Chân Phước Luchesio và Buonadonna

Chân Phước Luchesio và Buonadonna

    (c. 1260)

    Ông Luchesio và bà Buonadonna là hai vợ chồng muốn sống theo gương Thánh Phanxicô. Do đó họ đã gia nhập Dòng Ba Phanxicô.

    Hai ông bà sống ở Poggibonzi, nơi họ hành nghề thương mãi và là con buôn tham lam. Nhưng sau khi gặp Thánh Phanxicô — có lẽ năm 1213 — họ đã thay đổi đời sống. Ông Luchesio bắt đầu thi hành nhiều việc bác ái.

    Lúc đầu, bà Buonadonna không nhiệt tình sống bác ái như ông Luchesio, và thường than phiền chồng là đã bố thí quá nhiều của cải cho các người lạ. Một ngày kia, khi có người gõ cửa xin được giúp đỡ, và ông Luchesio nhờ vợ lấy cho họ ít bánh mì. Bà nhăn mặt khó chịu nhưng cũng đi vào bếp, và lạ lùng thay, bà nhận thấy số bánh mì đang có thì nhiều hơn khi trước. Không bao lâu, bà cũng trở nên hăng say sống đời khó nghèo và thanh bạch như ông chồng. Cả hai bán cả tiệm buôn, chỉ giữ lại ít đất để cầy cấy trồng trọt đủ cho nhu cầu và phân phối đất đai còn lại cho các người nghèo.

    Vào thế kỷ thứ 13, với sự ưng thuận và sự cho phép của Giáo Hội, một số vợ chồng sống ly thân để người chồng vào dòng tu nam và người vợ vào dòng tu nữ. Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ son sẻ hoặc con cái đã trưởng thành. Ông bà Luchesio lại muốn kiểu khác, họ muốn sống đời tu trì, nhưng bên ngoài tu viện.

    Ðể đáp ứng nhu cầu này, Thánh Phanxicô đã lập Dòng Phanxicô Thế Tục. Ðầu tiên, thánh nhân viết một Quy Luật đơn giản cho Dòng Ba (Phanxicô Thế Tục), sau đó Ðức Giáo Hoàng Honorius III đã chấp thuận một quy luật chính thức vào năm 1221.

    Công việc bác ái của hai ông bà Luchesio đã thu hút người nghèo đến với họ, và cũng như các vị thánh khác, dường như hai ông bà không bao giờ thiếu của cải để giúp đỡ tha nhân.

    Một ngày kia, khi ông Luchesio đang cõng một người tàn tật mà ông bắt gặp bên vệ đường thì có một thanh niên đến hỏi ông, “Cái tên quỷ quái nào mà ông đang cõng trên lưng đó?” Ông Luchesio trả lời, “Tôi đang cõng Ðức Giêsu Kitô.” Ngay lập tức người thanh niên ấy đã phải xin lỗi ông.

    Hai ông bà Luchesio và Buonadonna đều từ trần vào ngày 28 tháng Tư 1260. Ông được phong chân phước năm 1273. Truyền thống địa phương cũng gọi bà Buonadonna là “chân phước” dù rằng Tòa Thánh chưa chính thức công bố.

    Lời Bàn

    Thật dễ để chế nhạo người nghèo, và chà đạp phẩm giá con người mà Thiên Chúa đã ban cho họ. Mẹ Têrêsa Calcutta thường đề cập đến sự nghèo túng như “sự đau khổ tiềm ẩn” của Ðức Kitô. Chúng ta dễ khiến người khác cảm thấy là họ vô ích — người nghèo, người bệnh hoạn, người tật nguyền thể xác cũng như tâm thần, người lớn tuổi, người thất nghiệp — do đó, chống lại sự cám dỗ ấy đòi hỏi một mức độ đại lượng trong cuộc sống chúng ta. Nếu ai nấy cũng đều nhìn thấy Ðức Kitô trong người nghèo như hai ông bà Luchesio, họ sẽ phong phú hóa Giáo Hội và giữ được sự trung tín với Thiên Chúa.

    Lời Trích

    Thánh Phanxicô thường nói, “Bất cứ ai nguyền rủa người nghèo là tổn thương đến Ðức Kitô, vì họ đang mang hình ảnh của Người, hình ảnh của Ðấng đã trở nên nghèo hèn vì chúng ta” (1 Celano, #76).    

    Trích từ NguoiTinHuu.com

Tạ Ơn Thánh Cả Giuse – Diệu Hiền

httpv://www.youtube.com/watch?v=gNDEz94Qyag&feature=youtu.be

Tạ Ơn Thánh Cả Giuse – Diệu Hiền

19 tháng 3 Lễ Mừng Kính Thánh Giuse

Tạ ơn Thánh Cả Giuse

Vì Ngài thương nhận lời con nguyện cầu.

Xin chia sẻ cùng quý cha, sơ và quý anh chị. 

Nhạc cảnh: “Tạ Ơn Thánh Cả Giuse”

Kính,

P. Trung

Cầu thang 33 bậc kỳ diệu của Thánh Giuse

Cầu thang 33 bậc kỳ diệu của Thánh Giuse

 

Tại thành phố Santa Fe, bang New Mexico, Hoa kỳ, một bí mật đã xảy ra hơn 130 năm, thu hút khoảng 250 ngàn du khách mỗi năm. Nơi đó là: Nhà Nguyện LORETTO.

* Điểm độc đáo của Nhà Nguyện này là: Nơi được cho là đã xảy ra phép lạ lại là một cái cầu thang.

* Nhà Nguyện được xây vào khoảng thế kỷ thứ 19. Khi hoàn thành, các nữ tu phát hiện thấy họ đã quên không làm cầu thang để đi lên sàn hát của Nhà nguyện.

* Họ làm Tuần Cửu Nhật để cầu xin Thánh Giuse, là một thợ mộc để Ngài giúp đỡ.

* Vào ngày cuối cùng (của Tuần Cửu Nhật), một người lạ mặt gõ cửa và tự xưng là một thợ mộc, muốn giúp các nữ tu làm cái cầu thang.

* Ông ta đã một mình làm xong cái cầu thang hình xoắn ốc, và nó đã trở thành một kiệt tác của nghề thợ mộc.

* Không ai hiểu được làm thế nào cây cầu thang có thể đứng vững được, vì nó không có cột trụ trung tâm để đỡ sức nặng của loại cầu thang này.

* Làm xong, ông thợ mộc ấy lặng lẽ biến mất mà không hề đòi thù lao. Ông đã làm xong cây cầu thang mà không sử dụng một keo dán hay một cây đinh nào, chỉ dùng mộng ghép các thanh gỗ lại với nhau.

Trong khắp cả thành phố Santa Fé, người ta cho rằng người thợ mộc ấy chính là Thánh Giuse… đã được Chúa Giêsu gởi đến để đáp lại lời nguyện xin của các nữ tu. Từ ngày ấy, chiếc cầu thang được coi là một Phép Lạ, và trở thành địa điểm hành hương.

Người đại diện ở Nhà Nguyện nói rằng có 3 điều bí ẩn ở đây:
– Thứ nhất là: Cho đến nay vẫn chưa ai biết được tên tuổi của người thợ mộc ấy.
– Thứ hai là: Mọi kiến trúc sư, kỹ sư và khoa học gia đều nói rằng không thể hiểu được làm thế nào chiếc cầu thang có thể đứng vững mà không có điểm tựa ở trung tâm (như thường thấy ỏ các cầu thang loại xoắn ốc này).
– Thứ ba là: Gỗ làm cầu thang lấy từ đâu? Họ đã kiểm tra và phát hiện rằng gỗ được sử dụng làm cầu thang không hề có trong toàn vùng ấy.
Thêm một chi tiết làm tăng niềm tin vào Phép Lạ là: Cầu thang có 33 bậc, là tuổi của Chúa Giêsu Kitô ở trần gian.

Joshep Vu

Nếu bạn thấy bài viết này bổ ích chính mình và người khác, hãy chia sẻ cho nhiều người khác nữa nhé! Nguyện xin Chúa chúc lành cho bạn và gia đình! 

TRUNG THÀNH VỚI THÁNH Ý THIÊN CHÚA

TRUNG THÀNH VỚI THÁNH Ý THIÊN CHÚA   

Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Cả Giuse, mặc dù thánh nhân chỉ xuất hiện vài lần trong các sách Tin Mừng.  Nhưng chừng ấy cũng đủ để Giáo Hội có cơ sở để tôn vinh Người trong vai trò cha nuôi của Chúa Giêsu và là bạn trăm năm của Ðức Maria.

Thánh Giuse là mẫu người thầm lặng ít nói.  Các sách Tin Mừng không ghi lại lời nào của Người, ngay cả lúc tìm gặp Chúa Giêsu trong đền thờ, thì cũng chính Ðức Maria là người lên tiếng nói với Chúa Giêsu.  Thánh Giuse ít nói nhưng người chăm chú lắng nghe các lệnh truyền của Chúa và mau mắn làm theo, nhiều khi các lệnh truyền ấy có vẻ ngang trái bất ngờ.  Khi nhận Ðức Maria làm vợ và đưa Mẹ về nhà mình; khi đem gia đình trốn sang Ai Cập; khi hồi hương trở về Nazareth, thánh Giuse luôn luôn trung thành với thánh ý Thiên Chúa mà không đòi hỏi một điều kiện nào.  Hễ Thiên Chúa gọi thì Người lắng nghe; Thiên Chúa nói thì Người vâng lời.  Thánh Giuse đúng là một người sống đức tin bằng hành động, không lý luận, không thắc mắc, tâm hồn và thân xác Người luôn sẵn sàng dâng hiến để thánh ý Thiên Chúa được thi hành.  Và quả thật, nhờ sự cộng tác đắc lực của thánh Giuse, mà kế hoạch nhập thể của Chúa Giêsu được diễn ra hết sức tốt đẹp.  Không đòi hỏi được tuyên dương, thánh Giuse đã làm trọn sứ mạng mà Thiên Chúa trao phó cho Người.

Lạy Thánh Cả Giuse, nhiều khi con ham nói mà ít chịu lắng nghe tiếng Thiên Chúa, ham suy luận mà ít chịu vâng phục cách triệt để thánh ý Thiên Chúa.  Xin thánh nhân dạy con biết noi gương Người, biết tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong thinh lặng và biết sống đức tin bằng hành động.  Xin thánh nhân nâng đỡ những người cha trong gia đình để họ sống trọn sứ mạng làm chồng, làm cha.  Xin thánh nhân phù trợ Giáo Hội Việt Nam trong vai trò hướng dẫn những người Kitô và làm chứng cho đức tin Kitô giữa lòng dân tộc.

Ðức Thánh Cha Nói Về Gương Thánh Giuse:

Anh chị em rất thân mến,

Ngày 19 tháng 3, chúng ta cử hành Lễ Thánh Giuse.  Vào trung tâm của Mùa Chay, Phụng vụ trình bày cho chúng ta vị thánh vĩ đại này như là gương mẫu để noi theo, và như là Ðấng bảo vệ để chúng ta cầu khẩn.

Trước hết, thánh Giuse là mẫu gương sống Ðức Tin cho chúng ta.  Như Tổ Phụ Abraham, thánh Giuse đã luôn sống trong thái độ hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa; vì thế Ngài là mẫu gương khích lệ, nhất là khi chúng ta được mời gọi tin tưởng vào Chúa, dựa trên “Lời Ngài” đã phán, mà không nhìn thấy được rõ ràng Ý Ðịnh của Chúa.

