Đừng quá lo sợ, quân đội Trung Quốc chỉ là con cọp giấy!

Đừng quá lo sợ, quân đội Trung Quốc chỉ là con cọp giấy!

The National Interest

Tác giả: Paul Dibb

Người dịch: Huỳnh Phan

H1Trung Quốc lớn nhưng yếu, bị cai trị bởi một đảng thiếu vững mạnh, không thể chịu đựng nổi bất kỳ thảm họa nào về kinh tế hay ngoại giao, chưa nói tới chiến tranh với Mỹ.

Hiện đang trở nên phổ biến việc làm ầm ĩ mối đe dọa quân sự từ Trung Quốc và hạ thấp khả năng quân sự của Mỹ. Phần lớn bình luận này nhắc tôi nhớ tới các báo cáo vào giữa thập niên 1980, rằng Liên Xô cũ đã đang trên đà qua mặt Mỹ về sức mạnh quân sự. Điều này không có ý cho rằng Trung Quốc đang trong giai đoạn cuối cùng của sự tan rã như Liên Xô, nhưng muốn khẳng định rằng Quân đội Trung Quốc (PLA) để lộ ra toàn bộ tính dễ vở và tính chuyên nghiệp quân sự mỏng như giấy của một quân đội vốn chưa hề tiến hành một cuộc chiến tranh hiện đại và có thiết bị quân sự được ca tụng, chưa hể kiểm nghiệm trong chiến đấu.

Với nền kinh tế đang chậm lại, và với những căng thẳng kinh tế và xã hội có tính cấu trúc càng trở nên xấu đi, thay vì tốt hơn, Trung Quốc lớn nhưng yếu, cai trị bởi một đảng thiếu vững mạnh, không thể kham nổi bất kỳ thảm họa nào về kinh tế hay ngoại giao, chưa kể tới chiến tranh với Mỹ. Trung Quốc với nền kinh tế của các chuỗi cung ứng toàn cầu và thương mại tự do quốc tế là phụ thuộc lẫn nhau trên cơ bản. Chiến tranh đối với Trung Quốc sẽ là một thảm họa kinh tế và xã hội.

Hơn nữa, Bắc Kinh có rất ít bạn bè hùng mạnh hay có ảnh hưởng trong khu vực và phải chịu sự cô lập chiến lược vốn đang ngày càng trở nên tồi tệ hơn khi họ càng tung sức mạnh ra xung quanh.

Bắc Kinh chẳng có chút kinh nghiệm gì về chiến tranh hiện đại. Kinh nghiệm cuối cùng về xung đột vũ trang là vào năm 1979, khi họ thất bại thảm hại trong việc dạy cho Việt Nam cái gọi là một ‘bài học’. Ẩu đả biên giới với Ấn Độ và Liên Xô trong thập niên 1960 và việc đưa đội quân nông dân tham gia vào cuộc chiến Triều Tiên trong thập niên 1950, khó có thể xếp vào loại chiến tranh hiện đại.

Sức mạnh của Quân đội Trung Quốc (PLA) chủ yếu giữ cho Đảng Cộng sản tiếp tục cầm quyền, đó là điều mà họ tuyên thệ trung thành, chứ không phải để bảo vệ đất nước Trung Quốc. Sĩ quan PLA vẫn còn lãng phí quá nhiều thời gian vào việc học tập giáo điều cộng sản không thích đáng, hơn là dành ưu tiên cho luyện tập quân sự. Rồi còn có vấn đề tham nhũng ở cấp cao nhất của PLA và việc mua quan bán chức nữa.

Đúng là trong nhiều thập kỷ qua, PLA đã thực hiện một số bước tiến ấn tượng về mặt công nghệ. Nhưng mặc dù Chủ tịch Tập Cận Bình tuyên bố rằng Trung Quốc phải trở thành một cường quốc biển hùng mạnh, vị thế địa lý đã chống lại điều đó. Lần cuối cùng một cường quốc lục địa lớn thật sự biến nó thành một cường quốc hải quân vào lúc nào? Chắc chắn không phải Liên Xô, Pháp hoặc Đức.

Các nhà bình luận ở Úc liên tục lặp đi lặp lại các khẳng định về khả năng A2AD (chống truy cập và từ chối khu vực) của Trung Quốc. Và rõ ràng là hoạt động ở vùng gần với Trung Quốc đang trở nên nguy hiểm hơn, đặc biệt trong điều kiện với kiểu khối lượng quân sự mà Trung Quốc có thể tích lũy gần nhà. Nhưng chúng ta có thực sự nghĩ rằng người Mỹ ngồi yên, không làm gì cả về mặt công nghệ trong các lĩnh vực như xe siêu thanh, railgun (súng điện tử), tàng hình, máy bay không người lái và tấn công mạng không?

Trong các lĩnh vực chính của công nghệ quân sự, Trung Quốc vẫn đi sau Mỹ cả 20 năm. Khả năng chiến tranh chống tàu ngầm của họ chưa đáng kể và nhiều tàu ngầm của họ còn rất ồn. Trung Quốc thiếu công nghệ lực đẩy và hãm thanh cần thiết để đóng bất cứ thứ gì có thể sánh gần với tàu ngầm hạt nhân của Mỹ hay của Nga. Theo các nguồn tin của Mỹ, ngay cả tàu ngầm hạt nhân tên lửa đạn đạo mới nhất, lớp Kim (Jin-class) của Trung Quốc cũng ồn hơn tàu ngầm hạt nhân tên lửa đạn đạo Delta III của Liên Xô thập niên 1970. Và tàu ngầm hạt nhân loại 95 sắp ra, sẽ còn ồn hơn tàu Akula vỏ titan của Liên Xô vào cuối thập niên 1980.

Khả năng phòng không của Trung Quốc có những khiếm khuyết so với bất kỳ kẻ thù nào có công nghệ tiên tiến. Hơn nữa, Trung Quốc vẫn lệ thuộc rất lớn vào Nga cho việc học lóm kỹ thuật quân sự và nguồn cung cấp các động cơ phản lực quân sự hiệu suất cao mà họ chưa làm chủ được 30 năm qua.

Bắc Kinh đã có những bước tiến quan trọng với công nghệ tên lửa đạn đạo, nhưng tên lửa DF-21 chưa từng phá hủy một mục tiêu di động trên biển ở tốc độ chiến đấu. Hơn nữa, nó dựa chủ yếu vào các vệ tinh tình báo và radar tầm xa-ngoài chân trời trong việc xác định mục tiêu. Những thứ đó là những mục tiêu mềm và dễ bị tổn thất trong các cuộc tấn công quân sự phủ đầu của Mỹ.

Theo Lầu Năm Góc, trong mọi trường hợp chưa rõ liệu Trung Quốc có khả năng thu thập thông tin chính xác mục tiêu và chuyển nó tới các bệ phóng kịp thời cho các cuộc tấn công các mục tiêu ở xa trên biển hay không.

Còn về khả năng ICBM (tên lửa đạn đạo liên lục địa) của Trung Quốc, chẳng hạn như DF-5B với nhiều đầu đạn có mục tiêu riêng (MIRV), điều này khó là một bước đột phá công nghệ hạt nhân. Năm 1974, với tư cách Trưởng Ban đánh giá quốc gia (National Assessment Staff), tôi đã được CIA báo cáo vắn tắt về MIRV trên ICBM SS-18 của Liên Xô. Đó là tiến bộ công nghệ đáng chú ý cách đây 40 năm.

Một số sĩ quan quân đội và các học giả Trung Quốc đang bắt đầu khoe khoang về khả năng chiến tranh hạt nhân của Trung Quốc. Dù có thể có khả năng đánh trả trong chiến tranh hạt nhân ở một mức độ nào đó, Trung Quốc là một trong những cường quốc lớn dễ bị xâm phạm nhất đối với chiến tranh hạt nhân tổng lực do mật độ và phân bố dân số dọc theo bờ biển phía Đông. Có dân số đông 1,4 tỷ người không có nghĩa là Trung Quốc sẽ sống sót sau một cuộc tấn công hạt nhân. Theo quan điểm của tôi, Mỹ cần giữ một sức mạnh tấn công hạt nhân lớn gồm vài ngàn đầu đạn hạt nhân chiến lược cả hoạt động lẫn dự trữ tích cực.

Tất cả điều này là để lập luận rằng chúng ta cần phải đặt khả năng quân sự đang trỗi dậy của Trung Quốc trong một phân tích so sánh có xét đoán nào đó, với khả năng của Mỹ và trong bối cảnh lịch sử. Chúng ta cần nhớ rằng, Hoa Kỳ là đất nước sáng tạo nhất trên thế giới và không đứng yên khi đối mặt với những tiến bộ quân sự của Trung Quốc mà phần lớn còn có những khiếm khuyết trầm trọng.

Bài này được đăng tải lần đầu trên The Strategist của ASPI tại đây

Giới nhà giàu đang tháo chạy khỏi Trung Quốc như thế nào?

Giới nhà giàu đang tháo chạy khỏi Trung Quốc như thế nào?

Làn sóng di dân này cũng giống như lời tuyên bố của người Trung Quốc: “Chúng tôi muốn tất cả các bạn biết rằng chúng tôi đã đánh dấu tên mình cho hầu như mọi thứ trên thế giới”.

Giới nhà giàu đang tháo chạy khỏi Trung Quốc như thế nào?
ảnh minh họa

Trong năm qua, thống kê cho thấy số triệu phú Trung Quốc đã đạt mức tối đa trong tổng Visa loại EB-5 được cấp theo diện Chương trình Đầu tư Nhập Cảnh của Hoa Kỳ.

Và theo những thống kê gần đây cho thấy 90% visa tạm trú của Úc được cấp cho công dân Trung Quốc. (Significant Investor: Visa tạm trú 4 năm cho những người sẵn sàng đầu tư 5 triệu AUD vào Úc). Trên toàn thế giới, chương trình nhập cảnh đầu tư của các quốc gia phương Tây đang bị quá tải do lượng người Trung Quốc mong muốn nhập cư quá đông.

Từ năm 1990, Trung Quốc đã từ nước có số dân xuất cảnh nhiều thứ 7 trên thế giới trở thành nước nhiều thứ 4, với số dân xuất cảnh tăng hơn 125%. Rất đông người Trung Quốc đang xuất cảnh sang các nước khác, đặc biệt là người giàu.

Ngày càng nhiều đại gia Trung Quốc muốn di dân

Phần trăm người giàu đã xuất cảnh

Số người siêu giàu Trung Quốc (trung bình tài sản 16 triệu USD) nhập cảnh vào Mỹ chiếm 33% tổng số người siêu giàu ở Trung Quốc. Số triệu phú muốn di dân hoặc đang lên kế hoạch di dân trong vòng 5 năm tới chiếm 64%.

Một khảo sát gần đây từ Barclays cho thấy có hơn 47% đại gia Trung Quốc muốn di dân. Trong khi tỷ lệ bình quân theo khảo sát chiếm 29% trên toàn thế giới.

Cùng với việc càng nhiều công dân Trung Quốc trở nên giàu có, số lượng người muốn xuất cảnh cũng gia tăng. Vậy những quốc gia nào mà đại gia Trung Quốc muốn đến?

Bắc Mỹ, nơi giới thượng lưu Trung Quốc hướng đến

Theo báo cáo của Hurun – Sách trắng Về Đầu Tư Nhập Cảnh 2014 (2014 Immigrant Investor White Paper), Hoa Kỳ và Canada là những lựa chọn đầu tiên của những giới thượng lưu Trung Quốc đang lên kế hoạch xuất cảnh.

Thống kê những quốc gia hàng đầu mà người giàu Trung Quốc chọn khi di dân.

Bởi vì phần đông đại gia Trung Quốc tích lũy của cải tại chính quốc gia của mình, cho nên, từ quan điểm của một doanh nhân, sẽ tiện hơn cho họ khi sống gần Trung Quốc. Vậy để nhận được visa nhập cảnh từ một quốc gia khác thì phải đáp ứng những yêu cầu gì?

Những yêu cầu cần thiết để nhận Visa di dân theo hình thức Nhà đầu tư

Những loại di dân bao gồm nhập cảnh theo diện đầu tư, diện tay nghề, diện du học, và diện nhập cảnh phi pháp (không giấy tờ). Đa phần người Trung Quốc giàu có đều nhập cảnh thông qua việc đầu tư.

Yêu cầu Đầu tư là điều kiện tối thiểu để di dân.

Yêu cầu cấp quốc tịch cho nhà đầu tư của một số quốc gia

Hoa Kỳ: Visa Đầu tư nhập cảnh EB-5

Vốn đầu tư tối thiểu 500.000 USD vào các doanh nghiệp Hoa Kỳ. Trực tiếp hoặc gián tiếp tạo việc làm cho 10 người và thời gian đầu tư ít nhất 5 năm. Sau khi nhận quyền cư trú hợp pháp, phải tiếp tục định cư tại Hoa Kỳ trong 5 năm.

