S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Quýt Tập Cận Bình

Đàn Chim Việt

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

Nhà văn Bá Dương phàn nàn rằng đồng bào của ông bị “dị ứng” với hai chữ cám ơn : “Tôi nghi rằng để có thể móc trong mồm một người TQ ra cái câu cám ơn ông e rằng nếu không dùng đến cái cào cỏ năm răng của ông bạn Trư Bát Giới của chúng ta thì không thể được.”

Ngoài cái bệnh dị ứng với chuyện ơn nghĩa, vẫn theo như lời của tác giả Người Trung Quốc Xấu Xí, dân Tầu còn mắc cái tật hơi lớn tiếng : “Nói đến ồn ào, cái mồm người Trung Quốc thì to không ai bì kịp.”

Những ghi nhận đọc được qua trang FB của Nguyễn Chương về người Đài Loan lại hoàn toàn khác:

  • Tại bến xe mọi người đều tự giác xếp hàng. Khi lên xe, nhân viên nhiệt tình hỏi bạn muốn đi đâu, và khi thu tiền hoặc thối lại tiền, họ đều nói “cảm ơn”vì bạn đã thịnh tình chiếu cố.
  • Khi mua cơm ở cửa hàng, mỗi lần kêu món hoặc đến lúc trả tiền, tôi đều nghe nhân viên nói “cảm ơn”luôn miệng.

Kinh nghiệm của tôi ở Singapore cũng thế, cũng khác. Có lần bước vào một tiệm ăn ở Đảo Quốc này, tôi rất ngạc nhiên khi thấy hình một tô hoành thánh mì, cùng dòng chữ song ngữ (Please Keep The Volume Down While Eating After 10:30 PMdán ngay trên tường.

Ảnh (tnt) chụp năm 2019

Thảo nào mà quán đông nhưng không ồn. Hoá ra không phải ở đâu người Trung Quốc cũng là những kẻ vô ơn, và lúc nào họ cũng lớn họng, như lời than phiền của Bá Dương. Có nơi – và có lúc – họ cũng thường “cảm ơn luôn miệng” và cũng ăn nói nhỏ nhẹ, đàng hoàng, rất mực.

Thế mới rõ là có nhiều giống người Hoa chứ không phải một: Tầu Singapore, Tầu Hồng Kông, Tầu Đài Loan, Tầu Đại Lục … Và họ khác nhau một trời/một vực – theo như ghi nhận của một người cầm bút khác, Tạ Duy Anh:

“Không phải vô cớ mà người Đài Loan kiên quyết không nhận mình là Trung Quốc, dù họ phần lớn từ Phúc Kiến sang. Người Đài Loan hiền lành, tinh tế, trung thực thuộc loại nhất thế giới. Trong khi người Trung Quốc đại lục thì luôn tạo ra ác mộng cho bất cứ đâu họ đặt chân đến.”

Ở bình diện thể chế cũng thế: “Điểm khác biệt giữa hai hệ thống pháp luật tại Đài Loan và Trung Quốc sâu và rộng gấp mấy lần vài trăm dặm eo biển chia cắt hai quốc gia này. The gulf between legal systems across the Taiwan Strait is far wider than a hundred miles.” (Margaret K. Lewis. “Taiwan’s Human Rights Revolution and China’s Devolution.” The Diplomat 10 Mar 2017 translated by Quỳnh Vi). 

Sao kỳ vậy cà?

Tác giả Huy Phương lý giải như sau : “Cũng giống quýt đó, trồng ở Giang Nam thì chua, trồng ở Giang Ðông thì ngọt. Ðó chính là nhờ phân, nước, khí hậu mỗi nơi cho những thứ trái có phẩm chất khác nhau… Bây giờ hầu hết giống quýt đều muốn được trồng ở Giang Ðông, chứ không muốn mọc ở Giang Nam.”

Tương tự, “bây giờ hầu hết” người Trung Quốc cũng đều muốn “được trồng” lại ở một nơi nào khác, cho nó bớt chua, chớ không phải ở nơi quê hương (bản quán) của mình:

Đất lành chim đậu. America, Canada, Australia thì không nói làm chi, chớ ngay tới  Châu Phi mà cũng được người Tầu coi như là đất lành thì ai cũng phải thấy rằng Trung Hoa Lục Địa (quả) là dữ thiệt, và dữ lắm – trừ ông Tập Cận Bình.

Chủ quan và kiêu ngạo cộng sản là chứng bệnh chung của rất nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao, chớ chả riêng chi bác Tập. Bởi thế, bác ấy rất bất bình (và bị chạm tự ái) vì người dân Trung Cộng đã bỏ chạy tá lả bùng binh – theo tôi – là điều hoàn toàn thông hiểu và thông cảm được.

Tôi chỉ phàn nàn mỗi ở điểm là ông Chủ Tịch Nước đã có cái thái độ quá đáng, hay nói chính xác hơn là quá quắt, khi đòi hỏi Nước Trung Hoa Là Một – One  China Policy. Ổng muốn thâu tóm tất cả vô cái phần đất dữ dằn (và chua lè) của mình cơ.

Ngày 1 tháng 7 năm 2017, Tập Cận Bình đến dự lễ kỷ niệm Hai Mươi Năm Trao Trả Hồng Kông – Hong Kong Handover 20th Anniversary. Bữa đó, tôi tình cờ cũng có mặt tại Hương Cảng và đang ngồi ăn mì (nên suýt ói) khi nghe thằng chả nói –  y như thiệt – trên TV rằng: “Hong Kong has always been in my heart.”

Biểu tình phản đối TCB tại H.K. Ảnh: South China Morning Post – 01 July, 2017

Tui quen cả đống người dân Hồng Kông, đủ mọi thành phần, chả hề nghe ai nói là trong trái tim họ lại có Tập Cận Bình cả. Họ cũng hoàn toàn không có chút xíu xiu thiện cảm, hay gắn bó gì với Trung Hoa Lục Địa. Giới truyền thông cũng phản ảnh y như thế:

– Reuter: Người trẻ Hong Kong muốn tất cả biết họ là người Hong Kong, không phải Trung Quốc.

– Le Monde: Thất bại của một đất nước, hai chế độ.

– RFI: Hồng Kông trong bàn tay thép của Trung Quốc.

– BBC: Đừng ảo tưởng rập đầu trước Trung Quốc.

– RFA: Người Hong Kong xin hộ chiếu Anh quốc vì lo sợ tương lai.

Người Đài Loan cũng vậy, cũng sợ thấy bà luôn. Đối với họ (chắc) hai chữ “cộng sản” cũng có nghĩa tương tự như “dịch tả” hay “dịch hạch,” chớ không là gì khác cả – dù  Tập Cận Bình vẫn luôn miệng trấn an:

“Sau khi thống nhất hòa bình, Đài Loan sẽ có hòa bình lâu dài và người dân sẽ được hưởng cuộc sống tốt đẹp và thịnh vượng. Với sự hỗ trợ tuyệt vời của ‘mẫu quốc,’ nền an ninh của đồng hương Đài Loan sẽ còn tốt hơn nữa, và không gian phát triển của họ sẽ còn lớn hơn nữa.”

Chuyện của thiên hạ nhưng FB Nguyễn – Chương Mt (VN) vẫn nhất định xía vô, và bàn ra, cho bằng được:

“Cái này kêu bằng ‘nằm mơ giữa ban ngày’ từ phía Bắc Kinh… Đài Loan đã và đang là một lãnh thổ độc lập gần 70 năm rồi đa! Bảy thập kỷ (từ 1950 tới nay) sống mình ên, mọi chính sách đối nội lẫn đối ngoại do Đài Bắc tự quyết định (Bắc Kinh chớ hề được phép nhúng tay vào mà ‘chỉ đạo’). Ở đời, có ai đang độc lập mà không chịu sướng, lại đi chui vào một thiết chế để cho người khác chỉ đạo? Mà phải chi Bắc Kinh văn minh hơn, mức sống dân chúng cao hơn, an sinh xã hội tốt hơn thì… cũng dám xin thôi độc lập để được nâng khăn sửa túi lắm à.”

Nguyễn – Chương Mt còn làm tài hay, cầm đèn chạy trước ô tô, mau mắn cho độc giả biết rằng: “Danh xưng ‘Cộng hòa Đài Loan’ (tức ‘Đài Loan dân quốc’ 台灣民國) đang rục rịch để một ngày đẹp trời thế chỗ, không còn xài danh xưng ‘Trung Hoa dân quốc’ (中華民國), khỏi dính tới vòng kim cô ‘One China’ làm chi cho má nó khi…”

Theo VOA, nghe được hôm 02/01/2019, Tổng Thống Thái Anh Văn cũng mới vừa tuyên bố : “Đại đa số người dân Đài Loan kiên quyết chống đối khái niệm ‘một quốc gia, hai chế độ,’ đây là sự đồng thuận tại Đài Loan.” Mấy tháng sau, ngày 8 tháng 4, Taiwan News đưa tin : “Thousands of Taiwanese protest against ‘one country, two systems’ in Kaohsiung. Hàng ngàn người Đài Loan xuống đường phản đối ‘một nhà nước, hai chế độ’ ở Cao Hùng.”

Chưa hết, RFI nghe được hôm 7 tháng 5 năm 2019, lại vừa hớn hở cho hay : “Hạ Viện Mỹ thông qua luật bảo vệ Đài Loan … Với 414 phiếu thuận và 0 phiếu chống.”

Tui thì không rành (và cũng không mặn mà) chuyện chính trị/chính em nên không dám xía vô, hay bàn ra gì ráo, chỉ trộm nghĩ rằng : hiện tại dân số Trung Cộng đã lên tới 1/5 tổng số nhân loại rồi, gieo trồng 1,418,804,794 trái quýt chua (lè) như vậy bộ chưa đủ sao mà còn muốn ấn thêm vô làm chi nữa, cha nội? Bộ không thấy hằng triệu người dân Hồng Kông đang xuống đường biểu tình phản đối và cả loài người đang nhăn mặt hay sao?

Hun Sen- STTD Tưởng Năng Tiến

Hun Sen

Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh vừa có nhận định ngắn, về một vị quan chức cao cấp của xứ sở láng giềng (“Hunxen là nhà cai trị hiểu biết và bản lĩnh”) và đã nhận được không ít những lời lẽ tán đồng nồng nhiệt:

  • Đình m Nguyn: Chính xác.Một thời tôi đã hiểu sai về anh này.
  • Phuong Lam: Nếu ko bản lĩnh thì ông ấy ko tồn tại đến hôm nay ạ.
  • Nguyễn Ngoc Anh: Ông ấy là kẻ thức thời.
  • Tran Trong Duc: Campuchia là một nước nhỏ nhưng có một nhà lãnh đạo mang tầm vóc thời đại làm rạng rỡ dân tộc.

Tất cả quí vị thức giả thượng dẫn – tiếc thay – đều rất kiệm lời, không ai chịu nói thêm (đôi câu) về “bản lĩnh” của ông Samdech Hun Sen để người đọc được dịp mở mang tầm mắt. Tôi chưa bao giờ có dịp đặt chân đến London, Moscow, New York, Paris, Varsovie … (và cũng không cảm thấy hào hứng lắm, khi nghĩ đến những nơi xa xôi như thế) duy Kampuchea thì tôi có dịp lui tới rất nhiều lần nhưng chưa bao giờ nhận ra được cái “tầm vóc thời đại làm rạng rỡ dân tộc” của vị thủ tướng của đất nước này.

Lần gần nhất tôi ghé qua Cambodia là hồi đầu tháng 11 năm 2022, trước khi khai mạc Hội Nghị Cấp Cao Asean – kỳ thứ 40 và 41, tại Phnom Penh – chừng độ một tuần. Bộ mặt thủ đô của xứ sở này, giờ đây, đã hoàn toàn đổi khác.

Phố xá ngăn nắp và sạch sẽ hơn thấy rõ, nhất là con đường Preah Sisowath Quay và khu công viên (Riverside Park) nằm ngay mé sông Tonle Sap. Lũ trẻ con trần truồng, đen đủi, nhếch nhác (vẫn thường lê la chơi đùa trước Hoàng Cung) đều đã … đi chỗ khác chơi. Những kẻ vô gia cư hay nằm vật vã trên ghế đá cũng không còn nữa. Đám hành khất cũng thế, cũng biến mất tiêu. Cứ như thể là họ chưa bao giờ có mặt trên đất nước này, dù chỉ một ngày.

Sự đổi thay không chỉ diễn ra ở Phnom Penh. Dọc Quốc Lộ 1, hằng trăm bức ảnh của Hun Sen (khi ngồi, lúc đứng) đã được gỡ bớt và thay bằng chân dung của hoàng gia: Quốc vương Norodom Sihamoni, phụ vương Norodom Sihanouk, và hoàng thái hậu Norodom Monineath.

Dù chậm – cuối cùng – Hun Sen cũng đã hiểu ra rằng ngoài giới tăng lữ, ông còn cần thêm một liên minh chính thống (một ông vua làm cảnh kề bên) để bộ mặt của chế độ quân phiệt trông bớt phần tệ hại!

Cả ngàn bảng hiệu Cambodian People’s Party (Đảng Nhân Dân Cam Bốt) của Hun Sen cũng thế, cũng không còn xuất hiện trên từng cây số nữa. Xen vào đó là tên hiệu của dăm bẩy cái đảng dấm dớ nào đó: Candlelight Party, Youth Party, Liberty Party … Tuy không ai tin rằng Kampuchea đang thực thi chính sách đa nguyên hay đa đảng nhưng cái mớ hoa giả này cũng giúp cho không khí toàn trị ở Phnom Penh đỡ khó thở hơn – chút xíu!

Quốc lộ 5, dài hơn 400 KM – nối liền Nam Vang với Thái Lan – kể như đã hoàn tất. Không còn những đoạn lởm chởm ổ gà, và mịt mù bụi đỏ, như những năm trước nữa. Chạy suốt một mạch từ thủ đô cho đến tỉnh Pursat, gần cả dặm trăm đường (êm ru bà rù) nhưng tuyệt nhiên không có một cái BOT nào ráo trọi, và cũng chả thấy bóng dáng của một anh cảnh sát giao thông nào sất.

Ngay cả đến hương lộ (ngã rẽ vào làng nổi, Kampong Luong Floating Village, ở cuối Biển Hồ) cũng đã được sửa sang. Dù chỉ “tân trang” chút đỉnh thôi nhưng vẫn đỡ “gập ghềnh” thấy rõ.

Tôi hớn hở khoe những thành tích mà mình vừa chứng kiến với dăm ba tân hữu nhưng không nhận được chút đồng tình nào (ráo) mà còn bị chọc quê:

– Mày còn ở đây bao lâu nữa?
– Vài bữa nữa.
– Sao không ở luôn cho qua ngày hội nghị rồi hãy đi.
– Ở chi lâu dữ vậy, mấy cha?
– Để thấy đất Kampuchea sẽ trở về … nguyên trạng, sau cái màn trình diễn rất ngoạn mục và vô cùng tốn kém này của Hun Sen!