Hơn nữa, chúng ta được mời gọi noi gương Ngài, trong việc khiêm tốn thực thi sự vâng phục, một nhân đức chiếu sáng nơi Ngài trong nếp sống thinh lặng và trong việc làm ẩn khuất.  Trường học Nazareth quý giá biết bao cho con người thời nay, bị bao vây bởi một nền văn hóa rất thường đề cao vẻ bề ngoài và sự thành công, đề cao sự độc lập và một quan niệm sai lầm về tự do cá nhân.  Ngược lại, thật là cần thiết biết bao, việc phục hồi lại giá trị của sự đơn sơ và vâng phục, sự tôn trọng và yêu mến đi tìm thánh ý của Thiên Chúa.

Thánh Giuse đã sống phục vụ cho vị hôn thê của mình và cho Con Thiên Chúa; và như thế, đối với các tín hữu, thánh Giuse trở thành chứng tá hùng hồn cho biết phải cai trị hay phục vụ như thế nào.  Ðặc biệt, tất cả những ai, trong gia đình, trong trường học và trong giáo hội, có trách vụ sống làm cha, làm người hướng dẫn, đều có thể nhìn về thánh Giuse, để được huấn luyện sống tốt lành.  Nhất là tôi nghĩ đến những người cha, mừng lễ của họ vào đúng ngày lễ dành cho thánh Giuse.  Tôi cũng nghĩ đến tất cả những ai mà Thiên Chúa đã thiết lập trong giáo hội để thực hiện “tình cha thiêng liêng”.

Nguyện xin thánh Giuse, vị thánh mà dân Kitô tin tưởng khẩn cầu, luôn hướng dẫn những bước tiến của đại gia đình Thiên Chúa.  Xin thánh nhân hãy đặc biệt trợ giúp cho những ai đang chu toàn vai trò làm cha tự nhiên hoặc thiêng liêng.  Xin thánh Giuse hãy cùng đồng hành với những lời khẩn cầu của chúng ta và xin Mẹ Maria khẩn cầu cùng Chúa cho chúng ta, Mẹ là vị hôn thê đồng trinh của thánh Giuse và là Mẹ của Ðấng Cứu Chuộc.

Gioan Phaolô II

(Lễ Thánh Giuse 2002 – bản dịch của Nguyễn Việt Nam)

Langthangchieutim gởi

CẦU THANG LẠ TẠI NGUYỆN ĐƯỜNG LORETTO

CẦU THANG LẠ TẠI NGUYỆN ĐƯỜNG LORETTO

 (Tài liệu tổng hợp trên Internet)

 Trần Mỹ Duyệt

Phải chăng chiếc cầu thang tại nguyện đường Loretto tại Santa Fe, New Mexico đứng vững một cách lạ lùng mà không cần cột trụ chống đỡ?

Tôi đã đọc và đã nghe về câu truyện cầu thang lạ được cho là do Thánh Giuse làm tại nguyện đường Loretto, thuộc tiểu bang New Mexico từ lâu. Với lòng sùng kính, yêu mến Thánh Giuse, vị quan thầy đã giúp tôi vượt qua rất nhiều chặng đường chông gai trên hành trình đức tin cho đến ngày nay. Và trong tâm tình tạ ơn Ngài, tôi cũng ước ao có một lần được đến chiêm ngắm kỳ công được cho là do chính tay Ngài tác thành, cũng như để cảm ơn Ngài vì muôn ơn lành Ngài hằng bầu cử cho tôi.

Niềm ao ước ấy đã được thể hiện sau nhiều ngăn trở từ việc nhà, việc làm, việc giờ giấc, và việc di chuyển. Cuối cùng chúng tôi gồm 3 cặp, tôi và nhà tôi, Ngoan-Kim Mai, và Hải Sơn-Loan đã cùng ngồi chung một chuyến xe trực chỉ California-New Mexico, thứ Bẩy, ngày 10 tháng 2 năm 2018. Một đoạn đường không hề ngắn đòi hỏi 14 giờ lái xe. Dường như Thánh Giuse đãi ngộ những người lữ hành chưa một lần được thấy tuyết. Trên đường đi, 3 người lữ hành phái nữ đã tỏ ra rất vui vẻ, hào hứng khi xe bước vào địa phận New Mexico, và lần đầu họ nhìn thấy tuyết rơi. Phải kể là tuyệt đẹp nếu ai chưa một lần nhìn tuyết rơi, nhất là nhìn tuyết rơi qua ánh sáng mờ ảo của đèn đường, và đèn xe. Nhưng người tài xế thì không vui và hào hứng tí nào. Đường xa thăm thẳm, tuyết phủ trắng hai bên và trước mặt, chỉ cần sơ ý một tí là cả phái đoàn lăn xuống vệ đường! Nhưng rồi cũng đến nơi an toàn.

Sau một giấc ngủ vùi, sáng hôm sau, Chúa Nhật, việc đầu tiên khi vừa thức giấc là các bà rủ nhau ra chụp hình dưới tuyết và với tuyết quên cả điểm tâm sáng. Sau khi đã say sưa với tuyết, phái đoàn trực chỉ thánh đường Đức Mẹ Guadalupe, tham dự thánh lễ tại nhà thờ chính tòa Thánh Phanxicô, và điểm dừng chân quan trọng nhất là nhà nguyện Loretto, nơi có cầu thang của Thánh Giuse. Buổi chiều lại cùng nhau viếng tu viện cổ của các tu sỹ Phanxicô, nơi có nhà nguyện Hố Cát.  

SANTA FE VÀ HUYỀN THOẠI    

 Trong các nơi hành hương lần này, nhà nguyện Loretto nơi có “cầu thang Thánh Giuse” được lưu ý đặc biệt, vì đó là nơi phát xuất chiếc cầu thang lịch sử này.

  Vào năm 1610, người Tây Ban Nha đã thành lập một tỉnh gọi là Santa Fe – thủ phủ của tiểu bang New Mexico hiện giờ. Cư dân bao gồm người bản địa Da Đỏ, người Mễ, và người Tây Ban Nha. Một vùng đất với nhiều nền văn hóa khác nhau, như văn hóa thổ dân Da Đỏ, văn hóa Tây Ban Nha, văn hóa Mễ Tây Cơ, và văn hóa Anglo. Thành phố do người Tây Ban Nha thống trị. Sau 25 năm đặt dưới quyền của Tân Cộng Hòa Mễ Tây Cơ, năm 1848 miền đất này được sát nhập và trở thành một tiểu bang của Hiệp Chủng Quốc sau cuộc chiến với người Mễ Tây Cơ. Santa Fé từ 130 năm nay, qua huyền thoại chiếc cầu thang tại nguyện đường Loretto, đã thu hút khoảng 250.000 khách hành hương mỗi năm.

Lịch sử nhà nguyện Loretto bắt đầu từ khi Giám Mục Jean Baptisite Lamy được phái đến New Mexico năm 1850. Việc đầu tiên là ngài đã nghĩ đến việc quảng bá đức tin rộng rãi và nâng cao nền giáo dục cho dân chúng trong vùng. Để giúp hoàn thành trách nhiệm, ngài đã mời một số các nữ tu Loretto từ Kentucky đến giúp. Năm 1852, nhà dòng gửi 7 chị em đến Santa Fe theo lời yêu cầu của Đức Giám Mục Lamy. Trên đường tới nhiệm sở, với thời tiết khắc nghiệt, bệnh tật, và băng qua phần đất của người thổ dân, Mẹ Bề Trên đã qua đời, vài nữ tu quá cao tuổi không thể tiếp tục cuộc hành trình và phải về lại Kentucky. Các nữ tu đã đến nơi vào năm 1852 sau những ngày tháng vất vả trong đó gồm nữ tu Catherine, Hilaria, Roberta, và Magdalen. Tất cả đã lập thành một cộng đoàn, và Đức Giám Mục Lamy đã đặt nữ tu Magdalen làm Bề Trên. Nữ tu Magdalen được mô tả là người có lòng tin mạnh mẽ, quyết đoán, và biết đối phó với những tình huống khó khăn của các chị em lúc bấy giờ. Ngày nay Santa Fe đã được đổi mới, nó khác xa với quá khứ thời mà hầu hết ngừơi Công Giáo là người Mễ Tây Cơ và người Da Đỏ địa phương.

Năm 1853, các nữ tu bắt tay vào việc mở trường học (Academy of Our Lady of Light ‘Loretto’).  Những lớp học bắt đầu phát triển với 300 học sinh trong 10 ngôi nhà. Nhờ sự đóng góp của các phụ huynh, tiền học phí, các nữ tu bắt đầu xây trường và nhà nguyện. Đức cha Lamy đã nhờ kiến trúc sư Antoine Mouly và con ông là Projectus Mouly từ Paris qua Santa Fe để xây nhà nhà thờ chính toàn Thánh Phanxicô trong 10 năm. Trong thời gian này, Đức Giám Mục cũng nói với các nữ tu nhờ hai kiến trúc sư này xây cho một nguyện đường. Bởi vì nhà trường cũng cần có một nhà nguyện. Nhà nguyện được khởi công vào ngày 25 tháng 7 năm 1873.

CẦU THANG LẠ

Khi hoàn thành công việc thì kiến trúc sư đột ngột qua đời, và các nữ tu cũng khám phá ra rằng ngôi nhà nguyện tuy rất đẹp nhưng lại không có cầu thang để cho các nữ tu lên gác đàn. Có hai giải pháp được đưa ra lúc bấy giờ. Một là dùng thang để lên xuống, hai là phá phần gác đàn đi làm lại, nhưng cả hai đều bị Mẹ Bề Trên từ chối. Phá gác đàn xây lại là chuyện không khả thi. Lên xuống bằng thang thì bất tiện, vì các nữ tu mặc áo dòng lòa xòa lên xuống cầu thang rất nguy hiểm. Mẹ Bề Trên đã mời nhiều kiến trúc sư nhà nghề đến nhờ đóng cho chiếc cầu thang, nhưng tất cả đều từ chối vì không thể làm được. Do đó, cả tu viện đã quyết định làm Tuần Cửu Nhật kính Thánh Giuse, người thợ mộc thành Nazareth với hy vọng sẽ có sự hướng dẫn và giải quyết vấn nạn từ Ngài.  

Ngày cuối Tuần Cửu Nhật bỗng có một người lạ với mái tóc hoa râm đến gõ cửa tu viện và tự xưng là thợ mộc. Ông nói ông có thể giúp các nữ tu làm một chiếc cầu thang. Ông chỉ yêu cầu một điều duy nhất là ông sẽ tự khóa mình trong nhà nguyện trong vòng 3 tháng, và cung cấp cho ông nước ấm để ngâm gỗ. Đồ nghề của ông rất đơn sơ bao gồm một chiếc búa, một cái cưa và một thước thợ.

Chiếc cầu thang đã được hoàn tất mà cho đến nay được công nhận là một kỳ công của ngành kiến trúc. Nó là một chiếc cầu thang hình xoắn ốc 360 độ, thẳng đứng 20 feet mà không có trụ đỡ. Nó đứng vững trên nền nhà nguyện với sức nặng của ca đoàn lên xuống đúng theo luật sức hút của trái đất. Một chi tiết lý thú khác là chiếc cầu thang ấy được hình thành bằng 33 bậc, trùng hợp với tuổi của Chúa Cứu Thế.

