Thánh Claude de la Combière

15 Tháng Hai

    Thánh Claude de la Combière
(1641- 1682)

    Thánh Claude sinh năm 1641 gần Lyons, nước Pháp, trong một gia đình đạo đức, giầu có. Ngài theo học trường của các cha dòng Tên về âm thanh và nghệ thuật.

    Sau đó Claude vào trường đệ tử dòng Tên ở Avignon, là nơi ngài học xong triết học và bắt đầu dạy về nhân văn. Trong thời gian ngài dạy học ở Avignon là khi đạo quân của Louis XIV chiếm đóng, dù đó là nơi đức giáo hoàng cư ngụ. Khi hòa bình trở lại, thành phố Avignon cử mừng lễ Thánh Phanxicô Sales; mặc dù chưa được thụ phong linh mục, Claude là một trong những người được yêu cầu giảng thuyết. Ðể hoàn tất chương trình thần học ngài được gửi sang Balê là trung tâm văn hóa của nước Pháp, ở đó ngài được chọn làm thầy giáo tư cho các con của một bộ trưởng Pháp, là ông Colbert. Nhưng trong một bài viết, ông Colbert có những lời châm biếm tôn giáo mà Cha Claude không tán thành với ông bộ trưởng, do đó ngài bị gửi trả về Avignon và được bổ nhiệm việc thuyết giảng ở một nhà thờ thuộc trường đại học.

    Trong các bài giảng, ngài thường tố cáo những sai lầm của lạc thuyết Jansen (1) mà ngài thấy đầy dẫy ở Balê. Cha Claude bài trừ tà thuyết bằng cách giảng dạy về việc sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Trong một cuộc tĩnh tâm ngài thề tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu.

    Hai tháng sau khi thề hứa, ngài được bổ nhiệm làm bề trên cho một trụ sở nhỏ của dòng Tên ở Paray. Chính ở đây mà ngài gặp Sơ Margaret Mary Alacoque (2), và là cha giải tội cho sơ và nhấn mạnh đến việc sùng kính Thánh Tâm Chúa.

    Sau đó Cha Claude được sai đến nước Anh với công việc giải tội cho Nữ Công Tước của York. Ngài rao giảng không những bằng lời nói mà còn bằng hành động, và đã đưa nhiều người Tin Lành trở lại đạo. Trong thời gian ở đây, những chống đối người Công Giáo ngày càng gia tăng. Có tiếng đồn cho rằng người Công Giáo âm mưu giết vua để tái lập đạo Công Giáo tại Anh. Cha Claude bị bắt và bị cầm tù về tội tham dự vào âm mưu này trước khi thành công trong việc hoán cải nhà vua. Chính nhờ vua Louis XIV can thiệp mà Cha Claude không bị xử tử.

    Cha Claude bị trục xuất, nhưng thời gian tù đầy đã ảnh hưởng tệ hại đến sức khỏe của ngài. Theo lời khuyên của Sơ Margaret Mary, ngài trở về Paray và từ trần tại đây năm 1682. Một ngày sau khi ngài chết, Sơ Margaret Mary được thị kiến siêu nhiên, đảm bảo rằng Cha Claude La Colombiere không cần được cầu nguyện, vì ngài đã ở trên thiên đàng.

    Cha Claude được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh ngày 31 tháng Năm 1992.

    (1) Cornelius Jansen – Giám Mục của Yprés – chủ trương rằng bản tính loài người quá hư hỏng vì tội nguyên tổ nên không có khả năng chống lại sự cám dỗ, không xứng đáng được rước lễ thường xuyên và Jansen chống lại sự thờ kính nhân tính của Chúa Giêsu được thể hiện qua việc sùng kính Thánh Tâm.

    (2) Thánh Margaret Mary Alacoque là người đã được Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần và sứ điệp đặc biệt là sùng kính Thánh Tâm Chúa. Thánh nữ được Chúa Giêsu gọi là “Người môn đệ yêu dấu của Thánh Tâm Ta.”

================
    Thánh Joan ở Valois
(1464 – 1505)

    Thánh Joan là cô con gái thứ hai của Vua Louis XI nước Pháp. Khi mới sinh được hai tháng thì ngài đã được hứa gả cho Công Tước Louis ở Orleans, và hôn nhân của họ xảy ra vào năm 1476 khi ngài mới 12 tuổi. Dĩ nhiên đó là một hôn nhân không có giá trị, và Công Tước Louis lấy ngài cũng chỉ vì lo sợ cho tương lai không biết sẽ ra sao nếu không tuân lệnh của nhà vua.

    Joan là một thiếu nữ tật nguyền, ngài bị gù lưng, đi khập khiễng và bị rỗ. Mặc dù ngài phải đau khổ vì tàn tật, nhưng ngài đã kiên nhẫn chấp nhận sự bất lực ấy và dành nhiều thời giờ để cầu nguyện và suy niệm.

    Khi chồng của ngài lên ngôi vua, Louis XII, hành động đầu tiên của ông là xin đức giáo hoàng tuyên bố hôn nhân ấy vô hiệu và chưa thành. Do đó, Joan không được làm hoàng hậu của nước Pháp; ngài được ban cho tước hiệu Nữ Công Tước của Berry. Ðối với Joan đó là sự khuây khỏa khôn cùng và ngài đã đến Bouges. Ở đây ngài sống cuộc đời ẩn dật để cầu nguyện, và vào năm 1501, theo lời khuyên của vị linh hướng là Cha Gilbert Nicolas dòng Phanxicô, ngài sáng lập dòng nữ tu chiêm niệm – Nữ Tu Dòng Truyền Tin mà quy luật chính yếu là bắt chước các nhân đức của Ðức Maria như được kể trong Phúc Âm.

    Thánh Joan từ trần ngày 4 tháng Hai năm 1505 khi 41 tuổi. Ngài được phong thánh vào năm 1950.

    Trích từ NguoiTinHuu.com

Anh chị Thụ & Mai gởi

Những vị thánh thân xác vẫn nguyên vẹn nhiều năm sau khi qua đời.

 

Những vị thánh thân xác vẫn nguyên vẹn nhiều năm sau khi qua đời.

Một số vị thánh được Chúa gọi về cách đây đã nhiều thập niên, thậm chí nhiều thế kỷ nhưng thi hài của họ vẫn không suy suyển.

Phải chăng đây là hiện tượng siêu nhiên hay một tiến trình sinh học chưa giải thích được? Thân xác nhiều vị thánh nam nữ đã được gìn giữ khỏi quy trình mục nát tự nhiên sau khi qua đời. Thông thường các trường hợp như thế được phát hiện khi Giáo hội tiến hành các thủ tục tuyên chân phước hay hiển thánh. Một số vị đã được chôn cất lại, trong khi thi hài các vị khác được trưng bày trong các hòm thánh tích để tín hữu tôn kính. Ngày nay, khoảng 100 trường hợp như thế đã được xác định trên thế giới.

Giáo hội cẩn trọng xem xét các trường hợp nêu trên, và cũng không tuyên bố đây là điều khoản buộc phải tin. Trong không ít trường hợp, một số vị được cho là thi hài nguyên vẹn sau khi qua đời trên thực tế là do đã được ướp xác.

Sau đây là một số trường hợp những vị thánh hoặc chân phước nổi tiếng vì thi hài không bị hủy hoại 

1. Thánh Catherine Labouré (1806-1876), nữ tu dòng Nữ tử Bác ái Vinh Sơn, được tuyên thánh năm 1947. Khi được ĐTC Piô XI tuyên chân phước năm 1933, thân xác nữ thánh lúc ấy được khai quật và trong tình trạng nguyên vẹn. Thánh nhân được tắm rửa và đặt trong hòm thánh tích bằng đồng mạ vàng, trong nhà nguyện Ảnh Vảy, phố du Bac, thủ đô Paris (Pháp).

2. Việc tuyên chân phước cho nữ thánh Bernadette (1844-1879) đòi hỏi phải khai quật xác thánh làm ba lần, năm 1909, 1919 và 1925. Thân thể ngài được bảo toàn cách kỳ diệu. Tuy nhiên, việc này vẫn còn được tranh luận, bởi vì một bác sĩ đã khẳng định rằng xác của nữ thánh đã được ướp trước đó. Hơn nữa, khuôn mặt và đôi bàn tay đã phần nào bị thoái hóa; một lớp bằng sáp đã được bao phủ lên hai phần thân thể ấy để bảo quản. Ngày nay, thi hài của thánh nhân được đặt vào hòm thánh tích bằng kính, trong nguyện đường tu viện cổ Saint Gildard, tại thành phố Nevers (Pháp).

3.    Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII (1881-1963) được tuyên hiển thánh ngày 27.4.2014, cùng lúc với Đức Gioan Phaolô II. Xác ngài được khai quật năm 2001 và không thay đổi gì sau gần 4 thập niên. Ngài được đặt trong một quan tài bằng pha lê, dưới bàn thờ nhà nguyện Saint-Jérôme, thuộc Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, với một mặt nạ bằng sáp, che mặt ngài.

4.   Thánh Padre Pio (1887-1968) được ĐTC Gioan Phaolô II tuyên thánh ngày 16.6.2002. Khi được đào lên, xác ngài xông hương thơm ngào ngạt. Máu ngài chảy khi người ta rạch một đường nhỏ trên thân thể ngài. Chỉ dung mạo ngài được phủ một mặt nạ bằng silicon.

5.  Chân phước Anne-Marie Taigi (1769-1837), người Ý. Thân xác vị chân phước không bị hủy hoại, hiện được đặt tại Rome, trong thánh đường Saint-Chrysogone.

6.   Thánh nữ Madeleine-Sophie Barat (1779-1865) là một nữ tu người Pháp, sáng lập Dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Xác ngài được bảo toàn trong một quan tài được mở ra nhiều lần năm 1908, trong quá trình điều tra để tuyên chân phước. Thân xác vị thánh vẫn còn nguyên vẹn. Lúc ấy, người ta đã làm một mặt nạ cho ngài. Năm 1909, thánh Madeleine-Sophie Barat đã được đặt yên nghỉ vào hòm thánh tích bằng đồng mạ vàng. Thánh nữ được ĐTC Piô XI tuyên thánh ngày 24.5.1925.

7.   Thánh Gioan-Maria Vianney (1786-1859), cha sở Thánh, họ Ars, đồng thời là thánh bảo trợ mọi linh mục. Xác ngài được khai quật lần đầu ngày 12.10.1885 và lần hai, năm 1904. Di hài của thánh nhân vĩ đại này đã khô nhưng còn nguyên, lúc ấy lại được ướp và bảo tồn trong hòm thánh tích, tại cung thánh lớn, được xây để tưởng nhớ đến ngài.

8.   Thánh Têrêsa Avila (1515-1582) là một nữ tu người Tây Ban Nha, người canh tân Dòng Kín thế kỷ 16. Xác ngài không bị hủy hoại, và được chia ra một số phần. Hiện các thánh tích của ngài hiện diện khắp nơi : tại Rome, Lisbon, Paris, và nhiều địa điểm tại Tây Ban Nha. Phần di hài còn lại được đặt trên bàn thờ chính của nhà thờ Truyền tin cho Đức Mẹ (Alba de Tormes), trong một mộ phần bằng hoa cương.

Thánh Antôn đã chiến đấu với ma quỷ như thế nào?

Thánh Antôn đã chiến đấu với ma quỷ như thế nào?

 

Thánh Antôn Viện Phụ (cũng gọi là Antôn Ai Cập, Antôn Cả hay Antôn tu rừng) đã được Tin Mừng gợi hứng để bán đi tất cả tài sản và sống một cuộc đời cô tịch trong sa mạc Ai Cập. Ngài thiết lập một cư sở cho mình biệt lập khỏi thế giới, nhưng lại không thể thoát hoàn toàn khỏi các kẻ thù ngoan cố nhất.

Bởi vì Thánh Antôn là một người rất thánh thiện và gần gũi với Thiên Chúa, ma quỷ không ngừng tung mọi chiêu nó có ra để chống lại Thánh nhân. Nó không thể dụ dỗ ngài bằng của cải trần thế, thì nó tấn công ngài về tinh thần lẫn thể xác. Thánh Athanasiô đã ghi nhận lại một vài cuộc đối đầu như thế.

Sau khi cám dỗ ngài đam mê tiền của thất bại, ma quỷ xui khiến một người đàn ông trẻ đến phá rối Thánh Antôn suốt ngày suốt đêm. Tuy thế, sau mỗi cuộc cám dỗ, Thánh nhân đều thanh tẩy bản thân bằng đức tin, cầu nguyện và chay tịnh.

Thất bại làm cho Thánh nhân mất thanh tịnh, ma quỷ giả dạng làm một cậu trai trẻ và đến hàn huyên cùng ngài. Thánh Antôn nói với nó: “Mày thật là hèn hạ, vì tâm địa mày u tối, còn mày thì yếu đuối như một đứa con nít. Tao sẽ không có vấn đề gì với mày đâu, vì Chúa là Đấng phù trợ tao, và tao sẽ chẳng thèm để ý đến kẻ thù tao làm chi.”

Ma quỷ để ngài yên một thời gian, nhưng không lâu sau nó lại quay lại cám dỗ quyết liệt, với nhiều quỷ hơn. Quỷ dữ thậm chí còn hiện ra và đánh đập thân xác Thánh Antôn, để khiến ngài sợ mà quay lại với thế giới bên ngoài. Kiên định trong đức tin, Thánh Antôn quát mắng ma quỷ: “Tao là Antôn, tao ở đây; tao không chạy trốn mày đâu, cho dù mày có tấn công tạo nhiều hơn, thì cũng chẳng gì có thể chia tách tao khỏi tình yêu của Đức Kitô… Cho dẫu có cả quân đoàn được lập ra để chống tao, tao cũng không sợ.”

