Cũng như cái lý đương nhiên của cánh chim là để bay nhảy giữa trời cao đất rộng. Cái lý đương nhiên của loài cá là sông là biển. Thế nhưng, vẫn có cảnh cá chậu chim lồng. Mà bi-đát hơn nữa là chúng ta thường chỉ tiếp xúc với cá chậu chim lồng –chưa kể cá ướp lạnh và chim đã nhổ hết lông– hơn là với cá đang tung-tăng giữa cái lý đương nhiên của nó là sông biển, với chim đang bay nhảy giữa cái lý đương nhiên của nó là trời đất…” (xem Nguyễn Ngọc Lan, Đường Hay Pháo Đài, nxb Trình Bầy 1969 tr. 11-12)

Vâng. Ý của vị “cựu linh mục” đây khi xưa là thế. Có như thế hay không, người đời nay vẫn cứ quan-niệm “Con Đường Xưa Em Đi”, còn hơn thế nữa, khi hát rằng:

“Con đường xưa em đi Giờ đây kéo dây chì thế là anh hết đi.

đưa em về bên Tây nguyên Xich lô nàng không chịu đi Nàng đòi đi Taxi.

Em ơi! dù tốn bao nhiêu dù phải hao tì, Lòng này anh chẳng màng

Nhưng than ôi khi hiểu ra rằng Em chẳng thương chi thì làm cho anh sạch túi.”

(Hát nhái bài Con Đường Xưa Em đi như đã dẫn)

Thật ra thì, có sạch túi/hao “tì”/hao hụt rất nhiều tiền đi chăng nữa, thì anh và em vẫn cứ phom phom ra đi trên con đường đời đầy chông gai, hoặc giây chì, giây kẽm hay gì gì đi nữa, cũng không ngại. Chỉ ngại mỗi điều, là: người em và người-anh-của-tôi, hôm nay lại thấy mệt vì chuyện khác chứ không phải chuyện đi/đứng.

Đời người “đi Đạo” cũng thế. Đi đạo, lại là và vẫn là: phom phom đi trên con “Đường” rất Đạo để giữ đạo chứ không “hành” Đạo, thế mới hay.

Trong sống đời “đi Đạo” và “giữ Đạo”, lại có rất nhiều tình-huống cũng khiến người nhà Đạo đôi lúc cũng hao-tổn thần-lực và thần-tính, nhưng vẫn đi và cứ đi. Nếu hỏi rằng, sao lại như thế, thì: hôm nay đây, bần đạo bầy tôi xin mời bạn và mời tôi, ta cứ thế “phom phom” tìm hiểu ý-nghĩa và lý-chứng về chuyện “đi Đạo” và “sống Đạo” ngang qua ý-kiến của một số vị thuộc bậc thày đã “đi” trước và vẫn “đi” dù có điều gì xảy đến trong quá-khứ, hiện-tại hoặc mai ngày.

Trước hết xin mời bạn và mời tôi, ta hãy về lại với ý-kiến của vị cựu linh mục vừa trích ở trên xem sao. Ý-kiến của bậc thày/đàn anh bần đạo khi xưa cũng rất dài. Nay, xin ghi lại chỉ đôi ba ý chính, rất như sau:

“Vấn-đề quan-trọng vì càng ngày càng đông-đảo những con người –nhất là trong giới trẻ –không thể chấp-nhận mãi việc “giữ Đạo” theo cha ông như giữ một miếng đất, một mảnh vườn hay tệ hơn nữa như một lá bùa. Chưa hẳn vì họ trở thành vô đạo. Mà có thể, chính vì cha ông họ chưa hề thực sự “đi đạo”. Phủ-nhận một nề nếp đạo đức nào đó đối với họ thật ra không đáng kể gì hơn thế-hệ cha ông của họ đã đoạn-tuyệt với khăn đóng áo the thâm. Hay đúng hơn, họ đang làm một chuyện cần-thiết hơn, đáng làm hơn: cách này hay cách khác họ đang tỏ ra muốn là những con người có tự-do và ý-thức, và muốn đạo không thể chỉ là lồng chim và chậu cá. Họ càng không thể chấp-nhận sự-kiện người ta cứ tiếp tục biến đạo thành pháo đài hay lô-cốt để thúc thủ trong chủ quan và ích kỷ rồi chèn ép, chém giết nhau vì những quyền lợi không chút dính dấp gì đến đạo. Chưa hẳn họ đã coi rẻ ý-nghĩa của Đạo trong kiếp sống của mình. Họ chỉ từ-bỏ một thứ Đạo nào đó thôi. Và họ có quyền thắc mắc: Đạo như đã được “giữ” trước họ có thật đã giúp cho loài người xích lại gần nhau, yêu thương nhau, thông cảm với nhau cho bằng đã khiến loài người nghi kỵ lẫn nhau, chống đối nhau, xa cách nhau, dựng lên giữa nhau không biết là mấy lớp Vạn Lý Trường Thành, hay màn sắt, màn tre?

Đạo, là pháo đài hay là đường?

Một vấn đề đáng ám ảnh chúng ta khi còn muốn chú ý đến chuyện tôn giáo, còn muốn nhìn nhận Đạo như một hiện tượng liên hệ sâu xa đến nếp sống của mình, đến tương quan giữa mình với người, đến thân phận chung của loài người.

Đạo là pháo đài hay là đường?

Trong thực tế, cứ thử nhắm mắt lại mà xem. Nhiều thực-tại vẫn cần phải nhắm mắt lại mới thấy rõ hơn là mở mắt trân trân. Nhắm mắt lại mà xem chúng ta thấy gì khi nghĩ đến “đạo”? Chữ “đạo” có tự nhiên gợi lên trong tâm-tư chúng ta hình ảnh một con đường rộng thênh thang, dài vun vút?

Trên con đường đó, người ta tha hồ đi, có kẻ đã đặt một chuẩn-đích phía trước mặt, có kẻ chỉ hướng về một chuẩn đích chưa rõ rệt và có lẽ chẳng bao giờ rõ rệt, có kẻ mãi mãi lang thang tìm kiếm. Nhưng ai cũng đi, người này bên cạnh người kia, không phải dẫm chân lên nhau, không ai dừng lại mà dựng lô-cốt để yên nghỉ ngay giữa đường, chận bước tiến của kẻ khác, không ai đem giây thép gai rào dọc ngang. Mọi người vừa đi vừa gặp nhau trong cùng một nỗi khắc-khoải của lòng mình, trong sự thu hút của chân trời đằng trước mặt”… (xem thêm Nguyễn Ngọc Lan, sđd tr. 13-15)

Trích dẫn những lời như thế, ở đây/hôm nay, lại là trích và dẫn về những khắc-khoải còn tiếp tục với người đi đạo và sống đạo thời bây giờ, tức thế-kỷ thứ 21 chứ không chỉ mỗi thế-kỷ của bậc thày/đàn anh từng sống và đã sống.

Thế kỷ 21, nay còn thấy và vẫn thấy những “khắc-khoải” đặt ra cho mình và cho người, giống như thế. Khắc-khoải, là những ưu-tư/thắc-mắc đặt ra cho đời. Khắc-khoải, là những thời-khắc rất ưu-tư/ngại ngùng kéo dài rất nhiều ngày trong đời, mọi người.

Khắc-khoải và quan-ngại, ở chỗ: có những lời dạy-dỗ của bậc thánh-hiền từ ngàn xưa vẫn vang vọng đến bây giờ, qua bao thế kỷ, thế-hệ và thế-sự đà đổi thay. Khắc khoải và quan-ngại, lại là lời vọng có giá trị đến bây giờ, vì đó là sự thật. Khắc-khoải và quan-ngại, là những điều từng thúc-giục mọi người, như sau:

“Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng:

Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà.

Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà.

Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng.

Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt.

Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” (Mt 5: 21-24)

Luật yêu thương theo Con Đường Chúa dạy, lại dẫn đến Sự Thật và Sự Sống, tức chính Chúa. Phải chăng “Con Đường Xưa Em Đi” hoặc “Đạo, là Đường hay Pháo Đài?”, lại chính là đường-hướng, đường-lối hoặc đường đường một cung-cách của Tin Vui An Bình, Chúa từng bảo:

“Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy,

để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.

Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su: Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu,

làm sao chúng con biết được đường? Đức Giê-su đáp: “Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Không ai đến được với Chúa Cha, mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.”

(Ga 14: 2-7)

“Thầy là Con Đường”, chứ không là pháo đài! Điều này bậc thày/đàn anh lại đã ghi thêm:

“Đối với lòng tin của người Kitô-hữu, Đức Yêsu trước tiên là cả Con Đường đưa từ thân thế Thiên Chúa đời đời của Ngài đến thân phận làm người trong thời gian (Ph 2: 6-8)

Tất cả những gì chính yếu nhất trong lòng tin đó đều có thể quy về một quả quyết: Kẻ không yêu thương tất đã không biết Thiên-Chúa, vì Thiên Chúa là lòng yêu thương. Điều này đã chứng-tỏ lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với chúng ta: là Thiên Chúa đã cho Con Một Người đến trong thế gian, ngõ hầu chúng ta được sống nhờ Người” (1Yn 4: 8-9)

Nhưng ngoài ra, cứ nhìn vào cuộc đời của Ngài như một hiện tượng, và cứ nhìn như các tiểu sử chính thống -thường được gọi là Tin Mừng hay Phúc Âm- đã trình bày, có thể nói ngay là Đức Yêsu đã sống chết ở ngoài đường, ở trên đường.” (x. Nguyễn Ngọc Lan, sđd tr. 75)

Quả thật là như thế. Đường, lại chính là Sự Thật và là Sự Sống của Đức Giêsu. Bằng vào Con Đường này, Đức Giêsu đi đến với Thiên-Chúa-là-Cha. Và, Ngài dẫn dắt mọi người trong thiên-hạ, vẫn làm thế. Trong thiên-hạ, nhiều nghệ-sĩ cũng nhận ra được “Con Đường Tình” của mọi người và tình “Đường” của riêng ai như ý/lời được diễn-tả theo cách khác:

“Con đường nào ta đi Với bàn chân nhỏ bé

Con đường chiều thu đổ Con đường bụi mờ Con đường tuổi măng tre

Nắng vàng thu đẹp đẽ Bóng người dài trên hè Con đường tình ta đi.”

(Phạm Duy – Con Đường Tình Ta Đi)

Cứ như người nghệ-sĩ hát, thì: Con Đường mình đi, bao giờ cũng là và phải là “Đường Tình”, là “Tình” ta có với ai đó. Con Đường “tình ở đời” còn mang thêm ý-nghĩa khi anh và em, ta hát tiếp:

“Thế rồi cuộc đời là Những cuộc tình chia xa Đi lạc vào những phía con đường về

Đứng ở ngoài đầu rừng Đứng ở đầu con sông

Nhớ về con đường cũ mênh mông, mênh mông.