Có ba điều lạ lùng của chiếc cầu thang này, đó là:

Thứ nhất, cho đến ngày hôm nay không biết ai là người đã làm nên nó, vì làm xong chiếc cầu thang thì người khách lạ kia cũng biến mất. Các nữ tu đã không có cơ hội cảm ơn và trả tiền công cho ông. Do đó, có lời đồn đãi khắp thành phố Santa Fé thời bấy giờ là người thợ mộc ấy chính là Thánh Giuse, người đã được Chúa Giêsu sai đến để giúp giải quyết khó khăn cho các nữ tu.  Kể từ đó, cầu thang này được gọi là “cầu thang Thánh Giuse” và đã thu hút từng đoàn khách hành hương mỗi ngày. 

Thứ hai, các kiến trúc sư, các kỹ sư và các nhà khoa học đều nói rằng, họ không thể hiểu nổi tại sao một chiếc cầu thang như vậy lại có thể đứng vững mà không cần đến trục trung tâm chống đỡ. Đặc biệt là không có một chiếc đinh nào, hoặc hồ keo nào được dùng để làm nên cầu thang ấy. Trong thời gian đầu, cầu thang không có những thang cản. Lan can được thêm vào sau này. Một trong những thiếu nữ học tại trường thời gian đó khoảng 13 tuổi, sau này trở thành nữ tu Loretto đã kể lại câu truyện mà chưa bao giờ nói cho ai biết trước đó. Đó là chị và vài người bạn là người đầu tiên lên cầu thang này. Nữ tu cho hay lúc đó rất sợ hãi khi từ trên gác xuống, nên cả bọn phải dùng tay và đầu gối để bò. 

Và sau cùng là, những gỗ làm cầu thang này mua ở đâu? Họ đã thí nghiệm và kết luận rằng đây là thứ gỗ mà họ không thể tìm thấy trong toàn cả vùng ấy.  Chính Bề Trên tu viện đã đến một tiệm bán gỗ trong vùng để trả tiền gỗ, nhưng hỏi ra không ai biết người mua gỗ, và cũng chẳng có gỗ nào được bán ra. Ông Urban Weidner, một kiến trúc sư và là một người chuyên môn về gỗ ở Santa Fe nói rằng, ông chưa bao giờ thấy một cầu thang nào xoắn 360 độ mà không có trụ giữa. Theo ông, gỗ được lát rất xít sao và không có một cái đinh nào được dùng để giữ chúng. Và ông tự hỏi làm cách nào một người thợ mộc vào năm 1870 với những dụng cụ thô sơ lại có thể hoàn tất một công trình như vậy. 

Nhiều nhà chuyên môn khác cũng đã cố phân tích về khả năng và chất liệu gỗ. Không ai có được câu trả lời thỏa đáng về sự kiện được cho là mầu nhiệm này. Một cầu thang được sử dụng ròng rã 80 năm mà gỗ không bị mòn. Cũng theo Ông Weidner khẳng định thì thứ gỗ ấy không có trong vùng New Mexico. Vậy câu hỏi là người thợ mộc ấy lấy những gỗ ấy từ đâu?

Ngôi nhà nguyện ngày nay, mang dấu ấn của nhiều lần trùng tu như đàng thánh giá, bàn thờ và những hình được vẽ trên tường hoặc trần nhà vào năm 1890. Nhưng The Loretto Academy đã đóng cửa năm 1968, và phần đất này được rao bán. Vào thời gian bán năm 1971, Our Lady of Light không còn được xem như một nguyện đường Công Giáo nữa. Hiện nay nó là một bảo tàng viện với chiếc cầu thang lịch sử trong đó.

ITE AD JOSEPH

Đối với tôi, Thánh Giuse chính người cha, đấng quan thầy thần thánh. Tôi vẫn hằng ngày cầu xin với Ngài, cố gắng noi theo gương mẫu của Ngài trong đời sống tâm linh và trong việc chu toàn những trách nhiệm người gia trưởng của một gia đình. Hơn bao giờ hết, đời sống hôn nhân, ơn gọi gia đình đang là một thách đố lớn lao cho những giá trị tinh thần, tôn giáo, văn hóa và xã hội. Theo chị Lucia, một trong ba trẻ Fatima, thì trận chiến sau cùng mà Satan đang mở ra để quyết tranh dành các linh hồn với Chúa là trận chiến gia đình. Chỉ cần nhìn thoáng qua hiện tượng các gia đình, những giá trị hôn nhân ngày nay là đã đủ thấy tầm mức quan trọng của một vị gia trưởng, nếu như họ muốn lèo lái, muốn hướng dẫn gia đình mình đi đúng hướng, tiến tới hạnh phúc và bình an.

Viếng Cầu Thang Thánh Giuse lần này đối với tôi không chỉ là một cuộc hành hương, một sự thỏa mãn tính tò mò, mà là một lần trở về với ngôi nhà Nazareth thuở xưa nơi Thánh Giuse, Mẹ Maria, Chúa Giêsu đã từng sinh sống qua hình ảnh một tác phẩm mà chính do tay Ngài đã làm với kinh nghiệm một người thợ mộc.

“Ite ad Joseph”. Xin Thánh Giuse hãy gìn giữ, thánh hóa và hướng dẫn các gia đình, đặc biệt, các người cha, người mẹ, và con cái khi họ đến với Ngài. Bởi vì xưa Thiên Chúa đã trao cho Ngài gìn giữ và săn sóc Thánh Gia, thì ngày nay cũng xin Ngài gìn giữ và săn sóc các thánh gia nhỏ bé là các gia đình đang đặt niềm tin nơi Ngài.

Tháng Ba, tháng kính Thánh Giuse

3/2018

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Thánh Claude de la Combière

15 Tháng Hai

    Thánh Claude de la Combière
(1641- 1682)

    Thánh Claude sinh năm 1641 gần Lyons, nước Pháp, trong một gia đình đạo đức, giầu có. Ngài theo học trường của các cha dòng Tên về âm thanh và nghệ thuật.

    Sau đó Claude vào trường đệ tử dòng Tên ở Avignon, là nơi ngài học xong triết học và bắt đầu dạy về nhân văn. Trong thời gian ngài dạy học ở Avignon là khi đạo quân của Louis XIV chiếm đóng, dù đó là nơi đức giáo hoàng cư ngụ. Khi hòa bình trở lại, thành phố Avignon cử mừng lễ Thánh Phanxicô Sales; mặc dù chưa được thụ phong linh mục, Claude là một trong những người được yêu cầu giảng thuyết. Ðể hoàn tất chương trình thần học ngài được gửi sang Balê là trung tâm văn hóa của nước Pháp, ở đó ngài được chọn làm thầy giáo tư cho các con của một bộ trưởng Pháp, là ông Colbert. Nhưng trong một bài viết, ông Colbert có những lời châm biếm tôn giáo mà Cha Claude không tán thành với ông bộ trưởng, do đó ngài bị gửi trả về Avignon và được bổ nhiệm việc thuyết giảng ở một nhà thờ thuộc trường đại học.

    Trong các bài giảng, ngài thường tố cáo những sai lầm của lạc thuyết Jansen (1) mà ngài thấy đầy dẫy ở Balê. Cha Claude bài trừ tà thuyết bằng cách giảng dạy về việc sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Trong một cuộc tĩnh tâm ngài thề tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu.

    Hai tháng sau khi thề hứa, ngài được bổ nhiệm làm bề trên cho một trụ sở nhỏ của dòng Tên ở Paray. Chính ở đây mà ngài gặp Sơ Margaret Mary Alacoque (2), và là cha giải tội cho sơ và nhấn mạnh đến việc sùng kính Thánh Tâm Chúa.

    Sau đó Cha Claude được sai đến nước Anh với công việc giải tội cho Nữ Công Tước của York. Ngài rao giảng không những bằng lời nói mà còn bằng hành động, và đã đưa nhiều người Tin Lành trở lại đạo. Trong thời gian ở đây, những chống đối người Công Giáo ngày càng gia tăng. Có tiếng đồn cho rằng người Công Giáo âm mưu giết vua để tái lập đạo Công Giáo tại Anh. Cha Claude bị bắt và bị cầm tù về tội tham dự vào âm mưu này trước khi thành công trong việc hoán cải nhà vua. Chính nhờ vua Louis XIV can thiệp mà Cha Claude không bị xử tử.

    Cha Claude bị trục xuất, nhưng thời gian tù đầy đã ảnh hưởng tệ hại đến sức khỏe của ngài. Theo lời khuyên của Sơ Margaret Mary, ngài trở về Paray và từ trần tại đây năm 1682. Một ngày sau khi ngài chết, Sơ Margaret Mary được thị kiến siêu nhiên, đảm bảo rằng Cha Claude La Colombiere không cần được cầu nguyện, vì ngài đã ở trên thiên đàng.

    Cha Claude được Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong thánh ngày 31 tháng Năm 1992.

    (1) Cornelius Jansen – Giám Mục của Yprés – chủ trương rằng bản tính loài người quá hư hỏng vì tội nguyên tổ nên không có khả năng chống lại sự cám dỗ, không xứng đáng được rước lễ thường xuyên và Jansen chống lại sự thờ kính nhân tính của Chúa Giêsu được thể hiện qua việc sùng kính Thánh Tâm.

    (2) Thánh Margaret Mary Alacoque là người đã được Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần và sứ điệp đặc biệt là sùng kính Thánh Tâm Chúa. Thánh nữ được Chúa Giêsu gọi là “Người môn đệ yêu dấu của Thánh Tâm Ta.”

================
    Thánh Joan ở Valois
(1464 – 1505)

    Thánh Joan là cô con gái thứ hai của Vua Louis XI nước Pháp. Khi mới sinh được hai tháng thì ngài đã được hứa gả cho Công Tước Louis ở Orleans, và hôn nhân của họ xảy ra vào năm 1476 khi ngài mới 12 tuổi. Dĩ nhiên đó là một hôn nhân không có giá trị, và Công Tước Louis lấy ngài cũng chỉ vì lo sợ cho tương lai không biết sẽ ra sao nếu không tuân lệnh của nhà vua.

    Joan là một thiếu nữ tật nguyền, ngài bị gù lưng, đi khập khiễng và bị rỗ. Mặc dù ngài phải đau khổ vì tàn tật, nhưng ngài đã kiên nhẫn chấp nhận sự bất lực ấy và dành nhiều thời giờ để cầu nguyện và suy niệm.

    Khi chồng của ngài lên ngôi vua, Louis XII, hành động đầu tiên của ông là xin đức giáo hoàng tuyên bố hôn nhân ấy vô hiệu và chưa thành. Do đó, Joan không được làm hoàng hậu của nước Pháp; ngài được ban cho tước hiệu Nữ Công Tước của Berry. Ðối với Joan đó là sự khuây khỏa khôn cùng và ngài đã đến Bouges. Ở đây ngài sống cuộc đời ẩn dật để cầu nguyện, và vào năm 1501, theo lời khuyên của vị linh hướng là Cha Gilbert Nicolas dòng Phanxicô, ngài sáng lập dòng nữ tu chiêm niệm – Nữ Tu Dòng Truyền Tin mà quy luật chính yếu là bắt chước các nhân đức của Ðức Maria như được kể trong Phúc Âm.

    Thánh Joan từ trần ngày 4 tháng Hai năm 1505 khi 41 tuổi. Ngài được phong thánh vào năm 1950.

    Trích từ NguoiTinHuu.com

Anh chị Thụ & Mai gởi

Những vị thánh thân xác vẫn nguyên vẹn nhiều năm sau khi qua đời.