Sau mỗi lần ngài bị ma quỷ đánh đập, Thánh Antôn lại được củng cố trong đức tin và được Thiên Chúa đến an ủi. Về sau, ngài dạy các môn đệ của ngài cách đánh bại ma quỷ: “Hãy bảo vệ chính mình bằng dấu Thánh giá, và cứng rắn xao lãng đi, để chúng nó tự chơi với nhau.” Lúc khác, ngài dạy: “Nhưng chúng ta phải sợ hãi những gợi ý của chúng, và tránh đi bằng kinh nguyện, chay tịnh và tin tưởng vào Chúa. Các tấn công của chúng sẽ thất bại ngay.”

Trong bất cứ cơn cám dỗ nào ta đối mặt, Thánh Antôn luôn dạy rằng:đức tin, cầu nguyện, chay tịnh, và dấu Thánh giá là đủ để đánh bại lưới dò của quỷ dữ. Ma quỷ rất mạnh mẽ, nhưng các Thánh luôn luôn và luôn luôn chứng minh rằng nó không hề và không thể nào đối địch nổi với những ai đặt trọn tin tưởng nơi Thiên Chúa toàn năng.

Theo Aleteia
Gioakim Nguyễn lược dịch

From: hnkimnga & Anh chị Thụ Mai gởi

THÁNH GIOAN DON BOSCO (Ý, 1815-1888)

 THÁNH GIOAN DON BOSCO (Ý, 1815-1888)

 Cuộc đời thánh Gioan Don Bosco, như chính ngài viết trong nhật ký theo lệnh ÐGH Pio IX, ghi lại dòng Salésiens, gồm 3 phần: sống nghèo với cảnh mẹ góa con côi.  Ơn gọi làm linh mục, mở trường giáo dục con em, và lập Dòng Salésiens.  Cha Thánh suốt đời sống và phục vụ người trẻ.  Trước khi qua đời 31.01.1888, cha nói: Hãy nói với các bạn trẻ, ta chờ chúng ở trên Thiên Ðàng.  Thánh nhân được phong Chân Phước 02.06.1926, và Hiển Thánh 1.4.1934, do ÐGH Pio XI.  Lễ kính 31.1 hàng năm.  Khi phong thánh, Ðức Giáo Hoàng tôn vinh Don Bosco là cha và thầy của thanh thiếu niên. Năm 2015, kỷ niệm 200 sinh nhật Thánh Don Bosco, Ðức Giáo Hoàng Phanxico nói: Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thánh nhân, xin hoán cải giới trẻ trong tinh thần tươi trẻ huynh đệ như xưa, ngài đã đào luyện.

  1. Nghèo cảnh Mẹ Góa con côi

 Thánh Gioan Don Bosco sinh 15.08.1815, lễ Ðức Mẹ Lên Trời, tại làng Becchi, Marialdo, thị trấn Castelnuovo d’Asti, bắc Ý, xa Torino 17 cây số.  Ngày 17, Gioan được rửa tội do cha Giuse Festa.  Trong sổ rửa tội ghi tên em nhỏ: Bosco Joannes Melchior.  Melchior là tên ông nội.  Chữ Don thêm vào để “tôn kính” hay “cha.”

 Mẹ Gioan là Magarita Occhiena di Capriglio (+1865).  Ông bà thành hôn năm ông 28 tuổi bà 24 tuổi.  Cha của Gioan là Phanxico Aloysii, dân quê.  Ông qua đời 12.5.1817, 34 tuổi.  Năm đó, Bosco mới 22 tháng, mẹ kéo Gioan vào buồng khóc, nói: Bố không còn nữa.  Gia đình có ba anh em: Antôn con mẹ trước, Têrêxa mất khi mới hai ngày.  Giuse và Gioan.  Trong nhà còn bà nội, 70  tuổi.

Gia đình sống trong thời đói kém.  Dân làng ăn cháo bột bắp hay mì.  Người chết đói la liệt ngoài đường, miệng còn ngậm cỏ.  Có tiền cũng không mua được thức ăn.  Có lần bà mẹ nhờ người hàng xóm đi mua thức ăn.  Họ mang tiền về.  Cả nhà bàng hoàng lo sợ.  Giữa lúc túng bấn ngặt nghèo, bà qua nhà bên cạnh vay mượn chút ít.  Nhưng không ai có.  Bà nói với các con: Khi bố chết, có dặn: phải có lòng tin.  Nghe lời bố cả nhà qùi xuống cầu kinh.  Rồi bà xuống bắt con bê, nấu một phần cho con ăn, qua cơn đói.

Ngay trong những ngày đói kém, có người ngỏ ý muốn kết hôn.  Bà từ chối: Thiên Chúa cho tôi một người chồng.  Nay Chúa cất đi.  Anh trao lại cho tôi ba đứa con.  Tôi sẽ là người mẹ độc ác, nếu bỏ rơi chúng đang khi chúng cần tôi.  Người ta nói với bà tìm cho mỗi đứa một người giám hộ tốt.  Bà trả lời: giám hộ chỉ là bạn.  Tôi là mẹ, không bao giờ bỏ con.  Dù cho tôi vàng bạc.  

 Chính bà để tâm dạy các con đọc kinh chung, lần chuỗi và cầu nguyện.  Năm Don Bosco lên sáu, xưng tội lần đầu mẹ dẫn con đến nhà thờ, tham dự Lễ, bà xưng tội trước, sau đến con.  Ðức Pio XII nói về gia đình bà: hãy xem người phụ nữ góa, cùng ba đứa con cầu nguyện.  Chúng như thiên thần nhỏ.  Người mẹ mở tủ, lấy quần áo cho con mặc.  Ðem con đi nhà thờ làng bên cạnh.  Sau cơm tối, con cái vây quanh, bà nhắc các con 10 giới răn.  Kể cho con cuộc tử nạn Chúa Giêsu.  Sau này, Bosco kể lại, nhờ mẹ, mà mình có lòng tôn kính Phép Thánh Thể.

Mẹ không có nghề trong tay, nên Bosco làm nhiều việc, phụ giúp nuôi gia đình như: chăn bò, bửa củi, bồi bàn càfê, may quần áo…  Năm 11 tuổi, Gioan mới cắp sách, đi bộ 4 cây số, mới đến trường, do các linh mục điều hành, kỷ luật.

 Nghèo, lại lận đận học hành, Bosco mất học nhiều năm.  Từ nhỏ nuôi mộng thành linh mục.  Nhưng sợ mẹ vất vả tốn kém.  Bà đã nói với con: đừng băn khoăn.  Mẹ nghèo, sống và chết nghèo.  Năm 16 tuổi, Bosco nhập tu.  Giờ rảnh Bosco xin tập họp trẻ mồ côi, vui chơi và dạy giáo lý.  Sau khi làm linh mục, cha bắt tay gầy dựng theo ước mơ.  Lần đầu 1 trẻ đến.  Ba hôm sau có 9 em.  3 tháng có 25 em.  Chẳng bao lâu, toàn trẻ mồ côi đến.  Sáng lễ, xưng tội.  Chiều giáo lý, hát vui chơi.  Cha lập các “nguyện xá” qui tụ thanh thiếu niên, vui chơi.  Cha có thiên tài viết nhạc thuyết phục trẻ và chủ trương: Nhà Salésiens thiếu âm nhạc, chỉ là xác không hồn.  Bosco yêu giới trẻ.

 Có mẹ Margarita, thánh Gioan Don Bosco trở thành nhà giáo dục thanh thiếu niên tài giỏi.  Anh của Bosco nóng tính hay hành hạ em.  Bà buồn.  Cha sở thấy Gioan thông minh chọn vào nhà xứ học latinh, chuẩn bị đi tu.  Anh ghét, bắt Gioan làm việc tối ngày lại đánh đập, có khi Gioan ngất xỉu.  Nhìn xa, biết con sẽ đau khổ, bà gửi con tới nhà cậu em, xa 20 cây số.  Ở nhà cậu, em làm bánh mì, nặng nhọc thức khuya dậy sớm.  Dưới ánh lửa tối, Gioan lấy sách ra học.  Ðôi khi bà gửi con đến nhà những người quen.    

Ðến hôm người anh lập gia đình, ở riêng.  Bà mẹ đem con về nhà và gửi vào cha xứ tiếp tục tu luyện.  Ngày con nhập tu viện Torino, nghèo bà phải bán áo cưới may cho con áo chùng thâm.  Ngày con thụ phong linh mục, bà qùy nhận phép lành, bà nói: mẹ sung sướng thấy con thành linh mục.  Con thành tâm phụng sự Chúa và các linh hồn.

Có lần thấy mẹ lạnh, ăn mặc lôi thôi, cha mua cho mẹ áo mới.  Lâu không thấy mẹ mặc, cha hỏi.  Mẹ trả lời đã bán phụ tiền nuôi trẻ.  Sau nhiều năm phụ con, cạn tiền, lại già, kiệt sức, vì lũ trẻ tinh nghịch, phá phách bà xin nghỉ.  Cha nói với mẹ: vắng mẹ, còn ai giúp con.  Bà mẹ mắt mờ, lưng còng, hai mẹ con nhìn nhau, nước mắt lưng tròng, nói: Gioan con, mẹ hiểu và ở lại với con…. cho đến chết.  Tụi nó là con mẹ.  Sau 20 năm phụ con, bà qua đời ai cũng mộ mến và gọi là má Magarita.  Hiện có tượng má lớn ngay cổng vào làng cũ xưa.  Tay mang giỏ hoa.  Bà qua đời năm 1865, sau 20 năm phụ con giáo dục, giúp trẻ em.  Ai cũng mộ mến gọi bà: Má Margarita. 

  1. Linh Mục trẻ ở Torino

 Mẹ thánh nhân nói với con lúc 14 tuổi khi vào chủng viện Chierin ở Turino: Mẹ tràn đầy niềm vui, khi thấy con mặc áo chùng thâm, nhưng con nên nhớ “chiếc áo không làm nên thầy tu.”  Nếu ngày nào con nghi ngờ ơn gọi, thì mẹ van xin con, hãy chọn con đường khác.  Mẹ thích đứa con nông dân nghèo hơn linh mục sao lãng bổn phận.  Lúc con chào đời, mẹ đã dâng con cho Đức Mẹ.  Khi con đi học, mẹ đã dặn con tôn kính Người trong khó khăn.  Giờ đây con hãy chọn Đức Mẹ là nữ vương của con.

 Năm 1848, Don Bosco thụ phong linh mục, lúc đầu làm tuyên úy nhà tù, sau có mẹ phụ giúp, phục vụ giới trẻ trong xóm lao động.  Và 1844, làm tuyên úy lưu xá sinh viên.  Từ 1856, hai mẹ con trực tiếp nuôi khoảng 150 đến 200 trẻ em.

 Từ nhỏ Gioan cảm thấy ao ước làm linh mục.  Cậu kể lại giấc mơ, năm lên 10.  Một đêm trong giấc mơ, Gioan Don Bosco thấy mình đứng giữa bọn trẻ đang đánh nhau và chửi tục.  Cậu khuyên can, chúng không nghe.  Bỗng, người áo trắng đến mỉm cười, nói:

–   Bằng tình yêu, em sẽ biến chúng thành ngoan ngoãn đạo hạnh.

–   Nhưng thưa ông, cháu nghèo và dốt.

–   Vâng lời, chịu khó học, em sẽ làm được.

–   Thưa, ông là ai? 

–   Ta là con Trinh Nữ mà mẹ em đã dạy phải cầu nguyện, em hãy xin Mẹ Ta giúp.

 Rồi kìa, Ðức Mẹ xuất hiện, mặt dịu hiền, nói với Don Bosco:

–   Con nhìn xem…

Theo tay Mẹ chỉ, Bosco nhìn thấy đoàn chó dữ.  Ðức Mẹ tiếp:

– Như Mẹ xử với đoàn chó dữ thế nào, con hãy xử với các trẻ như vậy.

 Từ giấc chiêm bao đó, Don Bosco hiểu được sứ vụ giáo dục phục vụ thanh thiếu niên.   

Ngày kia, mẹ dẫn Bosco đi coi xiệc.  Về nhà, Bosco nảy ra, bắt chước trong xiệc “tự tập leo giây.”  Mỗi lần té, Bosco lại đọc Kinh Kính Mừng.  Sau nhiều lần, Bosco thành công.  Tập hết màn này, sang màn khác.  Cuối cùng, Don Bosco trình diễn một buổi xiệc.  Thành công.

 Nguyện xá ở Valdosco

 Năm 1848, chuyện xảy ra khiến cha nghĩ phải lập nhà riêng cho giới trẻ nghèo.  Là hôm  đó, cha vào phòng áo chuẩn bị lễ, thì nhìn thấy người coi phòng áo đánh đập cậu bé.  Cha đuổi ông.  Tên cậu Garetti Bartholomew, 16 tuổi, làm gạch.  Ba hôm sau cậu rủ thêm 8 người khác, đến gặp cha.  Rồi được Thiên Chúa và Ðức Mẹ thúc đẩy, Cha nghĩ ra nơi tập trung cho thanh thiếu niên đến ngày một đông.  Cha đặt tên cho trung tâm này Nguyện xá.  Các linh mục, dân chúng, trong vùng không tán thành vì cho rằng cha đã lôi kéo bọn trẻ, chúng không đến nhà thờ được.  Trong khi đó, chính quyền làm khó dễ, cho là ồn ào, mất an ninh.  Nên bước đầu cha tập trung thanh thiếu niên ngoài cánh đồng.  Ngủ lều, lưu động, mưa gió, nhất là thực phẩm vô cùng khó khăn.  Có những ngày, cha dẫn đàn em xin ăn.  Bên ngoài nhìn vào, người ta cho cha điên.  Nhưng kiên tâm, kết quả tốt, nhờ giúp đỡ người thiện nguyện.  Chính trong các Nguyện Xá có thánh lễ, ca hát, lớp học chữ và nghề.