Thương nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau thì quả bồ hòn cũng vuông. Những người bạn trẻ trí thức mà tôi quen biết ở Cambodia – xem ra – chả mấy ai có cảm tình gì với vị thủ tướng (trường trị muôn năm) của đất nước họ nên mọi “thiện ý” của ông ta, nếu có, cũng đều bị nhìn với cặp mắt nghi ngờ hay dè bỉu.

Giới bình dân thì khác. Hun Sen, xem chừng, được họ dành cho nhiều thiện cảm hơn vì không chỉ hứa hẹn (suông) mà còn thực hiện được – đôi điều – thiết thực. Ông tuyên bố: Kể từ năm 2016, người lái xe grab, xe tuk-tuk, xe công nông, và ghe thuyền sẽ không phải đóng thuế nữa. Kẻ buôn thúng bán mẹt cũng thế, cũng được miễn thuế luôn. (Kang Sothear, “Hun Sen Announces Broad Cuts of Petty Taxes,” Cambodia Daily: October 23, 2015).

Khi có dịp tiếp xúc với vài vị đồng hương, đang lênh đênh trên Hồ Tonlé Sap, tôi còn được nghe nhiều lời tán thưởng về sự nới lỏng trong luật lệ di trú (vốn rất khắt khe) dành cho thân phận nổi trôi của họ. Có người còn bắt đầu nhen nhúm chút hy vọng là sẽ có lúc được sống (và chết) trên bờ, như đa phần nhân loại.

Chưa hết, gần triệu dân Việt ở Cambodia đều tin chắc chắn rằng cuộc sống tha phương cầu thực của họ sẽ khốn khổ và khốn nạn hơn nhiều, nếu Sam Rainsy (đối thủ chính trị của Hun Sen) có cơ hội cầm quyền.

Trong những ngày qua, Hun Sen còn vừa nhận được hàng loạt tràng pháo tay không ngớt của rất nhiều người (chứ chả riêng chi người Việt) vì đã công khai lên án Nga xâm lăng Ukraine và ngang nhiên bỏ phiếu chống lại Putin. Hun Sen, rõ ràng, không chỉ là một tay bản lãnh mà còn là một kẻ thức thời.

Ông có niềm tin vào tương lai (ít nhất thì cũng là tương lai của gia tộc và phe nhóm) với kỳ vọng là “không chỉ con mà đến cháu mình cũng sẽ thành thủ tướng Campuchia.” Và có lẽ vì thế nên đương sự không vơ vét hết ngân quỹ và tài sản quốc gia như quí vị lãnh đạo (vốn vừa đồng chí, vừa là anh em) bên nước láng giềng.

Ngoài những điểm son vừa kể, hồ sơ của Hun Sen – tất nhiên – không ít những điểm đen:

  • Chính phủ của Hun Sen đã chịu trách nhiệm việc cho thuê 45% tổng diện tích đất ở Campuchia, chủ yếu cho các nhà đầu tư nước ngoài, trong những năm 2007- 08, làm hơn 150.000 người Campuchia bị đe dọa trục xuất.
  • Hun Sen có liên quan đến tham nhũng tài nguyên dầu mỏ và tài nguyên khoáng sản của Campuchia, trong báo cáo Global Witness 2009.
  • Còn theo ước tính của Global Witness 2016 thì Hun Sen và gia đình đã  thâu tóm khoảng từ 500 triệu đến 1 tỷ Mỹ Kim, và bọn thủ hạ thì cũng hốt làm của riêng một mớ không phải ít. (Hun Sen and his family were estimated to have amassed between US$500 million and US$1 billion by Global Witness in 2016, and a number of allies have also accumulated considerable personal wealth during his tenure.)

Bằng cách nào mà gia tộc Hun Sen có thể hốt được tiền tỷ (U.S. Dollar) một cách dễ dàng, gọn gàng như thế? Câu trả lời có thể tìm được qua hai dữ kiện sau:

  • Hun Sen và đảng chính trị của ông, CPP, đã nắm giữ quyền thống trị gần như toàn bộ trên các phương tiện truyền thông chính thống trong phần lớn thời gian cai trị.
  • Tất cả 125 dân biểu quốc hội đều là người của Đảng Nhân Dân Cam Bốt, 58 trong số 62 thượng nghị sỹ cũng vậy, cũng đều nằm trong túi áo của Hun Sen tuốt luốt.

Khó mà phủ nhận được rằng Hun Sen là một tay bản lĩnh (có thừa) nhưng bản lĩnh của ông – tiếc thay – đã không giúp được cho dân tộc Khmer có đủ áo cơm, dù đã phải cầm cố gần nửa phần (45%) đất đai của Cambodia!

Tưởng Năng Tiến
11/2022

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Phi thuyền & bóng đá

Đàn Chim Việt Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến Tôi không rõ năm sinh hay ngày qua đời của thi sĩ Bùi Giáng nhưng vẫn nhớ hoài hai câu thơ (ngơ ngác) mà ông viết từ cuối thế kỷ trước, sau khi tầu vũ trụ Soyuz 37 được phóng lên không gian, vào hôm 23 tháng 7 năm 1980: Hoan hô đồng chí Phạm Tuân Khi không anh bỗng nhẩy tưng lên trời! Đây là một cú “nhẩy” lịch sử, được chuẩn bị rất kỹ càng và chu đáo, chớ đâu phải chuyện (khi khổng) “khi không” – cha nội. Chỉ cần xem lại mớ hành trang rình rang mà Phạm Tuân mang theo cho chuyến đi (ké) này cũng đủ thấy “ớn chè đậu” rồi: “Tôi mang theo quốc kỳ, quốc huy, chân dung của bác Hồ, bản tuyên ngôn độc lập do bác viết, di chúc bác để lại, cùng với một túi đất của quảng truờng Ba Ðình (nơi xây lăng của Hồ Chí Minh) và nhiều phù hiệu nữa…” – “I took several national flags, national emblems, portraits of Uncle Ho, his national independence proclamation, his testament, a small pack of soil from Ba Dinh Square [site of the Ho Chi Minh mausoleum] and many other badges.” (Vietnam Marks Anniversary Of Giant Leap – BBC 24 July, 2000). Vài năm sau, phóng viên Nguyễn Dũng Sĩ (báo Tuổi Trẻ, 17/01/2004) còn ngần ngại cho biết thêm rằng ngoài chân dung bác Hồ, Phạm Tuân còn mang theo “một tấm ảnh của Tổng Bí Thư Lê Duẩn” nữa cơ. Thiệt là quá đã, quá đáng, và … quá tải! Mớ hành lý lỉnh kỉnh vừa kể, tất nhiên, không phải do Phạm Tuân hay hiền mẫu (hoặc hiền thê) của ông sắp xếp. Đây hẳn phải là chủ trương của Đảng và Nhà Nước VN. Cũng như bao nhiêu chủ trương lớn khác, chủ trương này cũng hoàn toàn đúng đắn nhưng không đúng được lâu. Ba ngày sau, sau khi phi thuyền con thoi Atlantis của Hoa Kỳ hạ cánh, Gerard De Groot (tác giả của cuốn Dark Side of the Moon: The Magnificent Madness of the American Lunar Quest) kết luận: “Cho dù với tất cả phấn khích, bi kịch và thảm kịch, chúng ta vẫn chưa tiếp cận được câu trả lời là làm gì trong không gian” – Despite all the excitement, drama and tragedy, were no nearer an answer about what to do in space. (“The Shuttle: a journey through space and time that took us nowhere.” The Telegraph, 23 July 2011). Từ đó, thiên hạ không còn mấy hào hứng … “nhẩy tưng lên trời” như trước. Dân Việt, vì thế, mất hẳn cơ hội để ôm hình mấy bác – và cờ quạt – đu theo. Cũng kể từ đó, tháng 7 hằng năm không còn là dịp cho các cơ quan truyền thông của xứ sở này thi nhau xưng tụng thành tích (“chân dép lốp mà đi vào vũ trụ”) như xưa nữa. Buồn! May mà Nga không chỉ có phi thuyền mà lại còn có World Cup. Nhờ thế, dân Việt lại có cơ hội khiêng ảnh Bác và cờ quạt sang tận Mạc Tư Khoa: FB Đỗ Duy Ngọc phàn nàn: “Ronaldo ăn mừng bàn thắng thì anh ấy tự hào, thân nhân anh í tự hào, dân tộc anh ấy tự hào chứ mắc mớ chi đến Việt Nam mà khiến cả dân tộc tự hào. Ăn ké kiểu này vô duyên thúi. Đi xem World Cup, có Việt Nam thi đấu đâu mà cũng mang quốc kỳ theo, buồn cười. Sao không mang hình cụ Hồ với tướng Giáp luôn cho nó đủ bộ. Câu: ‘Vỡ oà khoảnh khắc lá cờ Việt Nam tung bay khi Ronaldo ăn mừng bàn thắng khiến cả dân tộc tự hào’ là cái tít báo ngu ngốc và hài hước nhất mà tui đọc được trong đời. Tui đọc đi đọc lại, tui nghiền ngẫm rất lâu mà không hiểu tự hào cái cc chi?” FB Trung Quang càm ràm: “Sự tự hào ăn mày. Chừng nào còn tự hào, còn hy vọng với lá cờ này, dân tộc này còn bị đe dọa diệt vong.” FB Bùi Thanh Tuấn chửi thề: “Đi ăn giỗ nhà người ta mày mang theo hình thờ của cha mẹ mày theo để làm cái đéo gì???!!!” FB Đào Lê Công còn nặng lời hơn nữa: “Đây là một hiện tượng quái thai.” Nói thế, tôi e có hơi quá đáng. Những đứa trẻ trâu vác hình Hồ Chí Minh và cờ xí qua Nga, trong dịp WC vừa qua, không phải là đám “quái thai” hay “hoang thai” đâu. Chúng đến từ nước CHXHCNVN (Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc) đàng hoàng, và được thừa hưởng tràn đầy đủ truyền thống tự hào, tự mãn (và tự sướng) từ những bậc “phụ mẫu chi dân” của xứ sở này:
  • Nguyễn Minh Triết: “Ngày nay, chúng ta ngẩng cao đầu, sánh vai cùng cường quốc…”
  • Trương Tấn Sang: “Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 30 năm đổi mới mà nhân dân ta đạt được khiến chúng ta hãnh diện và tự hào, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ.”
  • Nguyễn Phú Trọng: “Đất nước có bao giờ được như thế này không?”
  • Nguyễn Xuân Phúc: “Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam đứng thứ 5 thế giới.”
  • Nguyễn Thị Kim Ngân: “Đất nước này được như thế này, ngẩng mặt lên nhìn với bạn bè năm châu bốn biển như thế này, vai trò vị thế như thế này đó là do chúng ta duy trì được sự ổn định chính trị và trật tự an toàn trong cả nước.”
Tất cả họ đều nói cùng một giọng, và làm chung một điệu – theo nhận xét của Huỳnh Ngọc Chênh: Ông Đinh Thế Huynh bị bệnh nặng phải qua Nhật chữa. Trước đó ông Phùng Quang Thanh thì đi Pháp, ông Nguyễn Bá Thanh thì bỏ cả tiền triệu đô la qua tận nước Mỹ để nhờ họ cứu mạng. Nghe nói hai ông Chung và Thưởng vừa rồi lâm bệnh cũng đi Nhật và Pháp điều trị. Trước đó nữa, ông Võ Văn Kiệt thì đi Singapore, ông Nguyễn Minh Triết đi Pháp rồi đi Sing chữa bệnh. Đó là hàng lãnh đạo đảng cao cấp được biết đến nhiều. Còn hàng cán bộ đảng trung trung khi bị bệnh, len lén đi các nước tư bản chữa trị nhiều lắm, nên ít ai biết đến  Nhưng điều đáng nói ở đây là các bác trắng trợn lừa người dân. Các bác biết mấy nước cộng sản hoặc đã từng kinh qua cộng sản thân thiết ấy cũng giống như Việt Nam, trình độ y tế chẳng ra gì, dịch vụ tệ hại, lương tâm nghề nghiệp yếu kém, tình người thiếu vắng, nhưng các bác cứ hô lên là tốt đẹp để tuyên truyền cái định hướng XHCN là ưu việt. Các bác biết tỏng do cái gì làm ra sự tệ hại đó vì các bác đang nằm trong chăn cùng với các nước ấy. Cái gì làm cho nền y tế của Nga, của Trung cộng vĩ đại lại thua kém xa lắc nền y tế của một nước bé tí xíu là Singapore, đừng nói là so với Mỹ, Nhật, Châu Âu, các bác biết hết. Biết nhưng vẫn cố tình duy trì một nền y tế XHCN cho dân đen chịu đựng còn các bác và con cháu các bác thì thụ hưởng các dịch vụ y tế đỉnh cao của nhân loại không cộng sản. Tương tự như vậy, các bác xây dựng nên một nền giáo dục gọi là XHCN ưu việt cho con cháu dân đen thụ hưởng, còn phần lớn con cháu các bác thì đẩy hết qua các nước tư bản thù địch để bị nhồi sọ. Lừa đảo! Tưởng gì chớ lừa bịp thì là nghề của “các bác” ấy mà. Tổ quốc, nhân dân, chủ nghĩa … đều được mang ra dùng làm phương tiện (lừa gạt) ráo – mấy bức ảnh Bác hay mớ cờ quạt thì có ăn nhằm (ccc) gì mà cũng phải bận tâm. 2018

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ký Giả & Kỹ Giả Trong Vụ Án Khu Sinh Thái Bia Sơn

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ký Giả & Kỹ Giả Trong Vụ Án Khu Sinh Thái Bia Sơn

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

Nhà văn Phan Anh sinh năm 1984. Hơn hai mươi năm trước, trước khi ông mở mắt chào đời, làng báo của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (trong cùng một ngày) đã đồng loạt loan tin (*) về một vụ án gián điệp, với những lời lẽ mạt sát nặng nề đến độ lố bịch – dành cho các bị cáo :

  • Báo Thời Mới(21/01/1960): Năm tên gián điệp phản cách mạng, phá hoại hiện hành cúi đầu nhận tội …Nguyễn Hữu Đang và Thụy An, đầu sỏ chủ mưu, bị phạt giam 15 năm và mất quyền công dân 5 năm sau khi hết hạn giam.
  • Báo Nhân Dân(21/01/1960): Trước tòa án, với những bằng chứng đầy đủ, bọn gián điệp nói trên đã nhận hết tội lỗi của chúng.
  • Báo Thủ Đô Hà Nội( 21/01/1960): Tên Nguyễn Hữu Đang thú nhận: “Báo Nhân văn có tính chất chính trị ngay từ số 1. Mục đích của tờ báo là khích động quần chúng cùng với chúng tôi chống lại lãnh đạo.
  • Báo Quân Đội Nhân Dân(21/01/1960): Ta hãy nghe Đang cung khai trước Tòa án: Tôi đã gây hoài nghi đối với sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ. Tôi đã cổ động cho những xu hướng chính trị phản động. Tôi đã thổi phồng hoặc xuyên tạc bịa đặt ra những khuyết điểm để nói xấu Chính phủ và những cơ quan Nhà nước.
  • Báo Văn Học(05/02/1960): Nguyễn Hữu Đang thú nhận: “Tư tưởng của chúng tôi là phản động nên chúng tôi ra tờ báo Nhân văn để chống đối lãnh đạo, kích động quần chúng làm áp lực đấu tranh”. Ngoài báo Nhân văn, Nguyễn Hữu Đang còn dùng nhà xuất bản Minh Đức làm một công cụ để chống cách mạng. Y cung khai: “Tôi đã biến nhà xuất bản Minh Đức thành một công cụ chống lãnh đạo.”

Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại, Lê Nguyên Chí… và những nạn nhân có liên quan đến Nhân Văn – Giai Phẩm đều đã lần lượt qua đời. Tác giả của những bài báo bẩn thỉu kể trên (chúng tôi không nêu tên ra đây vì tôn trọng con cháu họ) có lẽ cũng đều đã chết.

Tuy thế, cái vết nhơ của nền tư pháp và truyền thông Việt Nam – qua phiên toà thượng dẫn – vẫn còn … sống mãi. Nó vẫn tồn tại với thời gian, mỗi lúc một thêm nhơ nhớp và …. “băng hoại tới mức độ không thể cứu vãn nổi” nữa – theo như cách nói của nhà văn trẻ tuổi Phan Anh.

Ông có quá lời chăng?

Xin để từ từ phân giải. Trước hết, hãy xem (qua) vài bài báo khác, xuất hiện trong những năm gần đây, về một “vụ án gián điệp, phản động, chống phá xuyên tạc cách mạng, âm mưu lật đổ…” – đã được xét xử tại toà án tỉnh Phú Yên :

  • Báo Công An(09/02/2012) : Tổ chức phản động “Hội đồng công luật công án Bia Sơn” do đối tượng Phan Văn Thu tức Trần Công (SN 1948, quê ở xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tổ 10, Liêm Trực, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định) cầm đầu. Đây là đối tượng đã lập nên tổ chức “Ân đàn đại đạo”, núp dưới danh nghĩa tu hành để hoạt động tình báo, gián điệp.
  • Báo Pháp Luật(05/02/2013): Nhóm hoạt động lật đổ chính quyền “chia nhau”… 299 năm tù. Sau 5 ngày xét xử, hôm qua, TAND tỉnh Phú Yên tuyên phạt Phan Văn Thu (còn gọi là Trần Công, sinh năm 1948, ngụ phường Bình Định, thị xã An Nhơn, Bình Định), đối tượng cầm đầu tổ chức phản động “Hội đồng công luật công án Bia Sơn” án chung thân về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.
  • Báo Thanh Niên(05/02/2013): Các bị cáo “Hội đồng công luật công án Bia Sơn” lãnh án…Theo HĐXX, từ năm 2003 đến tháng 2.2012, tại khu du lịch sinh thái Đá Bia (xã Hòa Xuân Nam, H.Đông Hòa, Phú Yên), Thu cùng đồng phạm thành lập tổ chức có tên gọi Hội đồng công luật công án Bia Sơn, núp bóng doanh nghiệp để xây dựng khu du lịch sinh thái Đá Bia thành căn cứ địa làm trung tâm chỉ huy hoạt động.
  • Báo Tuổi Trẻ(04/02/2013): Án chung thân cho thủ lĩnh “hội đồng công luật công án Bia Sơn… Với chiến lược “tiền sinh thái, hậu tổ đình” và “bất bạo động”, nhóm này đã tổ chức lập thành 12 ban, 26 pháp hội và 4 nhóm chưa đặt tên ở các địa phương; sáng tác, biên soạn nhiều tài liệu có nội dung xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Ngôn ngữ của những người làm báo Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Pháp Luật … bây giờ  – nghe ra – cũng cuồng tín, nông nổi, và “bẩn” không khác gì những cái loa sắt đặt ở Ba Mươi Sáu Phố Phường, hồi giữa thế kỷ trước. Đã thế, nay họ còn có thêm cái nét “đểu” (đặc trưng) của thời đại mới: “Nhóm hoạt động lật đổ chính quyền ‘chia nhau’ … 299 năm tù.”

Tuy thế, hai tuần lễ sau, vào ngày 17 tháng 2 (ngày đánh dấu 34 năm xảy ra cuộc chiến Việt-Trung ở biên giới phía Bắc) những người làm báo ở Việt Nam lại đồng lòng giữ im lặng trước sự kiện này. Không phải vô cớ mà đến nỗi có blogger đã gọi họ là bọn “đĩ bút an-nam.” Hoa ngữ cũng có một hạn từ đồng nghĩa nhưng được chuyển ngữ một cách thanh lịch hơn là “kỹ giả”:

“Trang mạng của “Đề án nghiên cứu truyền thông Trung Quốc” (China Media Project, 中國傳媒研究計劃) của Viện Đại học Hương Cảng có chuyên mục ‘Từ điển truyền thông’ (Media Dictionary) giảng giải những từ ngữ thuộc loại ‘chỉ có ở Trung Quốc’. Đọc rồi ngẫm lại thấy nhiều mục giống y như ở Việt Nam.

Từ kỹ giả là một ví dụ.  Mấy năm trước cư dân mạng đặt ra thuật ngữ này để bày tỏ bất bình với đạo đức nghề nghiệp yếu kém của giới làm báo. Từ này chỉ những nhà báo, nhất là từ các cơ quan truyền thông chính thức của đảng, sẵn sàng bẻ cong ngòi bút. Một thay đổi nhỏ nhiều hàm ý: về căn bản thì phát âm giống nhau, nhưng chữ  (記, ) trong ký giả (記者,jìzhě) được thay bằng kỹ (妓, jì; gái điếm).

Từ này được dịch sang tiếng Anh là whorespondent, kết hợp giữa whore (gái điếm) và correspondent (ký giả, phóng viên).” (Ký Giả Và Kỹ Giả – Phạm Vũ Lửa Hạ).

Tôi e rằng giới kỹ nữ sẽ cảm thấy bị xúc phạm khi họ bị đem ra so sánh với những kỹ giả ở Việt Nam, hiện nay. Bán thân nuôi miệng là một việc làm cổ xưa của nhân loại mà những người hành nghề đều là những kẻ (chả may) bị hoàn cảnh sống đẩy cho đến bước đường cùng.

Bán miệng nuôi thân cũng là một chuyện bất đắc dĩ, cũng có thể thông cảm được, khi con người ở vào tình thế chẳng đặng đừng. Trong cái không khí khủng bố, đe doạ (cùng với chính sách hộ khẩu khắc nghiệt) ở miền Bắc Việt Nam, khi xẩy ra sự kiện Nhân Văn/ Giai Phẩm, người ta có thể hiểu được cái thái độ hèn kém, cũng như cái ngôn ngữ hạ tiện của những người cầm bút – vào thời điểm đó – đã dành cho nạn nhân của vụ án. Họ (có lẽ) đã không có được lựa chọn nào khác ngoài việc “đánh đĩ ngòi bút” để được yên thân, chứ chả dám mong đến chuyện ấm thân.

Hơn nửa thế kỷ đã qua. Cái bức màn sắt che kín đất nước đã bị chọc thủng. Cái sổ gạo cũng không còn là vũ khí đáng sợ trong tay của Đảng CS Việt Nam. Người ta không nhất thiết cứ phải bám vào nhà nước mà vẫn có thể sống còn một cách đàng hoàng, và lương thiện. Cái thời mà người dân “sợ lạc đàn, sợ đi một mình không có cơm ăn, không có khí đốt, không có hộ khẩu thành phố” (theo như cách nói của Solzhenitsyn) cũng đã qua rồi.

Vậy điều gì đã khiến cho những người làm báo Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Pháp Luật …. hôm nay có thể thản nhiên gạt bỏ liêm sỉ, đứng về phía cường quyền (thay vì là nạn nhân) trước một vụ cướp đất trắng trợn – như xảy ra ở khu Sinh Thái Bia Sơn, thuộc tỉnh Phú Yên?

Hãy nhìn hai viên công an, đứng giữ tay ông Trần Thu (người bị kết án chung thân) trong tấm ảnh dưới đây đi. Họ trông đều rất buồn phiền và ái ngại. Chút tình cảm nhân bản đó, tiếc thay, không thể tìm thấy được trong bất cứ một bài báo của những người cầm bút VN (vừa) viết về vụ án này.

Nhà văn Phan Anh, rõ ràng, đã không quá lời khi thốt lên rằng: “Báo chí nước ta nó đã băng hoại tới mức độ không thể cứu vãn nổi.”

Tưởng Năng Tiến

————–
(*) Tất cả các bản tin về phiên toà xử Nhân Văn – Giai Phẩm, do Lại Nguyên Ân sưu tầm, đều có thể đọc được ở talawas 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Những cô giáo nhỏ

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Những cô giáo nhỏ

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

17/11/2022

Bữa coi phim Titanic tui khóc ướt áo luôn khiến mấy đứa nhỏ cười bò lăn, bò càng:

– Trời ơi, sao nghe nói “tuổi già hạt lệ như sương” mà ba lại nhiều nước mắt dữ vậy cà?

Sau con, tới vợ:

– Chắc tại cái tuyến nước mắt của ổng bị bể (ngang) nên nó mới tràn lan quá xá ể như vậy!

Tui (ra đường) hay đi tròng ghẹo thiên hạ nên (về nhà) bị mẹ con nó xúm lại chọc quê kể cũng… đáng đời. Tui không giận dỗi hay buồn phiền gì ráo mà chỉ cảm thấy mình cũng hơi kỳ.

Tui không chỉ yếu xìu trong chuyện làm tiền (cũng như làm tình) mà còn yếu ớt trong đủ thứ chuyện tào lao khác nữa. Tui đi mua hàng bị thối thiếu tiền nhưng sợ người bán ngượng nên đành nín lặng cho qua. Sáng sớm chạy tập thể dục, lỡ đạp nhằm con ốc sên (“nghe cái rốp”) là tui bần thần cho tới tận trưa luôn. Dọn vườn – có khi – lỡ tay làm gẫy một nhánh hoa, cũng khiến tôi đâm ra áy náy.

Nói tóm lại, và nói theo ngôn ngữ của tâm lý học phổ thông, là tui thuộc loại người đa cảm và có hơi nhiều … nữ tính. Đây không hẳn vì tính trời sinh đâu mà còn do ảnh hưởng của giáo dục từ những năm thơ ấu.

Không hiểu tại sao, và bằng cách nào, khi vừa đến tuổi cắp sách đến trường thì tôi (và năm bẩy thằng nhóc khác) lại được nhận vô trường nữ tiểu học Đoàn Thị Điểm – ở Đà Lạt. Thành phố này vốn sẵn nhiều bông, tui lại lâm vào cảnh “lạc giữa rừng hoa” nên trở thành “mong manh” là phải.

Các cô giáo của tôi đều là những phụ nữ xinh đẹp, dịu dàng, hiền lành và vô cùng tận tụy. Qua năm năm tiểu học, tôi được dậy dỗ kỹ càng nhiều điều cần thiết để thành người tử tế: phải rửa tay trước khi ăn, đánh răng trước khi ngủ, phải viết chữ (thay vì con số) ở đầu câu, phải xuống hàng sau mỗi đoạn văn đã đủ ý, phải vâng lời cha mẹ và anh chị, kính mến người già, tôn trọng thiên nhiên, thương mến xúc vật, quí trọng bạn bè, yêu quê hương đất nước, thương người như thể thương thân…

Tuy không không thành công hay hiển đạt (gì ráo trọi) tôi vẫn sống được như một người đàng hoàng cho mãi đến hôm nay là nhờ luôn ghi khắc (và biết ơn) những gì đã được học hỏi vào thưở ấu thời. Hình ảnh của những cô giáo (thiên thần) của tôi cũng thế, cũng mãi mãi in đậm trong tâm trí của một kẻ tha hương – dù tóc đã điểm sương.

Trên con đường học vấn, tôi tự cho mình là một kẻ may mắn. Ít nhất thì cũng may mắn hơn rất nhiều những đứa bé thơ, hiện đang lớn lên ở đất nước Việt Nam:

– Cô giáo mầm non dùng dép đánh vào đầu trẻ

– Viết sai chính tả học sinh bị cô giáo đánh thâm tím mặt

– Giáo viên buộc học sinh uống nước giẻ lau bảng

– Thầy giáo cấp 1 bị tố dâm ô 9 học sinh lớp 3 …

– Phụ huynh biểu tình phản đối lạm thu

Như đã thưa, tôi vốn đa cảm và yếu đuối. Nghe tiếng vỡ vụn của một cái vỏ ốc sên dưới gót chân (lỡ bước) cũng đủ khiến tôi cảm thấy bất an nên không khỏi hoang mang, lo ngại cho những mầm non xứ sở vì những mẩu tin thượng dẫn.

May thay – tuần rồi – tôi tình cờ quen được một cô giáo trẻ, đang đi thăm người  thân ở thủ đô Bangkok. Khi được hỏi về nghề nghiệp, cháu hãnh diện cho biết mình là một giáo viên dạy học tại một vùng quê thuộc tỉnh Nghệ An.

Tính cởi mở, và vẻ bặt thiệp, của người đồng hương khiến tôi bớt ngần ngại khi đặt những câu hỏi về tình trạng trẻ thơ bị ngược đãi hay bạo hành nơi trường học. Cháu xác nhận là có nhưng không nhiều lắm, và nói thêm rằng trở ngại lớn của nền giáo dục Việt Nam (hiện nay) là mức sống quá thấp nơi những thôn làng heo hút. Ở lắm chỗ, chuyện ăn mặc vẫn còn là vấn đề nên việc học hành gần như đang bị lãng quên hay bị coi như là điều xa xỉ.

Trước khi chia tay, chúng tôi trao đổi fb, email …  Có lẽ vì sợ tuổi tác khiến cho tôi khó cập nhật thông tin nên vài hôm cô giáo trẻ gửi cho tôi vài bài báo, rất cảm động, về công việc của nhiều bạn đồng nghiệp:

– Cô giáo bản nghèo, cống hiến tuổi thanh xuân cho học sinh vùng cao
– Cô giáo trẻ mang lời ca tiếng hát ra hải đảo
– Ngưỡng mộ cô giáo trẻ năng động, tâm huyết ở bãi bồi ven bờ sông Hậu
– Cô giáo 19 năm hi sinh hạnh phúc riêng vì học trò vùng cao

Tuần qua, tôi cũng tình cờ đọc được một đoạn văn ngăn (ngắn) nhưng đầy ắp tình cảm của nhà báo Mai Thanh Hải. Ông viết vì quá xúc động sau cái chết của một cô giáo vùng cao, bị lũ cuốn trôi:

Vẫn nhớ gương mặt em hòa lẫn cùng hơn 20 gương mặt giáo viên Mầm non toàn nữ, trong những ngày rét nhất, rét đến cứng đơ người của mùa rét 2011 năm trước, khi các em tập trung về điểm Trường chính Sàng Ma Sao (Bát Xát, Lào Cao) nhận áo ấm, thực phẩm, chăn màn của Gánh Hàng xén – “Cơm có thịt” cho bọn lít nhít đang ngồi yên ở điểm Trường Ki Quan San, đợi cô về.