Canada: Chương trình Nhập cư dành cho Nhà đầu tư – IIP (hủy bỏ năm 2014)

Sở hữu tài sản cá nhân tối thiểu 1,6 triệu CAD và đang là nhân viên quản lý cấp cao hoặc chủ doanh nghiệp trong ít nhất 2 năm, tính trong mốc thời gian 5 năm gần đây. Hoặc phải đầu tư 800.000 CAD vào một ngân hàng theo chỉ thị của Chính phủ Canada và sẽ được hoàn trả đầy đủ sau 5 năm, không lãi suất.

Australia: Visa đầu tư và Đổi mới kinh doanh (tạm thời)

Phải đầu tư 5 triệu AUD vào trái phiếu chính phủ hoặc trái phiếu liên bang; đầu tư vào các Quỹ đầu tư được Ban Kiểm soát đầu tư nước ngoài của Úc quản lý, bao gồm đầu tư vào cơ sở hạ tầng cơ bản, bất động sản… Dân nhập cảnh bằng Visa tạm trú có thể nộp đơn xin làm công dân chính thức sau khi sinh sống tại Úc được 2 năm trong vòng 5 năm gần nhất.

Vương Quốc Anh: Visa bậc 1 (Nhà đầu tư)

Đầu tư 2 triệu bảng Anh vào trái phiếu Kho bạc theo chỉ định và được hoàn trả 100 bảng Anh lãi suất sau 5 năm. Có thể trở thành dân tạm trú sau 5 năm và nộp đơn xin làm công dân chính thức sau 6 năm. Người nộp đơn phải sinh sống tại Anh 9 tháng trong thời gian 1 năm gần nhất trước khi được xét cấp quyền công dân.

New Zealand: Visa doanh nhân

Phải đầu tư 1,5 tỷ NZD vào những quỹ được chỉ định trong khoảng thời gian 4 năm. Phải sinh sống tại New Zealand 4 năm trong 5 năm gần nhất và phải vượt qua bài kiểm tra quyền công dân.

Singapore: Chương trình Nhà đầu tư toàn cầu – GIP

Đầu tư tối thiểu 2,5 triệu SGD vào một chủ thể kinh doanh mới hoặc mở rộng chiến dịch kinh doanh đã có sẵn hoặc đầu tư vào một quỹ GIP thuộc Nhà nước Singapore dùng để đầu tư vào những công ty ở Singapore. Công dân tạm trú trên 21 tuổi đã sống ít nhất 2 năm trong 6 năm gần nhất tại Singapore có thể nộp đơn cấp quyền công dân chính thức của Singapore.

Hàn Quốc: Visa đầu tư Công ty (D-8)

Đầu tư hơn 500 triệu won vào bất động sản. Sau 5 năm, nếu những người này không bị loại hồ sơ xét duyệt nhập cảnh vì nhiều lý do khác nhau, họ và vợ/ chồng cùng con cái sẽ được cấp quyền công dân tạm thời.

Đối với những đại gia Trung Quốc, những người có thể dễ dàng thu được hàng chục triệu USD, thì ngưỡng đầu tư được nhập cảnh không hề cao. Và đó là chưa kể ngưỡng đầu vào của nhiều quốc gia, bao gồm cả Hoa Kỳ, đã giảm một cách đáng kể.

Trước tình cảnh vươn lên của giới thượng lưu Trung Quốc, những chương trình đầu tư nhập cảnh thuộc nhiều quốc gia có ngưỡng thấp đang thu hút ngày càng nhiều đại gia Trung Quốc tham gia vào cơn sốt nhập cư này. Theo số liệu thống kê của chính phủ được CNN biên soạn:

Tổng số dân Trung Quốc được nhận Visa đầu tư nhập cảnh của Mỹ từ năm 2004 đến năm 2014 (Mỹ chỉ cấp 10.000 visa mỗi năm cho diện di dân đầu tư cấp theo diện EB-5)

Trong năm 2014 số lượng đơn xin nhập cảnh cho các chương trình đầu tư nhập cảnh Hoa Kỳ đạt mức cao nhất mọi thời đại, với 85% số người nộp đơn là công dân Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên các hạn ngạch hàng năm đạt mức tối đa, do đó chính phủ Mỹ tạm ngừng xem xét những hồ sơ nhập cảnh.

Một trường hợp tương tự đã phát sinh tại Canada. Trong vòng vài năm qua, số lượng người Trung Quốc xin nhập cảnh đã bùng bổ, vào tháng Hai năm 2014, chính phủ Canada đã tuyên bố tạm dừng Chương trình Đầu tư Nhập Cảnh (IIP) này kể từ năm 1986, thời điểm chương trình được triển khai.

Trước khi loại bỏ Chương trình IIP, Canada công cố đang có 65.000 hồ sơ đợi duyệt, trong đó có 70% là hồ sơ của người Trung Quốc.

Di dân bằng việc đầu tư đang làm cạn kiệt của cải Trung Quốc

Tài sản thu về: Tính tới năm 2012, công dân đã di dân gửi về Trung Quốc 66 tỷ USD, tương đương 4.000 tỷ Nhân dân tệ (RMB). Tài sản thất thoát: Năm 2011, những người Trung Quốc có tài sản có thể đầu tư hơn 6 triệu RMB lên đến 33.000 tỷ RMB, trong đó 2.800 tỷ RMB đã chuyển ra nước ngoài.

Số tiền mà người giàu đầu tư ra hải ngoại vượt xa số của cải họ mang về cho Trung Quốc. Vậy chính xác họ đang đầu tư vào điều gì?

Những nhà đầu tư Trung Quốc đang điên đảo vì bất động sản nước ngoài.

Bên cạnh việc được cấp Visa thông qua hình thức mua trái phiếu, nhiều người giới thượng lưu Trung Quốc đang đặc biệt “say mê” đầu tư vào bất động sản, và đang điên cuồng mua đất ở nước ngoài. Dân Trung Quốc trở thành người mua chính trong lĩnh vực bất động sản nước ngoài .

Khoảng giữa tháng Tư năm 2013 và tháng Ba năm 2014, người Trung Quốc đã chi hơn 221 tỷ USD cho bất động sản Hoa Kỳ, chiếm 24% tổng số giao dịch bất động sản nhà đất của quốc gia này.

Theo “Báo cáo thường niên 2014 về tình trạng Di cư Quốc tế của Trung Quốc”, công dân nước này là những nhà đầu tư nước ngoài đổ vốn lớn vào bất động sản của thành phố Vancouver, Brisbane, và London.

Việc mua nhà đất được người Trung Quốc thực hiện lên đến 20-40% trong tổng số giá trị giao dịch của bất động sản địa phương. Nhưng giao dịch này như lời tuyên bố: “Chúng tôi muốn tất cả các bạn biết rằng chúng tôi đã đánh dấu tên mình cho hầu như mọi thứ trên thế giới”.

CÁI GIÁ CỦA SỰ TRUNG THỰC

                                            CÁI GIÁ CỦA SỰ TRUNG THỰC          TRUNG THUC

 

 

 

 

 

 

 

 

Đây là câu chuyện xảy ra vào buổi trưa tháng 8/2010 tại thành phố New York, Hoa Kỳ. Harris và một đồng nghiệp trong công ty quảng cáo cùng đi ăn trưa tại nhà hàng. Cả hai đã gặp một người ăn xin khiến họ không thể nào quên…

Khi hai người đang đứng bên cạnh đường thì một người ăn xin tiến về phía của Harris. Người ăn xin ấp úng nói: “Tên tôi là Valentine, tôi đã thất nghiệp 3 năm rồi, và chỉ dựa vào ăn xin sống qua ngày. Tôi nói ra hoàn cảnh thật của mình mong cô có nguyện ý giúp đỡ. Cô có thể cho tôi một ít tiền lẻ để mua chút đồ ăn và nước uống không?”

Sau khi nói xong, Valentine đưa ánh mắt nhìn Harris như đang đợi câu trả lời.

Nhìn Valentine, Harris đã động lòng trắc ẩn. Cô mỉm cười nói với Valentine: “Không vấn đề gì, tôi hoàn toàn nguyện ý giúp cậu”. Nói rồi Harris đưa tay vào túi để lấy tiền cho Valentine, nhưng tiếc là cô không còn chút tiền mặt nào, mà chỉ có một thẻ tín dụng. Cô thấy băn khoăn, cầm thẻ tín dụng mà không biết phải làm sao.

Nhìn thấy Harris đang tỏ vẻ ái ngại, Valentine nhỏ giọng nói: “Nếu như quý cô tin tưởng, có thể đưa thẻ tín dụng cho tôi mượn.” Harris vốn có tấm lòng lương thiện nên cô không một chút nghi ngờ đã đưa thẻ cho Valentine.

Cầm thẻ tín dụng xong, Valentine chưa vội rời đi mà còn nói với Harris: “Ngoài việc mua đồ ăn, tôi còn có thể mua thêm ít nước không?”

Harris không suy nghĩ gì thêm, cô nói: “Hoàn toàn có thể, nếu như cậu còn cần mua thứ gì thì cứ mua đi nhé!”

Valentine cầm thẻ tín dụng rồi rời đi. Harris và bạn cùng nhau bước vào nhà hàng. Ngồi xuống không lâu, cô bắt đầu thấy hối hận. Harris có vẻ buồn buồn rồi nói chuyện với bạn: “Thẻ tín dụng của mình không có mật mã, trong thẻ có tới 100.000 USD, cậu kia chắc sẽ cầm mà bỏ trốn, phần lớn là không trả lại cho mình rồi.”

Người bạn lại nói thêm vào: “Bạn quá dễ tin tưởng người xa lạ. Bạn thật quá lương thiện lại ngây thơ nữa!”

Harris giờ nghĩ lại, cô không còn tâm trạng để ăn cơm nữa. Đợi bạn ăn xong rồi hai người rời khỏi nhà hàng.

Điều ngạc nhiên mà họ không ngờ tới là Valentine đã đợi ở bên ngoài từ lâu. Anh dùng hai tay đưa thẻ tín dụng và chi phiếu thanh toán cho Harris. Rồi anh nói: “Tôi đã tiêu hết 25 USD để mua một ít đồ dùng rửa mặt, hai bình nước. Quý cô có thể kiểm tra đối chiếu ngay bây giờ.”

Nhìn người ăn xin biết giữ chữ tín, Harris cùng với bạn của mình đã vô cùng kinh ngạc và cảm động. Cô không thể làm chủ được mà nắm tay Valentine rồi liên tục nói: “Cảm ơn cậu, cảm ơn cậu!”

Valentine làm bộ mặt khó hiểu về tình huống này: “Cô giúp tôi, tôi phải cảm ơn cô mới đúng chứ. Tại sao cô lại phải cảm ơn tôi?”

Sau đó Harris đã đem câu chuyện này kể cho một tòa soạn báo ở New York. Sự thành thật của Valentine khiến tòa soạn cảm động, giúp tờ báo hướng con người đến với chuẩn mực đạo đức cao hơn. Bài viết do đó cũng được nhiều người đón nhận. Nhiều độc giả đã gửi thư đến tòa soạn nguyện ý giúp đỡ Valentine.

Một thương nhân ở bang Texas sau khi xem báo, ông đã gửi cho Valentine hơn 6000 USD kèm theo lời khen tặng về sự thành thật.

Điều làm cho Valentine vui mừng hơn nữa đó là chỉ vài ngày sau anh đã nhận được cuộc điện thoại từ hãng hàng không Wisconsin Airlines. Hãng mời anh về làm nhân viên phục vụ, đồng thời thông báo rằng anh có thể ký hợp đồng đi làm ngay.

Trong một khoảng thời gian ngắn Valentine đã nhận được niềm vui quá lớn.

Anh chia sẻ: “Từ nhỏ mẹ của tôi đã dạy rằng: làm người nhất định phải thành thật và giữ chữ tín, dù cho có nghèo hèn phải lưu lạc đầu đường cũng không được vứt bỏ chữ tín…”

Valentine giờ đã hiểu: làm một người thành thật nhất định sẽ nhận được phúc báo!

– SƯU TẦM –

Bài thơ “Tuổi Trẻ” và Tướng Quân Mc Arthur.

Bài  thơ “Tuổi  Trẻ”  và Tướng  Quân Mc Arthur.

