Thánh Piô 5 dấu-Cha Vương

Hôm nay 23/09 Giáo Hội mừng kính Thánh Piô 5 dấu

 Chúc bình an! Hôm nay 23/09 Giáo Hội mừng kính Thánh Piô 5 dấu, linh mục dòng Phanxicô. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy. Bài hôm nay hơi dài đó, cố gắng một tí nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 23/09/2022

Người Italia (1887-1968) Cậu Phanxicô con ông bà Horace làm nghề nông nghèo khó, sinh tại Pietrelcina, tỉnh Benevento, miền nam nước Ý, ngày 25.05.1887. Ông bà có 8 con, chết 3 còn 5 (2 trai 3 gái). Vì không muốn Phanxicô vất vả nơi đồng áng, ông Horace đã sang New York, Hoa kỳ làm việc để kiếm tiền cho con đi học, đi tu. Ngày lễ Ba Vua năm 1903, Cậu vào Nhà Tập  Dòng Phanxicô nhánh Cappucins tại Morcone, nhận tên Dòng là Piô. Trong thời gian Tập, vì hãm mình quá, 3 tuần không ăn uống gì, nhà Dòng tưởng thầy sẽ chết, nên cho về nhà ba má bổ dưỡng, không bao lâu thầy phục sức.  Trở về nhà dòng học thần học, nhiều lần anh em gặp thầy Pio quì gối để học bài. Ngày 10.08.1910, (23 tuổi) thầy Piô được thụ phong linh mục trong nhà nguyện của nhà thờ chính tòa Benevento. Tháng 9 năm 1916, Cha Pio được thuyên chuyển về Tu Viện Ðức Mẹ Ban Ơn (Santa Maria delle grazie), ở San Giovanni Rotondo, trong giáo phận Foggia. Năm 31 tuổi (ngày 20.09.1918), sau khi Rước lễ, dấu thánh xuất hiện trên bàn tay của Cha. Cha đã chịu đau đớn mang 5 dấu thánh trong 50 năm. Sau khi cha tắt thở, các dấu thánh này biến mất, không để lại vết tích nào. Ngài qua đời năm 1968, được phong chân phước năm 1999 và hiển thánh năm 2002, lễ kính vào ngày 23/9, trùng vào ngày tạ thế. Ngày 23/5/1987, đức Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm mộ của cha Piô, vị giải tội mà ngài đã từng gặp khi còn là một linh mục sinh viên ở Rôma 40 năm về trước. Đức Bênêđictô XVI là vị giáo hoàng thứ hai đến viếng thăm mồ của vị thánh linh mục hầu như suốt đời chỉ thi hành hai tác vụ là dâng Thánh lễ (đôi lúc kéo dài 3 giờ đồng hồ) và ban bí tích giải tội. (Nguồn:Vietcatholic).

    Cha Pio được mọi người biết đến qua hai việc:

(1) Lòng tôn sùng Đức Mẹ triệt để. Ngài lần hạt suốt ngày. Có lần ngài nói với một người con thiêng liêng: “Luôn luôn nắm chặt lấy vũ khí của Đức Mẹ trong tay, nó sẽ giúp con chiến thắng kẻ thù”.

(2) Giải tội cho người muôn phương—Ngài giải tội tùy theo tình trạng mỗi tâm hồn, chỉ cốt sao cho họ thành thực, được ơn tha thứ và cải thiện đời sống, nên nhiều khi ngài có những cư xử khác thường. Việc giải tội của ngài thường kéo dài 10 tiếng một ngày; người muốn xưng tội phải lấy số chờ đợi. Nhiều người nói rằng Cha Piô biết rõ các chi tiết cuộc đời của họ, mà chưa bao giờ họ tiết lộ.

    Sau đây là những lời nhắn nhủ của thánh Piô. Ước mong Bạn hãy dành thời gian để suy gẫm mà sống gần với Chúa hơn mỗi ngày nhé:

(1) CẦU NGUYỆN: “Người ta tìm Chúa trong sách vở, nhưng gặp Chúa trong suy gẫm “Cầu nguyện là là chìa khóa để mở Trái Tim Chúa. “Hậu quả của cầu nguyện là bỏ cái “tôi”, sau đó Chúa sẽ nói chuyện với ta. “Chúa là tấm gương phản chiếu, ai biết suy gẫm, tâm trí hướng về Chúa, cũng sẽ nhận ra khuyết điểm của mình. “Trí óc không tập trung, thì lòng cũng không có tình mến Chúa “Tinh thần của Chúa là bình an, của quỉ là bực tức, nổi giận, lo lắng, nhưng ma quỉ như bị buộc giây, ta đứng xa thì không bao giờ bị cắn.

(2) KHIÊM TỐN: ” Biết mình không đáng, không tốt đẹp, có thể phạm nhiều tội ác… đó là ánh sáng Chúa chiếu vào linh hồn ta, cũng như vào linh hồn các thánh xưa để giúp tránh mọi tư tưởng kiêu ngạo, hư danh, và thêm lòng khiêm tốn”. “Biết làm cho linh hồn nên trống rỗng, Chúa sẽ làm cho nó nên giầu sang” “Người làm điều ác mà xấu hổ về việc đã làm, thì gần Chúa hơn là người tốt mà không dám làm việc lành”

(3) VÂNG PHỤC: “Không vâng phục thì không có nhân đức, không có nhân đức thì không có tốt lành, không có tốt lành thì không có yêu thương, không có yêu thương thì không có Thiên Chúa “

(4) THÁNH Ý CHÚA: “Mong được sống bình an đời đời là điều chính đáng, thánh thiện, nhưng phải vâng theo ý Chúa. Vâng theo ý Chúa ở đời này còn quí hơn hưởng vinh phúc trên Thiên đàng. “Trong khi tùng phục, cảm thấy có phản loạn trong tâm hồn, thì đó là thử thách Chúa gửi đến, cần lý trí tùng phục, bản tính tự nhiên nổi dậy, mặc nó…

(5) BÁC ÁI: “Ai thương xót người nghèo là cho Thiên Chúa vay mượn.

“Chạm đến đức ái thì cũng như đâm vào con ngươi trong mắt Chúa “.

Yêu thương: ” Chúa không thể từ chối ban ơn, khi ta thật lòng muốn yêu mến Chúa “. “Chỉ có một hành động yêu thương của con người, chỉ có một hành động đức ái lớn lao trước mặt Thiên Chúa, đến nỗi cả thế giới này không đủ để thưởng công”.

(6) QUỶ CÁM DỖ VÀ Ý MUỐN: “Nhớ rằng quỉ chỉ có một cửa để vào linh hồn con, đó là ý muốn, không còn cửa nào khác. Không phải là tội, nếu không cố ý muốn phạm.

(7) ĐAU KHỔ: “Nhiều người xin tôi lấy đi thập giá của họ, nhưng rất ít người xin tôi cầu nguyện cho họ có sức mạnh để vác thập giá ấy. “Trần gian này là bể khổ, ta phải vác thánh giá. Không có hạnh phúc ở trần gian này. Học thức mà không nhắm vào Thiên Chúa Tự hữu thì có ích gì? Hãy gạt đi mọi hầm hố trần gian, hãy khiêm tốn, cầu nguyện, sẽ được bình an dưới đất và hạnh phúc trên trời. “Xác ta như con lừa, chúng cần roi vọt, nhưng không được quá tay, nếu nó ngã quị thì ai chở ta?

(8) SỐNG ĐẠO: “Hãy trở nên người công giáo tốt lành, nếu không, cuộc đời ta sẽ không có mục đích.

***Câu nào đánh động Bạn nhất? Câu thứ 6 đánh động mình nhất.

Thánh Pio, cầu cho chúng con!  

From: Đỗ Dzũng

Thánh Mát-thêu-Cha Vương

Thánh Mát-thêu

Hôm nay 21/09, Giáo hội mừng kính Thánh Mát-thêu. Mừng bổn mạng đến những ai chọn Ngài làm quan thầy nhé. Hãy thêm lời cầu nguyện cho những ai đang bị ảnh hưởng bởi tai ương, chiến tranh, bệnh tật khắp nơi.

Cha Vương

Thứ 4: 21/09/2022

“Bỏ nơi ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một người tên là Mát-thêu đang ngồi tại trạm. Người bảo ông: “Anh hãy theo tôi! Ông đứng dậy đi theo Người.”

Câu văn ngắn ngủi trên cho chúng ta biết về người môn đệ tên là Mát-thêu Thánh sử. Có phải thật Mát-thêu là người thu thuế như Thánh Marcô và Luca đã viết trong Tin Mừng không? Nếu đúng như vậy thì Mát-thêu chắc chắn bị những người Do thái khinh bỉ và ghét bỏ vì là người cộng tác với quân La Mã. Những người thu thuế là kẻ thù của nhân dân và là người tội lỗi mà họ oán trách Chúa Giêsu đã đi lại và dùng bữa với họ.

Dù sao đi nữa thì Mát-thêu đã bỏ dĩ vãng lại trong quá khứ mà đi theo Chúa Giêsu. Nhiều học giả nghi ngờ là sách Tin Mừng Mát-thêu có thể là do một trong những môn đồ của Chúa Giêsu vào cuối thế kỷ đầu tiên vì dường như là sách Tin Mừng Mát-thêu được viết bởi một Kitô hữu Do thái thông thạo tiếng Hy lạp và quả quyết Chúa Giêsu là Đấng Messiah, Đấng đã hoàn tất những tiên báo trong Cựu Ước mang đến một luật lệ và một kỷ nguyên mới.

Dường như thánh Mát-thêu viết sách Tin Mừng dành nhiều cho người Do Thái và người giàu có. Phúc âm thánh Mát-thêu ca ngợi sự nghèo khó và thuyết phục người đọc là ơn cứu độ tùy thuộc nhiều vào lòng thương xót những kẻ nghèo khó. Điều này nói lên lòng ăn năn hối cải của người thu thuế. Mát-thêu kể lại những lời giảng dạy của Chúa Kitô và tóm tắt điều căn bản trong Bài giảng trên Núi về các Mối Phúc Thật.

Mát-thêu ghi lại dụ nguôn về cuộc Phán Xét Cuối Cùng khi “Đức Chúa Con trở lại trong vinh quang” để tách ra “chiên và dê”. Chúa phán với những người được Chúa ân thưởng: “Vì khi Ta đói các người đã cho ăn, Ta Khát các ngươi đã cho uống, Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước, Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc, Ta đau ốm các ngươi dã thăm viếng, Ta ngồi tù các ngươi đã hỏi han.” Họ bèn hỏi: “Chúng tôi đã làm những việc ấy lúc nào? Chúa bèn phán: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”

Thánh Mát-thêu là đấng phù trợ các sứ vụ của Giáo Hội. Được ơn gọi đi theo Chúa Giêsu, thánh Mát-thêu kết thúc Tin Mừng lời thúc dục người theo Chúa như sau: “Vậy anh em hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, “và lời cuối cùng cho chúng ta và cho mọi thời đại: “Và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Nguồn: ViệtCatholic)

Xin bạn hãy tự trả lời những câu hỏi gợi ý suy niệm hôm nay, nếu được thì hãy chia sẻ với một người nào đó:

❦ Hôm nay, Thiên Chúa sai tôi đến với ai?