Hỡi người tình học trò Hỡi người tình năm xưa Bóng người từng in dấu, trên đường mờ.

Có thuộc vạn nẻo đường Có ngại ngùng nên quên Nhớ hoài con đường cũ không tên.

(Phạm Duy – Con Đường Tình Ta Đi)

Với Đức Giêsu là Sự Sống của người đi Đạo và giữ Đạo, tức giữ “Con Đường Tình” mình đi, chính là Đạo của Đức Kitô Giêsu, là Đức Chúa. Về điểm này, bậc thày/đàn anh còn ghi tiếp bằng những “cụm từ” đứt khúc, như sau:

“Kitô-giáo: Đạo mở đường!!

Khi Đạo đích-thực là Đạo Tình Thương và tình thương chỉ có con đường vô hạn đằng trước mặt.

Kitô-giáo: Đạo cho người ngoài đường!

Ngài đã sinh ra ngoài đường và khi ấy cũng chỉ có những người ở ngoài đường có mặt xung quanh Ngài. Từ bao thế hệ, đạo Do Thái đã hãnh diện với sứ mệnh cốt yếu là chờ đợi để đón tiếp Vị Cứu Tinh phải xuất hiện tự dân tộc mình. Thế mà lời tường thuật của Luca và Matthêu tuyệt nhiên không cho thấy bong dáng những đại diện tiêu biểu của Đạo xung quanh Máng Cỏ. Chỉ có những người ở bên lề hay ở ngoài xã hội Do thái mới đến đó. Ngay đêm Giáng Sinh là những người chăn cừu trong vùng (Lc 1: 8tt): đám nguời này có là Do thái cũng như không: họ đã nghèo mà lại còn bị liệt vào thành phần bất hảo: ai có vườn xanh cỏ tốt đều phải canh chừng…”

Trong mà ngoài, ngoài mà trong hay là câu chuyện đứa con đi hoang.

Các chuyên viên giữ đạo tự phụ là “có” Đạo đã nắm chắc Thiên Chúa cho mình như ngày nay người ta nắm chắc một số lương hưu bổng. Họ tưởng đã chính-trực hôm qua là chính trực mãi mãi, đã tội lỗi hôm qua là chung thân tội lỗi. Cho nên họ xếp hạng loài người thật dễ dàng. Nhưng Đạo không bao giờ chỉ là ngày hôm qua, cho dẫu ngày hôm qua vàng son đến đâu chăng nữa.

Đạo, là đoạn đường ngày hôm nay. Đạo, là chân trời ngày mai. Dừng chân yên nghỉ, thụ hưởng quãng đường quá khứ là hết Đạo. Đạo, không phải là những công đức đã cô đọng thành hào quang chung quanh đầu con người. Đạo, là ngày hôm nay đây, giờ phút hiện tại đây, con người gật đầu hay không gật đầu đáp lại tiếng gọi xa hơn mình, cao hơn mình. Đạo, không ở những vết chân để lại, mà Đạo ở cả nơi bước chân mình đang cất lên hướng về đâu. Như thế, Đạo là đòi hỏi không ngừng, nhưng nhờ đó Đạo cũng là năng-lực giải-phóng con người khỏi bị đóng đinh vào những vết chân quá khứ…” (x. Nguyễn Ngọc Lan, sđd tr. 149)

Kitô-giáo: Đạo ngoài đường!

Thiên Chúa là Tình Thương, chỉ tình thương mới có tính cách quyết định trên con đường đi đến với Ngài. Tình thương định đoạt giá trị của công-thức trong mỗi hoàn cảnh sống cụ thể chứ không phải công thức định đoạt tình thương.“Thờ phượng là thờ phượng trong Thần Khí và sự thật”. (Yn 4: 5-24) Đưa ý thức tôn giáo ra ngoài đường, Đức Yêsu giải phóng hành động con người đã đành, nhưng còn hơn thế nữa, Ngài giải-phóng chính Thiên Chúa khỏi mọi định kiến cho dầu là thánh thiêng đến đâu đi nữa của con người. Con Đường Ngài mở ra, không phải là con đường để trượt tuyết. Đành rồi. Nó cam go, dốc dác. Nhưng, nó lại không là ngõ hẻm, ngõ cụt. Nó rộng thênh-thang và tha hồ đi mãi…

Từ lời dạy rõ và hùng hồn (ở Tin Mừng), chúng ta có thể rút ra vài nét chính yếu:

1) Đạo vẫn là Đạo Yêu thương. Nhưng trong thực-tế của cuộc sống, không còn có thể phân tách hai mặt của tình thương yêu ấy nữa. Không còn chỗ cho con đường đi đến với Thiên Chúa khác với con đường đi đến với tha nhân. Đối diện với tha nhân cũng là đối diện với Thiên Chúa. Bất cứ thái độ nào đụng chạm đến con người là đụng chạm đến Thiên Chúa. Và, ai cũng có thể được thẩm định cách dứt khoát và toàn diện mà chỉ cần là thái độ của họ đối với tha nhân được đưa ra ánh sáng cuối cùng.

2) Khi đã có sự đồng hoá kỳ lạ đó, Đạo cho dẫu là đường đi đến với Thiên Chúa vẫn không cho phép người ta biến thành thuốc phiện. Đức Kitô muốn người ta theo Ngài, tìm Thiên Chúa mà vẫn phải giáp mặt không ngừng với thực tại con người ở ngay xung quanh. Không có quyền tìm Thiên Chúa trên một từng mây xa vời nào nữa!

3) Một lối lập luận nghịch thường nào đó trong Tin Mừng theo thánh Yoan; cũng như trong Thư Thứ Nhất của Yoan, thành tự nhiên với đường hướng trên. Mỗi khi quả quyết tình thương yêu của Thiên Chúa hay của Đức Yêsu đối với con nguời, Yoan lại không trực tiếp kêu gọi con người yêu mến Thiên Chúa để đền đáp mà chỉ kêu gọi người ta yêu thương nhau. (1Yn 4: 11) hay một cách thiết thực hơn cũng vậy: “Chính do điều này mà chúng ta nhận ra được lòng yêu thương: là Ngài đã thí thân vì chúng ta. Nên chúng ta cũng phải thí thân vì anh em.” (1Yn 3: 16).

4) Đạo không còn chỉ giới hạn trong những ‘cấm giới’ như đừng giết người, đừng dâm ô, đừng trộm cướp, đừng vu khống vv.. Đạo không còn phải chỉ là Đạo “đừng-đừng-đừng”… Đạo chỉ là đạo-đừng thì mới tiện giữ được bên trong một pháo đài, ở trên một tháp ngà. Trong đó, trên đó, chúng ta “chẳng động gì tới ai”…là trọn đạo.

Đạo là đạo làm, anh-làm-được-gì-cho-tôi, tôi-làm-được-gì-cho-anh. Cho ăn, cho uống, cho mặc, tiếp đón, thăm viếng, gặp gỡ. Hay làm tất cả những gì không thể định trước được để đáp ứng những nhu cầu bất ngờ nhất trên đường đời, giữa cuộc sống… Như thế, đạo-làm vừa bắt buộc ra khỏi mọi thứ pháo đài, tháp ngà, mu rùa mới có cơ hội gặp được tha nhân mà hiện thực được, vừa không cho phép ngừng lại ở mức độ nào nữa cả. Nên chỉ là đạo-đừng thì tôi chẳng động gì đến ai, chẳng làm hại ai là đủ. Nhưng thế nào là đủ được cho đạo-làm, thế nào là đủ cho tình thương yêu? Đạo vẫn là con đường vô hạn mở ra cho hành động yêu thương của con người.

5) Còn hơn nữa, Đạo Đức Kitô là đạo-anh-với-tôi-cùng-làm-gì-cho-kẻ-khác. Không phải là vấn đề ý thức không quan hệ. Riêng Kitô-giáo tự bản-chất muốn là một Tin Mừng. Tin, là đón nhận Tin Mừng đó. Nhưng vấn đề là không cần phải đợi lúc anh với tôi cùng chia xẻ một niềm tin chúng ta mới cùng đi với nhau một con đường. Đạo lý Đức Yêsu như trên kia rõ rệt lắm: cùng một lòng tin là quan hệ nhưng chưa phải là chuyện có tính cách quyết định. Chỉ có tính cách quyết định là anh với tôi cùng làm gì cho tha nhân, và có cùng là đồng loại của tha nhân hay không?

Trong ý thức, anh có thể đang đi một con đường, tôi đi một con đường, nhưng trong thực-tại sống, chỉ có một con đường duy nhất: con đường đưa chúng ta đi gặp gỡ con người, cùng phục vụ con người, cùng sống cho tình thương yêu đồng loại, chúng ta lại cũng đã gặp gỡ nhau.

Khi đã hiểu như thế, chuyện cấp bách đối với tôi, người tin ở Đức Kitô, vẫn chưa phải là làm sao cho anh cùng tin với tôi – gặp gỡ chính Ngài – mà chính là: làm sao cho chúng ta cùng mở mắt trước những khổ đau của con người, những bất công của xã hội, để cùng nhau chúng ta làm gì để để xoa dịu những khổ đau kia, chận bớt, chấm dứt những bất công này.

Con đường thương yêu – với niềm tin hay không với niềm tin – vẫn đi qua người đồng loại. Con đường đó vừa xa tắp vừa cho phép mọi người gần nhau, gặp gỡ nhau…

Đạo, là Đường, Sự Thật, Sự Sống!

Đức Yêsu trước tiên muốn nhấn mạnh ở điểm Ngài là Đường. Ngài còn là Sự Thật và Sự Sống, nhưng đối với kẻ theo Ngài, hai thực tại ấy vẫn không tách rời được thực tại Ngài là Đường.

Đường, là để đi vào, đi theo. Con đường đây lại không phải là một nét mực đỏ vẽ sẵn trên một bản đồ bỏ túi mà là thực thể sống động. Đã vậy, “Sự Sống”, “Sự Thật” đều không phải là những vật để bỏ túi. Cũng không phải để cất gọn vào tủ sắt được… Không thể bỏ túi, cất tủ sắt chính Đức Yêsu. Không ai “có đạo” như có một cái xe máy dầu Nhật. Mà, chỉ có những người “đi Đạo”.

Đạo chỉ là pháo đài khi người ta mang thái độ chủ-nhân-ông đối với chân lý. Riêng đối với người tin Đức Kitô, đó là khi lầm lẫn tưởng rằng theo Ngài đã là bỏ túi được Ngài. Tin Ngài là Sự Thật rồi cũng tưởng là mình bỏ túi được Sự Thật mà quên rằng Ngài vẫn là Đường! Nghĩa là cho dẫu gần gũi Ngài đến mức nào đi, cho dẫu là “ở trong Ngài”, để nói theo ngôn ngữ Kinh Thánh (Yn 14: 20), thì người ta vẫn chẳng bao giờ là chủ thầu con đường mà mãi mãi chỉ là kẻ hành hương…

Đức Yêsu có là Sự Thật cho tín đồ của Ngài thì vẫn có cả một khoảng cách không bao giờ lấp được giữa Sư-Thật-là-Ngài với sự-thật-như-được-đón-nhận-trong-tâm-tư-họ. Kinh thánh không quan niệm Sự Thật một cách trừu-tượng. Sự Thật đây là như tâm sự của Thiên Chúa được ngỏ cho nhân loại bằng cách đầy đủ nhất là hiện thân trong Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người.

