CÁC PHÉP LẠ CỦA THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ…

CÁC PHÉP LẠ CỦA THÁNH PHANXICÔ XAVIÊ…

1–Thánh Phanxico Xavier đã hoán cải được rất nhiều linh hồn. Trong một năm mà ngài xây dựng được đến 45 cộng đoàn Công giáo ở trong vùng truyền giáo của ngài. Thiên Chúa đã sử dụng ngài để làm nhiều phép lạ kỳ diệu.

Tại Malacca, thánh Phanxico Xavier đã làm cho một người chết đã chôn trong nhiều ngày được sống lại. Khi Thánh Phanxico đi xa trong nhiều ngày thì người con gái của một phụ nữ chết. Người mẹ này đi tìm kiếm ngài khắp nơi khi con gái bà còn bịnh. Khi bà biết được thánh Phanxico về rồi thì bà tin rằng ngài có thể làm cho con bà sống lại. Giống như thánh Martha nói với Chúa Giêsu rằng:

“Nhưng bây giờ con biết là ngài xin điều gì với Thiên Chúa thì Chúa sẽ ban cho ngài.” (Gioan 11:22)

Khi người mẹ gặp thánh Phanxico thì bà quỳ mọp dưới chân ngài giống như bà thánh Martha. Thánh Phanxico ngạc nhiên trước đức tin vững mạnh của bà mẹ và ngài đã cầu nguyện để xin Chúa cho người con gái của bà sống lại. Rồi ngài bảo người mẹ hãy ra ngoài mộ tìm con vì con gái bà đã sống lại. Người mẹ vừa mừng, vừa sợ bởi vì thánh Phanxico không tự mình ra mộ và con bà thì đã được chôn 3 ngày rồi.

Tuy nhiên bà không hỏi thêm ngài mà chạy vào nhà thờ, nơi có mộ con bà. Tại đó, bà cùng nhiều người chứng thấy tảng đá lấp mộ được rời đi và người con gái đã được chôn 3 ngày mà sống lại. Ai ai cũng vui mừng vì phép lạ ấy.

2–Thánh Phanxico có quyền năng dù ở một nơi xa nhưng làm cho người chết sống lại. Tại Nhật Bản ở vùng Cagoxima, có một người giàu có ngoại giáo vừa mất một con gái duy nhất. Ông ta  quá sức đau buồn. Có một số người Kitô giáo cảm thương ông nên bảo ông hãy tìm đến gặp Thánh Phanxico Xavier, một thầy giáo vĩ đại người Bồ Đào Nha. Người cha bèn đến gặp ngài và quỳ dưới chân ngài. Ông ta nức nở mà không nói thành lời nhưng vị thánh hiểu tâm tình của người cha đau khổ.

Thánh Phanxico bèn vào nhà nguyện dâng thánh lễ. Người giúp việc ngài là ông Joam Fernandez, đi vào nhà nguyện với ngài. Sau khi thánh Phanxico cầu nguyện, ngài đi ra ngoài và bảo người cha tội nghiệp ấy rằng lời cầu nguyện của ông ta đã được Chúa nhận lời. Thế là người cha đi về và cảm thấy buồn bã.

Trên đường đi, ông ta gặp một người đầy tớ báo tin rằng con gái của ông vừa được sống lại. Rồi người con gái chạy đi và gặp cha mình. Cô ta kể rằng khi cô tắt thở thì có hai con quỷ ghê gớm đến kéo cô đi. Bọn chúng đang định ném cô vào hỏa ngục thì có hai người thánh đến cứu cô ra. Và thế là cô được sống lại khỏe mạnh.

Khi người cha dắt con gái đến gặp thánh Phanxico thì cô ta nhận ra chính là ngài và ông Fernandez đã cứu cô thoát hỏa ngục. Thế rồi hai cha con đã xin học đạo và rửa tội.

3–Một phép lạ khác xảy ra khi thánh Phanxico ở trên chiếc tàu tên Santa Croce đến vùng San Chan. Bỗng dưng một bé trai 5 tuổi rớt xuống biển khi tàu đang chạy mau. Người cha đau buồn trong suốt 3 ngày. Đến khi Thánh Phanxico gặp ông trên tàu, ngài hỏi xem ông có tin Chúa Giêsu cứu được con ông không. Ông ta nói rằng ông ta tin dù biết đứa con đã rớt xuống biển 3 ngày và tàu đã đi xa nơi con ông rớt hàng trăm dặm.

Sau khi thánh Phanxico cầu nguyện thì người cha bỗng dưng thấy lại đứa con đang chạy đến với ông với vẻ vui mừng và hoan hỉ. Thế là hai cha con đều xin được rửa tội.

4–Tại Nhật Bản ở vùng Cagoxima, thánh Phanxico đã chúc lành cho một em bé bị tàn tật nặng nề, ngay lập tức, thân xác em trở lại bình thường và đẹp đẽ.

Một đức tính của vị thánh: Làm cho mọi người ngay thẳng và đẹp đẽ trong đôi mắt của Thiên Chúa.

5–Ngoài ra, thánh Phanxico còn làm cho một phụ nữ ngoại đạo được sống lại sau khi bà ta đã chết một ngày. Tại Malacca, ngài làm cho một người thanh niên tên là Francis Ciavos sống lại. Người này sau trở nên một linh mục dòng Tên.

Thánh Phanxico mất ngày 3 tháng 12 năm 1552, vào lúc ngài được 46 tuổi. Sau đó, khi cải táng, người ta tìm thấy xác ngài còn nguyên như ngù mà không hư hại.

Sau chỉ có 12 năm kể từ khi ngài ra đi truyền giáo thì ngài chết và xác ngài được đưa về Goa để tôn kính. Có rất nhiều phép lạ xảy ra chung quanh xác của ngài. Khi xác ngài được đặt tạm ở nguyện đường College of St. Paul vào ngày 15 tháng 3 năm 1554, có rất nhiều người mù được sáng mắt, những người liệt được hết bệnh, những người động kinh được khỏe mạnh. Ngày nay xác ngài được đặt tại Vương Cung Thánh Đường Born Jesu ở vùng Goa, nước Ấn Độ.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu


 

Thánh James ở Marche (1394-1476)- Cha Vương

Một ngày ấm áp trong tình yêu Chúa nhé. Hôm nay mời bạn tìm hiểu câu chuyện của vị thánh ngoài lịch, Thánh James ở Marche (1394-1476). Xin thánh nhân cầu bầu cho chúng ta nhé.

Cha Vương

Thứ 3: 28/11/2023

Thánh James sinh ở Marche thuộc tỉnh Ancona miền trung nước Ý, dọc theo bờ biển Adriatic. Sau khi lấy tiến sĩ giáo luật và dân luật tại Ðại Học Perugia, ngài gia nhập dòng Phanxicô, và bắt đầu một cuộc sống thật khắc khổ. Ngài ăn chay chín tháng trong một năm, và mỗi đêm chỉ ngủ có ba tiếng. Ngài hãm mình đến độ Thánh Bernardine ở Siena phải bảo ngài giảm bớt lại.

Thánh James học thần học với Thánh John ở Capistrano. Ðược thụ phong linh mục năm 1420, Thánh James bắt đầu cuộc đời rao giảng, và bởi đó, ngài đã đi khắp nước Ý cũng như đến 13 quốc gia thuộc Trung và Ðông Âu Châu. Sự hăng say của ngài đã giúp nhiều người trở lại đạo (người ta ước lượng khoảng 250.000 người), và giúp lan tràn việc sùng kính Thánh Danh Chúa Giêsu. Bài giảng của ngài thúc giục giáo dân cải thiện đời sống, và nhiều thanh niên gia nhập dòng Phanxicô vì sự ảnh hưởng của ngài.

Cùng với Thánh John ở Capistrano, Thánh Albert ở Sarteano và Thánh Bernardine ở Siena, Thánh James được coi là một trong “bốn cột trụ” của phong trào Nghiêm Thủ (Observant) của dòng Phanxicô. Các ngài nổi tiếng vì sự rao giảng.

Ðể chống với tệ nạn xã hội về số phân lời quá cao, Thánh James thiết lập một tổ chức gọi là “montes pietatis” (núi bác ái) – đó là một tổ chức bất vụ lợi, để cầm đồ với lãi suất thật thấp. Dĩ nhiên, các tay cầm đồ ác đức không hài lòng với tổ chức này, nên đã hai lần họ thuê người đến giết ngài, nhưng cứ mỗi lần đối diện với ngài là các hung thủ đều quên hết dự tính ở trong đầu. Ngài từ trần ở Naples ngày 28.11.1476, và được phong Thánh năm 1726.

LỞI BÀN: Thánh James muốn lời Chúa ăn sâu trong tâm hồn của người nghe. Lời giảng của ngài là để chuẩn bị mảnh đất tâm hồn, bằng cách lấy đi những sỏi đá, và làm mềm lòng những cuộc đời đã khô cằn vì tội lỗi. Chúa muốn lời của Người bén rễ trong đời sống chúng ta, nhưng để được như thế, không những chúng ta cần người rao giảng đầy sùng tín, nhưng chính chúng ta cũng phải tích cực lắng nghe.

LỜI TRÍCH: “Lời Chúa thật thánh thiện và đáng yêu quý dường nào! Chỉ có lời Chúa mới soi tỏ mọi tâm hồn tín hữu, làm thoả mãn người đói khát, an ủi kẻ đau khổ; lời Chúa giúp linh hồn tạo được công nghiệp và giúp mọi nhân đức phát triển; lời Chúa gìn giữ linh hồn khỏi nanh vuốt ma quỷ, giúp người độc ác nên thánh thiện, và mọi người trên mặt đất trở thành công dân nước Trời” (Trích Bài giảng của Thánh James).