 Tôi đã và đang làm gì để mang Tin Mừng vào trong môi trường sống của tôi?

 Đâu là những lĩnh vực trong đời sống mà tôi có thể tận hiến cho Thiên Chúa?

From: Đỗ Dzũng

 Thánh Andrê Kim Taegon & Thánh Paul Chong Hasang và các Bạn tử đạo người Ðại Hàn.

 Thánh Andrê Kim Taegon & Thánh Paul Chong Hasang và các Bạn tử đạo người Ðại Hàn.

Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Andrê Kim Taegon & Thánh Paul Chong Hasang và các Bạn tử đạo người Ðại Hàn.

Cha Vương

Thứ 3: 20/09/2022

Anrê Kim Taegon là linh mục Ðại Hàn đầu tiên và là con của một người trở lại đạo. Cha của ngài, ông Ignatius Kim, được tử đạo trong thời cấm đạo năm 1839 và được phong thánh năm 1925. Sau khi được rửa tội vào lúc 15 tuổi, Anrê phải trải qua một hành trình dài 1,300 dặm để gia nhập chủng viện ở Macao, Trung Cộng. 

Sáu năm sau, ngài xoay sở để trở về quê hương qua ngả Mãn Châu. Cùng năm ấy ngài vượt qua eo biển Hoàng Sa đến Thượng Hải và thụ phong linh mục. Khi trở về quê, ngài có nhiệm vụ thu xếp cho các vị thừa sai vào Ðại Hàn qua ngã đường biển, nhằm tránh né sự kiểm soát biên phòng. Ngài bị bắt, bị tra tấn và sau cùng bị chặt đầu ở sông Han gần thủ đô Hán Thành.

    Thánh Phaolô Chong Hasang là một chủng sinh, 45 tuổi. Kitô Giáo được du nhập vào Ðại Hàn khi Nhật xâm lăng quốc gia này vào năm 1592, lúc ấy có một số người Ðại Hàn được rửa tội, có lẽ bởi các binh sĩ Công Giáo người Nhật. Việc truyền giáo rất khó khăn vì Ðại Hàn chủ trương bế quan tỏa cảng, ngoại trừ những hành trình đến Bắc Kinh để trả thuế.

    Một trong những chuyến đi này, khoảng năm 1777, sách vở tài liệu Công Giáo của các cha dòng Tên ở Trung Cộng được lén lút đem về để dạy bảo người Kitô Giáo Ðại Hàn. Giáo Hội tại gia bắt đầu thành hình. Khoảng mười năm sau đó, khi một linh mục Trung Hoa lén lút đến Ðại Hàn, ngài thấy có đến 4,000 người Công Giáo mà chưa có ai được gặp một vị linh mục. Bảy năm sau, số người Công Giáo ấy lên đến khoảng 10,000 người. Sau cùng, tự do tôn giáo được ban hành vào năm 1883.

    Khi Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến Nam Hàn ngày 06 tháng 5 năm 1984 để phong thánh, ngoài hai Thánh Anrê Kim Taegon và Phaolô Chong Hasang, còn 98 người Ðại Hàn và ba vị thừa sai người Pháp, tất cả đều tử đạo trong khoảng 1839 và 1867. Trong số 103 Thánh tử đạo có các giám mục và linh mục, số còn lại  là giáo dân: 47 phụ nữ, 45 quý ông.

    Trong những người tử đạo năm 1839 là Columba Kim, một phụ nữ 26 tuổi. Ngài bị cầm tù, bị tra tấn bằng vật dụng bằng sắt nung nóng và than. Ngài và người em là Agnes bị lột quần áo và bị giam chung với những tù nhân hình sự, nhưng họ không bị làm nhục. Sau khi Columba phàn nàn về sự sỉ nhục này, từ đó về sau không một phụ nữ nào bị nhục nhã như vậy nữa. Hai người bị chém đầu. Một em trai 13 tuổi, Peter Ryou, bị tra tấn dã man đến độ em có thể lấy da thịt của mình mà ném vào quan toà. Em bị xiết cổ cho đến chết. Protase Chong, một người quý tộc 41 tuổi, sau khi bị tra tấn ông đã chối đạo và được thả tự do. Sau đó, ông  trở lại, tuyên xưng đức tin và bị tra tấn cho đến chết.

LỜI BÀN: Chúng ta bàng hoàng khi thấy Giáo Hội Ðại Hàn, sau khi được thành lập, hoàn toàn là một Giáo Hội của giáo dân khoảng hơn một chục năm. Làm thế nào mà giáo hội ấy sống còn khi không có bí tích Thánh Thể? Ðiều này cho thấy, không phải các bí tích không có giá trị, nhưng phải có một đức tin sống động trước khi thực sự được hưởng ơn ích của bí tích Thánh Thể. Bí tích là dấu chỉ của sự hoạt động của Thiên Chúa và là đáp ứng của đức tin sẵn có. Bí tích làm gia tăng ơn sủng và đức tin, nhưng điều này chỉ có thể xảy ra khi đã có một điều gì đó để gia tăng.

LỜI TRÍCH: “Giáo Hội Ðại Hàn thì độc đáo vì được thành lập hoàn toàn bởi giáo dân. Giáo Hội còn non yếu, thật trẻ trung nhưng thật vững mạnh trong đức tin, và đã đứng vững sau những đợt sóng bách hại mãnh liệt. Do đó, chỉ trong vòng một thế kỷ, Giáo Hội đã kiêu hãnh với 10,000 vị tử đạo. Cái chết của các vị tử đạo này trở thành men cho Giáo Hội và đưa đến sự triển nở huy hoàng của Giáo Hội Ðại Hàn ngày nay. Ngay cả bây giờ, tinh thần bất khuất ấy vẫn còn trợ giúp cho người tín hữu của Giáo Hội thầm lặng ở miền bắc bên kia vĩ tuyến” (ÐGH Gioan Phaolô II, bài giảng trong lễ phong thánh).

(Nguồn: Người Tín Hữu Online)   

From: Đỗ Dzũng

Ngày 05/09: Thánh Têrêsa Calcutta, nữ tu

Ngày 05/09: Thánh Têrêsa Calcutta, nữ tu

 Lm. Giuse Đinh Tất Quý & Trần Duy Nhiên

 Ngày 05/09/2022

Ngày 5 tháng 9
THÁNH TÊRÊSA CALCUTTA

  1. ĐÔI HÀNG TIỂU SỬ.

Đây là tiểu sử chính thức của Mẹ thánh Calcutta được Đức Hồng Y Angelo Amato, là Tổng trưởng bộ Tuyên Thánh, đọc trước Đức Thánh Cha Phanxicô trong thánh lễ tại quảng trường Thánh Phêrô lúc 10h25 sáng Chúa Nhật 04/09/2016

Calcutta, nhủ danh Gonxha Bojaxhiu Agnes, sinh tại Skopje, Albania, ngày 26 Tháng Tám năm 1910, là người con thứ năm và cũng là con út của ông bà Nikola và Drane Bojaxhiu. Têrêsa đã được rửa tội vào ngày hôm sau và được rước lễ lần đầu khi lên năm tuổi rưỡi. Từ thời điểm đó trở đi, tâm hồn Têrêsa tràn ngập tình yêu dành cho các linh hồn.

Năm 1928, với mong muốn được phục vụ như là một nhà truyền giáo, Têrêsa bước vào Tu hội Chị em Loreto ở Ireland. Năm 1929, Têrêsa đến Ấn Độ, và khấn lần đầu vào tháng 5 năm 1931 và khấn trọn vào tháng Năm năm 1937. Trong suốt hai mươi năm sau đó, Têrêsa đã giảng dạy ở Ấn Độ, và được nhiều người biết đến vì lòng bác ái, lòng nhiệt thành, sự tận tâm và sự vui tươi.

Ngày 10 tháng 9 năm 1946, Têrêsa nhận được từ Chúa Giêsu lời mời gọi “để lại tất cả mọi thứ phía sau và phục vụ Ngài nơi những người nghèo nhất trong số những người nghèo”. Năm 1948, Têrêsa nhận được sự cho phép của Giáo Hội để bắt đầu sứ vụ tông đồ của mình trong các khu ổ chuột của thành phố Calcutta. Dòng Thừa Sai Bác Ái đã trở thành một Tu Hội của giáo phận vào ngày 07 tháng 10 năm 1950, và đã được nâng lên thành một Tu Hội giáo hoàng vào ngày 1 tháng 2 năm 1965. Đặc sủng riêng của Tu Hội là để thỏa mãn cơn khát vô hạn của Chúa Giêsu đối với tình yêu và đối với các linh hồn bằng cách hoạt động cho sự cứu rỗi và sự thánh thiện của những người nghèo nhất trong những người nghèo.

Để mở rộng sứ mệnh tình yêu này, Mẹ đã mở thêm các nhánh khác bao gồm dòng các Tu huynh Thừa Sai Bác Ái, vào năm 1963, dòng các nữ tu sĩ chiêm niệm vào năm 1976, dòng các Tu huynh chiêm niệm (1979), và dòng các Cha Thừa Sai Bác Ái vào năm 1984, cũng như các Hiệp hội các cộng tác viên, Hiệp hội các cộng sự viên đồng lao cộng khổ, và phong trào Corpus Christi cho các linh mục.

Tại thời điểm Mẹ qua đời vào ngày 05 tháng Chín năm 1997, dòng có đến 3,842 chị em làm việc tại 594 nhà ở tại 120 quốc gia. Mặc dù, phải chịu đựng một kinh nghiệm đau đớn của bóng tối nội tâm, Mẹ đã đi khắp mọi nơi, có liên quan, như Đức Maria trong trình thuật Thăm Viếng [bà Elizabeth], để truyền bá tình yêu của Chúa Giêsu trên khắp thế giới. Do đó, Mẹ đã trở thành một biểu tượng của dịu dàng và tình yêu thương xót của Thiên Chúa cho mọi người, đặc biệt là đối với những người không được yêu thương, bị khước từ và bỏ rơi. Từ trên Thiên Đàng, Mẹ tiếp tục “thắp lên một ánh sáng cho những người sống trong bóng tối trên trái đất này.”

  1. CON ĐƯỜNG NÊN THÁNH.

Con đường nên thánh của Mẹ Thánh Têrêsa thật đơn giản: Chỉ sống trọn vẹn Lời khuyên của Phúa Âm với hai hướng đi rất rõ rệt.

  1. Sống tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa.

Đây là lời của đức cha Angelo Comastri về mẹ. Từ lúc còn trẻ, tôi đã có nhiều liên hệ thân tình với mẹ Têrêsa Calcutta. Một lần gặp tôi, mẹ đưa đôi mắt trong suốt và sâu thẳm nhìn tôi rồi đột ngột hỏi:

– “Con cầu nguyện mỗi ngày mấy giờ ?”.

