5 BÀI HỌC QUAN TRỌNG TỪ THÁNH NỮ TÊRÊSA AVILA

Lm. Roger Landry

 Sự thông thái vượt thời gian của vị nữ Tiến sĩ Hội Thánh đầu tiên.

Chúng ta đang tiến nhanh đến dịp kỷ niệm 400 năm ngày tuyên thánh ấn tượng nhất trong lịch sử Giáo Hội, sự kiện đã diễn ra vào ngày 12 tháng 3 năm 1622.

Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XV đã có được những vinh dự này.  Các cuộc tuyên thánh trong giai đoạn lịch sử này là những sự kiện tương đối hiếm.  Mặc dù Công đồng Trentô dạy rằng mẫu gương và lời chuyển cầu của các thánh là một sự trợ giúp đắc lực cho các tín hữu, nhưng phải mất 25 năm sau khi Công đồng kết thúc mới có một số người được tuyên thánh.  Trên thực tế, từ năm 1492 đến năm 1587, chỉ có ba người được tuyên thánh, mỗi thời mỗi khác.  Đức Giáo Hoàng Grêgôriô đã thay đổi điều đó, ngài đã tuyên thánh cùng một lúc cho bốn vị thánh vĩ đại của thời kỳ Phản Cải cách (hay còn gọi là thời kỳ Chấn hưng Công giáo), những người đã sống cùng thời với chính Đức Giáo Hoàng, những người không chỉ biểu trưng cho những gì Giáo Hội đang hướng tới mà còn đóng những vai trò quan trọng trong việc giúp Giáo Hội quay lưng lại với tội lỗi và trở nên trung thành với Tin Mừng.

Bốn người đó là Thánh Inhaxiô thành Loyola, nhà sáng lập Dòng Tên; người bạn cùng phòng thời đại học ngày xưa của Thánh Inhaxiô và nhà truyền giáo vĩ đại nhất mọi thời đại sau Thánh Phaolô, là Thánh Phanxicô Xaviê; người tái Phúc Âm hóa ở Rome vào thế kỷ 16 và người sáng lập Dòng Các Cha Diễn Thuyết (Oratory), là Thánh Philipphê Nêri; và nhà cải cách vĩ đại của đời sống tu trì và người sáng lập Dòng Cát Minh Chân Đất, là Thánh Têrêxa Avila.

Ý nghĩa của những gì đã xảy ra vào ngày 12 tháng 3 năm 1622 trở nên quan trọng đối với toàn thể Giáo Hội, vì gương mẫu của Thánh Inhaxiô, Thánh Phanxicô, Thánh Philipphê và Thánh Têrêsa tiếp tục truyền cảm hứng cho các tín hữu trong mọi bước đường cuộc sống, và các hội dòng mà các ngài và những đứa con tinh thần của mình đã thành lập – làm cho Giáo Hội có thể hiện diện khắp các quốc gia, các trường đại học, các tu viện và còn nhiều hơn thế nữa – đã trở thành nền tảng cho Giáo Hội kể từ đó.

Chúng ta có rất nhiều điều để học hỏi nơi từng người trong số các ngài.  Trong chừng mực ngày Thứ Sáu tới đây là Ngày Lễ của Thánh Têrêsa Avila, người đã qua đời vào ngày 15 tháng 10 năm 1582 (cũng chính ngày này, lịch Julius đổi thành lịch Gregory), nên việc tập trung vào vị thánh nữ này là điều phù hợp.

Mùa hè vừa qua, nhờ có một vài ngày nghỉ phép ở Madrid, tôi đã có cơ hội thực hiện một chuyến đi trong ngày với những người bạn linh mục đến Avila, nơi Thánh Têrêsa sinh ra và bước vào đời sống tu trì, và sau đó đến Alba de Tormes, nơi thánh nữ đã bước vào sự sống vĩnh hằng.  Vì một trong những người bạn đồng hành của tôi có những trách nhiệm đặc biệt trong Giáo Hội ở Tây Ban Nha, nên chúng tôi được đặc ân đi vào trong các khu vực hành lang của ba tu viện Cát Minh, nơi mà chúng tôi có thể đến gần để dõi theo những bước chân của Thánh Têrêsa và cầu nguyện tại chính những nơi mà ngài đã từng chiêm niệm, đã từng xưng tội, đã từng sống và chết.

Chúng tôi có thể tôn kính những thánh tích của thánh nữ, bao gồm cả trái tim không hư nát của ngài đã từng bị đâm thâu một cách mầu nhiệm – “được biến đổi” – bởi tình yêu Thiên Chúa.  Chúng tôi cũng có thể chứng kiến lòng nhiệt thành không phai nhạt của thánh nữ qua các cuộc trò chuyện với những người con thiêng liêng của ngài, có thể cảm nghiệm được tình yêu lớn lao và lời chuyển cầu của họ dành cho các nhu cầu của Giáo Hội, và cũng có thể chúc mừng họ vì dịp lễ kỷ niệm sắp tới.

Vào ngày 27 tháng 9 năm 1970, Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI đã phong ngài làm vị nữ tiến sĩ Hội Thánh đầu tiên.  Tôi muốn nêu bật năm bài học mà ngài dạy cho chúng ta.

Bài học đầu tiên là lòng khao khát thiên đàng mãnh liệt.  Tôi rất ấn tượng khi đến thăm tu phòng nơi thánh nữ qua đời ở Alba de Tormes, và đã nhìn thấy bức tranh tường được vẽ trên đầu giường của ngài về một khung cảnh xảy ra khi ngài 7 tuổi.  Ngài đã sớm xây dựng một ẩn thất nhỏ ở sân sau nhà mình.

Một ngày nọ ở đó, thánh nữ và em trai 5 tuổi Rodrigo bắt đầu chuyện trò về hạnh phúc của các vị thánh trên thiên đàng.  Họ đã sửng sốt bởi ý nghĩ về việc sống “đời đời.”  Rodrigo đã hỏi rằng làm thế nào họ có thể đến được với Thiên Chúa trên thiên đàng nhanh nhất, và Têrêsa đã trả lời rằng qua việc tử đạo.  Câu hỏi làm thế nào họ có thể trở thành những vị tử đạo và Têrêsa đã kể về những người Hồi giáo đang sát hại các Kitô hữu ở Marốc.

Và thế là họ bắt đầu tiến về phía nam để đến Marốc, quên đi sự phức tạp về địa lý của Địa Trung Hải nằm giữa Tây Ban Nha và Bắc Phi!  Họ đã đi ra ngoài các tường thành, đến tận Cầu Adaja theo phong cách Rôma cổ kính, nơi chú Francisco của họ, đang trở về sau một cuộc đi săn, đã nhìn thấy họ và hỏi họ sẽ đi đâu.  Khi họ nói với chú ấy rằng họ đang đến Châu Phi để chịu tử đạo dưới tay người Marốc, chú ấy đã khéo léo tình nguyện cho họ đi nhờ ngựa.  Sau khi nhảy lên ngựa, người chú đã phi nước đại đưa họ trở về nhà để chịu một kiểu tử đạo khác đang chờ đợi họ ở đó.

Đây là một câu chuyện đẹp nhất về tiểu sử của một vị thánh, minh chứng cho tình yêu giống như trẻ thơ mà chúng ta phải dành cho Thiên Chúa, cho thiên đàng, cho sự sống đời đời.  Tình yêu đó vẫn lan tỏa từ bên trong thánh nữ để rồi những hy vọng của ngài cuối cùng cũng đã được thực hiện vào năm 1582.

Bài học thứ hai là về tầm quan trọng và nghệ thuật của cầu nguyện.  Thánh nữ là một Tiến sĩ Hội Thánh chính vì, cùng với nhà cải cách Dòng Cát Minh là Thánh Gioan Thánh Giá, thánh nữ là một trong những người định hướng về đời sống nội tâm quan trọng nhất trong lịch sử Giáo Hội.

Thánh nữ sử dụng văn phong sống động và hình ảnh về một Lâu đài Nội tâm với bảy “tầng” (mỗi tầng gồm nhiều phòng) để truyền đạt những chân lý sâu sắc về đời sống cầu nguyện và đời sống thiêng liêng.  Thánh Têrêsa mời gọi tất cả các chị em của mình – và những người khác – đi qua từng chặng đường của tiến trình thiêng liêng này bằng cách mở lòng đón nhận công việc của Chúa Thánh Thần một cách trọn vẹn hơn.

Bài học thứ ba là về sự hoán cải liên tục.  Thánh nữ vào tu viện Cát Minh lúc 20 tuổi, nhưng cộng đoàn này lại đang ở trong tình trạng bất ổn về mặt thiêng liêng.  Một số nữ tu có nhiều dãy phòng, với cả người hầu và vật nuôi.  Cuối cùng, chính thánh nữ cũng đã từng đầu phục trước tình trạng thế tục, ngài đã dành rất nhiều thời gian để tiếp đãi những người đến thăm và bạn bè trong phòng khách, ngài còn dành cho mình những thỏa hiệp khác nhau với sự phù phiếm thế tục.  Khi thánh nữ 39 tuổi, Thiên Chúa đã thức tỉnh ngài một lần nữa khỏi đời sống nhạt nhẽo, nơi mà ngài đang phải chống chịu với những tội nhẹ, và làm sống lại nơi ngài khao khát về sự thánh thiện, về hạnh phúc.