Đức Yêsu đã có một thái độ không kém tiêu biểu tuy ở vào hoàn cảnh trái ngược hẳn với bụi cây rực lửa huy hoàng. Đó là khi Ngài phải đứng trước mặt Philat như một kẻ tử tù. Cũng như Ngài đã tâm sự với đồ đệ rằng Ngài là “Đường, Sự Thật và Sự Sống”, thì ở đây Ngài ngang nhiên quả quyết với Philat, vị quan toà đại diện cho đế quốc La Mã: Tôi có đến trong thế gian cũng vì để làm chứng cho Sự Thật. Ai thuộc về Sự Thật thì nghe tiếng tôi.” Nhưng khi Philat hỏi lại Ngài: “Sự Thật là cái gì?” thì Đức Yêsu đã không trả lời câu hỏi đó.

Sự Thật không là “cái gì” cả. Sự Thật không phải là “cái gì” gói gọn được trong một định-nghĩa, trong một khái niệm, trong tất cả ngôn ngữ loài người. Nếu tôi không lầm thì toàn bộ Kinh Thánh, chẳng có chỗ nào cho một định-nghĩa trừu tượng về chân lý. Ngài đứng yên đó, Không trả lời. Nhưng “Ngài là Ngài”. Sự Thật vẫn còn là Sự Sống và là Đường”. (x. Nguyễn Ngọc Lan, sđd, tr.235)

Thật sự thì, trên đường đời cuộc sống, người nào cũng đi chứ không đứng. Có người đi mãi mà không ngừng. Đi càng nhiều trên con đường đời càng rút được nhiều kinh nghiệm về Sự Thật của Sự Sống. Có người từng ghi lại kinh nghiệm qúi báu của một chuyến đi, hoặc còn gọi là hành-trình trên đường đã ghi lại những giòng chảy như sau:

“Đừng bao giờ trách móc bất kỳ ai khi cùng rong ruổi trên đường đời cuộc sống của bạn.

Người tốt, sẽ cho bạn Hạnh Phúc. Người xấu, sẽ cho bạn kinh nghiệm.

Người tồi tệ nhất, cho bạn bài học… Và, tuyệt vời nhất sẽ ban cho bạn Kỷ niệm.

Đừng hứa khi đang vui. Đừng trả lời khi đang…nóng giận.

Đừng quyết định khi đang… buồn! Đừng cười khi người khác …không vui!

Cái gì mua được bằng tiền, cái đó rẻ. Ba năm học nói, một đời học lắng nghe.

Chặng đường ngàn dặm luôn bắt đầu bằng một bước đi. Đừng a tòng ghen ghét ai đó, khi mà họ chẳng có lỗi gì với ta.

Được! Được!

Sống một kiếp Bình An là được

2 bánh 4 bánh, đi được là được.

Tiền ít tiền nhiều, đủ ăn là được.

Người xấu người đẹp, dễ coi là được.

Người già người trẻ miễn khoẻ là được.

Nhà giàu nhà nghèo, hoà thuận là được.

Ông xã về trễ, miễn về là được.

Bà xã càu nhàu, chăm lo là được.

Khi con còn nhỏ, dạy dỗ thật nghiêm.

Tiến sĩ cũng được, bán rau cũng xong.

Sau khi trưởng-thành, ngoan ngoãn là được.

Nhà to nhà bé, có chỗ ở là được.

Hàng hiệu hay không, mặc được là được.

Tất cả phiền não, biết xả là được.

Kiên trì cố chấp, biết bỏ xuống là được.

Sống một kiếp người, an lạc là được.

Không phải có tiền, muốn gì cũng được.

Tâm tốt việc tốt, có thể thay đổi số mệnh.

Ai đúng ai sai, trời biết là được.

Tu phúc tu thân, kiếp sau càng tốt.

Thiên địa vạn vật, tùy duyên là tốt.

Có rất nhiều việc, nhìn xa trông rộng.

Mọi người đều tốt, ngày ngày đều tốt.

Anh tốt tôi tốt, thế giới sẽ biết.

Nói tóm lại, tri thức là quan trọng nhất.

Nói nhiều như vậy, hiểu được là tốt.

Vẫn còn chưa hiểu, xem lại là được.” (trích điện thư vừa mới nhận cũng … là được.)

 

Đúng rất đúng. Bần đạo đây thấy rất “tâm đắc” về nhiều khía cạnh được kể ở trên. Khiá-cạnh thực tế khi đi trên con đường của cuộc sống, có Sự thật, mọi người đều đã đi và ít nhiều cũng có đôi ba cảm-nghiệm. Nhưng, có những cảm-nghiệm mà một số bạn giống như bần đạo đây, nhiều lần vẫn quên đi. Quên, hát bài hát của người nghệ sĩ ngoài Đạo vẫn từng đi trên con đường độc Đạo của cuộc sống, lại vẫn hát những lời rất nghe quen tai, đầy khích lệ mọi người cùng đi hãy cùng hát.

Hôm nay, đề cập đến “Con đường Tình Ta Đi”, bần đạo đề-nghị ta quay về với giới nghệ sĩ ở đời để cùng hát câu sau đây làm kết luận cho bài viết khá dài này, rằng:

“Dù đến rồi đi tôi cũng xin tạ ơn người tạ ơn đời, Tạ ơn ai đã đưa em về chốn này
tôi xây mãi cuộc vui. Dù đến rồi đi tôi cũng xin tạ ơn người
tạ ơn đời, tạ ơn ai đã cho tôi Còn thấy những ngày ngồi mơ ước cùng người.”

(Trịnh Công Sơn – Tạ Ơn)

Vâng. Chính thế. Dù có đi hay đứng thế nào đi nữa, trong đường đời, vẫn xin người và xin tôi, ta cứ “Tạ ơn Người”, tạ ơn đời, suốt đời người.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn còn đi nốt con đường đời

Những 70 năm

Vẫn xin tạ ơn đời,

Tạ ơn hết mọi Người.

Trên đời.

 

Anh buồn tự thuở giăng lên núi,

“Anh buồn tự thuở giăng lên núi,”

Ấy độ tôi hoài ước lại mong”.

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mt 20: 1-16

Nơi đời người, rất nhiều người cứ thấy buồn “tự thuở giăng lên núi”, giống nhà thơ. Trong nhà Chúa, chẳng ai còn thấy buồn đến độ như thế. Nhưng vẫn vui hoài, “những ước và mong”.

Trình thuật hôm nay thánh-sử Mát-thêu ghi lại dụ ngôn thợ làm vườn nho người kẻ sau gia-nhập nhóm làm vườn, như mọi người. Nhưng, lại cũng có người buồn nhiều hơn vui, vì nhiều thứ. Thứ dễ thấy nhất là cảm thấy như chủ vườn đối xử không đồng đều, nên mới buồn.

Chuyện người đời, phim ảnh cũng kể lại những tình-huống buồn vui vì người đời đối xử rất khác nhau như câu truyện về người anh hùng ở cuộc chiến có tên là Forrest Gump, rất oái oăm.

“Phim truyện Forrest Gump có lúc được kể là ‘niềm hân hoan của người tham chiến’. Vào một lúc nào đó, truyện phim nói về sự việc: “sao người chót hết lại có thể về trước nhất”. Câu chuyện này, rút từ những điều mà cuốn phim đã để lại trong đầu, của người xem.

Forrest Gump rồi cũng chết. Và, cũng lên thiên đàng. Vừa tới nơi, đã thấy thánh Phêrô đưa ra 3 câu hỏi bắt buộc anh phải giải mã trước khi vào cửa. Ba câu ấy, là: -1) Ngày nào trong tuần bắt đầu bằng chữ T? -2) Một năm gồm bao nhiêu giây? -3) Tên gọi của Thiên Chúa là gì?

Forrest trả lời ngay lập tức: ‘Thưa, 2 ngày trong tuần bắt đầu chữ T là: hôm nay và ngày mai. Thánh Phêrô nói: Ta không nghĩ thế, nhưng con vẫn có điểm. Thế câu tiếp là gì? – Con nghĩ, câu trả lời độc nhất là 12. -12 ư? –Thưa, đó là ngày 2 tháng Giêng, 2 tháng Hai… – Khoan, Ta biết là con đang cò cưa với câu này. Thế còn câu hỏi cuối? – Vâng, đó là Andy! – Andy à? Thôi được, cứ coi như 2 câu đầu con cũng biết cách trả lời rồi. Nhưng sao lại đặt tên gọi cho Chúa là Andy? –Thưa, đó là câu trả lời dễ nhất. Con học điều đó trong bài ca vịnh…ANDY đi với tôi, ANDY tới với tôi, ANDY bảo tôi thuộc về Ngài’  Nghe thế, thánh Phêrô bèn mở cửa ngọc và hối: “Vào đi Forrest, vào lẹ đi!”

Tin Mừng hôm nay, cũng kể về người thợ đến đầu giờ cũng được trả lương y như người đến sau buổi xế. Như thế, thì đàn chim ban sớm cũng đã không nhận ra là chúng có thể đến trễ và cũng được bấy nhiêu đồ ăn. Bằng giọng điệu cay cú, ta có thể dùng danh xưng gọi các tay thợ làm vườn đến vào buổi xế là “Giô-ni đi tàn tàn”. Và, sự thể là: nếu ta buộc phải đối đầu với tình huống tương tự, ta cũng sẽ là người ngồi đó mà càm ràm.

Với Hội thánh tiên khởi, câu chuyện hôm nay mang tính quan trọng, là vì người Do thái, qua bao thế hệ, vẫn cứ mỏi mòn ngồi chờ Đấng Mê-sia sẽ đến. Và, tựa như người thợ đến từ đầu giờ, cộng đoàn khi xưa là các nhà tiên phong đáp ứng lời mời của Đức Giêsu Chúa đã lao động cho hiện trường Vương Quốc của Đức Chúa. Dưới mắt người Do thái đi theo Chúa vào thời đầu, kể cả thánh Phêrô, ai cũng ngỡ ngàng khi thấy Đức Chúa đã mời gọi cả người ngoài luồng đến để sống và phục vụ cho Vương Quốc của Ngài.

Với đầu óc giàu tưởng tượng, ta thấy ngay là: một số đàn chim ban sớm vẫn mang nặng cảm giác dày vò cay cú, khi thấy đám “Giôni đi tàn tàn” lại được trao cho trọng trách trông nom sứ vụ truyền giáo rất rộng. Điều này hẳn đã vượt ngoài sức tưởng tượng, của nhiều người. Vì thế, vẫn có người thắc mắc hỏi rằng: sao lại xảy ra như thế được!