From: Do Dzung

Hãy đi rao giảng Tin Mừng _ Quý Báu

Thánh Nữ Cecilia, đồng trinh tử đạo-Cha Vuong

The Feast of St. Cecilia - Chant Café

Mến chào bình an! Hôm nay 22/11 Giáo Hội mừng kính Thánh Nữ Cecilia, đồng trinh tử đạo, bổn mạng của những ai yêu thích nhạc. Mừng Bổn Mạng đến những ai chọn Ngài làm quan thầy nhé!

Cha Vương.

Thư 4: 22/11/2023

Trong thành Roma có một thiếu nữ đồng trinh rất xinh đẹp. Cha mẹ nàng gả cho một thanh niên con nhà giàu có danh vọng tên là Valerian. Dưới bộ áo quần xinh đẹp, nàng mang một bộ áo gai ngứa xót. Nàng thường ăn chay cầu nguyện xin các đấng thánh, các thiên thần, các thánh đồng trinh giữ gìn nàng được luôn trinh khiết.

Sau lễ cưới, nàng nói với chồng: “Em sẻ kể cho anh một bí mật nếu anh thề là không kể lại với ai.” Sau khi chồng thề hứa nàng nói tiếp: “Có một thiên thần gìn giữ em không cho phép ai được đụng tới người em.” Chồng nàng nói:”Nếu đúng như vậy thì em cho anh thấy thiên thần đó đi!” “Ðiều đó chỉ có thể xẩy ra nếu anh cũng tin vào Thiên Chúa và chịu phép rửa tội.”

Nàng đã nhờ Ðức Giáo Hoàng Urban rửa tội cho chồng và khi người chồng trở về nhà thì thấy vợ đang cầu kinh trong phòng và bên cạnh nàng có một thiên thần đang đứng, cánh rực như lửa, tay đang cầm hai vương niệm một bằng hoa hồng và một bằng hoa huệ sau đó đội lên đầu cho hai vợ chồng Cecilia và Valerian rồi biến mất. Một lúc sau Tibertius, em của Valerian bước vào ngửi thấy mùi hoa thơm dịu dàng và những bông hoa đẹp tuyệt vời, lấy làm lạ làm sao có thể có hoa đó trong mùa này.

Sau khi được nghe kể lại câu chuyện về vương niệm bằng hoa thì Tibertius xin được chịu phép rửa tội. Trong thời kỳ này các tín hữu bị bắt bớ và bị hành quyết rất dã man, hai anh em đã đi thâu lượm hài cốt các thánh tử đạo đem về chôn cất. Quan quân tìm bắt hai anh em và ra lệnh phải dâng hương quỳ lạy thần của họ nhưng hai anh em quyết liệt chối từ, nên chúng đã dùng gươm mà đâm chết các ngài.

Trong lúc đó thì Thánh Cecilia không ngừng rao giảng Tin Mừng, và hàng ngàn người đã xin gia nhập đạo Chúa. Cuối cùng thì thánh nhân cũng bị bắt và nhốt trong phòng tắm hơi nóng cho chết ngột, nhưng thánh nhân đã không chết, nên quan tổng trấn cho người đến chặt đầu. Tên đao phủ đã chặt đến ba nhát nhưng đầu vẫn chưa lìa khỏi cổ. Hoảng sợ hắn liền bỏ đi, và thánh nhân đã sống như vậy trong ba ngày. Dân chúng đem khăn vải đến tẩm máu của thánh nhân để tôn kính, trong lúc đó thánh nhân vẩn không ngừng rao giảng Lời Chúa cho họ.

Câu chuyện về thánh Cecilia đẹp như một bài tình ca cao thượng nên các nhạc sĩ chọn Cecilia làm bổn mạng và được trình bày như môt thiếu nữ xinh đẹp ngồi bên chiếc đàn thụ cầm. 

(Phó Tế JB Huỳnh Mai Trác)

Lạy thánh nữ Cecilia, xin cầu thay nguyện giúp cho chúng con để mọi người chúng con được mạnh mẽ, can đảm làm chứng cho Chúa như thánh nhân đã chứng minh cho mọi người.

From: Do Dzung

Ca mừng thánh nữ Cecilia – ca đoàn Cecilia 

Thánh Nữ Frances Xavier Cabrini – Cha Vương

Chúc Bạn có một tâm hồn trong sạch  để được thấy mặt Đức Chúa Trời nhé. Hôm nay 13/11 Giáo hội mừng kính Thánh Nữ Frances Xavier Cabrini. Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm bổn mạng. Chúc mừng!

Cha Vương

Thứ 2: 13/11/2023

Thánh Frances Xavier Cabrini là công dân Hoa Kỳ đầu tiên được phong thánh. Chính lòng tin tưởng mãnh liệt vào sự chăm sóc yêu thương của Thiên Chúa đã ban cho thánh nữ sức mạnh để trở nên một phụ nữ dũng cảm làm việc cho Ðức Kitô.

Francesca Cabrini sinh năm 1850 ở Sant’Angelo Lodigiano, Lombardi, nước Ý trong một gia đình có đến 13 người con. Khi 18 tuổi, ngài ao ước trở thành một nữ tu nơi ngài theo học sư phạm, nhưng vì sức khỏe yếu kém nên bị từ chối. Sau đó thánh nữ làm việc bác ái ở Cô Nhi Viện Ðấng Quan Phòng ở Cadogne, nước Ý. Vào tháng 9 năm 1877, ngài tuyên khấn và mặc áo dòng.

Khi đức giám mục đóng cửa cô nhi viện vào năm 1880, ngài đặt sơ Frances làm tu viện trưởng tu hội Nữ Tu Thánh Tâm Truyền Giáo (the Missionary Sisters ở the Sacred Heart) và bảy phụ nữ khác làm việc ở cô nhi viện cũng đã gia nhập tu hội này.

Ngay từ khi còn nhỏ, Thánh Frances đã có ý định đi truyền giáo ở Trung Cộng, nhưng theo sự khuyên bảo của Ðức Giáo Hoàng Lêo XIII, cùng với sáu nữ tu khác, ngài đến thành phố Nữu Ước để phục vụ hàng ngàn người Ý di dân đang sinh sống ở đây.

Ngài gặp nhiều chán nản và khó khăn trên bước hành trình. Khi đến thành phố Nữu Ước năm 1889, căn nhà được hứa để làm cô nhi viện đầu tiên ở Hoa Kỳ thì lại không có. Ðức tổng giám mục khuyên ngài trở về Ý. Nhưng Frances, một phụ nữ can đảm có thừa, đã rời bỏ tư dinh của đức Tổng và tự tay gầy dựng cô nhi viện. Và ngài đã thành công.

Trong 35 năm, mẹ Frances Xavier Cabrini đã thành lập 67 trung tâm để chăm sóc người nghèo, trẻ mồ côi, người ít học và bệnh nhân. Nhận thấy nhu cầu cần thiết của người di dân Ý trước viễn ảnh bị mất đức tin, ngài mở trường học và các lớp dạy giáo lý người lớn.

Mẹ Francesca Cabrini qua đời vì bệnh sốt rét ngày 22 tháng 12 năm 1917 tại Chicago, Illinois, USA . Thi hài của mẹ được chuyển về nhà thờ ở New York kế cận “Mother Cabrini High School” do mẹ sáng lập. Tu hội của Mẹ ngày nay đã có mặt tại các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ và Nam Mỹ.

Đức Chân Phước Giáo Hoàng Pius XI đã tôn phong Chân Phước cho mẹ Frances Xavier Cabrini ngày 13 tháng 11 năm 1938 liên quan đến một phép lạ chữa lành đôi mắt của một cậu bé do sự chuyển cầu của Đấng Đáng Kính Frances Xavier Cabrini.

Tám năm sau, Đức Giáo Hoàng Pius XII đã tuyên phong Mẹ Frances Xavier Cabrini lên hàng hiển thánh ngày 07 tháng 7 năm 1946 liên quan đến một phép lạ chữa lành căn bệnh lâu năm của một nữ tu và đặt Thánh Frances Xavier Cabrini là quan thầy của người di dân.

Trong nghi lễ phong thánh cho Mẹ Cabrini Ðức Giáo Hoàng Piô XII tuyên bố: “Mặc dù hiến pháp của tu hội ngài rất đơn sơ, nhưng ngài được ban cho một tinh thần phi thường đến nỗi, một khi tin rằng đó là ý Chúa, ngài không để bất cứ điều gì cản trở việc thực hiện mà những công trình ấy vượt quá sức lực của một phụ nữ.”

(Nguồn: Người Tín Hữu)

Sau đây là những cầu nói của ngài:

(1) Xin cho con một trái tim lớn rộng như vũ trụ.

(2) Nếu bạn gặp nguy hiểm, nếu lòng bạn bối rối, hãy hướng về Mẹ Maria; Mẹ là niềm an ủi và sự giúp đỡ của bạn; hãy  chạy đến Mẹ bạn sẽ được cứu.

(3) Nếu bạn sẵn lòng vác Thánh Giá thì Thánh Giá sẽ vác bạn.

(4) Chúng ta phải cầu nguyện không mệt mỏi, vì sự cứu rỗi của nhân loại không phụ thuộc vào thành công vật chất. . . nhưng trên một mình Chúa Giê-su mà thôi.

(5) Tôi sẽ đi bất cứ đâu và làm bất cứ điều gì để loan truyền tình yêu của Chúa Giê-su cho những người chưa biết Ngài hoặc đã quên Ngài.

Câu nào đánh động bạn nhất? Đối với mình là câu số 3.

From: Do Dzung

Chúa sai tôi đi -tinmung.net 

Thánh Maria Faustina

 

Cha Vương

05/10/2023

Hôm nay 05/10, Giáo hội mừng kính Thánh Maria Faustina sứ giả của lòng thương xót Chúa.

Uớc mong bạn cảm nhận được tình yêu vô biên của Thiên Chúa.

Chúc mừng quan thầy đến những ai chọn Ngài làm bổn mạng.