Kinh nghiệm hoán cải đó dẫn đến bài học thứ tư, đó là sự hoán cải trong Giáo Hội.  Thánh nữ đã chứng kiến và nghiệm thấy những gì có thể xảy đến cho con người ngay cả ở những nơi mà họ thề hứa sẽ dâng hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa.  Thánh nữ đã nhận thức được rằng các cơ cấu của Giáo Hội, bắt đầu từ những người thuộc dòng Cát Minh, cần phải được cải tổ sâu sắc đến mức nào, và bất chấp những đau khổ cá nhân to lớn, thánh nữ đã dành phần đời còn lại của mình cho việc cố gắng trở thành một công cụ để đem những chị em cùng dòng Cát Minh trở về với mối tình đầu của mình, thông qua Giáo Hội.

Giáo Hội lúc nào cũng cần đến sự cải cách và cần đến những nhà cải cách thánh thiện, những người là công cụ của Thiên Chúa để đưa chúng ta trở lại điều mà Chúa Giêsu ở Bêtania đã gọi là “phần tốt hơn” và “một điều cần thiết” (x. Lc 10,41-42).

Cuối cùng, trong Năm của Thánh Giuse này, thánh nữ còn chỉ cho tất cả chúng ta cách để gia tăng lòng sùng kính đối với Người.  Tình yêu của Thánh Têrêsa dành cho Thánh Giuse, Đấng đã được Chúa Cha đã tuyển chọn để dưỡng dục Con của Người theo nhân tính và để bảo vệ và chăm lo cho Thánh Gia, đã bắt đầu khi thánh nữ được chữa khỏi một căn bệnh thể lý sau khi cầu nguyện với Thánh Giuse vào năm 26 tuổi.

Thánh nữ đã viết, “Nhận thấy mình thật khốn cùng trong khi các bác sĩ trần thế còn quá non trẻ đã không thể chữa khỏi được cho tôi.  Tôi đã nhờ đến Thánh Giuse vinh hiển làm người bênh vực và bảo vệ, và đã giao phó chính mình cho Người…  Sự cứu giúp của Người đã mang lại cho tôi nhiều điều tốt đẹp hơn những gì tôi có thể hy vọng.  Tôi không nhớ đã từng cầu xin với Người bất cứ điều gì mà lại không được nhậm lời.”

Thánh nữ đã cố gắng rao truyền về một tình yêu bao la dành cho bạn trăm năm của Đức Trinh Nữ.

“Tôi ước mình có thể thuyết phục mọi người hết lòng với vị thánh vinh hiển này, vì kinh nghiệm lâu năm đã dạy cho tôi biết về những ơn lành mà Người có thể nhận được từ Thiên Chúa để dành cho chúng ta.  Trong tất cả những người tôi biết với một lòng mộ mến chân thành và một lòng sùng kính đặc biệt đối với Thánh Giuse, thì không ai lại không thăng tiến về mặt nhân đức; Người giúp sức cho những ai hướng về Người để đạt đến việc tiến bộ thực sự…  Tất cả những gì tôi mời gọi, vì tình yêu Thiên Chúa, là bất cứ ai không tin tôi thì hãy thử những gì mà tôi đã nói, và sau đó người đó sẽ tự nhận biết những lợi ích khi giao phó chính mình Thánh tổ phụ Giuse vinh hiển, và rồi người đó cũng sẽ có được một lòng mộ mến đặc biệt đối với Người.  Đặc biệt, những ai sống đời cầu nguyện nên yêu mến Người như một người cha.”

Khi chúng ta kỷ niệm ngày lễ của thánh nữ và chuẩn bị cho dịp kỷ niệm 400 năm ngày thánh nữ được tuyên thánh, chúng ta hãy cầu xin ngài cầu thay nguyện giúp để chúng ta có thể chia sẻ lòng khao khát của ngài dành cho thiên đàng, dành cho cầu nguyện, dành cho sự hoán cải liên tục, dành cho việc cải cách các cơ cấu của Giáo Hội và dành cho việc giao phó toàn thể Giáo Hội cho Thánh Giuse.

Lm. Roger Landry

Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên chuyển ngữ từ National Catholic Register (13.10.2021)

Nguồn: giaophanvinhlong.net


 

Thánh Gioan Lêônarđô (1541? – 1609), Linh mục- Cha Vương

Mến Chúa bạn và gia đình một ngày bình an và tràn đầy sức mạnh của Chúa Thánh Thần nhé. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Gioan Lêônarđô (1541? – 1609), Linh mục.  mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy.

Cha Vương

Thứ 4: 09/10/2024

“Tôi chỉ là một con người! Tại sao tôi phải làm mọi việc? Ðiều đó có ích gì cho tôi?” Ngày nay, cũng như bất cứ thời đại nào, người ta thường cảm thấy khó chịu khi rơi vào tình trạng khó xử vì bị liên lụy. Nhưng Thánh Gioan Leonardi đã trả lời những câu hỏi trên trong một phương cách độc đáo. Ngài chọn trở nên một linh mục.

Thánh Gioan Leonardi sinh ở Diecimo, nước Ý. Ngài làm phụ tá thầy thuốc ở Lucca, đi tu và thụ phong linh mục năm 1572. Sau khi chịu chức, ngài rất tích cực hoạt động tông đồ, nhất là ở bệnh viện và nhà tù. Sự tận tụy và gương mẫu đời sống của ngài đã thu hút vài người trẻ, và họ bắt đầu tiếp tay với ngài. Sau này chính họ cũng trở thành linh mục.

Phấn khởi với luồng gió cải cách mà Công Ðồng Triđentinô đề ra, Cha Gioan và các linh mục bạn đề nghị một tổ chức cho các linh mục triều. Ðề nghị này bị chống đối dữ dội, nhưng vào năm 1583, tổ chức của ngài được đức giám mục Lucca công nhận với sự phê chuẩn của Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô XIII (vào năm 1621, tổ chức này được chính thức đặt tên là Các Tu Sĩ Chuyên Nghiệp của Mẹ Thiên Chúa). Cha Gioan được sự trợ giúp của Thánh Philíp Nêri và Thánh Giuse Calasanctius, và vào năm 1595, tổ chức này được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê VIII công nhận, và đức giáo hoàng đã giao cho Cha Gioan công việc chấn chỉnh các tu sĩ ở Vallombrosa và Monte Vergine.

Ngài chết khi mới 68 tuổi vì bị lây bệnh dịch khi chăm sóc các bệnh nhân ở Rôma. Ngài được sùng kính vì những phép lạ và lòng đạo đức nhiệt thành của ngài, và được coi là một trong những sáng lập viên của Thánh Bộ Truyền Bá Ðức Tin. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Piô XI phong Thánh năm 1938.

Lời Bàn: Mỗi người có thể làm được những gì? Theo ý định và hoạch định của Thiên Chúa cho mỗi người, điều chúng ta có thể làm thì ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Mỗi người, như Thánh Gioan Leonardi, có một nhiệm vụ phải chu toàn trong hoạch định của Thiên Chúa cho thế gian. Mỗi người chúng ta thì độc đáo, và được ban cho các khả năng để phục vụ anh chị em chúng ta trong việc xây dựng Nước Trời.

Lời Trích: “Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì Cha anh em đã vui lòng ban nước Trời cho anh em. Hãy bán của cải mình và bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không bao giờ mục nát và một kho tàng vô tận ở trên trời, là nơi kẻ trộm cắp không thể bén mảng, mối mọt không thể đục phá” (Luca 12,32-33). (Trích từ mạng NguoiTinHuu)

From: Do Dzung

*************************

Mai Thảo, Thanh Sử – Hãy Theo Thầy 

Thánh Phanxicô Átxidi (Assisi) (1181- 4.10.1226)-Cha Vương

Hôm nay 04/10 Giáo Hội mừng kính thánh Phanxicô Átxidi (Assisi). Mừng lễ Bổn Mạng đến những ai nhận thánh Phanxicô làm quan thầy nhé. Nguyện cho bình an của Chúa toả lan trên khắp thế giới hôm nay.

Cha Vương

Thứ 6: 04/10/2024

Thánh Phanxicô sinh khoảng năm 1181, tại thành phố Átxidi nước Ý. Thánh Phanxicô Átxidi chỉ sống cuộc đời trần thế có 45 năm. Nhưng cuộc đời của Ngài là cả một bài ca. Một bản nhạc với những dòng nhạc,với những cung bậc, hòa nên một bản trường ca tình yêu tuyệt vời. Người ta trong nhiều thế kỷ đã không ngớt ca ngợi thánh nhân vì con người lạ lùng của thánh nhân giữa cuộc đời. Ngay anh em trong Dòng cũng không nhận ra Ngài có gì đặc biệt mà sao lạ lùng thu hút mọi người. Thánh nhân đã rất khiêm nhượng,sự khiêm tốn của một tâm hồn thánh thiện đã nhìn ra con người đầy khiếm khuyết, đầy tội lỗi của mình và có làm được gì là do ân huệ nhưng không của Chúa, đã biến cái tầm thường nên cái phi thường,đã biến cái đơn sơ,nhỏ bé nên cái vĩ đại khôn lường. Vì thế, tình yêu của Phanxicô Átxidi là một tình yêu mang tính cụ thể, thánh nhân yêu mọi người, mọi vật, Ngài biến mọi sự vật,mọi thụ tạo nên sinh động và có nhân tính. Ngài yêu tất cả vì Ngài thấy Thiên Chúa nơi tất cả mà trung tâm là Chúa Giêsu. Thánh nhân yêu thương mọi người với tất cả con tim của mình, với cả cuộc đời mình vì chính Chúa đã chết cho nhân loại trong đó có cả Phanxicô Átxidi. Tình yêu của Phanxicô Átxidi là tình yêu mang tính vui tươi, thoải mái,  Ngài sống trong niềm vui vì lúc nào Ngài cũng mang Chúa trong con người của mình, Ngài đồng hóa mọi sự và nhân cách hóa tất cả để tất cả ca ngợi Chúa trong niềm vui.