Tìm hiểu kỹ, ta thấy truyện kể hôm nay cho thấy tính khí thất thường nơi con người chúng ta. May cho ta, Chúa vẫn rất mực độ lượng. Ngài có lòng khoan dung, đại độ không ai sánh tày. Trong khi đó, nhìn lại mình, nhìn người khác, vẫn chỉ thấp thoáng một vài gương lành, do đã bắt chước cách hành xử cao quý của Đức Kitô thật đấy, nhưng vẫn chưa đậm nét. Nơi Đức Chúa là cả sự sung mãn, tràn đầy.Tràn đầy yêu thương. Ngập tràn tha thứ. Đầy ắp những xót xa. Những sung mãn về sự công chính.

Tự thân, Chúa vượt quá tầm tay với mà ta có thể kêu cầu, đòi hỏi hoặc mơ ước. Nên, ta vẫn không hết bỡ ngỡ đứng trước các hành xử đảo ngược lòng ao ước đợi trông. Đảo ngược tính sợ hãi vẩn vơ. Đảo, cả những đồn đoán khó tin của người phàm. Chúng ta vẫn không ngừng tìm kiếm Đức Chúa vĩ đại đầy ấn tượng. Tựa như khoa học giả tưởng do ta sáng chế. Trong khi đó, Chúa đến với ta chỉ như kẻ bần hàn, đói rét. Ngài đến, rất trần trụi. Lạnh căm. Lạnh căm, như người ốm o gầy mòn, mang hình hài thân phận của người tù, ốm đói. Nhưng, Chúa tỏ lộ chân lý của Ngài ngang qua những người làm ta kinh ngạc. Vào thời điểm dễ làm ta sửng sốt.

Đó còn là lý do tại sao nhiều người cứ mải quyết đoán: Đức Chúa chỉ hoạt động theo cách thân quen tại nơi chốn, qua con người, hoặc vào thời điểm ở thể chế rất dễ nhận. Việc Ngài làm, thường kết thúc ở cuối đường ranh khôn ngoan, tin tưởng. Tin vào Đạo. Tin vào Lời.

Trong cuốn “Những thứ bạn kiếm được mà không phải trả tiền”, tác giả Michael McGirr đã biện luận: thế giới hôm nay đang có khủng hoảng về niềm tin. Đây không là phương thức ta thường nghĩ. Trong bối cảnh lật lại bàn cờ, McGirr khẳng định là: khủng hoảng niềm tin nằm ở chỗ: người ở ngoài truyền thống vẫn cảm nghiệm được tình thương yêu của Đức Chúa. Quả thật, Chúa luôn yêu thương, dẫn dắt Hội thánh. Nhưng, Ngài không bị ràng buộc bởi Giáo Hội. Ngài bận tâm lo toan để đoan chắc rằng: ai người chậm chạp, đến trễ, vẫn có cơ-hội được ngang bằng với người đến sớm. Vẫn nhận được món hời hệt như đàn chim ban sớm.

Dẫu thế nào, ta hãy nên, thay vì phẫn nộ về cái-gọi-là sự bất công này, hãy chăm lo mà cảm tạ Chúa vì nhờ vào Ngài ta mới trở nên lớn lao, cao trọng. Cảm tạ Ngài, đã tỏ ra công minh, chính trực với thần dân. Cũng chẳng nên hỏi: khi nào và làm sao ta nắm được Lời. Bởi vì, Lời không “gớm ghiếc” và cũng chẳng “bất công”. Lời chẳng “thấy Tôi tốt bụng mà đâm ghen tức”. Duy có điều, là: vì ta chưa hiểu thế thái nhân tình, nên chưa hiểu rõ được Lời.

Cảm-nghiệm những điều vừa kể, tưởng cũng nên ngâm lại lời thơ còn bỏ dở ở trên, nay tiếp tục:

“Anh buồn tự thuở giăng lên núi,”

Ấy độ tôi hoài ước lại mong.

Ai biết lòng anh thương nhớ đâu?

Gần nhau không nói, nói không sầu.

Cầm tay hỏi mộng, buồn như tủi,

Thầm hiểu anh thôi, lặng cúi đầu.”

(Đinh Hùng – Cặp Mắt Ngày Xưa)

Cuối cùng thì, cứ gần nhau đi dù không nói. Nói làm gì, khi anh đã “thầm hiểu” nên hãy cứ “lặng cúi đầu” mà suy-nghĩ về dụ ngôn Chúa Kể, để coi đó như bí kíp sống ở đời. Bí kíp, dựa nhiều trên chọn lựa của mỗi người, tùy tình thân thương đối xử với nhau mà thôi.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch.

CUỘC ĐỜI PHÙ DU

CUỘC ĐỜI PHÙ DU

Tuyết Mai

Ai sống có ơn Chúa dù một chút ít đều hiểu được điều này. Để sống được trong ơn nghĩa Chúa, giữ lòng trung thành, mà nếu có ai lại được giống một phần tốt lành của thánh Phanxicô khó nghèo thì thật người ấy đã tìm thấy hạnh phúc đích thực ở nơi trần gian này rồi!. Vì ngài thánh Phanxicô đã được Thiên Chúa mạc khải cho hiểu biết thế nào là hạnh phúc được sống bên Chúa nên ngài đã nghe Lời Chúa Giêsu mà về bán hết của cải đem cho người nghèo rồi quyết định bỏ cha mẹ để được đi theo Chúa; để được Nước Trời như Chúa Giêsu đã hứa với tất cả môn đệ xưa của Ngài. Cũng bởi do ý muốn được sống trong tinh thần khó nghèo mà trong chúng ta có rất nhiều người yêu vị thánh Phanxicô khó nghèo này lắm lắm!.

Thật sự thì sự giầu có nó không có tội nhưng chính con người là nguyên do làm cho nó nên tội từ cách sống vô tâm, vô cảm của người giầu có trong cách đối xử của họ với anh chị em khổ nghèo chung quanh … Như câu chuyện “Anh nhà giầu và anh nhà nghèo ghẻ chốc Lazarô” mà anh nhà giầu bị Thiên Chúa giáng phạt linh hồn anh ta phải xuống Hỏa Ngục muôn đời chỉ vì cái tội anh đã làm ngơ trước những người cùng khổ. Chưa kể một lô tội mà vì người giầu có lòng tham vô đáy đã gây ra. Vì họ đã giầu có mà lại còn muốn vơ vét thêm của người nghèo để tha cho đầy vào kho lẫm của mình.

Muốn có quyền hành để lên làm vua một cõi thiên hạ bằng cách giết hại người hiền lành vô tội. Đi đến đâu cũng muốn người người dở nón cúi đầu chào, run rẩy sợ sệt khi phải đứng trước mặt ông chủ bất nhân, v.v… Thì sự giầu có đó có bảo đảm gì cho ai để được vào Nước Trời hay không? Hay được cả và Thế Gian mà mất linh hồn đời đời thì có ích gì?.

Chúng con cảm tạ Thiên Chúa vì Người là Đấng nhân lành và luôn yêu thương con người, đã tuyển chọn cho chúng con có được một Đức Giáo Hoàng Phanxicô rất thánh thiện, rất khiêm nhường và rất yêu thương đàn chiên tội lỗi đang sống ở khắp cùng mọi nơi. Và có được 10 nhà tỷ phú có tấm lòng vàng đã làm gương sống tốt lành, đã cố gắng giúp bao nhiêu người nghèo khổ trên toàn thế giới.

Để chúng con học bắt chước và noi theo nhất là ở vào thời đại mà chúng quỷ hoành hành ở khắp mọi ngả mọi nơi. Ở thời điểm mà con người càng ngày càng lâm vào cảnh khó khăn hơn, có nhiều nghịch cảnh rất đáng thương hơn vì họ quá nghèo khổ. Có những chứng dịch bệnh lạ mới giết chết nhiều người vì không có thuốc chữa; nhiều người chết vì thiên tai. Tan nhà nát cửa, xác chết đầu lìa khỏi thân mình vì chiến tranh tôn giáo không một ngày ngừng nghỉ, cùng những nước Cộng Sản chúng càng ngày càng kềm kẹp người dân không có được chút tự do, thiếu miếng ăn và thiếu sự giáo dục có chuẩn mực.

Xin thánh thần Thiên Chúa ban cho chúng con thêm lòng dũng cảm để sống cả cuộc đời trung thành với Chúa. Ban cho chúng con có khả năng để đóng góp một bàn tay xoa dịu những nỗi khổ của muôn người đang sống rất thiếu tình thương ở chung quanh chúng con.

Xin Thiên Chúa đừng để chúng con trở thành người giầu có vô cảm!. Đừng để chúng con ngu khờ như 5 cô thiếu nữ sống dửng dưng, vô tình và thiếu sự chuẩn bị để Đón Rước Chàng Rể khi đèn dầu họ để cho cạn queo và đừng để chúng con đem đi chôn một nén bạc Chúa cho mà không dùng nó để sinh hoa lợi trong khả năng rất có giới hạn. Và đừng để cho chúng con sống luôn so sánh với người có nhiều nén bạc hơn mình vì phải hiểu rằng Chúa trao cho ai nhiều thì Chúa sẽ đòi lại ở người đó nhiều.

Quả cuộc đời con người ta có sống được đến 100 năm cũng là phù du thôi!. Giầu thì cũng chết mà nghèo thì cũng chết như nhau. Cũng hai bàn tay trắng không ai mang theo được một thứ gì. Quan trọng và cần thiết hơn cả là ai cũng ao ước sau cuộc sống ở đời này chúng ta sẽ được tới Nơi mà chúng ta muốn được Tới; Nơi mà sẽ cho chúng ta có hạnh phúc muôn đời được sống bên cạnh ba ngôi Thiên Chúa là Cha, là Con, và là Thánh Thần cùng sống bên cạnh Đức Trinh Nữ Maria Mẹ Thiên Chúa. Amen.

** Xin bấm vào hình để nghe và hát:
httpv://www.youtube.com/watch?v=h4U8bNPymUs&index=16
(Nhờ Chúa Con Đổi Đời)

Y Tá của Chúa,
Tuyết Mai
09-10-14
—————————————–
Nhờ Chúa Con Đổi Đời

Con quỳ giang tay hướng Trời
Dâng Người kinh nguyện cùng lời cảm ơn
Cảm tạ được Người ban ơn
Sớm hôm no đủ còn hơn con cầu

Cảm ơn Người ngay phút đầu
Con mở con mắt của đầu ngày sau
Chúa yêu con thật thẳm sâu
Nhưng con yêu Chúa chỉ mầu mè thôi!