Đòan Thanh Liêm  

Vào dịp cuối năm 1956, lúc tôi còn theo học tại trường luật Saigon, thì anh bạn cùng quê là Vũ Năng Phương có gửi cho tôi một tấm thiệp Noel trong đó có ghi tòan văn bản dịch của bài thơ “Tuổi Trẻ” (Youth) của Samuel Ullman. Lời lẽ thật là sâu sắc, đày tinh thần lạc quan và rất ngắn gọn. Bài thơ đã có ảnh hưởng lớn lao đối với tôi từ trên 50 năm nay. Nhưng mãi đến gần đây, nhờ tìm kiếm trên internet, tôi mới có được nguyên tác bản văn bằng tiếng Anh mà tác giả Samuel Ullman viết vào năm 1918 lúc ông đã 78 tuổi. Tòan văn theo nguyên tác và bản dịch sẽ được ghi nơi Phần Phụ Lục kèm theo bài viết này.

Xin trích một vài đọan tiêu biểu như sau : “Không một ai lại già cỗi đi vì những năm tháng trôi qua. Chúng ta già nua bởi vì ruồng bỏ lý tưởng của mình”.” “ Năm tháng có thể làm nhăn nhúm làn da, nhưng sự từ bỏ tinh thần hăng say phấn khởi, thì mới làm tâm hồn chúng ta thêm héo hắt.  

Nhưng điều quan trọng hơn cả là thông qua Tướng Douglas Mc Arthur, mà cả nước Nhật đã lấy lại được cái hào khí sinh động khiến giúp cho việc tái thiết và phục hồi quốc gia sau cuộc bại trận được mau lẹ tốt đẹp ít ai có thể ngờ được. Chi tiết câu chuyện này như sau : Tướng Mc Arthur rất tâm đắc với bài thơ “Youth” này, nên ông đã cho trưng bày bản văn ngay tại văn phòng của ông tại Tokyo, lúc ông làm Tư lệnh Lực lượng Đồng Minh đặc trách công việc giải giới và phục hồi nước Nhật sau chiến tranh. Rồi vào năm 1946, tờ tạp chí Reader’s Digest ấn bản tiếng Nhật đã phổ biến tòan văn bản dịch ra Nhật ngữ của bài thơ bất hủ này.

Nhiều thành phần công chúng tại Nhật đã hân hoan đón nhận cái tín hiệu đày lạc quan, tích cực và năng động được gói ghém trong “bài thơ không vần này”. Và từ đó mà họ đã hăng say dấn thân vào công cuộc tái thiết quốc gia, khiến cho chỉ sau vài chục năm từ vị trí của một nước thảm bại vì thua trận, và bị tàn phá nặng nề, nước Nhật đã lấy lại vị thế của một cường quốc về mặt kinh tế, chính trị cũng như văn hóa như ta thấy ngày nay. Nhiều người Nhật đã tìm hiểu cặn kẽ hơn về tác giả bài thơ “Youth” này, bằng cách đến tại thành phố Birmingham thuộc tiểu bang Alabama, miền Nam nước Mỹ và thúc đảy cả dân chúng Mỹ tại địa phương để cùng hợp tác thiết lập Viện Bảo Tàng Samuel Ullman (Museum), bằng cách gây quỹ để mua lại căn nhà xưa của tác giả và biến nhà đó thành cơ sở của Viện Bảo Tàng do Đại học Alabama tại Birmingham quản lý (UAB = University of Alabama Birmingham).
Kết cục là chính người Nhật lại đã thán phục cái tinh thần lạc quan năng động của Samuel Ullman như được ký thác trong bài thơ bất hủ này, và họ đã gây ra được cả một phong trào quần chúng tự phát đi tìm hiểu về thân thế sự nghiệp của tác giả, hơn cả chính người Mỹ ở Alabama bởi cái tâm lý “Bụt nhà không thiêng”, nên đã ít chú ý đến con người xuất chúng như thế từ chính quê hương bản quán của mình.

Tiểu sử của tác giả Samuel Ullman (1840 – 1924) có thể ghi vắn tắt như sau : Ông sinh tại nước Đức năm 1840, khi lên 10 tuổi thì theo gia đình qua lập nghiệp tại miền Nam nước Mỹ. Ông gia nhập quân đội Miền Nam (Confederate Army) trong cuộc nội chiến 1860-65. Sau khi miền Nam thất trận, thì giải ngũ về lo chuyện kinh doanh nhỏ. Sau này ông làm việc trong ngành quản lý giáo dục và hết sức hỗ trợ cho các trẻ em da màu (người Mỹ gốc Phi châu) có cơ hội được đi học. Ông cũng dành nhiều sự dễ dãi cho giới phụ nữ được tham gia các sinh họat văn hóa xã hội trong cộng đồng người Do Thái tại miền Nam. Lập trường cấp tiến như vậy đã gây cho ông nhiều sự phiền phức, vì vào thời đó tại miền Nam nước Mỹ nạn kỳ thị chủng tộc vẫn còn rất ngặt nghèo, tàn bạo. Một con người với đầu óc tiến bộ như vậy, nên vào tuổi 78 ông đã sáng tác được bài thơ mà Tướng Mc Arthur (1880 – 1964) đã đưa sang phổ biến tại Nhật bản sau thế chiến 2, khiến gây được một chấn động mạnh mẽ trong tâm lý người Nhật, cũng như trong giới quân nhân Mỹ phục vụ tại Nhật hồi sau chiến tranh.

Quả thật, sức mạnh của tư tưởng nhân bản tích cực và lạc quan phát xuất từ bài thơ này đã tạo ra được sự hưởng ứng mãnh liệt của quần chúng khắp nơi, đặc biệt là tại nước Nhật, ngay cả gần 100 năm sau khi tác giả đã qua đời. Người viết xin trân trọng giới thiệu với các bạn đọc Việt nam câu chuyện về bài thơ “Youth” thời danh này.

Nhân tiện cũng xin ghi lời biết ơn và tưởng nhớ sâu sắc đến với anh bạn Vũ Năng Phương, tức nhà biên khảo Vũ Lục Thủy là người đầu tiên đã cho tôi được biết đến bài thơ này như đã ghi ở đầu bài viết này. Anh đã sớm từ giã cõi đời năm 2001 tại San Diego lúc chưa đày tuổi 70./

California, Tháng Năm 2009
Phụ Lục                                                         

Tuổi   trẻ

Nguyên tác : Youth by Samuel Ullman (1918)

(Bản dịch của Đòan Thanh Liêm – 2009)

Tuổi trẻ không phải là khoảnh khắc thời gian của cuộc đời; đó là một trạng thái của tâm trí; đó không phải là chuyện của những cặp má hồng, của làn môi đỏ mọng và của cặp đầu gối mềm dẻo; đó là chuyện của ý chí, phẩm chất của óc tưởng tượng, sức mạnh của cảm xúc; đó là sự tươi mát của nguồn suối nhân sinh.

Tuổi trẻ mang ý nghĩa là sự thắng vượt của lòng can đảm trên sự rụt rè của ham mê, thích phiêu lưu mạo hiểm hơn là ưa chuộng sự dễ dãi. Điều này thường có nơi người trên 60 tuổi, hơn là trong cơ thể của người ở tuổi 20. Không một ai lại già cỗi đi vì những năm tháng trôi qua. Chúng ta già nua bởi vì ruồng bỏ lý tưởng của mình.

Năm tháng có thể làm nhăn nhúm làn da, nhưng sự từ bỏ tinh thần hăng say phấn khởi thì mới làm tâm hồn chúng ta thêm héo hắt. Sự buồn phiền, sợ hãi, sự ngờ vực chính bản thân mình bẻ nát vụn tâm hồn và biến tinh thần trở về lại cát bụi.

Dù ở tuổi 60 hay 16, trong con tim mỗi người đều có sự quyến rũ của sự kỳ diệu, sự đam mê háo hức như con trẻ với cái điều sắp xảy đến, và niềm vui của trò chơi cuộc sống. Trong sâu thẳm của tâm hồn bạn cũng như của tôi, thì đều có một trạm vô tuyến; bao lâu mà cái trạm đó còn tiếp nhận tín hiệu của cái đẹp, niềm hy vọng, sự nô nức, lòng can đảm và năng lượng của con người và của Vô biên, thì lúc đó bạn còn trẻ mãi.

Khi mà giây ăng ten cụp xuống, và tinh thần của bạn bị bao phủ bởi lớp tuyết hòai nghi yếm thế, thì dù bạn mới có 20 tuổi, bạn đã già nua cằn cỗi rồi. Nhưng nếu giây ăng ten đó vẫn mở bật lên để đón bắt những đợt sóng của lạc quan, thì có hy vọng là bạn có thể chết trẻ vào tuổi 80./

Ghi  chú  :  Tác giả Samuel Ullman mất vào năm 1924 lúc ông được 84 tuổi. Rõ rệt là ông vẫn còn tươi trẻ khi lìa đời, đúng như đọan sau cùng của bài thơ bất hủ, mà ông viết vào năm 1918 lúc ” mới có 78 tuổi “./

YOUTH

Samuel Ullman

 Youth is not a time of life; it is a state of mind; it is not a matter of rosy cheeks, red lips and supple knees; it is a matter of the will, a quality of the imagination, a vigor of the emotions; it is the freshness of the deep springs of life.

Youth means a temperamental predominance of courage over timidity of the appetite, for adventure over the love of ease.  This often exists in a man of sixty more than a body of twenty.  Nobody grows old merely by a number of years.  We grow old by deserting our ideals.

Years may wrinkle the skin, but to give up enthusiasm wrinkles the soul.  Worry, fear, self-distrust bows the heart and turns the spirit back to dust.

Whether sixty or sixteen, there is in every human being’s heart the lure of wonder, the unfailing child-like appetite of what’s next, and the joy of the game of living.  In the center of your heart and my heart there is a wireless station; so long as it receives messages of beauty, hope, cheer, courage and power from men and from the Infinite, so long are you young.

When the aerials are down, and your spirit is covered with snows of cynicism and the ice of pessimism, then you are grown old, even at twenty, but as long as your aerials are up, to catch the waves of optimism, there is hope you may die young at eighty.

NỤ HÔN LUẬT SƯ

NỤ HÔN LUẬT SƯ
Tiến sĩ Luật khoa Đào Quang Huy, học trò Giáo sư – Tiến sĩ – Luật sư Nguyễn Mạnh Tường ở trường Bưởi kể lại một về một phiên tòa diễn ra ở làng Xuân Thọ, huyện Đông Quan, tỉnh Thái Bình, vào thời kỳ 1947-1949.
Vụ án như sau:Một thanh niên nông dân đi làm đồng về, thấy anh Đại đội trưởng đóng tại nhà, đang ôm ấp vợ mình. Sẵn cái cuốc trên tay, anh ta phang một cái, Đại đội trưởng chết ngay.
Phiên tòa mở ra với ý định xử thật nghiêm tội giết người và làm mờ nhạt các tình tiết khác để giữ uy tín cho bộ đội. Chủ tọa là Luật sư Lê Văn Chất. Luật sư Nguyễn Mạnh Tường được chỉ định bào chữa. Ông chỉ có ít phút gặp thân chủ của mình.
Diễn biến phiên tòa đúng như chủ định: Anh nông dân chịu án tử hình và được phép nói lời cuối cùng. Anh nhìn Chánh tòa, nhìn Luật sư, ngập ngừng nói: “Xin phép được ôm hôn bà Chánh tòa một lần trước khi chết”. Bị bất ngờ, Chánh tòa không kịp trấn tĩnh, đập bàn quát mắng anh nông dân rằng tội lỗi đến thế mà còn dám hỗn láo, nói liều.
Ls Nguyễn Mạnh Tường nói: “Thưa ông Chánh tòa, ông là người có học thức, suy nghĩ chín chắn, mà trước một câu nói không đâu của người sắp chết, còn nổi giận ghê gớm như thế. Phương chi, anh nông dân nghèo ít học kia, trông thấy người đàn ông khác trong buồng vợ mình thì sự giận dữ đến mức hành động thiếu suy nghĩ là điều có thể hiểu được”.
Kết quả cuối cùng, anh nông dân được giảm án, thực chất là tha bổng vì hồi ấy Thái Bình đâu có trại giam. Luật sư Lê Văn Chất, có người vợ trẻ, đẹp và ông này rất ghen. Biết thóp này Ls Tường chỉ dùng một mẹo nhỏ nhưng bị cáo đã được cứu mạng.
Dân gian gọi vụ án đó là vụ “nụ hôn Nguyễn Mạnh Tường”.
Hôm nay Ngày Luật sư Việt Nam, ôn lại chuyện này để chúc mừng các Luật sư, mong các Luật sư có thêm nhiều “nụ hôn” như thế nữa để bảo vệ công lý, mang lại bình yên cho cuộc sống bộn bề hôm nay.
Nguyễn Văn Đài

CHÚA SAI TÔI ĐI

CHÚA SAI TÔI ĐI

 ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

 Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, các Linh mục, Tu sĩ.  Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể truyền giáo được?  Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất.  Thiếu phương tiện không có thể làm gì được.  Đó là những quan niệm sai lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.