Thánh nhân sinh ở Átxidi khoảng năm 1182. Cha Ngài là ông Bênađô là một thương gia tơ sợi nổi tiếng và mẹ Ngài là bà Pica, một người đạo đức, thánh thiện đã hun đúc Ngài nên một vị thánh thời danh. Cuộc nổi loạn của những người lê dân chống lại những nhà quí tộc. Thánh nhân bị bắt và bị giam cầm trong suốt một năm trời ròng rã. Ngài bị một căn bệnh hiểm nghèo và được Chúa cứu chữa, Ngài được khỏi bệnh và Chúa đã cảm hóa Ngài với câu:” Lạy Cha chúng tôi ở trên trời “. Năm 1206, thánh nhân quyết định rũ bỏ bụi trần,từ bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu,dù rằng bị người cha già hết sức phản đối, thánh nhân rất thương cha nhưng không dám làm trái ý Chúa. Thánh nhân phân phát tất cả của cải mình có cho những người nghèo, Ngài chỉ giữ lại một chiếc áo choàng cũ kỹ, rồi ra đi rao giảng Tin Mừng. Ðược Chúa thúc đẩy, soi sáng, thánh nhân đã lập Dòng anh em hèn mọn. Thời gian sau đó, Ngài lui về Alverne, một nơi thật cô liêu phía Bắc Átxidi để ăn chay, cầu nguyện và sống tình thân với Thiên Chúa. Chúa yêu thương Ngài cách đặc biệt, nên trong lúc Ngài xuất thần, Ngài nhìn thấy Tổng Lãnh Thiên Thần Séraphim và một ảnh chuộc tội. Tỉnh dậy, Ngài đã được Chúa in năm dấu thánh trên người lúc đó là năm 1224. Chỉ hai năm sau đó, Ngài lâm trọng bệnh. Trước khi ra đi về với Chúa, thánh nhân khuyên nhủ anh em trong Dòng giữ đức khó nghèo tuyệt đối và trung thành với Giáo Hội Chúa Kitô. Thánh nhân qua đời vào ngày 4.10.1226. Ðức Thánh Cha Grêgoriô đã tôn Ngài lên bậc hiển thánh.

(Nguồn: SimonDalat)

Nói đến Thánh Phanxicô thì chúng ta nghĩ ngay đến Kinh Hòa Bình. Có thể nói, từ những tư tưởng này, ngài được mệnh danh là Sứ giả hòa bình bởi vì chúng là điểm qui chiếu cho đời sống an hòa nơi ngài. Vậy hôm nay mời Bạn dành thời gian để suy niệm Kinh Hòa Bình nhé:

Lạy Chúa, xin hãy dùng con / Như khí cụ bình an của Chúa / Để con đem yêu thương vào nơi oán thù / Đem thứ tha vào nơi lăng nhục / Đem tin kính vào nơi nguy nan / Đem trông cậy vào nơi thất vọng / Dọi ánh sáng vào nơi tối tăm / Đem niềm vui đến chốn ưu sầu. / Lạy Chúa, xin hãy dạy con / Tìm an ủi người hơn được người ủi an / Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết / Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu / Vì hiến thân chính là nhận lãnh / Tha thứ cho người chính là được thứ tha / Cam lòng chịu chết là được sống muôn đời. 

Câu nào đánh động bạn nhất?

Mời bạn hãy đưa câu đó áp dụng vào trong cuộc sống hàng ngày. Đối với mình thì câu, “Đem yêu thương vào nơi oán thù.”

From: Do Dzung

**********************

KINH HÒA BÌNH – Thánh Phanxico thành Assisi – Nhạc: Lm Kim Long

Thánh Têrêxa Hài Đồng Giê-su (1/10)-Cha Vương

Nguyện xin bình an và xin ân sủng và bình an của Thiên Chúa ở cùng bạn và gia đình hôm nay và mãi mãi. Hôm nay 1/10 Giáo Hội mừng kính Thánh Têrêxa Hài Đồng Giê-su, mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 3: 01/10/2024

Thánh Têrêxa là người con thứ năm của một gia đình Công giáo trung lưu thánh thiện và đạo đức. Mẹ của Bà qua đời khi Bà mới bốn tuổi, Bà cùng bốn người chị được người cha thánh thiện nuôi nấng dạy dổ. Cha của Bà là ông Martin và năm người con gái dọn về định cư tại Lisieux để được gần gủi với gia đình. Một thảm cảnh thứ hai lại xẩy đến với Bà là các chị Pauline và Maria mà Bà xem như người mẹ đều vào tu Dòng kín Carmel…

Trong một đêm Noen, với một ân sủng lạ lùng và cao cả, Bà tìm lại được niềm vui cho tuổi trẻ và trong niềm hy vọng tràn trề với Tình Yêu Thiên Chúa mà Bà được nhận lảnh. Một cô bé nhút nhát yếu ớt trở nên bạo dạn và cương quyết, Bà cùng với cha mình đến Roma, trong buổi triều kiến ngày 9 tháng 4 năm 1888, Bà đã vượt qua mọi người và lính gác đến quì duới chân Đức Giáo Hoàng và xin phép được vào tu Dòng Carmel dù Bà mới 15 tuổi. Với lòng trung kiên tuyệt đối Bà tiến tới trên con đường nên thánh.

Bà bị bệnh lao phổi trầm trọng và kinh niên, Bà phú thác mọi sự trong tay Chúa Kitô. Trong sự đau khổ triền miên, Bà hiến dâng lên Chúa để cầu xin cho những người tội lỗi trở lại với Đức Tin. Bà qua đời vào năm 1897 lúc mới 24 tuổi. Bà hứa sẽ làm “mưa hoa hồng” xuống trần thế và lên Thiên đàng bằng “con đường nhỏ”là làm những việc thiện dưới trần thế này.

Chỉ vài năm sau khi Bà lìa đời, câu chuyện cuộc đời của Bà “Câu chuyện một linh hồn”, viết theo lệnh của Bề trên Dòng được phát hành và mọi tầng lớp dân chúng đã đón nhận nồng nhiệt. Nhiều người hành hương đến viếng tu viện Lisieux, họ đã nhận được những phép lạ và những ân sủng lạ lùng khi cầu xin cùng Thánh Têrêxa. Bà được phong hiển thánh năm 1928, và tuyên xưng là Đấng Bảo trợ các nhà truyền giáo. Đến năm 1997 thì Đức Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II tấn phong Tiến sĩ Hội Thánh. (Phó Tế J.B. Huỳnh Mai Trác)

Sau đây là những câu nói của thánh nhân, mời bạn hãy lắng nghe coi ngài đang muốn nhắn nhủ bạn điều gì:

(1) Xin nhớ rằng không có điều gì là nhỏ bé dưới mắt Thiên Chúa. Hãy làm mọi việc với tình yêu.

(2) Vẻ rực rỡ của bông hồng và màu trắng của bông huệ không tước mất hương thơm của bông hoa tím hay lấy đi vẻ hấp dẫn mộc mạc của bông cúc dại. Nếu mỗi bông hoa nhỏ cứ muốn làm một bông hồng, mùa xuân hẳn sẽ mất vẻ yêu kiều.

(3) Hẳn là bạn cũng biết rằng Chúa chúng ta không quan tâm nhiều đến vẻ lớn lao hay sự khó khăn của các hành vi chúng ta làm, nhưng là tình yêu chúng ta có khi làm.

(4) Không có tình yêu, các hành vi, dù sáng chói nhất, cũng không đáng kể gì.

(5) Tin tưởng và chỉ tin tưởng mới dẫn chúng ta đến tình yêu.

(6) Không nên bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào mà không làm một hy sinh nhỏ, ở đây bằng gương mặt tươi cười, ở kia bằng một lời khả ái, luôn luôn làm việc đúng đắn dù nhỏ bé nhất và làm vì tình yêu.

(7) Đối với em, cầu nguyện là một sự trào dâng của con tim; cầu nguyện đơn giản là một cái nhìn hướng về trời, là một tiếng kêu nhận biết và yêu thương, ôm lấy cả thử thách lẫn niềm vui.

(8) Một lời nói hay một nụ cười thường cũng đủ để đưa sự sống tươi mát vào trong một tâm hồn thất vọng.

(9) Bây giờ em biết rằng bác ái chân thật hệ tại gánh lấy tất cả những khuyết điểm của người thân cận – không ngạc nhiên trước sự yếu đuối của họ, nhưng vui sướng về những nhân đức nhỏ nhất của họ.

(10) Con cầm lấy quyển Kinh Thánh. Thế là mọi sự dường như sáng ra với con; chỉ một chữ thôi cũng mở ra cho con những chân trời vô biên, sự hoàn thiện tỏ ra đơn giản với con.

(11) Điều duy nhất con thực sự ước muốn… là yêu cho đến chết vì yêu.

Câu nào đánh động bạn nhất?