Hẳn Chúa biết tội con rồi!?
Bê tha làm biếng cái Tôi vụng về
Ai làm gì con cũng chê
Cũng không tránh được cái mê hại người

Vì tội con xa lánh Người
Con sống ích kỷ lại lười dâng kinh
Cả đời con sống cho mình
Chẳng thương chẳng xớt chút tình cho ai

Lắm khi con sống phân hai
Bên nào cũng Chúa có ai than phiền?
Chúa nào mà hay cho tiền
Thì con cũng bái cũng liền thọ ơn

Chúa biết con sợ Chúa hơn!
Vì con vẫn biết Chúa luôn trông chờ
Chúa yêu con vô bến bờ
Sao con yêu Chúa ơ hờ Chúa ơi!

Có thể nào Chúa thổi hơi?
Ban con thần khí và Lời quyền năng
Để con biết sống thanh bần
Để con tin có vĩnh hằng đời sau

Để con chấp nhận khổ đau
Nhìn trên Thập Giá niềm đau khốn cùng
Vì con Chúa đem Tin Mừng
Vì con Chúa chịu đóng từng lỗ đinh

Vì con Chúa chịu cực hình
Không lời than trách dốc tình vì con
Chúa ơi! Tội con nay còn
Nhưng xin đấm ngực và con xin chừa

Từ nay con xin được thưa!
Lậy Chúa con đã chịu thua giã từ
Cuộc sống bê bối quá khứ
Hoàn toàn thay đổi ngay từ hôm nay

Xin Chúa thêm sức tháng ngày
Tình yêu tuôn đổ của Ngài trên con
Ôi tình Chúa như cao sơn!
Dạt dào như biển thái dương ngập tràn

Có Chúa con quyết đánh tan
Mưu đồ mưu kế kẻ gian rập rình
Vì Chúa con sẽ thức tỉnh
Vì Chúa con sẽ luyện mình quyết tâm

Yêu Chúa con sống âm thầm
Chỉ con và Chúa thì thầm nhau nghe
Lời Chúa văng vẳng con vè:
“Yêu người, kính Chúa, về Quê An Bình”.

Y Tá Của Chúa,
Tuyết Mai

*** Để cảm tạ, ngợi khen, và tôn vinh Thiên Chúa là Cha chung của tất cả chúng ta, tôi chân thành mời anh chị em hãy dùng những bài hát của tôi để hát, đem đến tận phương trời xa, để làm Sáng Danh Thiê

Chọc Cải Cách ra mà ngửi

Chọc Cải Cách ra mà ngửi
September 10, 2014
Ngô Nhân Dụng

Nghe tin có cuộc triển lãm về Cải Cách Ruộng Đất tại Hà Nội, tôi đã tìm đọc mấy bài tường thuật trên các báo trong nước và các mạng thông tin. Cảm tưởng chung: Đây chỉ là một trò tuyên truyền rất vụng về, mạo xưng là “lịch sử;” mà nó lại nhạt phèo, chẳng có gì mới mẻ đáng coi. Người ta trưng bày những sập gụ, tủ chè, bát đĩa dùng trong nhà địa chủ; bên cạnh cảnh sống bần hàn của những nông dân. Những người tổ chức cuộc triển lãm chắc hy vọng mọi người xem xong sẽ kết luận: Xã hội thời xưa thật lắm cảnh bất công. Nếu có bát công tức là có bóc lột, đó là cách suy nghĩ đơn giản, dễ khiến người ta tin.

Nhưng người biết suy nghĩ sẽ nhận ra điều này: Thời nay cũng nhiều cảnh bất công không khác gì 60 năm trước. Chỉ cần nhìn vào ngôi nhà của một ông Bí Thư Huỳnh Đức Hòa, tỉnh ủy Lâm Đồng, người ta cũng có thể thấy ông giàu có gấp ngàn lần các địa chủ thời 1946-1957. Trong khi đó thì bao nhiêu người lao động đang sống trong các ổ chuột ở thành phố vẫn chạy ăn từng bữa. Và cảnh sống của đồng bào nghèo tại các vùng nông thôn xa; nếu so sánh nhà cửa của họ với ngôi nhà tồi tàn của người nông dân nghèo khổ, của các bần cố nông thời cải cách ruộng đất, chắc cũng như nhau. Nếu khá hơn cũng chỉ hơn đến gấp đôi, gấp ba là cùng. Hố cách biệt giàu nghèo ngày nay tăng lên gấp trăm, gấp ngàn lần so với thời 1950! Nếu có bất công tức là có bóc lột, thì ngày nay ai bóc lột ai?

Do đó, cuộc triển lãm về Cải Cách Ruộng Đất sẽ gây tác dụng ngược. Thay vì “gây căm thù” đối với các địa chủ ngày xưa, cuộc triển lãm sẽ khiến người đi coi nghĩ tới các đại địa chủ thời nay. Một điều hiển nhiên ai cũng thấy: Sau khi Đảng Cộng Sản cướp ruộng đất từ tay các địa chủ, thì nông dân Việt Nam bây giờ có được làm chủ ruộng đất hay không? Câu trả lời là: Không! Ngày nay tất cả ruộng đất thuộc quyền của “nhà nước.” Nhà nước là tay đại địa chủ, nắm quyền cho dân “cấy rẽ,” cho ai thì người ấy được “quyền sử dụng,” chỉ là quyền sử dụng chứ không phải quyền sở hữu. Nhà nước là một bộ máy khổng lồ vô hình, nhưng đại diện của nó là các quan chức, cán bộ từ tỉnh xuống huyện, xuống xã. Họ nắm toàn quyền, ban bố quyền sử dụng cho đám dân đen. Họ có thể lấy lại quyền sử dụng của nông dân để ban phát cho các nhà tư bản đỏ, bồi thường dân một đồng thì thu lời hàng trăm đồng. Cả bộ máy nhà nước này nằm gọn trong tay Đảng Cộng Sản. Đảng là tay đại địa chủ thời nay. Đảng đưa ra khẩu hiệu “Người cầy có ruộng,” nhưng cuối cùng chỉ có đảng là có ruộng, nông dân Việt Nam vẫn đóng vay tá điền. Thay vì các địa chủ thu tô, ngày nay nông dân sống dưới chế độ đảng thu thuế. Báo chí trong nước vừa so sánh số thuế má, dưới nhiều hình thức, tại một tỉnh Thanh Hóa ngày nay còn nhiều hơn các món thuế nông dân phải đóng trong thời thuộc Pháp.

Một phản ứng ngược khác, là người đi xem triển lãm sẽ bất mãn thêm khi thấy đây chỉ là một trò tuyên truyền cũ kỹ, hoàn toàn không phải là lịch sử, dù được trưng bày tại Viện Bảo Tàng Lịch Sử Quốc Gia. Người biết suy nghĩ sẽ thấy, như Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Diện, tại sao một cuộc triển lãm tự xưng là lịch sử mà lại không được trung thực. Ông nói, “… những sai lầm – tội ác do chính quyền gây ra thời đó không được đưa ra, những việc phá tan chùa, đình, miếu, làng, xã…làm phá vỡ những truyền thống đạo lý – văn hóa tốt đẹp của con người Việt Nam qua ngàn năm …” cũng không được trưng bày ra.

Nhưng việc phá tan những miếu mạo, đình chùa cũng không phải là tội ác văn hóa lớn nhất của Đảng Cộng Sản. Ông Nguyễn Tường Thụy, một người làm blog riêng có tiếng ở Hà Nội đã nhắc đến tội ác khác về văn hóa, là cuộc Cải Cách Ruộng Đất “nó tàn phá luân lý đạo đức lúc bấy giờ” với những cảnh “cha tố con, con tố cha, vợ tố chồng, anh em tố nhau …” Và ông nhấn mạnh rằng, “Cải cách ruộng đất là do người Trung Quốc, các chuyên gia Trung Quốc chỉ đạo và cố vấn…” Một blogger khác, J.B Nguyễn Hữu Vinh đã đi xem triển lãm, kể lại, “Đi bên cạnh, cô thuyết minh viên áo đỏ (nói) liên tục: ‘Cải cách ruộng đất xóa bỏ chế độ người bóc lột người, là cách mạng về quan hệ sản xuất và nông dân đổi đời…’ Tôi quay lại nói, ‘Quan chức Cộng Sản ngày nay thì đất đai, nhà cửa, ăn chơi còn gấp trăm lần địa chủ phong kiến trước đây. Mà tất cả là từ tiền tham nhũng của dân, còn địa chủ phong kiến ngày xưa có ăn chơi cũng là tiền của họ. Bây giờ có ông quan hàng trăm ha đất như chủ tịch Bình Dương thì bọn địa chủ sao so được nhỉ?’”

Nguyễn Hữu Vinh trông thấy một nhiếp ảnh gia đi chụp các vật trưng bày trong phòng triển lãm, khi chụp hình xong, anh ta kết luận, “Thôi, cái hay, là chúng nó đưa ra để dân biết rằng cái giai cấp địa chủ, phong kiến ngày xưa chẳng là cái đ. gì so với bọn quan Cộng Sản tham nhũng hôm nay.” Một di họa văn hóa của thời Cải Cách Ruộng Đất vẫn để lại bóng đen lảng vảng trong xã hội Việt Nam: “Cái gọi là ‘thành phần’ xuất hiện trong thời đó, cho đến nay tròn 60 năm sau vẫn ám ảnh trong từng tờ hồ sơ, lý lịch của các em nhỏ đến trường, dù chúng chẳng hiểu “thành phần” nghĩa là cái gì và từ đâu ra.”

Cuối cùng, chỉ vì Đảng Cộng Sản tổ chức cuộc triển lãm tuyên truyền vô duyên này, những người như các ông J.B Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Tường Thụy, Nguyễn Xuân Diện có cơ hội bày tỏ những suy nghĩ thật của người dân Việt thời nay. Rõ là chỉ làm cho rách việc thêm!

Tại sao Đảng Cộng Sản lại bày ra một trò tuyên truyền gây phản ứng ngược nhiều như vậy? Có thể chỉ vì các cán bộ trong Viện Bảo Tàng Lịch Sử chẳng có việc gì làm cho qua thời giờ, cho nên họ mới bày vẽ ra cái cuộc triển lãm này. Hay là quý ông bà trong ban văn hóa tư tưởng của đảng đang lo khi chế độ sụp đổ thì mình thất nghiệp, nên cố gắng tô thêm son phấn lên mặt đảng một lần chót? Hoặc có thể đưa ra một giả thuyết táo bạo, rằng có người đã xúi giục họ tổ chức triển lãm để khiêu khích tất cả nông dân miền Bắc, những người đã đi biểu tình đòi ruộng, đòi đất trong những năm qua và bị ông đại địa chủ thời nay đàn áp dã man. Đặc biệt, họ muốn khiêu khích tất cả giới thanh niên, trí thức miền Bắc và đặc biệt là dân Hà Nội, xem có ai dám đứng ra “lật mặt nạ” của Đảng Cộng Sản hay không?