 Chúa Giêsu cho ta thấy truyền giáo là công việc của mọi người khi Người sai 72 môn đệ lên đường.  Mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ ràng.  Đó là thành phần ưu tuyển.  Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ.  Còn 72 môn đệ không có tên tuổi rõ ràng.  Đó là một đám đông không xác định.  Đó là tất cả mọi người giáo dân.  Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu muốn huy động tất cả mọi người thuộc đủ mọi thành phần tham gia vào việc truyền giáo.

 Giáo dân tham gia vào việc truyền giáo bằng cách nào?

 – Trước hết phải ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Lúa đã chín vàng, phải nhanh chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng.  Biết bao anh em đang chờ đợi được nghe Lời Chúa.  Biết bao anh em đang tìm kiếm Chúa.  Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa.  Ta phải mau mắn để khỏi lỡ mất cơ hội.

 – Thứ đến ta phải cầu nguyện.  Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng, Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện trước.  Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo.  Vì truyền giáo phát xuất từ ý định của Thiên chúa.  Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa ban.  Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc truyền giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa.  Ta hãy noi gương Thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu.  Vị Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức tường Dòng Kín.  Thế mà nhờ lời cầu nguyện, Thánh nữ đã đem được nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh Phanxicô Xaviê, người suốt đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa.

 – Khi đi truyền giáo, hãy trông cậy vào sức mạnh của Chúa.  Chúa dạy ta: “Đừng mang theo túi tiền, bao bị, giày dép” để ta biết sống khó nghèo.  Để ta đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình.  Để ta đừng cậy dựa vào những phương tiện vật chất.  Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa.  Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết quả.

 – Sau cùng, truyền giáo là đem bình an đến cho mọi người.  Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người chung quanh.  Niềm bình an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận lãnh.  Và nhất là, niềm bình an vì được làm con cái Chúa, luôn sống dưới ánh mắt yêu thương của Chúa.

 Như thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm trong tầm tay của mọi người giáo dân.  Mọi người đều có thể ý thức việc truyền giáo.  Mọi người đều có thể cầu nguyện.  Mọi người đều có thể trông cậy vào Thiên chúa.  Và mọi người đều có khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà với người khác

 Như thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít học đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ mạnh đến những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền giáo theo ý Chúa muốn.

 Hôm nay, Chúa đang than thở với mọi người chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Chúng ta hãy bắt chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi”.

 ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

**************************************

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết vui mừng thấy triều đại Chúa mở mang thịnh trị.  Vẫn còn thiếu mặt nhiều thực khách nơi bàn tiệc thánh trong phòng Tiệc ly, dưới ánh sáng hoàng hôn ngày thứ năm Tuần thánh, mà Lời Chúa hôm đó mời chúng con đến dự.  Ngày mà nước Trung Hoa sẽ gia nhập đại gia đình Kitô hữu, để chung tiếng hát ca: “Hãy nâng tâm hồn lên.”  Ngày mà cả nước Ấn độ sẽ hát kinh Tiền tụng.  Ngày mà toàn cõi Châu Phi, trong đôi bàn tay đen, sẽ dâng hiến Bánh thánh tinh truyền.  Ngày mà dân Chúa không còn nạn lạc đạo ly khai, sẽ quy tụ trong một cuộc dâng lễ vĩ đại, đặt tâm hồn muôn vật hữu hình trên đĩa vàng tiếng dâng Chúa.  Ngày đó công cuộc Cứu độ của Chúa sẽ hiển hiện với đầy đủ sắc vẻ huy hoàng.  Lạy Chúa của con, Chúa đã dạy chúng con phải thương yêu anh em đồng loại, hôm nay Chúa cho chúng con nhận biết toàn thể loài người là anh em thật sự của chúng con.  Xin Chúa cho chúng con biết yêu mến nhân loại ruột thịt của chúng con, cách thành thật, tận tình.

 Pierre Charles

Những Trang Viết Giữa Cơn Mưa

Những Trang Viết Giữa Cơn Mưa

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Thời đại đúng là của loài thú mang mặt người.

Tuấn Khanh

Ông bà mình từng dậy: “Đi một ngày đàng học một sàng khôn.” Tôi không biết cái đơn vị đo lường (“một sàng”) này chứa được cỡ bao nhiêu sự khôn ngoan nhưng nếu các cụ nói thì gần 10 ngày qua tui chả học được thêm cái gì ráo trọi – nếu không có nét.

Hơn tuần rồi tôi không đi được đâu vì Cambodia mưa quá. Sáng mưa tầm tã, trưa mưa lai rai, chiều mưa xối xả, đêm mưa rả rích.

Từ California, nơi mà lâu nay Trời chả ban phát cho một giọt nước nào, vừa bước ra khỏi máy bay đã thấy phi trường Phnom Penh mù mịt trong mưa. Tui xúc động thiếu điều muốn khóc luôn. Thiệt là mát trời ông Địa!

Lâu quá, tui không được thấy mưa mà. Những trận mưa nhiệt đới ào ạt, hào phóng (cỡ này) có khác gì ở Việt Nam đâu. Cứ tưởng như là mình đã bước chân được tới cố hương rồi vậy.

Suốt đêm nằm nghe tiếng nước rào rạt đổ trên mái nhà sao mà thấy đã quá trời, quá đất. Mất cả ngàn Mỹ Kim tiền vé máy bay (hay hơn nữa cũng được) để chỉ được nằm nghe mưa rơi cả tuần như vậy cũng đủ khiến cho tui cũng hả hê, sung sướng, và mãn nguyện lắm rồi.

Tưởng vậy nhưng không phải vậy. Chỉ sau vài bữa mưa tối trời tối đất là tôi bắt đầu, thấp thoáng, nhìn thấy … quan tài. Ô té ra, y như ở quê mình, mưa quá xá thì Cambodia cũng sẽ bị lụt thôi.

Tuy “thế nước không lên” tới mông hay tới háng như ở Sài Gòn hay Hà Nội nhưng Phnom Penh cũng có chỗ ngập cỡ nửa bánh xe, còn thường thì cao hơn mắt cá.

Thế nước Cambodia cũng đang lên. Ảnh: cambodjakids

Cứ lò dò, bì bõm đi tìm quán nhậu trong mưa thì thế nào có bữa bị lọt chân vô lỗ cống, và lọi giò là cái chắc. Thôi thì có kiêng có lành. Tôi quyết định cứ ở yên trong nhà trọ, ăn mì gói, uống cà phê pha liền, hút thuốc lá vặt, và “chơi” với computer thôi.

Và đến tình cảnh này mới biết các cụ nhà ta đã bị thời thế bỏ lại rất xa. Chả cần phải đi đâu tôi vẫn học hỏi được đôi  điều thú vị từ vài trang nét:

Chuyện thứ nhứt là công an đã tìm ra thủ phạm đánh chết thiếu niên Đỗ Đăng Dư, như tin loan của báo Vnexpress và … toàn thể đồng nghiệp:

“Theo công an Hà Nội, khoảng 8h30 ngày 4/10, Dư, Bình, Trường và Đức Anh ăn sáng tại buồng giam. Theo lịch phân công, sau khi ăn xong Dư phải rửa bát cho các bị can cùng buồng. Do thấy rửa bát bẩn, Bình gọi Dư đến ngồi ở khu vực giữa 2 bệ xi măng nơi bị can ngủ tát 2 cái vào má trái, dùng chân trái đá 3-4 lần vào đầu nạn nhân theo hướng từ trên xuống dưới.

“Quá trình điều tra, ngày 8/10, Công an Hà Nội đã khởi tố bị can Vũ Văn Bình về tội danh Cố ý gây thương tích; đồng thời tổ chức khám nghiệm hiện trường.”

Té ra hung thủ là một thiếu niên cùng tù, chớ đâu phải mấy chú công an. Vụ này không hiểu sao vừa đọc tới đây tôi lại nhớ đến một câu tuyên bố xanh rờn của nhà văn Nguyên Ngọc: “Một đảng, một nhà nước kỳ lạ. Đánh người toàn bằng đánh trộm, thụi ngầm và phi tang.”

Vậy mà tưởng đâu cái kiểu “đánh trộm, thụi ngầm và phi tang” chỉ dành riêng cho “bọn phản động bị các thế lực thù địch ngoài nước xúi giục chống phá nhà nước” thôi chớ. Ai dè chiến thuật này cũng áp dụng luôn cho đám nhóc con ở trong tù nữa. Thế mới biết chính sách của nhà nước ta thiệt là nhất quán.

Chuyện thứ hai (“Không Thể Cứ Trả Lời Theo Kiểu Kangaro”) cũng thú vị không kém, qua ngòi bút duyên dáng của Tiến Sĩ Tô Văn Trường:

Xem phim Úc hơi khó nghe hơn phim Mỹ nhưng cũng hiểu nội dung. Có người bạn lớn tuổi bảo rằng nói tới Úc lại hậm hực là cái dân Úc dùng tiếng Anh mà sao cái từ dầu hôi (dầu hỏa) cứ một mực gọi là Parafine (trong khi cả thế giới đều dùng từ này để chỉ sáp nến “sáp đèn cày”!

Thực tế, chẳng cứ gì dân Úc mà ngay cả dân “Anh rặc” cũng có từ sai toét tòe loe – đó là từ kangaroo (con chuột túi). Lần đầu tiên, có người Anh tới Úc, họ thấy con vật lạ, hỏi thổ dân bản địa và được trả lời “kangaroo”, họ bèn ghi vào tự điển tên loài vật này. Ai dè, tới mãi sau có người nghiên cứu thổ ngữ của dân bản địa thì mới hay rằng “kangaroo” nghĩa là : “tôi không hiểu” (ông nói gì) đã lỡ rồi nên con vật này đành mang cái tên “tôi không hiểu”. Đúng là “oan thị Kính”!

Ông T/S mở đầu bài viết đã có duyên (rồi) mà đóng lại còn bất ngờ và duyên dáng hơn nhiều: “Kết luận cho bài viết này là con đường Đại hội Đảng khóa XII đang muốn mở ra cho đất nước có tên gọi là “Kangaroo”!

Mà thiệt, đọc xong bản tin của RFA (“Bế Mạc Hội Nghị Trung Ương ĐCSVN Khóa Thứ 12”) sao tui thấy mọi chuyện ngó bộ mơ hồ và mù mịt quá hà:

“Chiều ngày hôm qua, hội nghị trung ương đảng cộng sản Việt nam khóa thứ 12 kết thúc.

Trong diễn văn bế mạc, ông Tổng bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng nói là ông đánh giá cao việc chuẩn bị công tác nhân sự của hội nghị này. Công tác nhân sự đó bao gồm các báo cáo nhân sự Bộ chính trị, Ban bí thư, và các chức danh chủ chốt từ đây đến đại hội đảng lần thứ 12 vào năm tới.

Ông Trọng nói thêm là Trung ương đảng đã thảo luận một cách dân chủ, công tâm và toàn diện về danh sách nhân sự lần đầu tiên được giới thiệu cho khóa 12, cùng với những phương án chọn lựa khác nhau.

Xin được nhắc lại là theo qui định hiện hành, các ủy viên trung ương đảng của khóa cũ không thể tự ứng cử cũng như nhận đề cử vào vị trí ủy viên trung ương của khóa mới.

Có một điều khác mà nhiều nhà quan sát chính trị Việt nam quan tâm theo dõi là liệu các vị lãnh đạo chủ chốt hiện thời của Việt nam là Tổng bí thư đảng, Thủ tướng chính phủ, Chủ tịch nước, và chủ tịch Quốc hội có tiếp tục giữ chức vụ sau đại hội đảng sắp tới hay không!

Ông Nguyễn Phú Trọng nói trong diễn văn bế mạc rằng Trung ương đảng đã thảo luận việc xem xét các trường hợp đặc biệt như vừa nêu để định ra tiêu chuẩn cụ thể cho từng chức danh.

Điều đó cho thấy là có khả năng các vị lãnh đạo chủ chốt hiện nay có thể sẽ tiếp tục đảm nhiệm chức vụ hiện hành của mình trong thời gian tới.”

Nghĩa là “có thể” sẽ không có gì thay đổi ráo trọi. Và chuyện dài nhân sự của ĐCSVN thì tui cũng có nghe kể trước đó rồi, hơi dài dòng chút xíu:

Vừa qua, Ung Văn Khiêm cho tôi biết trước đây Sài Gòn là cứ địa vững bền của Duẩn và Thọ, nhưng đến nay nó đã gần như tuột khỏi hai ông. Khiêm cũng cho hay Thành uỷ Sài Gòn quyết hẩy đi bằng được hai người của Thọ trong Thành uỷ là Mười Hương và Mai Chí Thọ. Cái này có ý kiến của Duẩn không? Tôi đã hỏi và Khiêm lắc đầu, không rõ.