 Ngày nay, trung tâm Valdocco còn lại: lớp học, phòng ăn, phòng ngủ, sân chơi, vòi nước… xưa, rộng rãi, một lúc cho cả mấy ngàn em…  Nguyện xá lần lượt xây cất, dựng lên, với bao tiếng hoan hô và hâm mộ.  Các em đến ngày một đông.  Nổi tiếng. 

  1. Lập Dòng Phanxico Salésiens.

 Một mình không thể làm xuể.  Có lần Cha mệt, té, tưởng chết.  Từ đó, năm 1859, cha và các cộng sự viên có ý tưởng lập Dòng Don Bosco, chuyên giáo dục thanh niên.  Có dòng nam và nữ Salésiens. Người ta thường gọi Don Bosco là Vincent de Paul mới.  Theo tinh thần của Thánh Phanxico.  Ðược Tòa Thánh công bố, 22.07.1864, mang tên Hội Ðạo Ðức thánh Phanxico đệ Salê, với sắc lệnh Decretum Laudis.  Ðức Pio IX, phê chuẩn hiến luật, 1873.

 – 1859, đầu tiên có dòng Nam, tên là “Phanxico Salésiens’’ (SDB).  Dòng lo giáo dục, dạy nghề cho thanh thiếu niên.  Dòng còn lo truyền giáo.  Triết lý giáo dục là hiểu biết và yêu thương giới trẻ.  Chân phước linh mục Michel Rua là 1 trong 8 tu sỹ khấn dòng đầu tiên.  Sau làm Bề trên kế nghiệp Cha Bosco.  Họ được chọn trong những em được cha Bosco nuôi.

 Khẩu hiệu Dòng: Xin cho tôi các linh hồn.  Các sự khác cứ lấy đi (x. St. 24, 21-23)

 – 1872, Cha cùng thánh Marie Mazzarello lập Dòng Nữ mang tên “Dòng con Ðức Mẹ Phù Hộ Giáo Hữu” (FMA)

 – 1876, Cha bề trên cả Phillip Rinaldi (sau là chân phước) thành lập ‘‘Chí nguyện Don Bosco (VDB) nhiệt tâm với giới trẻ.  Họ là những người độc thân, có nam, có nữ được thánh hiến.  Dưới sự hướng dẫn của linh mục Salésiens.

 Sau khi Thánh Don Bosco qua đời, những người tình nguyện và cựu học sinh mộ mến Dòng, lập ra ba tổ chức sau, yểm trợ cho Dòng tiếp tục đào tạo thế hệ trẻ.

 –  “Hội Cựu học viên Don Bosco” (FMA) gồm những học sinh đã chịu ơn Salésiens, rải  rác khắp nơi, đóng góp tài sức cho dòng Salésiens. 

 –  “Hội Cộng tác viên Salésiens” gồm giáo dân sống trong gia đình và cả linh mục trong xứ đạo, sống Tin Mừng theo tinh thần Don Bosco, trên thế giới, phục vụ giới trẻ địa phương.

 –  “Hội Truyền giáo giáo dân Salésiens” gồm nam nữ độc thân hay có gia đình, làm việc tự nguyện, ít ngày, bên cạnh SDB, FMA, tại các nước truyền giáo, có người Salésiens.  

   Lạy thánh Gioan Don Bosco, là người cha, thầy, bạn tuyệt vời của bạn trẻ.  Xin cho chúng con biết noi gương Ngài cả đời đem hết tâm huyết nhiệt tình lo cho thanh thiếu niên, giáo dục bằng tình yêu và gương sáng, để giúp các em về và ở lại với Chúa mãi mãi.  Amen.

 Sưu tầm

From Langthangchieutim

THOMAS AQUINAS – TIẾN SĨ KHIÊM NHƯỜNG

THOMAS AQUINAS – TIẾN SĨ KHIÊM NHƯỜNG

 Thánh Thomas Aquinas (Toma Aquino, 1225–1274) là phát ngôn viên xuất sắc của truyền thống Công giáo về tín lý và mạc khải.  Ngài là 1 trong 4 thầy dạy vĩ đại của Giáo hội Công giáo thời Trung cổ (3 vị kia là Alexandre Hales, Albert Cả và Bonaventura), Ngài được tôn vinh là Tiến sĩ Giáo hội và Tiến sĩ Thiên thần.  Thomas thông thái xuất chúng nhưng rất khiêm nhường. 

Thomas Aquinas chào đời vào mùa xuân năm 1225 tại Rocca-secca, gần Aquino, một thị trấn ở miền Nam nước Ý.  Thomas là con trai thứ ba trong một gia đình vị vọng: Ông bà Bá Tước Landolfo và Theodora. 

Lúc 5 tuổi (1230), Thomas được song thân gửi vào Đan viện Biển Đức tại Cassino để thụ huấn.  Song thân của Thomas hy vọng con trai sẽ trở thành Tu viện trưởng của Đan viện này, vì điều đó sẽ làm cho ảnh hưởng của thân phụ lan rộng hơn, và để làm vẻ vang dòng dõi quý tộc.  Nhưng năm 1235, Thomas phải rời Đan viện vì có sự tranh chấp giữa thần quyền và thế quyền, trong đó có sự tham dự của các vị lãnh đạo thành Aquino.  Là con vị lãnh chúa vùng Aquinas thuộc hoàng tộc Hohenstanfen nhưng Thomas không thích thế quyền. 

Năm 1239, Thomas bắt đầu theo học tại phân khoa nghệ thuật Đại học Neapoli, và tốt nghiệp năm 1244, lúc đó Thomas vừa tròn 19 tuổi.  Tại đây, ngài rất say mê triết học của Aristote.  Cũng chính thời gian này Thomas khám phá ra ơn gọi tu trì. 

Năm 1243, Thomas bỏ kế hoạch của gia đình và xin vào Dòng Anh Em Thuyết Giáo (Dòng Đa-minh), mẹ ngài rất thất vọng.  Thế nên mẹ ngài cho người bắt ngài về và biệt giam ngài ở nhà hơn 1 năm.  Thậm chí gia đình còn thuê gái điếm vào quyến rũ Thomas, nhưng ngài đã lấy cây củi đang cháy trong lò sưởi mà đuổi đi.  Ngài vẽ hình Thánh Giá trên tường và qùy xuống cầu nguyện.  Thiên thần hiện ra thắt dây đồng trinh cho ngài.  Vì thế, ngài còn được gọi là Tiến sĩ thiên thần.  Sau 1 tháng, ả gái điếm đành chịu thua.  Người chị thương em nên giúp Thomas trốn khỏi nhà. 

Khi được tự do, ngài đi Paris rồi tới Cologne và hoàn tất việc học với Thánh Albert Cả.  Ngài tốt nghiệp và làm giáo sư tại Paris khi mới ngoài 20 tuổi.  Ngài sống trong dinh của Đức Giáo Hoàng Urban IV, hướng dẫn các trường dòng Đa-minh ở Rome và Viterbo, tranh luận với các tu sĩ khất thực, tranh luận với một số tu sĩ Dòng Phanxicô về thuyết của Aristote, và chống lại giáo thuyết Manich, kể cả phái Averroist.  Trong trường, Thomas rất ít nói.  Ngài thường suy tư đến ngây người nên bị gán cho biệt danh “con bò câm xứ Silixia.”  Giáo sư Albert biết lực học của Thomas nên nói trước lớp: “Hãy học theo Thomas trong cách suy nghĩ.  Đó là một con bò, nhưng tiếng rống của con bò này sẽ vang dội khắp thế giới.”  Quả thật, lời tiên báo đó của Thánh Albert Cả đã ứng nghiệm.

Năm 1248, Thomas theo thầy Albert về Cologne dạy học và tiếp tục nghiên cứu.  Cũng tại đây, Thomas được lãnh tác vụ linh mục và dần dần trở nên nổi tiếng về sự thông thái và thánh thiện.  Giáo quyền muốn dành cho Thomas nhiều chức tước và đặc ân, nhưng Thomas từ chối tất cả, chỉ muốn làm một tu sĩ bình thường, không danh vọng, không chức tước. 

Trong thời gian làm giáo sư, Thomas đã đọc nhiều tác phẩm thuộc đủ các môn và đã sáng tác nhiều tác phẩm triết học và thần học rất có giá trị.  Sinh thời, danh tiếng ngài vang dội, nhiều người đổ xô đến xin ý kiến ngài.  Người ta hỏi:

– Theo giáo sư, nhàn rỗi là gì?
– Là cái búa mà kẻ thù bổ xuống đầu bạn.
– Cái gì tạo ra sức mạnh của giáo sư: Kinh nguyện, việc làm hay ý chí?
– Kinh nguyện.  Ai không cầu nguyện thì như người lính ra trận không có vũ khí.
– Làm thế nào để được cứu độ?
– Phải khiêm nhường. 

Khi ở Ý, Đức Giáo Hoàng Urban IV giao cho ngài nhiều trọng trách – như giảng thuyết cho người Do thái, và muốn trao mũ gậy giám mục cho ngài nhưng ngài từ chối để được dạy học và lo việc cho nhà dòng.  Tương truyền, Thomas đã đàm đạo với Đức Mẹ, các thánh và cả với Chúa Giêsu nữa.  Có lần Chúa Giêsu hỏi: “Sách con viết, Ta rất hài lòng.  Con muốn được thưởng gì?”  Thomas đáp: “Con chỉ muốn được yêu mến Chúa mà thôi.” 

Công đóng góp to lớn của ngài cho Giáo hội Công giáo là những sách ngài viết, đặc biệt là bộ Tổng luận Thần học (Summa Theologiae) được viết từ năm 1266–1273.  Sự hiệp nhất, sự hài hòa và sự liên tục của đức tin và lý lẽ, của kiến thức con người tự nhiên và được mặc khải, tất cả đã thấm sâu vào những gì ngài viết.  Thánh Thomas, với tư cách là người-của-Phúc-Âm, đã trở thành người hăng hái bảo vệ chân lý mặc khải.  Ngài hiểu biết sâu rộng đủ để thấy trật tự thiên nhiên đến từ Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo, và thấy lý lẽ là tặng phẩm từ trời rất được yêu mến.

 Nhưng tác phẩm cuối cùng của ngài bộ Tổng luận Thần học, giải quyết toàn bộ Thần học Công giáo, lại chưa hoàn tất.  Ngài ngừng viết tác phẩm này sau khi cử hành Thánh lễ ngày 6-12-1273.  Khi được hỏi tại sao ngài ngừng viết, ngài khiêm nhường cho biết: “Tôi không thể tiếp tục… Những gì tôi đã viết có vẻ như rơm rác so với những gì tôi nhìn thấy và những gì tôi được mặc khải.”

 Có một thời gian, sách của Thánh Thomas đã bị Giáo hội cấm vì cho là lạc giáo, nhưng sau đó lại công nhận và tuyên bố rằng ai không đọc sách của ngài sẽ bị lầm lạc.  Bất kỳ ai tu học làm linh mục đều phải học Triết học và Thần học của ngài.  Trước đây, các trường học đời cũng học Triết học của ngài, và ngay từ các lớp tiểu học, các học sinh đều đọc kinh cầu nguyện với ngài trước giờ học: “Lạy Thánh Thomas là quan thày các nhà trường…”.

Ngài đã được Đức Giáo Hoàng Grêgôriô mời đến dự Công đồng Lyon II.  Nhưng khi đang trên đường tới dự Công đồng, ngài bị bệnh và qua đời ngày 7-3-1274 tại Đan viện Xitô Fossa Nuova, lúc đó ngài 49 tuổi – tuổi mà người ta cho là “tuổi độc” (49 chưa qua, 53 đã tới).  Ngài được Đức Giáo Hoàng Gioan XXII tôn phong hiển thánh năm 1323, và được Đức Giáo Hoàng Piô V tôn phong Tiến sĩ Hội thánh năm 1567 vì đạo lý uyên bác và vững chắc của ngài.  Đức Giáo Hoàng Leo XIII đã đặt ngài là bổn mạng các nhà thần học và các trường học Công giáo.  Giáo hội cử hành lễ nhớ Thánh Thomas Tiến sĩ ngày 28 tháng 1 hằng năm. 

Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, con cảm tạ Chúa đã ban cho Giáo hội một Thomas thánh thiện và thông thái, nhưng lại rất khiêm nhường; xin giúp con biết noi gương Thánh Thomas.  Lạy Thánh Thomas, bổn mạng đáng kính của con, xin soi sáng và hướng dẫn con ngay từ khi con suy nghĩ, và dạy con biết hành động như ngài, tất cả chỉ vì Danh Chúa chứ không vì thứ gì khác.  Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm-Người và cứu độ nhân loại. Amen.