 

Những vị thánh thân xác vẫn nguyên vẹn nhiều năm sau khi qua đời.

Một số vị thánh được Chúa gọi về cách đây đã nhiều thập niên, thậm chí nhiều thế kỷ nhưng thi hài của họ vẫn không suy suyển.

Phải chăng đây là hiện tượng siêu nhiên hay một tiến trình sinh học chưa giải thích được? Thân xác nhiều vị thánh nam nữ đã được gìn giữ khỏi quy trình mục nát tự nhiên sau khi qua đời. Thông thường các trường hợp như thế được phát hiện khi Giáo hội tiến hành các thủ tục tuyên chân phước hay hiển thánh. Một số vị đã được chôn cất lại, trong khi thi hài các vị khác được trưng bày trong các hòm thánh tích để tín hữu tôn kính. Ngày nay, khoảng 100 trường hợp như thế đã được xác định trên thế giới.

Giáo hội cẩn trọng xem xét các trường hợp nêu trên, và cũng không tuyên bố đây là điều khoản buộc phải tin. Trong không ít trường hợp, một số vị được cho là thi hài nguyên vẹn sau khi qua đời trên thực tế là do đã được ướp xác.

Sau đây là một số trường hợp những vị thánh hoặc chân phước nổi tiếng vì thi hài không bị hủy hoại 

1. Thánh Catherine Labouré (1806-1876), nữ tu dòng Nữ tử Bác ái Vinh Sơn, được tuyên thánh năm 1947. Khi được ĐTC Piô XI tuyên chân phước năm 1933, thân xác nữ thánh lúc ấy được khai quật và trong tình trạng nguyên vẹn. Thánh nhân được tắm rửa và đặt trong hòm thánh tích bằng đồng mạ vàng, trong nhà nguyện Ảnh Vảy, phố du Bac, thủ đô Paris (Pháp).

2. Việc tuyên chân phước cho nữ thánh Bernadette (1844-1879) đòi hỏi phải khai quật xác thánh làm ba lần, năm 1909, 1919 và 1925. Thân thể ngài được bảo toàn cách kỳ diệu. Tuy nhiên, việc này vẫn còn được tranh luận, bởi vì một bác sĩ đã khẳng định rằng xác của nữ thánh đã được ướp trước đó. Hơn nữa, khuôn mặt và đôi bàn tay đã phần nào bị thoái hóa; một lớp bằng sáp đã được bao phủ lên hai phần thân thể ấy để bảo quản. Ngày nay, thi hài của thánh nhân được đặt vào hòm thánh tích bằng kính, trong nguyện đường tu viện cổ Saint Gildard, tại thành phố Nevers (Pháp).

3.    Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII (1881-1963) được tuyên hiển thánh ngày 27.4.2014, cùng lúc với Đức Gioan Phaolô II. Xác ngài được khai quật năm 2001 và không thay đổi gì sau gần 4 thập niên. Ngài được đặt trong một quan tài bằng pha lê, dưới bàn thờ nhà nguyện Saint-Jérôme, thuộc Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, với một mặt nạ bằng sáp, che mặt ngài.

4.   Thánh Padre Pio (1887-1968) được ĐTC Gioan Phaolô II tuyên thánh ngày 16.6.2002. Khi được đào lên, xác ngài xông hương thơm ngào ngạt. Máu ngài chảy khi người ta rạch một đường nhỏ trên thân thể ngài. Chỉ dung mạo ngài được phủ một mặt nạ bằng silicon.

5.  Chân phước Anne-Marie Taigi (1769-1837), người Ý. Thân xác vị chân phước không bị hủy hoại, hiện được đặt tại Rome, trong thánh đường Saint-Chrysogone.

6.   Thánh nữ Madeleine-Sophie Barat (1779-1865) là một nữ tu người Pháp, sáng lập Dòng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Xác ngài được bảo toàn trong một quan tài được mở ra nhiều lần năm 1908, trong quá trình điều tra để tuyên chân phước. Thân xác vị thánh vẫn còn nguyên vẹn. Lúc ấy, người ta đã làm một mặt nạ cho ngài. Năm 1909, thánh Madeleine-Sophie Barat đã được đặt yên nghỉ vào hòm thánh tích bằng đồng mạ vàng. Thánh nữ được ĐTC Piô XI tuyên thánh ngày 24.5.1925.

7.   Thánh Gioan-Maria Vianney (1786-1859), cha sở Thánh, họ Ars, đồng thời là thánh bảo trợ mọi linh mục. Xác ngài được khai quật lần đầu ngày 12.10.1885 và lần hai, năm 1904. Di hài của thánh nhân vĩ đại này đã khô nhưng còn nguyên, lúc ấy lại được ướp và bảo tồn trong hòm thánh tích, tại cung thánh lớn, được xây để tưởng nhớ đến ngài.

8.   Thánh Têrêsa Avila (1515-1582) là một nữ tu người Tây Ban Nha, người canh tân Dòng Kín thế kỷ 16. Xác ngài không bị hủy hoại, và được chia ra một số phần. Hiện các thánh tích của ngài hiện diện khắp nơi : tại Rome, Lisbon, Paris, và nhiều địa điểm tại Tây Ban Nha. Phần di hài còn lại được đặt trên bàn thờ chính của nhà thờ Truyền tin cho Đức Mẹ (Alba de Tormes), trong một mộ phần bằng hoa cương.

Thánh Antôn đã chiến đấu với ma quỷ như thế nào?

Thánh Antôn đã chiến đấu với ma quỷ như thế nào?

 

Thánh Antôn Viện Phụ (cũng gọi là Antôn Ai Cập, Antôn Cả hay Antôn tu rừng) đã được Tin Mừng gợi hứng để bán đi tất cả tài sản và sống một cuộc đời cô tịch trong sa mạc Ai Cập. Ngài thiết lập một cư sở cho mình biệt lập khỏi thế giới, nhưng lại không thể thoát hoàn toàn khỏi các kẻ thù ngoan cố nhất.

Bởi vì Thánh Antôn là một người rất thánh thiện và gần gũi với Thiên Chúa, ma quỷ không ngừng tung mọi chiêu nó có ra để chống lại Thánh nhân. Nó không thể dụ dỗ ngài bằng của cải trần thế, thì nó tấn công ngài về tinh thần lẫn thể xác. Thánh Athanasiô đã ghi nhận lại một vài cuộc đối đầu như thế.

Sau khi cám dỗ ngài đam mê tiền của thất bại, ma quỷ xui khiến một người đàn ông trẻ đến phá rối Thánh Antôn suốt ngày suốt đêm. Tuy thế, sau mỗi cuộc cám dỗ, Thánh nhân đều thanh tẩy bản thân bằng đức tin, cầu nguyện và chay tịnh.

Thất bại làm cho Thánh nhân mất thanh tịnh, ma quỷ giả dạng làm một cậu trai trẻ và đến hàn huyên cùng ngài. Thánh Antôn nói với nó: “Mày thật là hèn hạ, vì tâm địa mày u tối, còn mày thì yếu đuối như một đứa con nít. Tao sẽ không có vấn đề gì với mày đâu, vì Chúa là Đấng phù trợ tao, và tao sẽ chẳng thèm để ý đến kẻ thù tao làm chi.”

Ma quỷ để ngài yên một thời gian, nhưng không lâu sau nó lại quay lại cám dỗ quyết liệt, với nhiều quỷ hơn. Quỷ dữ thậm chí còn hiện ra và đánh đập thân xác Thánh Antôn, để khiến ngài sợ mà quay lại với thế giới bên ngoài. Kiên định trong đức tin, Thánh Antôn quát mắng ma quỷ: “Tao là Antôn, tao ở đây; tao không chạy trốn mày đâu, cho dù mày có tấn công tạo nhiều hơn, thì cũng chẳng gì có thể chia tách tao khỏi tình yêu của Đức Kitô… Cho dẫu có cả quân đoàn được lập ra để chống tao, tao cũng không sợ.”

Sau mỗi lần ngài bị ma quỷ đánh đập, Thánh Antôn lại được củng cố trong đức tin và được Thiên Chúa đến an ủi. Về sau, ngài dạy các môn đệ của ngài cách đánh bại ma quỷ: “Hãy bảo vệ chính mình bằng dấu Thánh giá, và cứng rắn xao lãng đi, để chúng nó tự chơi với nhau.” Lúc khác, ngài dạy: “Nhưng chúng ta phải sợ hãi những gợi ý của chúng, và tránh đi bằng kinh nguyện, chay tịnh và tin tưởng vào Chúa. Các tấn công của chúng sẽ thất bại ngay.”

Trong bất cứ cơn cám dỗ nào ta đối mặt, Thánh Antôn luôn dạy rằng:đức tin, cầu nguyện, chay tịnh, và dấu Thánh giá là đủ để đánh bại lưới dò của quỷ dữ. Ma quỷ rất mạnh mẽ, nhưng các Thánh luôn luôn và luôn luôn chứng minh rằng nó không hề và không thể nào đối địch nổi với những ai đặt trọn tin tưởng nơi Thiên Chúa toàn năng.

Theo Aleteia
Gioakim Nguyễn lược dịch

From: hnkimnga & Anh chị Thụ Mai gởi

THÁNH GIOAN DON BOSCO (Ý, 1815-1888)

 THÁNH GIOAN DON BOSCO (Ý, 1815-1888)

 Cuộc đời thánh Gioan Don Bosco, như chính ngài viết trong nhật ký theo lệnh ÐGH Pio IX, ghi lại dòng Salésiens, gồm 3 phần: sống nghèo với cảnh mẹ góa con côi.  Ơn gọi làm linh mục, mở trường giáo dục con em, và lập Dòng Salésiens.  Cha Thánh suốt đời sống và phục vụ người trẻ.  Trước khi qua đời 31.01.1888, cha nói: Hãy nói với các bạn trẻ, ta chờ chúng ở trên Thiên Ðàng.  Thánh nhân được phong Chân Phước 02.06.1926, và Hiển Thánh 1.4.1934, do ÐGH Pio XI.  Lễ kính 31.1 hàng năm.  Khi phong thánh, Ðức Giáo Hoàng tôn vinh Don Bosco là cha và thầy của thanh thiếu niên. Năm 2015, kỷ niệm 200 sinh nhật Thánh Don Bosco, Ðức Giáo Hoàng Phanxico nói: Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật thánh nhân, xin hoán cải giới trẻ trong tinh thần tươi trẻ huynh đệ như xưa, ngài đã đào luyện.

  1. Nghèo cảnh Mẹ Góa con côi

 Thánh Gioan Don Bosco sinh 15.08.1815, lễ Ðức Mẹ Lên Trời, tại làng Becchi, Marialdo, thị trấn Castelnuovo d’Asti, bắc Ý, xa Torino 17 cây số.  Ngày 17, Gioan được rửa tội do cha Giuse Festa.  Trong sổ rửa tội ghi tên em nhỏ: Bosco Joannes Melchior.  Melchior là tên ông nội.  Chữ Don thêm vào để “tôn kính” hay “cha.”

 Mẹ Gioan là Magarita Occhiena di Capriglio (+1865).  Ông bà thành hôn năm ông 28 tuổi bà 24 tuổi.  Cha của Gioan là Phanxico Aloysii, dân quê.  Ông qua đời 12.5.1817, 34 tuổi.  Năm đó, Bosco mới 22 tháng, mẹ kéo Gioan vào buồng khóc, nói: Bố không còn nữa.  Gia đình có ba anh em: Antôn con mẹ trước, Têrêxa mất khi mới hai ngày.  Giuse và Gioan.  Trong nhà còn bà nội, 70  tuổi.

