S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Đua xe giữa mùa xuân Tây Bắc

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Tôi sinh trưởng ở Đà Lạt (Thành Phố Ngàn Hoa) nên sự hiểu biết về hoa lá cũng không đến nỗi tồi. Thế mà mãi tới bữa rồi, nhờ xem trang Trăm Hoa, mới được biết thêm về một loài hoa nữa – hoa ban:

“Mùa hoa nở là lúc các cặp đôi nô nức đến thăm Tây Bắc. Hoa ban trắng tượng trưng cho tình yêu chung thủy và sự chân thành, dù tình yêu có gặp nhiều trắc trở, khó khăn thì cũng tự tin vượt qua và sẵn sàng đi đến bến bờ hạnh phúc. Các cặp đôi yêu nhau thường thề nguyện dưới gốc cây hoa ban như một minh chứng cho tình yêu thủy chung, bền chặt.”

Thảo nào mà hằng năm vẫn có Lễ Hội Hoa Ban (hay còn gọi là lễ hội Xên Mường, theo Wikipedia) “được người Thái ở Tây Bắc tổ chức vào dịp tháng 2 âm lịch, khi hoa ban nở trắng  núi rừng.” Chỉ có điều hơi đáng tiếc là giữa không gian thi vị và thơ mộng như thế mà Sở Văn Hóa Thể Thao Du Lịch (tỉnh Điện Biên) lại tổ chức đua xe nên ngó cũng thấy hơi kỳ.

Báo Công An Nhân Dân cho biết:

“Đây là lần thứ 3 cuộc thi này được tổ chức trong khuôn khổ Lễ hội Hoa ban nhằm tái hiện lại hình ảnh những chàng trai, cô gái dân công hỏa tuyến chở hàng ngàn tấn lương thực vào chiến trường chỉ bằng chiếc xe đạp thồ thô sơ … góp phần làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Ngoài ra, chiếc xe đạp thồ còn là hình ảnh biểu tượng cho tinh thần đoàn kết, ý chí quật cường của dân tộc, quyết tâm giành độc lập, tự do cho đất nước.”

Chỉ “hơi kỳ” thôi thì bỏ qua đi. Chuyện nhỏ mà. Tuy nhiên, câu hỏi vẫn cần phải đặt ra là thế cái Nhà Nước CHXHVN (Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc) đã đãi ngộ “những chàng trai, cô gái dân công hỏa tuyến … góp phần làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ chấn động địa cầu” ra sao?

Trận chiến này kết thúc vào ngày 7 tháng 5 năm 1954 nhưng mãi đến hơn 60 mươi năm sau, nhà đương cuộc Hà Nội mới ban hành Quyết định 49/2015/QĐ -TTg – ký ngày 14 tháng 10 năm 2015 – về chính sách đối với dân công hỏa tuyến (tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế) như sau:

Chế độ trợ cấp một lần. Mức trợ cấp một lần được ấn định theo các mốc thời gian thực tế trực tiếp tham gia dân công hỏa tuyến (trường hợp có thời gian tham gia dân công hỏa tuyến ở các đợt khác nhau hoặc có gián đoạn thì được cộng dồn) cụ thể như sau:

  1. a) Dưới 01 năm, mức trợ cấp bằng 2.000.000 đồng;
  2. b) Đủ 01 năm đến dưới 02 năm, mức trợ cấp bằng 2.700.000 đồng;
  3. c) Từ đủ 02 năm trở lên, mức trợ cấp bằng 3.500.000 đồng.

Má ơi! Sao “tham gia làm nhiệm vụ quốc tế” mà chỉ được trợ cấp có một lần thôi (và ít xịt vậy Trời) dù tuyệt đại đa số những người trong cuộc đều đã qua tuối 80, hoặc đã chết hết trơn rồi?

Người tuy đã chôn sâu (hay nói theo ngôn từ cách mạng là đã đi vào lịch sử) nhưng mấy cái xe thồ thì chưa. Thỉnh thoảng, thiên hạ vẫn thấy chúng xuất hiện trên đường phố ở khắp ba miền. Tuy chủ nhân không còn phải thồ lương thực/súng đạn như xưa nhưng trách nhiệm thì vẫn nặng nề, đường thì vẫn dài lê thê, và (e) sẽ không có điểm dừng:

Qua một bài phóng sự ngắn (“Thương Cảnh Mẹ Đạp Xe 50 KM Đưa Con Đến Trường”) phóng viên Q. Chiến cho biết thêm nhiều tình tiết về cách mưu sinh cọc cạch, và nhọc nhằn, này:

Đã 3 năm nay, bất kể mưa hay nắng, người mẹ tóc đã bạc ấy vẫn hằng ngày đạp xe 50 km đi về, đưa con đến trường rồi sau đó cùng đứa con gái bệnh tật đi nhặt ve chai mưu sinh. Quê ở Kiên Giang, lên thành phố kiếm sống rồi bị chồng bỏ từ khi mang thai đứa con thứ 2, hằng ngày bà Nguyễn Thị Mai (53 tuổi) đều đạp xe đưa con gái nhỏ đi học miễn phí cùng với đứa con gái bị bại não. Hiện mẹ con bà đang trọ ở quận 2, TP HCM.

Để cho con gái nhỏ, bé Khưu Thị Huỳnh Giao (9 tuổi) được đi học trường tình thương Ánh Sáng (quận 3, TP HCM) đã 3 năm nay bà Nguyễn Thị Mai phải đạp xe từ đường Nguyễn Thị Định, quận 2 sang đường Tú Xương, quận 3. Từ 5 giờ sáng, bà Mai đã dậy sớm khăn gói đưa con đến trường.

 Cuộc mưu sinh cùng cực bằng chiếc xe thồ và sức chịu đựng vô song của những người trong cuộc nhắc nhớ đến những kỳ tích của những dân quân hoả tuyến, hồi giữa thế kỷ trước – theo tường thuật của Vietnamnet:

Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội và dân công của ta sử dụng gần 21.000 chiếc xe đạp thồ, được gọi với tên là “binh chủng xe đạp thồ” hoạt động trên suốt chiều dài gần 1.500km. Lực lượng xe đạp thồ được biên chế thành từng đoàn theo địa phương, mỗi đoàn có nhiều trung đội, mỗi trung đội từ 30 đến 40 xe, chia thành các nhóm khoảng 5 xe để hỗ trợ nhau khi qua đèo, vượt dốc cao.

Xe đạp thồ là một phương tiện linh hoạt nó có thể khắc phục được nhiều nhược điểm của các phương tiện khác. Mỗi chiếc xe thồ có thể chở trung bình từ 80kg đến 100kg tương đương với sức mang của 5 người. Nhiều xe thồ đến hơn 200 kg, đặc biệt có những xe thồ đến hơn 300 kg.

Các học giả nước ngoài nói rằng, chưa ở đâu có như ở Việt Nam, khi sử dụng một lượng lớn xe đạp thồ – một phương tiện đơn giản trở thành phương tiện vận tải hữu hiệu. Họ đã đánh giá rất cao chiến tranh nhân dân của Việt Nam. Việt Nam đã huy động được mọi sức mạnh, huy động mọi lực lượng, huy động mọi yếu tố, phát huy mọi sáng kiến để phục vụ cuộc kháng chiến cho nên Việt Nam giành thắng lợi là tất yếu. 

Hơn nửa thế kỷ sau – sau khi Việt Nam đã dành thắng lợi – nhiều bà mẹ tả tơi vẫn nhẫn nại chở con theo đi nhặt ve chai, nhiều ông bố khốn cùng vẫn đèo con cùng với thùng kem bán dạo, và không ít những đứa trẻ bẩm sinh dị tật vẫn chưa bao giờ được nhà nước hiện hành nhìn nhõi đến. Cái đất nước này “đã huy động được mọi sức mạnh, huy động mọi lực lượng, huy động mọi yếu tố, phát huy mọi sáng kiến để phục vụ cuộc kháng chiến” và “dành thắng lợi” cho ai?

Đã thế, hằng năm vẫn “sôi nổi tổ chức đua xe đạp thồ” để làm gì vậy chứ? Ăn mày dĩ vãng như thế liệu có “nuôi” được hiện tại không?

Ông Đào Ngọc Lượng, Phó Giám Đốc Sở Văn Hóa Thể thao Du lịch tỉnh Điện Biên cho biết: “Ban tổ chức mong muốn qua cuộc thi này giúp người dân hiểu về công tác hậu cần đưa lương thực từ hậu phương đến tiền tuyến, góp phần rất lớn trong chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954. Đây là hoạt động trải nghiệm tốt để thế hệ học sinh, bộ đội tân binh cảm nhận được sự gian nan, vất vả của ông cha trong kháng chiến cứu nước, giáo dục ý thức trách nhiệm của thanh niên với quê hương, đất nước.”

Thế cái nhà nước hiện nay có chút “ý thức trách nhiệm” nào đối với dân không?


 

 S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ông già Ba Tri Lê Đình Kình

 Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

08/01/2024

 

Tôi mém viết hồi ký mấy lần, lần nào cũng đang lúc chuyến choáng hơi men. Ngủ một giấc – thức dậy – ngẫm nghĩ thấy đời mình chán như con gián và nhạt còn hơn nước ốc nữa (chả có cái con mẹ gì để mà “ký” cả) nên … thôi!

Thôi, không viết thì đọc vậy. Cho nó đỡ buồn. Năm ngoái, tôi coi lại nguyên bộ Trả Ta Sông Núi của Đại Tá Phạm Văn Liễu. Năm nay, nghe Đinh Quang Anh Thái dụ, tôi đặt mua cuốn Hồi Ký Tống Văn Công – do Người Việt Books xuất bản.

Tống Văn Công cùng quê với Xuân Vũ. Cả hai ông đều là dân miền Nam nên không biết làm dáng, cũng không quen mầu mè (riêu cua) gì ráo, viết cứ như nói, và nghĩ sao thì nói vậy hà. Xin coi chơi một đoạn ở chương dẫn nhập:

“Tôi cứ tưởng ông già Ba Tri là chỉ những vị nổi tiếng của quê tôi như Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, Phan văn Trị nhưng ông nội tôi bảo sự tích này có từ thời Minh Mạng: Ông Trần văn Hạc, Hương cả của làng An Hòa Tây cho đắp con đập ngăn vàm rạch làm tắc nghẽn đường ghe chở hàng hóa vào chợ Ba Tri.

Dân chúng cả vùng phát đơn kiện, nhưng thế lực Trần Văn Hạc quá mạnh, quan tổng, quan huyện, quan tỉnh đều xử ông ta thắng kiện. Bà con bàn bạc cử ba ông già có uy tín nhất vùng là Thái Hữu Kiếm, Nguyễn Văn và Lê Văn Lợi mang đơn ra Huế kiện lên triều đình.

Các ông này đi bộ qua nhiều vùng rừng hoang vắng nguy hiểm, mất mấy tháng trời mới tới Huế, nổi trống kêu oan ở cửa Ngọ Môn. Vua Minh Mạng cho các ông vào chầu tấu trình sự việc. Vua nghe xong, hạ chiếu cho các ông thắng kiện. Từ đó, danh xưng ‘ông già Ba Tri’ là chỉ những cụ già nhưng chí khí không già, dám dũng cảm bảo vệ lẽ phải.”

Thiệt, đọc mà ái ngại hết sức: “Các ông này đi bộ qua nhiều vùng rừng hoang vắng nguy hiểm, mất mấy tháng trời mới tới Huế, nổi trống kêu oan ở cửa Ngọ Môn.” May mà còn gặp vị vua nhân đức (“hạ chiếu cho các ông thắng kiện”) chớ không thì công cốc.

Thời nay lỡ xẩy ra những chuyện oan khuất tương tự thì chả ai còn phải cất công đi lại xa xôi như vậy nữa. Địa phương nào cũng có hội đồng nhân dân các cấp, trên nữa là quốc hội. Thêm vào đó là hàng ngàn tờ báo, chưa kể vô số các cơ quan truyền thông, mọi chuyện khuất tất đều sẽ bị phơi bầy trước công luận tức thì nên mấy ông già Ba Tri bị thất nghiệp là cái chắc (và cũng hết còn đất sống) đúng không?

Không!

Tưởng vậy chớ không phải vậy đâu. Tưởng vậy là tưởng năng thối. Năm rồi, xã Đồng Tâm vừa xuất hiện một ông già Ba Tri khiến cả nước phải giật mình kinh ngạc. Ông được Tạp Chí Luật Khoa bình chọn là một trong “Mười Nhân Vật Chính Trị Việt Nam Năm 2017,” cùng với không ít lời ưu ái:

“Trước tháng 4/2017, công chúng không biết Lê Đình Kình là ai. Vụ chính quyền huyện Mỹ Đức, Hà Nội xô xát và bắt giữ ông cụ 82 tuổi này vào ngày 15/4 đã thổi bùng làn sóng phản đối của người dân thôn Hoành, xã Đồng Tâm, vốn đang có tranh chấp đất đai tại khu vực đồng Sênh.

Tất cả những diễn biến sau đó cho người ta thấy hình ảnh của một lãnh đạo cả về tinh thần lẫn quyết sách của những người nông dân Đồng Tâm. Ngoài trí tuệ minh mẫn và khả năng trình bày khúc chiết, ông Lê Đình Kình hội tụ nhiều yếu tố để trở thành người được tín nhiệm ở một làng nông thôn Bắc Bộ …”

Về vụ “xô xát” nói trên, nhà báo Nguyễn Đình Ấm cho biết thêm chi tiết:

“Việc ngày 15/4/2017  ba sĩ quan quân đội và đội cảnh sát, an ninh CAHN mời dân ra đồng Sênh ‘kiểm tra mốc giới’ khi đến mốc 15- 20 thì nổ súng uy hiếp, trung tá Trần Thanh Tùng phó CA huyện Mỹ Đức đá cụ Kình văng 2m rồi cùng ‘côn đồ mặc quần bò, áo thun’ xốc nách cụ đưa lên ô tô khóa tay, bịt miệng đồng thời bắt 4 người nữa chở lên Hà Nội thẩm vấn, tra khảo…”

Ông già Ba Tri của xã Đồng Tâm – huyện Mỹ Đức – bị “côn đồ đấm đá, tra khảo” nhưng cả trăm đại diện của Hội Đồng Nhân Dân Thành Phố Hà Nội  đều câm như hến. Còn ĐBQH Đào Thanh Hải thì đứng về phía … công an, để vu cáo nạn nhân: “Gia đình ông Lê Đình Kình đã xông vào chống lại lực lượng thi hành nhiệm vụ, giằng co và xảy ra việc ông Lê Đình Kình bị gãy chân” – theo như tường trình của báo Người Lao Động, đọc được vào hôm 7 tháng 11 năm 2017.