Hôm ấy, mình phải ngủ lại điểm trường chính vì đường rừng bị sạt lở và lần đầu tiên, mấy thằng đàn ông bị “quây” rượu bởi hơn 30 cô giáo trẻ măng, vừa học xong đã phải lên trên bản dạy học, cả tháng may ra về Thị trấn được 1 lần.

Cuộc rượu về đêm, không say nổi bởi nghe các em thay nhau kể về cái cảnh thiếu thốn, chịu đựng và còn cả khát khao rất tầm thường của những thiếu nữ mới hơn 22-23 tuổi, đang ở phố thị, nhoằng cái phải lên rừng dạy học.

Sống cuộc sống không điện đóm, không tivi, không đài, không bạn bè, không tiếng người Kinh qua lại. Thiếu thốn từ hạt muối cho đến thanh củi, đêm nằm trong căn nhà tranh dột nát, gió lùa hun hút, không ngủ được vì lạnh, thành mất ngủ triền miên… Gần 2 năm, dự định gần Tết lại mang áo của Áo ấm biên cương lên Sàng Ma Sáo, gặp lại các em. Vậy mà!

Vĩnh biệt em, cô giáo Lý Thị Hồng (SN 1987, dân tộc Giáy, cư trú ở thôn Piềng Láo, xã Mường Hum, Bát Xát, Lào Cai) – Giáo viên thuộc phân hiệu Ki Quan San, Trường Mầm non xã Sàng Ma Sáo…

Họ hy sinh mọi thứ (kể cả tính mạng) nhưng họ chỉ được nhận lại khoản tiền thù lao vô cùng ít ỏi. Theo BBC: “Một nhà khoa học Việt Nam đưa ra đánh giá nói công an và quân đội có thu nhập chính thức cao nhất, còn nghề giáo và làm nông là thấp nhất nước này.” Bà Nguyễn Thị Kim Thanh – Trưởng Phòng GD, Sở GD-ĐT TPHCM – cho biết thêm chi tiết: “Tính ra, thu nhập của giáo viên mầm non còn thua cả người giúp việc!”

Ông Nguyễn Tiến Đạt, Phó Giám Đốc Sở GD-ĐT TPHCM, khẳng định: “Không đâu chăm lo mầm non tốt như ở nước ta!” Tôi e khó mà chia sẻ với sự lạc quan của vị Phó Giám Đốc Sở GD-ĐT TPHCM, trước thực trạng “thu nhập của giáo viên mầm non còn thua cả người giúp việc!”

Tuy thế, không ai có thể phủ nhận được sự tận tụy, cùng tấm lòng vị tha, của hằng vạn giáo viên trên khắp nẻo đường đất nước. Xin chân thành cảm ơn các em, các cháu – những cô gái Việt Nam vô danh và thầm lặng – đã vì những mầm non bất hạnh mà hy sinh, và trao trọn tuổi thanh xuân, để tương lai của xứ sở đỡ được phần đen tối.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Đỗ Lệnh Dũng

Tưởng Năng Tiến

https://www.danchimviet.info/s-t-t-d-tuo…/05/2020/19650/

Tưởng gì chứ sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà, cấp bực làng nhàng, cỡ như ông Dũng, tôi quen cả đống. Bạn cùng khoá cũng độ vài trăm, cùng đơn vị khoảng vài chục, và cùng trại (tù) thì chắc … vài ngàn! Tôi đã nghe vô số thằng kể lại những giờ phút cuối cùng của đơn vị mình nhưng chưa thấy ai bị lâm vào hoàn cảnh bi đát, và giữa lúc thập tử nhất sinh, đã tuyên bố một câu (ngon lành) dữ vậy.

Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu (vào giờ phút chót) cũng chỉ âm thầm … đào ngũ thôi, chứ chả hề có mở miệng nói năng gì ráo trọi – với bất cứ ai. Còn Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ thì ồn ào hơn chút đỉnh, rồi cũng chuồn êm – không lâu – sau đó.

Trường hợp của Đỗ Lệnh Dũng thì hơi khác. Cách hành xử của ông cũng khác. Bảnh hơn thấy rõ. Đúng nửa đêm 24/11/1974, trái đạn 82 ly đầu tiên rót vào trong vòng đai Đồng Xoài. Với đại pháo và T-54 yểm trợ, hai trung đoàn của Sư Đoàn 7 của Bắc Quân – sử dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung – đã chiếm được chi khu này, vào rạng sáng 7/12/1974.

Buổi chiều cùng ngày, trong khi đang cùng những quân nhân còn sống sót tìm cách thoát khỏi vòng vây, trung úy Đỗ Lệnh Dũng (bỗng) thấy một đoàn người – toàn là đàn bà và trẻ con nhếch nhác, với tay nải hòm xiểng, lôi thôi, lếch thếch – nằng nặc đòi đi theo toán quân của ông, để trốn ra khỏi vùng đất (sắp) được … hoàn toàn giải phóng.

Trước nguy cơ dân chúng có thể bị thiệt mạng oan uổng trong lúc giao tranh, và để thuyết phục mọi người nên ở lại nhà cho được an toàn, trung úy Dũng đã dõng dạc tuyên bố với đám đông: “Tôi nhân danh sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà xin hứa sẽ trở lại với đồng bào.”

Và Đỗ Lệnh Dũng đã trở lại thực, chỉ vài ngày sau, như là một … tù binh! Rồi ông bị đấu tố trước Toà Án Nhân Dân Huyện Đôn Luân, một tên gọi khác (mỹ miều hơn) của Đồng Xoài, và đưa từ Nam ra Bắc – theo đường mòn Hồ Chí Minh – để đi cải tạo. Gần muời năm sau, năm 1982, trung úy Đổ Lệnh Dũng được chuyển trại từ Bắc vào Nam – và tiếp tục … ở tù!

Cuộc đời (rõ ràng và hoàn toàn ) không may của trung úy Đỗ Lệnh Dũng đã được nhà văn Lê Thiệp viết lại, bằng một cuốn sách – dầy đến bốn trăm trang – lấy tên của chính ông làm tựa. Nhà xuất bản Quê Hương đã cho phát hành phẩm này (1) vào cuối năm 2006, với lời giới thiệu – như sau:

“Đỗ Lệnh Dũng không chỉ là câu chuyện về chiến tranh, dù nhân vật chính là một chiến binh mất tích giữa chiến khu D sau một trận đánh dữ dội.” Đây là câu chuyện về những oan khiên khắc nghiệt mà người dân Việt Nam phải trải gần trọn thế kỷ qua cho đến ngày nay.

Nhân vật chính giã từ cha mẹ khi tròn 18 tuổi và lúc được gặp lại song thân thì đã gần tới tuổi ngũ tuần. Thời gian xa cách là lửa đạn, là những ngày lê gót trên con đường mòn vượt rừng núi Trường Sơn từ Nam ra Bắc, là những năm tháng đoạ đầy tại những trại tù …

Dù chỉ là một góc cạnh giữa muôn ngàn góc cạnh của một thời bão táp, câu chuyện vẫn là bằng cớ vô giá về thảm trạng con người bị tước đoạt trọn vẹn tuổi trẻ, tình yêu gia đình và mọi điều kiện an bình của cuộc sống.

Cuốn Đỗ Lệnh Dũng được ra mắt tại thành phố San Jose, California. Hôm đó, tôi đã hân hạnh được nhìn thấy Trung Úy Dũng và Thiếu Tá Đặng Vũ Khoái – chỉ huy trưởng Chi Khu Đôn Luân – người mà không mấy ai tin là còn có thể sống sót, sau khi đơn vị này thất thủ.

Thiếu tá Khoái cho biết nhờ tác phẩm này mà trong mấy tuần qua, một số những người lính năm xưa – đang tản mát khắp năm Châu – đã tìm lại được nhau. Và ông nghẹn ngào khi giới thiệu với mọi người, vài quân nhân khác của đơn vị – hiện cũng đang có mặt tại hội trường.

Tôi ngồi ở xa, không nhìn rõ nét mặt của những nhân vật này nhưng có thể đoán được rằng mắt họ đều đang ngấn lệ. Tôi cũng là một cựu chiến binh, cũng có cái may mắn lớn lao là còn sống sót sau cuộc chiến vừa qua, và thoát thân đến được một quốc gia an bình phú túc nên cảm thông (thấm thía) sự xúc động của họ.

Trong giây phút đó (có lẽ) mọi người đều cảm thấy an ủi và ấm lòng, trước cảnh trùng phùng bất ngờ (và khó ngờ) đến thế. Cái cảm giác sung sướng vì sự may mắn (hiếm hoi) của mình đã theo tôi suốt cả buổi chiều hôm ấy, và đã cùng với tôi đi vào giấc ngủ.

Nửa khuya, tôi thức dậy. Gần nhơ đêm nào tôi cũng thức dậy vào giấc đó. Và đó cũng là lúc mà tôi thường lò mò trở về … chốn cũ.

Như một công dân “part – time” của nước Hoa Kỳ, tôi chưa bao giờ sống hết mình và hết tình nơi quê hương mới. Gần ba mươi năm lưu lạc, tôi vẫn cứ sống (một cách mộng mị) đều đều – theo kiểu “ngày ở / đêm về” – như thế.

Tôi thường trở về Đà Lạt. Đây là nơi mà tôi đã lớn lên, và đã ướp đẫm tuổi thơ (cũng như tuổi trẻ của mình) bằng rất nhiều đặc sản của núi rừng: nuớc hồ Xuân Hương, sương mù, phấn thông vàng, mùi cỏ dại của Đồi Cù, và cả trăm loại hương hoa man dại.

Có dạo tôi hay trở về những đồi trà, đồi bắp, đồi khoai – bao quanh trại cải tạo Tân Rai – ở Blao. Tôi cùng lũ bạn tù cứ đi trong nắng sớm, trên những con đường mịn màng (thơm nồng mùi đất) sau một đêm mưa.

Cũng có khi tôi về lại Sài Gòn, ghé thăm một người bạn đồng đội mới, chỉ vừa biết sơ, qua một bài báo ngắn – của ký giả Bùi Bảo Trúc:

“Sáng nay mở e-mail ra đọc, tôi nhận được từ một người không hề quen biết, không kèm theo một giòng chữ nào, bức hình một người đàn ông mà tôi cũng chưa gặp bao giờ. Hình chụp người đàn ông đang ngồi trên giường có trải chiếu, đằng sau là bức tường loang lổ, hoen ố những vết đen mốc.

Ông có một bộ ria, tóc dầy và đen, một mắt to, một mắt nhỏ mà tôi nghĩ là bị hư, chỉ còn một con. Ông không còn chân tay. Hai chân bị cụt trên đầu gối. Và hai tay cụt ở trên khuỷu tay, gần nách.

Trong hình có ghi tên ông. Ông tên là Thìn, Nguyễn Văn Thìn. Năm sinh được ghi là 1952. Hàng chữ phía dưới cho biết ông là thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa. Ðơn vị cuối của ông là Trung Ðoàn 49, Sư Ðoàn 25 Bộ Binh. Cấp bậc của của ông là Trung Sĩ Nhất. Ông sinh năm 1952, tuổi Thìn nên tên cũng là Thìn.

Ông không còn chân tay. Từ 30 năm nay, ông không có chân, cũng không có tay. Ông làm sao sống nổi qua bằng ấy năm không có hai chân mà cũng không có cả hai tay. Tôi tưởng tượng, không khó khăn lắm, cũng vẫn thấy ra được những khó khăn của ông. Trong một chế độ thân thiện với ông, ông cũng đã vô cùng bất hạnh vì thiếu con mắt, thiếu hai tay, lại thiếu luôn cả hai chân.

Huống chi trong một khung cảnh không thân thiện nếu không muốn nói là thù nghịch, thì ông còn khổ biết là bao nhiêu nữa. Tôi không dám tưởng tượng thêm ra những chuyện khác trong đời sống hàng ngày của ông, nếu đó có thể gọi được là một đời sống.”

Ông Thìn luôn luôn nhìn tôi với đôi mắt u buồn và lắc đầu ra dấu, như có ý nói là đừng đến thăm nhau nữa: “muộn mất rồi.” Mãi sau này tôi mới biết là … muộn thật!

Trong những trang sổ tay cũ, khi viết về trung sĩ Nguyễn Văn Thìn, cách đây vài năm, tôi đã có dịp phổ biến địa chỉ của ông: nhà số 9/8 đường Bông Sao, phường 5, quận 8, Sài Gòn. Chừng một tháng sau, vài người báo cho tôi biết là họ đã gửi quà về biếu ông Thìn nhưng không còn … kịp nữa. Ông bạn đồng đội của tôi đã qua đời, vài tuần, trước đó!

Đêm nay thì tôi về miền Trung, phần quê hương khốn khó mà tôi chưa bao giờ có dịp ghé qua, để thăm một đồng đội khác:

“Sự hy sinh của anh quá lớn, hai mắt, hai tay và hai chân cho tổ quốc còn cá nhân chị đã hy sinh cả cuộc đời cho những người mà cả tổ quốc phải tri ân. Đã rưng rưng khóc lần nữa và cảm ơn nhiều lắm đến bà con ở Úc và Hội. Tôi phải vượt đường xa tít tăp từ Huế tìm đến nơi 1 anh Thương Binh mù hai mắt, cụt 2 tay lẫn 2 chân gần Lăng Cô …

Tôi nhìn thấy anh Dương Quang Thương nằm xấp ngay ngạch cửa. Tôi lên tiếng chào, anh bật ngồi dậy hỏi tôi là ai?

Qua những phút giây trao đổi, tôi thấy anh khóc, những dòng nước mắt lăn ra từ hai hố mắt sâu thẳm ấy làm tôi phải khóc theo. Nghe tiếng người lạ, vợ anh từ sau hè chạy lên trên tay còn cầm nắm rau dền hoang vừa mới ngắt về để lo bữa ăn chiều, chị chào hỏi tôi rồi rót nước mời tôi uống …

Thoạt đầu tôi chỉ nói tôi là người mang tiền và thuốc tây đến cho anh do bà con từ bên Úc đóng góp gửi về. Tôi gởi anh 100 đô Úc và 5 hộp thuốc tây. Anh đã rưng rưng khóc lần nữa và cảm ơn nhiều lắm đến bà con ở Úc và Hội.”

Sau một hồi tâm sự anh nhắn gửi lời cảm ơn đến người điều hành Hội mà gia đình anh thường thư từ qua lại nhiều năm nay. Tôi xúc động quá và cho biết là: Thưa anh chị chính tôi đây…

Nghe đến đó anh quờ quạng hai cái cùi tay còn lại lết thật nhanh về hướng tôi và ôm lấytôi mà khóc. Vợ anh cũng khóc, tôi cũng khóc, người chạy xe ôm cũng khóc theo… Sự hy sinh của anh quá lớn, hai mắt, hai tay và hai chân cho tổ quốc còn cá nhân chị đã hy sinh cả cuộc đời cho những người mà cả tổ quốc phải tri ân.