Xin Thánh Têrêxa Hài Đồng Giê-su, cầu cho chúng con.

From: Do Dzung

*************************

Yêu Người Như Chúa Yêu

Thánh Giêronimô (Jerome) Linh mục Tiến sĩ người Ý (340-420)-Cha Vương

Chúc bình an nhé! Hôm nay Ngày 30/09 Giáo Hội mừng kính Thánh Giêronimô (Jerome) Linh mục Tiến sĩ người Ý (340-420). Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 30/09/2024

Thánh Giêronimô sinh quãng năm 340 tại Xơ-tri-đôn, Đan-ma-xi-a. Người đến Rô-ma học văn chương và đã lãnh bí tích Thánh Tẩy tại đó. Người sang Đông Phương và làm linh mục. Trở lại Rô-ma, người làm thư ký cho đức giáo hoàng Đa-ma-xô. Thời gian này, người bắt đầu dịch Sách Thánh sang tiếng La-tinh và cổ võ nếp sống đan tu. Nhưng nhất là người đã sống ba mươi lăm năm cuối đời ở Bê-lem, gần cái hang nơi Đức Giê-su ra đời. Ở đây, người cầu nguyện hãm mình, chăm chỉ nghiên cứu, dịch và chú giải Kinh Thánh. Thánh Jerome qua đời tại Bethlehem ngày 30 tháng 9 năm 420. Xác thánh nhân được chôn cất kế bên hai người con thiêng liêng (Thánh Paola và Eustochium) dưới hầm mộ của thánh đường Giáng Sinh. Nhưng sau đó thánh tích của thánh Jerome được chuyển về La Mã. Thi hài của ngài hiện được chôn cất trong Ðền Ðức Bà Cả ở Rôma.

Đức Giáo Hoàng Boniface XIII đã tuyên xưng Thánh Jerome và Thánh Augustine là Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 20 tháng 9 năm 1295

Thánh Giêrôme là một người thẳng tính, cương quyết. Ngài có nhân đức cũng như các tính xấu của một người ưa chỉ trích tất cả những vấn đề luân lý thường tình của con người. Như có người nhận xét, ngài là người không chấp nhận thái độ lưng chừng trong phẩm hạnh cũng như trong việc chống đối sự xấu xa. Ngài mau nóng, nhưng cũng mau hối hận, và rất nghiêm khắc với những khuyết điểm của chính mình. Người ta kể, khi nhìn thấy bức tranh vẽ Thánh Giêrôme đang cầm hòn đá đánh vào ngực, một giáo hoàng nói, “Ngài cầm hòn đá đó là phải, vì nếu không, Giáo Hội không bao giờ phong thánh cho ngài”

 (Ðời Sống Thánh Nhân của Butler)

Sau đây là những câu nói để đời của Thánh Nhân, bạn hãy bỏ ra mấy phút đọc và suy niệm coi thánh nhân đang muốn nhắn nhủ bạn điều gì để đến gần với Chúa hơn mỗi ngày qua việc đọc và suy niệm Lời Chúa.

(1) Tốt, tốt hơn, tốt nhất. Đừng bao giờ nghỉ ngơi cho tới khi cái tốt của bạn trở nên tốt hơn và cái tốt hơn trở nên tốt nhất.

(2) Người phạm tội thì trong lòng không có Thiên Chúa, những việc họ yêu thích đều trở thành chúa của họ….

(3) Vừa khi bị nhục dục tấn công, chúng ta hãy than thở: “Lạy Chúa, xin cứu giúp con, xin đừng để con xúc phạm đến Chúa.”

(4) Phần chúng ta là hiến dâng những gì chúng ta có thể, phần của Chúa là chu cấp những gì chúng ta không thể.

(5) Có bao nhiêu thương tích đau thương trên thân xác Chúa Giêsu, thì cũng có bấy nhiêu vết thương xé nát Trái Tim Mẹ.

(6) Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô. (Thánh Giêronimô)

Câu nào đánh động bạn nhất. Đối với mình thì câu 1.

Thánh Giêronimô, cầu cho chúng con.

From: Do Dzung

************************

Thánh Ca | Lắng Nghe Lời Chúa – Phan Đinh Tùng

Thánh Vinh-sơn Phaolô, (St. Vincent de Paul) (1581-1660)- Cha Vương

Hôm nay 27/09 Giáo Hội mừng kính Thánh Vinh-sơn Phaolô, (St. Vincent de Paul), nguyện xin thánh nhân chuyển cầu cho Bạn và gia đình nhé.

Cha Vương

Thứ 6:27/09/24

Thánh nhân sinh năm 1581 tại Gát-côn, nước Pháp. Người làm linh mục rồi đi Pa-ri phục vụ một giáo xứ. Người sáng lập tu hội Thừa Sai để giúp đào tạo các giáo sĩ và nâng đỡ những người nghèo. Được thánh nữ Lu-y Ma-ri-lắc cộng tác, người đã lập tu hội Nữ Tử Bác Ái. Người là gương mẫu hoàn hảo về việc sống đức bác ái như Chúa Ki-tô dạy, luôn sẵn sàng cứu giúp những người cùng khốn. Người nhận ra khuôn mặt của Chúa Ki-tô nơi bất cứ ai đang gặp đau khổ. Người qua đời tại Pa-ri năm 1660.

Khi gần chết, ngài đã thốt lên: “Lạy Chúa, con đã làm những việc theo lệnh Chúa, nay xin Chúa ban cho con những gì Chúa đã hứa.” Ngài đã an nghỉ trong Chúa vào ngày 27 tháng 9 năm 1660, lúc 80 tuổi.

Đức Giáo Hoàng Lêô 13 tôn thánh Vincent làm bổn mạng các hội Từ thiện Công Giáo. Ngày nay trên thế giới , hội Bác ái Vinh sơn đã lan tràn rất nhiều nơi.

Sau đây là những câu nói để đời của Thánh Nhân, Bạn hãy bỏ ra mấy phút để đọc và lắng nghe coi thánh nhân đang muốn nhắn nhủ Bạn điều gì mà đến gần với Chúa hơn.

(1) Anh em hãy nhớ rằng cuộc sống Kitô hữu là một cuộc sống hoạt động; chứ không phải chỉ là lời nói và mộng mơ.

(2) Vũ khí mạnh nhất để chống lại ma quỷ là đức khiêm nhường. Bởi vì, như ma quỷ không có bất cứ một ý niệm nào về sự “khiêm nhường” thì ma quỷ cũng không biết làm thế nào để rũ bỏ sự “khiêm nhường”.

(3) Chúng ta nên đơn giản trong tình cảm, ý tưởng, hành vi và ngôn từ, chúng ta nên làm những gì chúng ta thấy không có sự giả tạo hoặc lừa lọc trong đó.

(4) Tôi ước muốn từng giây phút quá khứ, hiện tại và tương lai đều được tôi cũng như mọi người sử dụng một cách tốt nhất.

(5) Trên thiên đàng chúng ta sẽ nghỉ ngơi.

(6) Một người càng tấn tới trong việc yêu mến Thiên Chúa thì nhất định càng yêu thích đau khổ, chịu bị khinh thường, đó chính là dấu hiệu của lửa tình ái, những thứ khác đều là mây khói.

Câu nào đánh động bạn nhất? Đối với mình thì câu (3) và (4)

From: Do Dzung

**********************

Tha Thứ Chữa Lành – Lm. Giuse Vũ Đức Hiệp

Thánh Cót-ma và Ða-mi-a-nô, thế kỷ thứ 3 – Cha Vương

Chúc bình an! Hôm nay 26/9 Giáo hội mừng kính 2 thánh Cót-ma và Ða-mi-a-nô, thế kỷ thứ 3. Các ngài được xem như là  bổn mạng bổn mạng các thầy thuốc và những y tá.

Cha Vương

Thứ 5: 26/9/2024

Vào khoảng thế kỷ thứ III, tại miền Égée thuộc nước Ả Rập, có hai anh em sinh đôi tên là Cót-ma và Ða-mi-a-nô. Ngay quãng đầu đời, hai anh em đã gặp cảnh khó khăn, thử thách. Số là cha hai Ngài mất sớm, hai Ngài rơi vào cảnh mồ côi cha. Chúa vô cùng thương xót đã cho hai Ngài có bà mẹ đạo đức, thánh thiện, nhân ái. Hai Ngài đã được tình thương của mẹ ủ ấp, mẹ các Ngài đã giáo dục các Ngài theo đường hướng Giáo Hội và Chúa Kitô.  Hai Ngài đã được hấp thụ một nền giáo dục nhân bản thật tốt, đã được trui luyện theo đường hướng Phúc Âm của Chúa. Ðược Chúa soi sáng, Thánh Thần tác động, hướng dẫn, hai Ngài lớn lên đã mau chóng đạt được bằng cấp y dược và trở thành những lương y lành nghề, đạo đức. Với y đức có được, với lòng đạo đức, tâm hồn hướng về Chúa, thánh Cót-ma và Ða-mi-a-nô đã hành nghề lương y mà không nhận một khoản tiền thù lao nào đối với bất cứ một ai. Chính vì thế, tiếng tăm đạo đức của hai Ngài vang dội khắp nơi.