Gia đình sống trong thời đói kém.  Dân làng ăn cháo bột bắp hay mì.  Người chết đói la liệt ngoài đường, miệng còn ngậm cỏ.  Có tiền cũng không mua được thức ăn.  Có lần bà mẹ nhờ người hàng xóm đi mua thức ăn.  Họ mang tiền về.  Cả nhà bàng hoàng lo sợ.  Giữa lúc túng bấn ngặt nghèo, bà qua nhà bên cạnh vay mượn chút ít.  Nhưng không ai có.  Bà nói với các con: Khi bố chết, có dặn: phải có lòng tin.  Nghe lời bố cả nhà qùi xuống cầu kinh.  Rồi bà xuống bắt con bê, nấu một phần cho con ăn, qua cơn đói.

Ngay trong những ngày đói kém, có người ngỏ ý muốn kết hôn.  Bà từ chối: Thiên Chúa cho tôi một người chồng.  Nay Chúa cất đi.  Anh trao lại cho tôi ba đứa con.  Tôi sẽ là người mẹ độc ác, nếu bỏ rơi chúng đang khi chúng cần tôi.  Người ta nói với bà tìm cho mỗi đứa một người giám hộ tốt.  Bà trả lời: giám hộ chỉ là bạn.  Tôi là mẹ, không bao giờ bỏ con.  Dù cho tôi vàng bạc.  

 Chính bà để tâm dạy các con đọc kinh chung, lần chuỗi và cầu nguyện.  Năm Don Bosco lên sáu, xưng tội lần đầu mẹ dẫn con đến nhà thờ, tham dự Lễ, bà xưng tội trước, sau đến con.  Ðức Pio XII nói về gia đình bà: hãy xem người phụ nữ góa, cùng ba đứa con cầu nguyện.  Chúng như thiên thần nhỏ.  Người mẹ mở tủ, lấy quần áo cho con mặc.  Ðem con đi nhà thờ làng bên cạnh.  Sau cơm tối, con cái vây quanh, bà nhắc các con 10 giới răn.  Kể cho con cuộc tử nạn Chúa Giêsu.  Sau này, Bosco kể lại, nhờ mẹ, mà mình có lòng tôn kính Phép Thánh Thể.

Mẹ không có nghề trong tay, nên Bosco làm nhiều việc, phụ giúp nuôi gia đình như: chăn bò, bửa củi, bồi bàn càfê, may quần áo…  Năm 11 tuổi, Gioan mới cắp sách, đi bộ 4 cây số, mới đến trường, do các linh mục điều hành, kỷ luật.

 Nghèo, lại lận đận học hành, Bosco mất học nhiều năm.  Từ nhỏ nuôi mộng thành linh mục.  Nhưng sợ mẹ vất vả tốn kém.  Bà đã nói với con: đừng băn khoăn.  Mẹ nghèo, sống và chết nghèo.  Năm 16 tuổi, Bosco nhập tu.  Giờ rảnh Bosco xin tập họp trẻ mồ côi, vui chơi và dạy giáo lý.  Sau khi làm linh mục, cha bắt tay gầy dựng theo ước mơ.  Lần đầu 1 trẻ đến.  Ba hôm sau có 9 em.  3 tháng có 25 em.  Chẳng bao lâu, toàn trẻ mồ côi đến.  Sáng lễ, xưng tội.  Chiều giáo lý, hát vui chơi.  Cha lập các “nguyện xá” qui tụ thanh thiếu niên, vui chơi.  Cha có thiên tài viết nhạc thuyết phục trẻ và chủ trương: Nhà Salésiens thiếu âm nhạc, chỉ là xác không hồn.  Bosco yêu giới trẻ.

 Có mẹ Margarita, thánh Gioan Don Bosco trở thành nhà giáo dục thanh thiếu niên tài giỏi.  Anh của Bosco nóng tính hay hành hạ em.  Bà buồn.  Cha sở thấy Gioan thông minh chọn vào nhà xứ học latinh, chuẩn bị đi tu.  Anh ghét, bắt Gioan làm việc tối ngày lại đánh đập, có khi Gioan ngất xỉu.  Nhìn xa, biết con sẽ đau khổ, bà gửi con tới nhà cậu em, xa 20 cây số.  Ở nhà cậu, em làm bánh mì, nặng nhọc thức khuya dậy sớm.  Dưới ánh lửa tối, Gioan lấy sách ra học.  Ðôi khi bà gửi con đến nhà những người quen.    

Ðến hôm người anh lập gia đình, ở riêng.  Bà mẹ đem con về nhà và gửi vào cha xứ tiếp tục tu luyện.  Ngày con nhập tu viện Torino, nghèo bà phải bán áo cưới may cho con áo chùng thâm.  Ngày con thụ phong linh mục, bà qùy nhận phép lành, bà nói: mẹ sung sướng thấy con thành linh mục.  Con thành tâm phụng sự Chúa và các linh hồn.

Có lần thấy mẹ lạnh, ăn mặc lôi thôi, cha mua cho mẹ áo mới.  Lâu không thấy mẹ mặc, cha hỏi.  Mẹ trả lời đã bán phụ tiền nuôi trẻ.  Sau nhiều năm phụ con, cạn tiền, lại già, kiệt sức, vì lũ trẻ tinh nghịch, phá phách bà xin nghỉ.  Cha nói với mẹ: vắng mẹ, còn ai giúp con.  Bà mẹ mắt mờ, lưng còng, hai mẹ con nhìn nhau, nước mắt lưng tròng, nói: Gioan con, mẹ hiểu và ở lại với con…. cho đến chết.  Tụi nó là con mẹ.  Sau 20 năm phụ con, bà qua đời ai cũng mộ mến và gọi là má Magarita.  Hiện có tượng má lớn ngay cổng vào làng cũ xưa.  Tay mang giỏ hoa.  Bà qua đời năm 1865, sau 20 năm phụ con giáo dục, giúp trẻ em.  Ai cũng mộ mến gọi bà: Má Margarita. 

  1. Linh Mục trẻ ở Torino

 Mẹ thánh nhân nói với con lúc 14 tuổi khi vào chủng viện Chierin ở Turino: Mẹ tràn đầy niềm vui, khi thấy con mặc áo chùng thâm, nhưng con nên nhớ “chiếc áo không làm nên thầy tu.”  Nếu ngày nào con nghi ngờ ơn gọi, thì mẹ van xin con, hãy chọn con đường khác.  Mẹ thích đứa con nông dân nghèo hơn linh mục sao lãng bổn phận.  Lúc con chào đời, mẹ đã dâng con cho Đức Mẹ.  Khi con đi học, mẹ đã dặn con tôn kính Người trong khó khăn.  Giờ đây con hãy chọn Đức Mẹ là nữ vương của con.

 Năm 1848, Don Bosco thụ phong linh mục, lúc đầu làm tuyên úy nhà tù, sau có mẹ phụ giúp, phục vụ giới trẻ trong xóm lao động.  Và 1844, làm tuyên úy lưu xá sinh viên.  Từ 1856, hai mẹ con trực tiếp nuôi khoảng 150 đến 200 trẻ em.

 Từ nhỏ Gioan cảm thấy ao ước làm linh mục.  Cậu kể lại giấc mơ, năm lên 10.  Một đêm trong giấc mơ, Gioan Don Bosco thấy mình đứng giữa bọn trẻ đang đánh nhau và chửi tục.  Cậu khuyên can, chúng không nghe.  Bỗng, người áo trắng đến mỉm cười, nói:

–   Bằng tình yêu, em sẽ biến chúng thành ngoan ngoãn đạo hạnh.

–   Nhưng thưa ông, cháu nghèo và dốt.

–   Vâng lời, chịu khó học, em sẽ làm được.

–   Thưa, ông là ai? 

–   Ta là con Trinh Nữ mà mẹ em đã dạy phải cầu nguyện, em hãy xin Mẹ Ta giúp.

 Rồi kìa, Ðức Mẹ xuất hiện, mặt dịu hiền, nói với Don Bosco:

–   Con nhìn xem…

Theo tay Mẹ chỉ, Bosco nhìn thấy đoàn chó dữ.  Ðức Mẹ tiếp:

– Như Mẹ xử với đoàn chó dữ thế nào, con hãy xử với các trẻ như vậy.

 Từ giấc chiêm bao đó, Don Bosco hiểu được sứ vụ giáo dục phục vụ thanh thiếu niên.   

Ngày kia, mẹ dẫn Bosco đi coi xiệc.  Về nhà, Bosco nảy ra, bắt chước trong xiệc “tự tập leo giây.”  Mỗi lần té, Bosco lại đọc Kinh Kính Mừng.  Sau nhiều lần, Bosco thành công.  Tập hết màn này, sang màn khác.  Cuối cùng, Don Bosco trình diễn một buổi xiệc.  Thành công.

 Nguyện xá ở Valdosco

 Năm 1848, chuyện xảy ra khiến cha nghĩ phải lập nhà riêng cho giới trẻ nghèo.  Là hôm  đó, cha vào phòng áo chuẩn bị lễ, thì nhìn thấy người coi phòng áo đánh đập cậu bé.  Cha đuổi ông.  Tên cậu Garetti Bartholomew, 16 tuổi, làm gạch.  Ba hôm sau cậu rủ thêm 8 người khác, đến gặp cha.  Rồi được Thiên Chúa và Ðức Mẹ thúc đẩy, Cha nghĩ ra nơi tập trung cho thanh thiếu niên đến ngày một đông.  Cha đặt tên cho trung tâm này Nguyện xá.  Các linh mục, dân chúng, trong vùng không tán thành vì cho rằng cha đã lôi kéo bọn trẻ, chúng không đến nhà thờ được.  Trong khi đó, chính quyền làm khó dễ, cho là ồn ào, mất an ninh.  Nên bước đầu cha tập trung thanh thiếu niên ngoài cánh đồng.  Ngủ lều, lưu động, mưa gió, nhất là thực phẩm vô cùng khó khăn.  Có những ngày, cha dẫn đàn em xin ăn.  Bên ngoài nhìn vào, người ta cho cha điên.  Nhưng kiên tâm, kết quả tốt, nhờ giúp đỡ người thiện nguyện.  Chính trong các Nguyện Xá có thánh lễ, ca hát, lớp học chữ và nghề.

 Ngày nay, trung tâm Valdocco còn lại: lớp học, phòng ăn, phòng ngủ, sân chơi, vòi nước… xưa, rộng rãi, một lúc cho cả mấy ngàn em…  Nguyện xá lần lượt xây cất, dựng lên, với bao tiếng hoan hô và hâm mộ.  Các em đến ngày một đông.  Nổi tiếng. 

  1. Lập Dòng Phanxico Salésiens.

 Một mình không thể làm xuể.  Có lần Cha mệt, té, tưởng chết.  Từ đó, năm 1859, cha và các cộng sự viên có ý tưởng lập Dòng Don Bosco, chuyên giáo dục thanh niên.  Có dòng nam và nữ Salésiens. Người ta thường gọi Don Bosco là Vincent de Paul mới.  Theo tinh thần của Thánh Phanxico.  Ðược Tòa Thánh công bố, 22.07.1864, mang tên Hội Ðạo Ðức thánh Phanxico đệ Salê, với sắc lệnh Decretum Laudis.  Ðức Pio IX, phê chuẩn hiến luật, 1873.