Mà việc lột mặt nạ thì không khó gì cả. Người ta không thể tổ chức một cuộc “phản triển lãm” về những tội ác của Đảng Cộng Sản trong vụ Cải Cách Ruộng Đất. Không thể trưng bày cảnh những người bị gán cho danh hiệu địa chủ bị chôn sống, thò đầu trên mặt đất để nhìn thấy lưỡi cầy kéo qua đầu mình cho tới khi chết. Cảnh này đã có thi sĩ Hữu Loan làm chứng, ông đã kể lại cho con cháu khỏi quên chuyện một địa chủ đã cấp gạo cho trung đoàn của ông trong thời kháng chiến bị hành hạ như vậy. Sau đó, tác giả Màu Tím Hoa Sim đã cưới cô con gái nhà địa chủ này, để đền ơn công cha mẹ cô nuôi dưỡng cả trung đoàn.

Không thể tổ chức triển lãm, nhưng giới thanh niên, trí thức Hà Nội có thể làm một cuộc triển lãm trên mạng. Một cuộc “phản triển lãm” đã xuất hiện trên các mạng ở Việt Nam. Blogger Lê Dũng đã chụp lại các bức ảnh trong phòng triển lãm rồi nêu ra những sai lầm, gian dối. Thí dụ, mấy ông già 60 nhận xét thời 1950 “Đũa nhựa và thìa phíp trắng chưa có!” Hoặc nhìn cái áo của “địa chủ” được trưng bày, có người thấy, “Áo trưng bày này là hàng fake [giả] 100 %. Vì “May bằng máy công nghiệp, viền cứng và thô, thời đó không có máy khâu đó. Đặc biệt áo dài thời đó hoàn toàn khâu tay, mũi khéo và mềm mại.” Đến một bức ảnh, “Bần cố nông làm gì có nồi đồng, có chiếu trải ra hè ăn cơm vậy?” một độc giả của Blog Lê Dũng góp ý “thời đó đã làm gì có modern áo đuôi tôm hả mấy ông giời con?” Một độc giả giấu tên khác nói thẳng: “Nói dối mà không biết ngượng sao, hỡi những kẻ lấy tay che mặt trời? Nạn nhân Cải Cách Ruộng Đất vẫn còn đầy rẫy, hoặc con cháu họ sẽ lên tiếng. Hay đợi đấy!” Một độc giả ký tên Mượt viết, “Chết thật, dối lừa mãi thế sao?”

Lê Dũng kết luận, “Tóm lại tay nào sắp đặt cái ảnh này là dân vớ vẩn, không có tí kiến thức gì về lịch sử, am hiểu về đồ vật.” Và anh viết thêm, “Dù sao thì tôi vẫn nói với mọi người cùng xem rằng: việc có cái triển lãm này cũng hay, bọn trẻ sẽ tìm nốt nửa còn lại qua gúc gồ, thế thôi vì một nửa sự thật không phải là sự thật.”

Nửa thứ hai của sự thật đã được trình bày từ lâu. Bao nhiêu tác giả đã viết về cuộc Cải Cách Ruộng Đất. Những tác phẩm mô tả tai họa Cải Cách sớm nhất là “Những thiên đường mù” của Dương Thu Hương, “Ác mộng” của Ngô Ngọc Bội. Tiếp theo có “Đêm giữa ban ngày” của Vũ Thư Hiên, tiểu thuyết “Ba người khác” của Tô Hoài. Đặc biệt, cuốn “Đèn cù” của Trần Đĩnh gần đây nhất đã cho thấy vai trò của Hồ Chí Minh trong vụ giết bà Nguyễn Thị Năm, chính ông Hồ đã viết bài đăng báo buộc tội bà. Có thể đăng lại những đoạn văn của các tác giả trên, để “triển lãm cho mọi người được thấy sự thật về tội ác của Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Nhưng trên các mạng đã xuất hiện những câu chuyện thực đau lòng hơn cả những cảnh trong tiểu thuyết. Một độc giả ký tên Lê Tri Điền kể trong Blog Lê Dũng những chuyện xảy ra thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất tại xã Định Công, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa; chúng tôi trích vài chuyện: “Có một bà tên Chấn, không hiểu bùa phép nào của đội cải cách mà lên trước ‘ tòa án nhân dân’ nắm râu bố đẻ mà vặt rồi rít lên: Thằng Thể (tên bố bà Chấn)…mày là….mày là…” (bà Chấn sau này ân hận vì tội lỗi với người cha thân yêu của mình nên trở thành người trầm cảm, bà chết vào khoảng năm 1989 trong đói nghèo cô độc). Một chị con gái kể: Tôi thương cha tôi lắm, hắn bắt cha tôi, thúc vô rọ lợn rồi chúc ngược cha tôi đầu cắm xuống đất, tôi lén đem cơm cho cha thấy mặt cha đỏ tím tụ máu sưng tròn như chấy bưởi, cha tôi nói con đi đi! Không du kích biết thì khổ, cha không ăn được cấy chi mô, tôi còn nhỏ quá, chả biết cha có tội chi, thương cha quá mà không dám khóc…” Cuộc phản triển lãm vẫn còn tiếp tục. Dân Hà Nội không để cho người ta khinh thường, bày trò tuyên truyền rẻ tiền trước mắt mình mãi như vậy.

Một người bạn tôi mới trò chuyện với một bà chị lớn tuổi ở Hà Nội qua điện thoại, nhân tiện hỏi, “Chị đi xem cuộc triển lãm về Cải Cách Ruộng Đất tại Bảo Tàng Lịch Sử chưa?” Bà chị trả lời, “Xem làm cái gì? Chúng nó hết khôn dồn ra dại hay sao mà lại đi chọc “c…” ra mà ngửi với nhau như thế hở!”

Đúng là hết khôn dồn ra dại cho nên mới đi chọc Cải Cách ra mà ngửi. Khi một chế độ lâm vào bước đường cùng thì nó mới sinh ra những trò dồ dại, ngớ ngẩn, lung tung beng như vậy.

Triển lãm Cải cách ruộng đất: Làm sao bây giờ?

Triển lãm Cải cách ruộng đất: Làm sao bây giờ?

Nguyễn Tường Thụy/ Blog RFA

Chẳng hiểu ai xui khiến thế nào mà Bảo tàng lịch sử quốc gia tự nhiên đi tổ chức phòng trưng bày về cuộc Cải cách ruộng đất “long trời lở đất” cách đây sáu chục năm, mở cửa vào ngày 8/9/2014.

Phàm những gì họ làm đều có mục đích cả, chứ không phải bày ra để chơi.

Vâng, mục đích là đây: theo Ông Nguyễn Văn Cường, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia thì “Bảo tàng muốn hướng tới là những thành tựu của cuộc cải cách ruộng đất đã mang lại cho nhà nước mới được thành lập, cho người dân Việt Nam nghèo khổ đang từ phận nô lệ mất nước được hưởng thành quả cách mạng đó”.

Tuy nhiên, mới qua mấy ngày đầu, mục đích của Bảo tàng có vẻ như không đạt được. Dấu ấn kinh hoàng của Cải cách ruộng đất ở miền Bắc đã ghi quá sâu vào ký ức những người dân Việt Nam. Hẳn là không nhiều người tìm đến phòng trưng bày để xem nông dân Việt Nam được hưởng thành quả của Cải cách ra sao. Có vẻ như người ta không hào hứng về việc này khi chuyện chia ruộng thì ai cũng biết và ai cũng biết sau đó, ruộng đất lại được gom vào HTX. Khi mô hình HTX thất bại, ruộng đất được chia lại để rồi lại tập trung vào quan chức nhà nước và những người giàu có. Người ta đến triển lãm còn vì tò mò, muốn biết xem thái độ của nhà cầm quyền đối với CCRĐ ra sao, họ nhìn nhận thế nào hay hướng người xem nhìn nhận thế nào?

Người xem nhận ra ngay ý đồ của Ban tổ chức (BTC) khi nhìn vào cách sắp xếp hiện vật và số lượng hiện vật cho mỗi khời kỳ. Theo Thanh niên online, trong tổng số 133 hiện vật thì dành cho phần đời sống của nông dân trước cải cách là 45 hiện vật, tức là chiếm 1/3. Điều này cho thấy, bảo tàng muốn nhấn mạnh sự so sánh cuộc sống của nông dân với địa chủ.

Phần đấu tố địa chủ có lẽ là phần khách quan tâm nhất thì Ban tổ chức giấu nhẹm. Được hỏi về cách sắp xếp có chủ ý, ông Cường trả lời đại rằng “Không nhất thiết phải phơi bày toàn bộ những sai lầm của lịch sử” làm cho nhiều phóng viên tỏ ý không hài lòng. Ông đã làm đúng đường lối tuyên truyền của Đảng, nhưng xem ra, lần tuyên truyền này lợi bất cập hại.

Có một điều thú vị là, phần giấu giếm của ban tổ chức đã được báo Vnexpress tìm cách bù đắp bằng bài “Khoảng lặng bên trong triển lãm Cải cách ruộng đất“với việc phỏng vấn khách thăm là những nhân chứng, kể về giai đoạn đau thương ấy và họ “chưa thỏa mãn với những thông tin, hình ảnh, ánh sáng và cách trưng bày. Rất tiếc khi có cơ hội lại không được cung cấp thêm những hiểu biết chân thực về lịch sử, một giai đoạn đau buồn của dân tộc”.

Bài báo cũng dẫn lời nhà sử học Dương Trung Quốc “Với những vấn đề này, chúng ta không nên né tránh để ít nhất nhân dân không nghi ngờ về quá khứ”,

Trên mạng internet, tràn ngập những bài viết kể về một thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử dân tộc, khơi dậy những đau thương mà người ta kìm nén sáu chục năm nay, nay có dịp bùng lên. Phần đấu tố địa chủ – nội dung mà ban tổ chức cố tình ém nhẹm, với lý do như ông Cường đã nói là không cần thiết lại là đề tài bàn luận sôi nổi nhất. Hàng chục bài viết về chủ đề này được đưa lên mạng mỗi ngày. Riêng phần điểm tin sáng trên trang Ba Sàm hôm nay (12/9) đã có tới 34 bài nói về CCRĐ. Blog Tễu còn kỳ công tập hợp đường dẫn tất cả những bài viết về CCRĐ để hầu bạn đọc Những người có cha mẹ ông bà bị đấu tố, bị bắn trong CCRĐ, nỗi uất ức kìm nén bấy lâu nay được dịp bùng lên. Họ kể về nỗi đau mất mát của gia đình, dòng họ, hệ lụy sau đó và không ngần ngại bày tỏ luôn cả lòng căm thù.