Giáo Hội của Chúa Kitô ít khi được an bình, con cái thế gian luôn tìm cách phá hại Hội Thánh của Chúa. Giáo Hội vào thời hai Ðấng lúc đó gặp cảnh cấm cách, bắt bớ của Hoàng đế Ðiôclêtianô và Maximianô, Cótma và Ðamianô bị bắt, bị dẫn giải tới quan Lydia. Thánh Cót-ma và Ðamianô không sợ sệt, không run sợ, không nhát đảm, các Ngài luôn tuyên xưng mình là Kitô hữu. Quan Lydia truyền đánh đòn hai Ngài một cách dã man, tàn ác, ra lệnh xích tay chân và quăng hai Ngài xuống biển. Chúa nhiệm mầu và quyền năng đã cứu hai Ngài khỏi chết. Tức giận vì phép lạ Chúa giải cứu hai Ngài khỏi chết, Lydia đã ra lệnh đốt một đống lửa cháy to và đẩy hai Ngài vào đống lửa đang cháy. Hai Ðấng vẫn ung dung, vừa đi vừa cầu nguyện giữa đống lửa đang bừng bừng cháy lớn. Phép lạ Chúa quả quá tỏ tường, nhiều người chứng kiến phép lạ lớn lao ấy đã được ơn quay trở lại.

Như một con thú khát máu, Lydia đã ra lệnh khẩn cấp đem hai Ngài đi chém đầu. Hai thánh nhân trước khi để cho đao phủ chém đầu mình đã can đảm ngước mắt lên trời cầu xin Chúa thứ tha cho những kẻ làm hại các Ngài. Thánh Cót-ma và Ða-mi-a-nô đã được phúc tử vì đạo vào ngày 27/9/297. Chính đức tin sắt đá và lòng nhân từ của các Ngài đã giúp các Ngài được phúc lãnh nhận ơn chết vì đạo.

SỨ ÐIỆP: Hai anh em sinh đôi Cot-ma và Ða-mi-a-nô đã sống trung thành với giáo lý chân chính của chúa, của Giáo Hội. Các Ngài cảm nghiệm tình thương vô biên của Chúa. Tình thương đã tha thứ cho người trộm lành. Tình thương đã hoán cải con người Mađalêna và tình thương đã cải hóa ông Gia-kêu, người thu thuế. Ý thức sâu xa, con đường của Chúa đã đi, lời Chúa đã dậy, thánh Cót-ma và Ða-mi-a-nô đã nói lên cho nhân loại điều này: “Chỉ có tình thương tha thứ mới giải thoát được con người “.  Chúa đã yêu thương, tha thứ cho nhân loại tội lỗi, Chúa đã kê vai gánh tội cho nhân trần, tại sao nhân loại lại không thể cảm thông tha thứ cho nhau? Thánh Cót-ma và Ða-mi-a-nô đã nói lên chân lý này: “Thiên Chúa là tình yêu”. Con người nhận Chúa làm gia nghiệp phải sống tình yêu của Chúa.

(Nguồn: Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)

Thánh Grégoire de Tours, thế kỷ VI, làm chứng lòng sùng kính hai vị tử đạo “chữa bệnh” này tại xứ Gaule: “Hai anh em y sĩ Cosma và Đamianô đã trở thành Kitô hữu; chỉ nhờ công phúc nhân đức và lời cầu nguyện của các ngài, nhiều bệnh tật đã được xua đuổi. Sau một số cực hình khác nhau, các ngài lại đoàn tụ với nhau trên trời và làm nhiều phép lạ. Nếu có một người bệnh đến mộ các ngài và tin tưởng cầu xin, người đó đã gặp thầy gặp thuốc. Người ta kể các ngài hiện đến với các bệnh nhân trong giấc mộng, cho họ toa thuốc, bệnh nhân cứ thế nghe theo và họ được chữa lành” (In. Glor.Mart 98).

Lạy thánh Cót-ma và Ða-mi-a-nô xin chữa lành những bệnh tật mà chúng con đang có và xin cầu bầu cùng Chúa giúp chúng con biết yêu thương, tha thứ cho những người làm hại chúng con như hai thánh đã xin Chúa thứ tha cho những kẻ giết thân xác hai Ngài.

From: Do Dzung

******************

Tha Thứ Chữa Lành – Lm. Giuse Vũ Đức Hiệp | Thánh Ca Lòng Thương Xót Chúa

TIỂU SỬ CHA PADRE PIO, NGƯỜI Ý (1887-1968)

  1. Cậu Phanxicô con ông bà Horace làm nghề nông nghèo khó, sinh tại Pietrelcina, tỉnh Benevento, miền nam nước Ý, ngày 25.05.1887.  Ông bà có 8 con, chết 3 còn 5 (2 trai 3 gái).

Vì không muốn Phanxicô vất vả nơi đồng áng, ông Horace đã sang New York, Hoa kỳ làm việc để kiếm tiền cho con đi học, đi tu.

Ngày lễ Ba Vua năm 1903, Cậu vào Nhà Tập Dòng Phanxicô nhánh Cappucins tại Morcone, nhận tên Dòng là Piô.  Nhánh Capucins là nhánh không ngặt cũng không rộng.  Nhánh ôn hòa này cũng có Bề trên Cả như hai nhánh kia.  Nhánh Capuchins có khác chút ít bên ngoài như cho tu sĩ để râu và mặc áo dòng màu đen.  (Dương Liên Mỹ, ofm, Padre Pio, Sài gòn 1968, tr 16-19).

Trong thời gian Tập, vì hãm mình quá, 3 tuần không ăn uống gì, nhà Dòng tưởng thầy sẽ chết, nên cho về nhà ba má bổ dưỡng, không bao lâu thầy phục sức.  Trở về nhà dòng học thần học, nhiều lần anh em gặp thầy Pio quì gối để học bài.

Năm 15 tuổi vào Dòng Capucins.  Ngày 10.08.1910, (23 tuổi) thầy Piô được thụ phong linh mục trong nhà nguyện của nhà thờ chính tòa Benevento.  Bảy ngày sau khi chịu chức linh mục, cha Piô được in 5 Dấu Thánh ẩn kín (chưa xuất hiện).

Tháng 9 năm 1916, Cha Pio được thuyên chuyển về Tu Viện Ðức Mẹ Ban Ơn (Santa Maria delle grazie), ở San Giovanni Rotondo, trong giáo phận Foggia.

Năm 31 tuổi (ngày 20.09.1918), sau khi Rước Mình Máu Thánh Chúa, các dấu thánh xuất hiện.  Cha đã chịu đau đớn mang 5 dấu thánh trong 50 năm.  Sau khi cha tắt thở, các dấu thánh này liền biến mất, không để lại vết tích nào.

  1. Tôn sùng Đức Mẹ: Lần hạt suốt ngày:

Cha Piô rất sùng kính Đức Mẹ và ngài thường lần chuỗi hàng ngày.
Trong tu viện, một thầy hỏi ngài:
– Cha lần bao nhiêu chuỗi kinh Mân côi mỗi ngày?
– Khoảng 40.
– 40 lần 50 mươi, nghĩa là 2 ngàn kinh Kính Mừng mỗi ngày sao?
– Sao?  Chuỗi Mân côi chỉ có 5 chục thôi sao?  Một chuỗi Mân côi đầy đủ phải gồm 150 kinh Kính mừng và 15 kinh Lạy Cha.

Có lần ngài nói với một người con thiêng liêng:

“Luôn luôn nắm chặt lấy vũ khí của Đức Mẹ trong tay, nó sẽ giúp con chiến thắng kẻ thù.”
– Vũ khí đó là gì?
– Nó trên áo dòng của cha.
– Con đâu có thấy vũ khí nào đâu?  Con chỉ thấy xâu chuỗi Mân côi.
– Đó không phải là vũ khí sao? (Cuộc đời cha Piô, Người Tín hữu xb, 2000, tr 267)

Khi được hỏi di sản ngài muốn trối lại cho các con thiêng liêng của ngài là gì, Cha Thánh Piô đã trả lời:

“Lần chuỗi Mân Côi!”  Ngài cho rằng việc Đức Mẹ hiện ra ở mọi nơi kêu mời người ta đọc kinh Mân Côi là điều chắc chắn khiến ta phải chuyên cần đọc Kinh Mân Côi mỗi ngày.

Ngài còn nói: “Còn kinh nguyện nào đẹp hơn Kinh Mân Côi, kinh chính Mẹ dạy ta.  Hãy luôn lần chuỗi Mân Côi.”

Hai ngày trước khi qua đời ngài còn nói: “Hãy yêu Đức Mẹ và làm cho Đức Mẹ được yêu.  Hãy lần chuỗi Mân Côi và lần luôn luôn và lần càng nhiều càng tốt.”

Một lần Đức Mẹ cũng nói với thánh nữ Mectinđa rằng: “Khi sống con đọc bao nhiêu kinh Kính Mừng, khi chết con được bấy nhiêu ơn”.

Nhờ chuyên chăm sốt sắng lần chuỗi Mân Côi, Cha Thánh Piô đã kéo được biết bao ơn xuống cho bản thân ngài và cho những ai đến với ngài.

Hãm mình cao độ: Năm 1925, cha bị bệnh sa ruột, thường làm cha đau buốt, khi bước lên bàn thờ cha phải gắng hết sức để khỏi ngất đi, ngã xuống đất.  Bác sĩ Festa đã quyết định mổ ngay cho ngài tại Tu viện, vì trong thời gian này Tòa thánh hiểu lầm những báo cáo về ngài, nên  không cho ngài ra ngoài, không được liên lạc với người ngoài và không cho ai coi 5 dấu, cũng không được cử hành thánh lễ nơi công cộng.