Chị đã khóc nhiều lắm vì những khó khăn đè nặng thân phận của người phụ nữ ốm o gầy còm cố vươn vai suốt hơn ¼ thế kỷ gánh gồng, ẵm bồng tắm rửa, đút ăn và những cơn lũ lụt khủng khiếp phải cõng chồng chạy tìm sinh lộ… Ra tới đầu ngõ, tôi và anh xe ôm vẫn còn khóc… (Nguyễn Cảnh Tân (2). “Nỗi Sầu Riêng Hay Cái Đau Chung.” Việt Luận).

Ở VN, bây giờ, mà khóc nhiều như vậy e hơi (bị) lố. Làm người Việt thì dù ở vào hoàn cảnh tệ bạc đến đâu chăng nữa vẫn (có thể) được khối kẻ khát khao. Tôi liên tưởng đến số phận te tua, bầm dập của Đỗ Lệnh Dũng và không khỏi trạnh lòng nghĩ thêm rằng: đó là cảnh đời mà phế binh Dương Quang Thương có nằm mơ cũng không thấy được.

Và hiện tại ở quê tôi còn bao nhiêu chục ngàn cựu chiến binh khác nữa (cũng tàn phế đến độ không thể đi xin ăn được) đang nằm chờ chết ở một xó xỉnh nào đó, ước mơ đến ngày có người đồng đội cũ (chợt) nhớ đến mình và ghé thăm chơi – như chiến hữu Nguyễn Cảnh Tân đã ghé thăm bạn Dương Quang Thương, vào một buổi chiều cuối năm?

Tưởng Năng Tiến – 02/2007

________________________________________

(1) – Cuốn Đỗ Lệnh Dũng giá 28 Mỹ Kim, kể cả cước phí, có thể đặt mua tại Tủ Sách Tiếng Quê Hương, P.O. Box 4653, Falls Church, VA 22044, USA.

(2) – Địa chỉ liên lạc của ông Nguyễn Cảnh Tân: Hội Thiện Nguyện Cứu Trợ Thương Phế Binh Bị Lãng Quên Ở Việt Nam 42 Cardwell St – Canley Vale. NSW, Australia. Điện thoại: (02) 9728 3640. Điện thư: [email protected].

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Vợ tù

From: Đàn Chim Việt

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

The Catcher in the Rye xuất bản năm 1951, khi tôi chưa kịp mở mắt chào đời. Tuy hai phần ba thế kỷ đã qua, và tôi cũng sắp sửa từ giã cõi trần (tới nơi rồi) nhưng vẫn chưa bao giờ tìm đọc nguyên văn tác phẩm này của J.D Salinger cả.

Lý do, giản dị, chỉ vì tôi đã đọc Bắt Trẻ Đồng Xanh (Thanh Hiên xb 1967) của Phùng Khánh tự lâu rồi. Dịch giả hẳn là phải thông thạo Anh ngữ lắm nên bản tiếng Việt vô cùng gẫy gọn, trong sáng (và cũng rất tài hoa) khiến tôi sợ rằng đọc nguyên tác chưa chắc đã thích bằng. Nó hay đến độ mà nhà văn Võ Phiến cũng có một tạp luận) cùng tên (“Bắt Trẻ Đồng Xanh”) vì ông đã mượn tựa từ bản dịch của ni sư Thích Nữ Trí Hải.

Bài viết này xuất hiện lần đầu trên tạp chí Bách Khoa – phát hành từ Sài Gòn, vào tháng 10 năm 1968 – và đến nay vẫn còn được độc giả quan tâm, dù hơn nửa thế kỷ đã qua. Một trong những vấn đề được tác giả đề cập đến là số phận bi đát của những người phụ nữ miền Nam, có chồng (và mất chồng) chỉ trong vài hôm – hoặc vài tuần – sau Hiệp Định Genève :

“Cuộc chiến này xuất hiện ngay từ những cuộc liên hoan chia tay giữa kẻ ở người đi trong thời hạn 300 ngày tập kết, những cuộc liên hoan có hát có múa, có bánh trái tiệc tùng… Nó xuất hiện ngay từ những đám cưới vội vã sau ngày đình chiến, những đám cưới lắm khi tổ chức tập thể, do trưởng cơ quan, trưởng đơn vị chủ tọa. Nạn nhân đầu tiên của cuộc chiến này không phải là những kẻ ngã gục vào 1958, 1959, mà là những cô gái tức khắc biến thành góa bụa từ 1954.”

Sáu năm sau Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được thành lập, vào hôm 20 tháng 12 năm 1960, tại huyện Châu Thành – tỉnh Tây Ninh. Tuy được “dựng” lên ở miền Nam  nhưng phần lớn cán binh (và tử sĩ) lại là người miền Bắc, theo ghi nhận của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện :

Trại lính, trại tù, người đi không ngớt

Người về thưa thớt dăm ba

Trẻ con đói, xanh như tàu lá

Cày bừa phụ nữ đảm đang

Chốn thôn trang vắng bóng trai làng

Giấy báo tử rơi đầy mái rạ! (“Đất Này Chẳng Có Niềm Vui” – 1965)

Mười năm sau năm nữa (năm1975) thì chiến tranh chấm dứt. Tuy hòa bình đến nhưng trại lính, trại tù, người (vẫn) đi không ngớt. Bọn trẻ thì đi thi hành nghĩa vụ quốc tế (giải phóng nước bạn Cambodia), còn lớp già (thuộc phe thua trận) thì đi … học tập cải tạo.

Dù được bên thắng cuộc hứa hẹn là thời gian “thụ huấn” chỉ vài tuần thôi nhưng thực tế thì người về thưa thớt dăm ba, và không ít kẻ đã ra đi vĩnh viễn, để lại vô số những vành khăn tang trên đầu cô phụ (vào giữa thời bình) mà chả hề có một tờ thư hay mảnh giấy báo tử nào ráo trọi.

Nếu còn sống sót, kẻ thất trận cuối cùng cũng đã rời trại tù vào những năm đầu của thập niên 1990, sau gần 20 năm bị giam cầm. Hơn một phần tư thế kỷ đã qua. Tù nhân chính trị ở Việt Nam hiện nay đều thuộc vào lớp người mới, với tên gọi mới: tù nhân lương tâm – TNLT.

Hôm 22 tháng 6 năm 2021, VOA cho biết :

“Theo báo cáo mới được đưa ra của VNHR, ít nhất 46 người đã bị bắt giữ và truy tố tính đến ngày 31/5 vì vi phạm Bộ luật Hình sự 2015 sau khi ‘bày tỏ quan điểm chính trị của họ thông qua mạng xã hội’, một cáo buộc mà các nhà chức trách gọi là ‘chống phá nhà nước’. Nhóm nhân quyền ở California cho biết rằng những người khác bị bắt trong năm qua bao gồm các nhà hoạt động chính trị, nhà báo độc lập và những người khiếu kiện về quyền đất đai.”

Ngày 15 tháng 7 năm 2022, bỉnh bút Nguyễn Văn Lung (Tạp Chí Luật Khoa) cập nhật thêm vài ba dữ kiện :

“Trong nửa đầu năm 2022, đã có 16 người bị bắt liên quan đến những vấn đề như quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí hay quyền tự do hoạt động hội nhóm… Con số bị bắt đó tương đương với các năm trước, khi mà cả năm 2021 và 2020 đều có 39 người bị bắt vì những vấn đề nhân quyền. Hiện tượng này có thể gọi là ‘đàn áp một cách ổn định’. Những con số đáng buồn cho thấy không có tiến triển gì trong việc cải thiện tình hình nhân quyền trong nước.”

Tuy tuyệt nhiên “không có tiến triển gì trong việc cải thiện tình hình nhân quyền trong nước” nhưng đã có sự thay đổi lớn lao (và khá bất ngờ) nơi thái độ của không ít nạn nhân. Phụ nữ Việt Nam hiện nay không còn chịu nín lặng trong cảnh góa bụa, ngay sau ngày cưới, như lúc đình chiến 1954. Họ cũng không cắn răng và nuốt nước mắt, trước cảnh gia đình tan nát (chỉ vì chả may thuộc bên thua cuộc) như sau Đại Thắng Mùa Xuân 1975 nữa.

Những người vợ tù bây giờ đã cùng chồng tích cực nhận lãnh vai trò “tác nhân,” thay vì chỉ nhẫn nhục “cam chịu lịch sử” như lớp người đi trước, dù họ vẫn bị đe dọa và sách nhiễu thường xuyên :

Chính sách thô bạo và ti tiện cố hữu của nhà đương cuộc Hà Nội, xem ra, không có chút tác dụng nào đáng kể. Phản ứng và cách hành xử của những người vợ tù hiện nay, thế hệ sinh trưởng trong lòng cách mạng, đã hoàn toàn khác trước.

Xin ghi lại dăm ba trường hợp, theo thứ tự abc, để rộng đường dư luận :

Bùi Huệ, phu nhân của TNLT Dũng Vova: “Đến nay Vova được sự ủng hộ và quý mến của không ít các bà con, anh em cùng lý tưởng. Nó giống như vị ngọt của cà phê đã trải qua cái đắng.”

Đỗ Lê Na, phu nhân của TNLT Lê Trọng Hùng: “Tôi cũng muốn cho người dân ở trong nước, đặc biệt là những gia đình đấu tranh, một số gia đình thì cũng còn e ngại trong việc người thân của mình bị bắt bớ, có những gia đình không dám thẳng thắn lên tiếng, thì tôi muốn qua cái câu chuyện của gia đình mình để cho mọi người biết rằng là cái quyền lên tiếng để chống lại áp bức bất công – đó là quyền của mỗi người, và nếu chúng ta làm đúng thì chúng ta sẽ không có gì phải sợ hãi họ cả.”

Trịnh Nhung, phu nhân của TNLT Bùi Văn Thuận: “Cháu/em là vợ của anh Thuận, luôn tự hào về anh, ủng hộ và tin tưởng rằng anh không làm gì sai cả, nên sẽ luôn đồng hành cùng anh trên con đường khó khăn phía trước.”

Đỗ Thu, phu nhân của TNLT Trịnh Bá Phương: “Tôi đã chuẩn bị sẵn tinh thần. Tôi nghĩ họ sẽ không để yên cho tôi đâu.”

Nguyễn Thị Ánh Tuyết, hôn thê của TNLT Đỗ Nam Trung: Sau này Trung về chắc chắn chúng tôi sẽ thực hiện nốt những việc còn dang dở, mà chúng tôi đã có những dự tính cho tương lai của hai đứa. Và tôi cũng sẽ kể cho Trung nghe rất nhiều về những tháng ngày đã xa cách này, tôi đã nhớ Trung biết bao nhiêu…”

Lê Bích Vượng, phu nhân của TNLT Nguyễn Lân Thắng: “Bốn tuần. Ba mươi ngày. Một tháng. Nghe nói tóc anh bạc nhiều. Nghe nói anh gầy đi. Nghe nói anh già đi đến vài tuổi. Uh. Không sao. Mọi người luôn bên anh – Như anh đã có mặt ở những vùng đất khó khăn, những khi bão lũ, thiên tai, nhân hoạ … tàn phá.”

Không chỉ thân nhân mà bằng hữu, hàng xóm, láng giềng cũng thế. Thái độ của họ đối với những TNLT của chế độ hiện hành hoàn toàn đã khác. Hình ảnh, biểu ngữ, cùng những bó hoa rực rỡ và bia bọt tràn lan khi mọi người chào đón Phạm Thanh NghiênCấn Thị ThêuBa Sàm Nguyễn Hữu Vinh (như những vị anh thư hay anh hùng của thời đại) đã khiến cho cư sỹ Phạm Nguyên Trường cảm thán: “Trong nước CS mà đón tù chính trị về vui vẻ như thế này thì thời gian tồn tại của chế độ có thể kéo dài bao lâu?”

Ơ hay, cái ông này hay nhỉ? ̣Sao đã tu tại gia (và đã muốn gác bỏ chuyện thế sự ngoài tai) mà vẫn còn “bao la” thế? “Thời gian tồn tại của chế độ còn có thể kéo dài bao lâu” nữa là chuyện của “các đồng chí lãnh đạo ở trên,” chứ việc gì mình phải bận tâm!

Tưởng Năng Tiến

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Một chút hiểu lầm

Một người thuộc giai cấp nào đó không có nghĩa rằng người đó đã có một khối tài sản nhất định. Điều đó càng đúng đối với chế độ cộng sản: sở hữu mang tính tập thể. Ở đây muốn trở thành chủ sở hữu hay đồng sở hữu thì cần phải len được vào hàng ngũ của bộ máy quan liêu chính trị. – Milovan Djilas – Giai Cấp Mới

Thời gian gần đây, gần như là hằng đêm tôi đều mơ thấy mình vẫn đang sống trong một khung cảnh nào đó – ở Việt Nam. Cứ như thể là tôi chưa bao giờ rời khỏi đất nước này, dù chỉ một ngày.

Khỏi cần phải đọc Freud hay Jung gì ráo trọi, tôi cũng biết được rằng tự tiềm thức của mình đang có một thôi thúc khác – khác với sự chọn của ý thức từ bấy lâu nay – tuy sâu kín nhưng mạnh mẽ, cái sức mạnh của một định luật tự nhiên: lá rụng về cội! Nhờ thế, tôi (chợt) hiểu tại sao hai ông Phạm Duy và Nguyễn Cao Kỳ nằng nặc phải trở lại cố hương bằng mọi giá – kể cả cái giá phải “hy sinh” luôn tính tự trọng (tối thiểu) và lòng liêm sỉ.

Thường dân cỡ tui thì đi mới khó, chớ về thì dễ ợt. Chả sợ điều tiếng chi, và cũng khỏi ngại chuyện mấy chú công an canh chừng hay thăm hỏi gì. Chỉ ngặt có chút xíu (xiu) là tôi không biết rồi sẽ làm sao để mưu sinh, ở quê nhà.

Già cũng phải sống chớ bộ, cũng phải có nơi ăn chốn ở, phương tiện đi lại, và chăm sóc y tế tối thiểu – khi cần. Mà tui thì suốt đời không có đồng xu dính túi (tiền vừa tới tay là tui đã sài liền, hoặc cho mẹ nó rồi) nghề nghiệp thực dụng để có thể kiếm việc ở V.N cũng không luôn, còn thân bằng quyến thuộc thì toàn là những người khốn khó và thuộc thành phần… phản động không hà!

Mà cố hương (than ơi!) cho dù ở góc bể chân trời, hay châu lục nào chăng nữa thì cũng đều chia chung một định luật bất thành văn: không đâu, và không ai, hân hoan đón chào những kẻ trở lại với … hai bàn tay trắng. Thôi thì đành bỏ xác quê người, chớ về làm chi/cho má nó khi.

Tôi đã có dự tính nhẩy cầu Golden Gate thì có  tin vui giữa giờ tuyệt vọng, từ một giới chức cao cấp ở Việt Nam – Bộ Trưởng Chủ Nhiệm Ủy Ban Dân Tộc Giàng Seo Phử. Ông vừa hân hoan cho biết: “Bán vé số ở Việt Nam có thu nhập cao.”