 Thom. Aq. Trầm Thiên Thu

Ngày 17 tháng 1 THÁNH AN-TÔN Viện phụ

Ngày 17 tháng 1 THÁNH AN-TÔN Viện phụ

Trang Chủ » Hạnh Các Thánh » Ngày 17 tháng 1 THÁNH AN-TÔN Viện phụ

* Gương Thánh Nhân:

Sinh năm 251 tại Cai Rô, miền thượng Ai Cập, thánh An tôn là con một gia đình giàu có, đạo đức, Ngay từ nhỏ, thánh nhân đã được cha mẹ dạy dỗ sống đời đức hạnh. Khi lên 18 tuổi thì cha mẹ ngài qua đời, để lại một gia tài to lớn.

Một hôm, ở thánh đường, thánh nhân nghe đọc lời kinh thánh: ” Nếu con muốn nên trọn lành hãy về bán hết của cải mà phân phát cho người nghèo khó rồi theo Ta”. ( Mt .19,21). Ngài nghĩ là lời đó Chúa muốn nói với mình, nên về bán hết gia tài cha mẹ để lại, phân phát cho người nghèo, chỉ để lại chút ít cho người em gái, rồi vào sa mạc ăn chay, hãm mình, cầu nguyện và làm việc cực nhọc hằng ngày để sinh sống. Thánh A-ta-na-xi-ô đã viết về ngài: ” Anh tự làm lấy mà ăn vì anh đã nghe nói rằng: Ai không làm thì đừng có ăn. Tiền làm ra, anh đem mua bánh ăn một phần; phần còn dư lại, anh phát cho kẻ nghèo.

Anh cầu nguyện liên lỉ, vì anh nghe nói phải cầu nguyện riêng không ngừng. Anh chăm chỉ đọc sách đến nỗi không để rơi lời Kinh Thánh nào, nhưng nhớ hết, đến nỗi sau này anh có thể dùng trí nhớ thay cho sách vở. Mọi người trong làng, mọi kẻ hẳn hoi đến thăm anh. Thấy anh sống như vậy, họ gọi anh là bạn của Chúa. Người thì yêu anh như con cái, kẻ lại thương anh như anh em”

Mặc dầu sống giữa sa mạc hoang vu hiu quạnh, thánh nhân luôn bị ma quỷ cám dỗ. Chúng cám dỗ ngài về những ham mê xác thịt, tiền của, danh vọng, nhất là bỏ đời tu luyện khắc khổ mà trở về thế gian. Nhưng chúng càng cám dỗ dữ dội chừng nào, ngài càng tăng gia ăn chay cầu nguyện nhiều chừng nấy. Và nhờ ơn Chúa ngài luôn luôn chiến thắng . Dầu vậy, thánh nhân cũng phải rời sa mạc hai lần. Lần thứ nhất vào năm 311, do cuộc bắt đạo của A-la-xi-mô-nô. Ngài đi khích lệ các tù nhân và khuyến khích mọi người trung thành làm chứng cho Chúa. Lần thứ hai ngài rời sa mạc trở lại thành A-lê- xăn-tri, để phụ giúp Đức Giám mục A- na-ta-xi-ô chống lại lạc giáo. Ngài rảo khắp thành thị làng mạc, rao giảng kêu gọi mọi người trung thành sống theo giáo huấn của Hội thánh. Đi tới đâu, dân chúng cũng tuôn đến nghe ngài, vì ngài giảng rất hùng hồn thông suốt, khiến nhiều người lầm lạc ăn năn hoán cải. Còn những kẻ đạo đức trí thức thì hết sức ngạc nhiên về tài trí thông minh của ngài. Họ không ngờ ngài sống trong sa mạc, thiếu liên lạc tiếp xúc với các nền văn hoá cũng như không có sách vở học hỏi mà thấu suốt hết mọi vấn đề, nhất là về phương diện thiêng liêng nhân đức. Họ không biết rằng ngài đã học biết Chúa nhiều hơn qua các cảnh vật thiên nhiên do Thiên Chúa tạo dựng. Đối với người có đức tin và lòng sốt mến, thiên nhiên là cuốn sách vĩ đại giúp họ nhìn biết Thiên Chúa và các tài năng, đức tính của Người.

Sau khi giúp Đức Giám mục giải quyết lạc giáo xong, thánh nhân trở lại đời sống ẩn dật, khắc khổ nơi sa mạc. Từ đó, nhân đức thánh thiện của ngài vang dội khắp nơi. Nhiều người đạo đức đến xin làm môn đệ ngài. Thế là nhờ Thánh An tôn mà phong trào ẩn tu đã phát triển mạnh mẽ. Và nhiều người đã nên thánh nhờ lời giáo huấn và gương sáng đời sống của ngài. Lúc đó, ngài đã gần 100 tuổi. Ngài biết sắp từ giã cõi trần, nên hằng ngày lo dọn mình trở về cùng Chúa. Ngài qua đời năm 356, hưởng thọ 105 tuổi.

* Quyết tâm: Noi gương thánh An-tôn, sẵn lòng từ bỏ mọi sự giàu sang, vui sướng ở đời, sống âm thầm thân mật với Chúa trong việc ăn chay cầu nguyện hằng ngày, hầu đủ sức chống trả mọi chước cám dỗ của ma quỷ, xác thịt, thế gian.

* Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh An-tôn viện phụ sống một đời phi thường trong sa mạc để phụng sự Chúa. Xin Chúa nhậm lời người nguyện giúp cầu thay, mà cho chúng con biết quên mình, để một niềm yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.

GPVL

Ngày 17 tháng 01   

THÁNH ANTÔN ẨN TU
          (521-357)

Đời sống thánh Antôn là tấm gương chiến đấu liên lỉ và can đảm với thù tặc Satan, xứng đáng cho mọi người công giáo noi theo.

Antôn chào đời vào năm 251, tại làng Cosma thơ mộng, một làng đẹp nhất miền Ai Cập thượng. Cha mẹ ngài thuộc dòng tộc quý phái; lại giầu lòng đạo đức. Cả hai kiên tâm giáo hoá con cái về học vấn lẫn tu đức. Mà vì nền giáo dục quá nghiêm khắc, cậu Antôn ít được ra khỏi nhà hay chơi đùa với các bạn đồng tuổi. Suốt đời niên thiếu hầu như cậu chỉ biết có dinh thự gia đình và nhà nguyện của làng.

Năm 18 tuổi, sau khi cha mẹ từ trần, Antôn ở với em gái. Hai anh em theo gương cha mẹ, hết lòng yêu thương nhau, và giúp nhau sống đạo đức. Cũng vào kỳ này, Antôn nghĩ nhiều đến việc dâng mình cho Chúa. Một hôm đi dự lễ, Antôn nghe đọc lời Phúc Âm Chúa phán với người giầu có: “Nếu con muốn nên trọn lành, con hãy trở về bán hết gia tài, đem tiền cho kẻ khó rồi đến đây theo Cha, con sẽ được kho tàng trên trời”. Tưởng như Chúa nói với mình, Antôn nhất định áp dụng đến triệt để, và nhất quyết theo Chúa. Thánh nhân về nhà chia vườn đất cho người nghèo trong làng, bán đồ đạc lấy tiền bố thí cho người túng bấn. Ban đầu ngài còn để lại chút ít lấy cái độ thân và nuôi em, nhưng khi suy đến lời Chúa: “Con đừng bận tâm đến ngày mai”. Ngài lại đem bán tất cả những cái còn lại lấy tiền cho kẻ khó. Xong việc, ngài dâng cô em vào một cộng đồng Trinh nữ, và quyết chí bỏ thế gian.

Thời ấy ở Ai Cập chưa có mấy nhà dòng sống kiểu cộng đồng, vì những nhà đầu tiên đã bị phân tán trước ngọn gió bách hại. Đàng khác, đời sống ẩn tu dường như ít ai nghĩ đến. Sau nhiều ngày lang thang, Antôn tình cờ gặp một vị ẩn sĩ tuổi tác, Antôn liền xin dựng lều gần ông để tập sống đời ẩn tu. Đầu tiên vị ẩn sĩ trẻ tuổi này phân phối thời gian để học Thánh kinh, cầu nguyện và làm việc tay chân hầu phát triển cả thể xác lẫn tinh thần. Ngài không quên tìm cách ăn chay hãm mình, và dành thời giờ viếng thăm các đồng bạn chung quanh. Với ơn Chúa và thiện chí, không bao lâu ẩn sĩ trẻ tuổi ấy đã nên gương mẫu cho anh em cùng lý tưởng. Cảm phục nhân đức và đời sống khắc khổ của Antôn, các tu sĩ đã tặng người một tên đệm: “Đêicôla” nghĩa là kẻ thờ phượng Chúa.

Ngài đã chiến đấu, nhưng từ nay ngài càng phải chiến đấu hơn nữa với trăm ngàn cám dỗ của Satan. Chúng chịu làm sao được khi nhìn thấy tâm hồn thánh thiện của đầy tớ Thiên Chúa. Nhất nữa vì thánh nhân là người đã phát động phong trào tu hành phồn thịnh tại Ai Cập; Palestina và Arập. Sức chiến đấu can đảm của thánh nhân trong 25 năm trời, chứng minh đầy đủ câu châm ngôn: “Chúa không bao giờ để chúng ta bị cám dỗ quá sức chúng ta”.

Quả vậy, ma quỷ dùng chiến lược tấn công ngài như xưa chúng đã tấn công Chúa. Chiến lược thứ nhất chúng dùng vinh hoa thế gian và đau khổ đời tu hành. Chiến lược thứ hai là lạc thú tình dục với mọi hình thức khêu gợi. Và chiến lược thứ ba là lòng kiêu ngạo, coi mình như đã vượt mức thánh thiện. Và đây là chiến thuật đối phó của thánh nhân. Sẵn sàng nghênh chiến với Satan bằng tinh thần suy niệm và cầu nguyện liên lỉ, bằng hy sinh và đánh tội. Chính vì thế, ngài cầu nguyện và đọc sách thâu đêm, ăn chay đánh tội hằng ngày. Mỗi ngày ngài chỉ ăn một tấm bánh nhỏ với muối và nước lạnh sau khi mặt trời đã lặn. Chiến đấu với cám dỗ này thánh nhân lại chuẩn bị chống lại mưu độc khác.

Chưa lấy thế làm đủ, thánh Antôn còn muốn sống đời khổ hạnh hơn: ngài bỏ lều, xuống một hầm kín và chật chội. Không muốn một ai viếng thăm, trừ một thầy bạn, thỉnh thoảng tiếp tế đồ ăn cho ngài. Thánh nhân trốn xa người thế nhưng không thoát khỏi quyến rũ, hành hạ của Satan. Quả thế, trong hầm tối tăm này, thánh nhân có khi phải nhức óc vì những tiếng gầm thét, tru tréo của Satan mặc hình thức thú vật hoặc phải chết lử vì những trận đòn hung ác. Nhưng thánh Antôn vẫn kiên tâm, vì tin rằng Chúa hằng ở với ngài. Lần kia, sau trận đòn nhừ tử, thánh nhân tỉnh dậy thưa với Chúa: “ Lạy Chúa, vừa rồi Chúa ở đâu. Tại sao Chúa không giúp con ngay phút đầu?”. Lập tức có tiếng phán: “Cha vẫn ở đây, để chứng kiến con chiến đấu. Cha thấy con chiến đấu dũng cảm lắm, con hãy tin vào Cha, Cha sẵn sàng tiếp ứng con!”

Năm 35 tuổi, thánh nhân muốn rút lui vào hẳn sa mạc, với một số lương thực vừa đủ sáu tháng. Không một chút do dự trước những khối bạc lượng vàng ma quỉ bầy ra để quyến rũ, thánh nhân băng qua sông Nil, trèo lên một ngọn núi cao gần Atphite Ngài ở đó suốt 20 năm, không tiếp đón ai, trừ mấy người bạn hằng năm hai lần đem của ăn tới cho ngài.

Nhưng “hữu xạ tự nhiên hương”, dù thánh Antôn có ý tránh xa thế tục, thì hương thơm nhân đức lại lôi kéo nhiều khách thập phương đến thăm ngài. Ban đầu thánh nhân còn tìm lẽ nọ bầy kế kia để thoái thác, nhưng được ít lâu vì số người đến mỗi ngày một đông, lại nhất định tìm mọi cách để gặp mặt, nên thánh Antôn buộc lòng phải ra đón tiếp họ. Mục đích đoàn khách thập phương là đến thăm viếng và xin ngài dậy đường nhân đức. Và ngài cứ ở đây đón tiếp họ cho đến năm 305 mới nhận rõ ý Chúa là muốn ngài bỏ đời ẩn tu, đi lập các tu viện. Ngài lập nhiều tu viện, thu nhận nhiều môn đệ. Hằng năm ngài lần lượt đi thăm các cộng đồng tu sĩ và huấn dụ về đời sống thiêng liêng. Ngài theo kinh nghiệm bản thân, bầy tỏ cho các tu sĩ những mưu mô xảo quyệt của Satan. Và, theo ngài, khí giới chiến đấu hữu hiệu hơn cả là cầu nguyện, ăn chay, làm dấu thánh giá và thái độ coi khinh chúng.

Thêm vào đời sống tu hành khắc khổ, thánh Antôn còn mong mỏi được phúc tử đạo. Vậy năm 327, khi được tin Hoàng đế Maximinô Daia ra chỉ bách hại công giáo, và tại Alexanđria sắp có cuộc xử tử một số tín hữu kiên trung, thánh nhân liền nhất định xuống khích lệ anh em đồng đạo và mong được cùng chết vì Chúa Kitô. Vì thế, ngài cùng với một số tu sĩ xuôi dòng sông Nil, đáp thuyền vào tận thành phố. Rồi ngài ngang nhiên tiến thẳng vào toà án, khuyến khích tín hữu giữ vững đức tin, không kể gì đến các quan và dân ngoại. Ngài can đảm sống gần các vị tử đạo cho đến phút cuối cùng trên đấu trường. Nhưng ý Chúa không muốn ban cho thánh Antôn triều thiên tử đạo, Chúa muốn ngài thành một tấm gương can đảm chiến đấu và cầu nguyện ăn chay cho đại gia đình tu trì. Tuy nhiên thánh nhân vẫn lưu lại đô thị cho đến khi ngọn lửa bách hại tắt hẳn mới trở gót về cộng đồng tu sĩ.

