Văn hóa giáo dục Việt Cộng dạy con người tàn ác, mất nhân tính

Văn hóa giáo dục Việt Cộng dạy con người tàn ác, mất nhân tính

Giáo Già (Danlambao)Văn hóa giáo dục Việt Cộng sau thời gian quá dài của 40 năm lộng hành nhồi sọ, “dạy con người tàn ác, mất nhơn tính”, đang bị một học sinh 14 tuổi cho là “cải lùi”, để tuổi trẻ và thế hệ thứ 3 dũng cảm bước lên làm lịch sử “cải tiến”…, để tới lúc, dù có thể là rất lâu, một tỷ lệ cao hơn học sinh Việt Nam có thể công khai, lớn tiếng chỉ trích Bộ Giáo dục và bất kỳ cơ quan nhà nước nào làm ăn tồi tệ…, để cái chính quyền gian ác, bất tài, thất đức… hiện nay bị đẩy lùi vào chỗ dơ bẩn nhứt của lịch sử.

*

Trong bài viết “Tại Sao Họ Lại Hung Ác Đến Vậy”, Giáo sư Nguyễn Hưng Quốc [xem hình], trên blog của đài VOA, ngày 25/8/2015, cho biết (xin trích nguyên văn):

Tối ngày 8 tháng 8 vừa qua, trong một quán karaoke ở Hải Phòng, nghĩ là anh Nguyễn Tuấn Định nhìn “đểu” mình, một số thanh niên dùng tuýp sắt đánh anh đến bị chấn thương sọ não, phải chở vào bệnh viện cấp cứu. Chưa đã cơn giận, các thanh niên này còn chạy đến bệnh viện dùng dao chém chết anh Định ngay trên băng-ca lúc chờ bác sĩ khám và chữa.

Mấy ngày sau, ở Bến Tre, Huỳnh Văn Phương và Lê Văn Tèo, cả hai đều 35 tuổi, đi xe gắn máy, bị đụng quẹt vào xe của anh Phạm Văn Phường, 25 tuổi. Phương và Tèo nhào xuống đánh anh Phường. Chưa đủ, Phương và Tèo chạy vào một căn nhà dọc đường lấy dao ra cắt cổ anh Phường. Nạn nhân chết ngay tại chỗ.

Ra đường thì thế; ở nhà có an toàn hơn không? Không. Cũng trong mấy tháng vừa qua, ở Việt Nam xảy ra mấy vụ giết người, ở đó, cả gia đình đều bị giết.

Như vụ giết người tại Nghệ An, chẳng hạn. Vy Văn Mằn vào vườn của anh Lô Văn Thọ hái trộm mấy trái chanh, bị anh Thọ bắt gặp. Hai người cãi vã nhau. Mằn nhào đến đánh anh Thọ. Chưa đủ. Mằn chụp con dao chém liên tục vào đầu anh Thọ khiến anh Thọ chết tại chỗ. Vợ anh Thọ, chị Lê Thị Yến thấy vậy sợ hãi ôm con chạy trốn. Mằn rượt theo. Gặp bà Chương, mẹ anh Thọ, Mằn chém chết; sau đó, chém chị Yến và cả đứa con chị địu trên lưng, mới một tuổi. Như vậy, chỉ vì mấy trái chanh, Vy Văn Mằn giết cả gia đình anh Lô Văn Thọ, kể cả một em bé sơ sinh.

Vụ giết người ở Nghệ An xảy ra chưa bao lâu thì đến vụ giết người cũng tàn độc không kém ở Bình Phước. Nguyễn Hải Dương, 24 tuổi, bị gia đình người yêu phản đối, bèn rủ bạn đến nhà người yêu cũ, giết sáu người trong gia đình, kể cả người mình từng yêu. Chỉ có một em bé chưa tới hai tuổi là được tha mạng.

Rồi xảy ra vụ án ở Yên Bái. Vì một sự tranh chấp nhỏ trên mảnh đất làm nương, Đặng Văn Hùng, 26 tuổi, xô xát với anh Trần Đức Long. Bị đánh, Anh Long bỏ chạy, Hùng rượt theo, chém tới tấp vào đầu vào cổ anh Long nhiều nhát. Chị Hoa, vợ anh Long, bỏ chạy. Hùng rượt theo, chém chị chết. Chưa hết. Hùng chạy vào nhà anh Long, chém chết em vợ anh Long. Cũng chưa hết. Thấy con trai anh Long, mới hai tuổi, đang đứng trên giường, Hùng “tiện tay” nhào đến chém mấy nhát khiến bé chết ngay tại chỗ.

Sau đó Giáo sư Quốc viết thêm: “Ở trường học, chỉ cần một chút xích mích, học sinh, kể cả học sinh nữ, ẩu đả và hành hạ nhau trước cái nhìn dửng dưng của các học sinh khác”.

Đi tìm nguyên nhơn của sự tàn ác mất nhơn tính đó, không tìm đâu xa, chỉ nhìn từ 40 năm trở lại đây, kể từ ngày Cộng sản Bắc Việt hoàn tất cuộc xâm lăng Miền Nam Việt Nam, ngày 30-4-1975, hẳn ai cũng thấy việc VC giáo dục con trẻ như thế nào, và văn hóa VC thể hiện trong các tác phẩm văn chương như thế nào.

Xin nói qua một chút về chuyện giáo dục. Ở nhà trường, VC đã dạy tuổi thơ tinh thần gian ác ngay từ khi con trẻ vào lớp 1 bậc tiểu học. Trong quyển giáo khoa lớp 1, khi dạy toán cộng chúng đã dùng xác người để dạy học trò: “5 tên ngụy + 2 tên đế quốc bị bắn chết = 7”. Chỉ với bài toán cộng này mọi người nhận ra tính cách tàn bạo của nền giáo dục VC trong mục đích “dùng giáo dục học đường trang bị cho trái tim và khối óc tuổi thơ lên 5 lên 6 chuyện giết người”. Chúng đã nhồi sọ tuổi thơ; dạy tuổi thơ dửng dưng với chuyện giết người.

Trong khi trước đó, ở các lớp học của Việt Nam Cộng Hòa, cô giáo thường cho học sinh làm toán, đại khái như: Bà bán hàng mua 1 con gà $4 và 1 con vịt $3; tổng cộng là 3$+$4=$7; bà đem ra chợ bán, 1 con gà $5 và 1 con vịt $4; tổng cộng là $5+$4 = $9; nhờ đó bà lời được $9-$7 = $2. Nhìn qua bài toán này VC kết luận: “Bà bán hàng tượng trưng cho tư bản, chúng đã bóc lột của nhân dân $2”.

Để rồi từ đó, dạy tuổi thơ căm thù tư bản, căm thù những kẻ đã bóc lột nhân dân, làm cho nhân dân nghèo đói, khiến tuổi thơ ủng hộ cuộc “cách mạng giải phóng nhân dân khỏi bàn tay bóc lột của tư bản, khỏi cảnh nghèo đói, xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu đẹp”.

Chưa hết, chính Đinh Thế Huynh (sinh năm 1953, quê Nam Định), Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, Chủ tịch Hội đồng lý luận trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị khóa XI; từng là Tổng biên tập báo Nhân dân, Chủ tịch Hội nhà báo Việt Nam; lúc còn là một kẻ viết văn, trong bài viết “Trâu Cũng Đánh Mỹ”, được cho cô giáo dùng dạy học sinh trong lớp học, có nội dung được sao chụp lại đính kèm.

Trên lãnh vực giáo dục VC đã bịa chuyện để “nhồi sọ nhân dân” ngay từ lúc “nhân dân” còn quá nhỏ, chưa biết “đâu đúng, đâu sai”, chẳng những nghe cô giáo “dạy sao biết vậy”, lại còn hãnh diện về “kỳ tích” đánh Mỹ, giết Mỹ, của trâu; trâu còn biết giết Mỹ, sao em không biết giết Mỹ; trâu còn căm thù Mỹ, sao em không căm thù Mỹ. Trẻ thơ đâu biết “giết Mỹ” là “giết người” và “giết người” là “tàn ác”. Trẻ thơ bị nhồi sọ như vậy đó, khiến cho lớn lên con người mất hết nhơn tính, để rồi xem chuyện “giết người” là chuyện dửng dưng, không chút áy náy.

Bước sang lãnh vực văn học, sự tàn ác còn được thể hiện khủng khiếp hơn nữa. Xin kể qua một chút về kẻ được gọi là nhà văn Tạ Duy Anh, trong tác phẩm của mình ông này viết:

“… Quân ta ào lên, bắt giết, đâm, giẫm đạp. Một mụ nguỵ cái, ngực để trần, miệng há ra ú ớ. Niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực mình. Mình găm vào ngực mụ cả loạt khiến ngực mụ vỡ toác mà mặt mụ vẫn chưa tắt hy vọng. Giết người lúc ấy sao thấy sướng thế! Một thằng nguỵ bị mình xọc lê vào bụng, nghe ‘thụt’ một cái. Mình nghiến răng vặn lê rồi trở báng súng phang vào giữa mặt hắn. Hắn lộn một vòng, gồng mình giãy chết như con tôm sống bị ném vào chảo mỡ.”

Không cần biết đó là chuyện có thật hay hư cấu, nhưng sự tàn ác của nó đã đến tận cùng của khủng khiếp. Chính cái tàn ác khủng khiếp đó đã tiêm nhiễm vào não trạng của bọn công an và côn đồ xã hội chủ nghĩa, khiến đâu đâu người ta ai cũng thấy sự tàn ác khủng khiếp của bọn cầm quyền xã hội chủ nghĩa, từ tên quản giáo trong các trại tù “cải tạo”, cho đến tên công an trên đường phố trấn áp người biểu tình chống Trung cộng xâm chiếm đất nước, đàn áp dân oan khiếu kiện, hay ôn hòa bày tỏ nguyện vọng, đấu tranh cho nhân quyền, đấu tranh dân chủ hóa Việt Nam…, hay nhẹ nhàng như đón chào người tù lương tâm mãn hạn tù.

Điển hình như cuối tháng 8 năm 2015 vừa qua, ngày 28 tháng 8 năm 2015, đoàn người đón tù nhân lương tâm Trần Minh Nhật mãn hạn tù trở về bị hành hung (xem hình 1); trong số này có ông Lê Đình Lượng bị đánh đập gây thương tích (hình 2), cựu tù nhân lương tâm Trương Minh Tam cũng bị hành hung (hình 3), anh Chu Mạnh Sơn bị đánh đổ máu đầu (hình 4) [Nguồn ảnh: Fb Thúy nga/Trần Khắc Đạt]…

Nhìn lại 40 năm qua, trong thời gian đầu, sự nhồi sọ và bạo lực gian ác của kẻ cầm quyền xã hội chủ nghĩa có khiến người dân Miền Nam sợ hãi; nhưng sự gian dối càng lúc càng lộ liễu và sự sợ hãi cũng càng lúc càng phai lạt, nhứt là kể từ thế hệ thứ hai, ánh sáng “cởi mở” rọi vào các hóc hiểm của lòng tham và ngang ngược ngụy biện xã hội chủ nghĩa đã không còn như trước, người dân đã lần hồi “sáng mắt”. Họ không còn tin nghe những gì VC nói. Họ đã tận mắt thấy những gì VC làm.

Đến thế hệ thứ ba, nhờ cuộc “giao lưu” với hải ngoại; đặc biệt nhờ nếp sống hải ngoại và truyền thông quốc tế dễ dàng truyền vào quốc nội; nhứt là nhờ internet, sự bưng bít và lừa gạt dư luận của VC không còn bị hơn 700 tờ báo và các đài truyền thanh truyền hình nhà nước VC “bịp” được nữa.

Tuổi trẻ ngày nay, nhứt là các blogger, đã nhờ facebook, twitter… dũng cảm tiến lên “làm lịch sử”, vận động quốc tế cùng vạch mặt công an côn đồ lộng hành. Nhờ vậy, các nhà ngoại giao và báo chí thế giới ngày càng râm ran hơn về vai trò của công an và côn đồ trong nỗ lực bịt miệng người dân không chỉ bằng nhà giam mà còn bằng bạo lực đường phố [xem hình Ông Felix Schwarz, tham tán Chính trị và Nhân quyền đại sứ quán Đức đang thăm hỏi anh Nguyễn Chí Tuyến tại nhà riêng – hồi 10:45 ngày 12/05/2015].

Được biết, nói về chuyện “an ninh giả danh côn đồ đánh dân là hạ sách”, ngày 16-6-2015, phóng viên Hoà Ái của đài RFA cho biết [nguyên văn]: “Hiện ngày càng có nhiều các nhà hoạt động ở VN bị côn đồ tấn công và hành hung, điển hình là trường hợp anh Nguyễn Chí Tuyến và anh Đinh Quang Tuyến bị đánh hồi tháng 5 năm nay. Sau đây, Hòa Ái có cuộc trao đổi ngắn với 2 anh Nguyễn Chí Tuyến và Đinh Quang Tuyến về những vụ việc liên quan” [Xem hình Anh Đinh Quang Tuyến (trái) và anh Nguyễn Chí Tuyến (phải) sau khi bị đánh hồi tháng 5 năm 2015].

Hòa Ái: Xin được chào 2 anh Nguyễn Chí Tuyến và anh Đinh Quang Tuyến. Câu hỏi trước tiên, xin được hỏi anh Nguyễn Chí Tuyến rằng có phải vụ việc anh bị côn đồ hành hung hồi đầu tháng 5 vừa qua là lần đầu tiên không, thưa anh?

Anh Nguyễn Chí Tuyến: Lần này coi như lần đầu tiên bị hành hung và bị tấn công nặng. Còn những lần trước thì họ sách nhiễu bằng cách bắt bớ và trong lúc đi biểu tình thì chúng tôi coi đấy là bình thường thôi. Nhưng lần này bị tấn công, bị hành hung thì khá nghiêm trọng vì có thể chưa đến mức lấy tính mạng của tôi, tuy nhiên nếu bị nặng hơn một chút thì tôi có thể bị mất trí nhớ hoặc là thành người bị mắt lòa. Cho nên tôi nghĩ rằng đây là lần nguy hiểm nhất đối với tôi, kể từ trước đến nay.

Hòa Ái: Thưa anh Đinh Quang Tuyến, từ khi bị đánh hôm 19/5 và anh nói là “công an mật vụ tấn công”, sau đó anh phải trải qua một cuộc giải phẩu để nâng sụn mũi, hiện nay sức khỏe của anh ra sao?

Anh Đinh Quang Tuyến: Sau khi bị đánh hôm 19, ngày 20,21,22 thì vào bệnh viện. Chiều 22 mổ, 8 giờ tối xong. Sau khi mổ thì đau. Đau đến sáng 23 thì đỡ hơn. May mắn là sau khi mổ không có biến chứng nào hết. Ngày 24 thì tôi cảm thấy khỏe, tháo băng ra được mặc dù bệnh viện kêu để 5 ngày. Uống thuốc chừng 3-4 ngày sau thì cảm thấy không đau nữa. May là rất mau lành…”

Đó là vài trường hợp điển hình, nó không khiến tuổi trẻ nao núng, sợ hãi, vì sau đó cuộc đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền của hai anh Tuyến và nhiều bạn trẻ khác vẫn tiếp tục. Nó còn được tiến hành trên bình diện rộng hơn nữa. Trong cuộc đấu tranh đòi “diễn biến”, về mặt giáo dục, nhiều người đã làm gương thực hiện những “diễn biến” cụ thể, như hợp soạn “sách giáo khoa” dùng cho giáo viên dạy và cho học sinh học ở trường, mà không chờ đợi Bộ Giáo Dục và nhà nước CSVN làm.

Thật vậy, trong bài viết được cho đăng trên đài VOA, ngày 14.08.2015, phóng viên Khánh An cho biết: Nhà giáo Phạm Toàn, người lập ra nhóm Cánh Buồm, nói rằng: “Với hơn 10 năm làm việc nghiêm túc, nhóm đã hoàn thành bộ Sách giáo khoa tiểu học và cho ra mắt bộ sách này hôm 12/8. Bộ sách có sự tham gia của nhiều soạn giả nổi tiếng và được thông qua một ban duyệt bản thảo gồm nhiều nhà nghiên cứu, giáo sư, tiến sĩ. Nhóm đang bắt tay thực hiện bộ sách dành cho lớp 6 trở lên”.