 – 1859, đầu tiên có dòng Nam, tên là “Phanxico Salésiens’’ (SDB).  Dòng lo giáo dục, dạy nghề cho thanh thiếu niên.  Dòng còn lo truyền giáo.  Triết lý giáo dục là hiểu biết và yêu thương giới trẻ.  Chân phước linh mục Michel Rua là 1 trong 8 tu sỹ khấn dòng đầu tiên.  Sau làm Bề trên kế nghiệp Cha Bosco.  Họ được chọn trong những em được cha Bosco nuôi.

 Khẩu hiệu Dòng: Xin cho tôi các linh hồn.  Các sự khác cứ lấy đi (x. St. 24, 21-23)

 – 1872, Cha cùng thánh Marie Mazzarello lập Dòng Nữ mang tên “Dòng con Ðức Mẹ Phù Hộ Giáo Hữu” (FMA)

 – 1876, Cha bề trên cả Phillip Rinaldi (sau là chân phước) thành lập ‘‘Chí nguyện Don Bosco (VDB) nhiệt tâm với giới trẻ.  Họ là những người độc thân, có nam, có nữ được thánh hiến.  Dưới sự hướng dẫn của linh mục Salésiens.

 Sau khi Thánh Don Bosco qua đời, những người tình nguyện và cựu học sinh mộ mến Dòng, lập ra ba tổ chức sau, yểm trợ cho Dòng tiếp tục đào tạo thế hệ trẻ.

 –  “Hội Cựu học viên Don Bosco” (FMA) gồm những học sinh đã chịu ơn Salésiens, rải  rác khắp nơi, đóng góp tài sức cho dòng Salésiens. 

 –  “Hội Cộng tác viên Salésiens” gồm giáo dân sống trong gia đình và cả linh mục trong xứ đạo, sống Tin Mừng theo tinh thần Don Bosco, trên thế giới, phục vụ giới trẻ địa phương.

 –  “Hội Truyền giáo giáo dân Salésiens” gồm nam nữ độc thân hay có gia đình, làm việc tự nguyện, ít ngày, bên cạnh SDB, FMA, tại các nước truyền giáo, có người Salésiens.  

   Lạy thánh Gioan Don Bosco, là người cha, thầy, bạn tuyệt vời của bạn trẻ.  Xin cho chúng con biết noi gương Ngài cả đời đem hết tâm huyết nhiệt tình lo cho thanh thiếu niên, giáo dục bằng tình yêu và gương sáng, để giúp các em về và ở lại với Chúa mãi mãi.  Amen.

 Sưu tầm

From Langthangchieutim

THOMAS AQUINAS – TIẾN SĨ KHIÊM NHƯỜNG

THOMAS AQUINAS – TIẾN SĨ KHIÊM NHƯỜNG

 Thánh Thomas Aquinas (Toma Aquino, 1225–1274) là phát ngôn viên xuất sắc của truyền thống Công giáo về tín lý và mạc khải.  Ngài là 1 trong 4 thầy dạy vĩ đại của Giáo hội Công giáo thời Trung cổ (3 vị kia là Alexandre Hales, Albert Cả và Bonaventura), Ngài được tôn vinh là Tiến sĩ Giáo hội và Tiến sĩ Thiên thần.  Thomas thông thái xuất chúng nhưng rất khiêm nhường. 

Thomas Aquinas chào đời vào mùa xuân năm 1225 tại Rocca-secca, gần Aquino, một thị trấn ở miền Nam nước Ý.  Thomas là con trai thứ ba trong một gia đình vị vọng: Ông bà Bá Tước Landolfo và Theodora. 

Lúc 5 tuổi (1230), Thomas được song thân gửi vào Đan viện Biển Đức tại Cassino để thụ huấn.  Song thân của Thomas hy vọng con trai sẽ trở thành Tu viện trưởng của Đan viện này, vì điều đó sẽ làm cho ảnh hưởng của thân phụ lan rộng hơn, và để làm vẻ vang dòng dõi quý tộc.  Nhưng năm 1235, Thomas phải rời Đan viện vì có sự tranh chấp giữa thần quyền và thế quyền, trong đó có sự tham dự của các vị lãnh đạo thành Aquino.  Là con vị lãnh chúa vùng Aquinas thuộc hoàng tộc Hohenstanfen nhưng Thomas không thích thế quyền. 

Năm 1239, Thomas bắt đầu theo học tại phân khoa nghệ thuật Đại học Neapoli, và tốt nghiệp năm 1244, lúc đó Thomas vừa tròn 19 tuổi.  Tại đây, ngài rất say mê triết học của Aristote.  Cũng chính thời gian này Thomas khám phá ra ơn gọi tu trì. 

Năm 1243, Thomas bỏ kế hoạch của gia đình và xin vào Dòng Anh Em Thuyết Giáo (Dòng Đa-minh), mẹ ngài rất thất vọng.  Thế nên mẹ ngài cho người bắt ngài về và biệt giam ngài ở nhà hơn 1 năm.  Thậm chí gia đình còn thuê gái điếm vào quyến rũ Thomas, nhưng ngài đã lấy cây củi đang cháy trong lò sưởi mà đuổi đi.  Ngài vẽ hình Thánh Giá trên tường và qùy xuống cầu nguyện.  Thiên thần hiện ra thắt dây đồng trinh cho ngài.  Vì thế, ngài còn được gọi là Tiến sĩ thiên thần.  Sau 1 tháng, ả gái điếm đành chịu thua.  Người chị thương em nên giúp Thomas trốn khỏi nhà. 

Khi được tự do, ngài đi Paris rồi tới Cologne và hoàn tất việc học với Thánh Albert Cả.  Ngài tốt nghiệp và làm giáo sư tại Paris khi mới ngoài 20 tuổi.  Ngài sống trong dinh của Đức Giáo Hoàng Urban IV, hướng dẫn các trường dòng Đa-minh ở Rome và Viterbo, tranh luận với các tu sĩ khất thực, tranh luận với một số tu sĩ Dòng Phanxicô về thuyết của Aristote, và chống lại giáo thuyết Manich, kể cả phái Averroist.  Trong trường, Thomas rất ít nói.  Ngài thường suy tư đến ngây người nên bị gán cho biệt danh “con bò câm xứ Silixia.”  Giáo sư Albert biết lực học của Thomas nên nói trước lớp: “Hãy học theo Thomas trong cách suy nghĩ.  Đó là một con bò, nhưng tiếng rống của con bò này sẽ vang dội khắp thế giới.”  Quả thật, lời tiên báo đó của Thánh Albert Cả đã ứng nghiệm.

Năm 1248, Thomas theo thầy Albert về Cologne dạy học và tiếp tục nghiên cứu.  Cũng tại đây, Thomas được lãnh tác vụ linh mục và dần dần trở nên nổi tiếng về sự thông thái và thánh thiện.  Giáo quyền muốn dành cho Thomas nhiều chức tước và đặc ân, nhưng Thomas từ chối tất cả, chỉ muốn làm một tu sĩ bình thường, không danh vọng, không chức tước. 

Trong thời gian làm giáo sư, Thomas đã đọc nhiều tác phẩm thuộc đủ các môn và đã sáng tác nhiều tác phẩm triết học và thần học rất có giá trị.  Sinh thời, danh tiếng ngài vang dội, nhiều người đổ xô đến xin ý kiến ngài.  Người ta hỏi:

– Theo giáo sư, nhàn rỗi là gì?
– Là cái búa mà kẻ thù bổ xuống đầu bạn.
– Cái gì tạo ra sức mạnh của giáo sư: Kinh nguyện, việc làm hay ý chí?
– Kinh nguyện.  Ai không cầu nguyện thì như người lính ra trận không có vũ khí.
– Làm thế nào để được cứu độ?
– Phải khiêm nhường. 

Khi ở Ý, Đức Giáo Hoàng Urban IV giao cho ngài nhiều trọng trách – như giảng thuyết cho người Do thái, và muốn trao mũ gậy giám mục cho ngài nhưng ngài từ chối để được dạy học và lo việc cho nhà dòng.  Tương truyền, Thomas đã đàm đạo với Đức Mẹ, các thánh và cả với Chúa Giêsu nữa.  Có lần Chúa Giêsu hỏi: “Sách con viết, Ta rất hài lòng.  Con muốn được thưởng gì?”  Thomas đáp: “Con chỉ muốn được yêu mến Chúa mà thôi.” 

Công đóng góp to lớn của ngài cho Giáo hội Công giáo là những sách ngài viết, đặc biệt là bộ Tổng luận Thần học (Summa Theologiae) được viết từ năm 1266–1273.  Sự hiệp nhất, sự hài hòa và sự liên tục của đức tin và lý lẽ, của kiến thức con người tự nhiên và được mặc khải, tất cả đã thấm sâu vào những gì ngài viết.  Thánh Thomas, với tư cách là người-của-Phúc-Âm, đã trở thành người hăng hái bảo vệ chân lý mặc khải.  Ngài hiểu biết sâu rộng đủ để thấy trật tự thiên nhiên đến từ Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo, và thấy lý lẽ là tặng phẩm từ trời rất được yêu mến.

 Nhưng tác phẩm cuối cùng của ngài bộ Tổng luận Thần học, giải quyết toàn bộ Thần học Công giáo, lại chưa hoàn tất.  Ngài ngừng viết tác phẩm này sau khi cử hành Thánh lễ ngày 6-12-1273.  Khi được hỏi tại sao ngài ngừng viết, ngài khiêm nhường cho biết: “Tôi không thể tiếp tục… Những gì tôi đã viết có vẻ như rơm rác so với những gì tôi nhìn thấy và những gì tôi được mặc khải.”

 Có một thời gian, sách của Thánh Thomas đã bị Giáo hội cấm vì cho là lạc giáo, nhưng sau đó lại công nhận và tuyên bố rằng ai không đọc sách của ngài sẽ bị lầm lạc.  Bất kỳ ai tu học làm linh mục đều phải học Triết học và Thần học của ngài.  Trước đây, các trường học đời cũng học Triết học của ngài, và ngay từ các lớp tiểu học, các học sinh đều đọc kinh cầu nguyện với ngài trước giờ học: “Lạy Thánh Thomas là quan thày các nhà trường…”.

Ngài đã được Đức Giáo Hoàng Grêgôriô mời đến dự Công đồng Lyon II.  Nhưng khi đang trên đường tới dự Công đồng, ngài bị bệnh và qua đời ngày 7-3-1274 tại Đan viện Xitô Fossa Nuova, lúc đó ngài 49 tuổi – tuổi mà người ta cho là “tuổi độc” (49 chưa qua, 53 đã tới).  Ngài được Đức Giáo Hoàng Gioan XXII tôn phong hiển thánh năm 1323, và được Đức Giáo Hoàng Piô V tôn phong Tiến sĩ Hội thánh năm 1567 vì đạo lý uyên bác và vững chắc của ngài.  Đức Giáo Hoàng Leo XIII đã đặt ngài là bổn mạng các nhà thần học và các trường học Công giáo.  Giáo hội cử hành lễ nhớ Thánh Thomas Tiến sĩ ngày 28 tháng 1 hằng năm. 

Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, con cảm tạ Chúa đã ban cho Giáo hội một Thomas thánh thiện và thông thái, nhưng lại rất khiêm nhường; xin giúp con biết noi gương Thánh Thomas.  Lạy Thánh Thomas, bổn mạng đáng kính của con, xin soi sáng và hướng dẫn con ngay từ khi con suy nghĩ, và dạy con biết hành động như ngài, tất cả chỉ vì Danh Chúa chứ không vì thứ gì khác.  Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm-Người và cứu độ nhân loại. Amen.