Bác sĩ muốn đánh thuốc mê cho khỏi đau, nhưng ngài không đồng ý, sợ ông ta lén coi 5 dấu thánh. Cha bằng lòng mổ sống.  Cuộc mổ kéo dài 1 giờ 45 phút, mà cha không kêu ca.  Tới lúc gần xong, cha mới tràn nuớc mắt và kêu: “Xin Chúa Giêsu tha cho con, vì con không biết chịu khó như con phải chịu.”  Sau đó cha ngất đi vì kiệt sức.

Năm 1935, nhân dịp mừng kỷ niệm 25 năm thụ phong linh mục, Đức Piô 11 cho cha được trở lại giúp các linh hồn.

Cha thức dậy từ 3 giờ sáng để dọn mình dâng lễ tại phòng riêng để khỏi phiền anh em, Ngài dâng lễ cách sốt sắng như diễn lại cuộc tử nạn của Chúa trên núi Calvê xưa.  Thánh Lễ kéo dài từ 1g30 phút tới 2 giờ.  Có khi Thánh Lễ kéo dài đến 4 tiếng vì xuất thần, Sau lễ là giải tội từ sáng đến tối.

Ăn uống không bao nhiêu.  Người ta nói, ngài ăn không hơn một em bé đang trong nôi.

  1. Giải tội cho người thập phương:

Ngài giải tội tùy theo tình trạng mỗi tâm hồn, chỉ cốt sao cho họ thành thực, được ơn tha thứ và cải thiện đời sống, nên nhiều khi ngài có những cư xử khác thường:

1/ Một người viết báo ở Rôma kể: Trước khi cha Piô ban phép giải tội, ngài nói với tôi cách gắt gỏng là hãy cẩn thận với vài khuyết điểm.  Lời ngài nói như xuyên qua linh hồn tôi.  Trong một dịp khác, ngài vạch rõ những khuyết điểm ăn sâu trong lòng, và tôi dần dà cải đổi.  Lần thứ ba, ngài hỏi: từ bấy lâu nay có xưng tội không?  Tôi mỉm cười và trả lời tự tin: Ngày nào con cũng dự lễ và rước lễ mà. Cha Piô nhăn mặt và gay gắt nói:

– Con đến đây để xưng tội chứ không để ca ngợi mình.  Thế con có nóng giận với các em gái con không?
– Dạ có.
– Đó là điều con phải xưng.  Và đừng làm thế nữa.

2/ Một bà kia xưng tội phạm đức trong sạch.  Bà biết rõ khi trở về bà sẽ bị cám dỗ và sa ngã lại.  Cha Piô từ chối ban phép giải tội.  Lần sau bà đến nữa, ngài cũng không giải tội.  Lần thứ 5, khi xếp hàng, bà nghĩ: Tôi thà chết không phạm tội này nữa.  Khi bà xưng, cha Piô lắng nghe, và ngài đã ban phép giải tội cho bà.  Ngài biết được nội tâm người ta.

3/ Một bà khác xưng rằng:
– Con đọc sách báo xấu.
– Con có xưng tội này rồi phải không?
– Dạ phải.
– Cha giải tội nói gì với con?
– Cha giải tội bảo con không được phạm tội này nữa.
– Không nói một lời, cha Piô đóng sầm cửa sổ, quay sang giải tội cho người bên kia.  Người phụ nữ ấy khóc lóc và đi xưng tội với một linh mục khác, sau đó rước lễ từ tay cha Piô.  Trước khi ra về bà khóc lóc, nói: “Tôi muốn đốt hết tất cả những sách báo xấu xa trên toàn thế giới.”
Cha Piô thật hài lòng, ngài muốn tội nhân thay đổi khi ra khỏi tòa giải tội.

4/ Ngày kia, có một anh thanh niên đến xin xưng tội với cha Piô.  Ngài nhìn anh với đôi mắt nghiêm nghị, ngài la lên “đồ con heo!”  Mọi người quay về phía anh, thật nhục nhã, anh ta vội vã rời phòng giải tội.  Một linh mục kinh ngạc, đăm đăm nhìn cha, nói:
– Sao cha dùng những lời lẽ thậm tệ đến thế?

– Cha Piô nhún vai: nếu tôi không la vào mặt hắn, hắn sẽ phải án phạt đời đời.  Hắn sống với vợ lẽ, và đây là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa.  Sự nhục nhã đó có lợi cho hắn, vài ngày nữa hắn sẽ trở lại. Nếu tôi ban phép giải tội cho hắn bây giờ, hắn sẽ không sám hối và không sửa đổi.

Anh ta đã không thể ngủ nghỉ, ăn uống khi nghĩ tới mối liên hệ bất chính.  Anh ta đã trở lại, quì gối xuống ăn năn khóc lóc trước mặt cha Piô.  Ngài cúi xuống khoác tay lên người anh, ngài ôn tồn nói:

– Con thấy không, bây giờ Chúa Cứu Thế rất hài lòng về con.

5/ Một hôm, ngài đang nói chuyện với một bà có ông chồng vừa qua đời.  Trước đây chồng bà đã bỏ bà và 2 con nhỏ để sống với một phụ nữ khác trong 3 năm.  Bất thình lình ông bị bệnh ung thư.  Trước khi ông chết, bà vợ này khẩn khoản xin ông lãnh nhận các Bí tích cuối cùng.  Ông nhận lời.

Người đàn bà nhỏ nhắn và đơn sơ này đưa tay sửa lại chiếc khăn vuông trên đầu và hỏi cha Piô:
– Thưa cha, linh hồn chồng con bây giờ ở đâu?
– Cha Piô nhìn bà ta với đôi mắt lo ngại.  Hình như ngài cảm được nỗi buồn phiền trong tâm hồn của bà, Ngài nói khẽ:
– Linh hồn chồng bà đã bị án phạt đời đời.

Người đàn bà lắc đầu khổ sở, nước mắt tuôn tràn.

Cha Piô nói tiếp cách buồn bã:
– Khi nhận các Bí tích sau cùng, ông ta đã giấu nhiều tội.  Ông không ăn ăn hối hận, cũng không quyết tâm chừa cải.  Ông vẫn là tội nhân đối với lòng thương xót Chúa, vì ông muốn hưởng hết lợi lộc của cõi đời này, rồi sau đó mới quay về ăn năn, thống hối…, nhưng không còn thì giờ cho ông nữa!

Trước khi bà ra về, ngài hết sức an ủi bà, nhưng suốt ngày những điều ấy chờn vờn trong tâm trí ngài, vì một người đã bị hư mất.

(Cuộc đời Cha Piô, Người Tín Hữu xb, 2000, trang 188).

Năm 1956, Cha khánh thành một Trung Tâm Xã Hội có tên gọi là “Nhà an ủi kẻ đau khổ,” và nay là bệnh viện lớn và tối tân, thuộc quyền Tòa Thánh.

Cha Pio qua đời lúc 2:30 sáng ngày 23.09.1968.

Tháng 11 năm sau, tức năm 1969, Tổng Cáo Thỉnh Viên của Dòng Cappucin xin phép làm án phong Chân Phước và Hiển Thánh cho Cha Pio.  Giai đoạn làm án phong thánh cho cha ở cấp giáo phận, đã được hoàn tất năm 1990 và tất cả các hồ sơ được chuyển đến Bộ Phong Thánh Roma.  Trong khoảng thời gian từ năm 1983 đến năm 1990, Tòa Án giáo phận đã thu lượm các tài liệu đóng thành 23 pho sách.

Yếu tố nổi bật trong linh đạo của Cha Pio chắc chắn là đời sống bí tích: các tín hữu tham dự các cuộc hành hương tại San Giovanni Rotondo hầu hết đều đến tòa giải tội lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa, tham dự thánh lễ và rước lễ.

Sau khi ngài qua đời ngày 23/9/1968, (81 tuổi) có đến hơn một 100,000 người tham dự lễ an táng của ngài.  Ba vị Giáo Hoàng đã kết án cha là người giả hình đóng kịch.  Nhưng Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng cất nhắc cha lên hàng Hiển Thánh.  Lễ phong thánh cho ngài vào đúng Ngày của Cha (Father’s Day) 16/06/2002 là một lễ phong thánh có đông người tham dự nhất xưa nay, với con số gần nửa triệu người!  Thi hài thánh Padre Piô hiện quàn tại San Giovanni Rotondo, miền nam nước Ý.

Sưu tầm

Xin coi thêm: http://suyniemhangngay.net/ 2016/09/02/cuoc-doi-cha-pio/

From: suyniemhangngay & NguyenNThu


 

Thánh Sêgiô người Nga (1314-1392)- Cha Vương

Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé. Hôm nay 25/9 Giáo Hội mừng kính (ngoài lịch) Thánh Sêgiô người Nga (1314-1392). (St. Sergius of Moscow)

Cha Vương

Thánh Sêgiô người Nga nổi danh này sống vào thế kỷ thứ 14. Ngài sinh năm 1314 gần Rostov và được đặt tên là Bartholomew khi chịu phép Thanh tẩy. Ngài không được thông minh như hai anh trai của mình, nhưng ngài cũng biết đọc và biết viết. Điều này làm cho Bartholomew rất hạnh phúc vì ngài rất ao ước được đọc Kinh Thánh. Song thân của Bartholomew là những quý tộc. Lúc Bartholomew còn nhỏ, gia đình đã phải dọn về Radonezh để chạy trốn quân thù Rostov. Họ phải lao động như những nông dân nghèo. Sau khi song thân qua đời, Bartholomew và một người anh trai tên Stephan đã trẩy vào trong núi ở Makovka năm 1335 sống như những ẩn sĩ. Hai anh em chặt cây và dựng một nhà thờ nhỏ. Nhà thờ được dâng kính cho Thiên Chúa Ba Ngôi.