Trong buổi hội thảo ra mắt “Sách Văn và Tiếng việt lớp 6” của nhóm Cánh Buồm hôm 12/8, đã bất ngờ gây thành tiếng vang sâu rộng trong dư luận. Nó cho biết, trong phần đặt câu hỏi, một học sinh lớp 8 tên Vũ Thạch Tường Minh, 14 tuổi, đã đứng lên phát biểu như sau [trích đoạn ghi âm được đăng tải lên mạng Youtube]: [Xem hình Vũ Thạch Tường Minh học sinh trường Hà Nội – Amsterdam đang phát biểu tại buổi ra mắt sách của nhóm Cánh Buồm. Ảnh và chú thích: RFA]

“Một điều mà con muốn nói với chính phủ Việt Nam, hay cụ thể hơn là Bộ Giáo dục, theo con, các vị bộ trưởng, thứ trưởng giáo dục không phải là nên áp dụng cả bộ sách này, mà là áp dụng cái lối giáo dục của bộ sách này vào giáo dục Việt Nam, bởi vì bây giờ giáo dục Việt Nam con thấy là, con không có tính từ nào khác nên con phải dùng tính từ này, là giáo dục Việt Nam bây giờ con thấy là quá ‘thối nát’ rồi. Mà suốt bao năm qua các vị cải đi, cải lại, cải tiến, cải lùi mà nó vẫn không thay đổi được kết quả gì cả. Nên bây giờ con muốn các vị bộ trưởng, thứ trưởng hãy thay đổi đường lối giáo dục của Việt Nam, có thể theo đường lối của Cánh Buồm cũng được, các vị có thể thay cả bộ sách giáo khoa cũng được. Các vị có thể nói là mất thời gian, nhưng con thấy là thời gian các vị cải tiến, cải lùi còn mất thời gian hơn. Giáo dục Việt Nam không cần cải cách gì nữa, giáo dục Việt Nam cần được cách mạng. Đó mới là điều các vị trong Bộ Giáo dục nên làm. Còn nếu bây giờ các vị không làm thì đến khi nào con thành Bộ trưởng Bộ Giáo dục con sẽ làm”.

Phát biểu thẳng thắn, không lập luận, không lý lẽ, của một cậu bé 14 tuổi này, đã gây thành trận “bão” dư luận. Video clip ghi âm cậu bé đã được lan truyền nhanh chóng trên mạng xã hội. Nó được gần nửa triệu lượt người xem chỉ sau 4 ngày.

Từ một vài sự kiện cụ thể nêu trên, mọi người hẳn thấy những giọt máu trên đầu những nhà đấu tranh cho nhân quyền, dân chủ hóa Việt Nam…, như Nguyễn Chí Tuyến, Đinh Quang Tuyến…, sẽ là những giọt nước làm đầy cái “ly đấu tranh”, hoàn mãn cuộc đấu tranh, như Giáo Già từng nói, sau 40 năm trầm luân vì độc đảng độc tài Cộng sản “40 bước tới… bước”.

Cũng vậy, nền văn hóa giáo dục Việt Cộng sau thời gian quá dài của 40 năm lộng hành nhồi sọ, “dạy con người tàn ác, mất nhơn tính”, đang bị một học sinh 14 tuổi cho là “cải lùi”, để tuổi trẻ và thế hệ thứ 3 dũng cảm bước lên làm lịch sử “cải tiến”…, để tới lúc, dù có thể là rất lâu, một tỷ lệ cao hơn học sinh Việt Nam có thể công khai, lớn tiếng chỉ trích Bộ Giáo dục và bất kỳ cơ quan nhà nước nào làm ăn tồi tệ…, để cái chính quyền gian ác, bất tài, thất đức… hiện nay bị đẩy lùi vào chỗ dơ bẩn nhứt của lịch sử.

6/9/2015

Kẻ thù của người Tàu

Kẻ thù của người Tàu

Bá Dương

(Bài do một trí thức Tàu DAILOAN viết.)​

Trên thế giới không có nước nào có lịch sử lâu đời như Trung Quốc, không có nước nào có một nền văn hóa không đứt đoạn như Trung Quốc, mà cái văn hóa đó lại đã từng đạt đến một nền văn minh cao độ. Người Hy-Lạp thời nay với người Hy-Lạp ngày xưa chẳng liên quan gì với nhau. Người Ai-Cập cũng vậy. Nhưng người Trung Quốc hôm nay thì đúng là hậu duệ của người Trung Quốc cổ đại. Tại sao một nước khổng lồ như vậy, một dân tộc to lớn như vậy ngày nay lại ra nông nỗi xấu xa ấy? Chẳng những bị người nước ngoài ức hiếp mà còn bị ngay dân mình ức hiếp. Nào là vua bạo ngược, quan bạo nguợc, mà cả dân (quần chúng) cũng bạo ngược.

​Thế kỷ thứ XIX, quần đảo Nam Dương – thời nay tức là Đông Nam Á, còn là thuộc địa của Anh và Hà Lan, có một chuyên viên Anh đóng ở Malaysia nói rằng: “Làm người Trung Quốc ở thế kỷ thứ XIX là một tai họa”. Bởi vì ông này đã thấy cộng đồng người Hoa sống ở quần đảo Nam Dương giống một lũ lợn, vô tri vô thức, tự sinh tự diệt, tùy thời còn có thể bị sát hại hàng loạt. Thế mà tôi thấy người Hoa ở thế kỷ XX so với người Hoa ở thế kỷ XIX tai họa của họ còn lớn hơn.

Điều làm chúng ta đau khổ nhất là bao mong đợi của người Hoa từ một trăm năm nay cơ hồ như đã bị tiêu tan toàn bộ. Cứ mỗi lần có một mong chờ trở lại, hứa hẹn nước nhà một tương lai sáng sủa hơn, thì kết quả lại càng làm cho chúng ta thất vọng và tình hình lại càng trở nên tệ hại hơn. Một mong chờ khác lại đến, để rồi lại đem về những ảo vọng, thất vọng, những tồi tệ liên miên vô tận.

Dân tộc cố nhiên là trường tồn, sinh mệnh của cá nhân là hữu hạn. Một đời người có được bao ước vọng lớn? Có được bao lý tưởng lớn, chịu được mấy lần tan vỡ ? Con đường trước mặt sáng sủa thế nào? Hay lại đen tối? Thật khó nói cho hết!

​ Bốn năm trước, lúc tôi diễn giảng tại New York, đến đoạn “chối tai”, có một người đứng dậy nói: “Ông từ Đài Loan đến, ông phải nói cho chúng tôi nghe về những hy vọng, phải cổ võ nhân tâm. Sao lại đi đả kích chúng tôi?”. Con người đương nhiên cần được khích lệ, vấn đề là khích lệ rồi sau đó làm gì nữa? Tôi từ nhỏ cũng từng được khích lệ rồi. Lúc 5, 6 tuổi, tôi được người lớn nói với tôi: “Tiền đồ của Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các cháu đấy!” Tôi cho rằng trách nhiệm của tôi lớn quá, chắc không thể nào đảm đương nổi. Sau đó tôi lại nói với con tôi: “Tiền đồ của Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các con đấy!” Bây giờ con tôi lại nói với cháu tôi: “Tiền đồ Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các con đấy!”

Một đời, rồi một đời, biết bao nhiêu lần một đời ? Đến đời nào thì mới thật khá lên được ? Tại Trung Quốc đại lục rộng lớn, sau thời Phản hữu (Phong trào chống phe hữu năm 1958), tiếp theo lại là Đại Cách Mạng Văn Hóa long trời lở đất. Từ ngày loài người có lịch sử đến nay chưa bao giờ thấy được một tai họa do con người làm ra to lớn đến như vậy. Chẳng nói đến tổn thất sinh mạng, cái tổn thương lớn lao nhất là sự chà đạp nhân tính, dầy xéo lên phẩm hạnh cao quý. Con người nếu rời bỏ nhân tính và những đức hạnh cao quý thì sánh với cầm thú

Bây giờ người ta nói nhiều về Hương Cảng [Hồng-Kông]. Bất cứ nước nào, nếu có đất đai bị nước ngoài chiếm cứ đều cảm thấy tủi nhục. Chờ cho đến lúc lấy được về chẳng khác nào lòng mẹ bị mất con. Ai cũng nhớ chuyện nước Pháp lúc phải cắt hai tỉnh Alsace và Lorraine giao cho Đức đã đau khổ như thế nào, lúc lấy lại được về đã sung sướng ra sao.

Nhưng Hương Cảng của chúng ta chỉ cần nghe đến việc trả về tổ quốc là lập tức hồn bay phách lạc. Chuyện gì mà lạ thế?

Còn nói về Đài Loan, hiện nay nhiều thanh niên người tỉnh này hoặc người nơi khác ở đây đều chủ trương Đài Loan độc lập. Tôi nhớ lại 30 năm trước đây, lúc Nhật Bản trả lại Đài Loan cho Trung Quốc (1945), mọi người sung sướng như si cuồng chẳng khác nào đứa con lạc mẹ lại tìm được đường về nhà. Cái gì đã xảy ra sau 30 năm đó để cho đứa con kia lại muốn bỏ nhà ra đi?

Ở nước ngoài, có lúc tôi dừng lại trong công viên, nhìn trẻ con ngoại quốc, thấy sao chúng sung sướng thế. Trong lòng tôi lúc ấy tự nhiên cảm thấy thèm thuồng quá. Chúng không phải mang gánh nặng, con đường chúng đi bằng phẳng, rộng rãi quá, tâm lý khỏe mạnh, sung mãn, sảng khoái. Con trẻ Đài Loan chúng ta đến trường học, đeo kính cận, mặt khó đăm đăm vì phải đối phó với áp lực bài vở. Mẹ ngất ngã xuống đất, con đến đỡ mẹ dậy, mẹ kêu rống lên:

” Mẹ có chết cũng chẳng sao, việc gì đến con! Con đi học bài đi ! Đi học bài đi ! ”

Vợ tôi lúc dạy học ở Đài Loan, thỉnh thoảng cứ đề cập đến đạo đức làm người, tức thì sinh viên nhao nhao phản đối: “Chúng tôi không cần học làm người, chỉ cần học để ứng phó với việc thi cử”. Lại nhìn về trẻ con ở Trung Quốc lục địa, từ nhỏ đã phải học đánh đấu nhau, lừa dối bịp bợm nhau, lại luyện tập cách lừa bạn, phản đồng chí, lại phải học cách bốc phét, bịa đặt. Một nền giáo dục đáng sợ thay! Một thế hệ nữa những đứa trẻ này lớn lên sẽ như thế nào?

Người ta thường nói: “Mình nắm tương lai mình trong tay mình”. Lúc đã luống tuổi, tôi thấy câu này không ổn; sự thực, có lẽ chỉ nắm được một nửa trong tay mình, còn một nửa lại ở trong tay của kẻ khác.

Kiếp người trên đời này giống như một cục sỏi trong một máy nhào xi-măng, sau khi bị nhào trộn, thân chẳng tự chủ được. Điều ấy khiến tôi cảm thấy đó không phải là một vấn đề của riêng một cá nhân nào, nhưng là một vấn đề xã hội, văn hóa.

Lúc chết, Chúa Giê-Su (Jesus) bảo: “Hãy tha thứ cho họ, họ đã làm những điều mà họ không hề hiểu”. Lúc trẻ, đọc câu này tôi cho rằng nó chỉ là một câu tầm thường. Lớn lên rồi lại vẫn thấy nó không có gì ghê gớm cả, nhưng đến cái tuổi này rồi tôi mới phát hiện rằng nó rất thâm thúy, thật đau lòng thay! Có khác nào người Trung Quốc sở dĩ trở thành xấu xí như ngày nay bởi chính vì họ không hề biết rằng mình xấu xí.

Chúng ta có đủ tư cách làm chuyện đó và chúng ta có lý do tin rằng Trung Quốc có thể trở thành một nước rất tốt đẹp. Chúng ta không cần cứ phải muốn có một quốc gia hùng mạnh. Quốc gia không hùng mạnh thì có can hệ gì ? Chỉ cần sao cho nhân dân hạnh phúc rồi thì đi tìm quốc gia hùng mạnh cũng chưa muộn.

Tôi nghĩ người Trung Quốc chúng ta có phẩm chất cao quý. Nhưng tại sao cả trăm năm rồi, cái phẩm chất ấy thủy chung vẫn không làm cho người Trung Quốc thoát khỏi khổ nạn?

Nguyên do vì sao?

Tôi muốn mạo muội đề xuất một câu trả lời có tính cách tổng hợp: Đó là vì văn hóa truyền thống Trung Quốc có một loại siêu vi trùng, truyền nhiễm, làm cho con cháu chúng ta từ đời này sang đời nọ không khỏi được bệnh.

Có người sẽ bảo: “Tự mình không xứng đáng, lại đi trách tổ tiên!”. Xét cho kỹ câu nói này có một sơ hở lớn. Trong vở kịch nổi tiếng “Quần ma” (Những con ma) của Ibsen (íp-sen) có kể chuyện hai vợ chồng mắc bệnh giang mai sinh ra một đứa con cũng bị bệnh di truyền. Mỗi lần phát bệnh nó lại phải uống thuốc. Có lần tức quá nó kêu lên: “Con không uống thuốc này đâu! Con thà chết đi thôi! Bố mẹ đã cho con cái thân thể như thế này à ? ” Trường hợp này thì nên trách đứa bé hay trách bố mẹ nó? Chúng ta không phải trách bố mẹ, cũng không phải trách tổ tiên chúng ta, nhưng nhất quyết phải trách cái thứ văn hóa họ đã truyền lại cho chúng ta.

Một nước rộng ngần đó, một dân tộc lớn ngần đó, chiếm đến một phần tư dân số toàn cầu, lại là một vùng cát chảy của sự đói nghèo, ngu muội, đấu tố, tắm máu mà không tự thoát được. Tôi nhìn cách cư xử giữa con người với nhau ở những nước khác mà lại càng thèm. Cái văn hóa truyền thống kiểu nào để sinh ra hiện tượng này? Nó đã khiến cho người Trung Quốc chúng ta mang sẵn trong mình nhiều đặc tính rất đáng sợ!

Một trong những đặc tính rõ nhất là dơ bẩn, hỗn loạn, ồn ào. Đài Loan đã từng có một dạo phải chống bẩn và chống hỗn loạn, nhưng chỉ được mấy ngày. Cái bếp của chúng ta vừa bẩn vừa lộn xộn. Nhà cửa chúng ta cũng vậy. Có nhiều nơi hễ người Trung Quốc đến ở là những người khác phải dọn đi. Tôi có một cô bạn trẻ tốt nghiệp đại học chính trị. Cô này lấy một người Pháp rồi sang Pa-ri sinh sống. Rất nhiều bạn bè đi du lịch Âu châu đều ghé nhà cô trú chân. Cô ta bảo với tôi: “Trong tòa nhà tôi ở, người Pháp đều dọn đi cả, bây giờ toàn người Á đông nhảy vào!” (Người Á đông có khi chỉ người châu Á nói chung, có khi lại chỉ người Trung Quốc). Tôi nghe nói vậy rất buồn, nhưng khi đi xem xét tận mắt mới thấy là chỗ nào cũng đầy giấy kem, vỏ hộp, giầy dép bừa bãi, trẻ con chạy lung tung, vẽ bậy lên tường, không khí trong khu bốc lên một mùi ẩm mốc. Tôi hỏi: “Các người không thể tổ chức quét dọn được hay sao?” Cô ta đáp: “Làm sao nổi!”  ​​

Không những người nước ngoài thấy chúng ta là bẩn, loạn, mà qua những điều họ nhắc nhở chúng ta cũng tự thấy mình là bẩn, loạn.

Còn như nói đến ồn ào, cái mồm người Trung Quốc thì to không ai bì kịp, và trong lĩnh vực này người Quảng Đông phải chiếm giải quán quân. Ở bên Mỹ có một câu chuyện tiếu lâm như sau: Có hai người Quảng Đông lặng lẽ nói chuyện với nhau, người Mỹ lại tưởng họ đánh nhau, bèn gọi điện báo cảnh sát. Khi cảnh sát tới, hỏi họ đang làm gì, họ bảo: ” Chúng tôi đang thì thầm với nhau”.