Khi vị thánh nữ này cất tiếng khóc chào đời tại Ba Lan ngày 25 tháng Tám năm 1905, thì song thân thánh nữ đã đặt tên cho ngài là Helen. Trong cuộc đời ngắn ngủi tại thế, Helen đã thực hiện một sứ vụ quan trọng là dạy cho thế giới biết về Lòng Thương Xót của Đức Chúa Giêsu. Ngay từ lúc lên 7, Helen đã muốn sống cuộc đời tận hiến cho Thiên Chúa như một nữ tu. Khi được 25 tuổi, Helen vào tu trong dòng Chị Em Con Đức Mẹ Thương Xót, và nhận tên là sơ Maria Faustina.

Công việc của sơ Maria Faustina thật giản dị. Sơ nấu ăn, làm vườn và giữ cửa cho tu viện. Chỉ có sự tốt bụng, trầm lặng và hồi tâm là đáng lưu ý. Và ít có người biết được những chiều sâu đích thực về đời sống tâm linh của sơ Faustina. Thiên Chúa đã chúc lành cho sơ Faustina Maria bằng nhiều ân sủng đặc biệt, kể cả ơn thị kiến, ơn tiên tri và ơn được nhận năm Dấu Thánh cách vô hình.

 

 

Trong một thị kiến mà sơ Maria Faustina nhận được, Chúa Giêsu đã hiện ra trong y phục màu trắng. Người giơ cao một tay để chúc lành và tay kia thì chạm vào Thánh Tâm Người. Có hai tia sáng phát ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu, một màu đỏ và một màu nhạt. Tia sáng đỏ tượng trưng cho Máu cứu chuộc của Chúa Kitô, còn tia xanh nhạt biểu trưng nước thanh tẩy trong bí tích Rửa tội. Chúa Giêsu nói: “Con hãy cho vẽ lại bức ảnh như con xem thấy Cha, kèm theo dòng chữ: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác nơi Chúa!” Chúa Giêsu đã nói với sơ Maria Faustina rằng Chúa nhật sau lễ Chúa Phục Sinh sẽ được gọi là Chúa nhật kính Lòng Thương Xót.

Sơ Maria Faustina đã viết nhật ký, chép lại mọi điều Chúa Giêsu muốn cho thế giới biết về Lòng Thương Xót của Người. Trong đó, Maria Faustina đã viết những lời cầu nguyện thật dễ thương, biểu lộ mối tương quan rất mực thân thiết đối với Đức Chúa Giêsu. Và Đức Chúa Giêsu nói với Maria Faustina rằng thánh nữ chính là thư ký nhỏ của Người. Chính công việc đặc biệt của thánh nữ Maria Faustina đã khích lệ nhiều người tin tưởng vào Lòng Thương Xót vô hạn lượng của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu hứa ban ơn tha thứ và ân sủng dư tràn cho bất cứ ai tôn sùng lễ kính Lòng Thương Xót Chúa. Tận hiến cho Lòng Thương Xót Chúa bao gồm tin tưởng vào lòng nhân hậu Chúa, yêu thương tha nhân, năng lãnh nhận bí tích Hòa giải để luôn ở trong tình trạng có ân sủng và rước lễ ngày Chúa nhật kính Lòng Thương Xót Chúa.

 

 

Chỉ sau 13 năm sống trong bậc tu trì, sơ Maria Faustina Kowalska đã về trời vào ngày mùng 5 tháng Mười năm 1938 vì bệnh lao phổi, vừa tròn 33 tuổi.

Chúa Giêsu đã nói với thánh nữ Maria Faustina Kowalska: “Cha mong muốn con hãy luôn bày tỏ lòng thương xót ra khắp mọi nơi. Con không thể tự biện minh gì về điều này!” Phương thế tốt nhất để chứng tỏ chúng ta tin cậy vào Lòng Thương Xót của Đức Chúa Giêsu là biết tỏ bày lòng thương xót và luôn tha thứ cho những người xúc phạm đến chúng ta. Chúng ta có sẵn lòng cùng nhau thực hiện như vậy không? Vậy hôm nay mời bạn dành thời gian lần chuỗi Lòng Thương Xót Chúa để đền tội mình và tội lỗi của toàn thế giới. Sau đây là câu nói của ngài:

(1) Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Cực Thánh! Bao nhiêu lần hít thở, bao nhiêu lần nhịp tim đập, bao nhiêu lần dòng máu luân chuyển trong cơ thể con là bấy nhiêu ngàn lần con muốn tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa. (Thánh Faustina)

(2) Chúa Thánh Thần không nói với một linh hồn chia trí và lắm lời. Chúa Thánh Thần nói qua những soi động lặng lẽ của người với một linh hồn tịnh tâm, một linh hồn biết giữ thinh lặng. (Thánh Faustina)

Câu nào đánh động bạn nhất?

.
Previous slide
Next slide

Phim, Nhạc về Lòng Thương Xót Bao La Vô Cùng Tận của Chúa

Ngợi Ca Lòng Thương Xót Chúa
PlayPlay
Phim Cuộc Đời Thánh Nữ Maria Faustina
PlayPlay
Đên Với Lòng Chúa Xót Thương - Diệu Hiền
PlayPlay
Tiểu Sử Thánh Nữ Faustina
PlayPlay
Các Bài Hát Ca Ngợi Lòng Thương Xót Chúa
PlayPlay
previous arrow
next arrow
Ngợi Ca Lòng Thương Xót Chúa
Phim Cuộc Đời Thánh Nữ Maria Faustina
Đên Với Lòng Chúa Xót Thương - Diệu Hiền
Tiểu Sử Thánh Nữ Faustina
Các Bài Hát Ca Ngợi Lòng Thương Xót Chúa
previous arrow
next arrow

Nhật Ký Lòng Thương Xót Chúa - Thánh nữ Faustina ---Tập 1 đến 106

Nhat Ký Lòng Thương Xót Chúa 1-10
PlayPlay
Tập 1-10
Nhat Ký Lòng Thương Xót Chúa 11-20
PlayPlay
Tập 11-20
Nhat Ký Lòng Thương Xót Chúa 21-30
PlayPlay
Tập 21-30
Nhat Ký Lòng Thương Xót Chúa 31-40
PlayPlay
Tập 31-40
Nhat Ký Lòng Thương Xót Chúa 41-50
PlayPlay
Tập 41-50
Nhat Ký Lòng Thương Xót Chúa 51-60
PlayPlay
Tập 51-60
Nhat Ký Lòng Thương Xót Chúa 61-70
PlayPlay
Tập 61-70
Nhat Ký Lòng Thương Xót Chúa 71-80
PlayPlay
Tập 71-80
Nhat Ký Lòng Thương Xót Chúa 81-90
PlayPlay
Tập 81-90
Nhat Ký Lòng Thương Xót Chúa 91-106
PlayPlay
Tập 91-106
previous arrow
next arrow

Thánh Phanxicô Átxidi (Assisi)

Catholic Gifts and More: The Feast of Saint Francis of Assisi

 

 

Cha Vương

Thứ 4: 04/10/2023

Hôm nay 04/10 Giáo Hội mừng kính thánh Phanxicô Átxidi (Assisi). Mừng lễ Bổn Mạng đến những ai nhận thánh Phanxicô làm quan thầy nhé. Nguyện cho bình an của Chúa toả lan trên khắp thế giới hôm nay.

Thánh Phanxicô sinh khoảng năm 1181, tại thành phố Átxidi nước Ý. Thánh Phanxicô Átxidi chỉ sống cuộc đời trần thế có 45 năm. Nhưng cuộc đời của Ngài là cả một bài ca. Một bản nhạc với những dòng nhạc,với những cung bậc, hòa nên một bản trường ca tình yêu tuyệt vời.

Người ta trong nhiều thế kỷ đã không ngớt ca ngợi thánh nhân vì con người lạ lùng của thánh nhân giữa cuộc đời. Ngay anh em trong Dòng cũng không nhận ra Ngài có gì đặc biệt mà sao lạ lùng thu hút mọi người. Thánh nhân đã rất khiêm nhượng, sự khiêm tốn của một tâm hồn thánh thiện đã nhìn ra con người đầy khiếm khuyết, đầy tội lỗi của mình và có làm được gì là do ân huệ nhưng không của Chúa, đã biến cái tầm thường nên cái phi thường, đã biến cái đơn sơ, nhỏ bé nên cái vĩ đại khôn lường.

Vì thế, tình yêu của Phanxicô Átxidi là một tình yêu mang tính cụ thể, thánh nhân yêu mọi người, mọi vật, Ngài biến mọi sự vật, mọi thụ tạo nên sinh động và có nhân tính. Ngài yêu tất cả vì Ngài thấy Thiên Chúa nơi tất cả mà trung tâm là Chúa Giêsu. Thánh nhân yêu thương mọi người với tất cả con tim của mình, với cả cuộc đời mình vì chính Chúa đã chết cho nhân loại trong đó có cả Phanxicô Átxidi. Tình yêu của Phanxicô Átxidi là tình yêu mang tính vui tươi, thoải mái,  Ngài sống trong niềm vui vì lúc nào Ngài cũng mang Chúa trong con người của mình, Ngài đồng hóa mọi sự và nhân cách hóa tất cả để tất cả ca ngợi Chúa trong niềm vui.

Thánh nhân sinh ở Átxidi khoảng năm 1182. Cha Ngài là ông Bênađô là một thương gia tơ sợi nổi tiếng và mẹ Ngài là bà Pica, một người đạo đức, thánh thiện đã hun đúc Ngài nên một vị thánh thời danh. Cuộc nổi loạn của những người lê dân chống lại những nhà quí tộc.

Thánh nhân bị bắt và bị giam cầm trong suốt một năm trời ròng rã. Ngài bị một căn bệnh hiểm nghèo và được Chúa cứu chữa, Ngài được khỏi bệnh và Chúa đã cảm hóa Ngài với câu:” Lạy Cha chúng tôi ở trên trời “.

Năm 1206, thánh nhân quyết định rũ bỏ bụi trần, từ bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu, dù rằng bị người cha già hết sức phản đối, thánh nhân rất thương cha nhưng không dám làm trái ý Chúa.