 Thom. Aq. Trầm Thiên Thu

Ngày 17 tháng 1 THÁNH AN-TÔN Viện phụ

Ngày 17 tháng 1 THÁNH AN-TÔN Viện phụ

Trang Chủ » Hạnh Các Thánh » Ngày 17 tháng 1 THÁNH AN-TÔN Viện phụ

* Gương Thánh Nhân:

Sinh năm 251 tại Cai Rô, miền thượng Ai Cập, thánh An tôn là con một gia đình giàu có, đạo đức, Ngay từ nhỏ, thánh nhân đã được cha mẹ dạy dỗ sống đời đức hạnh. Khi lên 18 tuổi thì cha mẹ ngài qua đời, để lại một gia tài to lớn.

Một hôm, ở thánh đường, thánh nhân nghe đọc lời kinh thánh: ” Nếu con muốn nên trọn lành hãy về bán hết của cải mà phân phát cho người nghèo khó rồi theo Ta”. ( Mt .19,21). Ngài nghĩ là lời đó Chúa muốn nói với mình, nên về bán hết gia tài cha mẹ để lại, phân phát cho người nghèo, chỉ để lại chút ít cho người em gái, rồi vào sa mạc ăn chay, hãm mình, cầu nguyện và làm việc cực nhọc hằng ngày để sinh sống. Thánh A-ta-na-xi-ô đã viết về ngài: ” Anh tự làm lấy mà ăn vì anh đã nghe nói rằng: Ai không làm thì đừng có ăn. Tiền làm ra, anh đem mua bánh ăn một phần; phần còn dư lại, anh phát cho kẻ nghèo.

Anh cầu nguyện liên lỉ, vì anh nghe nói phải cầu nguyện riêng không ngừng. Anh chăm chỉ đọc sách đến nỗi không để rơi lời Kinh Thánh nào, nhưng nhớ hết, đến nỗi sau này anh có thể dùng trí nhớ thay cho sách vở. Mọi người trong làng, mọi kẻ hẳn hoi đến thăm anh. Thấy anh sống như vậy, họ gọi anh là bạn của Chúa. Người thì yêu anh như con cái, kẻ lại thương anh như anh em”

Mặc dầu sống giữa sa mạc hoang vu hiu quạnh, thánh nhân luôn bị ma quỷ cám dỗ. Chúng cám dỗ ngài về những ham mê xác thịt, tiền của, danh vọng, nhất là bỏ đời tu luyện khắc khổ mà trở về thế gian. Nhưng chúng càng cám dỗ dữ dội chừng nào, ngài càng tăng gia ăn chay cầu nguyện nhiều chừng nấy. Và nhờ ơn Chúa ngài luôn luôn chiến thắng . Dầu vậy, thánh nhân cũng phải rời sa mạc hai lần. Lần thứ nhất vào năm 311, do cuộc bắt đạo của A-la-xi-mô-nô. Ngài đi khích lệ các tù nhân và khuyến khích mọi người trung thành làm chứng cho Chúa. Lần thứ hai ngài rời sa mạc trở lại thành A-lê- xăn-tri, để phụ giúp Đức Giám mục A- na-ta-xi-ô chống lại lạc giáo. Ngài rảo khắp thành thị làng mạc, rao giảng kêu gọi mọi người trung thành sống theo giáo huấn của Hội thánh. Đi tới đâu, dân chúng cũng tuôn đến nghe ngài, vì ngài giảng rất hùng hồn thông suốt, khiến nhiều người lầm lạc ăn năn hoán cải. Còn những kẻ đạo đức trí thức thì hết sức ngạc nhiên về tài trí thông minh của ngài. Họ không ngờ ngài sống trong sa mạc, thiếu liên lạc tiếp xúc với các nền văn hoá cũng như không có sách vở học hỏi mà thấu suốt hết mọi vấn đề, nhất là về phương diện thiêng liêng nhân đức. Họ không biết rằng ngài đã học biết Chúa nhiều hơn qua các cảnh vật thiên nhiên do Thiên Chúa tạo dựng. Đối với người có đức tin và lòng sốt mến, thiên nhiên là cuốn sách vĩ đại giúp họ nhìn biết Thiên Chúa và các tài năng, đức tính của Người.

Sau khi giúp Đức Giám mục giải quyết lạc giáo xong, thánh nhân trở lại đời sống ẩn dật, khắc khổ nơi sa mạc. Từ đó, nhân đức thánh thiện của ngài vang dội khắp nơi. Nhiều người đạo đức đến xin làm môn đệ ngài. Thế là nhờ Thánh An tôn mà phong trào ẩn tu đã phát triển mạnh mẽ. Và nhiều người đã nên thánh nhờ lời giáo huấn và gương sáng đời sống của ngài. Lúc đó, ngài đã gần 100 tuổi. Ngài biết sắp từ giã cõi trần, nên hằng ngày lo dọn mình trở về cùng Chúa. Ngài qua đời năm 356, hưởng thọ 105 tuổi.

* Quyết tâm: Noi gương thánh An-tôn, sẵn lòng từ bỏ mọi sự giàu sang, vui sướng ở đời, sống âm thầm thân mật với Chúa trong việc ăn chay cầu nguyện hằng ngày, hầu đủ sức chống trả mọi chước cám dỗ của ma quỷ, xác thịt, thế gian.

* Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh An-tôn viện phụ sống một đời phi thường trong sa mạc để phụng sự Chúa. Xin Chúa nhậm lời người nguyện giúp cầu thay, mà cho chúng con biết quên mình, để một niềm yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.

GPVL

Ngày 17 tháng 01   

THÁNH ANTÔN ẨN TU
          (521-357)

Đời sống thánh Antôn là tấm gương chiến đấu liên lỉ và can đảm với thù tặc Satan, xứng đáng cho mọi người công giáo noi theo.

Antôn chào đời vào năm 251, tại làng Cosma thơ mộng, một làng đẹp nhất miền Ai Cập thượng. Cha mẹ ngài thuộc dòng tộc quý phái; lại giầu lòng đạo đức. Cả hai kiên tâm giáo hoá con cái về học vấn lẫn tu đức. Mà vì nền giáo dục quá nghiêm khắc, cậu Antôn ít được ra khỏi nhà hay chơi đùa với các bạn đồng tuổi. Suốt đời niên thiếu hầu như cậu chỉ biết có dinh thự gia đình và nhà nguyện của làng.

Năm 18 tuổi, sau khi cha mẹ từ trần, Antôn ở với em gái. Hai anh em theo gương cha mẹ, hết lòng yêu thương nhau, và giúp nhau sống đạo đức. Cũng vào kỳ này, Antôn nghĩ nhiều đến việc dâng mình cho Chúa. Một hôm đi dự lễ, Antôn nghe đọc lời Phúc Âm Chúa phán với người giầu có: “Nếu con muốn nên trọn lành, con hãy trở về bán hết gia tài, đem tiền cho kẻ khó rồi đến đây theo Cha, con sẽ được kho tàng trên trời”. Tưởng như Chúa nói với mình, Antôn nhất định áp dụng đến triệt để, và nhất quyết theo Chúa. Thánh nhân về nhà chia vườn đất cho người nghèo trong làng, bán đồ đạc lấy tiền bố thí cho người túng bấn. Ban đầu ngài còn để lại chút ít lấy cái độ thân và nuôi em, nhưng khi suy đến lời Chúa: “Con đừng bận tâm đến ngày mai”. Ngài lại đem bán tất cả những cái còn lại lấy tiền cho kẻ khó. Xong việc, ngài dâng cô em vào một cộng đồng Trinh nữ, và quyết chí bỏ thế gian.

Thời ấy ở Ai Cập chưa có mấy nhà dòng sống kiểu cộng đồng, vì những nhà đầu tiên đã bị phân tán trước ngọn gió bách hại. Đàng khác, đời sống ẩn tu dường như ít ai nghĩ đến. Sau nhiều ngày lang thang, Antôn tình cờ gặp một vị ẩn sĩ tuổi tác, Antôn liền xin dựng lều gần ông để tập sống đời ẩn tu. Đầu tiên vị ẩn sĩ trẻ tuổi này phân phối thời gian để học Thánh kinh, cầu nguyện và làm việc tay chân hầu phát triển cả thể xác lẫn tinh thần. Ngài không quên tìm cách ăn chay hãm mình, và dành thời giờ viếng thăm các đồng bạn chung quanh. Với ơn Chúa và thiện chí, không bao lâu ẩn sĩ trẻ tuổi ấy đã nên gương mẫu cho anh em cùng lý tưởng. Cảm phục nhân đức và đời sống khắc khổ của Antôn, các tu sĩ đã tặng người một tên đệm: “Đêicôla” nghĩa là kẻ thờ phượng Chúa.

Ngài đã chiến đấu, nhưng từ nay ngài càng phải chiến đấu hơn nữa với trăm ngàn cám dỗ của Satan. Chúng chịu làm sao được khi nhìn thấy tâm hồn thánh thiện của đầy tớ Thiên Chúa. Nhất nữa vì thánh nhân là người đã phát động phong trào tu hành phồn thịnh tại Ai Cập; Palestina và Arập. Sức chiến đấu can đảm của thánh nhân trong 25 năm trời, chứng minh đầy đủ câu châm ngôn: “Chúa không bao giờ để chúng ta bị cám dỗ quá sức chúng ta”.

Quả vậy, ma quỷ dùng chiến lược tấn công ngài như xưa chúng đã tấn công Chúa. Chiến lược thứ nhất chúng dùng vinh hoa thế gian và đau khổ đời tu hành. Chiến lược thứ hai là lạc thú tình dục với mọi hình thức khêu gợi. Và chiến lược thứ ba là lòng kiêu ngạo, coi mình như đã vượt mức thánh thiện. Và đây là chiến thuật đối phó của thánh nhân. Sẵn sàng nghênh chiến với Satan bằng tinh thần suy niệm và cầu nguyện liên lỉ, bằng hy sinh và đánh tội. Chính vì thế, ngài cầu nguyện và đọc sách thâu đêm, ăn chay đánh tội hằng ngày. Mỗi ngày ngài chỉ ăn một tấm bánh nhỏ với muối và nước lạnh sau khi mặt trời đã lặn. Chiến đấu với cám dỗ này thánh nhân lại chuẩn bị chống lại mưu độc khác.

Chưa lấy thế làm đủ, thánh Antôn còn muốn sống đời khổ hạnh hơn: ngài bỏ lều, xuống một hầm kín và chật chội. Không muốn một ai viếng thăm, trừ một thầy bạn, thỉnh thoảng tiếp tế đồ ăn cho ngài. Thánh nhân trốn xa người thế nhưng không thoát khỏi quyến rũ, hành hạ của Satan. Quả thế, trong hầm tối tăm này, thánh nhân có khi phải nhức óc vì những tiếng gầm thét, tru tréo của Satan mặc hình thức thú vật hoặc phải chết lử vì những trận đòn hung ác. Nhưng thánh Antôn vẫn kiên tâm, vì tin rằng Chúa hằng ở với ngài. Lần kia, sau trận đòn nhừ tử, thánh nhân tỉnh dậy thưa với Chúa: “ Lạy Chúa, vừa rồi Chúa ở đâu. Tại sao Chúa không giúp con ngay phút đầu?”. Lập tức có tiếng phán: “Cha vẫn ở đây, để chứng kiến con chiến đấu. Cha thấy con chiến đấu dũng cảm lắm, con hãy tin vào Cha, Cha sẵn sàng tiếp ứng con!”