Tại sao tiếng nói người Trung Quốc lại to? Bởi tâm không yên ổn. Cứ tưởng lên cao giọng, to tiếng là lý lẽ mình mạnh. Cho nên lúc nào cũng chỉ cốt nói to, lên giọng, mong lý lẽ đến với mình. Nếu không, tại sao họ cứ phải gân cổ lên như thế?

Tôi nghĩ những điểm này cũng đủ để làm cho hình ảnh của người Trung Quốc bị tàn phá và làm cho nội tâm mình không yên ổn. Vì ồn ào, dơ bẩn, hỗn loạn dĩ nhiên có thể ảnh hưởng tới nội tâm, cũng như sáng sủa, sạch sẽ với lộn xộn, dơ bẩn là hai thế giới hoàn toàn khác xa nhau.

Còn về việc xâu xé nhau thì mọi người đều cho đó là một đặc tính nổi bật của người Trung Quốc. Một người Nhật đơn độc trông chẳng khác nào một con lợn, nhưng ba người Nhật hợp lại lại thành một con rồng. Tinh thần đoàn kết của người Nhật làm cho họ trở thành vô địch.

Bởi vậy trong lĩnh vực quân sự cũng như thương mại người Trung Quốc không thể nào qua mặt được người Nhật. Ngay tại Đài Loan, ba người Nhật cùng buôn bán thì lần này phiên anh, lần sau đến lượt tôi. Người Trung Quốc mà buôn bán thì tính cách xấu xa tức thì lộ ra bên ngoài theo kiểu: Nếu anh bán 50 tôi sẽ bán 40. Anh bán 30 tôi chỉ bán 20.

Cho nên, có thể nói, mỗi người Trung Quốc đều là một con rồng, nói năng vanh vách, cứ như là ở bên trên thì chỉ cần thổi một cái là tắt được mặt trời, ở dưới thì tài trị quốc bình thiên hạ có dư. Người Trung Quốc ở một vị trí đơn độc như trong phòng nghiên cứu, trong trường thi – nơi không cần quan hệ với người khác – thì lại có thể phát triển tốt. Nhưng nếu ba người Trung Quốc họp lại với nhau, ba con rồng này lại biến thành một con heo, một con giòi, hoặc thậm chí không bằng cả một con giòi nữa. Bởi vì người Trung Quốc có biệt tài đấu đá lẫn nhau.

Chỗ nào có người Trung Quốc là có đấu đá, người Trung Quốc vĩnh viễn không đoàn kết được, tựa hồ trên thân thể họ có những tế bào thiếu đoàn kết. Vì vậy khi người nước ngoài phê phán người Trung Quốc không biết đoàn kết thì tôi chỉ xin thưa: “Anh có biết người Trung Quốc vì sao không đoàn kết không? Vì Thượng đế muốn thế. Bởi vì nếu một tỷ người Hoa đoàn kết lại, vạn người một lòng, anh có chịu nổi không? Chính ra Thượng Đế thương các anh nên mới dạy cho người Hoa mất đoàn kết!” Tôi tuy nói thế nhưng rất đau lòng.

Người Trung Quốc không chỉ không đoàn kết, mà mỗi người lại còn có đầy đủ lý do để có thể viết một quyển sách nói tại sao họ lại không đoàn kết. Cái điều này thấy rõ nhất tại nước Mỹ với những hình mẫu ngay trước mắt. Bất cứ một xã hội người Hoa nào ít nhất cũng phải có 365 phe phái tìm cách tiêu diệt lẫn nhau.

Ở Trung Quốc có câu: “Một hòa thượng gánh nước uống, hai hòa thượng khiêng nước uống, ba hòa thượng không có nước uống”. Người đông thì dùng để làm gì? Người Trung Quốc trong thâm tâm căn bản chưa biết được tầm quan trọng của sự hợp tác. Nhưng nếu anh bảo họ chưa biết, họ lại có thể viết ngay cho anh xem một quyển sách nói tại sao cần phải đoàn kết.

Lần trước (năm 1981) tôi sang Mỹ ở tại nhà một người bạn làm giáo sư đại học – anh này nói chuyện thì đâu ra đấy; thiên văn, địa lý; nào là làm sao để cứu nước… – Ngày hôm sau tôi bảo:

“Tôi phải đi đến đằng anh A một tý!”. Vừa nghe đến tên anh A kia, anh bạn tôi trừng mắt giận dữ. Tôi lại bảo: “Anh đưa tôi đi một lát nhé!”. Anh ta bảo: “Tôi không đưa, anh tự đi cũng được rồi!”.

Họ cùng dạy học tại Mỹ, lại cùng quê với nhau mà tại sao không thể cùng đội trời chung? Có thể nào nói như vậy là hợp lý được? Bởi vậy việc người Hoa cắn xé nhau là một đặc trưng nghiêm trọng.

Những người sống tại Mỹ đều thấy rõ điều này: đối xử với người Trung Quốc tệ hại nhất không phải là người nước ngoài, mà chính lại là người Trung Quốc với nhau. Bán rẻ người Trung Quốc, hăm dọa người Trung Quốc lại cũng không phải là người Mỹ mà là người Hoa. Tại Ma-lai-xi-a có một chuyện thế này. Một ông bạn tôi làm nghề khai thác mỏ khoáng sản. Anh ta bỗng nhiên bị tố cáo một chuyện rất nghiêm trọng. Sau khi tìm hiểu mới biết rằng người tố cáo mình lại là một bạn thân của anh ta, một người cùng quê, cùng đến Ma-lai-xi-a tha phương cầu thực với nhau. Người bạn tôi chất vấn anh kia: “Tại sao anh lại đi làm cái việc đê tiện đó?”. Người kia bảo: “Cùng đi xây dựng cơ đồ, bây giờ anh giàu có, tôi vẫn hai tay trắng. Tôi không tố cáo anh thì tố ai bây giờ?”

Cho nên kẻ thù của người Trung Quốc lại là người Trung Quốc.

Không hiểu vì sao người ta lại so sánh người Trung Quốc với người Do Thái được? Tôi thường nghe nói “người Trung Quốc và người Do Thái giống nhau ở chỗ cần cù”. Điều này phải chia làm hai phần:

Phần thứ nhất: cái đức tính cần cù từ mấy nghìn năm nay cũng chẳng còn tồn tại nữa, nó đã bị thời kỳ “Tứ nhân bang” (bè lũ bốn tên) phá tan tại lục địa rồi.

Phần thứ hai: chúng ta còn gì để có thể đem so sánh với người Do Thái được? Báo chí Trung Quốc thường đăng: “Quốc hội Do Thái (Knesset) tranh luận mãnh liệt, ba đại biểu là ba ý kiến trái ngược nhau”, nhưng cố ý bỏ sót một sự kiện quan trọng là sau khi họ đã quyết định với nhau thì hình thành một phương hướng chung. Tuy bên trong quốc hội tranh cãi tơi bời, bên ngoài đang giao chiến, bốn phía địch bao vây, nhưng I-xra-en vẫn tổ chức bầu cử.

Ai cũng biết cái ý nghĩa của bầu cử là vì có đảng đối lập. Không có đảng đối lập thì bầu cử chỉ là một trò hề rẻ tiền.

Tại Trung Quốc chúng ta, hễ có ba người sẽ cũng có ba ý kiến, nhưng cái khác nhau là: sau khi đã quyết định xong, ba người đó vẫn làm theo ba phương hướng khác nhau. Giống như nói hôm nay có người đề nghị đi New York, người đề nghị đi San Francisco. Biểu quyết, quyết định đi New York, nếu ở I-xra-en cả hai người sẽ cùng đi New York, nhưng ở Trung Quốc thì một người sẽ bảo: “Anh đi New York đi, tôi có tự do của tôi, tôi đi San Francisco!”

Người Trung Quốc không thể đoàn kết, hay cắn xé nhau, những thói xấu đó đã thâm căn cố đế. Không phải vì phẩm chất của họ không đủ tốt. Nhưng vì con siêu vi trùng trong văn hóa Trung Quốc ấy làm cho chúng ta không thể đè nén, khống chế hành vi của chúng ta được. Biết rõ rành rành là xâu xé nhau, nhưng vẫn xâu xé nhau. Nếu nồi vỡ thì chẳng ai có ăn, nhưng nếu trời sụp thì người nào cao hơn người đó phải chống đỡ.

Cái loại triết học xâu xé nhau đó lại đẻ ra nơi chúng ta một hành vi đặc thù khác: “Chết cũng không chịu nhận lỗi”. Có ai nghe thấy người Trung Quốc nhận lỗi bao giờ chưa? Giả sử anh nghe một người Trung Quốc nói: “Việc này tôi đã sai lầm rồi!” Lúc đó anh phải vì chúng tôi mà uống rượu chúc mừng.

Con gái tôi hồi bé có một lần bị tôi đánh, nhưng cuối cùng hóa ra là nó bị oan. Nó khóc rất dữ, còn tâm can tôi thì đau đớn. Tôi biết rằng đứa con thơ dại và vô tội của tôi chỉ biết trông cậy vào bố mẹ, mà bố mẹ bỗng nhiên trở mặt thì nó phải sợ hãi biết nhường nào. Tôi ôm con vào lòng rồi nói với nó: “Bố xin lỗi con. Bố không đúng. Bố làm sai. Bố hứa lần sau bố không làm như vậy nữa. Con gái ngoan của bố, con tha thứ cho bố nhé!” Nó khóc mãi không thôi. Cái sự việc này qua rồi mà lòng tôi vẫn còn đau khổ. Nhưng đồng thời tôi lại cảm thấy vô cùng kiêu hãnh bởi tôi đã dám tự nhận lỗi của mình đối với nó.

​Người Trung Quốc không quen nhận lỗi và có thể đưa ra hàng vạn lý do để che dấu cái sai trái của mình. Có một câu tục ngữ: “Đóng cửa suy gẫm lỗi lầm” (Bế môn tư quá). Nghĩ về lỗi của ai ? Dĩ nhiên của đối phương.

Lúc tôi đi dạy học, học sinh hàng tuần phải viết tuần ký để kiểm thảo hành vi trong tuần. Kết quả kiểm thảo thường là: “Hôm nay tôi bị người này người nọ lừa tôi. Cái người lừa tôi ấy đã được tôi đối xử mới tốt làm sao, cũng bởi vì tôi quá trung hậu!”. Lúc đọc đến kiểm thảo của đối phương, lại cũng thấy anh học trò kia nói mình quá trung hậu. Mỗi người trong kiểm thảo của mình đều là người quá trung hậu. Thế còn ai là người không trung hậu?

Người Trung Quốc không thể nhận lỗi, nhưng cái lỗi vẫn còn đó, đâu phải vì không nhận mà nó biến mất. Để che đậy một lỗi của mình người Trung Quốc không nề hà sức lực tạo nên càng nhiều lỗi khác hòng chứng minh rằng cái đầu tiên không phải là lỗi. Cho nên có thể nói người Trung Quốc thích nói khoác, nói suông, nói dối, nói láo, nói những lời độc địa.

Họ liên miên khoa trương về dân Trung Quốc, về tộc Đại Hán, huyên thuyên về truyền thống văn hóa Trung Quốc, nào là có thể khuếch trương thế giới,v.v…Nhưng bởi vì không thể đưa ra chứng cớ thực tế nào nên tất cả chỉ toàn là những điều bốc phét.

Tôi chẳng cần nêu ví dụ về chuyện nói khoác, láo toét làm gì. Nhưng về chuyện nói độc của người Trung Quốc thì không thể không nói được. Ngay như chuyện phòng the, người phương Tây vốn rất khác chúng ta, họ thường trìu mến gọi nhau kiểu “Em yêu, em cưng” [Bá Dương dùng chữ “đường mật” và “ta linh” để dịch chữ Honey, Darling của tiếng Anh -ND] thì người Trung Quốc gọi nhau là “kẻ đáng băm vằm làm trăm khúc” (sát thiên đao đích).

Hễ cứ có dính đến lập trường chính trị hoặc tranh quyền đoạt lợi là những lời nói độc địa sẽ được tuôn ra vô hạn định, khiến cho ai nấy nghe thấy cũng phải tự hỏi: “Tại sao người Trung Quốc lại độc ác và hạ lưu đến thế?”

Lại nói ví dụ về chuyện tuyển cử. Nếu là người phương Tây thì tác phong như sau: “Tôi cảm thấy tôi có khả năng giữ chức vụ đó, xin mọi người hãy bầu cho tôi!”. Còn người Trung Quốc sẽ xử sự như Gia Cát Lượng lúc Lưu Bị tới cầu hiền (tam cố thảo lư). Nghĩa là nếu được mời, anh ta sẽ năm lần bảy lượt từ chối, nào là “Không được đâu! Tôi làm gì có đủ tư cách!” Kỳ thực, nếu anh tưởng thật mà đi mời người khác thì anh ta sẽ hận anh suốt đời.

Chẳng khác nào nếu anh mời tôi diễn giảng, tôi sẽ nói: “Không được đâu, tôi chẳng quen nói chuyện trước công chúng!” Nhưng nếu anh thật sự không mời tôi nữa, sau này nếu nhỡ lại gặp nhau ở Đài Bắc, có thể tôi sẽ phang cho anh một cục gạch vào đầu.

Một dân tộc hành xử theo kiểu này không biết đến bao giờ mới có thể sửa đổi được lầm lỗi của mình; sẽ còn phải dùng mười cái lỗi khác để khỏa lấp cái lỗi đầu tiên, rồi lại dùng thêm trăm cái khác để che đậy mười cái kia thôi.

Trung Quốc diện tích rộng thế, văn hóa lâu đời thế, đường đường là một nước lớn. Thế mà, thay vì có một tấm lòng bao la, người Trung Quốc lại có một tâm địa thật hẹp hòi.

Cái tấm lòng bao la đáng lẽ chúng ta phải có ấy chỉ đọc thấy được trong sách vở, nhìn thấy được trên màn ảnh. Có ai bao giờ thấy một người Trung Quốc có lòng dạ, chí khí sánh ngang được với tầm vóc nước Trung Quốc không? Nếu chỉ cần bị ai lườm một cái là đã có thể rút dao ra rồi, thử hỏi nếu có người không đồng ý với mình thì sự thể sẽ ra sao?

Người Tây phương có thể đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Trung Quốc đã đánh nhau rồi thì cừu hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đời cũng chưa hết.

Mọi người Trung Quốc đều sợ sệt đến độ không còn biết quyền lợi mình là gì thì làm sao còn biết đấu tranh, gìn giữ nó được? Mỗi khi gặp một chuyện gì xảy ra y nhiên lại nói: “Bỏ qua cho rồi!”

Mấy chữ “bỏ qua cho rồi” này đã giết hại không biết bao nhiêu người Trung Quốc và đã biến dân tộc Trung Quốc thành một dân tộc hèn mọn.

Giả sử tôi là một người nước ngoài hoặc một bạo chúa, đối với loại dân tộc như thế, nếu tôi không ngược đãi nó thì trời cũng không dung tôi.

Cái não trạng hãi sợ này đã nuôi dưỡng bao nhiêu bạo chúa, làm tổ ấm cho bao nhiêu bạo quan. Vì vậy bạo chúa bạo quan ở Trung Quốc không bao giờ bị tiêu diệt.

Trong truyền thống văn hóa Trung Quốc, các vị có thể xem ở “Tư trị thông giám” (Một pho sử của Tư Mã Quang tóm hết chuyện hơn 2.000 năm để làm gương cho người đời sau), cái việc bo bo giữ mình đã được xem là kim chỉ nam và nhấn mạnh năm lần bảy lượt. Bạo chúa, bạo quan cũng chỉ cần dân chúng cứ bo bo giữ mình là được, cho nên người Trung Quốc mới càng ngày càng khốn đốn đến như thế.

Nơi nào người Trung Quốc đã đặt chân đến thì không thể có chỗ nào là không bẩn. Có hơn một tỷ người Trung Quốc trên thế giới này, làm sao mà không chật chội được?  Ngoài ồn, chật, bẩn, loạn, lại còn thêm cái tật “thích xem” (người khác đau khổ), hoặc “chỉ quét tuyết trước nhà mình mà không động tý gì đến sương trên mái ngói nhà người khác”.