Đấu tố, xử tử địa chủ ở Miền Bắc

Có người phát hiện ra có những hình ảnh trưng bày được diễn hoặc đóng lại. Nhiều người tinh quái, tìm ngay ra những hình ảnh tương phản để vô hiệu việc tuyên truyền trong phòng trưng bày. Họ đặt bữa cơm của nông dân hồi ấy cạnh bữa ăn của nông dân hiện nay để cho thấy sáu chục năm qua, đời sống của nông dân hóa ra là… thụt lùi. Trưng bày về ngôi nhà lụp xụp của nông dân so với nhà địa chủ thì họ đưa ra hình ảnh nhà nông dân VN bây giờ cũng lụp xụp không kém và nhà quan chức thì nguy nga tráng lệ gấp nghìn lần nhà địa chủ ngày xưa. Những cảnh đấu tố, bắn giết được đưa lên cùng con số hàng trăm nghìn người bị tố oan, hàng vạn người bị giết để minh chứng cho sự “thành công” của CCRĐ. Nói về thành quả chia ruộng đất cho bần cố nông, thì bị phỏng vấn những câu hóc hiểm, như “ông nghĩ gì về việc ruộng đất hiện nay lại tập trung vào tay quan chức nhà nước và đảng cộng sản”, khiến cho người được phỏng vấn chỉ còn cách lảng.

Bữa ăn của nông dân sau cải cách và hiện nay

Tai hại hơn, nhiều người còn đem cải cách điền địa ở Miền Nam ra so sánh để cho rằng, cải cách điền địa ở miền Nam vẫn là mục tiêu người cày có ruộng nhưng không có cảnh tước đoạt, bắn giết. Nhà nước mua ruộng của địa chủ chia cho nông dân. “Nhiều quan sát viên quốc tế đã cho chương trình “Người Cày Có Ruộng” là một trong những chương trình cải cách điền địa thành công nhất ở các nước hậu tiến. Nó là điểm vàng son của nền Đệ nhị Cộng hòa”. Chương trình này đã tạo ra một tầng lớp tiểu nông đông đảo, thúc đẩy kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp phát triển. Nông dân hăng hái sản xuất và năng suất lao động trong sản xuất lúa gạo tăng lên nhanh chóng. Đời sống của nông dân được cải thiện”

Trái phiếu thu mua đất của địa chủ để cấp cho nông dân trong cải cách điền địa ở miền Nam

Cũng là mục tiêu người cầy có ruộng nhưng công hay tội thành công hay thất bại là ở cách làm. Tại sao nông dân vẫn có ruộng nhưng ở Miền Bắc phải cướp đoạt, phải bắn giết, gieo rắc hận thù, làm đảo lộn gia phong còn ở Miền Nam thì không?

Bất ngờ, ngày 12/9, gần trăm dân oan Dương Nội trong đồng phục dân oan kéo nhau đến đòi xem triển lãm. BTC đối phó bằng cách bắt cởi áo dân oan rồi mới được vào. Ai dè họ cũng cởi phắt ra luôn nhưng cũng không vào được vì BTC thông báo tạm thời đóng cửa do sự cố …ánh sáng.

Được biết, phòng trưng bày sẽ mở cửa đến 31/12/2014, nghĩa là tới 4 tháng lận. Thế nhưng mới mở cửa được mấy ngày đã xảy ra sự cố ánh sáng. Không biết thực hư thế nào nhưng nhiều ý kiến cho rằng chẳng qua BTC tìm cách đối phó mà thôi.


Mới chỉ có mấy hôm mà những thông tin về hiệu ứng của triển lãm xem ra theo xu hướng bất lợi so với mục đích ban đầu. Còn những ba tháng rưỡi nữa, không biết rồi sẽ xảy ra những chuyện gì? Kéo dài đến hết năm có vẻ thật là khó. Còn đóng cửa ư? Giải thích với công luận thế nào đây? Lý do về sự cố ánh sáng, điện đóm không thể đưa ra mãi. Dân oan Dương Nội còn “dọa” sẽ tìm cách vào phòng triển lãm cho bằng được.

Hình như khi triển khai dự án này, Ban tổ chức không lường trước được hệ quả. Hướng tới cho người dân về thành quả của CCRĐ đâu không biết, chỉ thấy những phản ứng bất bình.

Rất khó hiểu về cuộc triển lãm này. Thực sự người ta không hiểu nổi họ tính toán ra sao để cho mục đích đạt được. Trao đổi với tôi về việc này, tiến sĩ Nguyễn Văn Khải cho rằng, có gì đâu, nó bày ra để lấy tiền dự án thôi mà. Nhưng cũng có người nói tay nào thầy dùi tổ chức triển lãm này nếu không ngu thì cũng là thằng đểu.

12/9/2014

Phát triển kinh tế tư nhân: khẩu hiệu suông

Phát triển kinh tế tư nhân: khẩu hiệu suông

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-09-13

namnguyen09132014.mp3

000_Hkg10094608.jpg

Một cửa hàng bán sỉ bia và nước giải khát tại Hà Nội hôm 8/9/2014.

AFP PHOTO/HOANG DINH Nam

Những đứa con bị hắt hủi?

Nhà nước Việt Nam vẫn chưa nhận thức đúng vai trò quan trọng của kinh tế tư nhân, do vậy mọi nguồn lực vẫn ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp tư nhân được ví von là phải chịu số phận của những đứa con bị hắt hủi.

Những số liệu về tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam khá mù mờ. Theo Bộ Kế hoạch đầu tư tính đến cuối năm 2013, khoảng 650.000 doanh nghiệp có đăng ký thành lập trên cả nước. Tuy vậy có thể chỉ còn khoảng 360.000 doanh nghiệp hoặc ít hơn đang thực sự còn hoạt động.  Theo Tổng Thư ký Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Phạm Thị Thu Hằng phát biểu tại cuộc Hội thảo ngày 9/9/2014 tại Hà Nội, doanh nghiệp tư nhân chiếm hơn 97% tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam tính đến năm 2012. Nhưng toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân chỉ chiếm 42% tổng nguồn vốn. Tuy bà Hằng không nói ra, nhưng có thể hiểu rằng doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI chỉ chiếm khoảng 2%-3% tổng lượng doanh nghiệp nhưng lại sử dụng phần vốn lớn hơn của nền kinh tế. Thật không ngạc nhiên khi tường thuật cuộc Hội thảo, SaigonTimes Online đã ví von “Khu vực kinh tế tư nhân vẫn chỉ là đứa con bị hắt hủi, cho dù Nhà nước đã có một số chính sách hỗ trợ.”

Sự phân bổ nguồn lực của Việt Nam rất kém hiệu quả và không hợp lý. Khối kinh tế Nhà nước thì thu hút tới 65% tổng tín dụng, nhưng chỉ sản xuất ra được 28% tổng sản phẩm xã hội.
-TS Lê Đăng Doanh

TS Lê Đăng Doanh chuyên gia kinh tế độc lập ở Hà Nội từng có nhận định:

“Một trong những chức năng cơ bản của Nhà nước là phân bố nguồn lực một cách hợp lý, để bảo đảm sự phát triển xã hội và tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng nhìn lại thì thấy sự phân bổ nguồn lực của Việt Nam rất kém hiệu quả và không hợp lý. Khối kinh tế Nhà nước thì thu hút tới 65% tổng tín dụng, nhưng chỉ sản xuất ra được 28% tổng sản phẩm xã hội.”

Trong tư liệu của chúng tôi, TS Lê Đăng Doanh cho rằng, số liệu của Tổng Cục Thống Kê ghi nhận khối kinh tế nhà nước đóng góp tới 34% tổng sản phẩm xã hội là đã gộp luôn cả đóng góp của quốc phòng, của bộ máy hành chính, của thể dục thể thao…

Được biết các số liệu thống kê của cơ quan nhà nước Việt Nam công bố thường có sai biệt lớn với các nguồn độc lập.

Về vấn đề doanh nghiệp tư nhân gặp quá nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, phải đóng của hàng loạt trong khi nhà nước vẫn chú trọng ưu tiên khu vực doanh nghiệp nhà nước, hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành từ Hà Nội nhận định:

“Hiện trạng bây giờ những doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ không có hiệu quả kinh tế. Chỉ số ICOR tỷ lệ đầu tư đưa ra sản xuất rất là tệ, nhưng mà chúng ta vẫn nói đó là chủ đạo thì làm sao được. Vì vậy tư duy của lãnh đạo nhà nước là phải xem lại quan niệm của mình, trách nhiệm của mình đối với nền kinh tế là gì. Trong khi đó phần dân doanh tuy gồm doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng lại thể hiện hơn 50% tổng sản phẩm quốc nội. Bằng chứng là doanh nghiệp dân doanh đã tạo ra bao nhiêu công việc làm mà nhà nước không làm được…”

000_Hkg9758500-400.jpg

Một chi nhánh Ngân hàng Quân đội (MB Bank) ở Hà Nội hôm 25/4/2014. AFP PHOTO / HOANG DINH Nam.

Ông Bùi Kiến Thành cho rằng khu vực kinh tế tư nhân tự bơi một mình, sự tiếp cận tín dụng ngân hàng là cực kỳ khó khăn. Ông nói:

“Chúng tôi cho là không có chính sách ủng hộ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp dân doanh phát triển. Thậm chí có những chuyện hết sức đơn giản, chính sách tiền tệ để tạo nguồn tín dụng cần thiết cho cả nền kinh tế hoạt động chúng ta cũng chưa nắm được…chưa nắm được thể chế cơ bản của chính sách tiền tệ là cái gì… Ngân hàng Nhà nước hiện đương làm gì, có phải là một Ngân hàng Trung ương hay không… Nhà nước có phận sự cung cấp tín dụng đầy đủ cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững, dân doanh cũng như quốc doanh không thể nào mà để cho ruộng khô lúa cháy được, cũng không thể nào khi ruộng đang khô như thế mà anh tưới nước nóng vào cho nó chết thêm với lại những loại lãi suất trời ơi đất hỡi… ”

Đối xử không bình đẳng

Trở lại cuộc hội thảo do Bộ Kế hoạch Đầu tư tổ chức tại Hà Nội ngày 9/9/2014, Tổng Thư ký Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Phạm Thị Thu Hằng được SaigonTimes Online trích lời đã nhìn nhận: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ dân doanh chưa thực sự được đối xử bình đẳng với khối doanh nghiệp nhà nước và đầu tư nước ngoài… nhiều doanh nghiệp tư nhân không có cơ hội phát triển khi gần đây đã xuất hiện chủ nghĩa thân hữu. Hơn nữa thủ tục hành chính phiền hà vẫn cản trở đối với khu vực kinh tế này…”

Tổng Thư ký Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam không giải thích cũng không đưa ra các ví dụ về chủ nghĩa thân hữu cản trở sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân.