Một năm sau, trên trang Tiếng Dân – đọc được vào ngày 6 tháng 8 năm 2018 –  Nguyễn Đăng Quang (một nhà báo tận tụy và đặc biệt quan tâm về sự việc Đồng Tâm) cho biết:

“Cuộc khủng hoảng Đồng Tâm vẫn đang bế tắc. Người dân đã hai lần gửi TÂM THƯ đến HNTƯ7 và Kỳ họp lần thứ 5 Quốc hội vừa qua, nhưng không có ai trả lời họ. Mới đây, cụ Lê Đình Kình, người được coi là thủ lĩnh của người dân Đồng Tâm, với danh nghĩa người bị hại trong biến cố Đồng Tâm, đã gửi tới Ủy ban Tư pháp Quốc hội và bà Lê Thị Nga, Chủ nhiệm Ủy ban này một “Thư công dân gửi ĐBQH”.

Thư gửi qua ‘Chuyển phát nhanh’, song đến nay đã hơn 2 tháng mà chẳng một ai hồi âm hay phúc đáp cả!

Cụ Kình nhờ tôi hỏi giúp việc này. Tôi có điện hỏi bà Lê Thị Nga, được bà cho biết là chưa nhận được, và đề nghị tôi nhắn cụ Kình gửi lại cho riêng bà, đừng gửi cho ai khác…

Trong cuộc khủng hoảng Đồng Tâm, người viết bài này cũng như tuyệt đại đa số người dân đều mong muốn Trung ương Đảng, Quốc hội và các cơ quan chức năng cần hồi đáp đơn thư và các nguyện vọng, kiến nghị của người dân.”

Khi đất nước còn ở trong tình cảnh một cổ hai tròng (thực dân & phong kiến) nếu bị đám quan lại địa phương ức hiếp, mấy ông già Ba Tri thời trước chỉ cần mất vài tháng đi bộ từ quê mình ra đến kinh đô – nổi trống kêu oan ở cửa Ngọ Môn – rồi chầu tấu trình sự việc là … kể như xong.

Còn bây giờ “tuyệt đại đa số người dân đều mong muốn Trung ương Đảng, Quốc hội và các cơ quan chức năng hồi đáp đơn thư” thôi nhưng điều “mong muốn” giản dị này – xem ra – vẫn hơi có vẻ xa vời, nếu chưa muốn nói là xa xỉ.

Chúng ta đang sống vào cái thời đại (thổ tả) gì vậy, hả Trời?

27/08/ 2018

 


 

 Bưởi tết-Tưởng Năng Tiến

Ba’o Viettin.de

Tưởng Năng Tiến

Bao giờ mà quê hương vẫn còn những người nông dân bất khuất, và đám đông quần chúng sẵn sàng đứng về phía họ thì đất nước (chắc chắn) sẽ có cơ hội phục hưng – dù muộn màng đến đâu chăng nữa!

Tôi tình cờ nhìn thấy hình Nguyễn Thúy Hạnh đang lơn tơn đẩy một cái xe cút kít đầy ắp bưởi (trên trang RFA) trong một cuộc phỏng vấn do Tuấn Khanh thực hiện, vào hôm 19 tháng Giêng năm 2021. Bên dưới tấm ảnh này không có lời ghi chú nào về thời điểm bấm máy nên tôi đoán có lẽ đây là lúc mà cô em đang hớn hở đến thăm vườn bưởi của họ Trịnh (ở Hòa Bình) vào “thuở trời đất (chưa) nổi cơn gió bụi”!

Đến ngày 24 tháng 6 năm 2020 thì đất bằng dậy sóng. BBC ái ngại loan tin: “Cả gia đình nhà hoạt động Trịnh Bá Phương bị bắt.” Làm gì có chuyện bất nhơn, thất đức dữ vậy. Họ đâu bắt hết “cả gia đình” mà chỉ túm chừng phân nửa thôi hà:

  • Con trưởng Trịnh Bá Phương bị kết án 10 năm tù và 5 năm quản chế.
  • Con Út Trịnh Bá Tư bị kết án 8 năm tù và 3 năm quản chế.
  • Mẹ Cấn Thị Thêu bị bị kết án 8 năm tù và 3 năm quản chế.

Đến hôm 7 tháng 4 năm 2021 thì Nguyễn Thúy Hạnh cũng bị tó luôn. Người phụ nữ tươi tắn, xinh xắn (và nổi tiếng từ tâm) này hiện đang bị giam giữ vô thời hạn tại một bệnh viện tâm thần nào đó – giữa một xứ sở mà đầu óc của giới lãnh đạo (dường như) đều không được bình thường cho lắm.

Cả chủ lẫn khách đều bị bắt ráo nạo như thế thì vườn bưởi sẽ ra sao?

Xin thưa: chả có trăng sao gì sất! Cảnh vật và sự việc cũng vẫn y như cũ thôi, cũng cứ y như đôi câu Đường thi mà Sầm Tham  (岑參 715-770) đã viết vào hơn ngàn năm trước:

Đình thụ bất tri nhân khứ tận
Xuân lai hoàn phát cựu thì hoa

(Cây có biết đâu người đã vắng
Xuân về vẫn nở bấy nhiêu hoa – tnt)

Nhờ công vun trồng của anh em họ Trịnh, nhờ sự chăm sóc của gia trưởng Trịnh Khiêm (cùng cô con gái đảm đang Trịnh Thị Thảo) hoa bưởi vẫn nở trắng vườn,  và cành lá đều sai trĩu quả nên cần phải có nơi tiêu thụ. FB Đỗ Thu thỏ thẻ:
Gia đình con/em vẫn duy trì canh tác bưởi sạch như từ hồi em Trịnh Bá Tư còn ở nhà… và mong vẫn tiếp tục nhận được sự giúp đỡ quý báu của mọi người trong vụ bưởi này. Giá cả năm nay đã được điều chỉnh ở một số nơi thấp hơn mọi năm để phù hợp với tình hình thị trường. Cụ thể như dưới đây:

– Giá bưởi tại vườn: 10k
– Tại HN là 12k,
– Tại Đà Nẵng, Sài Gòn là 20k nếu lấy 100 quả trở lên, và 25k nếu lấy dưới 100 quả,
– Tại Dak Lak 25k …
Cô con dâu nhà họ Trịnh chỉ nhắn gửi đôi lời chân thành, mộc mạc, và bình dị thế thôi nhưng cũng đủ khiến cho bàn dân thiên hạ vô cùng phấn khích và ủng hộ hết mình. Số người này đông đảo quá nên xin phép chỉ ghi ra (theo thứ tự an pha) cỡ chục người thôi nha, chớ mà rị mọ đủ hết thì dám phải ngồi gõ máy cho tới Tết (hoặc tới chết) luôn:

  • Nguyễn Chương: “Xin mời tất cả anh chị.em cùng gửi mùi hương bưởi diễn tình thương yêu quý mến của gia đình TNLT.”
  • Lê Hà: “Hôm nay cuối tuần, em sẽ là một cô shipper xịn sò nhen mọi người. Hãy nhắc máy alo bưởi diễn sẽ đến tận hiên nhà nha mọi người.”
  • Bách Hợp: “Nhà em bán Bưởi Diễn Trồng Hữu Cơ. Ngọt ngon chị em ủng hộ nhé.”
  • Vũ Huy Hoàng: “Chuyến bưởi Diễn đầu mùa đã cập bến Sài Gòn. Kính mời bà con cô bác nhanh tay đặt hàng. Chỉ 25k/ trái. Đơn hàng trên 100 trái giá chỉ còn 20k. Liên hệ đặt hàng: 077 400 8569 Anh Hoàng.”
  • Lanh Nguyen: “Ôi tuyệt vời , mong nhiều người ủng hộ GĐ 3 người bỏ tù bất công.”
  • Lê Thanh Lâm : “Kính mời anh em Đà nẵng ủng hộ, bưởi đã về Đà Nẵng rồi.”
  • Phạm Thanh Nghiên: “Bưởi đê Bưởi đê. Bưởi dân oan, bưởi dân chủ. Bưởi tnlt đê.”
  • Trịnh Nhung: “Ăn bưởi diễn cũng không lo có chất bảo quản, dư lượng thuốc trừ sâu. Bà con cứ tin em. Em nói tiếng Bắc nhưng em người Nam. Em không gạt bà con đâu.”
  • Phạm Uyên: “Ai muốn thưởng thức bưởi diễn thơm lừng ngọt đậm hãy liên hệ với Tuyết Phượng số điện thoại : 0366645626.”
  • Lân Tường Thụy: “Mùa bưởi đến rồi, bưởi nhà Cấn Thị Thêu vửa ngon rẻ đảm bảo an toàn thực phẩm , mong mọi người mua ủng hộ.”
  • Chú Tễu: “Tha thiết mong cả nhà giúp đỡ gia đình chị Cấn Thị Thêu.”
  • Mạc Van Trang: “Xin mọi người mua bưởi giúp đỡ gia đình Tù nhân lương tâm Cấn Thị Thêu (Ba mẹ con vẫn đang trong tù).

Lực Lượng 47, tất nhiên, vào cuộc. Dư luận viên Quốc Tuấn lập luận:

“Bán  bưởi cho Trịnh Bá Tư sao phải gắn mác ‘bị tù đày đấu tranh cho công bằng’. Đây là luận điệu đốn mạt nhằm tuyên truyền sai sự thật, đổi trắng thay đen, cổ súy cho hành vi coi thường pháp luật, nhằm mục đích gây mất an ninh chính trị, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, tạo cớ cho các thế lực phản động trong và ngoài nước can thiệp chống phá cách mạng Việt Nam, đi ngược lại nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân.”

Tôi hoàn toàn và tuyệt đối không thấy có “luận điệu đốn mạt” nào ráo trong những lời kêu gọi thiết tha thượng dẫn. Tôi cũng chả nhận ra được bất cứ ai “tạo cớ cho các thế lực phản động trong và ngoài nước can thiệp chống phá cách mạng Việt Nam” cả.
Đọc lại thử xem:

“Những ngày gần cuối năm này là không chỉ mình tôi mà rất nhiều người từ khắp nơi lại ghé về vườn bưởi nhà Chị Cấn Thị Thêu … Về để mua bưởi, để đem bưởi Diễn đi tiêu thụ khắp mọi miền … Về để cảm nhận vị ngọt ngào không riêng của Bưởi Diễn mà cả sự ngọt ngào ấm áp tình người … với đầy ắp những chia sẻ yêu thương !” (Bùi Thị Minh Hằng. “Vườn Bưởi & Những Người Nông Dân Bất Khuất”).

Bao giờ mà quê hương vẫn còn những người nông dân bất khuất, và đám đông quần chúng sẵn sàng đứng về phía họ thì đất nước (chắc chắn) sẽ có cơ hội phục hưng – dù muộn màng đến đâu chăng nữa!

Tưởng Năng Tiến


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Lê Trí Anh

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Thuở ấu thơ tôi đã được nghe nói đến “giường Hồng Kông” nhưng không hình dung ra được là nó thoải mái hay êm ái hay ra sao cả? Lớn thêm chút xíu thì có dịp chiêm ngưỡng dung nhan nguyên đám tài tử Hồng Kông (Miêu Khả Tú, Trịnh Phối Phối, Lý Tiểu Long, Địch Long, Khương Đại Vệ, Vương Vũ …) trên màn ảnh nhưng cảm thấy ái ngại hơn là ái mộ!

Mãi cho đến lúc già, tình cờ đọc bài báo ngắn (“Hong Kong’s ‘rebel’ tycoon Jimmy Lai has no regrets”) của Jerome Taylor mới chợt phát hiện ra là mình có tình cảm chứa chan đối với một vị phú gia Hương Cảng:

Ông trùm truyền thông triệu phú Jimmy Lai biết rằng sự ủng hộ của ông đối với các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ ở Hồng Kông có thể sớm đưa ông đến sau song sắt, nhưng ông tự hào mô tả mình là “kẻ gây rối” nói rằng ông không hối tiếc.

“Tôi chuẩn bị sẵn tinh thần vào tù”, người đàn ông 72 tuổi nói với AFP từ văn phòng của Next Digital, tập đoàn truyền thông dân chủ lớn nhất và rầm rộ nhất Hồng Kông. “Nếu nó đến, tôi sẽ có cơ hội đọc những cuốn sách tôi chưa đọc. Điều duy nhất tôi có thể làm là suy nghĩ thật tích cực.”

 Câu chuyện cuộc đời của Lai là điển hình của nhiều cuộc hành trình làm giàu từ cơ hàn của các ông trùm Hồng Kông. Ông sinh ra ở tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc đại lục trong một gia đình giàu có, người đã mất tất cả khi cộng sản lên nắm quyền vào năm 1949.  Vượt biên đến Hồng Kông khi 12 tuổi …

 Nhưng con đường của ông đã tách khỏi những người cùng thời vào năm 1989, khi Trung Quốc điều xe tăng đến đè đè bẹp các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ ở Quảng trường Thiên An Môn của Bắc Kinh. Ông đã thành lập ấn phẩm đầu tiên của mình ngay sau đó và các bài viết thường xuyên chỉ trích các nhà lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc. (“Ngạo Khí Của Một Nhà Triệu Phú.” Bản dịch của ThesaigonPost – 6/18/2020).

Cái giá mà Lê Trí Anh phải trả cho “ngạo khí” của mình – tất nhiên – không rẻ, theo tường trình của thông tín viên Florence de Changy (RFI) từ Hương Cảng :

Năm người có trách nhiệm của Apple Daily bị bắt tại nhà, đều vào khoảng 7 giờ sáng nay. Họ bị cáo buộc “âm mưu thông đồng với các thế lực nước ngoài”, một tội danh được xác định theo điều 29 của luật an ninh mới, có hiệu lực tại Hồng Kông từ ngày 30/06 năm ngoái…

Đằng sau Apple Daily, rõ ràng là nhà sáng lập tờ báo bị nhắm đến. Tỉ phú Lê Trí Anh 73 tuổi, là một trong những người chỉ trích đảng Cộng Sản Trung Quốc dữ dội nhất. Ông bị khởi tố với một loạt tội danh, và bị giam giữ từ tháng 12. Tháng trước, cảnh sát đã phong tỏa nhiều tài khoản ngân hàng của Lê Trí Anh liên quan đến các công ty của ông, trong khi ai cũng biết rằng sự tài trợ của nhà tỉ phú rất cần thiết cho sự sống còn của Apple Daily.

Nhà báo Đào Trường Phúc (phonhonews) cho biết thêm đôi ba tình tiết:

Tất cả các hãng thông tấn và cơ quan truyền thông quốc tế đều gọi Thứ Năm 24 tháng 6-2021 là một ngày đau buồn của 7.5 triệu người dân Hồng Kông, khi Apple Daily – tờ báo ủng hộ phong trào dân chủ có nhiều độc giả nhất – phát hành số báo cuối cùng và quyết định đình bản sau khi bị chính quyền phong tỏa toàn bộ tài sản và vốn liếng…

 Tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới (Reporters Sans Frontières) cử hành “tang lễ tờ Apple Daily” trước sứ quán Trung Cộng tại Paris để thể hiện thái độ phản đối. Tổng Thống Hoa Kỳ Joe Biden gọi ngày Thứ Năm 24 tháng 6 là “một ngày đau buồn cho tự do báo chí tại Hồng Kông và toàn thế giới.”