Ngạc nhiên trước câu hỏi bất ngờ, tôi lúng túng tìm cách chống chế:

– “Con tưởng mẹ sẽ nhắc nhở con sống bác ái, yêu thương giúp đỡ người nghèo chớ! Đàng này mẹ hỏi con cầu nguyện mỗi ngày mấy giờ ?” .

Mẹ Têrêsa liền nắm chặt hai bàn tay tôi, rồi siết mạnh như thông truyền cho tôi điều mẹ hằng ấp ủ trong lòng. Mẹ nói:

– “Con à, nếu không có Thiên Chúa hỗ trợ, chúng ta quả thật quá nghèo để có thể giúp đỡ người nghèo. Con nên nhớ: Mẹ chỉ là phụ nữ nghèo luôn cầu nguyện. Chính trong khi cầu nguyện mà Thiên Chúa đặt Tình Yêu Ngài vào lòng mẹ và nhờ thế, mẹ có thể giúp đỡ người nghèo. Con nhớ cho kỹ nhé: – Mẹ giúp đỡ người nghèo vì mẹ hằng cầu nguyện, mẹ cầu nguyện luôn luôn!”.

 Một kỹ nghệ gia giàu có muốn dâng cúng ngôi biệt thự sang trọng của ông để mẹ Têrêsa tiếp đón những người bị bệnh liệt kháng. Ông cầm trong tay bộ chìa khóa và muốn trao ngay cho mẹ. Nhưng mẹ Têrêsa nói: – “Tôi phải cầu nguyện và suy nghĩ trước đã, vì tôi không biết có nên đưa các bệnh nhân liệt kháng vào một nơi chốn giàu sang để chăm sóc không. Biết đâu sẽ làm cho họ đau khổ gấp đôi!”.

Mọi người thầm cảm phục sự dè dặt khôn ngoan của mẹ. Tuy nhiên, nhiều người cho là mẹ đã bỏ lỡ một cơ hội ngàn vàng. Do đó, một người cảm thấy có bổn phận khuyên mẹ:

– “Thì mẹ cứ nhận chìa khóa đi, rồi sẽ tính sau!”.

Nhưng mẹ Têrêsa quyết liệt trả lời:

– “Không, thưa ông không. Những gì tôi không cần đều trở thành gánh nặng!” .

  1. Sống yêu thương mọi người nhất là những người nghèo khó bệnh tật.

Mẹ đã kể lại ơn gọi phục vụ của Mẹ trong một lá thư viết từ Calcutta như sau:

“Trong những ngày đầu khi mới khởi sự làm việc cho những người cùng khổ nhát trong vùng ngoại ô, tôi bị sốt liệt giường. Trong cơn mê sảng, tôi bỗng thấy mình được trình diện trước mặt thánh Phêrô, người giữ cửa thiên đàng. Nhưng thánh Phêrô chặn lại không cho tôi vào thiên đàng. Ngài nói như sau: “Không để để cho một người thuộc khu ổ chuột được vào thiên đàng. Thiên đàng không có nơi cùng khổ”.

Tôi mới tức giận nói với ngài như sau: “Thế ư ? Vậy thì con sẽ làm mọi cách để làm cho thiên đàng đầy dẫy dân cư của các khu ổ chuột và lúc đó, ngài bị bắt buộc sẽ để cho con vào thiên đàng”.

Tội nghiệp thánh Phêrô. Kể từ sau giấc mơ ấy, Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ đã không để cho ngài được ở yên phút nào. Không biết bao nhiêu người cùng khổ và cô đơn đã qua đời trong vòng tay ôm ấp của Mẹ và các nữ tu. Thiên đàng đã trở thành nơi cư trú của những người cùng khổ.

Xin được kết thúc bằng câu chuyện sau đây:

Hôm thứ năm 18 tháng 9, Văn Phòng Thông Tin của Liên Hiệp Quốc cùng với Hiệp Hội quy tụ những người công giáo làm việc tại Trụ Sở của Liên Hiệp Quốc ở New York, mang tên là Hiệp Hội Hòa Bình Trên mặt Ðất, đã cùng nhau tổ chức buổi lễ Tưởng Niệm Mẹ Têrêsa Thành Calcutta. Ông Kulla, đại sứ của Albani tại Liên Hiệp Quốc đã ca ngợi Mẹ Têrêsa như là “vị thánh đã sống giửa chúng ta” và sẽ còn sống mãi qua những việc làm và lời nói của Mẹ. Ông còn nói thêm như sau: “ở đâu thuốc men thất bại, và những nghị quyết của Liên Hiệp Quốc không được tuân giữ, thì ở đó Mẹ Têrêsa lại thành công vạch ra con đường cho con người noi theo. Tất cả những người Albani đều hãnh diện về Mẹ”. Ðức Tổng Giám Mục Renato Martino, quan sát viên thường trực của Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc thì nhận định như sau: “Ðời sống và chúng tá của Mẹ Têrêsa đã đánh động tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, quốc gia và xác tín chính trị. Sức thu hút của Mẹ đến từ thái độ sống của Mẹ nhìn thấy Chúa Kitô hiện diện trong mọi người. Mẹ Têrêsa dạy chúng ta rằng: chúng ta không thể thay đổi toàn thế giới, nhưng ít ra chúng ta có thể góp phần làm cho thế giới nầy trở thành nơi dễ sống hơn. Như Mẹ Terêsa, chúng ta đừng bao giờ thất vọng vì sự yếu đuối nhỏ nhoi của mình, nhưng hãy nhớ rằng Thiên Chúa xử dụng sự nhỏ hèn của chúng ta một cách đặc biệt, để chu toàn những việc cao cả.”

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

Vào Chúa nhật ngày 4-9-2016, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã chủ sự thánh lễ tuyên thánh cho Mẹ Têrêsa Calcutta tại Quảng trường Thánh Phêrô ở Vatican với khoảng 120.000 người tham dự. Lễ kính Thánh nữ được ấn định vào ngày 5-9 hằng năm. Dưới đây là tiểu sử và chứng từ của Thánh nhân. 

MẸ TÊRÊSA: TIỂU SỬ VÀ CHỨNG TỪ

“Theo huyết thống, tôi là người Anbani. Theo quốc tịch, tôi là người Ấn Độ. Theo đức tin, tôi là một nữ tu công giáo. Theo ơn gọi, tôi thuộc về thế gian. Theo con tim, tôi hoàn toàn thuộc về Trái Tim Chúa Giêsu” (Mẹ Têrêxa).

Với dáng người nhỏ bé, nhưng với một đức tin sắt đá, Mẹ Têrêxa thành Calcutta được giao phó sứ mạng công bố tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa đối với nhân loại, đặc biệt đối với những người bần cùng nhất. “Thiên Chúa vẫn mãi yêu thương thế gian và Người sai chị em chúng ta ra đi để biểu lộ tình yêu và lòng thương cảm của Người đối với người nghèo”. Mẹ có một tâm hồn tràn đầy ánh sáng Chúa Kitô, một tâm hồn bùng cháy tình yêu đối với Ngài và bị thôi thúc bởi một mong ước duy nhất: “xoa dịu cơn khát của Chúa: khát tình yêu và khát các linh hồn”.

Thời thơ ấu

Agnes Gonxha Bojaxhiu sinh ngày 26 tháng 08 năm 1910, và chịu phép rửa ngay hôm sau, tại Skopje, Macedonia. Gia đình cô thuộc cộng đồng người Anbani. Đây là một gia đình công giáo, mặc dù đa số người Anbani ở đấy theo Hồi Giáo. Thời bấy giờ, Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ cai trị đất nước. Cha cô, ông Nikola, là một doanh nhân. Ông làm chủ một công ty và một cửa hàng thực phẩm. Ông thường du hành đó đây, biết nhiều thứ tiếng và rất quan tâm đến chính trị. Ông là một thành viên của Hội Đồng người Anbani. Cùng với vợ mình là bà Drana, ông đã dạy cho Agnes những bài học bác ái đầu tiên.

Khi Agnes lên 9, năm 1919, cha cô qua đời một cách đột ngột. Bà Drana phải một mình bươn chải hầu nuôi dạy ba người con là Aga (1904), Lazar (1907) và Agnes Gonxha (1910). Để sinh sống, bà lao động vất vả qua nghề thêu may. Dù vậy, bà vẫn dành thì giờ để giáo dục con cái. Gia đình cầu nguyện mỗi tối, đi nhà thờ hằng ngày, lần chuổi Mân Côi mỗi ngày trong suốt tháng Năm và chuyên cần tham dự các lễ kính Đức Mẹ. Họ cũng luôn quan tâm giúp đỡ những người nghèo khổ và túng thiếu đến gõ cửa nhà họ. Trong các kỳ nghỉ, gia đình có thói quen đến tĩnh tâm tại một nơi hành hương kính Đức Mẹ, ở Letnice.

Agnes rất thích đi nhà thờ, cô cũng thích đọc sách, cầu nguyện và ca hát. Mẹ cô tình nguyện chăm sóc một phụ nữ nghiện rượu ở gần đấy. Mỗi ngày hai lần, bà đến rửa ráy và cho người phụ nữ ấy ăn, đồng thời bà cũng chăm sóc một bà góa có 6 con. Những ngày bà không đi được, thì Agnes thay bà đi làm các việc bác ái đó. Khi bà góa qua đời, những người con của bà đến sống với bà Drana như con ruột của mình.

Ơn Gọi

Những năm trung học, cô Agnes dùng phần lớn thời gian để hoạt động trong hội Đạo Binh Đức Mẹ (Legio Mariae). Vì giỏi ngoại ngữ, cô giúp một linh mục gặp khó khăn trong ngôn ngữ, cô dạy giáo lý và đọc rất nhiều sách về các nhà thừa sai Slovenia và Croatia ở Ấn Độ. Khi lên 12, lần đầu tiên cô mong muốn dâng đời mình để làm việc Chúa, hiến trọn đời mình cho Chúa để Người quyết định. Nhưng cô phải làm sao để biết chắc chắn là Chúa có gọi cô hay không?

Cô cầu nguyện nhiều rồi tâm sự với các chị và mẹ mình. Cô cũng trình bày với vị linh mục giải tội: “Làm sao con biết chắc?”. Cha trả lời: “Căn cứ trên NIỀM VUI. Nếu con cảm thấy thực sự hớn hở vui mừng với ý tưởng rằng Chúa có thể gọi con phục vụ Người và tha nhân, thì đấy là bằng chứng cho thấy rằng con có ơn gọi”. Và cha nói thêm: “Niềm vui sâu xa mà con cảm nhận là la bàn để chỉ cho con biết hướng đi của đời mình”.