Chủ nghĩa thân hữu là bạn bè thân quen thì anh được sự ưu đãi, anh không bạn bè thì tôi quên anh đi. Bạn bè là cái gì, bạn bè là anh có phong bao phong bì cho tôi hay không.
-Bùi Kiến Thành

Có thể hiểu sự tác động của chủ nghĩa thân hữu như thế nào? Chuyên gia Bùi Kiến Thành phân tích:

“Chủ nghĩa thân hữu là bạn bè thân quen thì anh được sự ưu đãi, anh không bạn bè thì tôi quên anh đi. Bạn bè là cái gì, bạn bè là anh có phong bao phong bì cho tôi hay không, chứ không phải bạn bè ngồi đó nói chuyện chơi với nhau được. Nói chung dùng cái từ ngữ để nói chế độ này nó đương ở trong tình trạng tham nhũng nghiêm trọng. Từ thành thị tới thôn quê từ cấp cao nhất tới cấp thấp nhất của vấn đề quản lý nhà nước. Việc này Nghị quyết Trung ương 4 đã nói rõ từ hai năm nay rồi, vấn đề này nó ảnh hưởng sự sống còn tồn vong của Đảng và của chế độ này. Nghị quyết Trung ương của Bộ Chính trị nói rõ như thế mà chúng ta không làm gì cả, đấy là trách nhiệm của người quản lý nhà nước và quản lý chính trị của đất nước Việt Nam này.”

Theo Ngân hàng Thế giới, khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam chưa được phát triển theo mức cần phải có và hoạt động với nhiều rào cản. Dù vậy hiện nay doanh nghiệp tư nhân sử dụng vốn có hiệu quả hơn hẳn doanh nghiệp nhà nước. Thí dụ mỗi một đơn vị vốn bổ sung thì khu vực doanh nghiệp tư nhân tạo ra doanh thu bổ sung nhiều gấp ba lần so với doanh nghiệp nhà nước.

Ngân hàng Thế giới từng kêu gọi Việt Nam xóa bỏ độc quyền tạo sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. Nếu được như vậy thì khu vực tư nhân sẽ phát triển mạnh và tạo ra nhiều công việc làm hơn nữa góp phần phát triển đất nước.

Dù Hiến pháp 2013 của Việt Nam tiếp tục nhìn nhận sự chủ đạo của kinh tế nhà nước. Nhưng việc Việt Nam hội nhập sâu với thế giới, tham gia nhiều Hiệp định thương mại tự do, lại chính là động lực buộc nhà nước cải cách sâu rộng hơn về pháp luật kinh doanh và đầu tư và chịu nhiều áp lực hơn về xóa bỏ độc quyền, đặc quyền, đặc lợi của tổng công ty doanh nghiệp nhà nước.

CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT

CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT

Trích Ephata 625

Image result for cai cach ruong dat

Mấy hôm nay trên các trang báo, các đài truyền hình, các websites, các blog và facebook nổ tung một lượng thông tin rất lớn về cuộc triển lãm Cải Cách Ruộng Đất ( 1946 – 1955 ) tại Hà Nội, cơn bão thông tin như xới lên vết đau mà lâu lắm rồi, 60 năm tưởng chìm vào quên lãng, chí ít là cũng tạm ngủ yên vì không mấy ai nhắc đến nữa. Bao nhiêu cảm xúc được phơi bày cho thấy, quả thật là một cuộc “cách mạng long trời lở đất” trong quá khứ còn hằn dấu cho đến hôm nay. Phản ứng mạnh và sâu rộng như thế này không biết đến bao giờ biến cố tang tóc này mới lắng xuống và trôi vào dĩ vãng ?

Cuộc cải cách ruộng đất những năm ấy ghi một dấu ấn sâu đậm vào cuộc sống gia đình tôi, cách riêng cha tôi, mà cho đến giờ chết ông vẫn còn chưa nguôi ngoai nỗi đau buồn. Không riêng gì nhà tôi, hầu hết các gia đình ở miền Bắc đa phần đều hứng chịu, người cách này kẻ cách khác, kẻ cả những gia đình đã vào Nam trước nhưng vẫn có liên hệ với họ hàng thân thuộc ở lại miền Bắc.

Năm 1945, khi Việt Minh nổi dậy cướp chính quyền, cha tôi, đang còn là một thanh niên, vội vàng bỏ lại người vợ trẻ và hai đứa con ở miền quê nghèo nàn của mình, trốn lên thành thị để tránh bị ruồng bắt. Cha tôi chẳng làm gì để phải mắc “nợ máu” với nhân dân, nhưng ông bị tìm bắt chỉ vì đã là chánh hội Nam Thanh ( hội Thanh Niên Công Giáo trong Giáo Xứ thời bấy giờ ), bị xem là lực lượng đối kháng với họ. Mẹ tôi kể “Bố vừa thoát ra khỏi nhà ban chiều, lúc sập tối, thì nửa đêm họ ập vào nhà lục soát tra khảo mẹ”.

Sau cái đêm kinh hoàng ấy, mẹ tôi đã tìm cách đưa đứa con trai đầu lòng trốn lên thành Nam theo bố, ông nội tôi thì giữ bằng được đứa con trai thứ hai ở lại quê để “hương khói tổ tiên”. Mẹ tôi sẽ tìm cách trở về làng “đánh tháo” đứa con này của mình, cha tôi sẽ đạo diễn “chiến dịch” ly kỳ ấy, vì không chịu được cảnh “cứ xới cơm lên là mẹ lại khóc vì mất con”.

Cuộc “bắt cóc” đứa con trai được thực hiện đúng ngày lễ Đức Mẹ lên Trời, bổn mạng của Giáo Họ, mọi người vui vẻ tham gia cuộc rước kiệu, ông nội tôi mải mê đọc kinh đi theo kiệu, anh tôi thoát ra sau mật lệnh của thím út, hai mẹ con gặp nhau ở bãi tha ma rồi cắm đầu chạy. Cuộc đào thoát diễn ra ban đêm, hai mẹ con băng qua các cánh đồng chứ không dám chạy trên mặt lộ sợ bị bắt lại. Khi đến được nơi an toàn là bến đò, hai mẹ con xuống núp ở một canô chở chiếu đi buôn. Lúc này mẹ tôi mới phát hiện ra túi bánh kẹo cha tôi mua, dặn trao cho thím út mang về làm quà cho mọi người, vẫn còn đeo nguyên bên người… Sau này, năm 1975, các anh tôi phải đi tù cải tạo xa, nhiều tháng ngày không tin tức, một lần nữa mẹ tôi lại nhiều phen băng rừng tìm con, bà lồng lộn lên như con thú bị mất con, quyết tâm dành lại cho bằng được.

Di cư vào miền Nam rồi, ngày được tin ông nội tôi mất, cả nhà bao trùm một bầu khí thê lương. Bố tôi ngồi rầu rĩ không nói gì, mấy ngày trôi qua trong im lặng đáng sợ, chỉ có tiếng thở dài của bố và của mẹ, thỉnh thoảng các chú tôi đến nhà, mấy anh em lại ngồi vò đầu thở dài với nhau. Mấy ngày sau bố tôi tổ chức phát tang rồi đi dâng lễ ở Nhà Thờ, tối tối đọc kinh trong nỗi buồn hiu hắt. Sau này nhờ Ủy Hội Quốc Tế, các danh thiếp liên lạc Bắc – Nam cho chúng tôi biết rõ hơn về cái chết của ông. Sau 30 tháng 4, chính cô tôi vào Nam kể lại nhiều chi tiết đau xót hơn nữa.

Image result for cai cach ruong dat

Ông tôi, một nông dân nghèo, sở hửu 2 công ruộng, bị xếp loại địa chủ lôi ra đầu tố. Cả cuộc đời chân lấm tay bùn, cày cấy trên chính mảnh ruộng của mình còn không đủ ăn lấy ruộng đâu ra mà cho tá điền làm thuê ? Tính tình ông nhân hậu, cho người hàng xóm mượn vài yến thóc, thế cũng đủ là nguyên nhân để bị kết tội địa chủ. Người ta vin vào việc ông có thóc cho vay, chính người hàng xóm từng được vay thóc đã quay ngược lại vu cáo ông tôi, rồi mấy người trong xóm theo phong trào, nhảy dựng lên mà kể tội, bảo “lắm của nhiều bạc nên mới phè phỡn sáng chiều chỉ mỗi một việc đến nhà thờ đọc kinh” !?!

Tòa Án Nhân Dân quyết định xử tử hình ông tôi. Đêm trước ngày thi hành án, cô tôi nắm một nắm cơm bò vào sân đình nơi nhốt ông tôi để ông ăn đỡ đói, khi bò vào đến nơi trói ông tôi, sờ vào người thì ông tôi đã mất rồi, người cứng đờ không còn biết gì nữa, cô tôi sợ quá không dám phản ứng gì, lẳng lặng bò ra. Hôm sau họ đem xác ông ra vùi ngoài bãi tha ma, đến con ruột cũng không dám thắp nén hương cho bố, mãi sau này mới đem cải táng về chung trong lăng mộ của gia tộc.

Cũng sau năm 75, người hàng xóm từng cầm đầu đám đông đứng lên đấu tố ông tôi tìm vào Nam, ông ta tìm đến thăm gia đình tôi và ngỏ lời xin lỗi, cha tôi lẳng lặng không một lời trách cứ. Sau bữa cơm mời khách, cha tôi bảo mẹ tôi cho họ ít tiền xe.

Khách về rồi, cha mẹ tôi bùng nổ xung đột, khi có khách bà nhịn không nói, khách đi rồi, bà bảo sao lại có thể dọn cơm đãi đằng kẻ đã vô ơn bất nghĩa, đã góp phần làm hại cha của mình cơ chứ. Cha tôi vẫn không một lời, gương mặt ông hằn lên nỗi đau khổ. Sau này khi ông đau nặng, những ngày tôi kề cận bên ông, nghe ông tâm sự, tôi mới hiểu ông bị dằn vặt về tội bất hiếu, đã vắng mặt trong những ngày khốn khổ của cha mình.

Không ai có thể đo được sự tàn phá của một chính sách tàn ác và sai lầm, nỗi đau len lỏi vào tận từng tâm hồn con người nạn nhân, di chứng đến nhiều thế hệ. Cái cách thi hành chính sách “cải cách ruộng đất” làm sụp đổ cả một hệ thống đạo đức xã hội, phá tan tình làng nghĩa xóm, gia đình anh em họ hàng ruột thị, nó cắt nghĩa tại sao tội ác về sau này sẽ hoành hành hung tợn, con người sẽ chém giết nhau không gớm tay.

Người tin vào Chúa đứng trước thách đố vô cùng to lớn, nếu thật sự vững tin vào Chúa, phải chứng minh được rằng Tin Mừng có sức hàn gắn, chữa lành và thay đổi mọi sự. Mỗi người tùy theo lương tâm mách bảo mà dấn thân cho sự sống của dân tộc mình, dấn thân để không chỉ mang lại sự sống, nhưng còn là Sự Sống dồi dào bất diệt ( x. Ga 10, 10 ).

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 13.9.2014