Họ luôn mồm “nhân nghĩa” mà tâm địa ích kỷ, tham lam. Một đằng hô to khẩu hiệu: “Phải tử tế với người và súc vật!”, trong khi đó ngày ngày không ngừng xâu xé lẫn nhau.

Tóm lại, người Trung Quốc đúng là một dân tộc vĩ đại, vĩ đại đến độ làm cho người đời nay không có cách nào hiểu nổi tại sao họ có thể tồn tại được trên quả địa cầu này những 5.000 năm?

Bá Dương

Vấn đề bạo lực ở Việt Nam

Vấn đề bạo lực ở Việt Nam

nguyenvubinh

RFA

Bạo lực là hành động của một cá nhân hay một nhóm người sử dụng sức mạnh của cơ thể hoặc vũ khí tác động vào một cá nhân hoặc nhóm người khác. Bạo lực có nguồn gốc từ thời sơ khai của nhân loại trong việc tranh giành thức ăn và phụ nữ để duy trì sự tồn tại của giống nòi. Trải qua thời gian, cho tới trước khi con người được tự do, xã hội có dân chủ, bạo lực luôn là phương thức ứng xử cơ bản để giải quyết các xung đột và tranh chấp. Chỉ đến khi con người chấp nhận sự khác nhau và khác biệt của các cá nhân hoặc nhóm người, thì phương thức giải quyết mâu thuẫn mới chuyển từ bạo lực sang đối thoại.

Ở các xã hội châu Á, phương thức ứng xử bạo lực để giải quyết mâu thuẫn và tranh chấp rất nặng nề và dai dẳng. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Chính đặc tính này của người châu Á và Việt Nam đã giúp cho việc du nhập chủ thuyết cộng sản diễn ra thuận lợi và kéo dài sự tồn tại của thực thể cộng sản đến ngày hôm nay. Phương thức ứng xử bạo lực, hay chính sách khủng bố là cốt lõi, trụ cột của các chế độ cộng sản. Trải qua thời gian, cùng với sự thay đổi bối cảnh quốc tế, và nhận thức của người dân, tính chất tàn ác và mật độ sử dụng bạo lực cũng giảm dần. Tuy nhiên, ở Việt Nam, vấn đề bạo lực vẫn là điều nhức nhối, đáng lên án và cần loại bỏ.

Trước hết, có thể nhận thấy bạo lực tràn lan ở khắp nơi, được sử dụng ở hầu hết các thành phần, đối tượng, đáng lo nhất là bạo lực học đường. Hàng ngày, hàng giờ những vụ việc đâm chém, ẩu đả diễn ra khắp mọi miền đất nước. Số người bị chết, bị thương do sử dụng vũ lực, đánh nhau chưa bao giờ thuyên giảm. Nhưng đau đớn nhất là chúng ta phải chứng kiến các cháu học sinh cấp hai liên tiếp đá vào người, vào mặt một bạn học cùng lớp trong một videoclip mới lan truyền trên mạng. Việc sử dụng bạo lực đã ngấm vào các thiếu niên mới 12-15 tuổi là thành tựu nổi bật của thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ nhất trong lịch sử. Đối với người dân, việc sử dụng bạo lực là sự kết hợp của văn hóa ứng xử tồn tại sẵn trong tính cách với những bức xúc, dồn nén vì hoàn cảnh khó khăn, vì những trái ngang, tiêu cực tràn lan trong xã hội hiện tại. Nhưng đối với nhà cầm quyền Việt nam, mà đại diện là các cơ quan công quyền, cùng với những người thực thi pháp luật, bạo lực là cách thức trấn áp, là phương pháp làm việc, là thủ đoạn đối phó với những người đấu tranh dân chủ.

Sử dụng bạo lực là phương pháp làm việc chính là quá trình điều tra, thẩm vấn của ngành công an. Đã có nhiều người tử vong khi công an sử dụng việc tra tấn, bức cung trong quá trình thẩm vấn của họ. Không những vậy, việc đánh người còn được sử dụng để trục lợi khi người thân của những bị can, bị cáo phải hối lộ, đút lót để con em mình không còn bị đánh đập, tra tấn.

Một vấn đề rất đáng được quan tâm, đó là việc nhà cầm quyền Việt nam sử dụng bạo lực, vũ lực đối với những người đấu tranh dân chủ, hoạt động nhân quyền và hoạt động dân sự. Theo dõi quá trình ứng xử của ngành an ninh đối với giới bất đồng chính kiến, chúng ta ghi nhận, việc sử dụng vũ lực xuất hiện từ khi có tập trung đông người, biểu tình và khi giới bất đồng chính kiến tập hợp, gặp gỡ. Đã có rất nhiều người bị đánh, có những người bị đánh nhiều lần, có người bị đánh rất dã man như gãy chân, gãy tay, gãy xương…nhà cầm quyền Việt nam đã sử dụng côn đồ, và phần lớn là công an mặc thường phục để thực hiện việc đánh đập, đàn áp người dân và giới bất đồng chính kiến.

Việc sử dụng bạo lực nhắm vào những người đấu tranh chứng tỏ nhà cầm quyền Việt Nam đã không còn chính nghĩa, bất lực hoàn toàn về mặt luật pháp và lý lẽ. Họ đã không thể khuất phục được những người đấu tranh dân chủ bằng phương pháp này. Mặc dù bị người dân phản đối, quốc tế lên án nhưng nhà cầm quyền Việt Nam vẫn chưa từ bỏ việc sử dụng bạo lực. Nhưng chúng ta, những người đấu tranh và phản tỉnh cũng không phải e ngại và lo lắng quá về điều này. Bởi lẽ, trong quy trình tiến tới dân chủ của các chế độ độc tài, Việt Nam đang đi những bước cuối cùng của quy trình đó: Giết – Giam cầm (tù đày) – Đánh đập – Đối thoại./.

Hà Nội, ngày 06/9/2015

N.V.B

NGHỀ Y CHUA CHÁT

NGHỀ Y CHUA CHÁT

Trích EPHATA 657

T. là một cô gái trẻ chừng 20 tuổi. Hiền lành, lễ phép, đẹp thùy mị và trong trẻo. Em nhập viện vì một chứng cảm cúm thông thường. Chuyện tưởng chừng như không thể đơn giản hơn: hạ sốt, giảm đau, chút vitamin… nâng đỡ chờ ngày hết sốt và ra viện.

Chiều hôm ấy, T. kêu nhức đầu. Điều dưỡng vừa cho uống một viên giảm đau thì T. đổ vật ra giường, ngưng thở và hoàn toàn mê man, đồng tử giãn rộng, mất phản xạ ánh sáng một bên. Thời đó chưa có CT, nhưng chẩn đoán thì không gì dễ hơn: chứng xuất huyết do vỡ mạch máu não, gây ngập máu chèn ép các mô não, làm tê liệt các trung tâm hô hấp, vận mạch ở thân não.

Cách duy nhất để duy trì sự sống thực vật cho T. là cho thở máy, duy trì những chức năng hô hấp – tuần hoàn tối thiểu để chờ người nhà đến nhìn mặt lần cuối.

Xuất huyết não không chừa ai cả. Đã có ít nhất hai người thầy dạy dỗ tôi, một người đổ gục xuống bàn siêu âm khi đang khám bệnh, một người quị xuống khi đang phát biểu trong một hội thảo tiêu hóa. Họ đột quị giữa rất nhiều đồng nghiệp, chắc chắn không thiếu sự cứu chữa khẩn trương. Và họ cũng không thắng nổi cái giới hạn của y khoa trong chứng xuất huyết não ngặt nghèo này.

Năm ấy tôi 30 tuổi, mà đến giờ này vẫn không quên được cái cảm giác bàng hoàng khi cắt máy thở, chấm dứt các biện pháp hồi sức cho một thiếu nữ đang xuân, tóc đen, môi hồng như đang ngủ. Nên tôi hiểu lắm cảm giác sốc nặng rất kinh khủng của người nhà trước sự ra đi đột ngột của một thành viên rất trẻ như thế.

Trường hợp thiếu nữ vừa qua đời ở bệnh viện Đà Nẵng mà báo chí đưa tin trong những ngày qua cũng không nằm ngoài kịch bản quen thuộc và bi thảm của xuất huyết não. Khi máu đã chảy thành hồ trong nhu mô não, khi não thất đã lụt vì máu, khi những trung tâm hô hấp – tim mạch đã bị chèn ép và tê liệt, thì khả năng sống sót dù được cứu chữa tích cực bằng những biện pháp y khoa tối tân nhất gần như không có. Nói theo từ của dân trong nghề là “tiên lượng rất xấu” hay “không qua khỏi”.

Mà làm gì thì làm, trước mọi ca bệnh nặng, dân trong nghề cũng phải “giữ vững sinh hiệu”, bảo tồn những chức năng tối quan trọng để duy trì sự sống như mạch, huyết áp, hô hấp… rồi mới tính đến những biện pháp đặc hiệu khác. Theo tường trình của đồng nghiệp tôi từ bệnh viện Đà Nẵng, như một thầy thuốc đã làm nghề hồi sức trong nhiều năm, tôi có thể hình dung ngay được tính khẩn trương khi cấp cứu ca bệnh này. Chỉ trong vòng một giờ, người bệnh được chuyển ngay từ khoa cấp cứu lên khoa hồi sức để thở máy, nâng đỡ hô hấp. Trong khoảng thời gian đó, các đồng nghiệp tôi đã cho chụp CT để xác định chẩn đoán xuất huyết não. Không bỏ lỡ một nỗ lực nào, họ còn cho chụp thêm một phim CT mạch máu khác để tìm thêm khả năng cứu sống bệnh nhân dù rất nhỏ nhoi là vỡ dị dạng mạch máu não, một bệnh lý có thể phẫu thuật được, dù khả năng thành công rất thấp ( các phim CT này được chụp với dấu ghi nợ, trước khi người nhà đóng tiền, với ngày giờ còn ghi rành rành trên bệnh án và trên bản in phim ).

Nhưng các thầy thuốc phẫu thuật thần kinh đã lắc đầu bó tay…

Rõ ràng, không một tòa án y khoa nghiêm túc nào có thể buộc tội hay lên án một qui trình cấp cứu chuẩn mực, nhanh chóng và đúng bài bản như thế. Có trách thì chỉ nên trách trời già cay nghiệt, bắt đi một sinh mạng còn rất trẻ như thế.

Nhưng cũng rõ ràng không kém, là cảm giác ngao ngán khi đọc những thông tin ác ý từ báo chí, những bình luận đầy hỗn xược, mạ lị dành cho những đồng nghiệp của tôi ở Đà Nẵng. Những “bình luận gia” này không phải là dân y khoa, hẳn rồi, nên mới phê phán gay gắt, mau mắn như đúng rồi như thế.

Nhưng từ đâu ra, xã hội chúng ta mang sẵn những định kiến đầy thù nghịch giữa công chúng và y giới như thế ?

Câu trả lời chẳng đâu xa, nếu biết rằng trước năm 1975, Sàigòn có 3 triệu dân. Sau 40 năm “xây dựng và phát triển”, dân số Sàigòn đã vượt quá 10 triệu mà không hề có thêm một bệnh viện công lập nào khả dĩ to đẹp, đàng hoàng như bệnh viện Chợ Rẫy. Lại phải gánh thêm bệnh nhân các tỉnh đổ về.

Nên quá tải là phải ! Nên phận người khi vào bệnh viện công phải chen chúc nằm đôi, nằm ba, nằm ngoài hành lanh, dưới gầm giường… Thật không bút mực nào tả xiết những thảm cảnh của người dân trong các bệnh viện thời nay, thật chẳng khác chi những trại tị nạn. Cả đôi bên, người nhà, bệnh nhân và nhân viên y tế, không ai không cảm thấy ngột ngạt, bức bối.

Đó là chưa kể những nhũng nhiễu, hạch sách của không ít thầy thuốc, làm cho bức tranh đã đen tối lại càng thê thảm hơn nữa.

Trong khung cảnh bức bối đó, và trên nền tảng của một xã hội đang mục nát về đạo đức, người ta không còn tin nhau nữa. Lòng trắc ẩn, tình đồng loại, sự chia sẻ, biết ơn… dễ dàng biến mất, nhường chỗ cho bạo lực, nghi hoặc, hung hãn. Nên mới có việc mẹ bệnh nhi tát vào mặt bác sĩ của con mình, nên mới có việc nhân viên y tế bị đâm chết, hay bị đổ xăng thiêu sống…

Chuyện kinh khủng như vậy, quả tình “xưa nay hiếm” dưới gầm trời nước Nam này !

Ở một thái cực khác, các quảng cáo theo kiểu “bệnh viện là khách sạn” cũng dẫn đến rất nhiều ngộ nhận: người ta đòi hỏi nhân viên y tế phải hầu hạ thay vì chăm sóc, phục dịch thay vì phục vụ, và tự cho mình cái quyền “muốn gì được nấy” ở bệnh viện. Người ta quên y khoa là một khoa học đòi hỏi sự chuyên nghiệp, và nhân viên y tế là những người chuyên nghiệp. Họ làm việc vì sự sống và sức khoẻ làm đầu, chứ không phải vì sự thoả mãn hay hài lòng của một vài cá nhân quá quắt. Dưới nhãn quan của công chúng, việc cột tay chân bệnh nhân vào giường là vô nhân đạo, phản cảm. Nhưng có ai hiểu cho nếu không làm vậy, con người sảng rượu kia sẽ bứt ngay dây oxy, dịch truyền, quậy phá tưng bừng…

Một ví dụ nhỏ vậy thôi, để thấy rằng đã đến lúc phải xây dựng lại nền tảng cốt lõi của y khoa là sự thấu cảm và tôn trọng nhau từ cả hai phía: bệnh nhân và thầy thuốc. Người ta có thể ban hành những qui chế máy móc và nực cười để dạy thầy thuốc chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi bệnh nhân. Thì cũng nên ấn định những thái độ ứng xử đúng mực từ phía bệnh nhân và người nhà của họ. Vì sẽ không bao giờ có một nền y khoa nhân bản nào được hình thành từ thái độ du côn hay thù nghịch.

Xin thôi cho thói dậu đổ bìm leo, mắng nhiếc nhân viên y tế như một trào lưu.

Xin đừng hằn học với thầy thuốc vì những qui định hành chính về y tế. Họ không đẻ ra nó, mà là một hệ thống thừa ngàn tỷ để xây tượng đài nhưng không đủ tiền để chụp một tấm phim CT miễn phí hay ký nợ cho công dân của mình đang lâm trọng bệnh. Hệ thống đó thừa thì giờ, công sức để đẻ ra đủ thứ qui định răn dạy nhân viên của mình, nhưng chưa bao giờ đề cập đến một hỗ trợ tài chính, luật pháp để bảo vệ người thầy thuốc trước những tai nạn nghề nghiệp như đã xảy ra với đồng nghiệp tôi ở Đà Nẵng.

Và xin cho chúng tôi, những người thầy thuốc, được hành nghề trong niềm vui và vinh dự của nghề nghiệp. Không vì hai điều ấy, y khoa là nghề nghiệp bạc bẽo và nhọc nhằn biết chừng nào !

Bs. LÊ ĐÌNH PHƯƠNG

“CON ĐƯỜNG EM ĐI ĐÓ, ĐÚNG HAY SAO EM ?”

“CON ĐƯỜNG EM ĐI ĐÓ, ĐÚNG HAY SAO EM ?”

Lm. VĨNH SANG, DCCT

Trích EPHATA 657

Có một nhóm bạn trẻ mang tên “Giêsu yêu bạn” mời tôi đàm luận đôi điều trong chương trình chuẩn bị lễ bổn mạng của các bạn sắp tới ( Thánh Vinh Sơn Bác Ái ). Tôi được biết các bạn là những người trải qua các đau khổ cuộc đời nhưng may mắn được Chúa chữa lành, từ đó các bạn tìm được bình an và hạnh phúc trong cuôc sống hiện tại, các bạn muốn quy tụ lại để được tiếp tục chữa lành, được cùng nhau cất lời ca tụng Chúa và để làm chứng cho quyền năng và tình yêu của Chúa chữa lành cho anh em, cho mọi người.