Cùng thời điểm này, Vietnamnet cũng có một mẩu tin ngăn ngắn (“6 tỷ phú Việt Nam sở hữu gần 17 tỷ USD”) cập nhật về tình trạng tài chánh của những người giầu nhất hiện nay:

Dẫn đầu danh sách là chủ tịch Vingroup Phạm Nhật Vượng xếp vị trí 344 với 7,3 tỷ USD. Đây là năm thứ 9 liên tiếp ông Vượng có tên trong top người giàu của Forbes. Năm ngoái, doanh nhân này xếp hạng 286 với tài sản 5,6 tỷ USD.

Đứng thứ 2 và thứ 3 lần lượt là CEO Vietjet Nguyễn Thị Phương Thảo (2,8 tỷ USD) và Chủ tịch Hòa Phát Trần Đình Long (2,2 tỷ USD).

Ba tỷ phú còn lại của Việt Nam là Chủ tịch Techcombank Hồ Hùng Anh (1,6 tỷ USD), Chủ tịch Thaco Trần Bá Dương (1,6 tỷ USD) và Chủ tịch Masan Nguyễn Đăng Quang (1,2 tỷ USD).

Trong số 6 tỷ phú của Việt Nam, có 4 người lập nghiệp tại Đông Âu gồm ông Vượng, bà Thảo, ông Quang và ông Hùng Anh. Chỉ duy nhất tỷ phú Trần Bá Dương là chưa đưa doanh nghiệp chủ chốt của mình lên sàn.

“Các ‘đại gia’ đó đã trở về Việt Nam từ thập niên 1990 khi đất nước bắt đầu mở cửa để đổi mới. Họ đầu tư chủ yếu vào bất động sản và xây dựng quan hệ là hai thứ tài sản có lợi nhất trong thời quá độ. Với túi tiền và kinh nghiệm tham nhũng ở Liên Xô và Đông Âu cũ, họ là những người cơ hội (như ‘carpetbaggers’) đặc trưng của thời kỳ tích tụ tư bản hoang dã.

Đó là vắn tắt bối cảnh thời kỳ quá độ của kinh tế thị trường và chủ nghĩa thân hữu ở Việt Nam. Hầu hết các tập đoàn tư nhân đầu tư vào bất động sản, tuy một số đa dạng hóa đầu tư vào lĩnh vực khác như ngân hàng (VP, VIB, Liên Việt), hàng không (Vietjet), thực phẩm (Masan), siêu thị (Vinmart), y tế (Vinmec), giáo dục (Vinschool), và xe hơi (Vinfast).

Các tập đoàn này đã đóng góp đáng kể vào xây dựng hạ tầng, đặc biệt là bất động sản (property development). Từ các triệu phú, nay một số đã nhanh chóng trở thành tỷ phú đầu tiên của Việt Nam. Nhưng có một nghịch lý đáng buồn là trong khi họ làm giàu nhanh thì đa số người dân nghèo đi, và đất nước vẫn tụt hậu, với năng xuất lao động càng thấp.” (Nguyễn Quang Dy. “Chủ Nghĩa Thân Hữu Ăn Sâu Bám Rễ và Đầu Tư Nước Ngoài Chệch Hướng.” Bauxite Việt Nam 06/20/2020).

Nói thế sợ chưa hết lẽ. Giới tài phiệt ở đất nước này hiện đang tạo ra vô số “nghịch lý,” chứ nào chỉ một mà thôi:

Chả trách thiên hạ không ít lời ta thán:

  • Đoan Trang & Trịnh Hữu Long: “Truyền thông chính thống dường như không có bất kỳ bản tin bất lợi nào cho các tập đoàn lớn như Vingroup, Sungroup, hay FLC, mặc dù mạng xã hội luôn có nhiều tin đồn và nghi vấn về các vụ tai nạn, hỏa hoạn hay các vụ thâu tóm đất đai của các tập đoàn này.”
  • Tạ Phong Tần: “Chẳng có quốc gia nào mà dân chúng lại thù ghét người giàu như Ðông Lào, khoảng cách giàu – nghèo càng ngày càng lớn. Hễ ai giàu đều bị nghi là ‘cấu kết nhà nước làm ăn bất chính, cướp đất của dân,’ giàu nhờ lừa đảo.”
  • Trần Hoan : “Tui nói thật dưới xã hội cộng sản tất cả các đại gia tỷ phú đều giàu lên từ buôn bán bất động sản, từ việc phá tài nguyên thiên nhiên như rừng núi, khoáng sản, làm ô nhiễm sông, biển.. hay từ lừa đảo, làm ăn phi pháp…chứ có đại gia tỷ phú nào sáng chế ra được cái gì để giúp dân bớt khổ hay cống hiến được gì cho nhân loại chưa?”
  • Xuyên Việt: “Một trăm thằng đại gia thì có 99 thằng lừa đảo và làm ăn phi pháp.”

Nói thế e có hơi quá lời chăng? Chả lẽ một dân tộc với cả trăm triệu dân lại không xuất hiện được một vị tỷ phú nào ráo trọi mà chỉ có lác đác dăm ba ông (hay bà) trọc phú, chuyên thừa nước đục thả câu, thôi sao?


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Thời đồ mã

 Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Tôi rất thích khoa nhân chủng nhưng không có cơ may đến trường để được truyền thụ một cách bài bản về ngành học thú vị này. Hoàn cảnh sống, nói nào ngay, cũng không mấy thích hợp cho nhu cầu tự học.

Suốt ngày (và suốt đời) tôi chỉ loanh quanh hàng quán nơi mà những kẻ hay lê la thường nói rất nhiều, dù sự hiểu biết của họ vốn không được bao nhiêu. Ngoài giới hạn về kiến thức, mấy ông bạn đồng ẩm còn có cái tật rất hay tranh cãi (và luôn cãi chầy cãi cối) nên mọi thông tin – từ bàn nhậu – đều không được khả xác hay khả tín gì cho lắm.

Chiều qua, lúc tiệc đã sắp tàn, bỗng có vị  nổi hứng đặt vấn đề:

  • Biết tại sao loài người đổi từ mẫu hệ qua phụ hệ, và đổi cách nào không?

Thế là bàn rượu lại râm ran và ồn ào như cũ:

  • Còn sao nữa. Phụ nữ, đàn bà, con gái ăn ở cư xử ác nhân và ác đức quá mà. Đã vậy, còn có cái tật kỳ thị phái tính và lại thêm cái thói vợ chúa chồng tôinữa. Áp bức người ta đến độ hết chịu nổi nên đám đàn ông con trai buộc phải vùng lên thôi?
  • Vùng lên cách nào?
  • Thì nghe nói là có tối mấy chả họp kín dưới suối lâu lắm. Xù xì tới khuya luôn rồi mới chia tay, ai về nhà nấy. Tới nhà ông nào cũng tốc mùng chui vô nằm kề bên vợ, thuận tay bóp lồn/tiện tay bóp vú, hun hít tá lả bùng binh, không chừa một chỗ nào …
  • Chi vậy, Trời ?
  • Từ từ, nghe hết chuyện cái đã. Đúng 9 tháng 10 ngày sau, tất cả phụ nữ đều lâm bồn ráo trọi. Xe cứu thương hú còi inh ỏi, chở hết mấy bả vô viện bảo sanh, không xót một con mẹ nặc nô nào ráo.
  • Rồi sao nữa?
  • Còn sao nữa. Khoảng trống quyền lực được lấp đầy tức khắc. Qua bữa sau là loài người bắt đầu một thời kỳ mới: Thời Phụ Hệ. Nhân ái, nhân bản, nhân đạo, nhân đức, nhân nghĩa, nhân từ, nhân văn (và nhân nhượng ) hơn nhiều. Dễ thở hơn thấy rõ!

Chuyện không đến nỗi nhạt nhưng có chi tiết hơi thô tục (thuận tay bóp cái này, tiện tay bóp cái kia, hay hun hít everywhere) khiến cho những thính giả nho nhã đều phải nhíu mày về cử chỉ thô lỗ của đám đàn ông, trước Thời Phụ Hệ. Với thời gian, mỗi lúc loài người một thêm lịch lãm, tình tứ và lãng mạn hơn xưa – như câu chuyện kể sau (cũng mới nghe qua bàn nhậu) vào bữa hôm kìa:

Sáng tinh mơ, có một ông người Thời Đồ Đá Mới, vác chầy vồ đi kiếm ăn nhưng chưa ra khỏi hang động bao lâu ổng đã vội vã quay về. Mặt mũi khẩn trương thấy rõ, hổn hển ôm chầm lấy vợ:

  • Mình ơi, mình à …
  • Chuyện gì vậy cà. Bộ bữa nay gặp nguyên bầy khủng long hoặc khổng tượng hả?
  • Không.
  • Hay gặp ma Cà Rồng giữa ban ngày?
  • Cũng không. Ma quỷ gì đâu. Anh mới gặp ông Tám ở ngoài bìa rừng kìa.
  • Rồi sao?
  • Thằng chả cho hay là giai đoạn Tân Thạch Khí (Neolithic) đã chấm dứt hồi khuya rồi. Bắt đầu từ sáng nay là mình bước qua một thời đại mới, tới Thời Đồ Đồng rồi đó.
  • Úy Trời! Lẹ dữ vậy sao honey?
  • Chớ sao. Time’s flying mà cưng!
  • Vậy thì phải sắm cho em cái gương bằng đồng à nha. Không phải là em đua đòi sắm sửa gì với mấy con đĩ ngựa cùng thời đâu nhưng sáng nào cũng phải lội bộ ra bờ suối soi mặt, chải đầu, trang điểm … thiệt mỏi chân (và sợ cọp) muốn chết luôn vậy đó…
  • Tưởng gì, chớ gương lược thì kể như là chuyện nhỏ thôi. Để đó tính sau. Bây giờ mình lo nhen lửa rồi nướng đồ mồi liền đi, còn cả đống khô cá sấu và khô voi hun khói trên giàn bếp kìa. Lẹ lên nha, anh hú vợ chồng ông Sáu, ông Tám, cậu mợ Năm, bà Bẩy với cô Tư qua uống sương sương vài xị để chào đón một thời đại mới.

Ngay sau đó là của lửa bập bùng, nhậu nhẹt tùm lum, karaoke um xùm, và phi cần sa mù mịt, rồi ôm nhau làm tình tưng bừng cho tới lúc gà (rừng) gáy sáng luôn.

Thiệt là quá đã, dù có hơi quá đáng!

Nhân loại – tất nhiên – không phải lúc nào cũng vui vẻ nắm chặt tay nhau, cười ha hả, nhẩy cà tưng/cà tưng (một cách nhịp nhàng và điệu đàng) qua từng thời kỳ hay giai đoạn văn minh. Đôi khi, vì sự cách trở của địa lý (hay vì sự khác biệt trong phương cách tổ chức xã hội) nên vẫn có những giống người bị bỏ rơi lại phía sau, hoặc đi theo những bước rất ngoằn nghèo và tối tăm – so với đa phần nhân loại.

Từ Thời Đồ Sắt, thay vì bước vào Thời Đại Kỹ Nghệ, có hằng tỉ người lại rẽ vào Thời Đồ Nhựa. Họ biến cả lục địa thành một thứ công xưởng của thế giới, chuyên sản xuất đồ vật rẻ tiền (giá bán chỉ 99 xu thôi) bất chấp mọi hậu quả và tác hại môi sinh nên không có đối thủ cạnh tranh.

Ai mà lại đi dành việc với những người mưu sinh bằng nghề bán máu bao giờ. Cũng chả ai muốn “cộng chung vận mệnh” với những kẻ đắm đò cả.

Cùng lúc, lại có cả tộc người (gần trăm triệu mạng) thất thểu bước vào Thời Đồ Đểu – theo nhận định của những kẻ đương thời:

  • Nhà thơ Bùi Minh Quốc: “Cả thời kỳ đều cáng đã lên ngôi”
  • Nhà giáo Trần Thị Thảo: “Quả thật rất khốn nạn/ Thời đồ đểu lên ngôi!”
  • Kịch tác gia Lưu Quang Vũ: “Chúng ta đã trải qua nhiều thời kỳ: đồ đá, đồ đồng, đồ sắt. Nay thì đến Thời Đồ Đểu”!

Ủa! Sao lại kêu là Thời Đồ Đểu?

Họa sỹ Đỗ Duy Ngọc lý giải:

“Thời mà miếng ăn bỏ vào mồm cứ sợ là thuốc độc, bệnh uống viên thuốc cứ nghi là thuốc giả. Thời mà ở đâu cũng có thể bị đe doạ, ở trong nhà sợ kẻ cướp, ra đường sợ lũ giật dọc, sợ cây rơi, điện giật, sập hố, sẵn sàng bị giết chỉ bởi một lời nói, một ánh nhìn… Con người mất lòng tin nên chạy theo thần linh, ma quỷ. Họ mê tín đến độ cuồng si, họ tin vào Thế Giới ảo vọng một cách cực đoan.”

Vậy là kể như tới luôn Thời Đồ Mã rồi!

Thảo nào mà báo Phụ Nữ (số ra ngày 29 tháng 8 năm 2023) có bài phóng sự bằng hình, trân trọng giới thiệu ông Vua Đồ Mã VN cùng những sinh hoạt phong phú và đa dạng của nghề hàng mã hiện nay ở xứ sở này:

Đức Quang, 28 tuổi, sinh ra và lớn lên ở “thủ phủ” của nghề vàng mã miền Bắc – xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Bố mẹ Quang có một xưởng sản xuất đã hoạt động hơn 30 năm và nay đến lượt Quang tiếp nối. Tuổi thơ của Quang gắn liền với khung tre, hồ dán, các loại giấy đủ màu và những mô hình vàng mã…

Hiện tại, gia đình Đức Quang sở hữu một xưởng sản xuất rộng 20.000m2. Hằng ngày, bố mẹ Quang cùng những người thợ vẫn miệt mài với nghề thủ công đã tồn tại ở ngôi làng truyền thống suốt mấy chục năm qua. Trong khi đó, những công việc kinh doanh khác như giới thiệu sản phẩm, liên hệ đối tác… sẽ do anh trực tiếp phụ trách.