Và từ đấy cho đến cuối đời, thánh Antôn không được sống an tịnh như ý muốn. Ngài dựng lều trên sườn núi Gôtzin (Gokzin) và suốt ngày tiếp đón mọi thứ người: các tu sĩ, các tín hữu và cả lương dân. Năm 342, ngài đến thăm thánh Phaolô Thêbê và tận tình giúp đỡ trong an táng thánh Phaolô. Bấy giờ tiếng khôn ngoan và nhân đức thánh Antôn vang lừng khắp kinh thành nên đã được thánh tổ phụ Athanasiô mời về thành để cùng chung lực chống lại các tà giáo, nhất là bè rối Ariô. Cũng thời này, thánh Antôn được Chúa cho phép làm phép lạ: Ngài chữa nhiều bệnh nhân, trừ người bị quỷ ám và biết trước số phận nhiều linh hồn bên kia thế giới. Ngoài ra, thánh Antôn còn được ơn nói tiên tri như lời thánh tổ phụ Gioan Christon làm chứng.

Sống được 105 tuổi, thánh Antôn biết mình kiệt sức và giờ về thiên quốc sắp tới, ngài liền hội các tu sĩ lại quanh giường, khuyên bảo lần sau cùng. Ngài cũng dậy các môn đệ đừng ướp xác và làm ma chay theo kiểu người Ai Cập. Sau cùng thánh nhân giơ tay chúc lành cho tất cả các tu sĩ và phó linh hồn trong tình yêu vô biên của Chúa ngày 17-1 năm 356.

Đến năm 561 dưới triều Hoàng đế Justiliô, người ta đem xác ngài về táng trong nhà thờ thánh Gioan Tẩy giả thành Alexanđria. Lòng sùng kính đối với thánh nhân bắt đầu từ các giáo đoàn Trung Đông và Tiểu Á. Phong trào tốt lành ấy mỗi ngày một lan rộng sang các nước Âu châu, và càng phổ cập hơn trong thế giới công giáo khi Giáo hội chính thức tôn phong ngài lên bậc Hiển thánh.

Tinmung

Anh chị Thụ & Mai gởi

Thánh Gioan Neumann

5 Tháng Giêng

    Thánh Gioan Neumann
    (1811 – 1860)

    Thánh Gioan Neumann sinh trưởng ở Bohemia. Vào năm 1835, ngài trông đợi để được thụ phong linh mục nhưng đức giám mục sở tại quyết định không phong chức thêm. Thật khó để ngày nay chúng ta tưởng tượng rằng Bohemia dư thừa linh mục, nhưng thực sự là như vậy. Gioan viết thư cho các giám mục khắp Âu Châu, nhưng câu trả lời ở đâu đâu cũng giống nhau. Tin rằng mình có ơn thiên triệu nhưng mọi cơ hội dẫn đến sứ vụ ấy dường như đều đóng kín.

    Không nản chí, và nhờ biết tiếng Anh khi làm việc trong xưởng thợ của người Anh, ngài viết thư cho các giám mục ở Mỹ Châu. Sau cùng, vị giám mục ở Nữu Ước đồng ý truyền chức linh mục cho ngài. Ðể theo tiếng Chúa gọi, ngài phải từ giã quê nhà vĩnh viễn và vượt đại dương ngàn trùng để đến một vùng đất thật mới mẻ và xa lạ.

    Ở Nữu Ước, Cha Gioan là một trong 36 linh mục trông coi 200,000 người Công Giáo. Giáo xứ của ngài ở phía tây Nữu Ước, kéo dài từ Hồ Ontario đến Pennsylvania. Nhà thờ của ngài không có tháp chuông nhưng điều đó không quan trọng, vì hầu như lúc nào Cha Gioan cũng di chuyển, từ làng này sang làng khác, lúc thì lên núi để thăm bệnh nhân, lúc thì trong quán trọ hoặc gác xếp để giảng dạy, và cử hành Thánh Lễ ngay trên bàn ăn.

    Vì sự nặng nhọc của công việc và vì sự đơn độc của giáo xứ, Cha Gioan khao khát có một cộng đoàn, và đã ngài gia nhập dòng Chúa Cứu Thế, là một tu hội chuyên giúp người nghèo và những người bị bỏ rơi.

    Vào năm 1852, Cha Gioan được bổ nhiệm làm giám mục Philadelphia. Việc đầu tiên khi làm giám mục là ngài tổ chức trường Công Giáo trong giáo phận. Là một nhà tiên phong trong việc giáo dục, ngài nâng số trường Công Giáo từ con số đơn vị lên đến 100 trường.

    Ðức Giám Mục Gioan không bao giờ lãng quên dân chúng — đó là điều làm giới trưởng giả ở Philadelphia khó chịu. Trong một chuyến thăm viếng giáo xứ ở thôn quê, cha xứ thấy ngài ngồi trên chiếc xe bò chở phân hôi hám. Ngất ngưởng ngồi trên mảnh ván bắc ngang trên xe, Ðức Gioan khôi hài, “Có bao giờ cha thấy đoàn tùy tùng của một giám mục như vậy chưa!”

    Khả năng biết tiếng ngoại quốc đã đưa ngài đến Hoa Kỳ thì nay lại giúp Ðức Gioan học tiếng Tây Ban Nha, Pháp, Ý, và Ðức để nghe giải tội bằng sáu thứ tiếng. Khi phong trào di dân người Ái Nhĩ Lan bắt đầu, ngài lại học tiếng Gaelic và sành sõi đến nỗi một bà Ái Nhĩ Lan cũng phải lầm, “Thật tuyệt chừng nào khi chúng ta có được vị giám mục là người đồng hương!”

    Trong chuyến công tác mục vụ sang nước Ðức, đến nơi ngài ướt đẫm dưới cơn mưa tầm tã. Khi gia chủ đề nghị ngài thay đôi giầy sũng nước, ngài trả lời, “Tôi chỉ có cách đổi giầy từ chân trái sang chân phải thôi. Chứ có một đôi giầy thì làm gì được.”

    Ðức Gioan từ trần ngày 5-1-1860 khi mới 48 tuổi. Ngài nổi tiếng về sự thánh thiện và sở học cũng như các trước tác tôn giáo và bài giảng, do đó ngài được phong chân phước ngày 13-10-1963, và ngày 19-6-1977 ngài được phong thánh.

    Lời Bàn

    Thánh Neumann coi trọng lời Chúa là “Hãy đi rao giảng cho muôn dân.” Từ Ðức Kitô, ngài nhận được các huấn lệnh và cũng nhờ Ðức Kitô mà ngài có thể thi hành sứ mệnh ấy. Vì Ðức Kitô không chỉ trao cho chúng ta sứ mệnh mà còn cung cấp phương tiện để hoàn thành. Ơn sủng mà Thiên Chúa ban cho Thánh Gioan Neumann là biệt tài tổ chức của ngài để qua đó ngài loan truyền Tin Mừng.

    Giáo Hội ngày nay rất cần đến sự hy sinh của mọi người trong công cuộc rao giảng Tin Mừng. Những trở ngại và những bất tiện thì có thật và tốn kém. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết chạy đến Ðức Kitô, Ngài sẽ cung cấp cho chúng ta những khả năng cần thiết để đáp ứng với các nhu cầu ngày nay. Thần Khí Ðức Kitô tiếp tục hoạt động qua các trung gian là sự quảng đại của Kitô Hữu.

    Lời Trích

    “Vì mọi người thuộc bất cứ chủng tộc nào, điều kiện nào và thế hệ nào đều có phẩm giá của một con người, nên họ có quyền được giáo dục tùy theo số phận của họ và thích hợp với khả năng bẩm sinh, với phái tính, với văn hóa và di sản của tổ tiên họ để lại. Ðồng thời, việc giáo dục này phải dẫn đến tình huynh đệ với các dân tộc khác, để sự bình an và sự hợp nhất đích thực có thể thực hiện được ở trần gian. Vì sự giáo dục đích thực nhắm đến việc đào tạo con người đối với lợi ích của xã hội mà trong đó họ là một phần tử, và họ phải chia sẻ trách nhiệm của phần tử ấy như một người trưởng thành” (Tuyên Ngôn Về Giáo Dục Kitô Giáo, 1).

       Trích từ NguoiTinHuu.com

Thánh Gioan Tông Ðồ

27 Tháng Mười Hai

Thánh Gioan Tông Ðồ

Chính Thiên Chúa là người mời gọi, và nhân loại đáp lời. Trong Phúc Âm, lời mời gọi ông Gioan và ông Giacôbê (James), người anh của ông, được bắt đầu rất đơn giản, cũng như lời mời gọi ông Phêrô và Anrê: Ðức Giêsu gọi họ; và họ theo Ngài. Sự đáp ứng mau mắn được miêu tả rõ ràng. Các ông Giacôbê và Gioan “đang ở trên thuyền, cùng với người cha là ông Zêbêđê vá lưới. Ðức Kitô gọi họ, và ngay lập tức họ bỏ thuyền và từ giã người cha mà theo Ngài” (Mátthêu 4:21b-22).

 Ðức tin của ba ngư dân — Phêrô, Giacôbê và Gioan — đã được phần thưởng, đó là được làm bạn với Ðức Giêsu. Chỉ ba vị này được đặc ân là chứng kiến sự Biến Hình, sự sống lại của con gái ông Giairút, và sự thống khổ trong vườn Giệtsimani của Ðức Giêsu. Nhưng tình bằng hữu của ông Gioan còn đặc biệt hơn nữa. Truyền thống coi ngài là tác giả cuốn Phúc Âm Thứ Tư, dù rằng hầu hết các học giả Kinh Thánh thời nay không cho rằng vị thánh sử và tông đồ này là một.

Phúc Âm Thánh Gioan đề cập đến ngài như “người môn đệ được Ðức Giêsu yêu quý” (x. Gioan 13:23; 19:26; 20:2), là người được ngồi cạnh Ðức Giêsu trong bữa Tiệc Ly, và là người được Ðức Giêsu ban cho một vinh dự độc đáo khi đứng dưới chân thánh giá, là được chăm sóc mẹ của Ngài. “Thưa bà, đây là con bà… Ðây là mẹ con” (Gioan 19:26b, 27b).

Vì ý tưởng thâm thuý trong Phúc Âm của ngài, Thánh Gioan thường được coi như con đại bàng thần học, cất cánh bay cao trong một vùng mà các thánh sử khác không đề cập đến. Nhưng các cuốn Phúc Âm thật bộc trực ấy cũng tiết lộ một vài nét rất nhân bản. Ðức Giêsu đặt biệt hiệu cho ông Gioan và Giacôbê là “con của sấm sét.” Thật khó để hiểu được ý nghĩa chính xác của biệt hiệu này, nhưng chúng ta có thể tìm thấy chút manh mối trong hai biến cố sau.

Biến cố thứ nhất, như được Thánh Mátthêu kể lại, bà mẹ của hai ông Giacôbê và Gioan xin cho hai con của bà được ngồi chỗ danh dự trong vương quốc của Ðức Giêsu — một người bên trái, một người bên phải. Khi Ðức Giêsu hỏi họ có uống được chén mà Ngài sẽ uống và chịu thanh tẩy trong sự đau khổ mà Ngài sẽ phải chịu không, cả hai ông đều vô tư trả lời, “Thưa có!” Ðức Giêsu nói quả thật họ sẽ được chia sẻ chén của Ngài, nhưng việc ngồi bên tả hay bên hữu thì Ngài không có quyền. Ðó là chỗ của những người đã được Chúa Cha dành cho. Các tông đồ khác đã phẫn nộ trước tham vọng sai lầm của người anh em, và trong một dịp khác Ðức Giêsu đã dạy họ về bản chất thực sự của thẩm quyền: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người” (Mt 20:27-28).

Một dịp khác, những “người con của sấm sét” hỏi Ðức Giêsu rằng họ có thể khiến lửa từ trời xuống thiêu đốt những người Samaritan lạnh nhạt không, vì họ không đón tiếp Ðức Giêsu đang trên đường đến Giêrusalem. Nhưng Ðức Giêsu đã “quay lại và khiển trách họ” (x. Luca 9:51-55).

Vào ngày đầu tiên của biến cố Phục Sinh, bà Mađalêna “chạy đến ông Simon Phêrô và người môn đệ mà Ðức Giêsu yêu dấu, và bà bảo họ, ‘Người ta đã đem Chúa ra khỏi trong mộ; và chúng tôi không biết họ để Người ở đâu?” (Gioan 20:2). Gioan nhớ rằng, chính ngài và Phêrô cùng đi cạnh nhau, nhưng “người môn đệ kia chạy nhanh hơn ông Phêrô nên đến mộ trước nhất” (Gioan 20:4b). Ông không bước vào mộ, nhưng đợi ông Phêrô và để ông này vào trước. “Sau đó người môn đệ kia mới bước vào, và ông đã thấy và đã tin” (Gioan 20:8).