Thánh nhân phân phát tất cả của cải mình có cho những người nghèo, Ngài chỉ giữ lại một chiếc áo choàng cũ kỹ, rồi ra đi rao giảng Tin Mừng. Ðược Chúa thúc đẩy, soi sáng, thánh nhân đã lập Dòng anh em hèn mọn.

Thời gian sau đó, Ngài lui về Alverne, một nơi thật cô liêu phía Bắc Átxidi để ăn chay, cầu nguyện và sống tình thân với Thiên Chúa.

Chúa yêu thương Ngài cách đặc biệt, nên trong lúc Ngài xuất thần, Ngài nhìn thấy Tổng Lãnh Thiên Thần Séraphim và một ảnh chuộc tội. Tỉnh dậy, Ngài đã được Chúa in năm dấu thánh trên người lúc đó là năm 1224.

Chỉ hai năm sau đó, Ngài lâm trọng bệnh. Trước khi ra đi về với Chúa, thánh nhân khuyên nhủ anh em trong Dòng giữ đức khó nghèo tuyệt đối và trung thành với Giáo Hội Chúa Kitô.

Thánh nhân qua đời vào ngày 4.10.1226. Ðức Thánh Cha Grêgoriô đã tôn Ngài lên bậc hiển thánh.

(Nguồn: SimonDalat)

ST. FRANCIS OF ASSISI | A CHRISTIAN PILGRIMAGE

Nói đến Thánh Phanxicô thì chúng ta nghĩ ngay đến Kinh Hòa Bình. Có thể nói, từ những tư tưởng này, ngài được mệnh danh là Sứ giả hòa bình bởi vì chúng là điểm qui chiếu cho đời sống an hòa nơi ngài.

Vậy hôm nay mời Bạn dành thời gian để suy niệm Kinh Hòa Bình nhé:

Lạy Chúa, xin hãy dùng con / Như khí cụ bình an của Chúa / Để con đem yêu thương vào nơi oán thù / Đem thứ tha vào nơi lăng nhục / Đem tin kính vào nơi nguy nan / Đem trông cậy vào nơi thất vọng / Dọi ánh sáng vào nơi tối tăm / Đem niềm vui đến chốn ưu sầu. / Lạy Chúa, xin hãy dạy con / Tìm an ủi người hơn được người ủi an / Tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết / Tìm yêu mến người hơn được người mến yêu / Vì hiến thân chính là nhận lãnh / Tha thứ cho người chính là được thứ tha / Cam lòng chịu chết là được sống muôn đời. 

Câu nào đánh động bạn nhất? Mời bạn hãy đưa câu đó áp dụng vào trong cuộc sống hàng ngày. Đối với mình thì câu, “Đem yêu thương vào nơi oán thù.

From: Do Dzung

KINH HÒA BÌNH – Thánh Phanxico thành Assisi – Nhạc: Lm Kim Long

Thánh Phaxico chia sẻ

Tóm lược cuộc đời thanh Phanxico Assisi – Francis Assisi theo Wikipedia

Phanxicô (Francis) là con trai của Pietro di Bernadone, một doanh nhân thành đạt, và Pica Bourlemont. Người ta không biết nhiều về người mẹ ngoại trừ quê quán của bà là nước Pháp. Hai người có bảy người con, Francis chào đời khi người cha đang ở Pháp, mẹ ông cho con chịu lễ rửa tội với tên Gionanni di Bernadone, theo tên của Gioan Baotixita, với mong ước con trai của bà sẽ lớn lên trở thành một nhân vật tôn giáo. Khi trở về Assisi, người cha hết sức tức giận vì ông không muốn con mình trở nên người của giáo hội. Pietro gọi con theo một tên khác, Francesco (một hình dung từ trong tiếng Ý nghĩa là “thuộc về Pháp”, ngụ ý sự thành công của ông trên thương trường, và lòng đam mê của ông dành cho mọi sự thuộc về nước Pháp.

Đề kháng lại nghề nghiệp kinh doanh cũng như khát vọng giàu sang của người cha, cậu bé bộc lộ nỗi đam mê dành cho sách vở (cần nên biết chính nhờ tiền bạc của người cha giàu có mà Francis được hưởng một nền giáo dục ưu tú, nhờ đó cậu thành thạo trong kỹ năng đọc một số ngôn ngữ, trong đó có tiếng Latin). Francis nổi tiếng trong vòng bạn bè nhờ tửu lượng cao và giao du rộng, đa phần là với con cái của giới quý tộc. Ngay từ những ngày này, Francis đã tỏ ra thất vọng đối với thế giới cậu đang sống, thể hiện qua cách xử sự của công tử Francis khi gặp một người hành khất. Vào một ngày, lúc đang vui chơi trác táng với bạn bè, một người hành khất tìm đến nài xin của bố thí, trong khi mọi người không hề quan tâm đến tiếng kêu la của người ăn mày, Francis dốc hết túi của mình cho người ấy. Bạn bè xúm lại chế giễu, và khi về nhà, cậu lại hứng chịu cơn thịnh nộ của người cha vì nghĩa cử này.

Francis thành Assisi,
tranh của José de Ribera

Năm 1201, Francis gia nhập đội quân viễn chinh đến Perugia, bị bắt giữ làm tù binh trong một năm tại Collestrada. Có lẽ trải nghiệm tâm linh đã đến với Francis trong thời gian này. Sau khi trở về Assisi trong năm 1203, Francis buông mình trở lại cuộc sống phóng túng. Nhưng đến năm 1204, một cơn bạo bệnh đánh động tâm hồn của Francis và dẫn cậu vào một cuộc khủng hoảng tâm linh. Năm 1205, Francis rời bỏ Perugia để gia nhập đạo quân của Gualtiero di Brienne. Trên đường đi, tại Spoleto, một khải tượng lạ lùng đã khiến Francis quay trở lại Assisi và nhấn chìm cậu sâu hơn trong cuộc khủng hoảng tâm linh.[1]

Người ta kể lại rằng khi cố từ chối những trò giải trí và những buổi hội hè đình đám với bạn bè, những người này trêu chọc Francis và hỏi có phải cậu sắp kết hôn không, câu trả lời là “phải, với một cô dâu đẹp hơn bất cứ người phụ nữ nào mà các cậu từng gặp” – Francis ngụ ý “sự nghèo khó” (lady poverty), một thuật từ mà ông thường sử dụng sau này. Francis dành nhiều thời gian sống trong cô độc, nài xin sự soi dẫn từ Thiên Chúa. Dần dà, Francis tìm đến chăm sóc những người mắc bệnh phong, căn bệnh bị xã hội thời ấy xa lánh, đang sống trong những trại phong gần nhà. Khi hành hương đến La Mã, Francis ngồi bên cửa các nhà thờ để hành khất cho những người nghèo.

Cha của Franics, Pietro, trong cơn giận dữ cố làm cho con trai tỉnh trí, trước tiên bằng những lời dọa nạt rồi đến sự trừng phạt thể xác. Sau cùng, trước sự hiện diện của một Giám mục, Francis từ bỏ quyền làm con của Pietro cũng như từ bỏ quyền thừa kế của mình. Trong hai tháng kế tiếp, Francis đi hành khất trong vùng Assisi. Khi trở lại thị trấn, Francis bắt tay vào việc phục hồi các ngôi nhà thờ đổ nát, trong đó có Porziuncola, ngôi nhà nguyện nhỏ bé trong khuôn viên Đại Giáo đường Đức Bà Các Thiên Thần, ngay bên ngoài thị trấn, sau này trở thành nơi ở ông ưa thích.

Thành lập Dòng Anh em Hèn mọn

Vào cuối giai đoạn này (theo Jordanus là ngày 24 tháng 2 năm 1209), một bài thuyết giáo đã thay đổi cuộc đời của Phanxicô. Nội dung bài giảng tập chú vào Phúc âm Matthew 10:9, thuật lại lời của Chúa Giê-su bảo các môn đồ chớ đem theo mình tiền bạc, ngay cả gậy hoặc giày khi họ đi ra rao giảng phúc âm. Từ sự soi dẫn này, Phanxicô hoàn toàn cung hiến mình cho cuộc sống nghèo khó.

 

 

Mặc áo vải thô, đi chân đất, và theo giáo huấn của Chúa Giê-su ký thuật trong các sách phúc âm, không đem theo gậy hoặc túi xách, Phanxicô khởi sự rao giảng thông điệp ăn năn. Môn đệ đầu tiên đến với Phanxicô là Bernado di Quintavalle, một luật gia tên tuổi trong thành phố. Rồi những người khác tìm đến, trong vòng một năm Phanxicô có được mười một môn đệ. Phanxicô quyết định không tìm kiếm chức vụ linh mục, và quy định cộng đồng của ông sống trong tình huynh đệ, vì vậy có tên “fratres minors” nghĩa là “những anh em hèn mọn”.

Cộng đồng theo đuổi nếp sống đạm bạc trong một trại phong bị bỏ hoang tại Rivo Torto gần Assisi; dành nhiều thời gian dong ruổi đến các ngôi làng trong vùng đồi núi Umbria, thể hiện tinh thần lạc quan và thường ca hát, tạo ấn tượng sâu đậm trên người nghe bằng những lời khuyên giải chân tình.

Năm 1209, Phanxicô cùng 11 môn đệ đầu tiên tìm đến La Mã để xin Giáo hoàng Innocent III cho phép thành lập một dòng tu mới.[8] Họ gặp Giám mục Guido thành Assisi đang đi cùng Hồng y đẳng Giám mục Sabina là Giovanni di San Paolo. Vị Hồng y có thiện cảm ngay khi gặp Phanxicô, và đồng ý tiến cử ông gặp Giáo hoàng. Hôm sau, Giáo hoàng Innocent miễn cưỡng tiếp Phanxicô và các môn đệ. Sau vài ngày, Giáo hoàng chuẩn thuận, Phanxicô được phong chức phó tế, và được phép đọc Phúc âm trong nhà thờ.[9]

Từ đó, dòng tu mới của Phanxicô phát triển nhanh chóng.[10] Ngày 8 tháng 5 năm 1213Bá tước Orlando di Chiusi ban tặng Phanxicô Núi La Verna.[11][12] Ngọn núi này là một trong những địa điểm ẩn cư Phanxicô thường đến để cầu nguyện.[12] Trong năm ấy, Phanxicô đi thuyền đến Maroc nhưng bệnh tật buộc ông phải bỏ dỡ cuộc hành trình và quay về Tây Ban Nha. Sau khi trở lại Assisi, một vài nhà quý tộc (trong đó có Tommasco da Celano, người viết tiểu sử Phanxicô) và một số nhà trí thức tìm đến gia nhập dòng tu.