Ngay từ trong chính tư duy kinh doanh mặt hàng lâu năm này, Đức Quang quan niệm, mỗi sản phẩm vàng mã như một món quà mà “người ở lại” muốn gửi tặng cho “người ra đi” để tinh thần được thanh thản, vơi đi nỗi mất mát, nuối tiếc. Đức Quang mong muốn sẽ là người vận chuyển món quà tinh thần…

Có những câu chuyện khiến anh không thể nào quên: “Một chị khách ở Quảng Ninh muốn đặt một mô hình chiếc xe ô tô vàng mã gửi tặng người bố, bởi trước khi rời cõi tạm, người bố đã luôn phấn đấu để có thể chờ vợ con trên chiếc xe Lexus 570.” 

Nói cách khác là mọi nhu cầu, ước muốn, khát vọng (cũng như hy vọng) quá tầm tay với của con người ở Thời Đồ Đểu đều có thể được thực hiện dễ dàng trong Thời Đồ Mã mà không cần chờ đợi đến cuối thế kỷ này, thời điểm mà có kẻ vẫn đang lo “ không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa” nữa!


 

 S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Mưa ơi sao buồn thế

 Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Bạn tôi, ông Khó Tính, lúc còn ở Sàigòn vốn làm nghề mô phạm. Kể cả trường công lẫn trường tư, sĩ tử theo học kinh nghĩa có đến mấy nghìn. Gặp lúc can qua, học trò thì đông mà chả mấy ai hiển đạt: cứ học nửa chừng lại bị gọi đi lính, ba phần chết tiệt mất hai. Số còn lại trở về chống gậy, đi xe lăn. Thầy trò nhìn nhau nghẹn ngào chửi thề những câu tục tĩu…

Khi cộng sản từ Bắc tiến vào Nam, xe tăng vừa ì ạch đến sát cửa dinh Ðộc Lập thì ông Khó Tính quyết định dắt vợ cõng con xuống tàu lánh xa bạo ngược. Cuối cùng trôi dạt đến Mỹ. Ðất lạ quê người, tiếng Anh ăn đong, kinh nghĩa nói không ai hiểu…

Từ ngày xa nhà, tính tình lại càng khó chịu hơn. Mặt mày hầm hầm, mồm lúc nào cũng lẩm nhẩm nói chuyện một mình. Chiều chiều đứng chống nạnh bắt con tập võ ta. Ðứa đi quyền, đứa dang chân đứng tấn. Nguời bản xứ cho là lạ, tò mò rủ nhau nhìn trộm qua hàng rào như đi xem xiếc. Ban đêm bắt con học Việt sử. Ðứa nào không thuộc bài thì co giò mà đá, đến nỗi bị cảnh sát còng cả tay.

Càng cay đắng, càng chửi, càng chê. Chê nguời gì mà nhiều lông lá, chê nhà chọc trời nhìn thêm mỏi mắt, có ngày động đất nó đổ xuống đầu cho mà khốn. Lại chửi trời nhiều hơn, chửi tục hơn, gọi trời là thằng không kiêng nể gì nữa…

Bạn khen biển, ông chê lạnh, tắm cóc sướng bằng Long Hải, Vũng Tầu. Bạn khen núi, ông bĩu môi:”Tôi lấy làm ngờ về cái thẩm mỹ của anh. Núi trọc thế này so sao được gót chân Ðại Lãnh ?”

Bạn ngượng, không còn dám mở mồm khen điều gì. Bụng bảo dạ:”Bọn Ðông Dương ta khối đưá bị bịnh tâm thần”. Có ý thương xót mà lui tới thăm viếng nhiều hơn…

Một hôm nhận được bao trà từ Việt Nam gửi sang, bạn thân ái mời ông khó tính đến. Nước đun xủi tăm, trà trút vào bình, chủ khách ân cần đối ẩm.

Ðược đôi tuần, bạn lên tiếng hỏi:

– “Trà uống được không?’

Ông Khó Tính:

– “Cũng được. Nhưng thua Ðỗ Hữu”.

Bạn cười dòn:

– “Bố ơi! Chính hiệu trà Ðỗ Hữu Bảo Lộc vừa gửi sang.”

Ông Khó Tính:

– ” Thảo nào. Có điều cái nước máy chát qúa!”

Bạn chồm lên:

– “Biết tính bố thích trà Bảo Lộc, phải hứng nước mưa pha trà đây. Không phải nước máy đâu.”

Ông Khó Tính tuột giầy gãi nách ngáp:

– “Nước mưa ở Mỹ, uống vào đắng cả mồm!”

Câu chuyện mà bạn vừa đọc, có tiểu tựa là “Ông Khó Tính”, được trích dẫn từ tác phẩm Ngọn Cỏ Bồng của văn sĩ kiêm thi sĩ Nguyễn Bá Trạc. Tôi may mắn có chút giao tình (dù nhạt) với Nguyễn quân – một người rất mực tài hoa, và uyên bác. Ông am tường hầu hết mọi lãnh vực khoa học. Riêng lãnh vực môi sinh thì (dường như) có phần hơi…kém!

Ông Khó Tính trong chuyện kể vừa rồi không phải là một nhân vật hư cấu. Tôi cũng đã, đôi lần, được hân hạnh hầu chuyện cùng ông. Nhân sinh quan và vũ trụ quan của ông Khó Tính ra sao, phận kẻ hậu sinh, tôi tuyệt nhiên không dán lạm bàn nhưng nhận xét rằng “nước mưa ở Mỹ uống vào đắng cả mồm” (theo thiển ý ) thì vô cùng chính xác.

Tôi bắt chước cổ nhân, ăn nói cầu kỳ chút đỉnh như thế cho ra vẻ mình cũng là người khiêm tốn; sự thực, nước mưa ở Mỹ uống ngang phè hay đắng cả mồm là một sự kiện khách quan chứ chả dính dáng gì đến “tôn ý” hoặc “thiển ý” của bất cứ ai.

Những hoá chất sulfur dioxide, nitrogen oxides … từ chất đốt như săng dầu than củi trong không khí, khi gặp môi trường không khí ẩm thấp sẽ góp phần tạo thành mưa hay tuyết với nồng độ acid cao – có thể làm ô nhiễm nước uống, hư hại nhà cửa, mùa màng và ảnh hưởng đến sinh hoạt của của nhiều sinh vật – là một tiến trình tự nhiên.

Khói xe, khói nhà máy phun tùm lum ở Mỹ vẫn được coi là nguyên nhân chính tạo ra nồng độ acid cao trong nước mưa. Uống vào đắng cả mồm là phải. Ông Khó Tính – dù thực sự đúng là một người không dễ tính chăng nữa – nói như thế thì có sai sót, oan ức chỗ nào đâu mà danh gia họ Nguyễn che miệng chúm chím cười. Ðã thế, còn dám xa gần ám chỉ rằng tinh thần ông ta “hơi” bất ổn.

Ðã lâu, tôi không có dịp gặp lại ông Khó Tính. Sáng nay, tình cờ đọc lại một tờ báo cũ – Việt Báo USA, ấn bản Bắc California, số ra ngày 15 tháng 10 năm 98 – thấy loan tin mưa acid ở Việt Nam mỗi lúc một thường hơn, và nồng độ acid cũng cao hơn, đến độ có thể làm chết cá ở ao hồ…bỗng trạnh nhớ đến “cố nhân” – với đôi chút quan hoài và rất nhiều… ái ngại.

Bài báo (viết theo bản tin của AP) cũng có trích dẫn lời một nhân viên thuộc Trung Tâm Khí Tượng Phía Nam, bà Nguyễn Kim Lan, cho rằng nguyên do chính của hiện tượng này là việc lạm dụng phân bón và thuốc trừ sâu, cùng với khói thải của nhà máy ở Việt Nam và từ những lân bang.

Ủa, chớ nhà máy nào ở xứ mình mà hoạt động dữ dội vậy kìa ? Không chừng mấy mỏ than ở Quảng Ninh lắm à ? Mà đâu có lẽ, mới năm rồi, theo tường thuật của Jonathan Birchall (từ Cẩm Phả) thì vì không tìm được thị trường tiêu thụ nên nhà nước đã cho ba ngàn thợ mỏ về vườn để đuổi gà cho vợ – nếu họ có vợ, có vườn và có gà để đuổi. Cũng như tất cả những công nhân vô sản khác trên toàn thế giới,những người thợ mỏ ở Cẩm Phả và Hòn Gay đều có vợ nhưng không có vườn (đừng nói chi gà).

Trước tình cảnh này, đã có phụ nữ tính đến chuyện “bán thân nuôi chồng” nhưng e ngại …không có người mua (She would even consider selling her body, but says: “No one would take me – ” Climbing Out Of A Deep Dark Hole.” Time Asia, 2 August 1999, vol. 154, no. 4). Khai thác mỏ than thì mới sợ ô nhiễm môi sinh, chứ khai thác tình dục thì mây mưa kiểu này đâu có tạo thành acid mà lo hư hại mùa màng và chết cá.

Hay là nhà máy thép Thái Nguyên chăng ? Sau 1975 thì cả nước đều rõ là cái nhà máy thổ tả này chỉ thực sự hoạt động (bằng mồm) và đạt thành tích trên đài hay trên báo. Truyền thống này, chắc chắn, vẫn còn được giữ vững cho đến ngày nay . Bằng chứng là nhân dân cả nước vẫn đều đều mua từ cây kim, đến cái đinh – nếu chưa dành dụm đủ tiền để mua xe đạp – được nhập cảng (lậu) từ Thái Lan hay Trung Cộng.

Như vậy, không lẽ khói thải tùm lum lại từ những cơ xưởng kỹ nghệ của những lân bang cỡ như Miên Quốc hay Lào Quốc ? Người Lào, dù đã vượt quá độ từ tư bản chủ nghĩa sang xã hội chủ nghĩa từ lâu, nghe đâu, vẫn còn đi xe bò lòng vòng trong thành phố và cưỡi voi dạo chơi tà tà ở trong rừng.

Còn người Miên, cách đây chưa lâu, còn có thể (nhân danh chủ nghĩa cộng sản) giết hàng triệu người bằng cuốc chim hay chầy vồ gì đó. Ðời sống của nhân dân ở hai nước xã hội chủ nghĩa láng giềng, cũng như ở nước ta, đâu mấy ai đụng chạm hay dính dáng gì tới máy móc mà có khói – ngoại trừ những lúc nướng khoai.

Vậy thì khói thải ở đâu ra ? Lửa phải có ở chỗ nào mới được chớ ? Không có lửa sao có khói ?

Tôi thực lòng không dám nghi ngờ độ khả tín và khả xác của nguồn tin từ tờ Việt Báo USA; tuy nhiên, vì chút bồn chồn lo lắng nên loay hoay vào “internet” truy tìm phần tin tức của AP để mong được hiểu biết sự việc rõ ràng hơn. Tôi không kiếm ra được bài báo dẫn thượng nhưng (chả may) lại thu lượm được nhiều sự kiện phiền lòng khác về tình trạng mưa acid ở Việt Nam.

Qua địa chỉ “web site” của South East Asian Science Policy Advisory Network (http://www.icsea.or.id/sea-span/0998/TP0909L2.htm) tôi đọc được một bài báo ngắn của ông Nguyễn Hiệp – người mà tôi đoán là một chuyên gia hiện đang định cư tại Úc – có tựa là “Transboundary Sulfur Pollution &Vietnam”.

Ông Nguyễn Hiệp đã bầy tỏ sự quan ngại rằng ở Ðông Nam Á có những quốc gia chỉ tạo ra những lượng lưu huỳnh rất nhỏ nhưng lại phải chịu nhận sự tích tụ của loại hoá chất này rất lớn từ những lân bang hoặc ngay cả từ những quốc gia xa xôi khác. Việt Nam và Nepal là hai (receptor) “nạn nhân” điển hình trong vùng về tệ trạng này.

Tài liệu ông Hiệp trích dẫn cho thấy Trung Cộng là nước đứng thứ nhì thế giới về lượng thải sulfur, và hơn 60 phần trăm số lượng hoá chất này – từ cơ xưởng kỹ nghệ của họ – đã theo gió rơi rớt và tích tụ ở nước Việt (R. Arndt, G. Carmichael, J. Roorda – Seasonal source-receptor relationship in Asia, Journal of Amostpheric Enviornment, Vol. 32, No.8, 1998, pp. 1397-1406).

Thảo nào, giới chức Việt Nam, bà Nguyễn Kim Lan nào đó đã có vẻ ấp úng khi nói là nguyên do mưa acid một phần là do khói thải từ những nước lân bang nhưng không nói rõ từ đâu. Bà sợ làm mất lòng người anh em cộng sản láng giềng, dù Việt Nam (từ lâu nay) đã trở thành cái thùng rác chứa đựng 60 phần trăm lượng hoá chất ô nhiễm của Trung Cộng – một quốc gia có lượng thải lưu huỳnh cao thứ nhì thế giới!

Thái độ nhũn nhặn thái quá và khó hiểu này, phần nào, có thể giải thích được nếu biết rằng sự ô nhiễm môi sinh ở Việt Nam hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến đời sống của giai cấp cầm quyền. Họ có dư phương tiện để tránh hết những điều bất tiện.

Giai cấp bị trị, nhất là những người ở thôn quê, không có cái may mắn xa xỉ đó. Xin đơn cử một thí dụ, một thí dụ rất nhỏ mà tôi tình cờ biết được khi đọc một “web site” khác.

Hiện tại ở làng Thi Lai, thuộc quận Duy Vĩnh, tỉnh Quảng Nam có 152 gia đình (tổng cộng 750 người) đang cần…nước uống! Theo tường thuật của ông Võ Thịnh, dân làng phải gánh nước từ những giếng nước chưa bị ô nhiễm, cách nhà nhiều cây số (There are no cars, motorbikes or even bicycles, so these people walk, many kilometers, sometimes in more than 100-degree heat, to get the water they need to survive). Công sức này, cũng theo nhận xét của ông Võ Thịnh, nên để dành cho việc đồng án hay chăn nuôi thì dân chúng sẽ đỡ đói hơn!

Chớ ông Võ Thịnh là ai vậy ? Một giới chức địa phương chăng?

Không phải đâu. Ông ta là một kỹ sư thủy lực hiện đang làm việc ở thành phố Oakland, tiểu bang California (based water district East Bay Municipal Utility District). Cùng với phu nhân, bà Sandra Harris, ông Võ Thịnh đang hoạt động thiện nguyện cho “East Meets West Foundation”. Cơ sở này đã thực hiện được cả chục chương trình mang lại nước uống cho những nguời dân quê thiếu nuớc ở Việt Nam, như trường hợp của dân làng Thi Lai.

Dự án đào giếng nước sạch cho dân làng Thi Lai (hay Thị Lại ?) tốn kém 3.400 Mỹ Kim, và ông Võ Thịnh cùng phu nhân – bà Sandra Harris – đã đi …xin để có được số tiền này! (Once we verified the need for the system, we forged ahead to raise the necessary $3,400 from our families, friends and East Bay Municipal Utility District employee donations (http://www.vas-dc.org/Voices/v5n4/thilai.htm).