Sau biến cố Sống Lại, ông Gioan đang ở với ông Phêrô thì phép lạ đầu tiên xảy ra — chữa một người bị tật từ bẩm sinh — và việc đó đã khiến hai ông bị cầm tù. Cảm nghiệm kỳ diệu của biến cố Sống Lại có lẽ được diễn tả hay nhất trong sách Công Vụ Tông Ðồ: “Nhận thấy sự dũng cảm của ông Phê-rô và ông Gio-an và biết rằng hai ông là những người bình dân, không có học thức, nên họ rất ngạc nhiên, và họ nhận ra rằng hai ông là những người theo Ðức Giêsu” (CVTÐ 4:13).

Thánh Sử Gioan đã viết cuốn Phúc Âm vĩ đại, cũng như các lá thư và Sách Khải Huyền. Cuốn Phúc Âm của ngài là một công trình độc đáo. Ngài nhìn thấy sự vinh hiển và thần thánh của Ðức Giêsu ngay trong các biến cố ở trần gian. Trong bữa Tiệc Ly, ngài diễn tả Ðức Giêsu với những lời phát biểu như thể Ðức Giêsu đã ở thiên đàng. Ðó là cuốn Phúc Âm về sự vinh hiển của Ðức Giêsu.

 Lời Bàn

Quả thật, đó là một hành trình thật dài để thay đổi từ một người khao khát muốn có uy quyền và muốn sai lửa từ trời xuống thiêu đốt, cho đến một người đã viết những dòng chữ sau: “Phương cách để chúng ta biết được tình yêu là Ngài đã hy sinh mạng sống vì chúng ta; do đó, chúng ta cũng phải hy sinh mạng sống mình vì anh em” (1 Gioan 3:16).

 Lời Trích

Có câu chuyện người ta thường kể, là “các giáo dân” của Thánh Gioan quá chán chường với bài giảng của ngài vì ngài luôn luôn nhấn mạnh rằng: “Hãy yêu thương nhau.” Dù câu chuyện này có thật hay không, đó là nền tảng của văn bút Thánh Gioan. Những gì ngài viết có thể được coi là tóm lược của Phúc Âm: “Chúng ta đã biết và đã tin vào tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thiên Chúa là tình yêu, và ai ở trong tình yêu thì ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong họ” (1 Gioan 4:16).

Trích từ NguoiTinHuu.com

……………………………………………………………………………………………………………………………………….

Ngạc Nhiên

Tại miền Provence thuộc miền Nam nước Pháp, có một máng cỏ khá nổi tiếng. Ða số các nhân vật trong máng cỏ, du khách thường để ý đến một con người nhỏ bé với hai bàn tay mở ra trống trơn, nhưng gương mặt lại để lộ một vẻ ngạc nhiên khó tả. Chính vì thế mà người ta đặt tên cho nhân vật này là “ngạc nhiên”.

Người địa phương thường giải thích về sự ngạc nhiên trên gương mặt của nhân vật này bằng một câu chuyện như sau: Một hôm tất cả các nhân vật trong máng cỏ, kể cả mấy chú bò lừa, đều tỏ ra khó chịu đối với nhân vật có tên là “ngạc nhiên” này, bởi vì anh ta không có gì để mang tặng cho Chúa Hài Nhi, ngoài hai bàn tay trắng của anh. Họ sỉ vả anh như sau: “Mày không biết xấu hổ sao? Mày đến chầu Hài Nhi Giêsu mà không mang theo gì cả?”.

Nhưng con người có tên là “ngạc nhiên” ấy không để lộ một phản ứng nào, đôi mắt của anh vẫn mở to và chăm chú nhìn vào Hài Nhi Giêsu.

Những lời rủa sả cứ tiếp tục trút xuống trên anh, đến độ Ðức Maria phải lên tiếng để biện hộ cho anh như sau: “Quả thực anh “ngạc nhiên” đã đến với Hài Nhi Giêsu với hai bàn tay trắng. Nhưng anh đã mang đến món quà cao đẹp nhất: đó là sự ngạc nhiên của anh! Ðiều này có nghĩa là Tình Yêu bao la của Thiên Chúa đã chiếm trọn tâm tư của anh”.

Và Ðức Mẹ kết luận như sau: “Thế giới này sẽ kỳ diệu biết bao nếu luôn có những con người như anh “ngạc nhiên”, biết ngây ngất vì ngạc nhiên”.

Người ta thường nói: “ngạc nhiên” là khởi đầu của khám phá. Có biết ngạc nhiên, có biết đặt câu hỏi, người ta mới đặt ra giả thuyết rồi mới tìm tòi, khảo sát và khám phá… Sự tiến bộ của loài người bắt nguồn từ chính sự ngạc nhiên.

Trong lĩnh vực siêu nhiên cũng thế, Thiên Chúa đã ban cho con người khả năng biết ngạc nhiên, biết chiêm ngắm để khám phá ra Tình Yêu bao la của Ngài. Cả vũ trụ là một quyển sách luôn được mở ra để mời gọi con người tìm đọc được Lời Ngỏ yêu thương của Chúa. Lịch sử của nhân loại, cuộc đời của mỗi người cũng là một kỳ công, qua đó Thiên Chúa không ngừng bày tỏ Tình Yêu của Ngài.

Ðức Kitô Phục Sinh mang lại cho chúng ta sức sống mới với đôi mắt mới. Với đôi mắt mới ấy, chúng ta không ngừng được mời gọi để đi vào sự ngạc nhiên và ngây ngất trước Tình Yêu của Thiên Chúa. Tình Yêu ấy nhiệm màu đến nỗi chúng phải vượt qua nhãn giới bình thường của chúng ta để nhìn thấy được và cảm nếm được những gì không nằm trong sự đo lường, tính toán của chúng ta. Do đó, người có cái nhìn ngạc nhiên và ngây ngất luôn phó thác cho Tình Yêu của Chúa… Trong lúc thịnh vượng, họ thốt lên lời ca chúc tụng tri ân đã đành, mà đứng trước thất bại, khổ đau, mất mát, họ vẫn có thể nhìn ra dấu ấn Tình Yêu của Chúa.

Trích sách Lẽ Sống

From: Chị Kim Nga & Thụ & Mai

ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI GUADALUPE, MEXICO

ĐỨC MẸ HIỆN RA TẠI GUADALUPE, MEXICO

Juan Diego có tên là Cuauhtlatohuac, một thổ dân Azrec, ông đổi tên là Juan Diego sau khi tòng giáo.  Diego sinh sống tại làng Cuautilan, gần Mexico City.  Lúc đó ông dược 57 tuổi.  Ngày ngày ông thường đi bộ 15 dặm (24 cây số) để dự Thánh Lễ tại Tlalteloco, phía bắc Mexico City.

Sáng ngày 9 tháng 12 năm 1531, một ngày đông lạnh lẽo, Juan Diego trên đường dự lễ, khi ngang qua đồi Tepeyac, ông nghe như có tiếng chim đàn ca hót và có tiếng gọi “Juanito, Juan Dieguito!” từ trên đồi vọng xuống.  Juan Diego leo lên đồi chừng 130 thước, ông thấy một phụ nữ xinh đẹp ở giữa những bụi xương rồng.  Phụ nữ đó nói với Juan Diego:

–          Nghe này Juan, con yêu dấu và nhỏ bé của Mẹ.  Con đi đâu đó?

Juan đáp:

–          Thưa bà, con đi tới làng Tlateloleo để dự lễ.

Người phụ nữ nói:

–           Con yêu dấu, Mẹ là Đức Nữ Trinh, Thánh Mẫu của Thiên Chúa, Thiên Chúa là Đấng ban sự sống cho muôn loài, là Đấng Tạo Hóa, và là Chúa tể trời đất.  Mẹ rất muốn người ta xây một đền thờ tại đây để dâng kính Mẹ, để Mẹ thi ân và thương xót họ.  Mẹ sẽ chữa lành và làm giảm bớt những đau khổ thiếu thốn.  Con hãy đến với Đức Giám Mục và nói với Ngài rằng Mẹ phái con đến cho Ngài biết Mẹ rất muốn Ngài xây dựng cho Mẹ một ngôi đền thờ tại đây…

Juan lập tức đến trụ sở Đức Giám Mục Zumárraga tại Mexico City, để thưa cùng Đức Giám Mục điều Đức Mẹ xin.  Lần này Juan Diego bị từ chối vì ngài không tin.  Ngày hôm sau mùng 10 tháng 12 năm 1531, Juan trở lại tòa Giám Mục, nhưng cũng thất bại.  Ngài còn đòi phải có một phép lạ tỏ tưởng nữa.

Sáng sớm ngày 12 tháng 12 năm 1531, ông Juan Bernadino, chú của Juan Diego, nghĩ rằng mình sắp chết, nên ông nhờ Juan Diego đi Tlatelolco mời Linh Mục cho ông xưng tội và chịu phép xức dầu.  Juan Diego vội vàng ra đi lúc 4 giờ sáng.  Trên đường, Juan đi ngang qua đồi Tepeyac, nhưng không muốn ghé lại vì sợ trễ nếu Đức Mẹ đang chờ ông.  Ông đi theo đường sườn đồi phía bên kia.  Nhưng Juan sửng sốt thấy Đức Mẹ từ trên đồi đi xuống gặp ông trên đường.  Đức Mẹ tươi cười hỏi:

–          Juan, con đi đâu thế?

Juan Diego lúng túng trả lời Đức Mẹ:

–          Con xin lỗi Mẹ, con đi tìm Linh Mục cho chú con xưng tội, và khi xong việc này, con sẽ trở lại đây ngay.  Con không nói dối đâu.

Đức Mẹ nói:

–          Con yêu dấu, con đừng nản lòng, đừng để lòng con nao núng, sắc diện con biến đổi vì bệnh tình của chú con.  Bệnh ông sẽ được lành.  Hãy an tâm được sự che chở của Mẹ.  Bây giờ con hãy lên đồi nơi con đã thấy Mẹ, hãy ngắt thiệt nhiều những bông hoa lạ ấy cho Mẹ.

Ông trở lại nơi Mẹ đã hiện ra và ông thật ngỡ ngàng thấy cả một cánh đồng hoa muôn màu sặc sỡ.  Ông hái đầy những bông hoa đẹp túm vào chiếc áo choàng, rồi đem đến cho Mẹ.  Đức Mẹ sắp lại những bông hồng trong áo choàng của Juan Diego, rồi túm lại và bảo Diego đừng đảo lộn nó lên và chỉ mở gói đó cho chính Đức Giám Mục coi.

Đến tòa Giám Mục, Juan Diego lại phải chờ đợi, vì ngài đang tiếp chuyện với Đức Sebastián Ramirez y Fuenleal, vị toàn quyền mới của Mexico.  Sau cùng Juan Diego cũng được tiếp kiến.  Ông trao xách hoa hồng cho Đức Giám Mục.  Đức Giám Mục rất đỗi ngạc nhiên về những bông hoa hồng có mùi thơm dịu lạ.  Nhìn tấm khăn Tilna, ngài lại ngạc nhiên hơn vì tấm áo lúc này hình ảnh Đức Mẹ hiện ra trên đồi Tepeyac từ từ hiện lên rõ ràng.  Đức Giám Mục ôm chầm lấy Juan và xin lỗi vì trước kia ngài đã không tin lời Juan tường thuật.

Lập tức tin lạ truyền đi khắp nơi.  Đức Giám Mục cho rước Đức Mẹ và đặt trong nhà nguyện riêng để dân chúng tới chiêm ngắm.  Sáng hôm sau Juan Diego trở về nhà thì cậu Juan Bernadino đã lành bệnh, đang ngồi hong nắng.  Ông cũng cho biết Đức Mẹ đã hiện ra chữa bệnh cho ông và cho biết Đức Mẹ muốn người ta nói đến Đức Mẹ trong tương lai như thế nào.  Đức Mẹ muốn người ta gọi Mẹ là “Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội.”  Ảnh Đức Mẹ được in trong tấm áo choàng Tilna của Juan Diego cho thấy: Đức Mẹ mang vóc dáng một phụ nữ thổ dân.  Đức Mẹ mặc áo dài màu nâu phớt hồng.  Áo choàng xanh lá cây có viền vàng và những ngôi sao lóng lánh phủ từ trên đầu xuống tới chân.  Hai tay Đức Mẹ chắp trước ngực, cho thấy cổ tay áo trong gần cổ tay áo dài.  Điểm đặc biệt là Đức Mẹ mang thắt lưng nhỏ màu đen hoặc nâu đậm, một tiêu biểu toàn vẹn trinh khiết của Đức Nữ Trinh và được cởi ra trao cho người chồng trong ngày cưới theo tục lệ Aztec, và Đức Mẹ đang mang thai.  Đức Mẹ đứng trên vành trăng lưỡi liềm, được một thiên thần, sắc diện thổ dân, mặc áo dài tay màu hồng, nâng đỡ.  Phía sau Đức Mẹ là vầng hào quang hình bầu dục, có những tia sáng vàng tỏa ra chung quanh.

Ảnh Đức Mẹ trên áo choàng của Juan Diego ngày nay được bảo quản và trưng bày tại Thánh Đường Đức Mẹ Guadalupe, xây trên đồi Tepeyac theo lời Đức Mẹ.  Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị đã qua Mexicô tấn phong Juan Diego lên hàng hiển thánh ngày 30 tháng 7 năm 2002.