Sống được trải nghiệm quyền năng của Chúa trong đời mình, các bạn muốn mách bảo cho những ai bị tổn thương: hãy tìm đến với quyền năng của Chúa. Các bạn xác tín một khi được Chúa chữa lành, các bạn không còn buồn phiền, không còn lo lắng, không còn đau khổ nữa. Nghe các bạn chia sẻ và quan sát cuộc sống của các bạn, tôi nghe vang dội đâu đây lời của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Tông Huấn “Niềm Vui của Tin Mừng”. Mở đầu Tông Huấn, ngài nói: “Niềm vui của Tin Mừng đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận lời đề nghị cứu độ của Người thì được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn” ( Bản dịch của Ủy Ban Loan Báo Tin Mừng ). Quả thật, chỉ những ai đã đi qua những tổn thương, nhưng được Chúa chữa lành mới cảm nhận được kinh nghiệm nội tâm mà Đức Thánh Cha đề cập đến trong Tông Huấn.

Nhân loại đã bị tổn thương quá nhiều do tội lỗi của con người gây ra, bản thân mỗi người không tìm được sự bình an, cứ luôn bị nhốt kín trong cay đắng, giận hờn, ganh tỵ. Cứ luôn chạy đuổi theo quyền lực thế gian, đam mê vật chất, thù hằn và kiêu ngạo. Một thế giới la liệt những kẻ mù, què, tê bại, phong cùi tinh thần không sao thoát được. Chúng ta cần biết bao quyền năng chữa lành của Thiên Chúa, chỉ khi nào chúng ta gặp được Chúa đích thật, dám mở lòng ra để đón nhận lời cứu độ của Chúa, khi ấy sẽ hết muộn phiền, hết đố kỵ, hết cô đơn và hết tuyệt vọng.

Chúng tôi nói với nhau về kinh nghiệm đi gặp Chúa, nẻo đường hẹp khó khăn gian nan dẫn đến cuộc hẹn hò với Chúa. Chúng tôi nói với nhau về cảm nhận của sự gặp gỡ Chúa, khi Chúa không xuất hiện nơi những gì là quyền cao chức quý, nhưng ngài lại luôn hóa thân nơi những người nghèo khổ. Chưa có trang Tin Mừng nào mô tả Chúa hiện diện nơi những cung điện cao sang hay những nơi phô diễn quyền lực thế gian, nhưng Tin Mừng lại nói Chúa hiện diện nơi “gã” làm vườn, nơi “anh” lữ khách không nhà, nơi “kẻ” lang thang ngoài bờ biển…

Lời ngôn sứ Chúa lầy làm ứng nghiệm cho sứ vụ của Ngài lại là lời tuyên bố: “Thần khí Chúa ở trên tôi, bởi Người đã xức dầu cho tôi, Người đã sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó, ban bố ân xá cho kẻ tù đày, cho người đui mù được thấy, cho kẻ bị áp bức được giải oan; loan báo năm hồng ân của Chúa.” ( Bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn, DCCT ).

Rõ ràng đối tượng được xác định chính là người nghèo khó, kẻ bị tù đày, người đui mù và những kẻ bị áp bức. Thật khó và rất ngượng miệng nếu muốn nói bâng quơ và cắt nghĩa chỉ theo ý tinh thần các chữ nghèo khó, tù đày, đui mù và áp bức.

Chiều thứ hai tuần 22 mùa Thường Niên,  ngày 31.8.2015 vừa qua, có một vị Giám Mục đến thăm các cha các thầy ở Nhà Hưu Dưỡng Tỉnh DCCT Việt Nam. Khi ngài đang thăm viếng, có một số anh em Linh Mục trẻ đến chào ngài, trong số đó có một vị đang lo việc đào tạo, ngài hỏi: “Cha có nhớ bài Tin Mừng hôm nay không ( Lc 4, 14 tt. ) ?” Không đợi trả lời, vị Giám Mục chia sẻ luôn: “Chúng ta thường không làm theo lệnh sai đi, nếu có làm thì lại thường làm sai nội dung của lệnh. Anh em cẩn thận nhé”. Tôi đứng đấy, nghe trọn vẹn lời nhắc của vị Giám Mục đáng kính mà lòng băn khoăn mãi. Con đường mình đang đi đúng hay sai ?

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 4.9.2015
( tựa đề lấy từ bài hát “Không tên cuối cùng”
của Vũ Thành An, Nguyễn Trung Tín )

Đâu Là Nơi Duy Nhất Người Việt Nam Không Bị Khinh? –

Đâu Là Nơi Duy Nhất Người Việt Nam Không Bị Khinh? –

Khánh Hưng

Chuyện đọc xong thì thấy quá đau lòng…nhưng biết nói sao hơn. Tự mình làm mất  sự

kính trọng của mọi người đến mình thì hậu quả phải đến !!!

Nhân đọc bài viết của một người Nhật nhận xét về người Trung Quốc mà phần bình luận đăng trên Bauxite Việt Nam có liên hệ với đặc tính của người Việt Nam hiện nay, tôi muốn góp nhặt mấy mẩu chuyện tai nghe mắt thấy sau đây.

Năm 2006, một công ty của người gốc Việt ở Mỹ thuê tôi về Việt Nam làm một nghiên cứu cho một dự án đầu tư kinh tế. Vài người quen đưa tôi đi làm việc với chính quyền một vài tỉnh để tìm hiểu các kế hoạch kinh tế của địa phương. Đi đến đâu, tôi cũng nhận được một

lời khuyên tương tự là, tôi nên đưa theo một người Mỹ trắng, dù người đó là một nhân

viên bảo vệ hay là một lao công cho công ty tôi ở Mỹ, miễn sao người đó nói “xí bô xí ba”

gì đó, rồi tôi dịch ra tiếng Việt, thì tôi mới được tiếp đón nồng hậu và nhiệt tình!

Trở lại thành phố Sài Gòn, gặp một cậu “Việt kiều” 26 tuổi, sinh ở Mỹ, tốt nghiệp Cao học

Anh ngữ tại Đại học Los Angeles (UCLA). Với nguyện vọng tha thiết được làm việc tại

Việt Nam, cậu xin vào dạy tại một trung tâm Anh ngữ trực thuộc một trường Đại học lớn

của Việt Nam. Ở đây, người ta trả lương theo giờ cho cậu ít hơn ba lần so với mấy người

Tây ba lô. Họ nói, cho dù anh có trình độ và khả năng hơn hẳn mấy người Tây đó, nhưng vì

anh là người “gốc Việt” nên không có… giá cao!

Bản thân tôi, trong một lần trú tại một khách sạn của công ty Du lịch Tp Hồ Chí Minh, có hôm tôi gọi tiếp tân yêu cầu cử người giúp sửa đường dây internet, gọi đến lần thư ba vẫn

chỉ hứa hẹn. Sau đó, khi tôi gọi và nói chuyện bằng tiếng Anh, thì cô tiếp tân rối rít

“Yes, sir” và vài phút sau, một nhân viên xuất hiện! Tương tự, vài lần đi máy bay Vietnam

Airlines từ Đài Loan về Việt Nam, tôi đã rút được kinh nghiệm là phải sử dụng tiếng Anh

nếu muốn được phục vụ tốt và lịch sự! Hết biết! Người Việt tự kỳ thị nhau và bị kỳ

thị ngay chính ở Việt Nam!

Thế còn  người nước ngoài, họ nghĩ gì về Việt Nam?Một người tôi quen, là cán bộ lãnh

đạo của một cơ quan văn hóa thành phố Hồ Chí Minh. Trong một bữa “nhậu,” ông ấy vừa nhai ngồm ngoàm cái đùi ếch, vừa thuyết trình với anh bạn người Mỹ bên cạnh tôi (tất nhiên tôi là thông dịch viên bất đắc dĩ), rằng Việt Nam  tuy còn nghèo nhưng nhờ có độc lập nên giữ được phẩm giá. Ông lấy ví dụ, vừa rồi, trong một chuyến du lịch ở Mỹ, trong lúc ông

bị lạc khi viếng thăm Hollywood, ông đã được hai viên cảnh sát Mỹ “hết sức lể phép, trân

trọng, và nhiệt tình” giúp ông tìm đường. Họ luôn gọi ông bằng “sir,” tức là “ngài.” Ông kết luận, vì họ biết ông là cán bộ của Việt Nam, nên họ đã đối xử với ông một cách trọng thị như vậy!Anh chàng Mỹ ngồi bên cạnh tôi tròn mắt và… không nói gì cả!

Nghe ông cán bộ này nói, tôi nhớ lại ba câu chuyện:Năm 2005, tôi đưa cậu con trai 4 tuổi,

trên đường về thăm Việt Nam, ghé lại thăm viếng và nghỉ ngơi ở Nhật ba ngày. Chúng tôi

trú tại một khách sạn ở Tokyo. Thấy hai cha con chúng tôi trao đổi qua lại bằng tiếng Anh, hầu như tất cả nhân viên làm việc ở đây đều cư xử với chúng tôi một cách hết sức thân tình

và trân trọng. Họ nghĩ chúng tôi là người Mỹ gốc Nhật. Thế nhưng, khi nghe tôi cải chính lại

là người Việt Nam, thì thái độ họ thay đổi hẳn!

Một anh bạn tôi là một nhà giáo và một nhà báo nghiệp dư ở vùng Vịnh San Francisco kể

rằng: Trong chuyến đi du lịch vùng Đông Âu như Ba Lan, Tiệp Khắc, Nga… anh luôn gặp rắc rối vì cái hộ chiếu Việt Nam của vợ anh. Lúc nào vào ra cửa khẩu của các nước này, thì cả

đoàn du lịch 20 người có passport Mỹ đều cho qua một cách thoải mái, chỉ duy nhất vợ anh

với hộ chiếu Việt Nam là bị tách ra vào phòng riêng xét hỏi. Lần nào anh cũng phải viết giấy

bảo lãnh! Mà mấy nước này vốn là “anh em xã hội chủ nghĩa” của Việt Nam mấy năm trước

đây!

Chuyện thứ ba, trong một lần du lịch tại Jakarta, Indonesia, tôi đi với một người

bạn địa phương vào một câu lạc bộ khiêu vũ (dancing). Mấy cô vũ nữ nghe tôi nói chuyện bằng

tiếng Anh thì vồ vập và tò ra rất tình cảm. Thế nhưng, khi nghe tôi nói là “người Việt

Nam”, thì mấy cô dần dần lảng ra! Trời, ngay cả mấy cô… bán hoa mà cũng… đối với

người Việt Nam như vậy!Tôi định kể cho ông bạn cán bộ nghe ba câu chuyện này, nhưng lại thôi vì e là ông cũng không hiểu, và nếu hiểu ra thì không khéo ông lại qui cho tôi tội “theo đuôi đế quốc, xúc phạm dân tộc” thì mệt lắm!

Còn người Việt Nam xem người ngoại quốc thế nào?Vợ chồng người bạn khác của tôi tại

Hà Nội đều là “trí thức”, thuộc gia đình quyền thế và khá giả tham vấn tôi về kế

hoạch mở một trường Mẫu giáo cao cấp, trong đó có qui định là chỉ nhận con em của người

nước ngoài da trắng. Tôi hỏi lại vài lần chữ “da trắng” và xin được giải thích thêm. Họ

nói rằng, ở Việt Nam đã có hai trường như vậy và đã tồn tại nhiều năm (?!), nói rõ là

chỉ nhận học sinh người “da trắng.” Người ngoại quốc mà da màu cũng không được, thậm

chí ngay cả con cái cán bộ Việt Nam cao cấp hoặc đại gia cũng không được nhận. Vợ chồng

anh bạn này khẳng định, tiền bạc chỉ là một vấn đề nhỏ, điều anh chị muốn là thể hiện

“đẳng cấp” của anh chị, và của cơ sở do anh chị thành lập!

Tôi sống ở Mỹ, một đất nước do người da trắng thành lập và xây dựng nên, thế nhưng trên cả nước Mỹ, không nơi nào có một trường học với qui định như vậy cả! Nếu ai đó ở Mỹ mà có cái ý tưởng như vậy, thì có lẽ trước khi bị lôi ra tòa án cho phá sản, chắc chắn là sẽ bị dư luận ném xuống loại “đẳng cấp” man rợ! Tôi không biết thật sự ở Việt Nam đang có kiểu trường “quốc tế”

như vậy không, nhưng chỉ riêng thái độ tận tụy phục vụ người “da trắng” của hai vị trí thức trẻ và quyền lực Hà Nội cũng đủ để nhận ra một thế hệ “quí tộc” Việt vô cùng… quái đản!

Kể lại những câu chuyện này, một người bạn của tôi nói rằng, trên thế giới hiện nay chỉ có duy nhất một nơi mà người Việt Nam không bị khinh rẻ, đó là nước Mỹ!

Thật mỉa mai, nhưng đó là sự thật! Tôi sống ở Việt Nam 30 năm, 15 năm ở Mỹ, và đi đây đó khoảng chục nước, tôi công nhận điều anh bạn này nói. Ít ra, đây cũng là điều an ủi cho những kẻ “tha hương” – người Việt ở Mỹ như chúng tôi. Và đó cũng là lý do, mà tôi đã bỏ ý định trở lại quê hương Việt Nam sau khi học hành xong ở Mỹ, như kế hoạch của tôi ngày ra đi!

Khánh Hưng

Kinh doanh thua lỗ, móc túi dân hàng ngàn tỉ đồng để trả! (*)

Kinh doanh thua lỗ, móc túi dân hàng ngàn tỉ đồng để trả! (*)

C.V.KÌNH

Làm ăn thua lỗ, lại đòi tính khoản lỗ đó vào giá điện, nghĩa là bắt từng người dân móc tiền túi để trả, còn doanh nghiệp thì vô can. Đấy là thực chất của cái gọi là “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”! Đừng phẫn nộ, đừng lên án các tập đoàn Điện lực, Than – khoáng sản và Dầu khí. Họ vô tội! Ai làm Tổng giám đốc các tập đoàn này cũng ứng xử như họ thôi, một khi Hiến pháp 2013 xác định “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. Lấy Hiến pháp làm đạo bùa, họ tha hồ hô phong hoán vũ, “kinh doanh” bất chấp quy luật thị trường vì thị trường không trừng phạt nổi họ. Trừng phạt họ, là trừng phạt nhà nước. Mà trong chế độ toàn trị, nhà nước tuyệt đối đứng ngoài mọi sự trừng phạt.

Cho nên nhìn xa hơn, có một tập đoàn còn lớn hơn ba tập đoàn này nhiều lần, cũng được dành vị trí độc quyền, cũng lấy hiến pháp để bảo kê, cũng không hề sợ bị trừng phạt: Đảng Cộng sản Việt Nam. Và tương tự các tập đoàn quốc doanh khác, Đảng kinh doanh quyền lực, và khi bộ máy quyền lực sai lầm, thì sai lầm đó dân hứng chịu tất.

Ai bảo làm dân!

Bauxite Việt Nam

TTO – Ba tập đoàn lớn là Điện lực (EVN), Than – khoáng sản (TKV) và Dầu khí (PVN) đồng loạt kêu lỗ hàng ngàn tỉ do điều chỉnh tỉ giá và đề nghị… tính vào giá thành điện.

clip_image001
Điện lại đứng trước áp lực tăng giá vì điều chỉnh tỉ giá. Trong ảnh: Nhà máy nhiệt điện than của TKV – đơn vị vừa báo lỗ 1.200 tỉ vì điều chỉnh tỉ giá – Ảnh: Nguyễn Khánh

Cụ thể, theo thông tin từ Bộ Công thương, trong cuộc họp giao ban trực tuyến tháng 8-2015 ngày 3-9, phó tổng giám đốc TKV Vũ Anh Tuấn cho biết chênh lệch tỉ giá đã làm các nhà máy nhiệt điện TKV đầu tư phát sinh khoản lỗ đến 1.200 tỉ đồng.

Do vậy, TKV đã kiến nghị Bộ Công thương xem xét cho tính khoản chênh lệch tỉ giá này vào giá thành điện.

Liên quan đến chênh lệch tỉ giá, lãnh đạo PVN cũng cho rằng chênh lệch tỉ giá ảnh hưởng rất nhiều đến PVN.

Ông Ngô Sơn Hải – phó tổng giám đốc EVN – cũng “kêu” chênh lệch tỉ giá ảnh hưởng đến lĩnh vực điện rất lớn, riêng TKV lỗ khoảng 1.200 tỉ đồng.