Khi móc túi lấy tiền ủng hộ dự án nước uống cho làng Thị Lại, có lẽ, ít ai nhớ rằng Việt Nam là nước đứng hàng nhất nhì thế giới về lượng gạo xuất cảng trong những năm liên tiếp vừa qua. Thành quả mang lại là nhiều tỉ Mỹ Kim ngoại tệ, và hậu quả là sự ô nhiễm môi sinh với mưa acid và nước bị nhiễm độc vì sự lạm dụng phân bón hoá học và thuốc trừ sâu – như đã được xác nhận bởi Nha Khí Tượng Việt Nam, qua bài báo đã dẫn. Không biết tiền bán gạo rơi vào túi ai nhưng nước mưa bị ô nhiễm thì rơi vào làng Thị Lại, và những nơi khốn cùng tương tự.

Tôi viết những giòng chữ này cũng vào một ngày mưa, khi California đang bước khẽ vào Thu. Sáng trời đã bắt đầu se se lạnh, và lất phất mấy hạt mưa bay. Mưa không đủ làm ướt đất, và chắc cũng chỉ vừa đủ để làm nhạt được chén nước mắm của những o bán bánh bèo gánh – ở quê nhà. Mưa ơi, sao ít thế!

Quê hương tôi ở vùng nhiệt đới, nơi đây mỗi năm chỉ có hai mùa: mưa và nắng. Vũ độ hàng năm tính hào phóng theo đơn vị mét (mètre), nghĩa là cả trăm “inches”. Cũng chính nơi đây là xuất xứ của câu tục ngữ “hiền như một ngụm nước mưa“. Vậy mà, sau nửa thế kỷ đói ăn, đồng bào tôi – đã đến lúc – phải ngửa tay đi xin luôn…nước uống. Mưa ơi, sao khổ vậy!

10/1988


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Một gia đình nông dân

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

Ngày 24/12/2021, chính quyền chọn ngày Giáng Sinh cho mở phiên tòa hình sự phúc thẩm, xét xử chị Cấn Thị Thêu và  Trịnh Bá Tư”. L.S Đặng Đình Mạnh – 19/12/23

Tôi vốn chả thiết tha hay mặn mà gì lắm với chuyện văn nghệ/văn gừng nên hoàn toàn không quan tâm chi đến những điều tiếng eo sèo, quanh mấy câu thơ (“hơi quá tân kỳ”) của Nguyễn Quang Thiều.

Theo Wikipedia, tiếng Việt, đọc được vào hôm 21 tháng 7 năm 2021: “Ngoài lĩnh vực chính thơ ca tạo nên tên tuổi, ông còn là một nhà văn với các thể loại tiểu thuyếttruyện ngắnbút ký và tham gia vào lĩnh vực báo chí. Ông hiện nay là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam; Phó Tổng thư ký thứ nhất Hội Nhà văn Á – Phi.”

Thảo nào mà Nguyễn Quang Thiều thường xuất ngoại, và hay viết về những chuyến đi. Năm tháng mà Nguyễn Quang Thiều sống ở nước ngoài, có lẽ, ít hơn thời gian tôi ngồi lê la trong mấy cái bar rượu (nơi xứ lạ) nên đọc mấy trang du ký của ông không thấy có chi là hào hứng lắm.

Cũng theo Wikipedia: “Nguyễn Quang Thiều được coi là người cùng với nhà văn, trung tướng công an Hữu Ước sáng lập nên hai tờ báo là tờ An Ninh Thế giới cuối tháng và Cảnh Sát Toàn Cầu.”

Đã là một quan chức trong chế độ toàn trị, lại làm báo Cảnh Sát với một ông tướng công an (rất nhiều tai tiếng) nên thỉnh thoảng nhà thơ vẫn bị chê trách là lẽ tất nhiên. Tuy nhiên, khách quan mà xét thì khó có thể phủ nhận được rằng ông là một người cầm bút có tài (và cũng rất có tâm) khi viết về cuộc sống ở nông thôn.

Hãy xem qua đôi đoạn (“Thư Của Đứa Con Những Người Nông Dân”) đã được đăng nhiều kỳ trên trang Vietnamnet:

“Cảnh làm ruộng của những người nông dân của mấy chục năm trước kia và bây giờ chẳng khác nhau chút nào. Có khác thì chỉ khác một điểm. Đó là người nông dân đi sau đít con trâu mấy chục năm trước kia hiện ra trong ảnh đen trắng còn người nông dân bây giờ vẫn đi sau đít trâu nhưng là trong ảnh màu rực rỡ….”

Trong những tấm “ảnh mầu rực rỡ” này, Nguyễn Quang Thiều tìm ra được nhiều con số rất “kinh hoàng” – theo như nguyên văn cách dùng từ của chính ông:

“Khi tiếp xúc với những người nông dân, tôi thường xuyên hỏi về tổng thu nhập mỗi tháng của một khẩu trong một gia đình họ là bao nhiêu. Dù rằng tôi biết họ đang sống một cuộc sống vô cùng vất vả nhưng tôi vẫn kinh ngạc khi nghe một con số cụ thể:

‘Tổng thu nhập một tháng trên một khẩu của chúng tôi là 40.000 đồng …’ 40.000 đồng có giá trị như thế nào lúc này. Đó là giá của 2 bát phở, giá của 4 lít xăng, giá của hai xuất cơm trưa văn phòng, giá của một cuốc xe ôm trên đoạn đường 10km, giá của hơn một bao thuốc lá 555, giá của 3 ly cà phê…Tôi biết sẽ có rất nhiều người không thể tin rằng tổng thu nhập hàng tháng của một khẩu trong hầu hết những gia đình nông dân lại chỉ với một con số ‘kinh hoàng’ như thế.”

Nhà văn Nguyễn Khải còn cho biết thêm đôi ba sự việc còn “kinh hoàng” hơn thế nữa:

“Ai cũng giàu có hơn trước, nấu cơm bằng nồi cơm điện, tối xem tivi mầu, giờ rảnh thì xem phim bộ. Mỗi xóm đều có cửa hàng cho thuê băng vidéo, có gái điếm cho ngủ chịu đến mùa trả bằng thóc, có cờ bạc, có hút thuốc phiện và chích heroin, thành phố có gì ở làng quê đều có, cả hay lẫn dở, dở nhiều hơn hay.”

Dù “dở nhiều hơn hay,” làng quê Việt Nam vẫn tồn tại nhờ vào vô số những nông dân “đội sương nắng bên bờ ruộng sâu, vài ngàn năm đứng trên đất nghèo ” để nuôi nấng cho cả dân tộc này được sống “no lành” – theo như lời (Tình Ca) thắm thiết của Phạm Duy.

Câu hỏi đặt ra là liệu giới nông dân còn vẫn có thể tiếp tục “đứng” mãi như thế thêm bao lâu nữa, trước tình trạng nông thôn đang bị bức tử một cách thảm thương như hiện cảnh? Bi kịch mới nhất của giới nông dân Việt Nam vừa được RFA tường trình, vào hôm 22 tháng 6 vừa qua:

“Vụ án hai nhà hoạt động vì quyền đất đai là ông Trịnh Bá Phương và bà Nguyễn Thị Tâm bị cáo buộc tội danh ‘phát tán tài liệu nhằm chống nhà nước’ đã kết thúc giai đoạn điều tra vào hôm 15 tháng 6 năm 2021…

Bà Đỗ Thị Thu, vợ ông Trịnh Bá Phương, cho biết, gia đình chồng của cô có tổng cộng ba người bị bắt giữ, bao gồm ông Phương bị công an Hà Nội bắt giam một năm về trước – chỉ bốn ngày sau khi bà sinh con…

Luật sư Lê Văn Luân, người bào chữa cho cả hai nhà hoạt động thì cho hay trên Facebook cá nhân rằng, cả bà Nguyễn Thị Tâm và ông Trịnh Bá Phương đều bị đề nghị truy tố theo khoản 2, Điều 117 Bộ Luật Hình sự với khung hình phạt từ 10 đến 20 năm tù giam.”

FB Vũ Quốc Ngữ cho biết thêm: “Từ đầu năm đến nay, an ninh Việt Nam bắt giữ ít nhất 13 người theo cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước’ hoặc ‘lợi dụng quyền tự do dân chủ,’ và kết án 14 người cũng theo hai tội danh trên với mức án từ 4 năm đến 15 năm tù giam.”

Cả hai tội danh thượng dẫn đều rất mơ hồ – nếu chưa muốn nói là hàm hồ – chỉ để che đậy cho những sự thực (phũ phàng) liên quan đến việc tranh chấp đất đai ở xứ sở này:

Hiến pháp 1959 vẫn chưa “quốc hữu hóa đất đai” như Hiến pháp 1936 của Liên Xô mà nó được coi là một bản sao. Cho dù, từ thập niên 1960 ở miền Bắc và từ cuối thập niên 1970 ở miền Nam, ruộng đất của nông dân đã bị buộc phải đưa vào tập đoàn, hợp tác xã, đất đai chỉ chính thức thuộc về “sở hữu toàn dân” kể từ Hiến pháp 1980…

Chiều 18-1-2011, khi điều khiển phiên họp toàn thể của Đại hội Đảng lần thứ XI biểu quyết lựa chọn giữa “chế độ công hữu về tư liệu sản xuất” và “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”, ông Nguyễn Phú Trọng hứa với Đại hội “thiểu số sẽ phục tùng đa số”. Nhưng, tháng 5-2012, Ban Chấp hành Trung ương mà ông Nguyễn Phú Trọng là tổng bí thư vẫn quyết định duy trì “chế độ công hữu” với đất đai, “tư liệu sản xuất” quan trọng nhất.” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

Chính cái được mệnh danh là “chế độ công hữu” này đã sản sinh ra vô số những “vụ cướp ngày” từ mấy thập niên qua:

“Chỉ đến thời đại của Internet và đặc biệt là mạng xã hội, những vụ cướp đất đầy tai tiếng mới được phơi bày, luôn luôn đầy bạo lực, máu, nước mắt, và tù tội. Những cái tên đất, tên làng đã đi vào… lịch sử cướp đất: Tiên Lãng, Văn Giang, Đồng Tâm, Dương Nội, Thủ Thiêm, và nhiều nữa… (Đoan Trang, Trịnh Hữu Long. “Chính Trị Việt Nam: Một Thập Kỷ Nhìn Lại.” Luật Khoa Tạp Chí 30/12/2009).

Tác giả Đỗ Thúy Hường tóm gọn:

“Luật ngày càng rườm, dài. Nhưng ‘tim đen’ của luật lại rất đơn giản. Nó nằm ở nội hàm của từ ‘quản lý’… Chỉ bằng một câu viết trên giấy ‘Đất đai (về hình thức) là sở hữu toàn dân, (nhưng thực chất) do nhà nước toàn quyền quản lý’… Thế là, lập tức 50-60 triệu nông dân đang có ruộng, phút chốc biến ngay thành tá điền của đảng.”

Phải cần thêm bao nhiêu dân oan, bao nhiêu mảnh đời bầm dập, và bao nhiêu gia đình nông dân tan nát nữa để cái nhà nước hiện hành có thể “hoàn thiện CNXH ở Việt Nam vào cuối thế kỷ này” ?


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Làng Ba Đình

 Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Báo Dân Việt, số xuất bản vào hôm 5 tháng 8 năm 2023, đi tin:

“Làng Đa Giá Thượng nằm ở phía Nam bến đò Khuốt, trên đường thiên lý từ Bắc vào Nam và nằm ngay dưới chân dãy núi đá vôi trùng điệp, hiểm trở. Ở đây có một bọn trộm cướp hung đồ, khống chế được tất cả các chức sắc trong làng cùng theo, dần dần hình thành cả một làng ăn cướp, có quy định khoán ước với nhau rất chặt chẽ…

Chúng lập ra một nhà trạm trên đường thiên lý với vỏ bọc là một nghề kinh doanh ăn uống và nghỉ trọ. Chủ quán lúc nào cũng cung cấp đầy đủ rượu ngon có pha thuốc mê, chuốc cho khách no say… Đêm đến, khách đang say giấc nồng thì chúng xông vào, trói giật cánh khuỷu, nhét giẻ vào miệng, lôi lên núi đá. Trên núi có một cái hang rất sâu gọi là Kẽm Trống, chúng xô khách xuống hang rồi về chia nhau tiền bạc.”

T.S Nguyễn Xuân Diện cho biết thêm:

“Sự việc xảy ra từ những năm đầu thập kỷ bảy mươi của thế kỷ XVII, kéo dài suốt 20 năm… khi ấy chúa đưa quân vào, bắt được gần 300 tên, trong đó có 52 tên đầu sỏ đưa đi chém luôn, san phẳng làng ấy – tức là làng Đa Giá thượng.

Chúa sai làm lễ tế để an ủi vong hồn các nạn nhân, nay bài văn tế đó vẫn còn lưu ở Viện Hán Nôm… Nhận thấy đây là tư liệu lịch sử quý, có thể bổ sung thêm cho chính sử về một sự kiện xảy ra cách đây đã đến 310 năm rồi, chúng tôi xin phiên âm dịch nghĩa giới thiệu toàn văn”.

Xin được trích dẫn đôi câu:

Nào ngờ Đa Giá Thượng lắm kẻ hung đồ;

Dám giữa buổi thái bình gây ra trọng án.

Cướp ở đường, giết ở cửa, bạo tàn nào kém sài lang;

Ném xuống nước, vứt lên non, hung ác thực hơn hổ báo…

 Ba trăm năm sau, lại có một “trọng án” khác (cũng “bạo tàn nào kém sài lang”) được ghi lại trong tác phẩm Thủy Mộ Quan của Viên Linh. Ông viết “thi điếu” để “tưởng nhớ những oan hồn uổng tử” ngoài Biển Đông:

 Trên Huyết Hải thuyền trôi về một chiếc

Chiều bầm đen trời rực rỡ đau thương

Thân chìm xuống băng tuyền giờ tận biệt

Sóng bạc đầu hối hả phủ trùng dương

 Thế nào là “uổng tử”?

“Cuối thập niên 70 cùng với những ghe vượt biển mong manh còn xuất hiện những thuyền nhiều tầng được Công an Biên phòng hộ tống ra tận cửa biển, do chính nhà nước đứng ra tổ chức dưới tên gọi Vượt biên Bán Chánh thức. Với chính sách bài Hoa, chính quyền muốn triệt tiêu ‘đội ngũ Hán gian’ nhưng trong thực tế là những gia đình Hoa kiều đã sinh sống nhiều thế hệ trong Chợ Lớn và có cả những thanh niên Việt mua khai sinh Tàu để ra đi.

Giá trung bình là 12 lượng vàng cho người lớn và 7 lượng vàng cho trẻ em, cùng hai trăm đồng ‘cụ Hồ’ cho thị thực khai sinh ma. Ðóng cho chủ tàu và công an thị xã điểm xuất phát.