Bán tin, bán nghi, tôi liền vào net tìm hiểu thêm và biết được rằng hiện nay (ở Việt Nam) bán vé số được coi là một nghề nghiệp đàng hoàng tử tế, của một giới người riêng biệt, không những có “thu nhập cao” mà còn có nhiều chuyện may mắn bất ngờ và rất thú vị nữa kià – theo như tường thuật của phóng viên Hữu Danh, báo Dân Việt:

Dư luận Long An đang xôn xao với thông tin một người bán vé số nghèo đưa cho khách 10 tờ vé số trúng thưởng 6,6 tỷ đồng để nhận lại 200 ngàn đồng tiền xổ số, dù khách chỉ “mua thiếu qua điện thoại.

Khoảng 16 giờ ngày 15.11, còn hơn 20 vé bị ế nên chị gọi điện thoại cho mối quen là anh Đỗ Ngọc Tuấn, 41 tuổi, ngụ khu phố 2, đường Bà Chánh Thâu, thị trấn Bến Lức, huyện Bến Lức – hành nghề chạy xe ba gác – nài nỉ mua dùm. Anh Tuấn đồng ý mua 20 tờ, gồm ba số khác nhau. Gọi là “mua” nhưng chỉ là nói qua điện thoại, anh Tuấn cũng chưa trả tiền.

Chiều cùng ngày, lốc vé 10 tờ của công ty XSKT tỉnh Bến Tre mang dãy số đuôi X91207 trúng đặc biệt 4 tờ, trúng an ủi 6 tờ. Nhiều đồng nghiệp bán vé số bảo người mua chưa trả tiền, coi như chưa mua và nói chị Lành toàn quyền định đoạt “số phận” 10 tờ vé số với trúng thưởng với giá trị lên đến gần 7 tỷ đồng này.

Tuy nhiên, chị Lành gạt phăng và cho rằng anh Tuấn là một trong những khách hàng thường xuyên mua vé số ủng hộ chị. Rất nhiều lần anh mua qua điện thoại và dù không trúng lần nào nhưng anh vẫn trả tiền sòng phẳng. Do đó, không thể vì tiền mà chị đánh mất chữ tín.

Ngay lập tức, chị bấm điện thoại gọi anh Tuấn đến quán cà phê để bàn giao số trúng. Cảm kích trước lòng tốt của người bán vé số, anh Tuấn đã tặng 1 tờ trúng giải đặc biệt cho người bán vé số nghèo.

Theo tìm hiểu của Dân Việt, vợ chồng chị Lành trước đây sống cùng mẹ ruột là bà Phạm Thị Thèm trong một căn nhà cũ nát rộng chỉ 27m2, dựng nhờ trên đất của một người thân ở xã Long Khánh A, huyện Hồng Ngự, Đồng Tháp.

Hai người anh trai của chị Lành, một người bị tâm thần, một chết sớm trong khi các chị dâu lại bỏ đi, để lại đến 6 đứa bé côi cút cho bà Thèm và chị Lành nuôi dưỡng. Do bà Thèm đau ốm liên miên lại không có đất sản xuất nên vợ chồng chị Lành đang tính tới phương án đưa đại gia đình lên Bến Lức hành nghề bán vé số.

Đoạn văn thượng dẫn có hai hạn từ mà tôi tự ý cho in đậm: “đồng nghiệp” và “phương án.” Chị Phạm Thị Lành là một con người cao cả, đã đành, và cái nghề bán vé số số hiện nay cũng đã tạo nên một giới người vô cùng cao qúi theo như ngôn ngữ đương đại của giới truyền thông hiện nay – ở Việt Nam – như vừa trích dẫn!

Họ “lập phương án” đi bán vé số đàng hoàng, chớ không phải bạ đâu làm đó đâu nha.  Họ cũng  gọi nhau là “đồng nghiệp” nữa đó (lịch sự hết biết luôn) nghe cứ y như cái cung cách xưng hô (qúi phái) của qúi vị bác sĩ hay luật sư ở giữa toà, hoặc ở giảng đường của trường đai học y khoa vậy.

Thiệt là quá đã, và … quá đáng!

Rõ ràng là cách mạng Việt Nam đã tạo ra thêm một … Giai Cấp Mới (nữa). Khác với giai cấp mới đỏ au – phát sinh cùng thời – những người bán vé số hôm nay dù hành nghề có “phương án” (cẩn thận) và vẫn thường gọi nhau là đồng nghiệp (tử tế) nhưng họ lại rất đen đủi, lam lũ và đông đảo hơn mức cần thiết rất nhiều.

Nếu đã có lúc dân Việt cứ bước ra ngõ là gặp anh hùng thì nay họ lại gặp những người chào mời vé số, theo như tường trình của thông tín viên RFA:

Chỉ riêng thành phố Sài Gòn, lượng người bán vé số đông lên cả vài ngàn người, họ đến từ thập phương, cũng có người xuất thân là công nhân nhà máy, xí nghiệp, vì tai nạn lao động hoặc vì mất sức lao động, bệnh tật, phải nghỉ việc và chuyển sang bán vé số kiếm cơm độ nhật. Ngồi quán cà phê vỉa hè 58 – Trần Quốc Thảo, quận 1, trong vòng nửa giờ đồng hồ, đã đếm được 16 người bán vé số đến mời, già có, trẻ có, bệnh tật có, nhưng xót xa nhất vẫn là những em bé tuổi chưa đầy 15, học hành dở dang hoặc vừa đi học vừa bán vé số kiếm tiền phụ giúp cha mẹ.

Ngành kinh doanh vé số được đánh giá là ngành siêu lợi nhuận… Trung bình, mỗi tỉnh có từ 20 đến 30 đại lý, mỗi đại lý có từ 30 dến 40 người đi bán, mỗi ngày, một đại lý tiêu thụ trung bình 2000 tờ vé, như vậy, doanh thu trung bình mỗi ngày là 600 triệu đồng.

Với mức thu nhập bình quân mỗi ngày từ vài chục ngàn đồng cho đến một trăm ngàn đồng. Mức một trăm ngàn đồng là mức may mắn của người bán vé, hiếm khi họ kiếm được số tiền lãi này, vì để có nó, người bán phải bán được 100 tấm vé giá 10 ngàn đồng cho một ngày. Nhưng đây là con số rất khó đạt được, chỉ có những người bán vé cho ngày mai ngay trong buổi chiều hôm nay mới có cơ may kiếm được số lượng này.

Nghĩa là buổi sáng, họ thức dậy lúc 5h, ăn uống qua loa và lên đường, lang thang hết quán cà phê này sáng quán ăn nọ để chào mời vé số, 4 giờ chiều trả vé, lấy tiếp vé ngày mai đi bán cho đến 9 giờ tối. Đương nhiên, để kiếm được chén cơm, manh áo, họ phải chấp nhận sự khó chịu, thậm chí những lời thóa mạ của khách vì bị quấy rầy, mời mọc trong lúc đang ăn. Nhưng nếu nhìn kĩ, người bán vé số cũng không có cơ hội mời chào khác ngoài việc đi từ bàn ăn này đến bàn ăn khác hoặc từ bàn cà phê này đến bàn cà phê khác để mời.

Ngành kinh doanh vé số được đánh giá là ngành siêu lợi nhuận, chi phí in ấn một tờ vé số không bao giờ vượt tới mức giá 500 đồng, chi phí trả cho người phát hành vé số, từ đại lý cấp 1 cho đến người bán là 1.300 đồng, trong đó, đại lý được hưởng 3% trên giá vé số, người bán được hưởng 10%. Như vậy, tổng số tiền lãi công ty nhận trên một tờ vé số sẽ là 8.200 đồng. Trung bình, mỗi tỉnh có từ 20 đến 30 đại lý, mỗi đại lý có từ 30 dến 40 người đi bán, mỗi ngày, một đại lý tiêu thụ trung bình 2000 tờ vé, như vậy, doanh thu trung bình mỗi ngày là 600 triệu đồng, khấu trừ 13%, con số còn lại vẫn ở mức 492 triệu đồng.

Riêng về khoản tiền thuế đóng cho ngân sách nhà nước, con số này không ổn định và cũng không minh bạch do sự co giãn giữa mối quan hệ ăn chia, thân bằng quyến thuộc trong bộ máy cầm quyền và chỉ số thuế qui định đã được phù phép cho nhỏ lại… Cũng chính vì lẽ này, phần đông nhân viên và ban bệ trong ngành xổ số kiến thiết đều là đảng viên Cộng sản và có người thân làm quan chức cấp cao trong bộ máy nhà nước.

Tôi e rằng mình, cùng nhiều người khác, đã hiểu lầm câu nói (“bán vé số ở Việt Nam có thu nhập cao”) của ông Giàng Seo Phử. Khi phát biểu như trên, ông Bộ Trưởng chỉ có ý muốn đề cập đến những đại lý bán vé số của những người có “mối quan hệ ăn chia, thân bằng quyến thuộc trong bộ máy cầm quyền” thôi. Họ cũng “đều là đảng viên Cộng sản và có người thân làm quan chức cấp cao trong bộ máy nhà nước” hết trơn hết trọi. Chớ đâu phải là cái thứ thường dân dấm dớ, cỡ tui, cha nội!

Thiệt là một sự hiểu lầm tai hại, chết người, chớ không phải giỡn. Mà đời về chiều, và đã đến nước này rồi thì tui cũng đành phải chết thôi. Thôi thì nhẩy mẹ nó xuống cầu Golden Gate, ở San Francisco, chết quách cho rồi. Chớ lặn lội về tới cố hương rồi đi chào mời vé số – từ  5 giờ sáng đến 9 giờ tối – chỉ để kiếm được vài ba Mỹ Kim thì chắc chỉ chừng hai ngày sau là tui sẽ nhẩy cầu Rồng, hay cầu Bình Lợi thôi hà.

https://www.diendantheky.net

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Cụ Nguyễn  (1838 – 10/27/1868)

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Cụ Nguyễn (1838 – 10/27/1868)

Tôi chạy xe lôi ở Rạch Giá một thời gian (không ngắn) nên rất rành đường xá nơi cái thị xã nhỏ bé này. Con lộ chính của thành phố, Nguyễn Trung Trực, bắt đầu từ bến xe Lạc Hồng và chấm dứt bên này Cầu Đúc. Từ bên kia cầu là đường Phó Điều, tên gọi đầy đủ là Phó Cơ Điều, dẫn đến chợ Nhà Lồng.

Trên nóc chợ có dựng tượng Nguyễn Trung Trực bằng đồng. Pho tượng nhỏ, kích thước chỉ bằng một người thường, và không có đường nét nào đặc biệt, ngoại trừ đôi mắt. Ngó buồn thảm thiết!

Khi neo xe chờ khách trước chợ, đôi lúc, tôi vẫn trộm nhìn cụ Nguyễn mà không khỏi có thoáng chút ngại ngùng. Trăm người bán, vạn người mua. Thiên hạ chen lấn lúc nhúc mà sao tôi vẫn cứ “ngại” là ổng “buồn” mình, chớ không phải là ai khác.

Có giai thoại rằng trước khi bị giặc Pháp chém đầu, Nguyễn Trung Trực đã xuất khẩu mấy câu thơ đầy hào khí: Thư kiếm tùng nhung tự thiếu niên/ Yêu gian đàm khí hữu long tuyền/ Anh hùng nhược ngộ vô dung địa/ Bảo hận thâm cừu bất đái thiên. Theo việc binh nhung thuở trẻ trai/ Phong trần hăng hái tuốt gươm mài/Anh hùng gặp phải hồi không đất/ Thù hận chang chang chẳng đội trời. (Bản dịch của thi sĩ Đông Hồ).

Tôi thì e là những vần thơ khí khái trên là do hậu thế mang gán cho bậc hào kiệt vì ngưỡng mộ khí phách của đấng anh hùng, chớ Nguyễn Trung Trực (tên thật là Nguyễn Văn Lịch, thường được gọi là Hai Chơn) xuất thân là một dân chài không có học hành/học vị/học hàm chi (ráo trọi) nên đâu có lắm chữ hay nhiều lời đến thế.

Tuy thế, khi lâm vào cảnh nước mất nhà tan, ông đã khẳng khái tham gia vào việc lớn và lập nên những chiến công hiển hách (“Lửa bừng Nhựt Tảo rêm trời đất/ Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần”) làm nức lòng người.

Còn tôi thì đã từng theo học ở một trường đại học văn khoa (và tốt nghiệp từ một trường đại học võ bị) nhưng khi đất nước bị nội xâm thì cắm cúi chạy xe lôi, để kiếm sống qua ngày! Có cái thứ con dân nước Việt như thế mà cụ Nguyễn không buồn (thảm thiết) thì mới là chuyện lạ.

Nhưng buồn phiền hay vui vẻ đều là chuyện rất chủ quan, và là chuyện riêng của ổng thôi. Tôi có thân phải lo chớ. Và tôi vốn rất biết thân, biết phận nên thay vì đối mặt với cường quyền và bạo lực thì tôi … bỏ chạy – theo đúng như binh pháp: Tẩu vi thượng sách!

Tẩu đến một nơi rất an bình và phú túc nên tôi hăm hở hội nhập vào đời sống mới, và đã quên cụ Nguyễn (từ lâu) cho mãi đến hôm rồi. Hôm đó, tôi tình cờ nghe được đôi lời của một người bạn cũ (nhà văn Từ Khanh) nhắc đến ánh mắt “thao thiết” của tiền nhân:

Tôi đến vàm Nhựt Tảo thuộc tỉnh Long An vào một ngày tháng chạp… Chiều hôm sau, lúc đó đã gần 5 giờ, tôi hỏi đường lên vàm Nhựt Tảo và ‘cái tàu ông Nguyễn Trung Trực đốt của tụi Tây’…

– Chị ơi vàm Nhựt Tảo ở đâu vậy?

– Đây này! Cô gái chỉ ngay dòng sông trước mặt…

Vậy ra là tôi đang đứng ngay ngã ba sông, nơi Nguyễn Trung Trực đánh đắm chiến thuyền Espérance của Pháp năm 1861… Tôi băng qua sân rộng đến sát mép sông, thấy một cái miếu nhỏ bé, cửa miếu hướng ra bờ sông. Vòng ra mặt trước miếu nhìn vào mới biết đó là miếu ngũ hành, cả gian miếu âm u chập chờn.

Tôi bước vào miếu, tự dưng xương sống lạnh buốt như đang bước vào một nơi nhiều âm khí dù trời chưa tối hẳn. Không gian trong ngôi miếu nhỏ tịch mịch quá, tưởng như nghe được tiếng sông chảy bên ngoài. Bên góc phải bàn thờ ngũ hành có một hộc bàn thấp lè tè, trên để tấm hình Nguyễn Trung Trực chít khăn đen, bên dưới ghi: ANH HÙNG DÂN TỘC NGUYỄN TRUNG TRỰC (1838-1868).

Nguyễn Đình Chiểu viết “Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo.” Thật là nao lòng quá. Một dũng tướng ngang dọc từ Tân An đến Rạch Giá, lập những chiến công ‘oanh thiên địa’ và ‘khấp quỷ thần’ trong lứa tuổi 20, ngay nơi chiến tích của ông cách đây 146 năm, nay chỉ có một ngôi đền xây dang dở, và một bức hình nhỏ trên một bệ thờ thấp, nằm ké trong cái miếu ngũ hành tàn tạ âm u vôi lở sơn tróc hương tàn bàn lạnh. Đôi mắt ông thao thiết nhìn ra sông, rất lặng lẽ…”

Ở quán nước sát mé sông, tôi hỏi bà chủ quán :

– Chị ạ, chắc tấm hình ông Nguyễn Trung Trực người ta thờ tạm hả chị, chờ khi cái đền lớn xây xong?