Ngày 29 tháng 11 năm 1223, bản nội qui của dòng tu (12 chương) được chuẩn thuận bởi Giáo hoàng Honorius III.

Ngày 14 tháng 9 năm 1224, theo tự thuật, từ một khải tượng đặc biệt Phanxicô nhận lãnh và mang trên mình các dấu nhục hình của Chúa Giê-su khi ngài bị treo trên thập tự giá.[13] Theo lời thuật của Sư huynh Leo, người có mặt vào thời điểm ấy, “Đột nhiên ông nhìn thấy một seraph, thiên thần có sáu cánh trên một cây thập tự. Thiên thần này ban cho ông năm vết thương của Chúa Ki-tô.”[13] Mặc dù có những tra vấn về tính xác thực của chúng, hiện tượng này trong trải nghiệm Phanxicô thuật lại được giáo hội chấp nhận.[14].

Nhà thờ Thánh Phanxicô ở Assisi.

Bị đau mắt, và có lẽ do sự đau đớn bởi các dấu nhục hình, Phanxicô được đưa đến chữa trị tại một vài thành phố (Siena, Cortona, Nocera) nhưng không hiệu quả. Cuối cùng ông quay về Porziuncola, ngụ trong một transito, túp lều dành cho các tu sĩ già yếu, kế cận Porziuncola. Cảm nhận được sự cuối cùng đã gần kề, Phanxicô dành thì giờ thuật lại những trải nghiệm tâm linh của mình. Ông từ trần vào chiều tối ngày 3 tháng 10 năm 1226 khi đang ngâm nga Thánh Vịnh 141. Ngày lễ của ông cử hành ngày 4 tháng 10 hằng năm.

Phanxicô được Giáo hoàng Grêgôriô IX tuyên thánh ngày 16 tháng 7 năm 1228. Grêgôriô IX chính là Hồng y Ugolino di Conti, một người bạn và là người bảo trợ của Thánh Phanxicô. Hôm sau, Giáo hoàng đặt viên đá đầu tiên xây dựng Giáo đường Thánh Phanxicô tại Assisi.

Các nhà phê bình văn học xem Thánh Phanxicô là nhà thơ đầu tiên của nước Ý. Phanxicô tin rằng giáo dân nên cầu nguyện với Thiên Chúa bằng tiếng mẹ đẻ của mình. Những trước tác của ông được viết bằng phương ngữ Umbria thay vì tiếng Latin, chúng được xem là những tác phẩm lớn cả trong lĩnh vực văn học và tôn giáo.[15] Tác phẩm văn học nổi tiếng nhất của ông là bài Kinh Hòa Bình, bài kinh được hàng triệu Kitô hữu cất lên khi cầu nguyện cho hòa bình nhân loại trong suốt hàng trăm năm qua.

Các   Bài   Hát   Phan   Sinh

Kinh Hòa Bình – Angelina Ý Đại Lợi – thu hình đài EWTN – 4.6 triệu người xem

Bài Ca Ngợi Chúa của Anh Mặt Trời – Thánh Phanxico sáng tác

Anh Mặt Trời, Chị Mặt Trăng ơi! – Thánh Phanxico sáng tác

Kinh Hòa Bình hợp ca – Đại Học Wisconsin, Hoa Kỳ

Kinh Hòa Bình hợp ca – Dàn hợp xướng Thanh niên Cantanima,  Bang Styrian, Đức Quốc

Kinh Hòa Bình hợp ca – Thiếu Nhi trường Oxford, Anh Quốc

Kinh Hòa Bình hợp ca trong thời dịch COVID

Phim cuộc đời thánh Phanxico thành Assisi

Thánh Giêronimô (Jerome) Linh mục Tiến sĩ người Ý (340-420).

Chúc bình an nhé! Hôm nay Ngày 30/09 Giáo Hội mừng kính Thánh Giêronimô (Jerome) Linh mục Tiến sĩ người Ý (340-420). Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 7: 30/09/2023

Thánh Giêronimô sinh quãng năm 340 tại Xơ-tri-đôn, Đan-ma-xi-a. Người đến Rô-ma học văn chương và đã lãnh bí tích Thánh Tẩy tại đó. Người sang Đông Phương và làm linh mục. Trở lại Rô-ma, người làm thư ký cho đức giáo hoàng Đa-ma-xô. Thời gian này, người bắt đầu dịch Sách Thánh sang tiếng La-tinh và cổ võ nếp sống đan tu. Nhưng nhất là người đã sống ba mươi lăm năm cuối đời ở Bê-lem, gần cái hang nơi Đức Giê-su ra đời. Ở đây, người cầu nguyện hãm mình, chăm chỉ nghiên cứu, dịch và chú giải Kinh Thánh. Thánh Jerome qua đời tại Bethlehem ngày 30 tháng 9 năm 420. Xác thánh nhân được chôn cất kế bên hai người con thiêng liêng (Thánh Paola và Eustochium) dưới hầm mộ của thánh đường Giáng Sinh. Nhưng sau đó thánh tích của thánh Jerome được chuyển về La Mã. Thi hài của ngài hiện được chôn cất trong Ðền Ðức Bà Cả ở Rôma.

Đức Giáo Hoàng Boniface XIII đã tuyên xưng Thánh Jerome và Thánh Augustine là Tiến Sĩ Hội Thánh ngày 20 tháng 9 năm 1295

Thánh Giêrôme là một người thẳng tính, cương quyết. Ngài có nhân đức cũng như các tính xấu của một người ưa chỉ trích tất cả những vấn đề luân lý thường tình của con người. Như có người nhận xét, ngài là người không chấp nhận thái độ lưng chừng trong phẩm hạnh cũng như trong việc chống đối sự xấu xa. Ngài mau nóng, nhưng cũng mau hối hận, và rất nghiêm khắc với những khuyết điểm của chính mình. Người ta kể, khi nhìn thấy bức tranh vẽ Thánh Giêrôme đang cầm hòn đá đánh vào ngực, một giáo hoàng nói, “Ngài cầm hòn đá đó là phải, vì nếu không, Giáo Hội không bao giờ phong thánh cho ngài” (Ðời Sống Thánh Nhân của Butler)

Sau đây là những câu nói để đời của Thánh Nhân, bạn hãy bỏ ra mấy phút đọc và suy niệm coi thánh nhân đang muốn nhắn nhủ bạn điều gì để đến gần với Chúa hơn mỗi ngày qua việc đọc và suy niệm Lời Chúa.

(1) Tốt, tốt hơn, tốt nhất. Đừng bao giờ nghỉ ngơi cho tới khi cái tốt của bạn trở nên tốt hơn và cái tốt hơn trở nên tốt nhất.

(2) Người phạm tội thì trong lòng không có Thiên Chúa, những việc họ yêu thích đều trở thành chúa của họ….

(3) Vừa khi bị nhục dục tấn công, chúng ta hãy than thở: “Lạy Chúa, xin cứu giúp con, xin đừng để con xúc phạm đến Chúa.”

(4) Phần chúng ta là hiến dâng những gì chúng ta có thể, phần của Chúa là chu cấp những gì chúng ta không thể.

(5) Có bao nhiêu thương tích đau thương trên thân xác Chúa Giêsu, thì cũng có bấy nhiêu vết thương xé nát Trái Tim Mẹ.

(6) Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô. (Thánh Giêronimô)

Câu nào đánh động bạn nhất. Đối với mình thì câu 1.

Thánh Giêronimô, cầu cho chúng con.

From: Do Dzung

Lắng Nghe Lời Chúa – Phan Đinh Tùng

THÁNH COSMA VÀ THÁNH ĐAMIANÔ, TỬ ĐẠO – Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

  1. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ

Theo truyền thuyết, thánh Cosma và Đamianô là hai anh em sinh đôi.  Sinh tại Ả rập.  Các Ngài sớm mồ côi cha.  Mẹ các Ngài là một góa phụ nhân đức, đã không tiếc gì để giáo dục con cái về tri thức và đạo đức.  Bà gửi hai con theo học ở Syria.  Tại đây Cosma và Đamianô nổi tiếng là lương thiện, vô vị lợi và trong trắng.  Nhiệt thành với đức tin, các Ngài dự tính học nghề thuốc.  Khoa này vào thời ấy bị coi rẻ.  Nhưng các Ngài tin rằng khi chữa lành thể xác con người các Ngài có thể góp phần vào việc chữa trị bệnh tật linh hồn.

Thiên Chúa đã chúc lành cho dự tính của các Ngài và ban cho các Ngài được thông thạo về nghề thuốc.  Chữa bệnh hoàn toàn miễn phí, các Ngài càng ngày càng trở nên danh tiếng vì những cuộc chữa lành nhờ lời cầu nguyện.  Những cuộc chữa lành lạ lùng này lôi cuốn được nhiều người, kể cả các lương dân đến với các Ngài.  Tuy nhiên, chính vì tiếng tăm lừng lẫy này đã đưa tới cái chết vì đạo của các Ngài.