Chuyến tàu MT-603 khởi đi từ Mỹ Tho đêm 29 rạng 30 tháng 5-1979 chứa 405 thuyền nhân đã đâm vào bãi ngầm Trường Sa bốn ngày sau đó. Ngày 21 tháng 6-1979 khi được Hải quân Phi Luật Tân cứu đưa vào hải đảo Liminangcong, điểm danh còn đúng 285 người…” (Trần Vũ. Biển San Hô. Tuần Báo Trẻ, Dallas: 2015).

Thư viết hôm 5 tháng 6 năm 1979 của Thủ Tướng Lý Quang Diệu, gửi Thủ Tướng Anh Margaret Thatcher (về vấn đề Thuyền Nhân Việt Nam) có đoạn như sau:

People and leadears throughout the world must be told, again and again, that this is the government of the Socialist Republic of Vietnam which has actively promoted this massive migration, causing havoc to the countries of  Southeast Asia… They have cold, calculating minds, which, whilst incapable of compassion to their own people, are nevertheless most acute in computing cost-benefits.

(Phải nói, phải nhắc đi nhắc lại, cho nhân dân và các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới biết rằng chính quyền nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chính là kẻ tích cực xúc tiến cuộc di tản ồ ạt này, gây thiệt hại nặng nề cho các nước Đông Nam Á… Họ có đầu óc lạnh lùng tính toán, không hề biết động lòng với chính đồng bào mình, nhưng làm phép tính giữa chi phí và lời thu về thì rất nhanh.” Prime Minister Lee Kuan Yew of Singapore letter to MTTrans. Phạm Thị Hoài.)

Lý Quang Diệu có quá lời chăng?

Muốn biết chỉ cần xem qua vài ba con số:

  • “Vụ vượt biên đầu tiên bị bắt và bị đưa ra công khai do “đám chủ công ty vàng lá Kim Thành” tổ chức… Biên bản họp Trung ương Cục do ông Hà Phú Thuận lập vào ngày 3-9-1975 cho biết chi tiết vụ vượt biên đầu tiên này…: ‘Sơ kết, ta đã lấy được 8.437 lượng vàng 24 cara; 70 hột xoàn từ một đến năm ly; 182 triệu tiền miền Nam; 10.550 đôla, 1.700 tiền Thái Lan.” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập I. OsinBook, Westminster, CA: 2013).
  • “Báo cáo của Bộ nội vụ nói rằng: ‘Từ tháng 8-78 đến 6-79, mười lăm tỉnh, thành đã cho người Hoa đi nước ngoài bằng tàu, thuyền gồm 156 chuyến với số người là 59.329 người, đã thu 5.612 kg vàng, năm triệu đồng Việt Nam, năm mươi bảy ngàn đô la Mỹ, 235 ô tô, 1.749 nhà và gian nhà”. Nhưng, số liệu sau khi Ban 69 kiểm tra cho thấy: “Số tàu đã cho đi: 533; Số người đã đi: 134.322; Thu vàng: 16.181kg; Ngoại tệ: 164.505 đô la; Tiền ngân hàng VN: 34.548.138 đồng; Một số tài sản khác: 538 ô tô, xe du lịch; 4.145 nhà và gian nhà.” (Huy Đức, sđd.tr.127).

Vấn đề này cũng đã từng được nhắc đến, khi Phạm Văn Đồng còn tại chức:

“Xin Thủ tướng cho biết ý kiến về sự kiện thuyền nhân hồi 1975, nhất là hồi 1978, 1979… Về nguyên nhân và trách nhiệm trong những sự kiện ấy, với những hiện tượng bán bãi thu vàng và khá nhiều tầu, thuyền bị hải tặc bão tố và chìm trong đại dương… Là người đứng đầu chính phủ, một trong những người lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản, Thủ tướng nhìn nhận ra sao trách nhiệm của mình trong cuộc di dân rộng lớn và bi thảm ấy?” (Bùi Tín. “Hai Câu Hỏi Cần Trả Lời Rõ Ràng Trước Khi Thế Kỷ 20 Khép Lại.” – Nguyệt San Cánh Én, Đức Quốc, số tháng Hai năm 1999).

Phạm Văn Đồng không hoàn toàn vô can nhưng cũng không phải là kẻ duy nhất phải trả lời cho hai câu hỏi thượng dẫn. Ông không phải là người nẩy ra cái sáng kiến “bán bãi thu vàng”. Ông cũng không phải là tác giả của chương trình Vượt Biên Bán Chính Thức (hay còn gọi là Phương Án II) mà đây là một công trình tập thể của cả dân làng Ba Đình – Hà Nội.

Ba trăm năm trước Thạc Quận Công Lê Hải đã san phẳng làng Đa Giá Thượng, sau khi chém đầu 52 tên đầu sỏ chuyên cướp của ở cái làng này. Con số nạn nhân do dân làng Ba Đình trong gần hai thập niên vượt biên, vượt biển không chỉ là 318 mạng mà nhiều hơn thế cả ngàn lần (*). Vậy phải “bêu đầu” bao nhiêu tên, trước khi xóa bỏ cái địa danh ô nhục này?

—————-

(*) Death Tolls and Casualty Statistics Vietnam – Vietnamese Boat People

  • Jacqueline Desbarats and Karl Jackson (“Vietnam 1975-1982: The Cruel Peace”, in The Washington Quarterly, Fall 1985) estimated that there had been around 65,000 executions. This number is repeated in the Sept. 1985  of State Bulletinarticle on Vietnam.
  • Orange County Register(29 April 2001): 1 million sent to camps and 165,000 died.
  • Northwest Asian Weekly(5 July 1996): 150,000-175,000 camp prisoners unaccounted for.
  • Estimates for the number of Boat People who died:
    • Elizabeth Becker (When the War Was Over, 1986) cites the UN High Commissioner on Refugees: 250,000 boat people died at sea; 929,600 reached asylum
    • The 20 July 1986 San Diego Union-Tribunecites the UN Refugee Commission: 200,000 to 250,000 boat people had died at sea since 1975.
    • The 3 Aug. 1979 Washington Postcites the Australian immigration minister’s estimate that 200,000 refugees had died at sea since 1975.
      • Also: “Some estimates have said that around half of those who set out do not survive.”
    • The 1991 Information Please Almanaccites unspecified “US Officials” that 100,000 boat people died fleeing Vietnam.
    • Encartaestimates that 0.5M fled, and 10-15% died, for a death toll of 50-75,000.
    • Nayan Chanda, Brother Enemy(1986): ¼M Chinese refugees in two years, 30,000 to 40,000 of whom died at sea. (These numbers also repeated by Marilyn Young, The Vietnam Wars: 1945-1990 (1991))
  • Rummel
    • Vietnamese democide: 1,040,000 (1975-87)
      • Executions: 100,000
      • Camp Deaths: 95,000
      • Forced Labor: 48,000
      • Democides in Cambodia: 460,000
      • Democides in Laos: 87,000
      • Vietnamese Boat People: 500,000 deaths (50% not blamed on the Vietnamese government)

 

 S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Nguyễn Thị Bình

 Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

19/12/2023

Thỉnh thoảng, giới truyền thông trong nước lại hốt hoảng loan tin:

Hoặc:

Tuy được báo động đều đều như thế nhưng tình trạng “lạm phát cấp phó vẫn cứ diễn ra ở nhiều sở, phòng, ngành, tại không ít địa phương” –  theo như lời than phiền của phóng viên báo Lao Động.

Tình trạng này được ông Dương Văn Thống, Phó Bí Thư Tỉnh Yên Bái, lý giải như sau: “Anh em phân công nhau không được, hạ xuống không được. Người Việt Nam chúng ta là thế.” Thảo nào mà nước CHXHCNVN, đã từng có đến 17 ông Phó Thủ Tướng và năm/sáu bà (hay ông) Phó Chủ Tịch Nước cùng tại vị.

Vấn đề – chả qua – là vì “ghế ít đít nhiều” nên lắm đồng chí lãnh đạo đành phải ngồi ghế phó, thế thôi. Tuy thế, chả nghe vị nào lên tiếng phiền hà gì ráo và tất cả (ngó bộ) đều muốn ngồi luôn – dù chỉ là ghế súp.

“Với đám con cháu, cụ Tôn bảo: ‘Tụi bay đừng có kêu tao bằng phó chủ tịch nước, nghe ngứa cái con ráy lắm! Người ta đặt đâu tao ngồi đó, chớ tao không màng cái chức chi hết’. Ngoài việc dự các nghi lễ long trọng bắt buộc phải có mặt cụ, cụ không làm việc gì khác ngoài một việc cụ thích thú hơn cả là sửa xe đạp. Làm phó chủ tịch nước, ông thợ máy ngày trước buồn tay buồn chân.

Hết xe đạp hỏng cho cụ chữa, anh em bộ đội bảo vệ và nhân viên phục vụ phải lấy xe của người nhà mang vào cho cụ kẻo ngồi không cụ buồn. Thương cụ quá, đôi khi họ còn làm cho xe trục trặc đi để dắt đến nhờ cụ sửa giùm. Một người bạn tôi quen thân với cụ Tôn, cha anh trước kia là đàn em cụ, kể rằng một hôm anh đến thăm cụ, vào thời gian Nghị quyết 9, thì cụ dắt anh vào phòng riêng thì thào :

‘Mầy có thấy lính kín theo mầy tới đây không mầy ?’ Anh ngạc nhiên quá. Tưởng anh lo lắng cho cụ, cụ mỉm cười hiền hậu:‘Là tao lo cho tụi bây, chớ tao hổng lo cho tao. Trong nhà tao nè, lính kín hổng có thiếu.”  (Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày. Văn Nghệ. Westminster, CA: 1997).

Tuy “nghe ngứa con ráy lắm,” và đôi khi cũng cảm thấy (đôi chút) ngượng ngập vì chức vụ hữu danh vô thực nhưng bác Tôn vẫn cứ ngồi im re ở cái ghế Phó Chủ Tịch Nước từ 1960 cho đến mãi 1969 lận!

Bác Bằng cũng thế : “Ông tiếp mẹ tôi trên gác ngôi nhà có công an canh gác, nói những lời an ủi vô thưởng vô phạt. Tiễn mẹ tôi xuống nhà, khi đã ra đến vườn rồi, tin chắc không còn bị nghe trộm nữa rồi, ông mới hứa sẽ đặt vấn đề ra trước Trung ương để Trung ương xem xét …

Lời hứa của ông chẳng bao giờ được thực hiện. Ðịa vị cao sang và nỗi sợ hãi trước Lê Ðức Thọ đã làm tâm hồn người chiến sĩ cách mạng nổi tiếng năm xưa tê liệt. Mẹ tôi kể rằng trong những lần bà tới gặp Nguyễn Lương Bằng, bà thấy ông biết nhà ông bị gài rệp.” (Vũ T. H. s.đ.d. tr. 361).

Ấy vậy chớ người Anh Cả Cách Mạng cũng vẫn yên vị với cái chức danh Phó Chủ Tịch Nước đúng mười năm chẵn, dù biết rằng cái ghế này có rệp.

Thế mới biết lợi danh – hay người xưa còn gọi là cái bả vinh hoa – luôn là miếng mồi hấp dẫn đối với chúng sinh, bất kể thời nào, và bất phân giới tính. Bà Bình cũng ngồi êm ru ở cái ghế PCT, dù chỉ ngồi chơi/xơi nước (đâu) cũng cỡ chục năm – chớ đâu có ít!

Theo Wikipedia Hà Nội: “Nguyễn Thị Bình (sinh năm 1927) là một nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà nổi tiếng trên thế giới khi giữ cương vị Trưởng phái đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, rồi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tham gia Hội nghị 4 bên về hòa bình cho Việt Nam tại Paris trong giai đoạn 1968-1973. Bà là một trong những người đại diện các bên ký hiệp định Paris năm 1973 và là người phụ nữ duy nhất đặt bút ký vào Hiệp định…

Năm 1992, tại kỳ họp Quốc hội khóa IX, bà được bầu làm Phó chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và giữ chức vụ này liên tục trong 10 năm (1992-2002). Bà là người phụ nữ Việt Nam thứ hai giữ chức vụ phó nguyên thủ và là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên giữ chức vụ Phó chủ tịch nước. Năm 2001, Chủ tịch nước Trần Đức Lương trao tặng cho bà Huân chương Hồ Chí Minh để ghi nhận những công lao to lớn của bà đối với Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”

Mọi huân chương đều có mặt trái của nó. Cái mặt trái Huân Chương Hồ Chí Minh của bà Nguyễn Thị Bình là tính mạng và cuộc sống khốn cùng của vô số những người phụ nữ Việt Nam khác:

“Họ là những cô gái thời chiến, những thiếu nữ tình nguyện đầu quân vào một trong những đội nữ binh lớn nhất mà bất cứ nước nào đã từng đưa ra một chiến trường tân tiến … Khi hòa bình trở lại, họ mong sẽ tìm được một tấm chồng xứng đáng và sinh con đẻ cái.

Ðối với nhiều người trong số họ, giấc mơ đó đã không thành. Trở về sau khi cuộc chiến chấm dứt năm 1975, họ đã bị coi như thiếu hấp dẫn, vì bị tàn phá bởi bệnh hoạn, thiếu ăn và những cực khổ khác mà họ đã phải chịu đựng trong rừng…

Họ nói về chuyện trở về nhà với đời sống khó khăn hơn là đời sống mà họ đã rời bỏ. Sự cay đắng dai dẳng vì trong suốt bao nhiêu năm họ đã là những chiến sĩ bị bỏ quên trong một cuộc chiến tranh mà những người đàn ông chiến đấu – chứ không phải phụ nữ – đã trở thành anh hùng.

Tôi đã tưởng cuộc đời tôi sau chiến tranh sẽ giản dị và hạnh phúc,’ theo lời Nguyễn Thị Bình, cân được 85 pounds khi trở về nhà. ‘Nhưng tôi đã để cho người bạn trai của tôi ra đi. Tôi đã nói với anh ấy rằng với những chứng bệnh của tôi, với một chân bị thương của tôi, tôi sẽ là một gánh nặng cho anh ấy.’

Bà Bình đã sống một mình suốt 17 năm, một hình thức lưu vong trong một xã hội nặng về gia đình trong đó những phụ nữ hiếm muộn và những cặp vợ chồng không con là những đối tượng để thương hại. Thế rồi, trước sự thúc giục của những cựu đồng chí trong một đoàn phụ nữ – đoàn 559 – bà Bình đã ‘lấy một người chồng qua đêm’ và sinh được một đứa con gái.” (David Lamb. “Vietnam’s Women of War.” Los Angeles Times 10 Jan. 2003. Bản dịch Nguyễn Nhật. Talawas 17/07/2003).