Năm 18 tuổi là năm trọng đại. Cô quyết định. Hai năm trước đó, cô đã đến tĩnh tâm nhiều lần tại Letnice và nhận ra rõ ràng là cô sẽ phải đi truyền giáo ở Ấn Độ. Vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời năm 1928, cô đến Letnice cầu nguyện xin Đức Mẹ chúc lành trước khi ra đi. Cô chuẩn bị gia nhập dòng Đức Mẹ Lorette, một hội dòng đang hoạt động tích cực tại Ấn Độ.

Ngày 25 tháng 09, cô lên đường. Cả cộng đồng tiễn cô ra ga: nào bạn hữu, nào láng giềng già trẻ, và dĩ nhiên cả Mẹ và bà chị Aga. Mọi người đều khóc.

Cô đi qua Zagreb, Áo, Thụy Sĩ, Pháp và đến Luân Đôn, rồi từ đấy vào một tu viện gần Dublin là nhà mẹ của Hội Dòng Đức Mẹ Lorette. Tại đấy, cô học nói tiếng Anh và sống nếp sống nữ tu. Ngày mặc áo dòng, cô chọn tên là Têrêxa, để tưởng nhớ chị thánh Têrêxa Hài Đồng ở Lisieux, nơi mà cô dừng chân trên đường đến Luân Đôn. Cùng thời gian này cô làm các thủ tục giấy tờ và năm 1928 cô khởi sự cuộc hành trình đầu tiên đến với Ấn Độ: đất nước ước mơ của cô! Cuộc hành trình này thật gian nan. Có vài chị em nữ tu đi cùng tàu với cô nhưng phần đông hành khách thì theo Anh giáo. Suốt nhiều tuần lễ, họ không được dự lễ và rước lễ, kể cả ngày Giáng Sinh. Tuy nhiên, họ cũng làm một máng cỏ, lần hạt và hát thánh ca Giáng Sinh.

Đầu năm 1929 họ đến Colombo, rồi đến Madras và cuối cùng là Calcutta. Họ tiếp tục đi đến Darjeeling, dưới chân dãy Hy mã lạp sơn, nơi mà người nữ tu trẻ sẽ hoàn tất thời gian huấn luyện. Ngày 23 tháng 05 năm 1929, chị Têrêxa vào tập viện và hai năm sau chị khấn lần đầu. Ngay sau đó, chị được chuyển đến Bengali để giúp đỡ các chị trong một bệnh viện nhỏ hầu chăm sóc các bà mẹ đau yếu, đói khát và không nơi nương tựa. Chị bị đánh động trước nỗi khốn cùng vô biên tại nơi này.

Nữ Tu và Giáo viên

Sau đó, chị được gởi đến Calcutta để học sư phạm. Khi nào có thể, chị đều đi giúp chăm sóc bệnh nhân. Khi ra trường, chị trở thành giáo viên và mỗi ngày phải đi xuyên qua thành phố. Công việc đầu tiên của chị là lau phòng học. Chẳng bao lâu, các em bé yêu mến cô giáo vì sự nhiệt tình và lòng trìu mến của cô, nên số học sinh lên đến ba trăm em. Ở một khu khác trong thành phố, còn 100 em nữa. Chị nhìn thấy nơi các em ở và đồ các em ăn. Cảm được sự chăm sóc và tình yêu của chị, các em gọi chị là ‘ma’ (mẹ). Những ngày chúa nhật, chị đi thăm viếng gia đình các em.

Ngày 24 tháng 05 năm 1937, chị khấn trọn đời ở Darjeeling và trở thành, như lời chị nói, “hiền thê của Chúa Giêsu cho đến đời đời”. Chị được cử làm hiệu trưởng một trường phổ thông cơ sở tại trung tâm Calcutta, dành cho nữ sinh Bengali. Đôi khi chị cũng đích thân dạy sử địa. Cạnh trường là một trong những khu ổ chuột lớn nhất Calcutta. Chị Têrêxa không thể nhắm mắt làm ngơ được: Ai chăm sóc cho những người nghèo sống lang thang trên đường phố đây? Tinh thần bác ái toát ra từ những bức thư của mẹ chị nhắc lại tiếng gọi căn bản: hãy chăm sóc người nghèo.

Hội đoàn Legio Mariae cũng hoạt động trong trường này. Cùng với các nữ sinh, chị Têrêxa thường đi thăm bệnh viện, khu ổ chuột, người nghèo. Họ không chỉ cầu nguyện suông. Họ cũng nghiêm túc trao đổi về những gì mình thấy và làm. Cha Henry, một linh mục dòng Tên người Bỉ, là vị linh hướng của chị; ngài gợi ý nhiều điều trong công tác này. Ngài hướng dẫn chị Têrêxa trong nhiều năm. Qua các gợi ý của ngài, chị càng ngày càng mong muốn phục vụ người nghèo, nhưng bằng cách nào đây?

‘Ơn gọi trong ơn gọi’

Với tất cả những thao thức ấy, chị đi tĩnh tâm ngày 10 tháng 09 tại Darjeering. Sau này chị nói:  “đấy là chuyến đi quan trọng nhất trong đời tôi”. Đấy chính là nơi mà chị thực sự nghe được tiếng Chúa: “Hãy đến làm ánh sáng cho Thầy”“. Sứ điệp của Người rất rõ ràng: chị phải rời tu viện để giúp đỡ những kẻ khốn khổ nhất và cùng sống với họ. “Đấy là một mệnh lệnh, một bổn phận, một xác tin tuyệt đối. Tôi biết mình phải làm gì, nhưng không biết phải làm thế nào”. Ngày 10 tháng 09 là một ngày quan trọng đến nỗi Hội Dòng gọi ngày này là ‘ngày linh hứng’ (inspiration day).

Chị Têrêxa cầu nguyện, trình bày cho vài chị khác, tham khảo ý kiến mẹ bề trên, và mẹ bảo chị đến gặp đức tổng giám mục Calcutta, Đức Cha Perrier. Chị giải thích cho ngài về ơn gọi của mình, nhưng đức cha không cho phép. Ngài đã trao đổi với các cha dòng Tên Henry và Celeste Van Exem, là những vị biết rõ chị Têrêxa. Các ngài xem xét mọi mặt vấn đề: Ấn Độ sắp được độc lập và chị Têrêxa lại là một người Âu!  E rằng chị sẽ gặp những nguy hiểm về chính trị và nhiều vấn đề khác xuất phát từ việc phân biệt sắc tộc. Liệu Rôma có phê chuẩn quyết định này chăng? Đức cha khuyên chị cầu nguyện một năm nữa trước khi thực hiện quyết định này, nếu không thì nên gia nhập dòng các Nữ Tử thánh Anna, những nữ tu mặc sari xanh đang hoạt động cho người nghèo. Chị Têrêxa nghĩ rằng đấy không phải là con đường thích hợp cho mình. Chị muốn sống cùng với người nghèo. Một năm sau, khi chị Têrêxa trình lên ý định mình, đức tổng giám mục muốn cho phép, nhưng ngài bảo tốt hơn là chị hãy xin phép Rôma và Mẹ bề trên tổng quyền của chị ở Dublin. Chị lại phải chờ đợi một thời gian khá lâu để nhận được quyết định từ trung ương.

Quyết định

Tháng 08 năm 1948, chị Têrêxa được phép rời cộng đoàn Lorette với điều kiện là tiếp tục tuân giữ các lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Chị chia tay với chị em mình năm 38 tuổi, rời tu phục dòng Lorette để mặc lấy chiếc sari rẻ tiền màu trắng viền xanh. Trước hết, chị đến Patna để theo học một khóa huấn luyện y tá cùng với các nữ tu tại đấy. Chị thấy rõ ràng là chị chỉ có thể giúp đỡ người nghèo trong các căn nhà bẩn thỉu bệnh hoạn của họ nếu chị biết cách phòng bệnh và chữa bệnh. Kiến thức y khoa là điều kiện không thể thiếu được hầu chu toàn ơn gọi mới của mình.

Vị bề trên ở Patna, một bác sĩ, đã cho chị một lời khuyên khôn ngoan khi chị tỏ ý muốn ra sống giữa những người nghèo và chăm sóc họ. Chị bảo rằng chị muốn sống chỉ bằng cơm với muối, giống như người nghèo, và vị bề trên đáp lại rằng đấy là cách hay nhất để cản trở chị khỏi phải đi theo ơn gọi của chị: nếp sống mới đòi hỏi ở chị một sức khoẻ thật vững và thật tốt.

Sau khi trở về Calcutta, chị Têrêxa đến với các khu ổ chuột và đường phố, thăm viếng và giúp đỡ người nghèo. Toàn bộ tài sản của chị vẻn vẹn là một cục xà phòng và năm rupi (một đôla = 45 rupi; và 5 rupi = dưới 2000 VNĐ). Chị giúp tắm các em bé và rửa các vết thương. Người nghèo rất ngạc nhiên: Cái bà người Âu mặc chiếc sari nghèo nàn này là ai vậy? Mà bà nói thông thạo tiếng Bengali! Bà lại đến giúp họ rửa ráy, lau chùi và chăm sóc họ nữa chứ! Thế rồi chị bắt đầu dạy các em bé nghèo học chữ, học cách rửa ráy và giữ vệ sinh. Sau đấy chị mướn được một phòng nhỏ để làm lớp học.

Phần chị, chị vẫn tạm trú tại nhà các Chị Em Người Nghèo. Chúa là nơi nương tựa của chị để có được những sự trợ giúp vật chất. Và Người luôn có mặt: lúc nào chị cũng tìm ra thuốc men, quần áo, thức ăn và chỗ ở để đón người nghèo và chăm sóc họ. Vào giữa trưa, các em bé được uống một ly sữa và nhận một miếng xà phòng, nhưng đồng thời các em cũng được nghe nói về Chúa, Đấng Tình Yêu, và – ngược với cái thực trạng rành rành trước mắt các em – Người yêu thương các em, thực sự yêu thương các em.

Một thời điểm cảm động

Một hôm, một thiếu nữ Bengali, xuất thân từ một gia đình khá giả và là cựu học sinh của Mẹ Têrêxa, muốn đến ở với Mẹ mà giúp một tay. Đây là một thời điểm cảm động. Nhưng Mẹ Têrêxa rất thực tế: Mẹ nói về sự nghèo khó toàn diện, về những khía cạnh khó chịu của công việc Mẹ làm. Mẹ đề nghị thiếu nữ chờ đợi một thời gian nữa.

Ngày 19 tháng 03 năm 1949, thiếu nữ ấy trở lại trong một chiếc áo nghèo nàn và không mang trên người một món nữ trang nào. Cô đã quyết định. Cô là người đầu tiên gia nhập cộng đoàn của Mẹ Têrêxa và lấy tên khai sinh của Mẹ là Agnes. Những thiếu nữ khác nối tiếp cô: vào tháng 05 cộng đoàn có ba người, tháng 11 là năm người, năm sau đó là bảy người. Mẹ Têrêxa thiết tha cầu nguyện để có được nhiều ơn gọi hơn nữa cho Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Có quá nhiều việc phải làm. Các chị em thức dậy thật sớm, cầu nguyện lâu giờ, dự thánh lễ để kín múc sức mạnh cho đời sống thiêng liêng hầu thực thi những công việc phục vụ người nghèo. Tạ ơn Chúa, có một ông tên là Gomes đã dâng tặng tầng cao nhất của căn nhà mình cho cộng đoàn Mẹ Têrêxa. Đây cũng là năm mà Mẹ Têrêxa lấy quốc tịch Ấn Độ.