Các hoàng đế Điôclêtianô và Maximianô quyết tận diệt Kitô giáo, đã sai tổng trấn Lysias đến Ege để ép buộc các Kitô hữu phải dâng hương tế thần.  Ai không tuân lệnh sẽ bị sát hại.  Các lương dân tố cáo với quan tổng trấn rằng có hai người rất thạo nghề thuốc nhưng lại là thù địch chí tử của các thần minh.  Nếu họ tiếp tục hành nghề các đền thờ sẽ trống vắng và cả nước sẽ theo Kitô giáo hết.  Nghe tin này quan tổng trấn truyền bắt giam hai Ngài.  Sau khi bắt các Ngài phải dâng hương tế thần mà không được, ông ra lệnh hành hạ các Ngài.  Nhờ ơn Chúa, hai thánh Cosma và Đamianô đã nhẫn nại chịu đựng, lại còn tỏ ra hân hoan nữa.  Quan lính trói các Ngài rồi bỏ xuống biển, nhưng các thiên thần đã đến tháo cởi xiềng xích và cứu các Ngài bình an vô sự.

Nghe tin này, quan tổng trấn truyền lập giàn thiêu.  Nhưng giữa ngọn lửa cháy bừng, hai thánh nhân vẫn không hề hấn gì.  Cuối cùng quan tổng trấn ra lệnh xử trảm.  Hai thánh Cosma và Đamianô khẩn khoản nài xin Chúa thương nhận lễ dâng của các Ngài và cầu xin Chúa tha tội cho những kẻ đã hành hạ mình.  Sau những nhát chém đầu tiên, đầu các Ngài lìa xác và nhận phúc tử vì đạo.  Hôm ấy là ngày 26-09-297.

Danh tiếng của hai thánh Cosma và Đamianô lan rộng khắp Giáo hội vì những cuộc chữa lành bệnh các Ngài đã thực hiện.  Hoàng đế Justinô I khuyến khích lòng sùng kính hai thánh nhân.  Một nguyện đường được xây dựng ở Aege miền Cilicia để ghi nhớ nơi các Ngài chịu chết vì đạo.  Tại Roma, Đức Thánh Cha Symmachô (498  514) đã cho xây nguyện đường kính hai thánh, và Đức Thánh Cha Felix IV (526  530) đã cho xây một đại giáo đường kính các Ngài.

Hai thánh Cosma và Đamianô được đặt làm thánh bổn mạng các y sĩ và các nhà giải phẫu. (Tổng hợp)

  1. BÀI HỌC

Giáo Hội của Chúa Kitô ít khi được an bình.  Con cái thế gian luôn tìm cách phá hại Hội Thánh của Chúa.  Giáo Hội vào thời hai Ðấng lúc đó gặp cảnh cấm cách, bắt bớ của Hoàng đế Ðiôclêtianô và Maximianô, Cosma và Ðamianô bị bắt, bị dẫn giải tới quan Lydia.  Thánh Cosma và Ðamianô không sợ sệt, không run sợ, không nhát đảm, các Ngài luôn tuyên xưng mình là Kitô hữu.  Quan Lydia truyền đánh đòn hai Ngài một cách dã man, tàn ác, ra lệnh xích tay chân và quăng hai Ngài xuống biển.  Chúa nhiệm mầu và quyền năng đã cứu hai Ngài khỏi chết.  Tức giận vì phép lạ Chúa giải cứu hai Ngài khỏi chết, Lydia đã ra lệnh đốt một đống lửa cháy to và đẩy hai Ngài vào đống lửa đang cháy.  Hai Ðấng vẫn ung dung,vừa đi vừa cầu nguyện giữa đống lửa đang bừng bừng cháy lớn.  Phép lạ Chúa quả quá tỏ tường, nhiều người chứng kiến phép lạ lớn lao ấy đã được ơn quay trở lại.

Như một con thú khát máu, Lydia đã ra lệnh khẩn cấp đem hai Ngài đi chém đầu.  Hai thánh nhân trước khi để cho đao phủ chém đầu mình đã can đảm ngước mắt lên trời cầu xin Chúa thứ tha cho những kẻ làm hại các Ngài.

Trong một bài suy niệm về tình hình dịch bệnh hiện tại, một thiện nguyện viên đã viết như sau: “Thực tế cuộc sống giúp chúng ta nhận ra rằng tha thứ chưa bao giờ là điều dễ thực hiện.  Có những hành động lầm lỗi, những kỷ niệm cay đắng mà người khác đã hành xử với chúng ta trong quá khứ mà chỉ cần chúng ta nhớ lại hay đi ngang qua khung cảnh xưa cũ cũng đủ làm lòng chúng ta cảm thấy chua xót và giận hờn.  Có nhiều lúc, khi nhìn thấy đại dịch hoành hành và cướp đi rất nhiều sinh mạng, làm đảo lộn cuộc sống của rất nhiều người, làm rất nhiều gia đình trở nên nghèo đói… tôi thấy trong lòng sôi lên và cảm thấy tức giận những kẻ đã tạo ra, đã làm lây lan thứ virus quái ác này, mong cho những kẻ ấy phải trả giá.  Nhưng khi nhìn lên Thánh giá, tôi lại thấy mình thật tệ và hẹp hòi biết bao!

Hôm nay, Chúa Giêsu đang tha thiết mời gọi chúng ta “Hãy thương xót” và sẵn sàng tha thứ thêm lần nữa, rồi lại lần nữa vì chính chúng ta đã được Thiên Chúa thương xót và hết lòng tha thứ.  Trong Thông điệp Fratelli Tutti, ĐTC Phanxicô đã gợi ý cho chúng ta về cách thức tha thứ như sau: “Tha thứ cách tự do và chân thành là một hành vi cao quý, phản ánh lòng tha thứ vô biên của Thiên Chúa.  Nếu tha thứ có tính nhưng không, thì chúng ta có thể tha thứ cả cho những ai không hề hối lỗi và không có khả năng xin tha thứ” (ĐTC Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti, số 250).  (Jos. Lương Tùng, CSsR).

Xin được kết thúc bằng câu chuyện cảm động này: “Trong những năm 1944-1945, dân Roma khiếp sợ mỗi khi nghe nhắc đến tên Peter Koch, một sĩ quan mật vụ Ðức quốc xã đã từng giết hại không biết bao nhiêu mạng người.  Sau chiến tranh, anh ta bị bắt và bị kết án tử hình.  Anh viết thư cho Ðức Giáo Hoàng Piô 12 để xưng thú các tội ác mình đã phạm và đặc biệt xin Ngài tha thứ cho anh tội đã tấn công vào Vương Cung thánh đường Thánh Phaolô ngoại thành.

Ðức thánh cha đã sai một linh mục đến nhà tù để gặp anh ta và chuyển đến anh sự tha thứ của Ngài, đồng thời trao cho anh ta một tràng hạt mân côi.  Ðến nhà giam, sau khi đã làm theo lời căn dặn của Ðức Giáo Hoàng, vị linh mục đã nghe người tử tội thốt lên như sau: “Tổ quốc con nguyền rủa con, đó là điều hợp lý.  Tòa án đã kết án con, điều này cũng rất công bình.  Ðức Giáo Hoàng đã tha thứ cho con và đã cho con một bài học cao quý.  Giả như con đã luôn nghĩ đến việc tha thứ, thì giờ này có lẽ con không phải ra pháp trường như thế này.”  Nói rồi anh bật khóc: “Con không dám động đến tràng hạt của Ðức Giáo Hoàng bằng đôi tay vấy máu của con.  Xin cha đeo tràng hạt vào cổ cho con.”  Ít phút sau, Peter Koch ngã gục dưới loạt đạn, miệng anh vẫn còn cầu khẩn Mẹ Maria…

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

From: Langthangchieutim

THÂN XÁC KHÔNG HƯ NÁT CHA THÁNH PIÔ NĂM DẤU THÁNH

Một trong những vị thánh đương thời được coi là đã làm nhiều phép lạ nhất là Padre Pio. Sau 40 năm, thi hài thánh nhân lại được trưng bầy cho những người ngưỡng mộ khắp thế giới được đến kính viếng tại nơi ngài đã từng sống và cầu nguyện. Hai mắt nhắm lại và trên khuôn mặt thoát ra một vẻ thanh thản dịu dàng như đang ngủ.
Tuy nhiên, Padre Piô đã qua đời từ năm 1968 hưởng thọ 81 tuổi, và kể từ ngày 24.4.2008, thi hài thánh nhân lại được quàn công khai tại vương cung thánh đường San Giovanni Rotondo (miền Nam nuớc Ý) cho dân chúng kính viếng trong 9 tháng.
Có tới 15.000 người tham dự thánh lễ do ĐHY Jose Saraiva Martins cử hành khi thi hài của thánh Piô được đưa ra trưng bầy. Thi hài của thánh Padre Piô được khai quật hôm 3/3/2008 và cho thấy còn trong tình trạng “vừa phải” sau 40 năm chôn cất.
Từ ngày đó đến nay một nhóm chuyên gia gồm các bác sĩ y khoa và chuyên ngành hóa chất đã làm việc tận tình để tân tạo thi hài thánh nhân hầu có thể giữ và bảo tồn thi hài được lâu dài hơn trong suốt thời gian 9 tháng trưng bày cho dân chúng đến kính viếng.
Khi còn sinh thời, Padre Piô từng là vị thánh sống của đại chúng người Ý và là một Thầy Dòng lạ lùng của thế kỷ XX:
• Cha được in năm dấu đanh (Stigmata) tương tự như Chúa Giêsu khi chịu đóng đanh trên thánh giá, nghĩa là ngực, hai bàn tay và hai bàn chân bị đâm thủng qua, và hằng ngày máu từ các vết thương đó chảy nhỉ ra làm ướt đẫm các khăn băng và cả áo quần, khiến ngài vô cùng đau đớn;
• Cha có thể hiện diện một lúc trong nhiều địa điểm khác nhau: Nhiều lần cha vừa có mặt tại Milanô (miền Bắc Ý), vừa có mặt tại Rôma (miền Trung Ý) để cứu vớt những người tự tử, và đồng thời cha lại ngồi giải tội ở Tu Viện của cha tại miền Nam Ý.
Cha đã bị kết án là người giả hình đóng kịch. Nhưng năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng cất nhắc cha lên hàng Thánh Nhân.
Theo lời Đức Giám Mục D’Ambrôsiô thì «thi hài thánh Padre Piô hầu như không bị hủy hoại… Tuy nhiên năm dấu đanh trên mình thánh nhân đã hoàn toàn biến mất.»
Thi hài thánh Padre Piô hiện quàn tại San Giovanni Rotondo. Nhưng trước khi được đưa trưng bày công khai cho các tín hữu kính viếng khuôn mặt thánh Padre Piô đã được sửa sang lại bằng chất Silicon như chúng ta thấy trong hình kèm đây, và thi hài thánh nhân cũng đã được xức thuốc. Hiện người ta chỉ nhìn thấy đầu các ngón tay của thánh nhân hơi bị đen. Còn hai chân được mang tất che kín lại.
Cho đến nay đã có khoảng 800.000 tín hữu từ khắp mọi nơi kéo về kính viếng và cầu nguyện bên thi hài thánh Padre Piô.
Lạy thánh Padre Piô, xin cầu cho chúng con!