Khi người anh trai tới Moscow để xin gia nhập vào một đan viện, Bartholomew vẫn tiếp tục sống một mình. Ngài mặc tu phục của đan sĩ và lấy tên là Sergius (Sêgiô). Sergius lúc này là một thanh niên cao to vạm vỡ. Ngài có sức chịu được những cơn gió bão hung tợn và buốt lạnh của khu rừng nơi ngài sinh sống. Sergius sung sướng cầu nguyện cùng Thiên Chúa và yêu mến Người với tất cả tâm hồn. Sergius nói rằng lửa đốt và ánh sáng là những bạn đồng hành của ngài, và thậm chí Sergius còn làm bạn cả với những chú gấu!

Sau đó ít lâu, có những thanh niên cùng đến chia sẻ đời sống thánh thiện của thánh Sergius. Họ nài xin thánh nhân làm tu viện trưởng của họ và ngài đã đồng ý. Sergius được thụ phong linh mục tại Pereyaslav Zalesky và đã điều khiển tu viện cách rất khôn khéo. Lần kia, khi một số tu sĩ cùng với người anh trai của ngài, Stephan, lúc này đã trở về, có chuyện bất đồng với Sergius, Sergius đã lặng lẽ bỏ đi để giữ bầu khí an hòa.

Bốn năm sau, người ta xin Sergius trở về. Vừa thấy ngài, các tu sĩ rất vui mừng và họ chào đón ngài cách rất nhiệt tình. Các nhà cầm quyền trị nước cũng thường hay đến xin thánh Sergius khuyên bảo. Thánh nhân nổi tiếng đến nỗi người ta đã mời ngài làm giám mục một giáo phận lớn nhất bên Nga Sô. Nhưng thánh Sergius khiêm tốn từ chối. Lần kia, hoàng tử xứ Moscow phân vân không biết có nên đem quân chinh phạt giặc Tatar đang đàn áp dân Nga hay không. Thánh Sergius nói: “Hoàng tử đừng sợ! Hãy dùng niềm tin mà tiến lên chống lại kẻ thù. Thiên Chúa sẽ ở với hoàng tử!” Và sau đó dân Nga đã toàn thắng.

Thánh Sergius ở Moscow qua đời ngày 25 tháng 9 năm 1392 và được Đức Giáo Hoàng Nicolaus V tôn phong hiển thánh năm 1449.

Không phải do học hành thông giỏi mà thánh Sergius đã được nhiều người tin tưởng và yêu mến. Chính niềm tin vào Thiên Chúa và ước muốn giúp đỡ tha nhân đã khiến thánh Sêgiô có được vinh dự này. Khi có ai bất đồng ý kiến với chúng ta hay muốn tranh cãi với chúng ta, chúng ta hãy nhớ lại chính thánh Sêgiô cũng đã trải qua những hoàn cảnh giống y như vậy. Chúng ta hãy nài xin thánh nhân giúp chúng ta luôn sống an bình.

(Trích  “Các Thánh” Tin Mừng Net  Susan Helen Wallace Fsp –  Đa Minh LM Nguyễn Phúc Lộc, CMC chuyển ngữ  và Nhóm Tinh Thần nhuận chính lại theo Patron Saints & Santi-Beati-Testimoni)

From: Do Dzung

***********************

Nhạc Thánh Ca Hay Nhất Hiện Nay, Nghe Để Trở Về Bên Chúa | LK Sống Trong Niềm Vui, Cho Con Thấy Chúa

Thánh Piô 5 dấu,  (1887- 1968) – Cha Vương

Chúc bình an! Hôm nay 23/09 Giáo Hội mừng kính Thánh Piô 5 dấu, linh mục dòng Phanxicô. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thánh nhân sinh tại làng Pi-ết-ren-si-na gần Bê-nê-ven-tô nước Ý năm 1887. Người vào tu dòng Anh Em Hèn Mọn, ngành Ca-pút-xi-nô, và sau khi thụ phong linh mục đã tận tình lo việc mục vụ nhất là tại tu viện ở thị trấn Xan Gio-van-ni Rô-tôn-đô miền Pu-li-a. Trong tinh thần cầu nguyện và khiêm nhường, người phục vụ dân Chúa qua việc linh hướng, bí tích Hoà Giải và việc săn sóc giúp đỡ những người ốm đau, nghèo khổ. Người đã được nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô chịu đóng đinh. Ngài qua đời năm 1968 và được phong chân phước năm 1999 và hiển thánh năm 2002, lễ kính vào ngày 23/9, trùng vào ngày tạ thế.

Ngày 23/5/1987, đức Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm mộ của cha Piô, vị giải tội mà ngài đã từng gặp khi còn là một linh mục sinh viên ở Rôma 40 năm về trước. Đức Bênêđictô XVI là vị giáo hoàng thứ hai đến viếng thăm mồ của vị thánh linh mục hầu như suốt đời chỉ thi hành hai tác vụ là dâng Thánh lễ (đôi lúc kéo dài 3 giờ đồng hồ) và ban bí tích giải tội.

Cha Pio được mọi người biết đến qua hai việc: (1) Lòng tôn sùng Đức Mẹ triệt để. Ngài lần hạt suốt ngày. Có lần ngài nói với một người con thiêng liêng: “Luôn luôn nắm chặt lấy vũ khí của Đức Mẹ trong tay, nó sẽ giúp con chiến thắng kẻ thù”. (2) Giải tội cho người muôn phương—Ngài giải tội tùy theo tình trạng mỗi tâm hồn, chỉ cốt sao cho họ thành thực, được ơn tha thứ và cải thiện đời sống, nên nhiều khi ngài có những cư xử khác thường. Việc giải tội của ngài thường kéo dài 10 tiếng một ngày; người muốn xưng tội phải lấy số chờ đợi. Nhiều người nói rằng Cha Piô biết rõ các chi tiết cuộc đời của họ, mà chưa bao giờ họ tiết lộ.

Sau đây là những lời nhắn nhủ của thánh Piô. Ước mong Bạn hãy dành thời gian để suy gẫm mà sống gần với Chúa hơn mỗi ngày nhé:

(1) CẦU NGUYỆN: “ Người ta tìm Chúa trong sách vở, nhưng gặp Chúa trong suy gẫm “Cầu nguyện là là chìa khóa để mở Trái Tim Chúa . “Hậu quả của cầu nguyện là bỏ cái “tôi”, sau đó Chúa sẽ nói chuyện với ta. “Chúa là tấm gương phản chiếu, ai biết suy gẫm, tâm trí hướng về Chúa, cũng sẽ nhận ra khuyết điểm của mình. “Trí óc không tập trung, thì lòng cũng không có tình mến Chúa “Tinh thần của Chúa là bình an, của quỉ là bực tức, nổi giận, lo lắng, nhưng ma quỉ như bị buộc giây, ta đứng xa thì không bao giờ bị cắn.

(2) KHIÊM TỐN: ” Biết mình không đáng, không tốt đẹp, có thể phạm nhiều tội ác… đó là ánh sáng Chúa chiếu vào linh hồn ta, cũng như vào linh hồn các thánh xưa để giúp tránh mọi tư tưởng kiêu ngạo, hư danh, và thêm lòng khiêm tốn”. “Biết làm cho linh hồn nên trống rỗng, Chúa sẽ làm cho nó nên giầu sang” “Người làm điều ác mà xấu hổ về việc đã làm, thì gần Chúa hơn là người tốt mà không dám làm việc lành”

(3) VÂNG PHỤC: “Không vâng phục thì không có nhân đức, không có nhân đức thì không có tốt lành, không có tốt lành thì không có yêu thương, không có yêu thương thì không có Thiên Chúa “

(4) THÁNH Ý CHÚA : “Mong được sống bình an đời đời  là điều chính đáng, thánh thiện, nhưng phải vâng theo ý Chúa . Vâng theo ý Chúa ở đời này còn quí hơn hưởng vinh phúc trên Thiên đàng. “Trong khi tùng phục, cảm thấy có phản loạn trong tâm hồn, thì đó là thử thách Chúa gửi đến, cần lý trí tùng phục, bản tính tự nhiên nổi dậy, mặc nó…

(5) BÁC ÁI: “Ai thương xót người nghèo là cho Thiên Chúa vay mượn.

“Chạm đến đức ái thì cũng như đâm vào con ngươi trong mắt Chúa”.

Yêu thương: ” Chúa không thể từ chối ban ơn, khi ta thật lòng muốn yêu mến Chúa “. “Chỉ có một hành động yêu thương của con người, chỉ có một hành động đức ái lớn lao trước mặt Thiên Chúa, đến nỗi cả thế giới này không đủ để thưởng công”.

(6) QUỶ CÁM DỖ VÀ Ý MUỐN: “Nhớ rằng quỉ chỉ có một cửa để vào linh hồn con, đó là ý muốn, không còn cửa nào khác. Không phải là tội, nếu không cố ý muốn phạm.