Mẹ Têrêxa nhìn cộng đoàn lớn lên và biết rằng Mẹ có thể nghiêm túc nghĩ đến việc sáng lập một hội dòng. Muốn xây dựng hiến pháp đầu tiên, Mẹ tham khảo ý kiến của hai người đã từng giúp Mẹ trước đây: các cha dòng Tên Julien Henry và Celest Van Exem. Vị linh mục đọc lại lần cuối là cha De Gheldere. Giờ đây “hiến pháp của Hội Dòng Thừa Sai Bác Ái” có thể trình lên đức tổng giám mục, và ngài gởi về Rôma để xin phê chuẩn.

Đầu mùa thu, sắc lệnh phê chuẩn của Đức Thánh Cha đến, và ngày 7 tháng 10 năm 1950, lễ Mân Côi, nghi thức khánh thành diễn ra trong nhà nguyện của chị em. Đức tổng giám mục cử hành thánh lễ và cha Van Exem đọc sắc lệnh thành lập. Vào lúc ấy, có 12 chị em. Không đầy 5 năm sau, cộng đoàn được nâng lên thành hội dòng Tòa Thánh, có nghĩa là trực thuộc Đức Thánh Cha.

Những lãnh vực khác

Muốn đáp ứng trọn vẹn hơn các nhu cầu vật chất và thiêng liêng của người nghèo, Mẹ Têrêxa sáng lập:

  • Năm 1963: Tu hội Anh Em Thừa Sai Bác Ái.
    ·       Năm 1976: Nhánh nữ tu chiêm niệm.
    ·       Năm 1979, Các Nam tu sĩ chiêm niệm.
    ·       Năm 1984, Hội linh mục Thừa Sai Bác Ái.
    Tuy nhiên, thao thức của Mẹ không dừng lại nơi những người có ơn gọi tu trì mà thôi. Mẹ thiết lập hội:
  • Những Cộng Tác Viên với Mẹ Têrêxa và những Cộng Tác Viên Bệnh Tật Và Đau Khổ, gồm những người thuộc nhiều quốc tịch khác nhau mà Mẹ chia sẻ tinh thần cầu nguyện, đơn sơ, hy sinh và công tác tông đồ qua những việc làm hèn mọn vì tình yêu. Tinh thần này cũng thôi thúc Mẹ thiết lập hội:
    ·       Giáo Dân Thừa Sai Bác Ái.
    ·       Để đáp lại yêu cầu của nhiều linh mục, năm 1981, Mẹ Têrêxa khởi xướng phong trào Corpus Christi dành những linh mục nào muốn chia sẻ linh đạo và đặc sủng của Mẹ.
    Trong những năm lớn mạnh đó, thế giới bắt đầu chú ý đến Mẹ và các công trình mà Mẹ đã khởi xướng. Mẹ nhận được nhiều giải thưởng:
  • Giải Padmashri của Ấn Độ, năm 1962.
    ·       Giải Hoà Bình của Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, năm 1971.
    ·       Giải Nêru vì có công thăng tiến nền hòa bình và sự thông cảm trên thế giới, năm 1972.
    ·       Giải Nobel Hòa Bình, năm 1979; trong khi đó, các phương tiện truyền thông càng ngày càng ca tụng Mẹ hết lời qua các công việc Mẹ làm. Mẹ đón nhận tất cả ‘vì vinh danh Thiên Chúa và nhân danh người nghèo’
    Chứng từ của một cuộc đời.

Toàn bộ cuộc đời và công trình của Mẹ Têrêxa là một chứng từ cho niềm vui trong yêu thương, cho sự cao cả và phẩm giá của mỗi một con người, cho giá trị của từng việc nhỏ nhất được thực thi với đức tin và tình yêu, và trên hết, cho sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa.

Nhưng có một khía cạnh anh dũng khác của vĩ nhân này mà ta chỉ biết được sau khi Mẹ qua đời. Đây là một điều Mẹ dấu kín đối với mọi người, kể cả những thân hữu gần gũi nhất với Mẹ: Trong cuộc sống nội tâm, Mẹ có một cảm nghiệm sâu lắng, đau đớn và thường xuyên rằng Mẹ ở xa cách Chúa, thậm chí bị Người ruồng bỏ, và vì thế càng ngày Mẹ càng khao khát được Chúa yêu thương nhiều hơn. Mẹ gọi cái cảm nghiệm nội tâm ấy là ‘bóng tối’. Cái ‘đêm đen cay đắng’ này khởi sự từ ngày Mẹ bắt đầu công việc phục vụ người nghèo và tiếp tục mãi cho đến cuối đời, khiến Mẹ ngày càng kết hiệp mật thiết hơn với Chúa. Qua cái tối tăm đó, Mẹ tham dự một cách huyền nhiệm vào cơn khát cùng cực và đau đớn của Chúa Giêsu và chia sẻ tự thâm sâu sự khốn cùng của người nghèo.

Trong những năm cuối đời, mặc cho sức khoẻ càng ngày càng giảm sút, Mẹ vẫn tiếp tục điều hành Hội Dòng và đáp ứng các nhu cầu của người nghèo và của Giáo Hội.

  • Năm 1997, số nữ tu của Mẹ Têrêxa là 4000 chị, hoạt động tại 610 nhà, trong 123 quốc gia trên thế giới.
    ·       Tháng 03 năm 1997, Mẹ chúc phúc cho vị bề trên tổng quyền mới của Hội Dòng Thừa Sai Bác Ái (chị Nirmala Joshi), rồi thực hiện một chuyến du hành ở nước ngoài.
    ·       Sau khi yết kiến Đức Thánh Cha lần chót, Mẹ về lại Calcutta, dành những ngày cuối đời để tiếp khách và dạy dỗ các nữ tu con cái mình.
    ·       Ngày 05 tháng 09 là ngày cuối cùng trong cuộc đời trần thế của Mẹ. Mẹ được tiễn đưa về vĩnh cửu theo nghi lễ quốc táng của Ấn Độ và thi hài Mẹ được chôn cất tại nhà mẹ của hội dòng Thừa Sai Bác Ái. Mộ của Mẹ trở thành nơi hành hương cho mọi người, giàu cũng như nghèo.

Không đầy hai năm sau ngày qua đời, do sự thánh thiện mà mọi người đã đồng thanh ca ngợi và những báo cáo về các ơn thiêng nhận được qua Mẹ, nên Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cho phép tiến hành xem xét hồ sơ phong thánh cho Mẹ. Ngày 20 tháng 12 năm 2002, ngài phê chuẩn sắc lệnh công nhận nhân đức anh hùng và các phép lạ của Mẹ.

Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Mẹ được nâng lên hàng chân phước (lễ kính vào ngày 05 tháng 9). Mẹ là người được phong chân phước nhanh nhất trong lịch sử Giáo Hội từ trước đến nay: chỉ 6 năm sau ngày qua đời. Trước Mẹ, thánh Gioan Bosco và thánh Maximilian Kolbe được phong chân phước 30 năm sau ngày qua đời và là những người được phong chân phước nhanh nhất.

Chân phước Têrêxa thành Calcutta – một người của toàn thể nhân loại, mang dòng máu Anbani, có quốc tịch Ấn độ và công dân danh dự của Hoa kỳ, nhưng lại xóa mình đến nỗi ít ai còn nhớ đến cái tên khai sinh Agnes Gonxha Bojaxhiu – mãi mãi là hình ảnh của một Kitô hữu có một đức tin không hề lay chuyển, một đức cậy bất chấp phong ba và một đức ái vượt mọi biên thùy. Lời đáp trả trước tiếng gọi của Chúa Giêsu “Hãy đến làm ánh sáng cho Thầy” đã biến người thành một nhà Thừa Sai Bác Ái, một ‘người mẹ của kẻ nghèo’, một biểu tượng cho lòng thương cảm của Thiên Chúa đối với con người và một bằng chứng sống động cho thấy rằng Chúa Giêsu từng ngày khắc khoải chờ đợi tình yêu của mỗi một linh hồn.

Trần Duy Nhiên
Tổng hợp theo tài liệu của Mạng Lưới Vatican
và Hội Dòng Thừa Sai Bác Ái

Thánh Grêgôriô Cả (540-604), Tiến Sĩ Hội Thánh-Cha Vương

Thánh Grêgôriô Cả (540-604), Tiến Sĩ Hội Thánh

Chúc bạn và gia đình những ngày nghỉ lễ Labor Day tươi vui bình an trong Chúa nhé. Hôm nay 03/09, Giáo Hội mừng kính Thánh Grêgôriô Cả (540-604), Tiến Sĩ Hội Thánh. Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm quan thầy.

Cha Vương

Thứ 7: 03/09/2022

Trong cuộc đời Thánh Grêgôriô Cả, sự nghiệp của ngài càng ngày càng lẫy lừng. Ngài là trưởng thánh bộ Rôma trước khi 30 tuổi. Năm năm sau đó, ngài từ chức, sáng lập sáu đan viện trên các phần đất của ngài ở Sicilia và chính ngài là một tu sĩ dòng Biển Ðức (Benedictine) ở Rôma. Sau khi thụ phong linh mục, ngài là một trong bảy phó tế của đức giáo hoàng, và còn giữ chức vụ sứ thần tòa thánh ở Constantinople, Ðông Phương. Sau đó ngài được gọi về làm đan viện trưởng, và vào lúc 50 tuổi, ngài được chọn làm giáo hoàng thứ 64 kế vị Thánh Phêrô bởi hàng giáo sĩ và giáo dân Rôma. Ngài thẳng tính và kiên quyết. Ngài cách chức các linh mục bất xứng, cấm không được lấy tiền khi phục vụ, và ngài lấy tất cả quỹ riêng của đức giáo hoàng để chuộc các tù nhân bị phe Lombard bắt và săn sóc những người Do Thái bị bách hại và các nạn nhân của nạn dịch tễ cũng như nạn đói kém. Ngài rất lưu tâm đến việc trở lại của nước Anh nên đã sai 40 đan sĩ của ngài đến hoạt động ở đây. Ngài nổi tiếng vì những cải cách phụng vụ, và củng cố sự tôn trọng học thuyết. Người ta đang tranh luận xem có phải chính ngài là người chịu trách nhiệm phần lớn nhạc bình ca (Gregorian) hay không.