Sưu tầm

From:  Langthangchieutim 

THÁNH NICHOLAS – GIÁM MỤC (Khoảng +350)

Ngày 6/12: Thánh Ni-co-la – Giám mục (khoảng +350)

 Ghi nhận lịch sử – phụng vụ

Tất cả các Giáo Hội phương Đông đều mừng lễ thánh Nicholas, giám mục thành Myre (Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay), vào ngày 6 tháng 12.  Ở Rôma, việc sùng kính ngài đã được chứng thực từ thế kỷ IX, trước khi hài cốt ngài được di dời từ Myre về Paris (miền nam nước Ý), và được đặt trong vương cung thánh đường Thánh Nicholas từ năm1087.  Tại Myre, từ thế kỷ IV, đã có một thánh đường được dựng lên trên mộ của ngài.

Có ít vị thánh được biết đến nhiều trên khắp thế giới như thánh Nicholas.  Ban đầu ngài được tôn kính ở phương Đông, sau đó lòng sùng kính ngài mở rộng sang phương Tây: Ý (Paris), Tây Ban Nha (Montserrat), Normandie, Lorraine (Saint-Nicholas-de Port), Đức, Anh, Nga, các nước Bắc Âu và châu Mỹ.  Ngài là bổn mạng nước Nga và Lorraine.  Ngài cũng được nhận làm bổn mạng của các luật sư, các nhà hàng hải, các tù nhân và trẻ em, đặc biệt trong những nước ở phương Bắc mà mỗi dịp lễ của ngài là một ngày hội cho trẻ em (Ông già Nô-en, Santa Claus, Sinter-Klaes, Saint Nicholas).

Thế nhưng, tuy thánh Nicholas được biết đến nhiều như thế, chúng ta hầu như không biết gì về tiểu sử của ngài, ngoại trừ việc ngài là giám mục thành Myre (nay là Dembrê, trên bờ biển phía nam Thổ Nhĩ Kỳ), vào nửa đầu thế kỷ IV.  Theo truyền thống, có thể ngài đã tham dự Công đồng Nicêa (325), là công đồng đã kết án lạc giáo Arius và tuyên bố Ngôi lời “được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha.”  Có lẽ ngài mất khoảng năm 350, thọ ngoài sáu mươi tuổi.

Enzo Lodi

Kính Thánh Phanxicô Xaviê

3 Tháng Mười Hai

 Kính Thánh Phanxicô Xaviê

(1506-1552)

Kính  Mừng Thánh Phanxico Xavie ngày 3-12,

Thánh Quan Thầy  của các xứ Truyền Đạo

cũng là Quan Thầy của Cha Phanxico Xavie Trần Gia Điền ,  Cha Điền là một trong các Cha Linh Hướng  Đạo Binh Hồn Nhỏ Dòng Chúa Cứu Thế và Vùng Phụ Cận Houston , Texas

  *Đạo Binh Hồn nhỏ chúng con trước tiên xin cảm tạ CHÚA MẸ muôn vàn và xin cảm ơn rất nhiều tới Tất cả Quý Cha đã Linh Hướng chúng con sống trong Thánh Ý CHÚA. Chúng con cầu xin THIÊN CHÚA  ban cho Cha Phanxico-Xavie Trần Gia Điền cũng như Quý Cha :

Xin CHÚA  giáng phúc như hoa

Tuôn xuống trần thế cho Cha khắp miền 

Tin Mừng loan báo triền miên

Làm vinh danh CHÚA  , mang chiên lạc về

Bổn Mạng Truyền Giáo (Thánh Phanxicô Xaviê) chẳng nề

Cầu các Ngài được tràn trề Ơn Thiêng

Bước theo Thập Tự trung kiên

Đạo CHÚA khắp chốn…..triều thiên Nước Trời.

Kính Mừng

Các Hồn Nhỏ

……………………………………………………………………………………………………..

Phanxicô Xaviê – Vị Thánh Say Mê Chinh Phục Các Linh Hồn

Posted by: fx.hongan

Được mệnh danh là Phaolô của thế kỷ XVI, thánh Phanxicô Xaviê luôn luôn thao thức về số phận của những linh hồn chưa bao giờ được nghe Tin Mừng. Lời Chúa Giêsu:

Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10, 20) luôn vang vọng và thôi thúc trong tâm trí thánh nhân. Thánh nhân đã xúc động cực độ khi thấy có rất nhiều người không được làm Kitô hữu chỉ vì không có ai làm cho họ trở thành Kitô hữu.

Phanxicô chào đời ngày 07/04/1506 tại lâu đài Javier (Javier Castillo) gần thành phố Pamplona, miền Navarra, Tây Ban Nha, trong một gia đình danh giá và giàu có. Ngài là con út trong gia đình có năm người con. Năm lên 19 tuổi, Phanxicô được gửi đến Paris học tại học viện Sainte – Barbe thuộc đại học Paris. Sau khi tốt nghiệp văn chương và triết lý, Phanxicô được bổ nhiệm làm giáo sư triết lý tại đại học Paris. Vị giáo sư trẻ Phanxicô sớm nổi tiếng và được ca tụng trong giới sinh viên đại học thời bấy giờ.

Những tưởng vị giáo sư trẻ Phanxicô sẽ còn tiến xa hơn trên con đường công danh và sự nghiệp, thế nhưng, qua trung gian của một người bạn chí thân – thánh Inhaxiô, câu Lời Chúa:

nếu được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì?” (Mt 16,16) đã chinh phục và làm thay đổi hoàn toàn nơi vị giáo sư trẻ vốn thông minh và đầy tham vọng. Kể từ đó, Phanxicô đã tùy thuộc hoàn toàn vào kế hoạch nhiệm mầu của Chúa và trở nên khí cụ đắc lực của Tin Mừng.

Ngày 15/08/1534, cùng với Inhaxiô và năm anh em khác, Phanxicô đã dâng lời khấn khó nghèo, trinh khiết và sống cộng đoàn để “cùng nhau phục vụ Chúa”, khai nguyên Dòng Tên (Société de Jésus). Ngày lễ thánh Gioan Tẩy Giả 24/06/1537, tại Venise, Phanxicô được chịu chức linh mục. Kể từ đó, ngài gia tăng việc ăn chay, hãm mình, suy niệm và thực hành bác ái nhằm không ngừng thánh hóa bản thân và chuẩn bị hành trang cho sứ vụ mà Chúa sắp trao phó cho ngài.

Được thúc đẩy và hun nóng bởi khát vọng và lòng say mê cho Danh Chúa được cả sáng (Ad majorem gloriam Dei) và cho nhiều linh hồn được cứu rỗi (Ad salutem aminarum), vị linh mục trẻ Phanxicô Xaviê đã khao khát được đến với khắp mọi nơi để đem Chúa đến cho mọi người. Với con tim rực cháy lửa mến Chúa và cháy bỏng khát khao thu phục các linh hồn đã đưa Phanxicô Xaviê vượt đại dương đến với miền Viễn Đông xa xôi, đầy khó khăn và nhiều khác biệt. Cũng nhờ lòng nhiệt thành truyền giáo đó, Phanxicô Xaviê đã can đảm gặp gỡ các vị lãnh chúa miền Á Đông, tiếp xúc với các tôn giáo truyền thống như Ấn giáo, Hồi giáo, Phật giáo và Khổng giáo. Trên tất cả, ngài luôn trăn trở làm sao đem Chúa Giêsu và Tin Mừng tình yêu của Người đến với tất cả những ai chưa có cơ hội nhận biết Người.

Ngày 07/07/1543, thánh Phanxicô Xaviê lần đầu tiên đặt chân lên thành phố Goa, miền tây nam Ấn Độ – một vùng đất hoàn toàn xa lạ đối với ngài, nhưng thánh nhân đã ngày đêm thăm viếng và nâng đỡ đức tin cho những người nghèo, giúp đỡ những người thuộc đẳng cấp thấp nhất trong xã hội Ấn thời bấy giờ. Ngài dành nhiều thời gian để di đến các làng mạc thăm viếng, khích lệ những người ốm đau bệnh tật, rửa tội cho trẻ em, dạy giáo lý cho người lớn và tổ chức các giờ kinh lễ. Trong một lá thư viết từ Ấn Độ gửi cho thánh Inhaxio ở Rôma, thánh Phanxicô viết rằng: “Tại các miền ấy, có nhiều người không được làm Kitô hữu chỉ vì không có ai làm cho họ trở thành Kitô hữu. Nhiều lần tôi đã có ý định đi tới các đại học Châu Âu, trước hết là đại học Paris, mà kêu gào khắp nơi như một kẻ mất trí và thúc đẩy những người chỉ nghiên cứu học thuyết hơn là thực hành bác ái rằng: tiếc thay, chỉ vì lỗi của các ông mà biết bao linh hồn không được cứu rỗi!” [1]

Nhờ sức mạnh của lòng mến, thánh Phanxicô Xaviê đã ngày đêm hăng say chinh phục các linh hồn, mặc dù ngài luôn bị những người theo Ấn giáo và Hồi giáo chống đối. Trong thư gửi về Rôma cho các anh em Dòng Tên, ngài viết: Tôi tin rằng, ai thực lòng yêu mến thánh giá Chúa Kitô sẽ tìm thấy an bình khi đương đầu với những thử thách” [2] . Trong một thư khác, thánh nhân viết: “Xin Chúa ban cho chúng ta được biết và nhận ra ý muốn rất thánh của Chúa, và khi đã nhận ra, xin Chúa ban dồi dào sức lực và ân sủng, để với đức mến, chúng ta chu toàn thánh ý Chúa ngay ở đời này” [3]. Và để sức mạnh của lòng mến sinh hiệu quả, theo thánh Phanxicô, lòng mến phải được cụ thể trong hành động ngay ở đời này, và sẵn sàng “đi đến bất cứ nơi đâu để có thể phục vụ Chúa” [4] .

Là một nhà truyền giáo Tây phương, bị đặt vào thế lưỡng nan, hoặc phải bảo vệ quyền lợi của thực dân Bồ Đào Nha hay bênh vực cho người bản xứ Ấn Độ, nhưng nhờ ơn Chúa, thánh Phanxicô đã chọn con đường khác: liên kết ý muốn của con người theo ý muốn của Thiên Chúa, kết hợp phương tiện với mục tiêu hướng đến tình yêu đích thực và nhắm lợi ích các linh hồn. Trọn vẹn ý muốn của thánh nhân để chỉ hoàn toàn phục vụ thánh ý Chúa và mưu ích cho các linh hồn, như trong lá thư gửi về Rôma đề ngày 20/09/1542, ngài viết: “xin Chúa ban sức mạnh cho chúng ta ở đời này để chúng ta phục vụ Chúa trong mọi sự như Chúa truyền dạy, và chu toàn thánh ý Chúa ở đời này” [5] .

Niềm đam mê các linh hồn đã dẫn đưa thánh nhân mạo hiểm dấn thân vào những hoàn cảnh tối tăm bao trùm và dường như bị Chúa bỏ rơi, nhưng sau khi trải qua kinh nghiệm về “sự thing lặng của Thánh Thần” đó, thánh nhân đã đạt đến điểm tận cùng của ý Chúa và khám phá ra niềm an ủi thiêng liêng lớn lao từ bên trong tâm hồn nhờ chu toàn ý muốn rất thánh của Người. Khi đến quần đảo Môrô ở Nam Dương (Indonesia ngày nay), ngài đã viết thư cho các anh em Dòng Tên ở Rôma đề ngày 20/01/1548, rằng: “Tôi nhớ ngày xưa chưa từng được an ủi thiên liêng lớn lao và liên tiếp như trên đảo này, lại ít cảm thấy phải cực nhọc về phần xác […]. Thay vì gọi đó là Các Đảo Môrô, có lẽ nên gọi là Các Đảo Hi Vọng Vào Chúa thì hơn” [6].

Hăng say dấn thân vì đức tin nơi các vùng đất xa lạ và khắc nghiệt, thánh nhân luôn ước ao nên giống Đức Kitô nhằm phục vụ các linh hồn được nhiều hơn. Trong tâm trí thánh nhân, điều làm ngài thao thức mãnh liệt và thường trực nhất là những vùng đất và những con người chưa được nhận biết Đức Kitô. Dù nhận thấy đầy dẫy những hiểm nguy phía trước, như ngài viết: “những nỗi sợ, những hiểm nguy, những đau khổ mà bạn bè nói tới, tôi kể là số không; tôi chỉ còn sợ Thiên Chúa” [7], nhưng thánh nhân vẫn một lòng tận hiến cho kế hoạch của Chúa qua những thúc bách trong chính tâm hồn ngài. Trong một lá thư viết cho thánh Inhaxiô, đề ngày 01/02/1549, ngài viết: “Con thấy tâm hồn rất phấn khởi. Con không ngại đi Nhật Bản, vì con cảm nhận trong tâm hồn mình cái gì đó dạt dào, mặc dầu con hầu như chắc chắn sẽ gặp nhiều hiểm nguy lớn lao hơn những gì con từng gặp xưa nay” [8].

Chuyện kể lại rằng, một đêm kia, trong lúc ngủ, thánh Phanxicô đã kêu lên: “mas, mas, mas”. Và sau này, chính ngài giải thích: “Tôi thấy công việc truyền giáo quá mênh mông, nhiều mệt nhọc và nhiều ưu phiền gây nên bởi đói khát, giá lạnh, các chuyến ra đi, những vụ đắm tàu, những cuộc bách hại, những phản bội và nhiều hiểm nguy khác… được gửi đến cho tôi; vì lòng yêu mến mà chính Chúa ban cho tôi và với ơn trợ giúp của Người, tôi chịu đựng được. Vì thấy chưa đủ, tôi xin Người ban thêm và luôn luôn thêm mãi; nên tôi đã thốt lên những lời ‘mas, mas, mas’, có nghĩa là: ‘nhiều hơn nữa, nhiều hơn nữa, nhiều hơn nữa’”. Những lời “nhiều hơn nữa” của Thánh Phanxicô dường như là những thúc đẩy thần bí làm cho thánh nhân hoàn toàn tận hiến cho Chúa Kitô để ơn cứu độ của Người đến được với các linh hồn.