“Nếu cộng tất cả các con số mà cả TKV và PVN lỗ do tỉ giá thì có thể gấp hơn 10 lần con số 1.200 tỉ đồng” – ông Hải nói.

Ông Ngô Sơn Hải nhấn mạnh EVN đang thống kê số liệu để báo cáo Bộ Công thương nhằm có hướng giải quyết và cảnh báo “nếu tất cả các đơn vị điện của TKV, PVN đưa hết lỗ tỉ giá vào giá điện sẽ tác động rất lớn tới bức tranh tài chính của EVN”.

Thứ trưởng Bộ Công thương Đỗ Thắng Hải kết luận diễn biến tỉ giá trong thời gian qua đã tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của một số doanh nghiệp. Tuy nhiên, với những kiến nghị tính vào giá thành sản xuất điện, ông Hải cho biết bộ sẽ trình Chính phủ xem xét.

C.V.K.

Nguồn: http://tuoitre.vn/tin/kinh-te/20150904/dieu-chinh-ty-gia-ca-chuc-ngan-ty-dang-cho-tinh-vao-gia-dien/963291.html

Cái dở của “lực lượng thứ ba”

Cái dở của “lực lượng thứ ba”

Đôi lời: Hôm qua, GS Nguyễn Ngọc Giao có gửi tới trang BS một bài viết và chúng tôi đã đăng tại đây: Tiếc thương Trần Hạnh (1954-2015). Hôm nay có một độc giả gửi tới bài viết của ông Phạm Hồng Sơn, phản bác lại một chi tiết trong bài mà chúng tôi đã đăng. Để rộng đường dư luận, chúng tôi xin đăng lại toàn bộ bài viết này.

_____

Phạm Hồng Sơn

6-9-2015

Ông Nguyễn Ngọc Giao, một trí thức miền Nam ủng hộ miền Bắc cộng sản, tức thuộc “lực lượng thứ ba” thời Việt Nam Cộng Hòa, vừa kể lại một chi tiết nhỏ liên quan tới chuyện đi “học tập cải tạo” của một viên chức Việt Nam Cộng Hòa sau ngày 30/4. Ông Giao thuật rằng người tù khi trở về đã trả lời người con về chuyện đối xử trong tù cộng sản thế này:

“Bỏ qua đi. Nếu bên mình thắng, có lẽ đối xử với bên kia còn tệ hơn”.

Về mặt sự thật, chúng ta không thể xác định câu trả lời này chính xác đến đâu. Trường hợp đây thực là lời nói của nhân vật chăng nữa, tôi cho rằng khả năng “có lẽ” đó quá nhỏ so với khả năng Việt Nam Cộng Hòa sẽ đối xử nhân bản (hơn) với miền Bắc, nếu Việt Nam Cộng Hòa thắng. Tại sao? Ở đây tôi chỉ dẫn lại hai trong số rất nhiều cứ liệu:

  1. Con gái của một bộ trưởng “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam” – tổ chức do miền Bắc lập ra để đối kháng bạo lực với Việt Nam Cộng Hòa – vẫn quan hệ thân tình với con Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và vẫn được Tổng thống quí mến, giúp đỡ.
  2. Vợ của một thứ trưởng của “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam” vẫn sinh sống đàng hoàng tại Sài Gòn và còn làm việc trong nghành tòa án của Việt Nam Cộng Hòa.

Cứ liệu 1 có thể kiểm chứng trong hồi ký A Vietcong Memoir của ông Trương Như Tảng. Cứ liệu 2, hồi ký Những chuyến ra đi hoặc liên hệ ngay với tác giả/nhân chứng hiện còn sống: nhà nghiên cứu Lữ Phương.

Người như ông Nguyễn Ngọc Giao chắc chắn phải biết và trực nghiệm nhiều hơn các sự kiện, đặc tính khoan dung, đa nguyên, nhân bản của Việt Nam Cộng Hòa như vừa kể. Vì vậy, nếu thực sự nhân vật đã có đánh giá như ông Giao viết, thì một người trí thức hiểu biết về Việt Nam Cộng Hòa và lại thường bày tỏ yêu mến tự do, dân chủ như ông Giao lẽ nào có thể thuật lại một cách vô tâm đến vậy? Nhất là trong tình trạng đất nước hiện nay?

Nghiên cứu, phê bình về “lực lượng thứ ba” đã có nhiều bài viết công phu, như của tác giả Nguyễn Văn Lục. Nhưng theo tôi, cái dở của họ không phải họ là người được sống trong thể chế văn minh (hơn) của miền Nam lại đi ủng hộ miền Bắc cộng sản. Bởi, sai lầm này dẫu quá đớn đau cho dân tộc cũng thường thôi nếu nhìn kỹ hơn về bản tính dân tộc và về bản thể con người. Cái dở của họ không phải là các hoạt động xã hội hiện nay của họ quá rụt rè so với thời Sài Gòn dẫu cái Ác hiện nay ác gấp nhiều lần trước. Bởi ai cũng chỉ có một thời sung sức nhất định. Cái dở của họ cũng không phải chuyện chưa xin lỗi dân tộc vì đã vô tình tiếp tay phá bỏ một chế độ văn minh hơn. Bởi Elton John đã viết: “Xin lỗi” hình như là từ khó nói nhất.

Cái dở, cái tồi của “lực lượng thứ ba” là đến tận hôm nay vẫn có người cố tình biện bạch cho sai lầm của bản thân bằng những cách tinh vi, nhưng thiếu lý tính.

Tiến sĩ Alan Phan và trải nghiệm kinh doanh

Tiến sĩ Alan Phan và trải nghiệm kinh doanh

Tiến sĩ Alan Phan trong buổi ra mắt sách ở San Jose hôm 23/8/15 (ảnh Bùi Văn Phú)

Tiến sĩ Alan Phan trong buổi ra mắt sách ở San Jose hôm 23/8/15 (ảnh Bùi Văn Phú)

Bùi Văn Phú

Không ít người Mỹ gốc Việt đã về Việt Nam làm ăn. Có người thành công, nhưng đa số thất bại. Thất bại không nói ra, nhưng thành công cũng không ai khoe vì không biết có bền lâu hay không.

Tiến sĩ Alan Phan thì khác. Ông đã trải nghiệm mấy chục năm trên thương trường quốc tế, từ châu Mỹ, châu Phi sang châu Á với thất bại cũng như thành công. Những kinh nghiệm làm ăn đã được ông ghi lại qua mười một đầu sách. Hai tác phẩm mới nhất là Doanh nhân Việt trong thế trận toàn cầu (600 trang) và 42 năm làm ăn tại Mỹ và Trung Quốc (300 trang) – gồm nhiều bài đã đăng trên Blog gocnhinalan.com – được ra mắt tại hội quán báo Thằng Mõ ở San Jose vào trưa Chủ nhật 23/8.

Trên 100 khách đã đến tham dự, trong đó có nhiều doanh nhân vùng Vịnh San Francisco như ông David Dương, Tổng giám đốc California Waste Solution; ông Trần Hồng Phúc Chủ tịch Phòng Thương mại Việt Nam Oakland; ông Đỗ Vẫn Trọn của Truyền hình Viên Thao; ông Nguyễn Xuân Nam của TV và báo Calitoday; ông Huỳnh Lương Thiện của Tuần báo Mõ SF.

Ngoài ra còn có cựu phó thị trưởng Madison Nguyễn, kĩ sư Đỗ Thành Công và ủy viên giáo dục Vân Lê, là ba ứng cử viên cho chức Dân biểu Tiểu bang Địa hạt 27 vào năm tới.

Còn lại đa số là các bạn trẻ, trong đó có những sinh viên du học đến từ Việt Nam.
Bài nói chuyện của Tiến sĩ Alan Phan xoay quanh thương trường Việt Nam và những cơ hội. Theo ông, đầu tư đòi hỏi sự chuyên nghiệp, kế hoạch và tùy thuộc nhiều vào nhà nước, trong khi kinh doanh là môi trường hoạt động thoáng hơn và dễ thành công hơn.

Ông mô tả: “Việt Nam là một môi trường giới hạn, không phải muốn gì thì làm nấy. Tình hình còn mù mờ. Xã hội Việt Nam so với Mỹ thì thật là bát nháo và hỉ nộ ái ố hơn. Không ở đâu buồn cười như ở Việt Nam. Mở tờ báo ra đọc là thấy đính chính tôi không bị bắt. Như mới đây ông Trần Phương Bình của Đông Á Ngân hàng phải lên tiếng. Rồi ông Đặng Thành Tâm cũng lên tiếng đính chính là chưa bị bắt.”

Hai tập sách của tác giả Alan Phan (ảnh Bùi Văn Phú)

Hai tập sách của tác giả Alan Phan (ảnh Bùi Văn Phú)

Câu nói vui đùa của Tiến sĩ Alan: “Tôi cũng đính chính với các bạn đây là tôi không bị bắt” đã đem đến cho khách dự một tràng tiếng cười.

Theo ông, nhiều người Việt hải ngoại về Việt Nam có những lí do riêng, gái gú cũng có, kỉ niệm ngày xưa cũng có, thắng cảnh cũng có. Quê hương cũ có một sự quyến rũ nào đó.

Nếu đó là một nơi có thể sống được, kiếm được tiền thì rất thoải mái. Ở đó có những niềm vui và những điều tiêu cực. Nhưng nói chuyện làm ăn là cần có sự may mắn và phải có quan hệ.

“Nếu về làm ăn tôi khuyên là người độc thân, về đó gặp con cán bộ là kết hôn ngay vì quan hệ rất quan trọng trong làm ăn được thua ở Việt Nam. Phải có người chống lưng, có gốc rễ.”

Ở Mỹ thì khách hàng là số một, còn ở Việt Nam, theo quan sát của ông: “Khách hàng là quan chức nhà nước. Nếu mấy ông đó thích thì sẽ bán được nhiều hàng, làm ăn lên rất lẹ. Nếu mấy ông không thích thì ô hô ôm passport lo chạy về Mỹ.”

Nội bộ lãnh đạo với tranh giành phe nhóm cũng ảnh hưởng lớn đến kinh doanh. Mình đứng về phiá thua thì coi như không còn gì.

Tiến sĩ Alan nhắc đến sự kiện ông Hà Văn Thắm là phe của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, khi ông Hùng mất thế thì giá cổ phiếu Ocean Group của công ti do ông Thắm điều hành đang từ 100 nghìn đồng rớt xuống 1 nghìn, ngân hàng bị nhà nước mua lại với giá coi như cho không.

Ông cũng tiết lộ nhà nước theo dõi một thương gia nước ngoài về làm ăn rất lâu và rất sâu vì chính ông bị moi ra chuyện quan hệ với một thiếu nữ Trung Quốc ông quen đã lâu, giờ không còn nhớ mà họ vẫn để ý.

Nói đến các khu vực kinh doanh có triển vọng, theo nhận định của Tiến sĩ Alan thì đó là IT và nông nghiệp.

IT không cần hạ tầng cơ sở và thành phần trẻ có đam mê và ao ước làm được cái gì đó tốt đẹp cho thương hiệu Việt Nam thay vì cứ sao chép hay ăn cắp bản quyền.

Ông nói: “Phát triển IT vì quan cán bộ ngu lắm, email không biết, software nói với mấy ông ấy như nói với vịt. Ít hạ tầng cơ sở nên mấy ông ấy không kiếm tiền được.”

IT khó kiểm soát vì tài khoản có thể đặt ngoài Việt Nam, tránh được bộ máy hành chánh chỉ đòi tiền. IT cần đột phá, sáng tạo, không cần gia truyền hay cổ truyền, tư duy luỹ tre làng bị gạt qua một bên. Đây là con đường mới cho giới trẻ, thời trang đối với Việt Nam nên họ rất hâm mộ.

Còn nông nghiệp, ngày nay không phải là sản xuất mà là tìm kiếm được thị trường. Nông phu tranh nhau đi chăn nuôi, trồng trọt nhưng tìm được thị trường rất khó vì nếu mình bán rẻ 10%, nước khác bán rẻ 20% hay 30% thì không thể cạnh tranh nổi.

Nhiều nước đã có sản xuất qui mô, công nghệ cao trong khi Việt Nam chưa đạt tới trình độ đó thì cũng khó cạnh tranh. Để tìm được thị trường cần có hàng đặc thù, trong khi nhà nước không giúp gì được vì chỉ lo “hành dân là chính”, vì thế giới trí thức có thể làm được việc này. Sau đó phải có trung gian tiếp thị, về mặt này người Việt ở hải ngoại đóng góp vai trò quan trọng.

Như người Tàu họ có chuỗi dây phân phối rất hữu hiệu. Nhưng nay với công nghệ thông tin, vai trò của người trung gian cũng đang giảm đi, thông tin về mặt hàng có thể tìm thấy trên mạng.

Đó là những lí do tại sao Tiến sĩ Alan Phan nhấn mạnh đến hai khu vực IT và nông nghiệp để Việt Nam có thể cạnh tranh và có những tiến bộ hơn về kinh tế.

Vì sao lại là hai khu vực đó? Theo ông, với dân số hơn 90 triệu, xã hội Việt Nam ngày nay gồm những nhóm sau:

1/ Những người của thế giới kỹ thuật số, họ sống xa lánh hoàn toàn với thế giới bên ngoài, biết được những thứ mà dân thường không biết, họ khao khát có tiến bộ cho đất nước. Số người này khoảng 6 triệu.

2/ Nông dân từ 30 đến 40 triệu, chỉ lo kiếm sống và mong muốn đời sống được cải thiện một chút.

3/ Quan chức cán bộ, hơn 3 triệu. Đối với những người này, cứ trả lương cho họ nằm nhà là tốt nhất cho dân.

4/ Thành phần còn lại là những người không làm mà vẫn ăn, suốt ngày đi nhậu rồi về nhà đánh vợ, ù lì đến độ không còn chút hy vọng gì vào đám người này.

Vì thế tạo cơ hội phát triển cho hai thành phần IT và nông dân sẽ là những mũi nhọn đưa kinh tế Việt Nam đi lên.

Là người với nhiều kinh nghiệm làm ăn trên thương trường quốc tế, ông cũng đã đầu tư vào Việt Nam 2 triệu đô-la và mất hết. Những năm qua Tiến sĩ Alan Phan đã làm tham vấn hướng dẫn cho doanh nhân Việt biết cách làm ăn theo lối Mỹ.

Tuy nhiên, trong nhiều cuộc phỏng vấn ông đã nói bạo khiến quan chức nhà nước không vui: “Mình nhìn sao nói vậy nên có hơi sốc với nhiều người nên bây giờ nhà nước không cho tôi có những phát biểu trực tuyến nữa. VTV có phỏng vấn tôi 30 phút, sau khi cắt xén đi còn chừng 5 phút.”

Ông nói: “IT không cần nhiều cơ sở hạ tầng. Mấy ông quan chức rất khôn lanh, xây cầu đường, tượng đài họ chia nhau được. Mức độ trù phú của miếng bánh cắt riết mà cái bánh ngày càng nở ra. Người ta đang ăn ngon thế này thì sao đòi được. Được cái mấy ông chỉ đi vay, rồi ăn bớt ăn xén cái đó. Dân mình chịu nợ thôi. Mà tính quịt là muôn đời của người Việt Nam. 15 năm sau có nước nào đòi nợ thì chỉ còn cái quần cụt thì không có gì để đòi được nữa.”

Tiến sĩ Alan Phan trả lời phỏng vấn của giới truyền thông (ảnh Bùi Văn Phú)

Tiến sĩ Alan Phan trả lời phỏng vấn của giới truyền thông (ảnh Bùi Văn Phú)

Ông kể, một quan chức cao cấp nói thằng nào ngu cho vay thì mình cứ lấy tiền đó mình xài. Người dân họ không biết, cứ để cho dân uống bia tự do là thoải mái rồi, họ không thắc mắc gì.

Về những người từ Mỹ về đầu tư, nhắc đến ông David Dương, Tiến sĩ Alan Phan phát biểu: “Tôi nghe ông về xử lí rác thì tôi thích thú lắm. Mong ông xử lí rác ở Ba Đình thì ông lại xử lí rác ở đâu Đa Phước. Mong một ngày ông sẽ đưa Ba Đình vào đống rác của ông ấy”. Hội trường òa lên những tiếng cười.