    Thánh Grêgôriô sống trong giai đoạn luôn luôn có bất hòa vì sự xâm lăng của phe Lombard và vì những tương giao khó khăn với Giáo Hội Ðông Phương. Khi Rôma bị tấn công, chính ngài là người đến chất vấn vua Lombard. Một sử gia Anh Giáo đã viết: “Không thể nào tưởng tượng được những gì sẽ xảy ra trong thời Trung Cổ–thật lộn xộn, vô trật tự–nếu không có triều đại giáo hoàng; và nói về giáo hoàng của thời trung cổ, vị cha chung đích thực là Ðức Grêgôriô Cả.” Cuốn sách của ngài “Cách Chăm Sóc Mục Vụ” nói về nhiệm vụ và đặc tính của một giám mục, đã được đọc trong bao thế kỷ sau khi ngài chết. Ngài diễn tả vị giám mục chính yếu như một y sĩ mà nhiệm vụ chính là rao giảng và duy trì kỷ luật. Trong các bài giảng thực tế của ngài, Thánh Grêgôriô có tài áp dụng phúc âm hàng ngày vào nhu cầu đời sống của giáo dân. Ðược gọi là “Cả”, Thánh Grêgôriô được nâng lên một vị trí ngang hàng với Thánh Augustine, Thánh Ambrôsiô và Thánh Giêrôme như một trong bốn vị tiến sĩ nòng cốt của Giáo Hội Tây Phương.

Lời Bàn: Thánh Grêgôriô thích là một đan sĩ, nhưng ngài sẵn sàng phục vụ Giáo Hội trong các phương cách khác khi được yêu cầu. Ngài đã hy sinh những sở thích của ngài trong nhiều phương cách, nhất là khi làm Giám Mục Rôma (Giáo Hoàng). Một khi được kêu gọi để phục vụ công ích, Thánh Grêgôriô đã dùng hết khả năng để chu toàn nhiệm vụ. (Nguồn: Người Tín Hữu)

Sau đây là những câu nói của ngài, mời bạn đọc và suy gẫm để đưa mình đến gần Chúa hơn:

(1) Những ai đã vấp ngã trên đất bằng, đừng nên đến gần vực thẳm.

(2) Ngay cả khi không có quyền lực trong tay, tâm trí con người vẫn hướng chiều về sự kiêu căng; thế thì khi có quyền lực nâng đỡ, họ còn tự đại đến đâu nữa.

(3) Linh hồn là bộ mặt bên trong của con người, theo đó, chúng ta được Đấng Tạo Thành nhận biết và chăm sóc.

(4) Chỉ cần yêu thích những sự trên cao là đã vươn cao rồi.

(5) Nói cho cùng có lẽ không khó để người ta từ bỏ của cải, nhưng chắc chắn là thật khó để từ bỏ chính mình. Khước từ những gì mình có là chuyện nhỏ; nhưng khước từ cái tôi của mình đó mới thật đáng kể.

(6) Đừng lo lắng anh em có gì, nhưng hãy lo lắng anh em là gì.

(7) Nếu biết thường xuyên trang bị tinh thần bằng nghị lực kiên cường để chống lại những xúi giục của các tập quán xấu xa, chúng ta có thể biến chính các tập quán xấu ấy thành vốn liếng của nhân đức.

Câu nào đánh động bạn nhất? Đối với mình thì câu số 4. Còn bạn?

❦ Thánh Grêgôriô, cầu cho chúng con.

From: Do Dzung

Thánh Gioan Tẩy Giả – Cha Vương

Thánh Gioan Tẩy Giả

Chúc bình an! Hôm nay 29/08 Giáo Hội mừng Kính Thánh Gioan Tẩy Giả bị chém đầu, tử đạo. Xin cho lòng một dạ, giữ trọn niềm tin vào Chúa khi phải chịu đau khổ vì Chúa và vì Tin Mừng.

Cha Vương

Lời thề khi say sưa của một vị vua coi thường danh dự, một điệu vũ mê hoặc và một con tim hận thù của hoàng hậu đã đưa đến cái chết của Gioan Tẩy Giả. Vị tiên tri vĩ đại nhất đã chịu chung số phận như nhiều tiên tri khác trong Cựu Ước: bị tẩy chay và tử đạo. “Tiếng kêu trong sa mạc” không ngần ngại lên án kẻ có tội, và dám nói lên sự thật. Tại sao ngài làm như vậy? Ngài được gì khi hy sinh mạng sống mình?

       Nhà cải cách tôn giáo này đã được Thiên Chúa sai đến để chuẩn bị dân chúng đón nhận Ðấng Thiên Sai. Ơn gọi của ngài là một hy sinh cách vị tha. Chỉ có một quyền năng mà ngài công bố là Thần Khí Thiên Chúa. “Tôi làm phép rửa cho các người với nước để giục lòng sám hối, nhưng Ðấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi. Tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các ngươi trong Thánh Thần và lửa” (Mátthêu 3:11). 

       Phúc Âm kể cho chúng ta biết có nhiều người theo Gioan để tìm kiếm hy vọng, có lẽ vì nóng lòng chờ đợi Ðấng Thiên Sai. Gioan không bao giờ tự nhận cho mình cái vinh dự giả dối khi dân chúng tuôn đến với ngài. Ngài biết ơn gọi của mình là sự chuẩn bị. Khi đã đến lúc, ngài dẫn các môn đệ đến với Chúa Giêsu: “Hôm sau, ông Gioan lại có mặt ở đó với hai môn đệ của ông và khi thấy Ðức Giêsu đi ngang qua, ông nói: ‘Ðây là Chiên Thiên Chúa.’ Hai môn đệ nghe nói, liền đi theo Ðức Giêsu” (Gioan 1:35-37)

      Chính Gioan Tẩy Giả là người đã chỉ đường đến Ðức Kitô. Ðời sống và cái chết của Gioan là để hy sinh cho Thiên Chúa và loài người. Lối sống đơn giản của ngài thực sự là lối sống tách biệt khỏi vật chất thế gian. Tâm hồn của ngài đặt trọng tâm ở Thiên Chúa và lời mời gọi ngài nghe được từ Thần Khí Thiên Chúa đã đánh động tâm hồn ngài. Tin tưởng ở ơn Chúa, ngài đã can đảm nói những lời kết tội hoặc kêu gọi sám hối, vì sự cứu độ. (Nguồn: Nhóm Tinh Thần)

       Mỗi người đều có một ơn gọi mà họ phải lắng nghe. Không ai có thể lập lại sứ vụ của Thánh Gioan, và tất cả chúng ta đều được kêu gọi đến một sứ vụ riêng biệt. Ðó là vai trò làm chứng nhân cho Ðức Giêsu của mỗi một Kitô Hữu.

Bất cứ hoàn cảnh nào trong đời sống, chúng ta được mời gọi để trở nên môn đệ của Ðức Kitô. Qua hành động và lời nói, người khác sẽ nhận thấy chúng ta đang sống trong niềm vui khi tin nhận Ðức Giêsu là Chúa chúng ta. Chúng ta không bị gò bó bởi sức mạnh hạn hẹp của chính chúng ta, nhưng chúng ta có thể tìm thấy sức mạnh từ ơn cứu độ bao la của Ðức Kitô. (Nguồn: Nhóm Tinh Thần)

From: Đỗ Dzũng

Thánh Augustine (354-430)

28 Tháng Tám
Thánh Augustine (354-430)

Là Kitô Hữu lúc 33 tuổi, làm linh mục lúc 36 tuổi, được tấn phong giám mục lúc 41 tuổi: ai ai cũng quen thuộc với tiểu sử tóm lược của Thánh Augustine Hippo, một tội-nhân-trở-thành-thánh-nhân. Nhưng có thực sự biết về cuộc đời thánh nhân thì điều đó mới có giá trị.

Dù khi xa cách Thiên Chúa hay hướng về Thiên Chúa, đời sống của ngài mau chóng đạt đến mức độ mãnh liệt. Nước mắt của mẹ ngài, những lời huấn đức của Thánh Ambrôsiô và, trên hết mọi sự, chính Thiên Chúa nói với ngài qua Kinh Thánh đã thay đổi tính đam mê thế gian của Augustine thành một cuộc đời đầy bác ái.

Từng đắm chìm trong sự cao ngạo về cuộc đời mình trong thời niên thiếu và từng say sưa cặn bã cay đắng của cuộc đời, nên người ta không ngạc nhiên khi thấy Augustine, khi quay trở về, ngài đã phải chống trả với sự tấn công của ma quỷ bằng sự thánh thiện quyết liệt. Thời đại của ngài thực sự sa sút — về chính trị, xã hội và luân lý. Người ta vừa sợ và vừa mến ngài, giống như Thầy Giêsu. Ngài bị chỉ trích không bao giờ cùng: là bản tính khắt khe của loài người.

Cuộc đời ngài, do thiên ý, ngài đã chu toàn nhiệm vụ của một ngôn sứ. Như ngôn sứ Giêrêmia và các vị đại ngôn sứ khác, ngài bị bó buộc nhưng không thể giữ im lặng. “Tôi tự nhủ, tôi sẽ không nhắc đến Người, tôi sẽ không nhân danh Người mà lên tiếng nữa. Nhưng rồi như lửa bừng cháy trong tim, giam hãm thân thể tôi; và tôi cầm hãm không nổi, chịu đựng không thấu” (Giêrêmia 20:9).

Lời Bàn

Trong thời đại chúng ta, Thánh Augustine vẫn còn được xưng tụng và vẫn còn bị kết án. Ngài là vị ngôn sứ của thời đại ngày nay, thúc giục chúng ta phải từ bỏ khuynh hướng thoát ly thực tế và can đảm đối diện với trách nhiệm và phẩm giá của mỗi một người.

Lời Trích

“Thật quá trễ để con yêu mến Ngài, ôi Ðấng Tuyệt Mỹ của ngày xa xưa ấy, nhưng mới lạ hơn bao giờ hết! Thật quá muộn để con yêu mến Ngài! Và đây, Ngài ở bên trong, con ở bên ngoài, và con đi tìm Ngài; con bị méo mó, đắm chìm trong những hình dáng đẹp đẽ mà Ngài đã dựng nên. Ngài ở với con, nhưng con không ở với Ngài. Nhiều thứ đã giữ con xa Ngài – những thứ mà nếu chúng không ở trong Ngài, thì chẳng là gì cả. Ngài kêu lớn và gào thét vào sự ngơ điếc của con. Ngài lấp lánh và chiếu sáng vào sự mù quáng của con. Ngài thở hương thơm và con bị lôi cuốn – và con khao khát Ngài. Con đã nếm thử, và con đói khát. Ngài chạm đến con, và con đã bừng cháy vì sự bình an của Ngài” (Tự Thú của Thánh Augustine).

Trích từ NguoiTinHuu.com

 Thánh Monica (322-387)-Cha Vương

 Thánh Monica (322-387)

Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé. Hôm nay 27/8 Giáo Hội mừng kính Thánh Monica (322-387), người mẹ gương mẫu, đạo đức, và thánh thiện. Ngài là quan thầy của giới hiền mẫu đó. Chúc mừng, chúc mừng!