Tóm lại nhiều náo động quanh ghế Tổng bí thư. Vì thế không phải ngẫu nhiên mà gần đây đâu đâu cũng kháo chuyện lý lịch Giáp có mấy vết to: xin học bổng sang Pháp học (kiểu Nguyễn Tất Thành xin vào trường Hành chính quốc gia Pháp), con nuôi mật thám Marti. Vào đảng không có ai giới thiệu, nịnh Cụ Hồ để được Cụ Hồ o bế. Ngay tướng Giáp có lẽ cũng không hiểu tại sao ông lại bị trù dữ đến như vậy?

Một buổi sáng, Lê Liêm và tôi đạp xe qua Uỷ ban nhân dân Hà Nội và Bưu điện. Tôi hỏi Lê Liêm: Anh trông mặt tiền Uỷ ban nhân dân mới kia có giống cái máy chém không? Liêm ngước nhìn xong nói: Ờ, nom thế mà thấy giống máy chém thật. Rồi chợt thở dài hỏi tôi có nghe thấy người ta bôi nhọ anh Giáp không? Tôi nói có. Liêm nói tôi đã trực tiếp hỏi anh Giáp. Anh Giáp nói cũng nghe thấy. “Thế anh im à”, Liêm hỏi. Giáp nói Giáp đã gửi ba thư lên cho Bộ chính trị. Xin cho Giáp gặp để làm rõ các vấn đề. Bộ chính tri im. Thư thứ hai đề nghị Bộ chính trị cho ngăn lại những lời đồn bậy nhưng Bộ chính trị kiên trì miễn đối thoại. Lại cái thứ ba đề nghị Bộ chính trị cho Giáp gặp, và lại tét.

Lê Liêm bảo tôi: Thấy uy tín anh Giáp trong dân và cán bộ còn lớn nên họ bôi nhọ anh ấy.

Đến đầu Tràng Thi, Lê Liêm bảo tôi: Anh nghe tôi nói cái này xem để biết nhé… (im một lát, mắt buồn, hạ giọng nói tiếp), mấy hôm trước, thằng con mình (tôi không nhớ là Thao hay Công nữa) nó bảo tất cả tại bố mà nên khổ thế này. Mình tưởng nó bảo tại mình vướng xét lại. Nhưng rồi nó nói tiếp. Thì ra thế này. Tại bố theo một dúm các ông ấy tha về đất nước cái chủ nghĩa nó đã bịt miệng dân không cho ăn lại còn bóp cả mồm dân không cho nói… Thì ngay đến bố đấy mà có được ăn được nói đâu!

Từ đấy đến ngã tư Điện Biên Phủ – Hoàng Diệu, gần tới nhà Lê Liêm, chúng tôi im lặng hoàn toàn.

Chiều nay, sau khi bàn chuyện tại sao Khiêm vào lại đảng, tôi nói lại chuyện này cho Minh Việt.

Việt nghe rồi cúi xuống. Nhân sự ư? Bận tâm với nó làm gì! Thì đó, con súc sắc tung ra, không nhất thì nhị, không nhị thì tam, không tam thì tứ, đều cùng một xưởng tiện gọt nên, đêu cùng tay một chủ sòng bôi đen tô đỏ rồi ném ra chiếu. (Trần Đĩnh. Đèn Cù II, Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Té ra từ thời Lê (Lê Duẩn, Lê Đức Thọ…) qua tới thời Nguyễn (Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Sinh Hùng, Nguyễn Phú Trọng…) vẫn cũng chỉ là cái “xưởng tiện” ấy, và con “súc sắc” ấy thôi. Bận tâm với nó làm gì!

Cũng định bỏ lơ luôn thì lại nghe tiếng trách từ một ông bạn đồng nghiệp trẻ, Bùi Thanh Hiếu:

“Với cơ cấu diễn ra như trên cho thấy không có gì thay đổi đáng kể trong đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam. Sự trông chờ ĐCSVN trao trả dân chủ, quyền lực cho người dân tự quyết chỉ là giấc mơ hão huyền. Khi mà việc nhân sự cấp cao lãnh đạo đất nước còn do đảng CS quyết định trong bóng tối với nhau êm ấm, người dân thờ ơ không quan tâm, không phản đối. Đương nhiên chả có lý gì đảng CSVN sẽ không có đại hội đảng khoá 13, 14, 15 hay 20…”

Đúng là cái thằng phải gió. Đã định đội mưa chạy (đại) đi mua một chai gì đó về uống cho đến say rồi ngủ mà nó lại mỉa mai như thế khiến mình cũng phải cảm thấy có đôi chút tâm tư. Nỗi niềm tâm tư, giữa một buổi chiều mưa, của một người (viễn xứ) mà nhà không có rượu!

Chiến thuật trấn áp sự phản kháng trong nước

Chiến thuật trấn áp sự phản kháng trong nước

Cảnh sát canh gác trước Tòa án Nhân dân TP HCM.

Cảnh sát canh gác trước Tòa án Nhân dân TP HCM.

Nguyễn Hưng Quốc

13.10.2015

Trong bài “Vietnam’s rising repression”, đăng trên tờ New Mandala mới đây, giáo sư Zachary Abuza, một nhà Đông Nam Á học, cho rằng những sự đàn áp của chính quyền Việt Nam đối với những người bất đồng chính kiến càng lúc càng gia tăng và càng lúc càng tinh vi. Ông tóm tắt những sự đàn áp ấy vào năm chiến thuật chính:

Thứ nhất, trấn áp những luật sư thường đứng ra bảo vệ và bào chữa cho những người đối kháng bị chính quyền bắt giữ và đem ra xét xử. Tiêu biểu nhất cho những luật sư này là Lê Công Định, Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Văn Đài và Võ An Đôn.

Thứ hai là sử dụng những tội danh khác, phổ biến nhất là tội danh trốn thuế, để đánh lạc hướng dư luận là ở Việt Nam không hề có tù nhân lương tâm.

Thứ ba là sử dụng công an chìm để hành hung những nhà hoạt động dân chủ và những người hay lên tiếng phê phán chế độ, kể cả các nhà báo đang tiến hành các cuộc điều tra việc công an đàn áp dân chúng. Theo tổ chức Theo dõi Nhân quyền, riêng trong năm 2014, đã có tới 14 nhà báo bị hành hung.

Thứ tư là gia tăng kiểm duyệt trên mạng lưới internet. Việt Nam được xem là quốc gia có hệ thống kiểm duyệt truyền thông khắt khe nhất thế giới.

Cuối cùng, thứ năm là tập trung bóp chết những trang blog có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng.

Theo tôi, trong năm chiến thuật được Zachary Abuza nêu lên ở trên, hai chiến thuật sau cùng có thể được gộp làm một: Trấn áp những tiếng nói đối kháng trên mạng lưới internet. Có ba hình thức trấn áp chính: Một là dựng tường lửa, đặc biệt với các trang web đặt trụ sở ở hải ngoại; hai là dùng tin tặc để tấn công các trang web thù nghịch; và ba là bắt bớ những blogger có nhiều ảnh hưởng như trường hợp của Trương Duy Nhất (2 năm tù), Phạm Viết Đào (15 tháng tù), Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh (bị bắt ngày 5 tháng 5 năm 2014, chưa xét xử) và Nguyễn Quang Lập (bị bắt và tạm giam 2 tháng, đã thả).

Ngoài các chiến thuật mà Zachary Abuza nêu trên, tôi nghĩ còn một chiến thuật khác chính quyền Việt Nam gần đây sử dụng nhiều để đàn áp những người bất đồng chính kiến: Trục xuất họ ra khỏi đất nước, chủ yếu là đẩy họ sang Mỹ. Cho đến nay, họ đã trục xuất bốn người: nhà văn Trần Khải Thanh Thuỷ (ngày 23 tháng 2 năm 2011), luật sư Cù Huy Hà Vũ (ngày 7 tháng 4 năm 2014), blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải (ngày 21 tháng 10 năm 2014) và gần đây nhất, blogger Tạ Phong Tần (ngày 19 tháng 9 năm 2015).

Việc đưa các nhà bất đồng chính kiến từ nhà tù đi thẳng sang Mỹ có ba lợi ích cho họ: Một là đáp ứng được các yêu sách từ phương Tây, chủ yếu là từ Mỹ; hai là chứng tỏ họ có tinh thần nhân đạo, và ba là để vô hiệu hoá những nhà bất đồng chính kiến ấy. Hai lợi ích đầu tương đối dễ thấy. Tôi chỉ xin phân tích lợi ích thứ ba.

Trên nguyên tắc, sống ở nước ngoài, đặc biệt tại Mỹ, các nhà bất đồng chính kiến ấy sẽ được tự do hơn. Họ muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, không ai cấm cản được họ cả. Hơn nữa, họ cũng được sự ủng hộ của nhiều người trong cộng đồng, nhờ thế, họ dễ tập hợp thành một lực lượng với những tầm vóc nhất định. Nhưng tự do cũng là một con dao hai lưỡi. Lưỡi kia của tự do là: người ta mất tư cách nạn nhân, những người bị đày ải trong lao tù của bạo chính. Mất tư cách nạn nhân, người ta cũng mất cả tư cách là anh hùng bởi anh hùng chỉ được thể hiện trong điều kiện đối diện với thử thách và đặc biệt, với sự áp bức. Sống ở hải ngoại, tự do phơi phới, không ai có thể anh hùng hơn ai được. Khái niệm anh hùng của những người bất đồng chính kiến trở thành một thuộc tính của quá khứ, một thứ vang bóng một thời. Hơn nữa, sống ở nước ngoài, người ta cũng mất cả tư cách chứng nhân; tiếng nói của họ, do đó, cũng mất sức nặng của người trong cuộc.

Nói cách khác, mất cả ba tư cách nạn nhân, anh hùng và chứng nhân, người ta mất tất cả. Họ trở thành bình thường như bao nhiêu người bình thường khác. Họ lại thua những người bình thường khác ở chỗ: Họ ra ngoại quốc muộn hơn, gặp nhiều khó khăn trong tiến trình hội nhập vào cuộc sống mới hơn, bởi vậy, với một mức độ nào đó, họ cũng mất thế giá hơn. Đó là chưa kể trong môi trường tự do ở hải ngoại, người ta rất dễ bộc lộ những sự nghi ngờ hay đố kỵ nhắm vào những người mới từ Việt Nam sang: Họ là “tay sai” hay “sứ giả” của Việt Cộng sang phá hoại cộng đồng. Trường hợp của Nguyễn Chí Thiện trước đây là một ví dụ. Lúc còn trong nước, ông là một nhà thơ anh hùng; sang Mỹ, ông chỉ còn là một nhà thơ. Không những vậy, ông còn đối diện với những tin đồn thất thiệt, trong đó, có tin đồn ông chỉ là một Nguyễn Chí Thiện… giả.

Trong bài “Chuyện Cù Huy Hà Vũ sang Mỹ” đã đăng trên blog này năm ngoái, tôi có nêu lên kinh nghiệm của nhà văn Dương Thu Hương và nhà văn Alexander Solzhenitsyn. Lúc còn ở trong nước, các tác phẩm văn học cũng như các bài viết về chính trị của Dương Thu Hương được đón nhận nhiệt liệt. Từ năm 2006, bà sang sống hẳn ở Pháp. Sống ở đâu thì Dương Thu Hương cũng vẫn là Dương Thu Dương thôi. Vẫn thông minh, sắc sảo, thẳng thắn và tài hoa. Không có gì thay đổi. Nhưng rõ ràng là sự tiếp nhận của những người chung quanh, từ cộng đồng người Việt đến cộng đồng quốc tế, đã thay đổi: Bà chỉ còn là một nhà văn chứ không phải nhà văn đối kháng nữa. Với bà, người ta hờ hững dần. Và bà cũng im lặng dần.

Mà không phải chỉ có Dương Thu Hương. Lớn hơn Dương Thu Hương rất nhiều, nhà văn Alexander Solzhenitsyn, giải Nobel văn chương năm 1970, bị trục xuất khỏi Nga vào năm 1974; và sau một thời gian ngắn sống ở Tây Đức và Thụy Sĩ, ông được mời sang Mỹ. Ông định cư ở Mỹ cho đến năm 1994, khi chế độ cộng sản đã sụp đổ tại Nga, ông mới về nước. Trong gần 20 năm ở Mỹ, Solzhenitsyn chỉ sống một cách lặng lẽ ở một địa phương khuất lánh heo hút. Trừ sự ồn ã ở vài năm đầu, sau đó, dường như người ta quên mất ông, hơn nữa, có khi còn bực bội vì ông. Một số quan điểm của ông, lúc còn nằm trong nhà tù Xô Viết, được xem là dũng cảm; lúc đã sống ở Mỹ, ngược lại, lại bị xem là cực đoan.