Tiến sĩ Alan Phan du học Mỹ từ năm 1963, năm 1968 ông về nước và đã làm chủ  nhiều công ti thời Việt Nam Cộng hòa với số công nhân lên đến 18 nghìn.

Năm 1975 ông ra nước ngoài, có lúc điều hành công ti trên sàn chứng khoán với tài sản 700 trăm triệu đô-la. Cuộc đời nhiều thăng trầm và nay đã 70 tuổi, với tài sản chắc cũng vài chục triệu đô-la. Nhưng nếu gặp ông ngoài đường, qua trang phục ông mặc hôm ra mắt sách, với áo vét quần jean thùng thình, không cà-vạt, đi giầy ba-ta, có ai biết ông là một doanh nhân triệu phú.

CUỐI CÙNG CHÚNG TA ĐÃ LÀM THEO TIẾNG LƯƠNG TÂM

CUỐI CÙNG CHÚNG TA ĐÃ LÀM THEO TIẾNG LƯƠNG TÂM

Trích EPHATA 657

Tại một thị trấn nhỏ xa xôi ở Nam Phi có đôi vợ chồng, George và Helen. George hàng ngày đi làm từ rất sớm và về rất muộn, còn Helen thì đang mang thai ở nhà, vì gần ngày sinh.

Trong khi George đang chậm chậm lái chiếc xe Jeep đi làm ở nông trường xa như mọi ngày, phải qua một con đường ngoằn ngoèo hiểm trở, không một bóng người, thì chuông điện thoại reo. Vợ anh ta gọi anh về nhà gấp, vì quá đau bụng, có lẽ sắp sinh. George cảm thấy rất lo vì hàng xóm không có ai mà bệnh viện lại rất xa, nếu không đưa vợ ngay đến bệnh viện thì có thể nguy hiểm cả mẹ lẫn con. Anh cố gắng an ủi vợ và bảo anh sẽ về liền. Ngay lập tức, anh quay đầu xe hướng về nhà.

Bỗng nhiên có một người trung niên hét thật lớn và chạy ra phía trước cản ngay đầu xe Jeep của anh, khóc lóc cầu xin anh cứu con trai anh ta gấp. Anh xưng tên là Anthony, đang cùng vợ và con trai đi nghỉ hè thì không may xe bị hư thắng, lao từ dốc núi xuống khiến đứa con trai 9 tuổi ngồi trên xe mà không thắt dây an toàn nên không biết sống chết ra sao. Riêng Anthony và vợ chỉ bị thương nhẹ.

George suy nghĩ không biết tính sao. Nếu cứu đứa trẻ thì không sao quay về nhà kịp để chở vợ đến bệnh viện của thị trấn ở rất xa. Mạng sống của Helen vợ anh cũng đang bị đe dọa, có thể vì mất máu nhiều lúc sinh. Trước cảnh Anthony quỳ gối xuống van xin, George đã dằn lòng xuống xe, nắm tay Anthony và hỏi: “Con trai anh ở đâu ?” Cả hai hấp tấp xuống chân núi, nơi chiếc xe đang lật ngược và đứa trẻ nằm trên mặt đất toàn thân đầy máu, khuôn mặt trắng bệch. Anthony nghẹn ngào giải thích là đã gọi cấp cứu nhưng sợ chờ lâu nên anh chọn ở lại bên con còn vợ thì đi tắt đến ngôi nhà gần nhất cầu cứu. George nghe xong nghĩ thầm, ngôi nhà gần nhất chính là nhà của anh, và anh chỉ có chiếc xe Jeep. George giục đem đứa bé lên xe rồi cùng Anthony vội vàng lái xe nhanh đến bệnh viện của thị trấn. Trong lúc lái xe, anh gọi điện thoại liên tục về nhà, khuyên Helen cố gắng chịu đựng. Anh nghe tiếng vợ rên rỉ làm anh đau như bị kim đâm vào tim, vừa khóc vừa xin lỗi. Mười phút sau, George lại gọi về nhà nhưng chỉ còn nghe giọng Helen trả lời yếu ớt khiến anh chỉ biết cầu xin Chúa che chở.

Đứa bé trai đã qua khỏi nguy hiểm, nhưng George lại lo lắng cho vợ. Anh gọi điện thoại về nhà nhưng không có người nghe máy, làm anh càng hốt hoảng muốn chạy ngay về nhà. Anthony khăng khăng đòi theo, và cuối cùng khi về đến trước cổng nhà, thì đột nhiên họ nghe thấy tiếng khóc của bé sơ sinh. George bước nhanh vào nhà, và vui mừng thấy vợ anh Helen bình an nằm ngủ trên giường cùng với một đứa bé mới sinh dễ thương được quấn trong khăn, bên cạnh đó là một người phụ nữ lạ mặt dáng vẻ mệt mỏi, đang nhỏ nhẹ trò chuyện với đứa bé.

George lại ngạc nhiên hơn khi thấy Anthony bước vào ôm chầm người phụ nữ lạ mặt ấy với vẻ xúc động và thổ lộ cho biết con của họ đã được cứu kịp thời. Thì ra người phụ nữ ấy chính là vợ của Anthony, vốn là một bác sĩ sản khoa, trên đường tắt đi tìm xe cứu thương, đã đi ngang qua nhà George và nghe tiếng kêu la đau đớn của Helen. Mary đã bỏ qua sự an nguy của chính con trai mình mà giúp ngay cho Helen được sinh nở bình an.

Cuối cùng, bác sĩ Mary và George đều nói: “Chúng ta đã làm đúng lương tâm khi quyết định cứu ngay người hoạn nạn trước mắt”.

Tác giả Khuyết Danh, bản dịch của NTHK

Trường Trung Học Cộng Đồng Quận 6 Sài gòn: Những chuyện mà ít người nói đến

Trường Trung Học Cộng Đồng Quận 6 Sài gòn: Những chuyện mà ít người nói đến

Hồi tưởng của Đoàn Thanh Liêm

(Bài 3)

*     *     *

Trường Trung học Cộng đồng Quận 6 là một trường rất nhỏ, chỉ bắt đầu khai giảng lớp học đầu tiên vào cuối năm 1968 trong căn nhà tiền chế đơn sơ với vài ba phòng học. Rồi sau năm 1975 chẳng bao lâu, thì trường lại bị cho giải thể và học sinh được phân tán đi các trường khác. Vì thế mà ngày nay, ngọai trừ một số rất nhỏ cựu học sinh đã từng theo học tại trường, thì ít có ai còn biết đến sự hiện hữu của cơ sở giáo dục này nữa.

Là một người có tham gia trong việc vận động thành lập của trường, tôi xin ghi lại một số chuyện ngộ nghĩnh xung quanh cái ngôi trường nhỏ bé vừa “sinh sau đẻ muộn” – mà lại cũng “yểu mệnh vắn số” này. Xin lần lượt trình bày câu chuyện qua mấy mục như sau.

I – Lai lịch về cơ sở vật chất của ngôi trường.

Vào  năm 1966,  ông Mai Như Mạnh Quận trưởng Quận 6 có sáng kiến mời một số nhà doanh nghiệp tại địa phương cùng họp lại với nhau để thiết lập một cơ sở nhằm trưng bày và quảng cáo cho những sản phẩm công kỹ nghệ được sản xuất trong quận. Ông nói : “Trước đây, tôi có dịp đi tham quan tại Đài Loan và Nhật Bản, tôi thấy nơi nào họ cũng có những trung tâm trưng bày sản phẩm kỹ nghệ như thế…” Ý kiến này được nhiều người hoan nghênh và đưa đến việc cấp tốc xây dựng một ngôi nhà tiền chế trên khu đất trống nằm sát cạnh bến xe Chợ Lớn mới ở góc đường Phạm Đình Hổ và Trương Tấn Bửu.

Nhằm lôi cuốn giới tiêu thụ đến quan sát tại phòng trưng bày này, ban tổ chức dự định khai trương cơ sở vào dịp Tết Đinh Mùi đầu năm 1967 kèm theo với một số gian hàng bán hàng hóa thông dụng và đồ ăn, nước uống v.v…Tất cả các gian hàng này được dựng lên bên cạnh phòng trưng bày sản phẩm và được gọi với cái tên chung là Khu Chợ Tết. Và vì cái danh xưng “Chợ Tết” này, mà sóng gió nổi lên dữ dội từ một phiên họp của Hội Đồng Đô Thành ở trung tâm Sài gòn. Các nghị viên tới tấp phản đối chuyện tổ chức “Chợ Tết”, họ coi đây là một thứ “Hội Chợ” (Foire) nhằm kiếm tiền bỏ túi cho cá nhân. Đó là một thứ việc làm “bất hợp pháp” vì không có giấp phép đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền v.v…

Cuối cùng, thì Bác sĩ Văn Văn Của là Đô trưởng vẫn đến khu Chợ Tết để cắt băng khánh thành – như vậy là đã mặc nhiên coi là việc này không có chi là trái luật và để bà con cứ tiếp tục vui chơi nhân dịp đón xuân mới.

Tuy vậy, do có sự chỉ trích của các nghị viên thành phố như đã nói ở trên, mà sau đó giới chủ nhân các công ty xí nghiệp ở địa phương – mà phần đông là người gốc Hoa – đâm ra chán nản không còn thiết tha gì với chuyện tiến hành hòan tất trung tâm trưng bày sản phẩm công kỹ nghệ nữa. Vì thế mà trong suốt năm 1967, khu nhà tiền chế rộng tới 5 gian với sườn sắt, mái và vách đều được che bằng tôle vẫn còn để im lìm trống vắng không được sử dụng vào việc gì nữa cả.

Mãi đến khi chiến cuộc mở rộng hồi Tết Mậu Thân năm 1968, thì bà con các nơi có chiến trận mới đổ xô vào lánh nạn tại khu nhà tiến chế này. Và từ đó mà nơi đây đã biến thành một trại tạm cư cho các nạn nhân chiến cuộc phải bỏ nhà cửa ở các khu vực kế cận trong suốt hai đợt tấn công liên tục của bộ đội cộng sản xuất phát từ tỉnh Long An vào thành phố.

Sau khi chiến sự lắng đọng, bà con lại kéo nhau trở về nhà mình và trả lại khu nhà tiền chế lại cho chính quyền địa phương. Nhờ thế mà Chương trình Phát triển chúng tôi mới nghĩ đến chuyện sử dụng khu nhà đó để làm trường sở cho Trường Trung Học Cộng Đồng Quận 6. Thành ra, khu nhà này tuy không còn được sử dụng cho mục tiêu kinh tế thương mại như dự trù lúc ban đầu nữa, thì nay lại được biến thành một cơ sở giáo dục. Đó cũng là một cách phục vụ lợi ích chính đáng của cộng đồng địa phương mà thôi.

2 – Chuyện vận động xin phép mở trường với Bộ Giáo Dục.

Dân số trong quận 6 vào năm 1967 có đến trên 250.000 người. Vì thế mà vào năm 1970, chính quyền phải thiết lập thêm một đơn vị mới nữa là quận 11 bằng cách chia bớt lãnh thổ của quận 6 sang cho quận mới này. Dân số quá đông như vậy, nên cần phải mở thêm trường học, đặc biệt là trường trung học cho các học sinh trong quận. Đó là mối quan tâm nóng bỏng của các phụ huynh mà chúng tôi không thể nào xem nhẹ được.

Với kinh nghiệm thu thập được từ chuyện vận động thành công để thành lập được trường trung học cộng đồng ở quận 8 từ mấy năm trước – nên lần này anh chị em trong chương trình phát triển chúng tôi cũng lại hướng dẫn đại diện phụ huynh học sinh mang thư thỉnh nguyện đến trình bày với các giới chức có thẩm quyền tại Bộ Giáo Dục để xin được phép mở trường ở quận 6. Chúng tôi còn phải nhờ đến các vị Nghị sĩ, Dân biểu và cả đến giới truyền thông báo chí để họ cùng lên tiếng kêu gọi tiếp tay với các phụ huynh tại quận 6 để xin cấp trên cho thiết lập trường trung học trong quận.

Mà nhờ đã có sẵn cơ sở vật chất là khu nhà tiền chế cộng với một số bàn ghế mới đóng sẵn, nên ban vận động (gồm đại diện các phụ huynh và đại diện chương trình phát triển) mới dễ thuyết phục được cấp lãnh đạo ở Bộ Giáo Dục thỏa thuận cấp giấy phép cho trường được thành lập. Chúng tôi phải cam kết với Bộ Giáo Dục rằng : Địa phương chúng tôi chịu trách nhiệm hòan tòan về việc xây dựng nhà cửa và trang bị bàn ghế cho tòan bộ các lớp của trường.  Đổi lại về phần mình, thì Bộ Giáo Dục chỉ phải cử các thầy cô giáo đến trường để lo việc giảng dậy mà thôi.

Và cuối cùng, nhờ sự thúc đảy đặc biệt nhiệt tình của Giáo sư Lê Thanh Minh Châu lúc đó giữ chức vụ Phụ Tá Bộ Trưởng Giáo Dục đặc trách về kế hoạch, mà trường trung học cộng đồng quận 6 được giấy phép thành lập và bắt đầu khai giảng mấy lớp học đầu tiên kể từ niên khóa 1968 – 69.

Giáo sư Nguyễn Đức Tuyên được bổ nhiệm là vị Hiệu trưởng tiên khởi của trường. Với kinh nghiệm lâu năm trong ngành giáo dục, Hiệu trưởng Tuyên đã kiên trì cùng với tập thể các thầy cô giáo thiết lập được một nền nếp trật tự ngăn nắp cho ngôi trường mới mẻ và khiêm tốn này. Và với quy chế công lập, nên học sinh không phải đóng học phí như ở các trường tư thục. Mà phụ huynh chỉ phải góp một lệ phí là một số tiền rất nhỏ – để dùng vào việc bảo trì trường lớp, tân trang sửa chữa bàn ghế mà thôi.

Sau mấy năm, thì giáo sư Tuyên lại thuyên chuyển đi nơi khác và giáo sư Võ Văn Bé được bổ nhiệm vào chức vụ Hiệu trưởng thay thế giáo sư Tuyên. Và giáo sư Bé tiếp tục giữ nhiệm vụ này trong ít lâu sau năm 1975 trước khi xin nghỉ việc ra khỏi ngành giáo chức để tham gia vào ngành chế biến hóa chất.

Vì đây chỉ là một trung học đệ nhất cấp – tức là chỉ dậy có 4 lớp từ lớp 6 đến lớp 9 – nên học sinh học hết lớp 9 ở trường này, thì phải chuyển lên học tiếp lớp 10 ở một trung học đệ nhị cấp mà cụ thể ở quận 6 là trường Mạc Đĩnh Chi cũng là một trường công lập.

3 – Mối liên hệ của Trung Học Cộng Đồng với Chương Trình Phát Triển.

Mới gần đây, có một em cựu học sinh của trường Lương Văn Can tức Trung Học Cộng Đồng Quận 8 có hỏi tôi đại khái như thế này: “Em là dân ở quận 8, hồi trước năm 1975 em theo học ở trường Lương Văn Can, mà vì còn nhỏ tuổi em cũng không biết gì về mối liên hệ của trường đó với chương trình phát triển quận 8 ra sao. Xin thày vui lòng giải thích cho em với…”

Tôi đã giải thích cho em đại lược như thế này: “Chương trình Phát triển chúng tôi họat động trong cả 3 quận 6,7 và 8 trong 6 năm từ năm 1965 đến năm 1971. Bắt đầu ở quận 8 trước nhất từ năm 1965, sau đó kể từ năm 1966 thì nới rộng phạm vi họat động sang quận 6 và 7. Chúng tôi chủ trương phát triển về mọi mặt như chỉnh trang gia cư, cải thiện môi trường, chăm sóc y tế -ưu tiên cho bà con tại các khu xóm ngõ bình dân lao động. Và đặc biệt là mở mang giáo dục cả về phổ thông cũng như về huấn nghệ v.v…

Riêng về 2 trường trung học cộng đồng ở quận 6 và quận 8, thì chương trình chúng tôi góp nhiều công sức để vận động xin Bộ Giáo Dục cho phép thành lập và chúng tôi yểm trợ trong việc xây cất trường sở cũng như trang bị bàn ghế lúc ban đầu. Nhưng khi cơ sở trường học đã hòan tất và các giáo sư do Bộ Giáo Dục cử về bắt đầu giảng dậy ở trường, thì chương trình chúng tôi đã hòan tất trách nhiệm trong việc vận động rồi. Và từ lúc đó trở đi, chúng tôi không thể can dự vào sự điều hành của nhà trường nữa.”