Cha Vương

Thứ 7: 27/8/2022

Thánh Monica sinh năm 322 tại Tagaste (Souk Ahrus), nước Algeria. Thuộc dòng dõi Berber nên tên Ngài là Berber. Những gì chúng ta biết được về thánh nữ đều nhờ các bút tích của con Ngài, nhất là cuốn IX bộ “tự thuật” (confessions). Cuộc đời và gương sáng của thánh nhân cho chúng ta thấy rằng: ngài đã “làm những chuyện bình thường cách phi thường”. Tại sao vậy? Sau đây là những gương sáng:

(1) Là chu toàn bổn phận. Chu toàn bổn phận cách trung thành, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác thì quả là anh hùng. Ngài đã hoàn thành sứ mạng Chúa trao trong ơn gọi làm vợ và làm mẹ. Làm vợ, thánh nhân đã hết lòng quý trọng, yêu thương và trung thủy với chồng. Làm mẹ, thánh nhân hết mực yêu thương, hy sinh cho con cái. Tận tụy giáo dưỡng con cái nên người. Khi không được như ý của mình, ngài vẫn không bỏ cuộc. Thánh nhân đã cầu nguyện và hy sinh liên lỷ cho con. Nhờ đó mà ngài đã cải hóa được Augustinô trở về với Chúa và phục vụ Giáo Hội.

(2) Là cảm hóa bằng gương sáng. Khi bị ngược đãi bởi mẹ chồng và chồng, thánh nhân đã nêu cao gương khiêm nhường, yêu thương và tha thứ. Sẵn lòng thông cảm cho tính khí của mẹ và chồng. Yêu thương, phục vụ, khiêm nhường và tha thứ là lựa chọn của thánh nhân trong những lúc khó khăn và gặp chuyện chẳng lành.

(3) Là mẫu gương cầu nguyện và hy sinh. Thánh nhân đã kết hợp với Chúa cách liên lỷ và hoàn toàn phó thác nơi Ngài. Cuộc đời của ngài với những biến cố vui buồn, thành công hay thất bại đều kết hợp với Chúa. Ngài luôn phó thác mọi sự trong sự an bài của Thiên Chúa.

(4) Là sự kiên trì và trung thành. Kiên trì trong cầu nguyện. Trung thành trong niềm tin, dù nhiều khi phải quặn đau.

Quả thật, cả cuộc đời của thánh nhân đã để lại cho chúng ta gương sáng tuyệt vời nơi những người vợ, người mẹ và cho hết mọi người.

Mời bạn hãy chọn một gương sáng của Thánh Monica và đem vào thực hành trong cuộc sống, hãy đặt hết niềm tin và hy vọng vào sức mạnh biến đổi của Chúa nhé. Đừng bỏ cuộc!

From: Đỗ Dzũng

Thánh Batôlômêô (thế kỷ thứ 1)-Cha Vương

Thánh Batôlômêô (thế kỷ thứ 1)

Chúc bình an đến bạn và gia đình nhé. Hôm nay 24/8, Giáo hội mừng kính trọng thể Thánh Batôlômêô (thế kỷ thứ 1) tông đồ. Mừng Bổn mạng đến những ai chọn thánh nhân làm quan thầy nhé.

Cha Vương

Thứ 4: 24/8/2022

Trong Tân Ước, Thánh Batôlômêô chỉ được nhắc đến trong danh sách các tông đồ. Một số học giả cho rằng ngài là Natanien, người Cana xứ Galilê được Philípphê mời đến gặp Ðức Giêsu. Và Ðức Giêsu đã khen ông: “Ðây đích thực là người Israel. Lòng dạ ngay thẳng” (Gioan 1:47b). Khi Natanien hỏi Ðức Giêsu làm sao Ngài biết ông, Ðức Giêsu trả lời “Tôi thấy anh ở dưới cây vả” (Gioan 1:48b). Ðiều tiết lộ kinh ngạc này đã khiến Natanien phải kêu lên, “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa; chính Thầy là Vua Israel” (Gioan 1:49b). Nhưng Ðức Giêsu đã phản ứng lại, “Có phải anh tin vì tôi nói với anh là tôi thấy anh đứng dưới cây vả? Anh sẽ được thấy những điều lớn lao hơn thế nữa!” (Gioan 1:50)

Quả thật Natanien đã được nhìn thấy những điều trọng đại. Ngài là một trong những người được Ðức Giêsu hiện ra trên bờ biển Tiberia sau khi Phục Sinh (x. Gioan 21:1-14). Lúc ấy các ngài chài lưới cả đêm mà không được gì cả. Vào buổi sáng, họ thấy có người đứng trên bờ dù rằng không ai biết đó là Ðức Giêsu. Ngài bảo họ tiếp tục thả lưới, và họ bắt được nhiều cá đến nỗi không thể kéo lưới lên nổi. Sau đó Gioan nói với Phêrô, “Ðó chính là Thầy.”

Khi họ dong thuyền vào bờ, họ thấy có đám lửa, với một ít cá đang nướng và một ít bánh. Ðức Giêsu bảo họ đem cho mấy con cá tươi, và mời họ đến dùng bữa. Thánh Gioan kể rằng mặc dù họ biết đó là Ðức Giêsu, nhưng không một tông đồ nào dám hỏi ngài là ai. Thánh Gioan cho biết, đó là lần thứ ba Ðức Giêsu hiện ra với các tông đồ.

Sổ Tử Ðạo Rôma viết rằng Thánh Batôlômêô đã rao giảng ở Ấn và Armenia, là nơi ngài bị lột da và bị chém đầu bởi vua Astyages. Người được đặt làm quan thầy của các người làm nghề buôn thịt hoặc làm nghề thuộc da. (Nguồn: Nhóm Tinh Thần & Người Tín Hữu)

Giống như Natanien, có khi nào bạn nghi ngờ rằng Chúa Giêsu chính là người mà bạn đang tìm kiếm và khao khát không? Nhưng Chúa Giê-su không ngần ngại ra tay trước. Trước khi kêu gọi bạn, Chúa Giêsu đã biết bạn là ai rồi. Đây là điều bạn cần mở lòng và đặt hết niềm tin tưởng vào quyền năng của Ngài.

Lạy Chúa, xin ban cho con một lòng tin vững mạnh, để con thật tình gắn bó với Đức Ki-tô, Con Một Chúa, như thánh Ba-tô-lô-mê-ô tông đồ. Xin Chúa cũng nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà cho con sống thế nào, để muôn dân nhận biết Hội Thánh chính là bí tích cứu độ.

From: Đỗ Dzũng

 Thánh Rôsa-Lima (1586 -1617)- Cha Vương

 Thánh Rôsa-Lima (1586 -1617)

Một ngày đầy nhiệt huyết để yêu Chúa và phục vụ tha nhân nhé bạn. Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Rôsa-Lima, mừng Bổn Mạng đến những ai chọn Thánh Rôsa làm quan thầy.

Cha Vương

Thứ 3: 23/08/2022

Thánh Rôsa-Lima (1586 -1617) là Nữ Tu Đa-minh người Pê-ru, và là người sáng lập một Đan Viện chiêm niệm đầu tiên tại Pê-ru. Không chỉ là Nữ Bổn Mạng của Mỹ Châu La-tinh, Thánh Nữ còn được đặt làm Bổn Mạng của đất nước Pê-ru, của thủ đô nước này là Li-ma, của Tây Ấn-độ và của Philippine. Ngài sinh vào ngày 20 tháng 04 năm 1586 tại Li-ma, Pê-ru, với tên trong giấy khai sinh là Isabel de Flores. Cha mẹ Ngài là một cặp vợ chồng nghèo túng người Tây-ban-nha, nhưng lúc đó đã di cư sang Pê-ru, Nam Mỹ, và sống ngay tại thủ đô Lima của nước này. Nàng một mực vâng lời cha mẹ, nàng làm tất cả với một nụ cười thật tươi trên môi do bởi tình yêu Chúa Giêsu. Nàng luôn cố gắng để giúp đỡ mọi người. Rôsa rất xinh đẹp. Mẹ nàng muốn con gái mình mặc áo quần đẹp, nhưng Rôsa thưa với Mẹ: “Mẹ à, chỉ có cái đẹp của tâm hồn mới quan trọng”. Một chàng trai trẻ tuổi, giàu có muốn cưới Rôsa, Chàng xin dâng một căn nhà đẹp và nhiều tôi tớ phục vụ cho nàng, nhưng nàng từ chối. Nàng đã yêu chúa với tất cả con tim và chỉ muốn phục vụ Thiên Chúa mà thôi. Khi cha mẹ lâm cảnh nghèo túng, Rôsa đi làm việc mỗi ngày, ban đêm phải may thêm để giúp cha mẹ. Rôsa đến thăm nhà của những người nghèo và mang cho họ thức ăn. Nàng dâng mọi nỗi khó nhọc và làm những công việc tốt lành để cầu xin cho những người tội lỗi quay về với Chúa. Thiên Chúa thường hiện ra với thánh nữ dưới dạng một em bé nhỏ để nói chuyện với nàng là ngài thật hài lòng về những việc làm tử tế của Thánh nữ. Rôsa qua đời khi nàng mới 31 tuổi. Thánh nữ là vị thánh tiên khởi của miền Nam Mỹ châu. (Hạnh Các Thánh, Lm Lovasik SVD)

Sau đây là những câu nói của ngài:

(1) Nếu mọi người biết ơn thánh là gì, họ sẽ muốn được chịu đau khổ, sẽ đón tìm cực khổ, bắt bớ để chiếm hữu cho được, bởi vì ơn thánh là cái giá khôn sánh đáp đền cho lòng nhẫn nại.

(2) Thiếu gánh nặng đau khổ thì không thể đạt đến đỉnh cao ơn thánh. Những tặng ân ơn thánh gia tăng khi các cuộc giao chiến gia tăng.

(3) Khi chúng ta phục vụ người nghèo và người bệnh, là chúng ta phục vụ chính Chúa Giê-su. Chúng ta không được lơ là trong việc giúp đỡ tha nhân, vì chúng ta phục vụ Chúa Giê-su trong anh em. 

(4) Không có đau khổ thì không thể đạt tới đỉnh cao của sự thánh thiện.

(5) Lạy Chúa xin gia tăng đau khổ cho con—cùng với các đau khổ, xin tăng bội Tình yêu cho trái tim con.

 Câu nào đánh động bạn nhất? Tại sao? Theo mình thì câu số 1 đánh động mình nhất bởi vì nhờ ơn thánh mình mới có đủ sinh lực để đương đầu với căn bệnh hiểm nghèo của mình. Có những ngày mình cảm thấy thân xác mình như là một bình sành rất mỏng và dễ bể…

Hôm nay bạn hãy tìm cách bắt chước một nhân đức của thánh nhân, sống đơn sơ và kiên nhẫn hơn nhé.

Lạy Thánh nữ Rosa Lima xin cầu bầu cho con trước ngai tòa Chúa để con biết sống bác ái như thánh nữ mà không đắn đo hơn thiệt.