Cả Solzhenitsyn lẫn Dương Thu Hương đều không phải là những người làm chính trị. Họ chỉ là những nhà văn, khi còn trong nước, được xem là đối kháng. Nhưng ngay cả khi là một nhà văn, người ta còn không được nghe, huống gì chỉ là một người hoạt động chính trị? Cơ hội để được nghe chắc chắn sẽ hiếm hoi hơn nhiều.

Bởi vậy, việc trục xuất những người bất đồng chính kiến ra khỏi nước được xem là một cách vô hiệu hoá họ. Chiến thuật này đã từng được Liên Xô sử dụng thường xuyên trong suốt thời chiến tranh lạnh.

Bây giờ đến lượt Việt Nam.

Hình ảnh chàng trai Kalangnalong quỳ gối cảm tạ công ơn nuôi dưỡng của cha

 Ảnh của Man Nguyen.

Man Nguyen 

 Hình ảnh chàng trai Kalangnalong, sinh viên vừa tốt nghiệp trường Đại học Chulalongkorn danh tiếng của Thái Lan mặc bộ đồ cử nhân chạy tới trước xe rác của cha quỳ gối cảm tạ công ơn nuôi dưỡng của ông được lan truyền mạnh mẽ trên mạng xã hội khiến cộng đồng xúc động.

Kalangnalong là tân cử nhân mới tốt nghiệp trường Đại học Chulalongkorn danh tiếng của Thái Lan. Cha của Kalangnalong là một người lái xe chở rác. Lúc còn nhỏ, Kalangnalong thường hay mặc cảm vì công việc của cha mình và đôi khi cậu cảm thấy mất mặt khi thấy ông không được bảnh bao, phong độ như cha của các bạn khác.

Thế nhưng càng lớn, Kalangnalong lại càng khâm phục người cha mới học hết lớp 4 của mình. Ông luôn dành tất cả những gì tốt đẹp cho con trai, luôn nỗ lực làm việc thật chăm chỉ để có tiền cho con ăn học đầy đủ, để con không bị thua bạn kém bè.

Kalangnalong luôn biết ơn cha vì ông đã dành tất cả những điều tốt đẹp nhất cho mình.
Biết được nguyện vọng lớn nhất của cha là thấy con trai thi đỗ Đại học, Kalangnalong tự nhủ phải không ngừng phấn đấu và chàng trai đã thi đỗ vào trường Đại học danh tiếng hàng đầu Thái Lan. Khi nhận được tin báo Kalangnalong trúng tuyển vào trường Chulalongkorn, cha của cậu đã không kìm được những giọt nước mắt hạnh phúc. Sau đó, người cha già lại càng cố gắng hơn nữa để kiếm đủ tiền nuôi con suốt 4 năm Đại học.
Vào ngày lễ tốt nghiệp, Kalangnalong đã mặc nguyên bộ đồ cử nhân chạy đến trước chiếc xe chở rác của cha và quỳ xuống bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với công ơn sinh thành dưỡng dục của ông.

Hình ảnh chàng trai trẻ mặc bộ đồ cử nhân quỳ gối cảm tạ công ơn trời biển của cha trước chiếc xe chở rác của ông hiện đang được lan truyền mạnh mẽ trên các trang mạng xã hội khiến cộng đồng không khỏi xúc động nghẹn ngào.

Tân cử nhân Kalangnalong vô cùng thành kính quỳ gối cảm tạ công ơn nuôi dưỡng của cha trước chiếc xe chở rác của ông.

Đại học Chulalongkorn ở Bangkok là trường Đại học cổ nhất Thái Lan và từ lâu nay vẫn được xem là một trong những ngôi trường danh tiếng nhất Thái Lan. Trường Đại học gồm có 20 khoa này được xem là trường tốt nhất và tuyển chọn nhất Thái Lan, đây là nơi thu hút các học sinh giỏi hàng đầu Thái Lan.
Đình Đình
Theo Trí thức trẻ

Những bạn tôi từ miền đất Quảng Ngãi

Những bạn tôi từ miền đất Quảng Ngãi

 Đoàn Thanh Liêm

*     *     *

Tôi sinh trưởng tại tỉnh Nam Định trong vùng đồng bằng sông Hồng thuộc miền Bắc. Nhưng từ năm 1954 lúc đến tuổi 20, thì di cư vào miền Nam và lập nghiệp ở Sài gòn cho đến ngày qua định cư bên nước Mỹ kể từ năm 1996.

Từ trên 60 năm nay, tôi có duyên quen biết gắn bó với nhiều bạn hữu xuất thân từ tỉnh Quảng Ngãi là một khu vực mà theo vị trí địa lý, thì nằm ở giữa khỏang cách từ Nam Định tới Sài gòn.

Nay nhân dịp đầu xuân Bính Thân 2016, tôi xin ghi lại những kỷ niệm thật dễ thương với một số trong những người bạn thân thiết đó, lần lượt như sau đây.

I – Luật sư Bùi Chánh Thời.

Anh Thời là một sinh viên học chung lớp với tôi tại Đại học Luật khoa Sài gòn bắt đầu từ năm 1955 và đến năm 1958, thì chúng tôi cùng tốt nghiệp văn bằng Cử nhân Luật khoa. Sau đó, chúng tôi cùng hành nghề luật sư nên vẫn thường gặp nhau nơi pháp đình Sài gòn. Vào giữa thập niên 1960, anh Thời mở chung văn phòng luật sư với anh bạn đồng nghiệp Đòan Ý cũng là một đồng môn với chúng tôi.

Anh Thời lập gia đình sớm, ngay từ cái thời còn là sinh viên, anh nói đặc giọng Quảng ngãi nghe hơi nặng, mà người bạn đời của anh là chị Thân Thị Tố Tâm thì lại nói giọng Huế nghe thật là du dương. Trong khi phần đông sinh viên chúng tôi còn phải đi xe đạp, thì anh Thời đã có xe hơi để thường chở chị ấy đi dậy học tại trường Gia Long rồi.

Trước năm 1975, luật sư Thời là một nhân vật khá nổi tiếng không những với nghiệp vụ biện hộ cho các thân chủ trước các tòa án, mà anh còn tham gia việc giảng dậy về luật pháp tại Đại học Huế. Về chính trị, anh cũng tham gia sinh họat thật sôi nổi cùng với các bạn có chung một lập trường đối lập được gọi là thành phần thứ ba. Giới báo chí liệt kê anh vào nhóm thân với khối Phật giáo Ấn Quang – mà có người còn nói là anh Thời đã có thời gian sinh sống trong một ngôi chùa ở miền Trung. Hồi còn là một học sinh ở Huế, anh Thời đã nổi tiếng với những bài thơ được nhiều bạn trẻ ưa thích. Anh lấy bút hiệu là Như Trị – cùng thời với nhà thơ Tạ Ký nữa. Anh quen nhiều với anh Cao Huy Thuần là bạn cùng học luật với chúng tôi. Đó là một trí thức khá nổi tiếng mà đã qua dậy học và định cư ở Pháp từ lâu.

Thế nhưng sau 1975, mọi họat động chuyên môn của giới luật sư chúng tôi cũng như lọai sinh họat chính trị nói trên thì đều bị ngưng trệ tất cả. Và cũng giống như đại đa số những bạn đồng nghiệp khác, luật sư Thời đã không còn có cơ hội thi thố tài năng đang độ chín mùi của mình nữa. Anh sống âm thầm kín đáo lặng lẽ, thu hẹp sinh họat trong phạm vị nhỏ bé của riêng gia đình mình mà thôi.

Chẳng bao lâu sau, anh chị Thời lại còn gặp phải một tai họa thật là não nề đau đớn. Đó là vào năm 1978 – 79, anh chị gửi hai cháu nhỏ đi vượt biên cùng với gia đình anh chị Luật sư Nguyễn Hữu Lành trong chuyến tàu có nhiều nhân vật tên tuổi khác ở miền Nam. Ấy thế, mà con tàu bị biệt tăm giữa biển khơi, anh chị không bao giờ được biết tung tích của hai đứa con của mình ra sao nữa. Để rồi sau đó, cả hai anh chị cũng phải liều mình đem một cháu út ra đi và lần này anh chị đã gặp may mắn mà đến định cư ở Australia.

Vào cuối năm 2011, tôi đã có dịp đến thăm gia đình anh chị Thời tại thành phố Canberra là thủ phủ của Liên bang Australia. Sau mấy chục năm gặp lại nhau, cả hai chúng tôi đều mừng mừng tủi tủi, thật là cảm động chuyện trò trao đổi tin tức về một số bạn hữu thân thiết đã từng sát cánh với nhau bao nhiêu năm xưa ở quê nhà Việt nam. Tôi nhận thấy anh chị đã đạt tới tình trạng trầm lắng bình thản sau bao nhiêu nghịch cảnh sóng gió cuộc đời – đặc biệt là thái độ an nhiên tự tại để tiếp tục sống bên nhau trong những ngày tháng của tuổi xế chiều.

Hai anh bạn trẻ cùng đi với tôi bữa đó, thì xưa kia cũng đã từng là học trò của luật sư Thời, nên họ đều nhắc lại những kỷ niệm thật sâu đậm với vị thày khả kính thuở ấy. Và rõ ràng cuộc trùng phùng này đã làm sống lại cái tình cảm thân thương và niềm an ủi chân thật giữa hai phía anh chị Thời với ba người chúng tôi vào một ngày mùa hè ở Úc châu cuối năm 2011 vậy.

II – Thày Thích Tâm Quang.

Bắt đầu từ năm 1966, lúc tôi giữ nhiệm vụ Quản lý chương trình phát triển quận 6 Sài gòn, thì hay có dịp gặp gỡ trao đổi với Thày Tâm Quang là một tu sĩ từ miệt Quảng Ngãi vào làm việc Phật sự ở khu vực Phú Lâm gần với ngã ba Cây Da Xà. Ông thày còn rất trẻ cỡ trên dưới tuổi 25, nhưng có sức làm việc bền bỉ nhẫn nại ít ai sánh kịp. Ông không lo xây cất chùa, mà lại dồn hết nỗ lực vào việc mở trường học cho các em nhỏ tại địa phương có nhiều gia đình lao động nghèo khó. Và ngòai ra thì đi giúp những nơi có nhiều nạn nhân chiến cuộc đến tạm cư.

Với thái độ cởi mở hồn nhiên, ông đi tiếp xúc với nhiều giới chức tại Bộ Xã Hội cũng như tại những cơ quan từ thiện nhân đạo quốc tế và tạo được mối thiện cảm sâu xa của nhiều nhân vật đặc trách về công tác xã hội ở Sài gòn thời kỳ trước năm 1975. Nhờ có sự tín nhiệm đó, mà mỗi khi ông thày cần đến dụng cụ huấn nghệ hay vật phẩm gì để giúp đồng bào, thì các cơ quan xã hội này luôn sẵn sàng cung cấp cho thày lãnh nhận để đem phân phối lại cho bà con nạn nhân thiên tai bão lụt hay nạn nhân chiến cuộc tại các địa phương xa xôi hẻo lánh.

Qua sự giới thiệu của thày Tâm Quang mà tôi có dịp gặp gỡ quen biết với Thượng Tọa Thích Hồng Ân là vị sư phụ của ông và cũng là bậc tu sĩ cao cấp nhất tại Quảng Ngãi. Và vào năm 1972, nhân chuyến đi thăm các cơ sở cứu trợ nạn nhân chiến cuộc tại miền Trung, tôi đã có dịp đến thăm viếng ngôi chùa trên núi Thiên Ấn là cơ sở tôn giáo lâu đời mà hồi ấy do Thày Hồng Ân phụ trách trông coi. Tôi vẫn còn nhớ ở phía chân núi còn có mộ phần của nhà ái quốc Hùynh Thúc Kháng được bà con ở địa phương chung nhau xây dựng và bảo trì khá tươm tất tại đây. Quả thật địa danh “Núi Ấn, Sông Trà” là một thắng cảnh đặc trưng nổi bật của tỉnh Quảng Ngãi – tức là núi Thiên Ấn và sông Trà Khúc.

Và cũng qua thày Tâm Quang mà tôi còn quen biết được cả ba người anh em đều là những nhân vật có tên tuổi ở Quảng Ngãi nữa. Đó là các anh Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Diễn và Nguyễn Văn Hàm. Cả ba anh đều đi dậy học, viết văn viết báo, làm thơ. Chỉ có anh Diễn ở lại Quảng Ngãi mà nay đã qua đời. Còn anh Xuân và Hàm đều sinh sống lâu năm ở Sài gòn.

Tôi còn rất nhiều kỷ niệm với thày Tâm Quang qua những chuyến đi công tác cứu trợ nạn nhân chiến cuộc ở Bình Tuy, Bà Rịa, Long Khánh v.v… Thông thường, thày luôn được Thượng Tọa Thích Quảng Long hồi đó đảm trách Tổng Vụ Xã Hội của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cho mượn xe và cả tài xế để chuyên chở đi khắp nơi thăm viếng úy lạo đồng bào đang phải lánh nạn trong các khu tạm cư hoặc di chuyển từ vùng đất Quảng Trị vào miền Nam.