– Đâu có, cái miếu nhỏ đó hổng phải thờ ông Nguyễn Trung Trực. Mấy bữa trước có một bà dưới Rạch Giá đem hình ổng lên để thờ ké trong miếu đó!

Ủ̉a! Chuyện gì kỳ vậy cà? Sao lại phải “đem hình ổng lên để thờ ké” như vậy kìa!

Cứ theo báo chí (nhà nước) thì chính quyền địa phương cũng lo hương khói cho cụ Nguyễn chu đáo lắm mà:

Tìm hiểu thêm mới biết là tưởng vậy thôi, chớ không phải vậy đâu! Không phải vô cớ mà lòng người bất an đến độ có kẻ phải mang hình cụ Nguyễn đi tị nạn trên tuốt Long An!

Hôm 1 tháng 10 vừa qua, từ Việt Nam, blogger Gió Bấc (RFA) cho biết như sau:

  • Chính quyền tổ chức lễ giỗ của anh hùng Nguyễn Trung Trực trước ngày ông hy sinh gần nửa tháng là trái với phong tục lễ giỗ của dân tộc.
  • Không chỉ dừng lại các lấp liếm sự thật ở việc làm lễ rình rang nhưng cúng giỗ sai ngày, họ còn dựng lên và duy trì một bộ hài cốt anh hùng Nguyễn Trung Trực bị tố cáo và có nhiều dấu hiệu cho thấy là giả, họ dựng lên ngôi mộ giả thậm chí còn sáng tạo ra một chi tộc hậu duệ Nguyễn Trung Trực mà không có cơ sở thực tế, lịch sử nào.
  • Việc đưa bộ hài cốt lạ, có khả năng của một người thực dân vào mộ vị anh hùng cứu nước Nguyễn Trung Trực để cả dân tộc thờ phụng kính ngưỡng là tội ác không thể tưởng tượng được!

Rồi Gió Bấc buồn rầu kết luận: “Với nhà sản, không có lịch sử, không có tiền nhân, không có tôn vinh, tất cả đều là quân bài vụ lợi, là canh bạc bán mua.”

Ôi! Tưởng chuyện chi? Chớ đất nước, biển đảo mà chúng còn có thể mang bán được thì xá chi đến di hài hay di thể của người xưa. Đụng chuyện với cái đám “đầu trâu mặt ngựa” này thì tôi đành phải bỏ chạy thôi, dù biết rằng mình đã khiến cho cụ Nguyễn buồn – và buồn thảm thiết!

STTD Tưởng Năng Tiến- Nguyễn Duy Kiên

Nguyễn Duy Kiên

Tưởng Năng Tiến

Vài hôm trước, trước khi “toàn dân nô nức” kỷ niệm Ngày Giải Phóng Thủ Đô  (lần thứ 68) nhà thơ Hoàng Hưng đã viết một câu ngăn ngắn (và hơi khó hiểu) trên trang FB của ông: “Sắp đến ngày 10/10 ! Biết bao người con tinh hoa của Hà Nội vui mừng đón ngày ấy rồi tan nát cả đời sau ngày ấy huhu…”

Mà chả riêng gì ông nhà thơ mà còn nhiều “nhà” khác (nhà báo, nhà văn, nhà bình luận thời sự… ) cũng đã từng trải qua cái tâm tư “huhu” tương tự :

  • Lê Phú Khải : “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”, không khí hồ hởi vui tươi sau chiến thắng Điện Biên Phủ, sau hòa bình lập lại 1954 ở Hà Nội cũng như toàn miền Bắc mau chóng nhường chỗ cho những ngày ảm đạm, u ám của những cuộc ‘đấu tranh giai cấp’, của cải cách ruộng đất, dư cải tạo tư sản, đấu tố bọn “Nhân văn Giai phẩm.”
  • Nguyễn Văn Luận: “ Đỗ Mười về tiếp thu Hải phòng nói rằng các nhà tư sản vẫn được làm ăn bình thường. Một tháng sau, cha tôi bị tịch thu tài sản. Trở về Hà Nội, trắng tay, cả nhà sống trong túp lều ở ngoại ô, cha tôi đi đánh giậm, vớt tôm tép trong các ao hồ, rau cháo nuôi vợ con.”
  • Nguyễn Khải: “Một nửa nước được độc lập nhưng lòng người tan nát tài sản một đời chắt chiu của họ bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp trí thức chẳng có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn.
  • Trần Đĩnh: “Chú họ tôi ở ngã năm Nguyễn Du – Bà Triệu, một công chức lưu dụng… Tin yêu Cụ Hồ, chú ở lại cùng công nhân viên bảo vệ Sở điện nên được lưu dụng… Thình lình cắt tiêu chuẩn lưu dụng, lương tụt một nhát ngỡ như chính bản thân chú bị sập hầm.”

Riêng với “nhà nhiếp ảnh” thì còn bị nhà nước cách mạng đối xử cách riêng (khắt khe và tàn tệ  hơn nhiều) theo như ghi nhận của tác giả Nguyễn Quỳnh Hương :

Chủ nhân của những bức hình tuyệt đẹp về Hà Nội lại có một số phận nhiều buồn thương… Đam mê nhiếp ảnh từ thời trai trẻ, Nguyễn Duy Kiên là bạn ảnh cùng thời với Lê Đình Chữ, Võ An Ninh, Phạm Văn Mùi, Đỗ Huân… Ông chơi ảnh rất công phu: sắm buồng tối tại nhà, tự tay in phóng ảnh, mày mò tìm ra các kỹ xảo.

Rời hiệu thuốc là ông lại lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm của Hà Nội để ghi lại từng vẻ đẹp phong cảnh và con người, những biến chuyển thời cuộc in dấu lên từng con phố mà ông thân quen từ thơ bé.

Nguyễn Duy Kiên chụp ảnh cho Hà Nội của chính ông. Những khuôn hình nghiêm cẩn, kỹ càng  và chan chứa tình. Sau này, khi di sản tinh thần của ông đến tay những nhà chuyên môn, họ đã choáng váng vì những bức ảnh quá đẹp. Quan trọng hơn – di sản ấy còn là những sử liệu vô giá bằng hình ảnh về Hà Nội trong suốt 20 năm nhiều biến động 1940-1960.

Với 5 đứa con, người vợ đảm đang hết mực tin yêu chồng, Nguyễn Duy Kiên yên ổn với cuộc sống của mình – chỉ cần ông còn được chụp ảnh. Nhưng tai nạn đã ập đến với họ bất ngờ, để rồi tổ ấm của họ phải sẻ đàn tan nghé.

 Đó là một ngày của năm 1967, Nguyễn Duy Kiên có lệnh khám nhà. Người ta tìm thấy trong kho ảnh của ông có 1 tấm hình khỏa thân. Sau này bạn bè ông nói đó là tấm ảnh một người đến phóng nhờ buồng tối rồi để quên lại, cũng có người nói ông chụp để gửi dự thi quốc tế, vì BTC yêu cầu hồ sơ bộ ảnh phải đủ tĩnh vật- phong cảnh- chân dung và ảnh khỏa thân. Không ai biết chính xác “lý lịch”  tấm ảnh định mệnh ấy, còn Nguyễn Duy Kiên thì chỉ im lặng.  Bị kết tội chụp ảnh suy đồi cái tội đủ để làm tan nát danh dự một gia tộc.

Quá khứ đã qua, nhưng ám ảnh kinh hoàng vẫn đọng trong lời kể của bà Kiên: “Chồng tôi đau đớn lắm, nhưng ông biết thời thế, biết phận mình phải như thế. Oan khuất biết kêu ai? Nên bố cháu chỉ im lặng.

Ông bị xử điển hình, kết án 11 năm tù. Chồng tôi cải tạo tận Lào Cai- xứ rừng thiêng nước độc. Cứ nửa năm tôi và cháu lớn lại được lên thăm bố cháu một lần, đường rừng toàn đá tai mèo nhọn sắc, hai mẹ con đi bộ hàng chục cây số máu rỏ dọc đường. Mỗi lần thăm  bố cháu lại tiều tụy hơn”.

Ông bị bệnh thận, bà Miễn viết đơn xin giảm án cho chồng, Nguyễn Duy Kiên đựơc trở về với gia đình sau 8 năm thụ án. Ông về, nhớ nghề ảnh thì mang máy ra chụp loanh quanh trong nhà, ông không dám ra ngoài, bạn bè cũng e ngại không còn ai lui tới.

Đoàn tụ của họ lặng lẽ và ngậm ngùi, chẳng nỡ làm nhau đau hơn – ông không kể những ngày trên trại, bà không kể những năm tháng một mình tủi cực nuôi con. Năm 1979, ở với vợ con đựoc 4 năm thì ông mất vì sức khỏe suy kiệt. Bà Kiên vẫn rơm rớm nước mắt khi nhớ lại: “Khi bố cháu mất, danh dự vẫn chưa được rửa, ông ấy xuôi tay mà không nhắm được mắt…”

Gần nửa thế kỷ đã qua (kể từ khi Nguyễn Duy Kiên nhắm mắt xuôi tay) nhưng nỗi oan khuất của ông và tâm cảm u uẩn của bà chưa bao giờ thực sự được quan tâm hay chia sẻ bởi bất cứ ai, ngoài những lời lẽ đãi bôi của giới truyền thông nhà nước :

Báo Tiền Phong: “Trải qua bao nỗi gian truân, may mắn thay, ngần ấy năm trời, bà quả phụ Nguyễn Duy Kiên vẫn lưu giữ lành lặn được hơn 200 tác phẩm của chồng. Ấy cũng là nề nếp gia phong, nghĩa tình chung thủy của người Hà Nội xưa”.

Báo Vnexpress: “Nguyễn Duy Kiên từng là nghệ sĩ nổi tiếng trong giới nhiếp ảnh Hà Nội, cùng thời với Võ An Ninh, Phạm Văn Mùi, Nguyễn Cao Đàm… nhưng hầu như đã bị hậu thế lãng quên.”

Báo Nhịp Sống Hà Nội: Số phận đã không cho Nguyễn Duy Kiên may mắn được chụp, trưng bày và xuất bản nhiều nhưng di sản mà ông để lại là những sử liệu vô giá bằng hình ảnh về Hà Nội trong suốt 20 năm nhiều biến động 1940-1960. Đây là món quà quý giá mà ông gửi lại cho Hà Nội của chúng ta hôm nay.

Báo Nông Nghiệp: “Tiếp lửa tình yêu nghệ thuật, lưu giữ những khoảnh khắc lịch sử vô giá cho những người đang sống hôm nay, nhưng NSNA Nguyễn Duy Kiên dường như bị quên lãng. Hà Nội đã tôn vinh nhiều cá nhân, vậy mà cái tên Nguyễn Duy Kiên đến nay vẫn chưa được trân trọng đánh giá đúng với những gì ông xứng đáng được vinh danh.”

Vấn đề e không giản dị thế đâu!

Hà Nội không thể ngang nhiên mang một nghệ sỹ đi chôn sống, rồi lại thản nhiên “vinh danh” nạn nhân bằng cách in lại tác phẩm của đương sự (bằng tiền tài trợ của một công ty nước ngoài) và coi “đây là món quà quý giá mà ông gửi lại cho Hà Nội của chúng ta hôm nay.”

Hà Nội không thể chà đạp lên cuộc đời của một người dân cho đến mức bầm dập te tua rồi đổ thừa (“số phận đã không cho tác phẩm Nguyễn Duy Kiên may mắn được chụp, trưng bày và xuất bản”) tỉnh rụi như vậy được.

Hà Nội cũng không ai có thể giày xéo lên số phận của cả một gia đình, buộc một người phụ nữ đơn chiếc phải tần tảo nuôi mấy đứa con thơ, rồi xưng tụng đó là nhờ vào “nề nếp gia phong, nghĩa tình chung thủy của người Hà Nội xưa.”

Tội ác đâu có dễ lấp liếm hay che dấu như thế!

Tưởng Năng Tiến
10/2022

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Bóng hồng cửu vạn

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Bóng hồng cửu vạn

  • S Tương Lai: “Liệu làm con đà điểu rúc đầu vào cát thì có khiến cho những thảm trạng u tối đang trùm lấp cuộc sống được không nhỉ?
  • FB Nguyễn Thịnh: “Không phải tin tốt hay tin xấu mà từ góc nhìn, cách đưa tin, tức là văn hóa người viết, người duyệt bài và cả người thẩm (đọc) bài. Bộ nhất định không thể làm thay hay yêu cầu. Báo chí không thể chỉ có một tổng biên tập.”

Tôi e rằng quan niệm của nhị vị thức giả thượng dẫn có phần hơi khe khắt. Nguyễn Mạnh Hùng đưa ra con số định mức (“chỉ 10/% tin xấu”) quá thấp vì đương sự  mới nhận việc nên chưa biết rằng bộ thông tin còn có vai trò, và khả năng, định hướng nữa cơ. Nhiều tin xấu sẽ đỡ xấu xí đi (chút đỉnh) sau khi được xào xáo ngôn từ, kiểu như :

  • Cướp đất = giải phóng mặt bằng
  • Biểu tình = tụ tập đông người
  • Thuốc giả = thuốc không có khả năng trị bệnh
  • Tát = gạt tay trúng má hay nhỡ tay vung vào mặt
  • Đá = dơ chân quá cao
  • Đạp = Lấy chân tác động vào ngực
  • Ngập = tụ nước
  • Lụt = thế nước đang lên
  • Chuyến bay bị hủy hay bị chậm = bay chưa đúng giờ

Ngoài những tiểu xảo lặt vặt (vừa kể) đội ngũ của những người cầm bút ở VN hiện nay còn có “thủ thuật” biến đổi cuộc sống lam lũ, cơ cực, bần hàn của đám dân đen thành những mảnh đời … tươi sáng :

Trời! Kiếm tiền ở Việt Nam sao mà dễ ợt, vậy cà? Rảnh, xem qua cuộc “sống tốt” và cách “kiếm bạc triệu mỗi đêm” của Lực Lượng Cửu Vạn Nữ Nổi Tiếng Hà Thành” (qua ngòi bút “nhà báo” Anh Tuấn) coi sao :

Cùng với chợ Long Biên, Đồng Xuân là một trong những nơi có nhiều chị em hành nghề khuân vác hàng thuê nhất ở thủ đô. Mỗi ngày một phụ nữ phải vác hàng tấn trên vai kiếm sống. Khu vực bãi xe chợ Đồng Xuân (mặt phố Hàng Khoai, quận Hoàn Kiếm) luôn tấp nập xe chuyển hàng đến và đi từ 3h30 sáng tới 16h chiều hàng ngày, bất kể mưa nắng.