Nghe tôi giải thích như thế, em hiểu ngay và nói với tôi như thế này: “Có thể ví như chương trình là một công ty xây dựng, sau khi xây xong ngôi nhà rồi, thì công ty trao căn nhà đó cho sở hữu chủ để họ tòan quyền sử dụng – mà nói theo ngôn ngữ hiện nay, thì đó là phương thức “Chìa Khóa Trao Tay.

Nhân tiện, tôi cũng xin nhắc lại là vào hồi thập niên 1960, thì thủ tục xây dựng một trường học mới đòi hỏi Bộ Giáo Dục phải tham khảo trước với Bộ Tài Chánh để xem đã có ngân sách dành riêng cho ngôi trường đó chưa. Do đó mà Bộ Giáo Dục không thể dễ dàng tùy tiện để mở thêm trường mới được. Vì biết rõ tình trạng bế tắc bị động như vậy của Bộ Giáo Dục, nên chương trình chúng tôi dựa vào “cái thế chủ động của quần chúng nhân dân” mà phát động “Đi Bước Trước” – tức là địa phương quận 6 và 8 chúng tôi tự nguyện đứng ra xây cất trường sở và đóng bàn ghế sẵn trước.Và Bộ chỉ có mỗi một việc là cử giáo sư về dậy học mà thôi.

Và đó là nguyên do chính yếu của sự thành công trong việc thuyết phục được giới lãnh đạo của Bộ Giáo Dục chấp thuận cho thành lập Trung Học Cộng Đồng Quận 8 từ năm 1966 và Trung Học Công Đồng Quận 6 từ năm 1968.

4 – Để tạm kết thúc.

Vì chưa được thông tin đày đủ về sinh họat của các cựu học sinh Trung học Cộng đồng Quận 6, nên tôi hy vọng các bạn trẻ này sẽ bổ túc cho bài viết bằng những tư liệu và hình ảnh liên hệ đến “trường xưa, bạn cũ” – để giúp cho bà con độc giả hiểu biết thấu đáo hơn về một cơ sở giáo dục của địa phương quận 6 mà đã xuất hiện cách nay trên 47 năm rồi. Mong lắm thay.

San Jose California, Tháng Chín 2015

Đoàn Thanh Liêm

Aki Tanaka – Một người bạn của “Tự Lực Văn Đoàn”

Aki Tanaka – Một người bạn của “Tự Lực Văn Đoàn”

Mặc Lâm, biên tập viên RFA

Aki Tanaka – Một người bạn của “Tự Lực Văn Đoàn” Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

1052670_562697663776915_300149667-622.jpg

Cô sinh viên người Nhật Aki Tanaka
Courtesy photo

Your browser does not support the audio element.

Không có gì lạ trong nền giáo dục Việt Nam

Ngày 9 tháng 1 năm 2007, trong trò chơi “Ai là triệu phú” trên đài Truyền hình VTV3 Hà Nội, do MC Lại Văn Sâm điều khiển, người được mời lên chiếc “ghế nóng” tham dự chương trình là cô Nguyễn Thị Tâm, 27 tuổi, giảng viên trường Đại học Sư phạm thành phố Thái Bình.

Câu hỏi nguyên văn như sau: “Trong tứ trụ của Tự Lực Văn Đoàn: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng; ai là người không phải anh em ruột với ba người kia?”

Cô giảng viên Đại học Sư phạm suy nghĩ một lát rồi nói:

– Tự Lực Văn Đoàn, tôi chưa nghe nói đến bao giờ cả. Hình như đó là một gánh cải lương. Còn Nhất Linh chắc chắn là một nghệ sĩ cải lương. – Riêng Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng… tôi không biết ba ông này có phải nghệ sĩ cải lương như Nhất Linh không.

– Vậy chị kết luận ai không phải anh em ruột với ba người kia?

– Tôi đề nghị cho tôi được hưởng quyền trợ giúp, gọi điện thoại cho người thân.

– Chị muốn gọi cho ai?

– Cho anh Nam, một bạn đồng nghiệp cũng dạy trong trường. Anh Nam là người đọc rất nhiều sách, kiến thức rất rộng, chắc chắn anh ấy biết.

Phòng máy liên lạc với người tên Nam đang chờ sẵn ở nhà để trợ giúp, “cứu bồ” cho cô Tâm.

Cô Tâm lập lại câu hỏi như chương trình đã hỏi: “Trong tứ trụ của Tự Lực Văn Đoàn…”, “Anh cho em biết Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng, ai không phải là anh em ruột với ba người kia…” Đầu dây có tiếng trả lời rất lớn và dứt khoát, nghe rõ mồn một:

– Hoàng Đạo, Hoàng Đạo không phải là anh em ruột với Nhất Linh, Thạch Lam và Khái Hưng.

– Chắc chắn không anh?

– Chắc trăm phần trăm.

– Ba mươi giây của chị đã hết. Xin chị cho biết câu trả lời.

– Tôi tin vào kiến thức của người bạn đồng nghiệp của tôi. Tôi trả lời, Hoàng Đạo không phải anh em ruột với ba người kia.

– Chị quyết định như thế?

– Vâng, câu trả lời của tôi là phương án B, Hoàng Đạo.

– Sai. Giải đáp của chúng tôi là phương án D, Khái Hưng. Khái Hưng không phải anh em ruột với Nhất Linh, Hoàng Đạo và Thạch Lam. Hoàng Đạo tên thật là Nguyễn Tường Long, sinh năm 1906, em ruột nhà văn Nhất Linh, anh ruột nhà văn Thạch Lam. Như vậy phần thưởng của chị từ năm triệu đồng còn lại một triệu đồng. Nhưng không sao, chúng ta lấy vui làm chính. Xin cám ơn chị đã tham dự chương trình.

Câu chuyện về cô giáo giảng viên trường Đại học sư phạm thành phố Thái Bình thật ra không có gì lạ trong nền giáo dục Việt Nam bởi lẽ chương trình giáo dục không hề có bốn chữ Tự Lực Văn Đoàn mặc dù đây là một nhóm tác giả quan trọng bậc nhất trong nền văn học hiện đại của Việt Nam. Điều làm cho Tự Lực Văn Đoàn bị gạt ra khỏi dòng văn học là chủ trương chính trị của nó. Nguyễn Tường Tam, thủ lãnh của nhóm cũng là một chính khách với quan điểm chính trị đi ngược lại hoàn toàn quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam.

1177319793-400.jpg

Tự Lực Văn Đoàn

Tự Lực Văn Đoàn chủ trương đổi mới văn học, nâng cao dân trí, chống cường quyền phong kiến, bài thực dân, trong đó không quên những người cùng khổ và bị áp bức dưới bất cứ hình thức nào. Sức mạnh của Tự Lực Văn Đoàn bắt đầu từ sự ủng hộ của trí thức tiểu tư sản sau đó lan rộng trong quần chúng bình dân và ảnh hưởng trực tiếp tới nền báo chí An Nam đang có xu hướng hòa nhịp cùng đời sống đô thị.

Chẳng những tại miền Bắc Tự Lực Văn Đoàn bị cấm xuất hiện nhưng sau năm 1975 ngay cả khi hai miền Nam Bắc đã hoàn toàn thống nhất thì số phận của nó cũng không may mắn gì hơn, vẫn bị vùi dập, che dấu và cấm đoán ngay trong từng tù sách gia đình. Những tên tuổi như Nhất Linh, Thạch Lam, Khái Hưng, Hoàng Đạo… hoàn toàn biến mất trong mái trường xã hội chủ nghĩa, mãi tới hơn hai mươi năm sau một vài tác phẩm của họ mới được in lại từ những chiếc máy in của nhà nước với nội dung bị cắt xén cho vừa với tầm nhìn của cách mạng vô sản, vốn bất đồng với các tác giả này.

Aki Tanaka

Vậy mà từ nước Nhật xa xăm, lại xuất hiện những con người yêu văn hóa Việt Nam trong đó Tự Lực Văn Đoàn được nhắc tới như một dấu son của nền văn học Việt.

Một trong những người ấy là cô sinh viên Aki Tanaka.

Từ Tokyo, Aki Tanaka đã lặn lội tới Việt Nam, tìm hiểu về Tự Lực Văn Đoàn với mục đích học chữ Việt để rồi mê đắm nó đến nỗi bỏ hơn 13 năm theo dõi, nghiên cứu, viết tham luận rồi luận án về Tự Lực Văn Đoàn. Aki đã bay sang Hoa Kỳ nơi có khá nhiều tư liệu lẫn thân nhân của các tác giả để từ đó thấy yêu mến thêm nhóm tác giả đặc biệt này.

Mặc Lâm có duyên may gặp Aki Tanaka tại California trong lần cô sang Mỹ tìm kiếm thêm tư liệu về nhà văn Khái Hưng, người mà Aki Tanaka đặc biệt yêu thích. Cuộc phỏng vấn ngắn nhằm mang cô sinh viên người Nhật này tới gần với người Việt Nam hơn bởi cô đáng được người Việt mở lòng ra đón nhận như một người bạn chân thành của văn hóa Việt.

Aki Tanaka, trước tiên cho biết thời gian đầu cô tới Việt Nam:

Aki Tanaka: Khoảng năm 2000 khi sang Việt Nam tôi đã gặp ông Huy Tưởng thì ông ấy nói nếu Aki muốn học tiếng Việt thì nên tìm đọc Tự Lực Văn Đoàn để biết được tiếng Việt chính xác cho nên tôi đã tìm mua các cuốn sách về Tự Lực Văn Đoàn. Ban đầu thì tôi không hiểu hết, chỉ hiểu sơ sơ thôi nhưng mà đã cảm thấy tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn rất hay cho nên tiếp tục mua sách Tự Lực Văn Đoàn. Ước mơ của tôi là muốn nghiên cứu về Tự Lực Văn Đoàn nhưng lúc đó cảm thấy là điều thực tế chỉ là ước mơ thôi.

Mặc Lâm: Aki vừa nói là tìm mua những cuốn sách Tự Lực Văn Đoàn trong nước, không biết là sách cũ đã được in từ xưa hay những cuốn vừa được in lại trong nước?

Aki Tanaka: Tôi chỉ mua được sách tái bản thôi lúc đó không để ý là sách của nhà nước in hay sách cũ nó có gì khác nhau hay là sự khác biệt như thế nào cho nên chỉ mua được sách tái bản thôi.

Mặc Lâm: Sau này khi nghiên cứu sâu về Tự Lực Văn Đoàn thì Aki có thấy sự khác biệt nào giữa bản in gốc và bản in đã được in lại sau năm 1975 và nếu có thì những khác biệt ấy có quan trọng không?

Aki Tanaka: Dạ có. Tôi có học với thầy giáo người Nhật thì thầy này sử dụng sách cũ là sách trước 75 còn tôi thì cầm sách tái bản mới. Cuốn tôi thất vọng nhất là cuốn Đời mưa gió. Khi hai người đọc chung với nhau thì chúng tôi phát hiện sách tái bản và sách gốc nó khác biệt nhau. Tôi thấy nếu mình nghiên cứu văn học Việt Nam mà có sự khác biệt quá nhiều như thế này, mà mình là người phân tích mà tài liệu sai thì rất nguy hiểm cho việc nghiên cứu của mình.

Mặc Lâm: Khi Aki sang Mỹ để tìm gặp thân nhân những người trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn thì Aki đã gặp được ai và câu chuyện gặp gỡ ấy như thế nào?

Aki Tanaka: Hai năm trước có một buổi hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn tại Mỹ lúc đó gia đình con cháu của nhóm Tự Lực Văn Đoàn tập họp lại cho nên lúc đó tôi gặp được nhiều người nhưng lúc đó tôi không có dịp nói chuyện nhiều với họ. Tháng Ba năm nay tôi có dịp thăm riêng ông Nguyễn Tường Triệu là con nuôi của ông Khái Hưng và Nguyễn Tường Thiết là con trai út của ông Nhất Linh. Tôi đã thăm được hai người này.

Mặc Lâm: Về ông Nguyễn Tường Thiết là con ruột thì đã đành rồi riêng về ông Nguyễn Tường Triệu là con nuôi của Khái Hưng thì Aki có nắm vững những nhận định hay lời kể lại của ông Triệu có chính xác và phù hợp với những gì Aki tìm hiểu không?

Aki Tanaka: Aki cũng biết được sơ sơ thôi vì lúc ông Khái Hưng mất thì ông Triệu còn rất nhỏ cho nên ông Triệu không biết gì nhiều. Tuy nhiên ông Triệu có cung cấp một số tài liệu cho Aki.

Mặc Lâm: Trong khi nghiên cứu Tự Lực Văn Đoàn và có dịp gặp gỡ hay thông qua tư liệu thì tác già nào trong nhóm làm cho Aki ấn tượng và yêu thích nhất?

Aki Tanaka: Tôi rất thích ông Khái Hưng. Lý do ông là người có tư tưởng sâu sắc nhất trong Tự Lực Văn Đoàn cho nên đọc tác phẩm của ông thì thấy rất hay.

Mặc Lâm: Nhưng rất nhiều người cho rằng ông Nhất Linh là người lãnh đạo của nhóm và là linh hồn của Tự Lực Văn Đoàn … Aki thấy thế nào về tác phẩm của ông?

Aki Tanaka: Theo tôi thì Nhất Linh là một người hành động, ông có cái ý tưởng cách mạng tuy nhiên so với ông Nhất Linh thì ông Khái Hưng là người suy nghĩ và theo sự tìm hiểu của tôi thì ông Khái Hưng không quan tâm mấy đến chính trị.

Mặc Lâm: Trong một thời gian khá dài sống ở Việt Nam Aki quan sát và thấy giới trẻ Việt Nam, đặc biệt là sinh viên khoa văn họ có chú ý tới Tự Lực Văn Đoàn hay không?

Aki Tanaka: Tôi thấy họ không chú ý đâu. Tôi nói chuyện với bạn bè đồng nghiệp với cái ý là tôi thích Tự Lực Văn Đoàn nhưng bạn bè đồng nghiệp của tôi lại không biết Tự Lực Văn Đoàn là ai nữa! Bây giờ ở Việt Nam không giảng dạy tác phẩm của nhóm này cho nên không ai biết, không được ai quan tâm đến.

Mặc Lâm: Có một thời gian rất dài Aki đã sang Mỹ tiếp xúc với người viết văn hay hoạt động văn hóa…Aki thấy họ có còn tha thiết khi nói về Tự Lực Văn Đoàn nữa hay không hoặc thời gian đã quá lâu khiến họ dần dần quên Tự Lực Văn Đoàn luôn, không giống như cách đây 40 năm?

Aki Tanaka: Do tôi tiếp xúc với nhiều người làm văn nghệ cho nên họ thường bảo rất còn quan tâm tới Tự Lực Văn Đoàn và họ muốn bảo tồn tác phẩm của nhóm này cho con cháu để sau biết được việc làm của nhóm Tự Lực Văn Đoàn cho đời sau. Tôi cảm thấy như vậy

Mặc Lâm: Aki cũng có bạn bè người Nhật yêu mến văn hóa Việt Nam trong số họ có ai nghiên cứu về Tự Lực Văn Đoàn như Aki hay không?

Aki Tanaka: Thầy cũ của tôi đã nghỉ hưu rồi ông ấy hồi trước cũng có nghiên cứu về Tự Lực Văn Đoàn trong trường đại học của tôi và ông cũng đã dạy Tự Lực Văn Đoàn cho sinh viên Nhật. Nhưng bây giờ vị giáo sư mới không quan tâm tới Tự Lực Văn Đoàn nên không dạy nữa cho nên sinh viên không biết gì về Tự Lực Văn Đoàn nữa

Mặc Lâm: Một lần nữa xin cám ơn Aki Tanaka rất nhiều và hy vọng những công trình nghiên cứu của Aki về Tự Lực Văn Đoàn sẽ mang lại nhiều kết quả mong đợi.