Sau 1975, mặc dầu gặp nhiều khó khăn, chúng tôi vẫn có dịp gặp lại nhau, thường là thày Tâm Quang đến thăm tôi tại nhà và cho biết tin tức của nhiều bà con bạn hữu khác. Quả thật, tình cảm thân thiết giữa chúng tôi mỗi ngày càng thêm bền chặt, gắn bó lâu bền. Là người tận tâm chăm sóc cho giới bình dân lao động theo đúng tinh thần từ bi hỉ xả của Đức Phật, thày Tâm Quang cũng còn có thái độ cởi mở phóng khóang và thuận thảo đối với giới tu sĩ và tín đồ Công giáo và Tin lành nữa.

Tôi thật nhớ câu nói của thày đã nói với tôi từ gần 50 năm trước, đó là: Người tu luyện theo giáo l‎ý nhà Phật thì luôn tìm cách thực hành phương châm này “Tự độ để độ tha. Tự giác để giác tha”.

Mới đây vào năm 2011 – 2012, thày Tâm Quang lại có dịp qua Mỹ và chúng tôi lại gặp nhau nhiều lần để hàn huyên tâm sự ngay tại Quận Cam ở California. Thày cũng đến thăm Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu tại thành phố Amarillo tiểu bang Texas và đã có mặt cùng với người thân trong những giờ phút cuối cùng của Bác sĩ Phiêu vốn là người bạn tâm huyết lâu năm của thày.

III – Một số người bạn khác nữa xuất thân từ Quảng Ngãi.

Dĩ nhiên là tôi còn quen biết nhiều người quê ở Quảng Ngãi. Nhưng vì bài báo có giới hạn, nên tôi xin ghi vắn tắt về hai người bạn lớn tuổi đã qua đời và một người bạn trẻ hiện sinh sống ở Canada.

31 – Nhà báo lão thành Hồ Văn Đồng.

Anh Đồng là một nhà báo lâu năm ở miền Nam. Anh cùng lứa tuổi với các anh Dõan Quốc Sĩ, Hùynh Văn Lang, tức là lớn hơn tôi cả một con giáp. Hồi trước 1975, tôi có gặp anh Đồng tại nhà Luật sư Trần Văn Tuyên một vài lần, nhưng chưa có dịp nói chuyện trao đổi nhiều với anh. Vào năm 2001 – 2002, tôi mới hay có dịp gặp gỡ chuyện trò tâm sự với anh khi thì ở Virginia, khi thì ở California. Nhà báo Phạm Bá Vinh chủ bút tờ Sóng Thần có cho tôi biết là chính ông Hồ Văn Đồng là một vị huynh trưởng đã tận tình hướng dẫn và truyền nghề viết báo cho anh.

Đóng góp cuối cùng của anh Đồng là đã hòan thành việc dịch thuật sang tiếng Việt cuốn sách “Le dossier noir du Communisme” (Hồ sơ đen của chủ nghĩa Cộng sản) do giới nghiên cứu sử học bên Pháp sọan thảo. Anh đã ra đi vào năm 2006 ở Virginia vào tuổi 84.

32 – Giáo sư Phạm Văn Diêu.

Là một giáo sư về Văn học Việt nam cả ở Trung học và Đại học, anh Diêu được nhiều người ái mộ với công trình nghiên cứu nghiêm túc về văn chương quốc ngữ. Điểm đáng chú ‎ ý nhất của anh Diêu là : Tuy là người cháu gọi ông Phạm Văn Đồng là chú ruột, nhưng anh Diêu lại có lập trường quốc gia khác hẳn với ông Đồng là một đảng viên cộng sản cấp cao. Sau năm 1975, anh Diêu không hề tỏ ra là kẻ a dua, đứng về phía bên cộng sản là kẻ thắng cuộc như dân gian thường nói đó là cái “thái độ phù thịnh”.

Lần cuối cùng tôi gặp anh Diêu là vào giữa năm 1982, anh tỏ ra không có gì là mặn mà với chế độ cộng sản cả. Rất tiếc là anh Diêu đã mất sớm vào cuối năm 1982 lúc chưa đến 55 tuổi. Con cháu anh Diêu hiện nay phần đông cư ngụ tại nước ngòai như Canada, Mỹ.

33 – Kỹ sư Lê Quang Phiêu cỡ tuổi ngòai 40 hiện ở Canada.

Năm 2012, nhân dịp đến thăm Canada, tôi đã có dịp gặp em Phiêu tại thành phố Toronto. Tôi liền hỏi em có bà con gì với cụ Lê Quang Sách là một vị chức sắc có tên tuổi của Đạo Cao Đài ở Quảng Ngãi, Phiêu gật đầu xác nhận em là cháu gọi cụ Sách là bác mà năm đó đã trên 85 tuổi. Nghe vậy, tôi bèn nhờ Phiêu hỏi ông bác giùm tôi về vụ rất đông tín đồ Cao Đài bị Việt minh cộng sản sát hại tại Quảng Ngãi hồi tháng 8 & 9 năm 1945. Em nhận lời và vào tháng 4 năm 2015, tôi lại đến Toronto và gặp Phiêu để hỏi về chuyện này. Phiêu cho biết đã đi California thăm bác Sách và được bác nói cho biết nhiều chi tiết về vụ thảm sát này – mà riêng về phía tín đồ Cao Đài, thì con số nạn nhân bị sát hại đã lên tới gần 3,000 người.

Cụ thể là chính cụ Sách lúc đó cũng bị bắt cùng với thân phụ và bao nhiêu bà con khác nữa. Trong vụ thảm sát này, ông cụ thân sinh là ông nội của em Phiêu thì bị giết, còn người con là ông Sách vì theo lời khuyên của cha mà khai nhỏ tuổi đi nên mới thóat chết.

Thành ra cụ Sách là một nhân chứng rất khả tín mà hiện còn sống để cung cấp cho chúng ta những tư liệu thật chính xác về vụ tàn sát bạo ngược này do người cộng sản cuồng tín gây ra ngay từ năm 1945 mà họ gọi là “Cách Mạng Tháng Tám” đó vậy.

IV – Những người bạn đã từng làm việc ở Quảng Ngãi.

Ngòai ra, tôi cũng còn có rất nhiều người bạn thân thiết quê ở miền Bắc mà lại có thời đến làm việc tại Quảng Ngãi. Điển hình như trường hợp các bạn sau đây.

41 – Giáo sư Uông Đại Bằng.

Sau khi tốt nghiệp Đại học sư phạm năm 1962, thì anh Bằng được cử về dậy học tại trung học Trần Quốc Tuấn ở thị xã Quảng Ngãi. Trong mấy năm phục vụ ở đây, ngòai chuyện giảng dậy ở nhà trường anh Bằng còn nhiệt tình tham gia sinh họat với các em thanh thiếu niên ở địa phương, nên hiện vẫn còn giữ được nhiều kỷ niệm với bà con ở đây. Ca sĩ Hồng Vân hồi đó cỡ tuổi 15 – 16 cũng là một học sinh nổi tiếng là rất hăng hái tham gia với sinh họat văn nghệ của trường trung học công lập lớn nhất tại Quảng Ngãi.

Sau này, từ năm 1966 cho đến 1975, anh Bằng về làm Hiệu trưởng trung học Lương Văn Can ở quận 8 Sài gòn. Anh được các học sinh và phụ huynh rất yêu mến vì sự tận tụy hy sinh của anh trong sự nghiệp giáo dục nơi địa phương được coi là kém phát triển nhất của thành phố Sài gòn.

Cụ thể là hiện nay các em cựu học sinh Lương Văn Can ở trong nước vẫn luôn mời thày Hiệu trưởng Uông Đại Bằng đến tham dự những buổi hội ngộ hàng năm với các em. Và các em ở hải ngọai vẫn tổ chức các buổi gặp gỡ với ông thày mỗi khi thày có dịp đi thăm bà con tại Úc châu hay tại Mỹ.

42 – Giáo sư Phạm Tất Hanh.

Cũng vào đầu thập niên 1960, thì anh Hanh đến dậy Anh văn tại Quảng Ngãi. Và đặc biệt, anh Hanh rất chăm lo việc sinh họat về mặt tâm linh đạo đức cho giới thanh thiếu niên công giáo ở địa phương. Sau này anh về Sài gòn và vẫn tiếp tục dậy môn Anh văn cho các học sinh trung học. Và trong số các học sinh này, rất nhiều em đã đi tu và trở thành linh mục, nữ tu công giáo.

Vì sự tận tụy chăm sóc bồi dưỡng cho học sinh như thế, nên thày Hanh được sự quý mến chân tình của nhiều thế hệ học sinh, trong đó có nhiều em ở Quảng Ngãi mà đã từng được thày giáo Hanh hướng dẫn từ nhiều năm trước.

Hơn nữa, từ ngày qua định cư ở Mỹ anh Hanh còn có sáng kiến thành lâp Quỹ Học Bổng Nguyễn Trường Tộ để trợ giúp những học sinh ở miệt quê Gia Kiệm Long Khánh siêng năng học tập mà gia đình gặp khó khăn về kinh tế. Sau khi anh Hanh qua đời vào năm 2011 vì bệnh ung thư, thì Quỹ Học Bổng này được bà con ở địa phương đặt tên mới là Quỹ Học Bổng Phạm Tất Hanh.

43 – Anh chị người Mỹ Earl và Pat Martin.

Earl Martin và Pat Hostetter là hai thiện nguyện viên thuộc tổ chức xã hội Mennonite Central Committee (MCC) của Giáo Hội Tin Lành Mennonite làm việc tại Quảng Ngãi từ năm 1967 để giúp các nạn nhân chiến cuộc. Vào năm sau hai người làm đám cưới và tiếp tục công tác nhân đạo tại Quảng Ngãi. Sau khi cả hai về học thêm ít lâu tại Đại học Stanford, thì trở lại phục vụ ở Việt nam cho đến năm 1975.

Earl Martin có tên Việt nam là Chú Kiến. Anh kể cho tôi nghe câu chuyện thật ngô nghĩnh thế này: “Hồi mới đến, tôi phải đi tìm nhà để mướn ở thành phố Quảng Ngãi. Trẻ con thấy lạ bu theo tôi đông lắm. Rồi vào lúc đứng trước cửa một nhà nọ, tôi giẫm phải một đàn kiến nên bị nó đốt ngứa quá, đành phải dậm chân hòai cho kiến chạy đi. Lũ trẻ bèn kêu to lên: Kiến cắn, Kiến cắn v.v… Và từ đó, trẻ con đặt cho tôi cái tên mới là chú Kiến”.

Còn chị Pat, thì có tên là Cô Mai. Anh chị nói và đọc được tiếng Việt và quen biết gắn bó thân tình với khá nhiều bà con ở Quảng Ngãi.

Pat Martin có lần tâm sự với tôi: “ Là người Mỹ, tôi rất đau buồn về vụ thảm sát ở Mỹ Lai do quân đội Mỹ gây ra…” Và tôi cũng đã góp lời với chị rằng : “Dĩ nhiên là người Việt nam, thì tôi cũng hết sức đau đớn với vụ thảm sát ở Huế hồi Tết Mậu Thân 1968 do chính người cộng sản Việt nam gây ra vậy…”

Từ năm 2000 đến nay, tôi thường đến cư ngụ tại nhà anh chị ở thành phố Harrisonburg tiểu bang Virginia, để tham dự những khóa hội thảo về Xây dựng Hòa bình do Đại học Eastern Mennonite University (EMU) tổ chức vào mùa hè mỗi năm (mà thường được gọi là Summer Peacebuilding Program = SPI). Qua anh chị Earl & Pat Martin, tôi học hỏi được bao nhiêu điều quý‎ báu mà những người yêu chuộng Hòa bình đang cố gắng theo đuổi thực hiện tại khắp nơi trên thế giới – với tư cách là thành viên của các tổ chức thuộc khu vực Xã hội Dân sự.

V – Để tóm lược lại.

Bài viết đến đây đã khá dài rồi, tôi chỉ xin tóm lược lại trong vài điểm như sau:

51 – Thứ nhất: Cũng như Quảng Nam ở phía Bắc và Bình Định ở phía Nam, Quảng Ngãi quả là một nơi xứng đáng với cái danh hiệu “Địa Linh – Nhân Kiệt”. Nhưng từ khi người cộng sản nắm giữ được quyền bính trong tay, thì họ đã gây ra không biết bao nhiêu đau thương khổ ải cho bà con nơi “miền đất cày lên sỏi đá” này. Cụ thể là vụ sát hại tập thể hàng mấy ngàn người ngay trong tháng 8 và 9 năm 1945.