Thánh Andrê Kim Taegon & Thánh Paul Chong Hasang và các Bạn tử đạo người Ðại Hàn

Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Andrê Kim Taegon & Thánh Paul Chong Hasang và các Bạn tử đạo người Ðại Hàn.

Cha Vương

Thứ 4: 20/09/2023

Anrê Kim Taegon là linh mục Ðại Hàn đầu tiên và là con của một người trở lại đạo. Cha của ngài, ông Ignatius Kim, được tử đạo trong thời cấm đạo năm 1839 và được phong thánh năm 1925. Sau khi được rửa tội vào lúc 15 tuổi, Anrê phải trải qua một hành trình dài 1,300 dặm để gia nhập chủng viện ở Macao, Trung Cộng.

Sáu năm sau, ngài xoay sở để trở về quê hương qua ngả Mãn Châu. Cùng năm ấy ngài vượt qua eo biển Hoàng Sa đến Thượng Hải và thụ phong linh mục. Khi trở về quê, ngài có nhiệm vụ thu xếp cho các vị thừa sai vào Ðại Hàn qua ngã đường biển, nhằm tránh né sự kiểm soát biên phòng. Ngài bị bắt, bị tra tấn và sau cùng bị chặt đầu ở sông Han gần thủ đô Hán Thành.

Thánh Phaolô Chong Hasang là một chủng sinh, 45 tuổi. Kitô Giáo được du nhập vào Ðại Hàn khi Nhật xâm lăng quốc gia này vào năm 1592, lúc ấy có một số người Ðại Hàn được rửa tội, có lẽ bởi các binh sĩ Công Giáo người Nhật. Việc truyền giáo rất khó khăn vì Ðại Hàn chủ trương bế quan tỏa cảng, ngoại trừ những hành trình đến Bắc Kinh để trả thuế.

Một trong những chuyến đi này, khoảng năm 1777, sách vở tài liệu Công Giáo của các cha dòng Tên ở Trung Cộng được lén lút đem về để dạy bảo người Kitô Giáo Ðại Hàn. Giáo Hội tại gia bắt đầu thành hình. Khoảng mười năm sau đó, khi một linh mục Trung Hoa lén lút đến Ðại Hàn, ngài thấy có đến 4,000 người Công Giáo mà chưa có ai được gặp một vị linh mục. Bảy năm sau, số người Công Giáo ấy lên đến khoảng 10,000 người. Sau cùng, tự do tôn giáo được ban hành vào năm 1883.

Khi Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến Nam Hàn ngày 06 tháng 5 năm 1984 để phong thánh, ngoài hai Thánh Anrê Kim Taegon và Phaolô Chong Hasang, còn 98 người Ðại Hàn và ba vị thừa sai người Pháp, tất cả đều tử đạo trong khoảng 1839 và 1867. Trong số 103 Thánh tử đạo có các giám mục và linh mục, số còn lại  là giáo dân: 47 phụ nữ, 45 quý ông.

Trong những người tử đạo năm 1839 là Columba Kim, một phụ nữ 26 tuổi. Ngài bị cầm tù, bị tra tấn bằng vật dụng bằng sắt nung nóng và than. Ngài và người em là Agnes bị lột quần áo và bị giam chung với những tù nhân hình sự, nhưng họ không bị làm nhục. Sau khi Columba phàn nàn về sự sỉ nhục này, từ đó về sau không một phụ nữ nào bị nhục nhã như vậy nữa. Hai người bị chém đầu. Một em trai 13 tuổi, Peter Ryou, bị tra tấn dã man đến độ em có thể lấy da thịt của mình mà ném vào quan toà. Em bị xiết cổ cho đến chết. Protase Chong, một người quý tộc 41 tuổi, sau khi bị tra tấn ông đã chối đạo và được thả tự do. Sau đó, ông  trở lại, tuyên xưng đức tin và bị tra tấn cho đến chết.

LỜI TRÍCH: “Giáo Hội Ðại Hàn thì độc đáo vì được thành lập hoàn toàn bởi giáo dân. Giáo Hội còn non yếu, thật trẻ trung nhưng thật vững mạnh trong đức tin, và đã đứng vững sau những đợt sóng bách hại mãnh liệt. Do đó, chỉ trong vòng một thế kỷ, Giáo Hội đã kiêu hãnh với 10,000 vị tử đạo. Cái chết của các vị tử đạo này trở thành men cho Giáo Hội và đưa đến sự triển nở huy hoàng của Giáo Hội Ðại Hàn ngày nay. Ngay cả bây giờ, tinh thần bất khuất ấy vẫn còn trợ giúp cho người tín hữu của Giáo Hội thầm lặng ở miền bắc bên kia vĩ tuyến” (ÐGH Gioan Phaolô II, bài giảng trong lễ phong thánh).

(Nguồn: Người Tín Hữu Online) 

Theo Dấu Chân Ngài (Sáng tác: Sr. Trinh Nguyên) – Sr. Hạ Phương 

Thánh Gioan Kim Khẩu

Mến chúc Bạn và gia đình một ngày an lành. Nào cùng hít thở sâu 10 lần để lấy sinh lực của Chúa Thánh Thần mà vui tươi hăng say phục vụ nhé.

Cha Vương

Thứ 4: 13/09/2023

Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Gioan Kim Khẩu. Thánh nhân sinh tại nước Thổ nhĩ Kỳ vào năm 349 tại Antiokia. Người ta gọi Ngài là Gioan thành Antiokia, được mệnh danh là Kim Khẩu: Chrysostome. Miệng tuôn toàn những lời quí như vàng. Thánh nhân có tài hùng biện và trí khôn ngoan minh mẫn hiếm có. Gioan thành Antiokia ngay từ khi còn nhỏ đã được mẹ Ngài giáo dục với một lòng nhân ái bao la, truyền đạt cho Ngài một đức tin sắt đá và lòng hy sinh hào hiệp. Năm 373, thánh nhân được tuyển vào chức đọc sách, nhưng tài lợi khẩu, hoạt bát của Ngài đã làm say mê bao người, từ đó danh tiếng Ngài vang dội khắp nơi. Vì danh tiếng lẫy lừng nổi bật do lòng đạo đức thánh thiện và tài hùng biện có sức thuyết phục nhiều người trở về với chúa, người ta nhất loạt tôn thánh nhân lên chức giám mục, nhưng Ngài khiêm tốn khước từ và chỉ thích ẩn mình, ăn chay, cầu nguyện. Ý Chúa lạ lùng không ai hiểu thấu, sau bốn năm sống khắc khổ, Ngài lâm bệnh dạ dầy nặng, buộc Ngài phải trở về Antiokia. Năm 386, thánh nhân lãnh nhận sứ vụ linh mục và trong cương vị linh mục, suốt 12 năm, thánh nhân đã làm say mê dân thành Antiokia nhờ lòng sốt sắng, tài ăn nói thuyết phục, miệng tuôn những lời quí như vàng và đưa rất nhiều người quay về với Chúa do lời giảng dậy của Ngài.

Thánh nhân đả phá những cổ tục mê tín, cuộc sống hào phóng, xa hoa, trụy lạc của những người giầu và kêu gọi mọi người lưu tâm đến những người nghèo. Chính thánh nhân nêu gương sáng sống nghèo và giúp đỡ người nghèo. Năm 397, Ngài được bầu làm giám mục thành Constantinople, thánh nhân lưu tâm nghiên cứu về thánh Phaolô tông đồ, cải tổ hàng giáo sĩ, thiết lập một số qui chế để thánh hóa bản thân, hủy bỏ tận căn mọi tập tục xa xỉ gây tốn phí tiền bạc, của cải, vật chất. Ngài chống đối kịch liệt các bè rối Ariô, Novatio vv.

(Nguồn: Hạnh Các Thánh)

Thánh nhân qua đời vào ngày 14/9/407, Chúa thưởng công Ngài bằng vô số phép lạ sau khi Ngài chết. Ðức Thánh cha Piô X đã nâng Ngài lên bậc tiến sĩ Hội Thánh và đặt Ngài làm bổn mạng của những nhà giảng thuyết.

Mời Bạn suy niệm những câu nói vàng ngọc của Ngài sau đây nhé:

(1) Nếu bạn không tìm thấy Chúa Kitô nơi người ăn mày này, thì bạn sẽ không tìm thấy Ngài nơi chén thánh.

(2) Tội lỗi là một vết thương. Ăn năn là thuốc chữa.

(3) Cầu nguyện cho chính mình là bản năng tự nhiên; cầu nguyện cho người khác là bản năng của ân sủng.

(4) Yêu tiền bạc là một điều kinh khủng! Nó làm cho con mắt và lỗ tai không còn nghe thấy gì, khi đó con người tệ như con thú hoang dã.

(5) Tình yêu của người chồng và người vợ là sức mạnh gắn bó toàn xã hội.

(6) Dù lời của bạn có đúng cách nào, nó sẽ mất tất cả hiệu lực nếu bạn nói khi bạn giận.