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho BBC (vào hôm 13 tháng 10 năm 2008) về số phận Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam sau 1975, nguyên Phó Chủ Tịch Nước Nguyễn Thị Bình nói “tổ chức này khi ấy đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử” và “khẳng định” rằng “tôi không có sai lầm gì hết. Con đường mình đi hoàn toàn đúng.”

Nếu sau chiến tranh mà bà Bình này cũng trở thành một phụ nữ 4 không: không nhà, không cấp dưỡng, không con, không chồng (hoặc chỉ là một người chồng qua đêm, y như bà Bình kia) thì khán thính giả của BBC – không chừng – đã được nghe đôi lời nói (khác) chân thành và tử tế hơn!


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Tập Cận Bình

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Vào những ngày tháng cuối cùng của năm 2019, không hiểu tại sao, Nguyễn Phú Trọng lại có những dự báo rất lạc quan về khí hậu và thời tiết địa phương : “Mây đen phủ lên toàn cầu nhưng mặt trời vẫn đang tỏa sáng ở Việt Nam”. Cả đất lẫn trời – tiếc thay – không mấy khi chiều theo lòng người, nhất là những người mắc bệnh “kiêu ngạo cộng sản” như ông TBT.

Qua năm 2020 thì Corona 19 bỗng dưng tràn lan khắp chốn (không sót xó nào) và không ai còn nhìn thấy mặt trời đâu nữa. Cả nước Việt đều đen thủi, đen thui. Còn mức độ xui rủi thì tùy theo phúc phận của từng người.

Riêng ông Nguyễn Quang Thuấn (BN 21 – một quan chức cao cấp của nhà đương cuộc Hà Nội) thì số mệnh vô cùng đen đủi nên không chỉ bị vướng dịch mà còn bị đồng bào, cùng với đồng chí xăm xoi và xỉa xói tơi bời hoa lá:

  • Phạm Trần: “ Theo lời khai của ông Thuấn thì ông bay từ Việt Nam đi Ấn Độ, sau đó sang Anh rồi về Việt Nam. Trên chuyến bay từ Ấn Độ sang Anh có ngồi cạnh 1 người quốc tịch Anh có biểu hiện sốt và ho liên tục. Sau khi về Việt Nam, thay vì khai báo y tế, ông Thuấn đã có nhiều hoạt động ở nhiều nơi… Do đó, số người bị lây nhiễm từ ông Thuấn có thể lên đến hàng trăm”.
  • Lê Như Tiến: “Tôi cũng nhận được thông tin vị cán bộ này cũng đi gặp gỡ, đi chơi golf rồi vào những nhà hàng sang trọng với nhiều người, đó là điều rất không nên”.
  • Nguyễn Tiến Tường: “Ngoài việc họp ở hội đồng lý luận, ông đi ăn trưa ở khách sạn Daewoo, ăn tối ở nhà hàng, đi đánh golf cùng đồng sự. Cũng phải nhờ đến con virus, mới phơi lộ được sự thật đằng sau vẻ bình dị…”
  • Nhân Tuấn Trương: “Con virus Vũ Hán … đã tụt quần ông Nguyễn Quang Thuấn.”

Cỡ NQThuấn thì nhằm nhò gì. Covid 19 còn “tụt quần” lắm yếu nhân khác, loại tầm vóc quốc tế, như Tập Cận Bình (TCB) nữa kìa. Nhân vật này hiện là Tổng Bí Thư Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, kiêm Chủ Tịch Ủy Ban Quân Sự, và kiêm Chủ Tịch Nước (vĩnh viễn) luôn.

Cùng với quyền lực nghiêng trời lệch đất, TCB còn có thêm một khối óc vỹ đại với tầm nhìn bao quát cả toàn cầu. Ông là cha đẻ của Sáng Kiến Vòng Đai & Con Đường (The Belt and Road Initiative) còn được gọi là Nhất Đới Nhất Lộ, nối liền những trọng điểm kinh tế từ Trung Quốc sang châu Âu và châu Phi.

Hèn chi mà TCB được long trọng đón tiếp khắp nơi:

TCB lên voi (thấy rõ) rồi xuống chó cũng lẹ làng (và rõ ràng) không kém chỉ vì con vi khuẩn Vũ Hán đã làm hư bột hư đường hết trơn hết trọi. :

Bỉnh bút của tờ Figaro, Patrick Saint-Paul, tóm lược: “Tại Bắc Kinh, ‘hoàng đế họ Tập đang bị mất mặt’. Từ khi ‘lên ngôi’ năm 2012, Tập Cận Bình đã thâu tóm tất cả quyền lực, tặng cho mình khả năng lãnh đạo đất nước mãn đời. Ông Tập chủ trương đưa Trung Quốc trở thành ‘trung tâm’ của thế giới, ngang hàng với Mỹ và đã hứa hẹn một ‘giấc mộng Trung Hoa’ tươi sáng. Nhưng Covid-19 nằm ngoài kế hoạch của Bắc Kinh. Thế giới đang xa lánh Trung Quốc.” (“Virus corona : Trung Quốc từ Đại Nhảy Vọt đến Đại Thụt Lùi.” RFI 24 Feb 2020 translated by Thanh Ha).

Nói nào ngay thì Covid 19 “nằm ngoài kế hoạch” của bất cứ ai, chứ chả riêng chi Bắc Kinh nhưng chủ trương (Zero Covid) độc đoán và khắc nghiệt của TCB đã làm cho cả Trung Hoa Lục Địa trở nên vô cùng tệ hại khiến dân tình phẫn uất.

Kinh tế đình trệ, thất nghiệp tràn lan và những làn sóng biểu tình dồn dập đòi hỏi TCB phải từ chức đã khiến cho đương sự lui bước. Tình thế, tuy vậy (xem chừng) vẫn không cải thiện hay sáng sủa hơn được bao nhiêu.

Nhà báo An Huy (Vneconomy) nhận định: “Đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc gần đây đã phục hồi mạnh nhờ kỳ vọng nước này sớm mở cửa trở lại khi bắt đầu xuất hiện các dấu hiệu nới lỏng trong chính sách Zero Covid. Tuy nhiên, sự phục hồi đó có thể sẽ phải đối mặt với một ‘thực tế phũ phàng’ là tình trạng èo uột của nền kinh tế lớn thứ nhì thế giới.”

“Thực tế phũ phàng” và sự “èo uột” của nước Tầu mỗi lúc một thêm rõ nét, và  không chỉ giới hạn vào lãnh vực kinh tế:

  • The Guardian(5/12/23): “Moody’s Investor Service đã hạ hạng tín dụng của TH xuống điểm âm.”
  • BBC(7/12/23):  “Ý chính thức rút khỏi Vành đai & Con đường của Trung Quốc … Là nước thuộc nhóm G7 duy nhất ký kết tham gia dự án đầy tham vọng của Chủ tịch Tập Cận Bình, nay Ý đã chính thức thông báo không gia hạn tư cách thành viên Vành đai & Con đường (BRI).
  • Epoch Times(7/12/23): “ĐCSTQ che đậy đợt bùng phát bệnh viêm phổi bí ẩn ở trẻ em… Trong đợt bùng phát bệnh viêm phổi hiện nay, trẻ em bị ảnh hưởng đặc biệt nặng nề. Khắp Trung Quốc trong những tuần gần đây, các bệnh viện nhi lớn của Trung Quốc báo cáo đã tiếp nhận tới 10,000 bệnh nhân mỗi ngày.”

Thiệt là họa vô đơn chí!

Nhà văn Tạ Duy Anh nhận xét: “Trung Quốc một nước lớn, một nền văn hóa vĩ đại nhưng về mặt chính trị, chưa bao giờ nó thoát khỏi thân phận của một con bệnh khổng lồ”.

Nhà bình luận thời sự Nguyễn Xuân Thọ kết luận: “Điều nguy hiểm nhất là nền y tế đã bộc lộ nó không đủ tầm của một siêu cường. Giờ đây nó lại còn cho thấy không chặn được những biến chứng bí hiểm như nạn viêm phổi hiện nay.”

Tương lai của siêu cường Trung Hoa Lục Địa (nói chung) và siêu nhân TCB (nói riêng) ngó bộ không được tươi sáng gì cho lắm. Tuy thế, hoàng đế họ Tập đi đến đâu cũng lớn tiếng kêu gọi thiên hạ “xây dựng cộng đồng chia sẻ tương lai”! Có cái “cộng đồng” mẹ rượt nào đâu mà cứ đòi “chia sẻ”!

Tại Hà Nội, vào ngày 13 tháng 12 năm 2023 vừa qua, ông tuyên bố: “Hướng tới tương lai, chúng ta không quên nguyện ước ban đầu, cùng nhau đi lên con đường xã hội chủ nghĩa …” Thôi quên cái “ước nguyện” (thổ tả) đó đi, cha nội. Mong sao mấy ông bước xuống (hay bước ra) mà tránh được đổ máu dân là cũng quý hóa lắm rồi, nói chi đến chuyện “bước lên”. Nghe lôi thôi và xa xôi quá!


 

S.T.T.D Tưởng năng Tiến – Một vòng đai, một con đường & hai con tim bộ lạc

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

12/12/2023

 

Thỉnh thoảng, cũng có vài ba thân hữu hỏi (xem) tôi quê quán nơi nao? Thực là một câu hỏi khó. Tôi sinh ở Sài Gòn, lớn lên ở Đà Lạt, và sống phần lớn thời gian ở California. Cả ba đều là nơi tập hợp của dân tứ xứ, khó có thể xem là quê hương (bản quán) của bất cứ ai. Tôi cũng chả biết hỏi ai về “gốc gác” của mình vì song thân đã quá vãng từ lâu; anh chị em thì kẻ mất người còn nhưng đều tứ tán và phiêu bạt cả.

Tôi chỉ đoán chừng rằng tổ tiên, ông bà, cha mẹ mình đều gốc gác là những nông dân từ một làng quê khốn khó nghèo nàn nào đó (kề cạnh sông Hồng) nên cái chất nông phu vẫn còn  nguyên vẹn trong máu huyết. Sau khi đã đi nhiều nơi, và có nhiều dịp được nếm thử đủ loại thực phẩm của những những dân tộc khác, tôi vẫn “chốt” lại rằng: ngoài mì quảng, cá rô kho tộ, cá chẻm nấu canh chua, đậu rán tẩm mỡ hành, rau muống luộc – chấm với nước mắm ớt chanh – và cơm gạo tẻ ra … thì chúng ta không nên đụng đũa đến bất cứ thứ thức ăn (tào lao) nào nữa!

Tôi ăn uống quê mùa ra sao thì ăn nói, và suy nghĩ cũng bỗ bã, cạn cợt y như vậy. Rõ ràng, tôi có cốt cách và tư duy của giới tiểu nông (vốn không thể nhìn xa, thấy rộng) nên rất khó lĩnh hội được những điều tinh tế.

Có lần tôi mon men thử tìm hiểu chút đỉnh về vô thức tập thể qua công trình biên khảo (Archetypes and the Collective Unconscious) của Carl Gustav Jung, cha đẻ của khoa Tâm Lý Học Phân Tích –  Analytical Psychology. Bước chân vào cái thế giới bao la và sâu thẳm này khiến tôi hơi bị choáng, và không khỏi lại chạnh lòng nghĩ đến hai vị nhân sĩ khả kính của đất nước mình: Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.

Tuy mỗi người chủ trương một phương cách khác hẳn nhau nhưng mối bận tâm chung của hai ông vẫn chỉ là làm sao cho quốc dân thoát khỏi được vòng lệ thuộc. Dù nhị vị đã khuất núi từ lâu nhưng Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc vẫn chỉ là bánh vẽ, và “khai dân trí” vẫn là một vấn đề sống còn và cấp bách.

Phan Bội Châu (1867 – 1940), Phan Châu Trinh (1871 – 1926), Carl Gustav Jung (1875 – 1961) đều chào đời vào hậu bán thế kỷ 19 và tuổi tác gần suýt xoát nhau. Chỉ có điều khác là quê hương của Carl Gustav không trải qua một ngàn năm nô lệ giặc Tầu, một trăm năm nô lệ giặc Tây. Thụy Sỹ cũng chả bị tàn phá hay ảnh hưởng gì nhiều bởi hai cuộc Thế Chiến vừa qua.

Có lẽ vì thế nên tư duy của  Jung khác với hai cụ Phan rất xa. Khoảng cách bao la này – dường như – chưa bao giờ ngắn lại, dù chỉ một ly. Cả đời tôi (và không ít những bạn đồng thời) cũng vẫn chỉ loanh quanh với đậu rán, cá kho, canh chua, rau luộc, và vẫn cứ loay hoay với chuyện thoát Trung cùng thoát Cộng.

Thế nên tôi không chỉ có “cái mặc cảm VN” mà còn mang luôn cái “mặc cảm Á Châu” – nơi mà phần lớn đất đai đều có thời là thuộc địa, và không mấy khi sản xuất được một nhân vật tầm cỡ. Mặc cảm này, gần đây, đã được giải toả phần nào khi bên nước (bạn) láng giềng bỗng xuất hiện một nhân tài nổi bật: Tập Cận Bình. Ông hiện là Tổng Bí Thư Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, kiêm Chủ Tịch Ủy Ban Quân Sự, và kiêm Chủ Tịch Nước (vĩnh viễn) luôn.

Cùng với quyền lực nghiêng trời lệch đất, Tập Cận Bình còn có thêm một khối óc vỹ đại với tầm nhìn bao quát cả toàn cầu. Ông là cha đẻ của Sáng Kiến Vòng Đai & Con Đường (The Belt and Road Initiative) còn được gọi là Nhất Đới Nhất Lộ, nối liền những trọng điểm kinh tế. từ Trung Quốc sang châu Âu và châu Phi. Sáng kiến này được mô tả là “dự án của thế kỷ – project of the century,” với kỳ vọng sẽ mang lại “một trật tự mới cho thế giới – a new world order.”

Thiệt là một phát kiến rất đáng kể, đáng nể, và quả là một tin vui.

Tôi chỉ bớt vui, và bắt đầu buồn (rồi buồn nôn) từ hôm ghé qua Sihanoukville – một trong những nơi được xem là trọng điểm trên lộ trình One Belt One Road (OBOR) của Tập Cận Bình. Ở thành phố cảng này, tôi đếm được khoảng gần 100 cái casino và building sang trọng của người Hoa. Xen cạnh là vô số restaurant cùng supermarket – đỏ rực bảng hiệu tiếng Tầu – nằm san sát hai bên những con đường lỗ chỗ ồ gà, ngập ngụa rác rưởi, và mịt mù khói bụi.

Nơi đây, người Trung Hoa thường ở biệt lập trong những khách sạn sang trọng hay những khu chung cư cao cấp. Họ chỉ chia chung với dân bản xứ những dòng nước suối đen ngòm (lềnh bềnh chai lọ nhựa) lừ đừ chẩy qua những ngõ ngách chật chội và hôi thối.