Chợ là trung tâm đầu mối các mặt hàng vải vóc, thời trang, phụ kiện may mặc lớn nhất phía Bắc. Khu vực này đặc biệt nóng khi vào đợt hàng mới trước dịp chuyển mùa nhằm phục vụ nhu cầu rất lớn tới từ các tỉnh. Đặc biệt, chợ Đồng Xuân xuất hiện nhiều nữ cửu vạn đã hơn chục năm nay. Họ khỏe và làm việc hăng say không kém các đấng mày râu. Các nữ khuân vác chia thành nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm từ hai đến năm người hỗ trợ giúp đỡ nhau làm việc.

 Đôi vai của họ khỏe như lực sĩ, có thể vác hàng chục kg. Trong bao tải cồng kềnh kia chủ yếu là vải vóc, sợi bông nên khá êm. “Làm nhiều năm nên quen, đôi chân tôi cũng linh hoạt, khéo léo hơn để di chuyển len lỏi giữa chợ đông”, chị Thanh, quê Thái Bình nói.

Có những bao tải nặng cả tạ, vai chưa đủ khỏe, các chị phải dùng tay chống ở hông cho đủ lực. Nhiều người đàn ông nhìn thấy cũng phải nể phục. Hầu hết các chị em ở đây đến từ các tỉnh Nam Định, Yên Bái, Phú Thọ, Hưng Yên…

Có người thâm niên đã hơn 10 năm. Chỉ nghỉ về quê vào dịp mùa vụ, cấy hái chăm lo đồng ruộng, xong xuôi lại vội vã lên Hà Nội mưu sinh. Mỗi một lần vác nặng từ xe đến điểm tập kết hàng như thế này các chị được trả công từ 10.000 – 20.000 đồng. Chuyển từ xe vào chợ, từ ki ốt ra xe đi tỉnh và nhặt nhạnh các chuyến nhỏ cho khách lẻ.

Các chị chia sẻ, may mắn là hầu như chẳng bao giờ đau ốm, cùng lắm chỉ sụt sùi, cảm nhẹ một ngày là khỏi. “Chỉ cần đau yếu hoặc nghỉ làm mấy ngày, khi quay lại công việc sẽ vô cùng khó nhọc, đau nhức người và quan trọng là mất đi một khoản thu nhập”, một chị nói.

Chị em luôn có một cuốn sổ nhỏ ghi chép các chuyến hàng cho từng ki ốt khác nhau để cuối ngày thanh toán. Ngày nào nhiều việc, có người kiếm được 500.000 đồng đến 700.000 đồng, ngày ít chỉ được hơn 100.000 đồng. “Văn phòng” làm việc cũng như chỗ nghỉ ngơi khi rảnh rang của họ chính là hành lang cầu thang lên xuống tại cổng chợ.

Mỗi chị em trừ tiền thuê trọ, sinh hoạt hay ăn uống hàng ngày, tằn tiện cũng để ra được từ 5 đến 7 triệu đồng tiết kiệm mỗi tháng, người nào ít thì chỉ được 3 đến 4 triệu đồng.

Chị Phạm Thị Thập làm phu vác ở chợ Đồng Xuân đã được gần 10 năm. Người phu nữ đến từ Hưng Yên có gia đình và hai con nhỏ ở quê nhà, tuy nhiên phải đôi ba tháng chị mới về một lần. Những lúc nhàn rỗi chờ việc chị lại mang kim chỉ ra thêu thùa tranh và khăn dành tặng cho chồng con ở nhà.

Thiệt là lãng mạn hết biết luôn. Thảo nào mà gần đây trong ngôn từ của báo chí nước nhà mới có thêm cụm từ rất thơ mộng là bóng hồng cửu vạn. Ngó mấy cái “bóng hồng” này đang gồng gánh, khiêng vác “những bao tải nặng cả tạ” trên hè phố Hà Nội hay Sài Gòn khiến tôi thốt nhớ đến hình ảnh của những bông hoa nở giữa chiến trườngnhững  bông hoa trên tuyến lửa (và những đoá hoa lan trong rừng cháy) trên Đường Trường Sơn – hồi giữa thế kỷ trước – khi cuộc chiến chưa tàn.

Thay những danh xưng hoa hoè hoa sói (vừa kể ) thì họ có tên gọi trần trụi, và chính xác, là Lực Lượng Nữ Dân Công Hoả Tuyến (*). Chính lực lượng này đã đảm nhiệm phần lớn việc chuyển tải lương thực, quân cụ, vũ khí để giải phóng miền Nam.

Hơn bốn mươi năm sau, sau khi vùng đất này được hoàn toàn giải phóng (và đất nước sạch bóng quân thù) thì đám con cháu của những bông hoa trên tuyến lửa, hay những đoá hoa lan trong rừng cháy trở thành những bóng hồng cửu vạn giữa Thủ Đô Của Lương Tâm Nhân Loại và Hòn Ngọc Viễn Đông!

Với truyền thống định hướng bằng hoa ngôn xảo ngữ của bộ TT&TT của xứ ta thì Tân Bộ Trưởng Nguyễn Mạnh Hùng chả phải lo xa đến chuyện định mức bao nhiêu phần trăm tin tốt hay tin xấu. Ở đất nước CHXNCNVN (Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc) thì có tin tức và hình ảnh nào mà xấu được mà lo, cha nội!

——————-

 (*) Có thể xem thêm thiên tiểu luận Death and Suffering at First Hand: Youth Shock Brigades during the Vietnam War (1950–1975) [Trực Diện Với Cái Chết Và Nỗi Đau: Vấn Đề Thanh Niên Xung Phong Trong Chiến Tranh Việt Nam (1950-1975) ] của François Guillemot – do Phương Hoà chuyển ngữ – đã đăng thành nhiều kỳ trên diễn đàn talawas, vào năm 2010.

Quảng Bình- STTD Tưởng năng Tiến

Quảng Bình

Tưởng năng Tiến

Gần nửa thế kỷ qua, tôi sống loanh quanh trong lòng Vùng Vịnh (The Bay Area) nơi có những thành phố nổi tiếng được nhiều người biết đến hay tìm đến: Berkeley, Oakland, Palo Alto, San Jose, San Francisco (S.F) …  Vùng này khí hậu ôn hoà, việc làm tương đối dễ kiếm, và chả ai bị kỳ thị cả vì không sắc tộc nào được coi là đa số – kể cả đám dân da trắng.

Chỉ có điều hơi rầy rà là Vịnh S.F – cái eo thông ra Thái Bình Dương – được nối bởi một cái cầu treo kỳ vỹ (khánh thành từ năm 1937) khiến lắm kẻ hiếu kỳ, muốn đến ngó qua một chút, và chụp năm ba tấm ảnh để … khoe chơi! Chính vì thế nên Golden Gate Bridge đã gây ra lắm chuyện phiền hà, cho không ít cư dân địa phương – nhất là những người tị nạn!

Phiền nhất là cứ đang ngon giấc thì điện thoại reo. Bên kia đầu dây là giọng của ông (hay bà) đồng hương lạ hoắc, hớn hở gọi từ một nơi xa lắc/xa lơ nào đó :

  • A lô …
  • May quá cứ sợ là bác không có nhà, đang còn ở Miên, bên Miến hay bên Lào gì  chứ?
  • Xin lỗi ….
  • Ối Giời! Thế bác quên chúng em rồi à? Mấy năm trước, có lần bác đã ghé qua nhà và uống rượu với chồng em đến tận sáng luôn đấy. Nhớ không?

Có mấy đêm mà tôi không ngồi tì tì cho đến khi gần sáng, kể cả khi chỉ uống mình ên. Đã thế, tôi lại còn có thói hay đi giang hồ (vặt) nên làm sao nhớ được hết những ân nhân đã rộng lòng cho mình ăn nhờ ở đậu – đôi ngày. Ân tình này làm sao mà quên được nên tôi liền vội vàng và vồn vã, dù vẫn “chưa nhớ” tên họ của người đối thoại :

  • Dạ … nhớ, nhớ quá đi chứ!
  • Chả là thế này nhá. Gia đình em sắp ghé S.F, đã đặt khách sạn rồi đấy nhưng xe cộ thì không có mà đường xá cũng chưa quen nên nếu rỗi thì xin bác cho chúng em đi thăm thú đôi nơi nhá?

Thiên hạ ai mà chả biết tôi là một thằng rách việc, thất nghiệp dài dài, có chuyện mẹ gì làm đâu mà không rảnh (quanh năm) nên vô phương thoái thác :

  • Vâng ạ!

Tôi “ạ̣/vâng” rất nhẹ và rất khẽ, nghe cứ như một tiếng thở dài (cố nén) nên không mấy ai đủ tinh tế để nhận ra cái nỗi khổ tâm của một người di tản (buồn) sống trong Vùng Vịnh. Khỏi hỏi thì cũng biết nơi khách tự phương xa muốn đến “tham quan” là Golden Gate Bridge (Kim Môn Kiều) chớ còn đâu nữa.

Bất kể khí hậu/ thời tiết (mưa gió – bão bùng – sấm chớp – giông tố) ra sao, không sớm thì muộn, thế nào người bạn viễn phương cũng thỏ thẻ ngỏ lời :

  • Bác bấm cho mấy bô hình nhá…
  • Giời ơi! Sương mù dầy đặc thế này mà ….
  • Kệ! Mù thế chứ mù hơn nữa cũng mặc, chả lẽ đã đến được tận đây mà lại không chụp cái ảnh nào thì nói ai tin!

Tôi chết được chứ chả bỡn đâu, Giời ạ (*)! Sau hàng trăm lần chết đi (sống lại) như thế, tôi đâm ra có ác cảm với cái cầu treo, rồi ghét lây luôn cả Cựu Kim Sơn – dù biết rằng bao nhiêu triệu người đã để lại trái tim nơi thành phố mù sương và dễ thương này :  

I left my heart in San Francisco
High on a hill, it calls to me
To be where little cable cars climb halfway to the stars
The morning fog may chill the air, I don’t care
My love waits there in San Francisco …

Tôi chả có mối tình lớn/nhỏ nào ở S.F cả nên dù đã nghe bản nhạc (cả trăm lần) rồi nhưng không thấy chút “effect” hay cảm xúc nào ráo trọi. Thay vì mê mệt giọng ca bạc triệu (I left my heart in San Francisco ..) của Tony Bennett hay Frank Sinatra, tôi lại chỉ mết (và kết) tiế́ng hát của Thái Thanh thôi :

Làng tôi không xa kinh kỳ sáng chói
Có những cánh đồng cát dài
Có lũy tre già tả tơi
Ruộng khô có những ông già rách vai
Cuốc đất bên đàn trẻ gầy
Có người bừa thay trâu cầy

Bình minh khi sương rơi mờ trên rẫy
Thấp thoáng bóng người bên ngòi
Tát nước với giọt mồ hôi
Chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai
Hiu hắt tiếng bà mẹ cười
Vui vì nồi cơm ngô đầy… (Phạm Duy – Quê Nghèo)

Theo nhà phê bình văn học Đặng Tiến, tác phẩm này được viết tại Quảng Bình (Q.B) vào năm 1948. Tuy khá lâu sau tôi mới cất tiếng khóc chào đời nhưng Quê Nghèo qua giọng ca như ru của mẹ – dường như – đã in mãi hình ảnh của những buổi chiều rơi thoi thóp, những ông già rách vai cuốc đất bên đàn trẻ gầy (cùng với tiếng thở dài của o nghèo giữa đêm khuya thanh vắng) vào trí óc của đứa bé thơ, từ thuở nằm nôi.

Tôi hoàn toàn chia sẻ với Carl Jung về ý niệm vô thức cộng thông (collective unconcious) hay còn gọi là vô thức tập thể. Tôi cũng thành thực tin rằng nỗi bi thương và sự khốn khó của Q.B đã ẩn sẵn trong tiềm thức và máu huyết của mình (ngay khi còn trong bụng mẹ) nên trái tim tôi đã để ở Q.B lúc mới lọt lòng – dù chưa bao giờ có cơ may được đặt chân đến mảnh đất gầy này.

Mãi đến gần giữa đời, tôi mới lò dò tới S.F. Thành phố này, nói nào ngay, cũng là nơi đáng sống và đáng yêu (nhất là những sáng mù sương, chả khác chi Đà Lạt sương mù cả) nhưng tôi chả có duyên nợ gì với nó cả vì đã lỡ để tim mình ở một nơi xa xôi khác mất rồi!

Q.B không chỉ nổi tiếng vì nghèo mà còn được biết đến như là một vùng đất của lắm huyền thoại nữa, theo như tin tức của giới truyền thông thuộc nhà nước hiện hành :

  Quảng Bình niềm tin chiến thắng  

  Bến phà Xuân Sơn Quảng Bình – nơi ghi dấu lịch sử oai hùng

Tuy chuyện chi cũng sẵn sàng “hy sinh,” và cũng đều “giỏi” tuốt nhưng cuộc sống của người dân Q.B chưa bao giờ được an bình và no đủ cả – vào bất cứ thời nào :

Tin tức và hình ảnh mới nhất về Q.B vừa được ghi lại bởi FB Thận Nhiên, vào hôm 21 tháng 9 năm 2022, sau một chuyến thăm quê :

Từ làng của nhà ngoại, đi chừng 3 cây số là đến nhà của đại tướng Võ Nguyên Giáp, cách đó cũng không xa, là nhà của tổng thống Ngô Đình Diệm. Tôi đến viếng nhà ông Giáp, nhưng thấy tôi cầm máy ảnh thì người bảo vệ làm khó, tôi trở ra, không vào. Chừng vài trăm mét, tôi gặp một người đàn bà lặn hụp mò ốc dưới ao… Sao sau bao nhiêu xương máu đổ xuống nơi này mà tương lai vẫn nằm ở phía sau lưng?

Tôi cũng đã từng nhìn thấy “tương lai nằm ở phía sau lưng” của người mình tại Biển Hồ, bên nước láng giềng Cam Bốt. Khí hậu biến đổi, cùng vô số những con đập ở thượng nguồn trên sông Mê Kông, đã khiến cho Tonle Sap Lake đang dần cạn nước. Cá tôm cũng mất dần theo nên đám dân Việt, trôi sông lạc chợ ở nơi đây, cũng đang phải xoay ra bắt ốc để sống qua ngày.

Họ sống thêm được bao lâu nữa thì chỉ có Trời mới biết. Và chắc ngay cả đến Trời cũng không thể trả lời câu hỏi (thượng dẫn) của nhà văn Thận Nhiên: Sao sau bao nhiêu xương máu đổ xuống nơi này mà người dân Q.B vẫn phải lặn hụp mò ốc (dưới ao) cứ như thể là họ vẫn còn đang sống trong cảnh tối tăm, giữa Đêm Trường Trung Cổ vậy?

TNT

 (*) “Tôi chết được chứ chả bỡn đâu, Giời ạ!” Tôi không nhớ rõ là mình đã “lượm” được cái câu này ở đâu nữa. Có lẽ trong cuốn Bắt Trẻ Đồng Xanh. Nguyên tác The Catcher in the Rye (J.D Salinger) bản tiếng Việt của Phùng Khánh, Thanh Hiên xuất bản vào năm 1967.