Lòng say mê các linh hồn không bao giờ vơi cạn nơi thánh Phanxicô, với ý Chúa nhiệm mầu, thánh nhân đã phải nhìn về đại lục Trung Hoa mênh mông với tình yêu lai láng và ước nguyện lớn lao, nhưng chưa thành hiện thực. Rạng sáng ngày 03/12/1552, thánh nhân qua đời tại đảo Shanchuan (Trường Xuyên) nơi cửa ngõ của đất Trung Hoa. Tháng 03/1553, xác ngài được đưa về Malacca (Malaysia) trong tình trạng vẫn tươi nguyên. Và mùa Chay năm 1554, xác ngài được đưa về Goa (Ấn Độ), một lần nữa, quan tài được mở ra và xác ngài vẫn tươi nguyên như đang ngủ.

Ngày 25/10/1619 Phanxicô Xaviê được Đức Phaolô V phong chân phước, và đến ngày 12/03/1622, Đức Grêgôriô XV nâng ngài lên bậc hiển thánh. Năm 1748, thánh nhân được tôn phong làm Bổn Mạng của Phương Đông; và đến năm 1904, ngài được tôn phong làm Bổn Mạng công cuộc truyền bá Đức Tin. Năm 1927, Đức Piô XI tôn phong ngài làm Bổn Mạng các xứ truyền giáo.

Chỉ với 46 năm tuổi đời, 15 năm linh mục, thánh Phanxicô Xaviê dù không sống lâu, nhưng ngài đã sống nhiều, sống hết và sống hoàn toàn cho Chúa và vì các linh hồn. Cũng chỉ có hơn 10 năm ra đi truyền giáo, nhưng thánh nhân đã đi tới hơn 100 ngàn cây số, rửa tội cho khoảng 30 ngàn người tại Á Châu.

Thánh Phanxicô Xaviê là một Phaolô mới – một Ðại Tông Ðồ, là mẫu gương cho những người trẻ, đặc biệt cho các chủng sinh, linh mục và tu sĩ trong thời đại hôm nay về lòng khao khát đem Tin Mừng đến cho những người chưa nhận biết Đức Kitô. Đã có rất nhiều nhà truyền giáo can đảm lên đường nhờ gương sáng và lời chuyển cầu của thánh Phanxicô Xaviê. Trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Ấn Ðộ tháng 02/1986, khi huấn từ cho các linh mục và nam nữ tu sĩ tại nhà thờ chính tòa Goa, nơi giữ xác không bị hư nát của Thánh Phanxicô Xaviê, sau khi thuật lại những chặng đường truyền giáo của thánh nhân, vị tông đồ không biết mỏi mệt của miền duyên hải Ấn Ðộ, của quần đảo Maluku (Indonesia), của Nhật Bản và của Trường Xuyên (đảo Shanchuan, Trung Hoa), Đức Gioan Phaolô II nói: “Ngày nay, các tông đồ của Tin Mừng phải theo bước chân của Nhà Truyền Giáo thời danh và nhiệt thành này để chiếu dọi ánh sáng Chúa Kitô cho mọi người dân của Lục Ðịa Á Châu này”.

Fx. Hồng Ân

From: hnkimnga & Anh chi Thu & Mai

TÊRÊSA AVILA, TÂM HỒN NHẠY CẢM

TÊRÊSA AVILA, TÂM HỒN NHẠY CẢM

Vũ Duy Thống, Gm 

Trong kho tàng truyện kể về đời thánh nữ Têrêsa Avila, có một truyện được nhiều tác giả nhắc đến, vừa như một điển hình đời sống thiêng liêng, vừa như một tính cách rất riêng của thánh nữ.  Đó là truyện “Hèn chi Chúa có ít bạn.”   Chắc nhiều người đã biết?  Truyện kể: Trong lần xuất thần, thánh nữ nhìn thấy tình trạng tội lỗi con người xúc phạm đến Chúa ghê gớm quá, nặng nề quá.  Thế là thánh nữ buồn bã vật vã ba ngày liên tiếp không ăn uống gì.  Cuối ngày thứ ba, Chúa Giêsu hiện ra, dáng vẻ dịu hiền, an ủi bằng cách trao cho thánh nữ một miếng bánh và một ly nước.  Nhưng thánh nữ làm mặt giận chối từ.  Chúa Giêsu dỗ dành: “Con không biết rằng Cha thường đối xử với bạn bè bằng cách gửi cho họ Thánh giá sao?” Và thánh nữ trả lời: “Hèn chi Chúa có ít bạn.”   Vâng, chỉ với mẩu truyện đó thôi, có lẽ người ta cũng nhận ra tính cách của Têrêsa Avila.  Đó là sự nhạy cảm.

  1.  Nhạy cảm trước tình yêu bao la của Thiên Chúa.

Đọc Phúc Âm, ai trong chúng ta cũng biết định nghĩa nổi tiếng của thánh Gioan “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8), nhưng để cảm nghiệm thế nào là sức nặng của định nghĩa vắn gọn và tầm cỡ này, đó lại là chuyện không chỉ dừng lại trong ngôn từ sách vở một thời, mà còn cần đến cả một đời dấn bước kiếm tìm, thậm chí vào sinh ra tử nữa kìa.  Thánh Gioan Tông đồ được Chúa Giêsu yêu dấu, nên từ cảm nhận tới cảm nghiệm có thể là vắn gọn như chính định nghĩa về Thiên Chúa của ông, nhưng với Têrêsa Avila lại là cả một sự vật lộn giữa sóng gió cuộc đời vừa hoạt động để kiếm tìm, vừa chiêm niệm để chiêm ngưỡng.

Trên bức tượng “Ecce Homo – Này là Người” (Ga 19,5) trình bày Chúa Giêsu vì yêu thương loài người mà chịu khổ nạn, để nên tình yêu lớn nhất của người dám chết vì người mình yêu, Têrêsa đã gặp được “tiếng sét ái tình” vào năm 1545, để nghiệm ra rằng: nếu Chúa vì yêu con người mà phải chịu khổ, thì con người cũng phải làm sao đáp lại cho cân xứng, với tình yêu của Chúa dành cho mình.  Và thế là khởi đi từ sự nhạy cảm trong nhận thức ấy, thánh nữ đã tìm ra nẻo đi của riêng mình là “lấy tình yêu đáp trả tình yêu,” và cứ thế, như ngọn lửa một khi đã bừng lên thì không gì có thể dập tắt được nữa, thánh nữ làm tất cả mọi sự do tình yêu thúc đẩy và dâng hiến tất cả cho tình yêu.

Chả thế mà người ta vẫn bảo: đường nên thánh của Têrêsa là con đường “bốc lửa”: lửa chiêm niệm tìm ra ý Chúa mãnh liệt đến độ thường xuyên xuất thần mỗi khi cầu nguyện, và lửa yêu thương tìm gặp gỡ Chúa khít khao như lòng với lòng, đến nỗi có cảm tưởng rằng cuộc đối thoại giữa thánh nữ với Chúa không khác chi những lời gần gũi giữa cánh bạn bè, của người bạn dành cho bạn mình.

  1.  Nhạy cảm trước tội lỗi của con người.

Một khi đã coi “phải làm sao cho xứng với tình yêu của Chúa” như một hướng sống, một hướng nên thánh, một hướng cải cách đời tu, thì tâm hồn Têrêsa Avila bỗng trở nên nhạy cảm vô cùng trước những gì được xem là không xứng với tình yêu ấy, trong đó tội lỗi là điều đáng buồn nhất, không phải vì nó xúc phạm tới Thiên Chúa tối cao cho bằng nó phản bội lại Thiên Chúa tình yêu, Đấng đã làm tất cả vì con người và cho con người.

Phản bội trong chính trường được xem là mưu mô, phản bội trong thương trường được coi là mánh mung, nhưng phản bội trong tình trường, dù là tình Chúa hay tình người đi nữa, cũng vẫn là điều đáng buồn nhất.  Chính Chúa Giêsu đã buồn rầu hỏi Giuđa trong vườn Cây Dầu là “anh lấy cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22,48) vì Giuđa là kẻ phản bội.  Và trong truyện “Hèn chi Chúa có ít bạn” kể trên, Têrêsa buồn bã những ba ngày liền, không phải vì tội mình mà vì tội tình của người khác, đã cho thấy một con tim nhạy cảm, không rỗi hơi thương vay khóc mướn, mà chỉ vì tê tái quặn đau thấy người ta phản bội tình yêu của Chúa, còn mình trong tư cách là bạn tâm giao lại chẳng có cách nào mà can ngăn.

Rõ ràng, Têrêsa là một tâm hồn nhạy cảm.  Từ nhạy cảm ngây ngất trước tình thương xót khôn cùng của Chúa, một tình yêu dám từ bỏ “lá ngọc cành vàng” để đành đoạn ôm lấy “phận cỏ mình rơm” cho rặm bụng một đời cứu thế, Têrêsa tự nhiên nhạy cảm khổ đau trước sự khốn cùng của tội lỗi nhân sinh, tội bạc tình, một thứ tội làm tê dại cõi lòng.  Hoá ra, ai càng nhạy cảm với tình thương xót của tấm lòng Thiên Chúa, càng nhạy cảm hơn với sự khốn cùng của tội lỗi con người.

  1.  Nhạy cảm trước đường nên thánh là đường Thánh giá.

Đã có lần Chúa Giêsu bảo “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người dám thí mạng sống vì người mình yêu” (Ga 15,13), để rồi từ đó trở thành quy luật của muôn đời cho những ai dám gán đời mình cho tình yêu Thiên Chúa hoặc mon men muốn nên bạn hữu của Ngài.  Vâng, “yêu ai yêu cả đường đi”, yêu Chúa cũng yêu cả con đường Chúa đi năm xưa là đường Thánh giá, không phải là “mười bốn chặng đường” ngắn ngủi êm ả dễ chịu trong giáo đường, mà là những cảnh đời thường lặp đi lặp lại mỗi ngày, ở đó ý Chúa như búa đập trên ý mình và ý mình như kình chống lại ý Chúa.

Nếu “yêu là chết ở trong lòng một ít”, thì yêu Chúa cũng là phải chết đi ít một trong ý riêng để ý Chúa được thể hiện từng ngày.  Như lương thực hằng ngày của “Kinh Lạy Cha” mà người theo Chúa phải làm quen dần dần từ những bước chập chững đầu tiên cho đến khi thuần thục nhuần nhị để có thể hiên ngang tiến tới trên đường trọn hảo.  Đó là đường tình yêu.  Mênh mông tình Chúa, mong manh tình người, nên cũng là đường Thánh giá, đường Thương khó.

Đó, “yêu Chúa” nói và hát thì dễ, nhưng khi dấn bước vào, người ta mới thấy những nỗi đa đoan vất vả không bao giờ hết, mà chỉ có những tâm hồn nhạy cảm mới có thể dự đoán và an tâm bước đều.  Chúa chúng ta kỳ lắm.  Người yêu những kẻ đóng đinh Người và tha thứ cho họ dễ dàng, nhưng Người lại đóng đinh những kẻ Người yêu và tặng những kẻ yêu Người Thánh giá, không chỉ một lần mà xem ra còn dai dẳng hoài hoài trong đời.  Bằng một tâm hồn nhạy cảm thánh đức, Têrêsa đã hiểu đó là lộ trình nên thánh cho bất cứ ai chọn đi theo Chúa.

Tóm lại, ba nét nhạy cảm: với tình yêu vô biên của Thiên Chúa, với tội lỗi thấp hèn của nhân loại và với bước đường Thánh giá, với tội lỗi thấp hèn của nhân loại và với bước đường Thánh giá, hy vọng đã một phần nào phác vẽ lên cách đơn giản chân dung của một vị thánh lớn, thánh Têrêsa mẹ, vị anh thư cải cách dòng Cát Minh thế kỷ XVI tại Tây Ban Nha, vị tiến sĩ đã để lại cho Hội Thánh bí quyết chinh phục đỉnh cao tình yêu Thiên Chúa, và cũng còn là vị thánh thân thương có một tâm hồn nhạy cảm phi thường muốn đem tình yêu Thiên Chúa nhân rộng đến hết mọi người.

Xin nhờ lời chuyển cầu của ngài, cho cộng đoàn Cát Minh và cho những ai chân thành yêu mến thánh nữ, được luôn nhạy cảm bền bỉ khơi lên ánh lửa yêu mến trước tình yêu Chúa, để đến khi Chúa muốn, Người sẽ cho biến thành những đám cháy kỳ diệu có khả năng thiêu huỷ tội lỗi, thanh tẩy tâm hồn và lôi cuốn người ta đến với tình yêu thánh hoá, cho dẫu trước mắt vẫn còn là ngổn ngang những Thánh giá của mùa xây dựng, nhưng trong lòng đã nóng bừng hy vọng.  Mong rằng câu nói “Hèn chi Chúa có ít bạn” không phải là một chân lý bất biến, nhưng là một câu nói đang chờ sự đáp ứng, để một khi mọi người đều nhạy cảm quan tâm trở nên bạn hữu của Chúa, thì thay vì ba ngày buồn bã, có lẽ Têrêsa Avila sẽ có nhiều lần ba ngày vui vẻ vì ngỡ ngàng thấy Chúa luôn có nhiều bạn mới.

Vũ Duy Thống, Gm 

Anh chị Thụ & Mai gởi