Bên cạnh những công trình kiến trúc hoành tráng là mấy dẫy mái tôn lụp xụp, và len lách giữa đám xe du lịch đắt tiền (đậu trước những casino tráng lệ) là những đứa bé Cambodia phải nhặt rác để mưu sinh (thay vì cắp sách đến trường đồng)   và không ít người dân Cambodia đang ngồi không bên lề cái Vòng Đai & Con Đường hoành tráng của ông Tập Cận Bình.

Những hình ảnh này khiến tôi nhớ đến lời của nhà nhân chủng học Jane Goodall  trong một cuộc phỏng vấn dành cho AFP, hồi năm 2014: “Trung Hoa đang bóc lột Phi Châu chả khác gì thế lực thực dân kiểu cũ… với những hậu  quả tai hại về môi sinh. China is pillaging Africa like an old colonial power … with disastrous effects for the environment.)

Với thời gian, sự việc mỗi lúc một tệ hại hơn: “Nhiều quốc gia ở châu Phi và châu Á cho biết họ không thể tiếp tục thực hiện các dự án đầu tư bằng vốn của Trung Quốc. Tại Nigeria, dự án đường sắt trị giá 1,5 tỷ USD rơi vào trì trệ vì ảnh hưởng của dịch bệnh. Nhiều dự án khác thuộc Vành đai Con đường ở Zambia, Zimbabwe, Algeria và Ai Cập cũng bị trì hoãn vô thời hạn do sự lây lan của Covid-19.”

Chinese Imperialism Rises in Africa - YouTube

Many countries in Africa and Asia have not been able to continue with mega projects, mostly funded by Beijing, because they are struggling to service debts. In Nigeria, a US$1.5 billion rail project is facing delays because of coronavirus disruptions, while many Chinese funded projects in Zambia, Zimbabwe, Algeria and Egypt have been put on hold or may be delayed as the countries fight to control the spread of Covid-19. (Jevans Nyabiage. “Pandemic takes the shine off China’s Belt and Road Initiative as African partners struggle with coronavirus.” South China Morning Post 28 Jun 2020 translated by Hương Vũ).

Nếu chiến lược ngoại giao bẫy nợ của Trung Cộng – China’s debt-trap diplomacy – cứ tiếp tục phát triển thì nhiều quốc gia khác nữa (Cambodia, Lao, Mongolia, Myanmar, Nepal, Pakistan, Philippines, Sri Lanka, Vietnam …) cũng sẽ chìm trong biển nợ. Châu Á, rồi ra, e cũng sẽ chả khác gì Châu Phi là mấy.

Ở bên trong Bức Màn Sắt Trung Hoa thì bàn tay sắt của ông Tập Cận Bình chả cần gì phải bọc găng, cũng khỏi cần giăng bẫy vì Tây Tạng và Tân Cương đã nằm trong rọ tự lâu rồi:

Thiên hạ vẫn chưa biết Sáng Kiến Vòng Đai & Con Đường (The Belt and Road Initiative) có tính cách toàn cầu của họ Tập rồi ra sẽ dẫn dắt đến đâu nhưng quả tim (bộ lạc) nhỏ hẹp và tàn ác của ông ấy đã làm cho bất cứ ai cũng phải hết hồn, hết vía:

“Bằng chứng phạm tội là nhiều tù nhân lương tâm-thành viên Pháp Luân Công, người Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ, phật tử Tây Tạng và tín đồ Công giáo “chui” –  bị bắt xét nghiệm y khoa và bị mổ cướp lấy nội tạng. Những nội tạng này đã cung cấp cho thị trường cấy ghép nội tạng rất lớn. The charge is that many prisoners of conscience – Falun Gong members, Uighur Muslims, Tibetan Buddhists and “underground” Christians – have been subjected to medical testing and had their organs forcibly removed. Those organs have fed an enormous trade in organ transplants.” (“Benedict Rogers. “The Nightmare of Human Organ Harvesting in China.” The Wall Street Journal 5 Feb 2019 translated by Trần Quốc Việt ).

Những thử nghiệm y khoa của Đức Quốc Xã (“Nazi Medical Experimentation”) chắc cũng chỉ man rợ đến vậy là cùng. Dù vốn gốc nông dân và rất vô tâm, tôi vẫn cứ ngẫm nghĩ mãi về câu nói của Sir Alan Bullock  (“Hitler tin rằng Đệ Tam Quốc Xã sẽ kéo dài cả ngàn năm. Nó tồn tại được hơn chục năm”) rồi không khỏi lấy làm lo cho thần tượng của mình. Chả hiểu bác Tập sẽ “trụ” được thêm bao năm, hay bao lăm, nữa?


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Thương một người (Tầu)

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

11/12/2023

Nói nào ngay thì tui thương (rất) nhiều người chớ không phải một. Phần lớn, buồn thay, đều là những phụ nữ đã có chồng con/cháu chắt (tùm lum) hết trơn rồi nên kể ra đây e không tiện lắm. Đành chỉ nêu tên một nhân vật mà thôi, một người cùng phái – Khổng Tử – để tránh bớt (phần nào) tiếng đời dị nghị!

Ông mất năm 479 (B.C.E) sau một kiếp nhân sinh không mấy an nhàn, và hơi lận đận. Điều an ủi là sau khi nhắm mắt thì Khổng Tử được suy tôn là Vạn Thế Sư Biểu của dân tộc Trung Hoa.

Tuy nhiên, cũng chính cái danh hiệu lớn lao này đã khiến ông không được an giấc ngàn thu. Năm 1974 (C.E) Khổng Tử bị đám hậu sinh hạ bệ, bêu riếu, và xỉ vả không tiếc lời chỉ vì Chủ Tịch Mao Trạch Đông Vĩ Đại không thích có bất cứ một người (Tầu) nào khác mà cũng “vĩ đại” quá cỡ… như mình!

Qua đến đầu thế kỷ XXI (khi khổng/ khi không) Khổng Tử lại được phục hồi, và được cử làm Đại Sứ Văn Hoá Lưu Động “để quảng bá ngôn ngữ và văn hóa Trung Hoa” qua vài trăm cái Viện Khổng Tử (VKT) mọc ở khắp nơi.

Thiệt là “nhậm trọng nhi đạo viễn.” Tôi ngó cái trọng trách Bắc Kinh giao cho Khổng Tử mà không khỏi sinh lòng ái ngại, và động lòng… thương cảm! Lúc còn sống, ông phải bôn ba – đã đành. Giờ đã thác mà hồn vía cũng (lông bông) không khác!

Những VKT ở Châu Phi, Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Úc… làm ăn ra sao – thiệt tình – tôi hoàn toàn mù tịt. Còn ngay tại Cambodia, nơi tôi tạm trú, hơn một năm qua thì (ôi thôi) chả ra làm sao cả. Chúng có còn hơn không, chớ không “quảng bá” được cái con bà gì ráo.

Ngày 14 tháng 2 năm 2015, nhật báo The Cambodia Daily loan tin: “Spring Festival Gala a Display of China’s Soft Power”. Xin trích vài đoạn ngắn, theo bản dịch của Hồng Thủy, để rộng đường dư luận :

“… hôm Thứ Ba vừa qua Trung Quốc và Campuchia đã cùng tổ chức một chương trình văn nghệ truyền hình trực tiếp Festival Mùa Xuân tại đảo Koh Pich ở Phnom Penh. Chương trình biểu diễn nghệ thuật hoành tráng kéo dài 2 giờ 30 phút với sự có mặt của vợ chồng Thủ tướng Hun Sen do đài truyền hình quốc gia Campuchia và đài truyền hình tỉnh Vân Nam đồng tổ chức …

Trung Quốc đã khẳng định vị trí là đối tác thương mại lớn nhất của Campuchia, đồng thời cũng là nhà cung cấp viện trợ nước ngoài hàng đầu, bơm hàng tỉ USD vào Campuchia trong 2 thập kỷ qua. Quan hệ giữa 2 nước tiếp tục được củng cố sau khi Bắc Kinh cam kết gói viện trợ 144 triệu USD cho Campuchia vào tháng 12 năm ngoái.

Bắc Kinh đang muốn gia tăng ảnh hưởng văn hóa của mình tại Campuchia. Viện Khổng Tử do chính phủ Trung Quốc tài trợ đã mở cửa tại Phnom Penh năm 2009, tính đến tháng 6/2013 đã có chi nhánh trên 13 tỉnh thành. Mục tiêu Trung Quốc đặt ra là sẽ ‘phủ sóng’ chi nhánh viện Khổng Tử trên tất cả 24 tỉnh thành của Campuchia.”

Tôi sợ rằng những người thực hiện chương trình Festival Gala (kể trên) đã có chút hiểu lầm giữa xiệc Tầu và văn hoá Trung Hoa. Gánh xiệc Vân Nam tuy có làm khán giả trầm trồ qua nhiều màn biểu diễn hoành tráng nhưng chắc không để lại ấn tượng gì sâu đậm lắm, nếu so với vô số dịch vụ thiết thực mà những cơ quan từ thiện (từ nước ngoài) đã thực hiện tại Cambodia.

Tuy Trung Cộng “là đối tác thương mại lớn nhất của Campuchia” nhưng đây không phải là quốc gia duy nhất hiện có mặt tại Xứ Chùa Tháp. Chính phủ Hunsen mở rộng cửa, hân hoan chào đón tất cả những cơ quan thiện nguyện đến với đất nước của họ.

Bởi vậy, cũng như Bangladesh, Cambodia được mệnh danh là Thiên Đường Của NGO (Paradise of NGO) với sự hiện diện của ba ngàn năm trăm Tổ Chức Phi Chính Phủ. Theo tường trình của CCC (Cooperation Committee for Cambodia) thì có khoảng từ hai mươi đến ba mươi phần trăm dân chúng được hưởng những lợi ích trực tiếp từ những cơ quan thiện nguyện này.

Tôi không tin rằng mấy chục cái VKT đang nhận ngân sách, và chỉ thị, từ Bắc Kinh có thể thực hiện được một phần mười những thành quả tương tự ở Cambodia. Ngay ở lãnh vực tương đối giản dị, như giảng dậy tiếng Hoa, họ cũng chả làm được “trò/trống” gì đáng kể.

Ở Phnom Penh, có hàng trăm trường học quốc tế (British International School, Canadian International School, Western International School, Northbridge International School …) nhưng không đâu giảng dậy tiếng Tầu cả. Người Miên, chớ bộ người điên sao mà đi học tiếng Hoa – mấy cha?

NGO không chỉ có mặt ở Thủ Đô những thành phố lớn. Tôi nhìn thấy nhân viên của họ lẽo đẽo trên mọi nẻo đường quê, hay len lách khắp sông rạch và cồn nổi trơ vơ giữa Biển Hồ, bất kể vào mùa khô hay mùa nước nổi.

Có bữa, sau khi xem mấy bức ảnh (của nhiếp ảnh gia NgyThanh) chụp cảnh trẻ con Campuchia tại núi rác Stung Meanchey, tôi nẩy ra cái ý định là phải ghé qua bãi rác Beuong Chheung Ek. (ở Phnom Penh) để nhìn cho tận mắt. Đến nơi, tôi dặn taxi trở lại đón sau chừng vài tiếng, rồi đeo máy hình hăm hở xuống xe. Cửa vừa mở là tôi đã bị oẹ liền vì không khí nồng nặc mùi hôi thối.

Tôi chui lại ngay vào xe, đưa tay ra dấu cho tài xế chạy liền tức khắc. May mà tôi không có thói quen ăn sáng nên chưa đến nỗi làm bẩn xe của người ta.

Vậy mà mỗi ngày nhân viên của cơ quan thiện nguyện PSE (Pour un Sourire d’Enfant, Một Nụ Cười Cho Trẻ Thơ) vẫn đều đặn mang đến bãi rác Stung Meanchey 250/300 phần ăn cho những đứa bé sinh sống ở nơi đây – kể cả sáng cuối tuần. Ngoài bữa điểm tâm, PSE còn cử hai vị bác sĩ làm việc tại chỗ để chăm sóc những vết cắt, vết đâm, vết trầy hay ghẻ lở trên da thịt của lũ trẻ thơ.

“Bởi không có thuốc men gì cả, tôi thấy một bà bác sĩ đành chỉ biết ôm ấp và an ủi các cháu bé, bằng tất cả tình cảm hào phóng của mình. In the absence of medicine, I observed one doctor prescribe hugs, which she gave out in liberal doses” – theo như nguyên văn lời tường thuật của một phóng viên, đọc được qua trang Tales of Asia.

Giới lãnh đạo ở Bắc Kinh có thể chi hàng tỉ Mỹ Kim cho 24 Viện Khổng Tử (ở Cambodia) để đổi lại những tràng pháo tay của giới quí tộc và quan chức đất nước này, sau những màn xiệc Tầu ngoạn mục. Tuy thế, họ không thể mang đến bãi rác Stung Meanchey một vòng tay thân ái hay một nụ cười chỉ vì họ không biết cười và cũng chả có lòng nhân ái. Người ta không thể cho cái mà mình không có.

Cũng thế, cũng có thể nói mà không sợ mang tiếng cường điệu rằng Trung Cộng không thể sử dụng quyền lực mềm (ở bất cứ nơi đâu), giản dị chỉ vì họ không hề thủ đắc thứ quyền lực đó. Chút “credit” (Nhân/ Nghĩa/ Lễ/ Trí/ Tín) của Đại Sứ Văn Hoá Khổng Phu Tử, cùng toàn bộ Tứ Thư Ngũ Kinh của Nho Giáo, không sao che lấp được những hành vi vô văn hóa mà hàng triệu người Tầu vẫn phô diễn – hàng ngày – ở khắp mọi nơi :

– Khách Trung Quốc cãi lộn om sòm tại sân bay Nhật Bản

– Khách Trung Quốc dọa giết hướng dẫn viên vì chỗ ngồi trên xe

– Du khách Trung Quốc cho trẻ đại tiện nơi công cộng khiến người dân bất bình

– Du khách Trung Quốc trộm điện thoại đồng hương

– Thái Lan hướng dẫn cư xử văn minh cho khách Trung Quốc

– Nữ hoàng Anh nói quan chức TQ ‘thô lỗ’

– Kinh hoàng cảnh du khách Trung Quốc ăn buffet ở Thái Lan

Trung Cộng không phải là Trung Hoa. Cố tráo (trở) giữa Văn Minh Trung Hoa với Văn Minh Trung Cộng là một cố gắng vô vọng. Ép Khổng Tử phải làm cán bộ tuyên truyền cho cái thứ “Văn Hoá Cộng Sản” thì rõ ràng là đã biến ông thành một kẻ lố bịch và rất đáng thương. Tôi thương ông lắm!

 05/2016