Cũng như vụ thảm sát Tết Mậu Thân 1968 ở Huế, sự việc độc ác tàn bạo tày trời này – dù cách nay đã 70 năm – thì chúng ta cũng không thể nào dễ dàng mà bỏ qua cho người cộng sản được.

52 – Thứ hai: Hiện nay số bà con gốc từ Quảng Ngãi đang định cư ở nước ngòai khá đông và đang quy tụ lại với nhau qua các Hội Ái Hữu – để vừa an ủi tương trợ lẫn nhau, vừa tìm cách giúp đỡ thế hệ trẻ ở bên quê nhà. Đó là điều thật đáng phấn khởi và tôi xin thành thực cầu chúc cho Quý Hội Ái Hữu Quảng Ngãi tiếp tục đạt thêm nhiều thành quả tốt đẹp hơn nữa vậy./

Costa Mesa California, cuối năm Ất Mùi 2015

Đoàn Thanh Liêm

Nhiều Cơ Quan Thi Hành Luật Pháp phớt lờ các nhà phê bình – công khai trưng bày hay dán hàng chữ “ Chúng tôi tin tưởng vào Thiên Chúa”

Nhiều Cơ Quan Thi Hành Luật Pháp phớt lờ các nhà phê bình – công khai trưng bày hay dán hàng chữ “ Chúng tôi tin tưởng vào Thiên Chúa”.(In God We Trust)

Giuse Thẩm Nguyễn

 

Trong những tháng gần đây, rất nhiều cơ quan thi hành luật phát đã dán hoặc treo câu phương châm “Chúng tôi tin tưởng vào Thiên Chúa” trên các xe cảnh sát tuần tra, gây lên sự quan ngại trong giới phê bình.

Theo một tường trình mới đây trên tờ New York Times, rất nhiều cảnh sát đã tự bỏ tiền mua và dán câu phương châm này trên các xe tuần tra của họ.

“Nếu tôi dùng tiền của mình để mua câu phương châm và câu này cũng có trên là cờ của tiểu bang, thì tôi có thể trưng bày câu phương châm ấy trên xe tuần tra của tôi,” Cảnh sát tuần tra, Johnny Moats, thuộc quận hạt Polk, người đã viết thư cho cảnh sát Georgia để ủng hộ việc đặt câu phương châm này trên các xe của cơ quan công lực đã nói như thế. “Hầu như mỗi ngày, tôi đều nhận được điện thoại của các cảnh sát tuần tra khác và nói rằng ‘Tôi đã làm xong rồi, hay bạn có thể gởi cho tôi bức hình xe tuần tra của bạn có gắn câu phương châm không ?’

Nhưng việc phô bày câu phương châm này đã bị chỉ chích dữ dội, theo đài truyền hình Fox 7 ở Austin, Texas thì Trụ Sở Cảnh Sát Chidress là một trong 57 sở cảnh sát đã nhận được thư khiếu nại của cái gọi là Nhóm Quyền Tự DoTôn Giáo có trụ sở ở Winconsin , yêu cầu tháo bỏ bảng phô bày mang tính tôn giáo này.

“Chúng tôi lấy làm quan ngại từ phía những người không tín ngưỡng trong những cộng đồng nhỏ bé hơn, nơi đó họ cảm thấy bị xúc phạm,” Cô Annie Laurie Gaylor, người cầm đầu nhóm Quyền Tự Do Tôn Giáo nói với đài truyền hình Fox 7 như vậy. “Những tuần tra viên và cảnh sát này nghĩ rằng họ nghe theo lời hướng dẫn của Chúa hơn là luật công dân của chúng ta và điều này làm chúng tôi sợ hãi.”

Cảnh Sát Trưởng của Sở Cảnh Sát Childress là Andrian Garcia đã gởi văn thư trả lời tới các nhóm chống đối và đăng trên phương tiện truyền thông xã hội. Vị cảnh sát bảo các nhóm chống đối rằng “ hãy đi chỗ khác chơi.”

Theo báo New York Times thì hiện tượng này đang tăng dần. Cảnh sát viên và trụ sở cảnh sát bắt đầu phô bày những bảng châm ngôn, trong khi nhóm Quyền Tự Do Tôn Giáo cho rằng việc trưng bày châm ngôn là vi hiến và cần chấm dứt. Cuộc tranh chấp gây chú ý và càng lúc càng nhiều cơ quan thi hành luật pháp tham gia.

Nhóm Quyền Tự Do Tôn Giáo đã vô tình làm cho việc trưng bày phương châm lan rộng ra. Cô Gaylor thú nhận “Tôi không nghĩ chúng ta có thể làm được gì,”

Nguồn gốc của phương châm “In God We Trust”

“Chúng tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa” là câu châm ngôn của quốc gia Hoa Kỳ, được sinh ra và gắn bó mật thiết với bản quốc ca của Hoa Kỳ “The Star-Spangled Banner” được sáng tác vào năm 1814 bởi Francis Scott Key và chính thức được quốc hội thông qua và trở thành quốc ca Hoa Kỳ vào ngày 3 tháng 3 năm 1931 dưới thời Tổng Thống Herbert Hoover. Chính trong lời ca của bài quốc ca cũng nhắc tới câu châm ngôn này. Câu này đã được khắc trên đá, trên tường của những tòa nhà thuộc cơ quan công quyền, nó còn được in trên tiền giấy và đúc trên tiền cắc lưu hành qua khắp nơi. Câu châm ngôn này cũng được khắc vào trong tim và được thốt lên từ miệng của hàng triệu người Mỹ yêu chuộng tự do. Khi một vị Tổng Thống hay một vị quan chức chính quyền nhậm chức, theo truyền thống họ đặt tay trên Thánh Kinh để tuyên thệ và trung thành với châm ngôn quốc gia “Chúng tôi tin tưởng vào Thiên Chúa.”

Những người Việt Nam khi mới đặt chân tới ngưỡng cửa Đại Học Cộng Đồng đều được học bài học đầu tiên này. Người Mỹ đến vùng đất này không phải vì lý do kinh tế, nhưng vì lý do tín ngưỡng. Niềm tin của họ bi bách hại và họ đến đây để được tự do sống với niềm tin của mình. Hằng năm, họ tạ ơn Thiên Chúa qua lễ Tạ Ơn (Thanksgiving), họ tổ chức mừng đại lễ Chúa Giáng Sinh (Christmass), họ kỷ niệm ngày Chúa chịu chết và sống lại bằng Lễ Phục Sinh (Easter)…

Qua thời gian, giữa một cái xã hội càng ngày càng xuống dốc về luân lý, có những kẻ vô thần đã muốn xóa bỏ câu châm ngôn đó nơi công cộng và cùng với chính sách mị dân của các viên chức dân cử, chúng đã thực hiện được vài yêu sách như chúng muốn.

Hôm nay phong trào dán, trưng bày câu phương châm trên các xe cảnh sát chỉ là sự về nguồn. Khi mà những nhân viên cảnh sát không chắc là mình có thể trở về nhà an bình sau một ngày công tác, thì họ còn biết trông cậy vào ai bây giờ… dĩ nhiên chỉ có Thiên Chúa mới chính là câu trả lời cho tất cả những vấn nạn trong đời họ.

Hệ thống Bệnh Viện Chúa Ba Ngôi tại Hoa Kỳ đang bị kiện vì từ chối cung cấp dịch vụ phá thai.

Hệ thống Bệnh Viện Chúa Ba Ngôi tại Hoa Kỳ đang bị kiện vì từ chối cung cấp dịch vụ phá thai.

Giuse Thẩm Nguyễn

Hệ Thống Bệnh Viện Chúa Ba Ngôi ( Trinity Health Corporation) là một trong những bệnh viện chăm sóc sức khỏe của Công Giáo lớn nhất nước Mỹ , đang nỗ lực nhằm bãi bỏ vụ kiện của một nhóm với cái tên là Quyền Tự Do Mỹ (American Civil Liberties Union = ACLU) ) về việc bệnh viện này từ chối cung cấp cho phụ nữ các dịch vụ phá thai tại các bệnh viện của họ .
“Vụ kiện này là một vụ kiện thiếu cơ sở pháp lý. Tóa Án Liên Bang đã có lần bãi bỏ vụ kiện tương tự như vụ này của nhóm ACLU và chúng ta đang nỗ lực để bãi bỏ vụ kiện này với những lý do tương tự. Giám Đốc ngoại vụ của bệnh viện là Eve Pidgeon đã tuyên bố như vậy.

Hệ Thống Bệnh Viện Trinity là một công ty có nhiều chi nhánh, trụ sở chính tại Livonia, vùng ngoại ô của Detroit, với trên 80 chi nhánh hoạt động khắp trên nước Mỹ.

Bệnh viện tuân thủ những chỉ dạy của Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ về luân lý và việc thực hành y tế, trong đó bao gồm việc từ chối thực hiện phá thai và thắt ống dẫn trứng trong phạm vi bệnh viện.

Ngoài ra, bệnh viện Trinity luôn áp dụng chặt chẽ các chỉ thị của Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ (USCCB) về những vấn đề chăm sóc y tế, từ việc chăm sóc cho những bệnh nhân với những chứng bệnh hiểm nghèo, chứng bệnh không hy vọng chữa khỏi cho đến việc ngừa thai.

Nhóm ACLU của Michigan đang kiện bệnh viện Trinity với những cáo buộc rằng những bà mẹ mang thai đã bị từ chối “ chăm sóc y tế khẩn cấp”, đặc biệt là phá thai khi họ cần đến sự chăm sóc của bệnh viện. Nhóm này cũng cáo buộc bệnh viện là đã nghe theo chỉ thị của đấng bản quyền Công Giáo mà không thực hiện việc thắt ống dẫn trứng cho phụ nữ mang thai.

Nhóm ACLU cho rằng bệnh viện đã vi phạm luật Điều Trị Y Tế Khẩn Cấp và Luật Lao Động (EMTALA). Theo nhóm này thì khi không thực hiện phá thai vì lý do tôn giáo là vi phạm Luật Liên Bang.

Tuy nhiên, một vụ kiện tương tự đã xảy ra trước đây đối với Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ vào năm 2013, khi ấy Đức Tổng Giám Mục Joseph Kurtz của Louisville, là Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục, đã gọi vụ kiện là vụ kiện “vớ vẩn”, vụ kiện “vô căn cớ.” Ngài nói chỉ thị y tế của Hội Đồng Giám Mục là“sự chăm sóc với lòng tôn trọng và cảm thương cho cả những bà mẹ và những đức con, trong và sau khi mang thai.”

Vụ kiện này đã bị bác bỏ vào tháng Sáu bởi một Tòa Án Liêng Bang. Sau đó một tháng, nhóm ACLU đã làm đơn kháng cáo nhưng đã chẳng đi tới đâu.

Bệnh viện Trinity cũng bác bỏ cáo buộc hiện nay của nhóm ACLU, trong khi vẫn phát huy việc thực hành đạo đức y tế nhằm mang lại sức khỏe tốt nhất cho phụ nữ.

“Các chỉ thị về đạo đức và tôn giáo hoàn toàn phù hợp với việc chăm sóc sức khỏe với chất lượng cao, và các bác sĩ của chúng tôi tiếp tục cung cấp dịch vụ chăm sóc tuyệt vời cho mọi người chúng tôi phục vụ,” Giám đốc bệnh viện Pidgeon đã khẳng định như vậy khi đề cập đến những quy định của Hội Đồng Giám Mục.

“Chúng tôi tự hào rằng với trên 25,000 bác sĩ có giấy phép hành nghề làm việc trong hệ thống bệnh viện của chúng tôi và cùng chúng tôi cam kết phục vụ con người là chính,” và “chúng tôi luôn duy trì tiêu chuẩn phục vụ của chúng tôi.” Giám đốc Pidgeon nói tiếp.

Vụ kiện bệnh viện Trinity đã được thông báo vào ngày 1 tháng 10 tại một tòa án ở Detroit và bệnh viện đang phản bác để bãi bỏ vụ kiện.

Nhóm ACLU đã từ lâu chống đối lại các bệnh viện Công Giáo đang hoạt động theo giáo huấn của Giáo Hội. Nhóm này và những phe nhóm chống đối khác của một kế hoạch mang tên là MergerWatch 2013, đã cay cú than rằng sự phát triển của các bệnh viện Công Giáo là một “ sự xảy thai của y tế.”(miscarriage of medicine)

Nhóm ACLU trong kế hoạch chống đối các bệnh viện Công Giáo được sự tiếp tay đắc lực của hai nhà tài trợ giấu tên và các tổ chức thù địch như Arcus, Herb Bloc, Robert Sterling Clark, George Gund, William và Flora Hewlett, Jesie Smith Neyes,David ,Lucile Pakard & Scherman và bè lũ satan.

(EWTN News/CAN/By Maggie Maslak)

Giuse Thẩm Nguyễn