Năm 35 tuổi, thánh nhân muốn rút lui vào hẳn sa mạc, với một số lương thực vừa đủ sáu tháng. Không một chút do dự trước những khối bạc lượng vàng ma quỉ bầy ra để quyến rũ, thánh nhân băng qua sông Nil, trèo lên một ngọn núi cao gần Atphite Ngài ở đó suốt 20 năm, không tiếp đón ai, trừ mấy người bạn hằng năm hai lần đem của ăn tới cho ngài.

Nhưng “hữu xạ tự nhiên hương”, dù thánh Antôn có ý tránh xa thế tục, thì hương thơm nhân đức lại lôi kéo nhiều khách thập phương đến thăm ngài. Ban đầu thánh nhân còn tìm lẽ nọ bầy kế kia để thoái thác, nhưng được ít lâu vì số người đến mỗi ngày một đông, lại nhất định tìm mọi cách để gặp mặt, nên thánh Antôn buộc lòng phải ra đón tiếp họ. Mục đích đoàn khách thập phương là đến thăm viếng và xin ngài dậy đường nhân đức. Và ngài cứ ở đây đón tiếp họ cho đến năm 305 mới nhận rõ ý Chúa là muốn ngài bỏ đời ẩn tu, đi lập các tu viện. Ngài lập nhiều tu viện, thu nhận nhiều môn đệ. Hằng năm ngài lần lượt đi thăm các cộng đồng tu sĩ và huấn dụ về đời sống thiêng liêng. Ngài theo kinh nghiệm bản thân, bầy tỏ cho các tu sĩ những mưu mô xảo quyệt của Satan. Và, theo ngài, khí giới chiến đấu hữu hiệu hơn cả là cầu nguyện, ăn chay, làm dấu thánh giá và thái độ coi khinh chúng.

Thêm vào đời sống tu hành khắc khổ, thánh Antôn còn mong mỏi được phúc tử đạo. Vậy năm 327, khi được tin Hoàng đế Maximinô Daia ra chỉ bách hại công giáo, và tại Alexanđria sắp có cuộc xử tử một số tín hữu kiên trung, thánh nhân liền nhất định xuống khích lệ anh em đồng đạo và mong được cùng chết vì Chúa Kitô. Vì thế, ngài cùng với một số tu sĩ xuôi dòng sông Nil, đáp thuyền vào tận thành phố. Rồi ngài ngang nhiên tiến thẳng vào toà án, khuyến khích tín hữu giữ vững đức tin, không kể gì đến các quan và dân ngoại. Ngài can đảm sống gần các vị tử đạo cho đến phút cuối cùng trên đấu trường. Nhưng ý Chúa không muốn ban cho thánh Antôn triều thiên tử đạo, Chúa muốn ngài thành một tấm gương can đảm chiến đấu và cầu nguyện ăn chay cho đại gia đình tu trì. Tuy nhiên thánh nhân vẫn lưu lại đô thị cho đến khi ngọn lửa bách hại tắt hẳn mới trở gót về cộng đồng tu sĩ.

Và từ đấy cho đến cuối đời, thánh Antôn không được sống an tịnh như ý muốn. Ngài dựng lều trên sườn núi Gôtzin (Gokzin) và suốt ngày tiếp đón mọi thứ người: các tu sĩ, các tín hữu và cả lương dân. Năm 342, ngài đến thăm thánh Phaolô Thêbê và tận tình giúp đỡ trong an táng thánh Phaolô. Bấy giờ tiếng khôn ngoan và nhân đức thánh Antôn vang lừng khắp kinh thành nên đã được thánh tổ phụ Athanasiô mời về thành để cùng chung lực chống lại các tà giáo, nhất là bè rối Ariô. Cũng thời này, thánh Antôn được Chúa cho phép làm phép lạ: Ngài chữa nhiều bệnh nhân, trừ người bị quỷ ám và biết trước số phận nhiều linh hồn bên kia thế giới. Ngoài ra, thánh Antôn còn được ơn nói tiên tri như lời thánh tổ phụ Gioan Christon làm chứng.

Sống được 105 tuổi, thánh Antôn biết mình kiệt sức và giờ về thiên quốc sắp tới, ngài liền hội các tu sĩ lại quanh giường, khuyên bảo lần sau cùng. Ngài cũng dậy các môn đệ đừng ướp xác và làm ma chay theo kiểu người Ai Cập. Sau cùng thánh nhân giơ tay chúc lành cho tất cả các tu sĩ và phó linh hồn trong tình yêu vô biên của Chúa ngày 17-1 năm 356.

Đến năm 561 dưới triều Hoàng đế Justiliô, người ta đem xác ngài về táng trong nhà thờ thánh Gioan Tẩy giả thành Alexanđria. Lòng sùng kính đối với thánh nhân bắt đầu từ các giáo đoàn Trung Đông và Tiểu Á. Phong trào tốt lành ấy mỗi ngày một lan rộng sang các nước Âu châu, và càng phổ cập hơn trong thế giới công giáo khi Giáo hội chính thức tôn phong ngài lên bậc Hiển thánh.

Tinmung

Anh chị Thụ & Mai gởi

Thánh Gioan Neumann

5 Tháng Giêng

    Thánh Gioan Neumann
    (1811 – 1860)

    Thánh Gioan Neumann sinh trưởng ở Bohemia. Vào năm 1835, ngài trông đợi để được thụ phong linh mục nhưng đức giám mục sở tại quyết định không phong chức thêm. Thật khó để ngày nay chúng ta tưởng tượng rằng Bohemia dư thừa linh mục, nhưng thực sự là như vậy. Gioan viết thư cho các giám mục khắp Âu Châu, nhưng câu trả lời ở đâu đâu cũng giống nhau. Tin rằng mình có ơn thiên triệu nhưng mọi cơ hội dẫn đến sứ vụ ấy dường như đều đóng kín.

    Không nản chí, và nhờ biết tiếng Anh khi làm việc trong xưởng thợ của người Anh, ngài viết thư cho các giám mục ở Mỹ Châu. Sau cùng, vị giám mục ở Nữu Ước đồng ý truyền chức linh mục cho ngài. Ðể theo tiếng Chúa gọi, ngài phải từ giã quê nhà vĩnh viễn và vượt đại dương ngàn trùng để đến một vùng đất thật mới mẻ và xa lạ.

    Ở Nữu Ước, Cha Gioan là một trong 36 linh mục trông coi 200,000 người Công Giáo. Giáo xứ của ngài ở phía tây Nữu Ước, kéo dài từ Hồ Ontario đến Pennsylvania. Nhà thờ của ngài không có tháp chuông nhưng điều đó không quan trọng, vì hầu như lúc nào Cha Gioan cũng di chuyển, từ làng này sang làng khác, lúc thì lên núi để thăm bệnh nhân, lúc thì trong quán trọ hoặc gác xếp để giảng dạy, và cử hành Thánh Lễ ngay trên bàn ăn.

    Vì sự nặng nhọc của công việc và vì sự đơn độc của giáo xứ, Cha Gioan khao khát có một cộng đoàn, và đã ngài gia nhập dòng Chúa Cứu Thế, là một tu hội chuyên giúp người nghèo và những người bị bỏ rơi.

    Vào năm 1852, Cha Gioan được bổ nhiệm làm giám mục Philadelphia. Việc đầu tiên khi làm giám mục là ngài tổ chức trường Công Giáo trong giáo phận. Là một nhà tiên phong trong việc giáo dục, ngài nâng số trường Công Giáo từ con số đơn vị lên đến 100 trường.

    Ðức Giám Mục Gioan không bao giờ lãng quên dân chúng — đó là điều làm giới trưởng giả ở Philadelphia khó chịu. Trong một chuyến thăm viếng giáo xứ ở thôn quê, cha xứ thấy ngài ngồi trên chiếc xe bò chở phân hôi hám. Ngất ngưởng ngồi trên mảnh ván bắc ngang trên xe, Ðức Gioan khôi hài, “Có bao giờ cha thấy đoàn tùy tùng của một giám mục như vậy chưa!”

    Khả năng biết tiếng ngoại quốc đã đưa ngài đến Hoa Kỳ thì nay lại giúp Ðức Gioan học tiếng Tây Ban Nha, Pháp, Ý, và Ðức để nghe giải tội bằng sáu thứ tiếng. Khi phong trào di dân người Ái Nhĩ Lan bắt đầu, ngài lại học tiếng Gaelic và sành sõi đến nỗi một bà Ái Nhĩ Lan cũng phải lầm, “Thật tuyệt chừng nào khi chúng ta có được vị giám mục là người đồng hương!”

    Trong chuyến công tác mục vụ sang nước Ðức, đến nơi ngài ướt đẫm dưới cơn mưa tầm tã. Khi gia chủ đề nghị ngài thay đôi giầy sũng nước, ngài trả lời, “Tôi chỉ có cách đổi giầy từ chân trái sang chân phải thôi. Chứ có một đôi giầy thì làm gì được.”

    Ðức Gioan từ trần ngày 5-1-1860 khi mới 48 tuổi. Ngài nổi tiếng về sự thánh thiện và sở học cũng như các trước tác tôn giáo và bài giảng, do đó ngài được phong chân phước ngày 13-10-1963, và ngày 19-6-1977 ngài được phong thánh.

    Lời Bàn

    Thánh Neumann coi trọng lời Chúa là “Hãy đi rao giảng cho muôn dân.” Từ Ðức Kitô, ngài nhận được các huấn lệnh và cũng nhờ Ðức Kitô mà ngài có thể thi hành sứ mệnh ấy. Vì Ðức Kitô không chỉ trao cho chúng ta sứ mệnh mà còn cung cấp phương tiện để hoàn thành. Ơn sủng mà Thiên Chúa ban cho Thánh Gioan Neumann là biệt tài tổ chức của ngài để qua đó ngài loan truyền Tin Mừng.

    Giáo Hội ngày nay rất cần đến sự hy sinh của mọi người trong công cuộc rao giảng Tin Mừng. Những trở ngại và những bất tiện thì có thật và tốn kém. Tuy nhiên, nếu chúng ta biết chạy đến Ðức Kitô, Ngài sẽ cung cấp cho chúng ta những khả năng cần thiết để đáp ứng với các nhu cầu ngày nay. Thần Khí Ðức Kitô tiếp tục hoạt động qua các trung gian là sự quảng đại của Kitô Hữu.

    Lời Trích

    “Vì mọi người thuộc bất cứ chủng tộc nào, điều kiện nào và thế hệ nào đều có phẩm giá của một con người, nên họ có quyền được giáo dục tùy theo số phận của họ và thích hợp với khả năng bẩm sinh, với phái tính, với văn hóa và di sản của tổ tiên họ để lại. Ðồng thời, việc giáo dục này phải dẫn đến tình huynh đệ với các dân tộc khác, để sự bình an và sự hợp nhất đích thực có thể thực hiện được ở trần gian. Vì sự giáo dục đích thực nhắm đến việc đào tạo con người đối với lợi ích của xã hội mà trong đó họ là một phần tử, và họ phải chia sẻ trách nhiệm của phần tử ấy như một người trưởng thành” (Tuyên Ngôn Về Giáo Dục Kitô Giáo, 1).

       Trích từ NguoiTinHuu.com