Câu nào đánh động bạn nhất? (Câu 3 & 6 đánh động mình nhất)

Lạy thánh Gioan Kim Khẩu, xin ban cho chúng con biết dùng miệng lưỡi để ca tụng và cảm tạ tri ân Thiên Chúa.

From: Đỗ Dzũng

Gia Ân – Con Luôn Cần Chúa 

Thánh Peter Claver, Linh Mục dòng Tên

Tạ ơn Chúa đã ban cho những giọt mưa ở Houston. Chúc bạn và gia đình một cuối tuần an lành trong Tình Yêu của Thiên Chúa. Đừng quên cầu nguyện cho nhau nhé.

Cha Vương

Thứ 7: 09/09/2023

Hôm nay 09/09, Giáo hội mừng lễ nhớ Thánh Peter Claver, Linh Mục dòng Tên, truyền giáo tại nước Colombia,Nam Mỹ Tâybanha-Columbia (1580-1654). Sau khi  tốt nghiệp  tại đại học Barcelona nước Tâybanha, cậu quyết định theo ơn gọi Dòng Chúa Giêsu. Dưới sự giám hộ của thánh Alphonsô Rodriguez cậu được huấn luyện làm chiến sĩ truyền giáo cho Nam Mỹ.

Người Tâybanha truyền giáo tại Colombia: Khấn dòng rồi, thầy được gửi đi Cartagena nước Colombia năm 1610, được chịu chức linh mục năm 1615.   Làm việc truyền giáo tại một trung tâm mua bán người nô lệ da đen. Mỗi tháng có tới hàng ngàn nô lệ được đổi chác.

Tự nhận mình là “nô lệ của những người nô lệ”, cha đã dành hầu cả cuộc đời mình (40 năm) để phục vụ người nô lệ.  Mỗi khi nghe có tàu  Âu châu cập bến, cha đem quần áo,  thực phẩm, thuốc và nước uống cho họ,  vì thế mà cha chinh phục được nhiều người trở lại với Chúa.  Ngài đã rửa tội được 300,000 người nô lệ tại Cartagena.

Cha Peter khi cầu nguyện, thường mở cuốn sách “Đời sống Chúa Giêsu “, nhìn vào hình ảnh Chúa trong đó mà cầu nguyện theo lối thánh Ignatio chỉ dạy.  Ngài mở nhiều đến nỗi sách rách và cũ mèn. Hình coi cũ nhất là hình Chúa Giêsu đau khổ cầu nguyện trong vườn Giêtsimani, Chúa bị đánh đòn, đội mũ gai, và chết trên thánh giá. Nhớ tới Chúa Giêsu tử nạn làm tăng sức cho cha Peter thương những người da đen cùng khổ.

Nguyên tắc nên thánh: Cha Peter viết trong tập sổ tay 4 nguyên tắc hướng dẫn đời ngài, những nguyên tắc giúp ngài nên thánh:

(1)Tìm Chúa trong mọi sự,

(2) vâng lời các bề trên như vâng lời Chúa,

(3) làm mọi sự cho vinh danh Chúa hơn,

(4) vui lòng đón nhận bất cứ đau khổ nào, hoặc việc làm nào có thể cứu các linh hồn.

Năm 1650, cha Peter bị bệnh dịch, mệt mỏi vì công việc, ngài nằm liệt giường 4 năm. Ngài chết tại Cartagena ngày lễ Sinh nhật Đức Mẹ  8 tháng 9 năm 1654.  Ngài được phong thánh năm 1888.  Năm 1896,  Đức Giáo Hoàng Lêô 13 đã tôn ngài làm quan thầy các xứ truyền giáo da đen.

(Nguồn: Dân Chúa, Hạnh các thánh)

Sau đây là những câu nói của thánh nhân:

❦  Chúng ta phải nói với họ bằng đôi tay rộng lượng trước khi nói với họ bằng miệng lưỡi của chúng ta.

❦ Tìm kiếm Chúa trong mọi sự và bạn sẽ tìm thấy Chúa ở bên cạnh bạn.

❦ Để làm theo ý muốn của Thiên Chúa, chúng ta phải từ bỏ chính mình: càng chết cho chính mình, thì càng sống cho Thiên Chúa. (Thánh Peter Claver)

Hôm nay mời Bạn hãy nói gương thánh nhân để nên thánh trong mọi hoàn cảnh của mình nhé.

From: Đỗ Dzũng

Sống cho tình yêu -tinmung.net


Tiểu sử thánh Peter Claver theo Ngọn Lửa Catholic và các báo khác.

Thánh Phêrô Claver: Bổn mạng cho công lý giữa các chủng tộc

 

 

Là con trai của một nông dân người Catalonia, Peter sinh ra ở Verdu, Tây Ban Nha vào năm 1581. Ông lấy bằng đầu tiên tại Đại học Barcelona. Ở tuổi hai mươi, ông vào tập viện Dòng Tên và được thụ phong linh mục năm 1615.

Trong khi Phêrô đang học triết học tại Majorca, ông đã gặp Thánh Alphonsus Rodriguez, người gác cửa của trường đại học, người đã được Chúa truyền viễn kiến về sứ mạng tương lai của một người bạn  trẻ, đó chính  là Peter. Do đó, Thánh Alphonsus đã khuyến khích Phêrô đến Nam Mỹ để làm việc với những nô lệ Châu Phi. Peter vâng lời, và vào năm 1610 cập cảng tại Cartagena, nơi ông là “Tông đồ của nô lệ châu Phi” trong 44 năm.

St Peter Claver – Spanish Missionary (1580–1654) | Archdiocese of ...

Cartagena trở thành chợ nô lệ chính của Tân Thế giới, nơi hàng nghìn nô lệ châu Phi bị đổ xuống cảng sau khi vượt đại dương trong điều kiện vô nhân đạo, rồi bị nhốt như những con thú chờ làm thịt. Một nghìn nô lệ đổ bộ vào đó mỗi tháng. Có lợi nhuận khổng lồ trong việc buôn bán nô lệ. Mặc dù những người buôn bán nô lệ dự kiến ​​​​ít nhất một phần ba số hàng hóa nô lệ sẽ chết, nhưng lợi nhuận vẫn đáng kể. Hết vị giáo hoàng này đến vị giáo hoàng khác đã viết thư, lên án và rút phép thông công những người buôn bán nô lệ, nhưng số tiền quá hấp dẫn. Các nhà truyền giáo không thể đàn áp chế độ nô lệ mà chỉ làm giảm bớt nó, và không ai làm việc can đảm hơn Peter Claver.

Nguyện làm “nô lệ của nô lệ mãi mãi”, cuộc đời của Peter Claver được đánh dấu bằng lòng bác ái anh hùng. Dù nhút nhát và thiếu tự tin, nhưng nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần, ông đã trở thành một nhà tổ chức dũng cảm và tài giỏi. Hàng tháng khi tàu chở  nô lệ đến bến cảng, Peter gặp họ trên thuyền của người hoa tiêu, mang theo thức ăn và các món ngon khác cho họ, Ngài chỉ ngủ rất ít, không mệt mỏi chăm sóc các nô lệ, rửa và chăm sóc vết thương cho họ, cho họ ăn những thức ăn mà ông đã xin trong thành phố, chôn cất họ.

Ông đã hết sức an ủi họ. Ông thậm chí còn bảo vệ họ chống lại những kẻ áp bức. Ông hướng dẫn người lớn thông qua thông dịch viên và các hình ảnh, và trong suốt 40 năm phục vụ, ông đã rửa tội cho hơn 300.000 nô lệ.

Ông đã chiến đấu không sợ hãi để thực thi luật quy định hôn nhân Thiên Chúa Giáo dành cho nô lệ và ngăn cản việc chia cắt gia đình nô lệ.

 Khi bệnh dịch tấn công thành phố vào năm 1650, Peter là một trong những nạn nhân đầu tiên. Trong bốn năm, ông nằm liệt giường trong căn buồng nhỏ, không thể làm việc và gần như bị lãng quên. Tuy nhiên, khi ông tuyên bố sắp qua đời, đám đông đã đến hôn tay và chân ông. Ông được chôn cất công khai, và danh tiếng về chủ nghĩa anh hùng, sự thánh thiện và những phép lạ của ông nhanh chóng lan rộng khắp thế giới. Đức Leo XIII tuyên bố ngài là đấng bảo trợ cho mọi công việc truyền giáo cho người da đen.

Trích dẫn lời thánh Peter:

“Để yêu mến Thiêd Chúa như Người đáng được yêu, chúng ta phải tách rời khỏi mọi tình yêu trần thế. Chúng ta không được yêu mến gì ngoài Ngài, hoặc nếu chúng ta yêu bất cứ điều gì khác, chúng ta phải yêu điều đó chỉ vì Ngài mà thôi.”

“Chúng ta phải nói chuyện với họ bằng tay trước khi nói chuyện với họ bằng môi.”

Cầu Nguyện Thánh Phêrô Claver:

Lạy Vị Thánh của thời hiện đại của chúng ta, Chúa đã thấm nhuần lòng thương xót đối với những người bị áp bức, đối với những con người bị bán làm nô lệ và bị đối xử như những con thú có thể bị tiêu diệt. Trong khi làm giảm bớt những căn bệnh tự nhiên của họ, bạn cũng loại bỏ những căn bệnh tâm linh của họ và dạy họ kiến ​​thức siêu việt về Đấng Christ.

Xin thánh Peter Claver hãy truyền cảm hứng cho nhiều người cùng thời với chúng con để trở thành những nhà truyền giáo quên mình như các Ngài. Amen.

 

Peter Claver được Đức Giáo hoàng Leo XIII phong thánh vào năm 1896, ĐGH đã tuyên bố Thánh Nhân là người bảo trợ cho tất cả các sứ mệnh Công giáo La Mã đến các dân tộc Châu Phi. Thánh Phêrô cũng là vị thánh bảo trợ của những người nô lệ và Nước Cộng hòa Colombia .