From: Đỗ Dzũng

Thánh Bê-na-đô (Bernard) ở Clairvaux (1091-1153)-Cha Vương

Thánh Bê-na-đô (Bernard) ở Clairvaux (1091-1153)

Ngày Thứ 7 tràn đầy Tình Yêu của Thiên Chúa nhé. Nếu bạn bước theo chân các Thánh, thế nào bạn cũng sẽ gặp Chúa Kitô và Đức Maria Mẹ Ngài. Hôm nay ngày 20/08, Giáo Hội mừng kính thánh Thánh Bê-na-đô (Bernard) ở Clairvaux, 1091-1153, viện phụ, Tiến Sĩ Hội Thánh. Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy, và mời bạn hãy noi gương ngài để đến gần với Chúa và Mẹ hơn.

Cha Vương

Thứ 7: 20/08/2022

Bê-na-đô sinh năm 1090 tại Fontaines-les-Dijon, Burgundy, nước Pháp trong một gia đình quý tộc. Khi 20 tuổi, Bê-na-đô từ giã quê nhà ở Burgundy để gia nhập cộng đồng đan sĩ ở Citeaux. Năm người anh em, hai người chú của ngài và khoảng 30 người bạn theo ngài vào đan viện. Trong vòng bốn năm, một cộng đoàn đang tàn lụi đã phục hồi sinh lực đủ để khai sinh một đan viện mới trong thung lũng Wormwoods gần đó, với Bê-na-đô làm đan viện trưởng. Nhiệt huyết của người thanh niên trẻ tuổi này là một đòi hỏi thật khắt khe, nhưng đối với chính ngài hơn là người khác. Một cơn bệnh nặng đã khiến ngài kiên nhẫn hơn và thông cảm hơn. Không bao lâu, thung lũng này được gọi là Clairvaux, thung lũng ánh sáng. Ngài có tài phân xử và cố vấn. Do đó, càng ngày ngài càng phải xa đan viện để giải quyết các tranh chấp đã có từ lâu trong Giáo Hội. Thánh Bê-na-đô là người đã can thiệp vào một vụ li giáo đang bùng nổ mạnh và đã đứng về phía đức giáo hoàng ở Rôma để chống với phe ngụy giáo hoàng.

Theo truyền tụng, những lời than thở “Ôi khoan thay, nhân thay, diệu thay, Trinh Nữ Maria!” đã được thánh Bê-na-đô ứng khẩu thêm vào cuối câu kinh Chào Kính Nữ Vương. Thánh nhân đã có công phổ biến thánh thi ấy trong các cộng đoàn tu trì và các đền thánh. Năm 1220, dòng Citeaux đã quyết định buộc mọi phần tử trong dòng phải đọc thánh thi ấy hàng ngày. Kinh Hãy Nhớ, một bản kinh Thánh Mẫu rất được yêu chuộng cũng được cho là của thánh Bê-na-đô ở Claiveaux, mặc dù xác quyết này thỉnh thoảng cũng bị phản đối.

Thánh Nhân qua đời ngày 20 tháng 8 năm 1153 tại đan viện Clairvaux. Thánh Bê-na-đô ở Clairvaux được Đức Giáo Hoàng Alexander III tôn phong hiển thánh năm 1170. Đức Giáo Hoàng Pius VIII đã tuyên xưng Thánh Bê-na-đô ở Clairvaux là Tiến Sĩ Hội Thánh năm 1830. (Tóm tắt từ Nguồn: Người Tín Hữu)

Sau đây là những lời nói của Thánh Bê-na-đô:

(1) Khi Thiên Chúa yêu, thì Người không muốn điều gì khác hơn là được yêu: Thật vậy, Thiên Chúa yêu, thì Người không nhằm điều gì khác ngoài được yêu lại, vì Người biết ai yêu mến Người thì sẽ được hạnh phúc nhờ chính tình yêu đó.

(2) “Đấng chiếm đoạt những con tim” là tước hiệu mà thánh Bê-na-đô đã yêu tặng Mẹ.

(3) Ơn chiêm niệm chỉ được ban cho khát vọng thao thức và nài nẵng. 

(4) Cầu nguyện là thứ rượu làm vui thỏa tâm hồn con người.

(5) Tôi biết các binh lính phải khổ sở rất nhiều và phải chịu đựng trong âm thầm. Giả như mỗi sáng khi thức giấc, họ chịu khó thân thưa với Thiên Chúa lời than thở đơn sơ này: “Lạy Thiên Chúa của con, con ước ao làm và chịu đựng mọi sự trong ngày hôm nay vì yêu mến Chúa.” Họ sẽ tích lũy được nhiều vinh quang muôn đời.

(6) Khi hiểm nguy, khi do dự, khi khó khăn, hãy nghĩ đến Ðức Maria, hãy kêu cầu Ðức Maria. Liên lỉ kêu cầu danh ngài, hễ có đau khổ thì hãy chấp nhận trong lòng vì danh ngài. Có như thế, bạn mới chắc chắn được sự trợ giúp của lời ngài cầu bầu, đừng sao nhãng theo bước chân ngài. Với sự dẫn dắt của ngài, bạn sẽ không bao giờ lạc lối; khi cầu khẩn ngài, bạn sẽ không bao giờ nhát đảm; một khi có ngài trong tâm trí, bạn sẽ không bị lừa dối; khi được ngài nắm tay, bạn sẽ không thể vấp ngã; với sự phù trì của ngài, bạn không còn gì để sợ hãi; nếu theo ngài, bạn sẽ không mệt mỏi; nếu được ngài ưu đãi, bạn sẽ đạt được mục đích.

Câu nào đánh động Bạn nhất? Đối với mình thì câu số 5 đánh động mình nhất.

Thánh Bê-na-đô, cầu cho chúng con.

Thánh Stêphanô (Stephen) vua nước Hungary (975-1038)-Cha Vương

Thánh Stêphanô (Stephen) vua nước Hungary (975-1038).

Tạ ơn Chúa đã ban cho bạn thêm một ngày nữa để yêu thương, để tha thứ và để chia sẻ. Hôm nay Giáo Hội mừng kính thánh Stêphanô (Stephen) vua nước Hungary

(975-1038). Mừng quan thầy đến những ai mang tên Stephen nhé.

Cha Vương

Thứ 3: 16/8/2022

Giáo Hội là của chung mọi người, nhưng sự biểu hiện của Giáo Hội luôn luôn bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa địa phương—có thể tốt hoặc có thể xấu. Không ai được gọi là Kitô Hữu “thuần chủng”; nhưng là Kitô Hữu Việt Nam, Kitô Hữu Hoa Kỳ, Kitô Hữu Mễ Tây Cơ. Sự kiện này rất hiển nhiên trong cuộc đời của Thánh Stêphanô, vị anh hùng dân tộc và quan thầy của nước Hung Gia Lợi.

Sinh trong một gia đình ngoại giáo, ngài được rửa tội khi lên 10 tuổi cùng với người cha, là tù trưởng của sắc tộc Magyar, một bộ lạc chuyên nghề cướp bóc chiếm đóng vùng Danube trong thế kỷ thứ chín. Khi lên nối ngôi cha, Stêphanô đã thay đổi hẳn đường lối cai trị, đưa sắc tộc Magyar theo tinh thần Kitô Giáo và dồn mọi nỗ lực để quảng bá đức tin. Ngài bảo trợ các vị lãnh đạo Giáo Hội, giúp xây dựng các nhà thờ, và là một phần tử ủng hộ quyền lợi của Tòa Thánh.

    Nhưng sự đối xử của ngài đối với người ngoại giáo có phần nào quá cứng rắn. Ngài đưa Kitô Giáo trở thành quốc giáo và trừng phạt nặng nề các thói tục dị đoan phát xuất từ ngoại giáo. Ngài cũng ra lệnh mọi người phải kết hôn, ngoại trừ hàng giáo sĩ, và cấm người Kitô giáo không được lấy người ngoại giáo.

    Stêphanô cũng dẹp tan nhiều cuộc nổi loạn của các phe quý tộc ngoại giáo nổi lên chống với Kitô Giáo. Ðể thừa nhận công trạng của ngài, vào năm 1000, Stêphanô được Ðức Giáo Hoàng Sylvester II xức dầu tấn phong làm vua Hung Gia Lợi và được nhận vương miện cũng như thánh giá từ tay đức giáo hoàng.

    Tuy là vua nhưng đời sống cá nhân của Stêphanô là một bài học thầm lặng cho những người biết đến ngài. Ai ai cũng có thể đến với ngài và mọi người, nhất là người nghèo được ngài đối xử cách công bằng. Ngài dùng tiền của để giúp đỡ người nghèo, nhiều khi ngài ngụy trang để giúp đỡ họ và có lúc tưởng đã thiệt mạng vì hoạt động này.

    Stêphanô làm vua Hung Gia Lợi trong bốn mươi hai năm. Ngài từ trần năm 1038 và được Ðức Giáo Hoàng Grêgôriô VII phong thánh năm 1083.

LỜI BÀN: Ðể nên thánh cần có lòng yêu thương Thiên Chúa và tha nhân như Ðức Kitô. Ðức ái đôi khi mang một bộ mặt lạnh lùng nghiêm khắc vì mục đích thiện hảo. Ðức Kitô đả kích sự giả dối của người Pharisiêu, nhưng khi từ trần Ngài đã tha thứ cho họ. Thánh Phaolô ra vạ tuyệt thông một người loạn luân ở Côrintô “để hy vọng linh hồn của họ được cứu rỗi.” Một số Kitô Hữu chiến đấu trong các cuộc Thập Tự Chinh với sự hăng say cao quý, dù rằng có nhiều người tham gia với động lực bất chính. Ngày nay, sau các cuộc chiến vô nghĩa, và với sự hiểu biết sâu đậm hơn về các động lực phức tạp của con người, chúng ta dường như không dám dùng đến bất cứ hình thức bạo lực nào. Sự hiểu biết tốt đẹp này vẫn còn tiếp tục mỗi khi người ta tranh luận rằng, một Kitô Hữu thì có nên là người tuyệt đối yêu chuộng hòa bình, hoặc đôi khi sự dữ cần phải được dẹp tan bằng võ lực.

LỜI TRÍCH: “Dù Giáo Hội đã góp phần nhiều trong sự phát triển văn hóa, nhưng kinh nghiệm cho thấy, vì lý do hoàn cảnh, đôi khi thật khó để hòa hợp văn hóa với giáo huấn Kitô Giáo.” “Những khó khăn này không nhất thiết làm tổn thương đến đời sống đức tin, trái lại, còn có thể thúc đẩy lý trí tìm hiểu đức tin một cách chính xác và sâu rộng hơn. Thực vậy, những cuộc nghiên cứu và những phát minh gần đây về khoa học, sử học và triết học đã nêu lên các vấn đề mới có ảnh hưởng đến đời sống và đòi hỏi phải có các nghiên cứu thần học mới” (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội trong Thế Giới Ngày Nay, 62). (Trích Gương Thánh Nhân – ns Người Tín Hữu online)

Thánh Stêphanô, cầu cho chúng con.

From: Đỗ Dzũng