(7) ĐAU KHỔ: “Nhiều người xin tôi lấy đi thập giá của họ, nhưng rất ít người xin tôi cầu nguyện cho họ có sức mạnh để vác thập giá ấy. “Trần gian này là bể khổ, ta phải vác thánh giá. Không có hạnh phúc ở trần gian này. Học thức mà không nhắm vào Thiên Chúa Tự hữu thì có ích gì? Hãy gạt đi mọi hầm hố trần gian, hãy khiêm tốn, cầu nguyện, sẽ được bình an dưới đất và hạnh phúc trên trời. “Xác ta như con lừa, chúng cần roi vọt, nhưng không được quá tay, nếu nó ngã quị thì ai chở ta?

(8) SỐNG ĐẠO: “Hãy trở nên người công giáo tốt lành, nếu không, cuộc đời ta sẽ không có mục đích.

Câu nào đánh động Bạn nhất? Câu thứ 6 đánh động mình nhất.

Thánh Pio, cầu cho chúng con!

From: Do Dzung

**********************

Chúa Đau Cùng Con (Lời Nguyện Trong Cơn Đại Dịch) | Sáng tác: Sr. Quỳnh Thoại – Minh Nguyệt

Thánh Mát-thêu-Cha Vương

Hôm nay 21/09, Giáo hội mừng kính Thánh Mát-thêu. Mừng bổn mạng đến những ai chọn Ngài làm quan thầy nhé. Hãy thêm lời cầu nguyện cho những ai đang bị ảnh hưởng bởi tai ương, chiến tranh, bệnh tật khắp nơi.

Cha Vương

Thư 7: 21/09/2024

“Bỏ nơi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Mát-thêu đang ngồi tại trạm. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi! Ông đứng dậy đi theo Người.”

Câu văn ngằn ngủi trên cho chúng ta biết về người môn đệ tên là Mát-thêu Thánh sử. Có phải thật Mát-thêu là người thu thuế như Thánh Marcô và Luca đã viềt trong Tin Mừng không? Nếu đúng như vậy thì Mát-thêu chắc chắn bị những người Do thái khinh bỉ và ghét bỏ vì là người cộng tác với quân La Mã. Những người thu thuế là kẻ thù của nhân dân và là người tội lỗi mà họ oán trách Chúa Giêsu đã đi lại và dùng bữa với họ.

Dù sao đi nữa thì Mát-thêu đã bỏ dĩ vãng lại trong quá khứ mà đi theo Chúa Giêsu. Nhiều học giả nghi ngờ là sách Tin Mừng Mát-thêu có thể là do một trong những môn đồ của Chúa Giêsu vào cuối thế kỷ đầu tiên vì dường như là sách Tin Mừng Mát-thêu được viết bởi một Kitô hữu Do thái thông thạo tiếng Hy lạp và quả quyết Chúa Giêsu là Đấng Messiah, Đấng đã hoàn tất những tiên báo trong Cựu Ước mang đến một luật lệ và một kỷ nguyên mới.

Đường như thánh Mát-thêu viết sách Tin Mừng dành nhiều cho người Do Thái và người giàu có. Phúc  âm thánh Mát-thêu ca ngợi sự nghèo khó và thuyết phục người đọc là ơn cứu dộ tùy thuộc nhiều vào lòng thương xót những kẻ nghèo khó. Điều này nói lên lòng ăn năn hối cải của người thu thuế. Mát-thêu kể lại những lời giảng dạy của Chúa Kitô và tóm tắt điều căn bản trong Bài giảng trên Núi về các Mối Phúc Thật.

Mát-thêu ghi lại dụ nguôn về cuộc Phán Xét Cuối Cùng khi “Đức Chúa Con trở lại trong vinh quang” để tách ra “chiên và dê”. Chúa phán với những người được Chúa ân thưởng: “Vì khi Ta đói các người đã cho ăn, Ta Khát các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước, Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc, Ta đau ốm các ngươi dã thăm viếng, Ta ngồi tù các ngươi đã hỏi han.” Họ bèn hỏi: “Chúng tôi đã làm những việc ấy lúc nào? Chúa bèn phán: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”

Thánh Mát-thêu là dấng phù trợ các sứ vụ của Giáo Hội. Được ơn gọi đi theo Chúa Giêsu, thánh Mát-thêu kết thúc Tin Mừng lời thúc dục người theo Chúa như sau: “Vậy anh em hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, “và lời cuối cùng cho chúng ta và cho mọi thời đại: “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”

(Nguồn: ViệtCatholic)

Xin bạn hãy tự trả lời những câu hỏi gợi ý suy niệm hôm nay, nếu được thì hãy chia sẻ với một người nào đó:

❦  Hôm nay, Thiên Chúa sai tôi đến với ai?

❦  Tôi đã và đang làm gì để mang Tin Mừng vào trong môi trường sống của tôi?

❦  Đâu là những lĩnh vực trong đời sống mà tôi có thể tận hiến cho Thiên Chúa?

From: Do Dzung

******************

CD Tình Ngài Gọi Con Vol.6 || TÂM SỰ NGƯỜI THU THUẾ | Lm. Xuân Đường

Thánh Gioan Kim Khẩu ( 349 – 14/9/407)-Cha Vương

Mến chúc Bạn và gia đình một ngày an lành. Nào cùng hít thở sâu 10 lần để lấy sinh lực của Chúa Thánh Thần mà vui tươi hăng say phục vụ nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 13/09/2024

Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Gioan Kim Khẩu. Thánh nhân sinh tại nước Thổ nhĩ Kỳ vào năm 349 tại Antiokia. Người ta gọi Ngài là Gioan thành Antiokia, được mệnh danh là Kim Khẩu: Chrysostome. Miệng tuôn toàn những lời quí như vàng. Thánh nhân có tài hùng biện và trí khôn ngoan minh mẫn hiếm có. Gioan thành Antiokia ngay từ khi còn nhỏ đã được mẹ Ngài giáo dục với một lòng nhân ái bao la, truyền đạt cho Ngài một đức tin sắt đá và lòng hy sinh hào hiệp. Năm 373, thánh nhân được tuyển vào chức đọc sách, nhưng tài lợi khẩu, hoạt bát của Ngài đã làm say mê bao người, từ đó danh tiếng Ngài vang dội khắp nơi. Vì danh tiếng lẫy lừng nổi bật do lòng đạo đức thánh thiện và tài hùng biện có sức thuyết phục nhiều người trở về với Chúa, người ta nhất loạt tôn thánh nhân lên chức giám mục, nhưng Ngài khiêm tốn khước từ và chỉ thích ẩn mình, ăn chay, cầu nguyện. Ý Chúa lạ lùng không ai hiểu thấu, sau bốn năm sống khắc khổ, Ngài lâm bệnh dạ dầy nặng, buộc Ngài phải trở về Antiokia. Năm 386, thánh nhân lãnh nhận sứ vụ linh mục và trong cương vị linh mục, suốt 12 năm, thánh nhân đã làm say mê dân thành Antiokia nhờ lòng sốt sắng, tài ăn nói thuyết phục, miệng tuôn những lời quí như vàng và đưa rất nhiều người quay về với Chúa do lời giảng dậy của Ngài.

Thánh nhân đả phá những cổ tục mê tín, cuộc sống hào phóng, xa hoa, trụy lạc của những người giầu và kêu gọi mọi người lưu tâm đến những người nghèo. Chính thánh nhân nêu gương sáng sống nghèo và giúp đỡ người nghèo. Năm 397, Ngài được bầu làm giám mục thành Constantinople, thánh nhân lưu tâm nghiên cứu về thánh Phaolô tông đồ, cải tổ hàng giáo sĩ, thiết lập một số qui chế để thánh hóa bản thân, hủy bỏ tận căn mọi tập tục xa xỉ gây tốn phí tiền bạc, của cải, vật chất. Ngài chống đối kịch liệt các bè rối Ariô, Novatio vv.

(Nguồn: Hạnh Các Thánh)

Thánh nhân qua đời vào ngày 14/9/407, Chúa thưởng công Ngài bằng vô số phép lạ sau khi Ngài chết. Ðức Thánh cha Piô X đã nâng Ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh và đặt Ngài làm bổn mạng của những nhà giảng thuyết.

Mời Bạn suy niệm những câu nói vàng ngọc của Ngài sau đây nhé:

(1) Nếu bạn không tìm thấy Chúa Kitô nơi người ăn mày này, thì bạn sẽ không tìm thấy Ngài nơi chén thánh.

(2) Tội lỗi là một vết thương. Ăn năn là thuốc chữa.

(3) Cầu nguyện cho chính mình là bản năng tự nhiên; cầu nguyện cho người khác là bản năng của ân sủng.

(4) Yêu tiền bạc là một điều kinh khủng! Nó làm cho con mắt và lỗ tai không còn nghe thấy gì, khi đó con người tệ như con thú hoang dã.

(5) Tình yêu của người chồng và người vợ là sức mạnh gắn bó toàn xã hội.

(6) Dù lời của bạn có đúng cách nào, nó sẽ mất tất cả hiệu lực nếu bạn nói khi bạn giận.

Câu nào đánh động bạn nhất? (Câu 3 & 6 đánh động mình nhất)

Lạy thánh Gioan Kim Khẩu, xin ban cho chúng con biết dùng miệng lưỡi để ca tụng và cảm tạ tri ân Thiên Chúa.

From: Do Dzung

***********************

Gia Ân | Con Luôn Cần Chúa