S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Đêm cuối năm nghĩ về Hà Nội

Báo Đàn Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Tôi được nghe Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội (thơ Hoàng Anh Tuấn, nhạc Phạm Đình Chương) từ thuở ấu thơ: Mưa hoàng hôn/ Trên thành phố buồn gió heo may vào hồn/ Mưa ngày nay/ Như lệ khóc đất quê hương tù đày…

Sao “phần đất quê hương” này lại bị “tù đầy” và có lắm người thốt lên những lời ai oán, thê thiết, đắng cay đến thế : Lìa xa thành đô yêu dấu/ một sớm khi heo may về/ Lòng khách tha hương vương sầu thương / Nhìn em mờ trong mây khói/ bước đi nhưng chưa nỡ rời/ lệ sầu tràn mi/ đượm men cay đắng biệt ly… (Vũ Thành. Giấc Mơ Hồi Hương: nxb Tinh Hoa Miền Nam, 1959).

Rồi Bắc/Nam thống nhất, Nam/Bắc hòa lời ca nhưng tất cả những nhân vật thượng dẫn (Hoàng Anh Tuấn, Phạm Đình Chương, Vũ Thành …) đều ù té đâm xầm ra biển, hốt hoảng bỏ của chạy lấy người, quên tuốt cái “giấc mơ hồi hương” mà họ đã từng ôm ấp chưa lâu – trước đó.

Kẻ ở lại, Nguyễn Ngọc Lan – sau chuyến hồi hương vào năm 1975 –  đã tỉ mỉ ghi lại cảm xúc của mình, trong một tập hồi ký ( Hà Nội Của Tôi Thế Đó ) không được xuất bản. Lý do, theo lời của tác giả : “Các ông to bà lớn đầy mặc cảm bực bội, khó chịu … người ta không hãnh diện về cái nghèo của Hà Nội.” Còn theo dư luận thì vấn đề, chả qua, chỉ vì lỗi của thằng đánh máy. Nó bỏ dấu sai: Hà Nội Tội Thế Đó, Hà Nội Tồi Thế Đó, Hà Nội Tối Thế Đó …

Thế nà thế lào?

Phải đợi thêm gần hai thập niên nữa, khi đất nước chuẩn bị bước vào Thời Kỳ Đổi Mới (và giới văn nghệ sỹ được tạm thời cởi trói) người dân – cả ba miền – mới có cơ hội đọc được những phát biểu khách quan về Thủ Đô Của Lương Tri & Phẩm Giá Con Người. Xin ghi lại một vài, theo thứ tự (abc) alphabétique :

  • Phạm Xuân Đài: “Lời ăn tiếng nói lễ độ cũng khó gặp, chứ đừng nói gì đến văn vẻ… Một cô gái có thể nói oang oang giữa chợ: Nó rủ tao đi nhưng tao đ… đi/ Sáng nay mẹ mày qua xin lửa bố tao, bố tao đ… cho.

Một cái gì đó đã phá vỡ lòng tin của con người rằng xã hội luôn luôn cố gắng đem lại sự tốt đẹp cho mình, và chính mình phải có bổn phận phải gìn giữ các công trình xã hội để mình và mọi người cùng hưởng. Người ta thẳng tay cắt dây điện để bán lấy chút tiền, có thể đốt hết một kho hàng hoá để phi tang cho một vật ăn cắp không đáng là bao… con người đối xử với xã hội thô bạo như vậy chỉ vì xã hội đã đối xử với họ tệ quá.” (Phạm Xuân Đài. Hà Nội Trong Mắt Tôi. Thế Kỷ 21: Hoa Kỳ 1994).

  Bùi Bích Hà: “Những đứa bé trai và gái bưng thức ăn cho khách vẫn là những đứa bé đã được mô tả trong tiểu thuyết Nam Cao hay Trương Tửu cách đây năm sáu thập niên, còm cõi, nhọc nhằn, cơ cực, chỉ biết cúi đầu vâng dạ và sống quen với lo âu, sợ hãi…Những anh chị phu hồ vẫn làm việc bằng những cung cách từ nửa thế kỷ trước. Họ chuyền tay nhau mọi thứ vật liệu. Cát, đá và sạn đựng trong những cái rổ, đà gỗ vác trên vai. Một ngày dầm mưa hay đổ mồ hôi như thế của một người phu hồ trị giá một đô la và một bữa ăn trưa thanh đạm. Hơn một phần tư thế kỷ thực hiện ‘chủ nghĩa xã hội ưu việt’ trong nước, hơn một phần tư thế kỷ kêu gào tự do và nhân quyền của khối người việt lưu vong hải ngoại, chẳng có chút ánh sáng nào rọi vào những góc đời phiền muộn tối tăm này.” (Bùi Bích Hà, “Nhìn Lại Quê Hương,” Thế Kỷ 21, Sep. 2003:63-65).

– Tô Hoài: “Nhà em bảo em lên ở Hà Nội. Giàu có nhà quê không bằng ngồi lê Kẻ Chợ, vẫn đồn thế mà. Người hèn đớn cũng kiếm được, không mất bữa. Gánh đồng nát mà lãi quan viên. Nhà em bảo thế, em cũng đã lên xem sao… Mỗi tối thuê cái chiếu nằm gầm cầu, có tiền bạc của nả thì gối đầu, giắt lên ngực. Bốn bên lủng củng người nằm, nói anh bỏ lỗi, nó đéo nhau huỳnh huỵch rồi lại chửi nhau, quát nhau to tiếng hơn ô tô chạy ngoài đường. Cả đêm không tải nào chợp mắt, ăn cơm lại oẹ ra, ốm đến nơi. Thế là cút ngay. Thuê kẹo em cũng không bao giờ dám lên Hà Nội nữa. (Tô Hoài. Chiều Chiều. Nxb Hội Nhà Văn: Hà Nội 1999).

  • Phùng Quán: “Có nơi nào trên trái đất này/Mật độ đắng cay như ở đây/
    Chín người – mười cuộc đời rạn vỡ/Bị ruồng bỏ và bị lưu đầy…

Rõ ràng là … đất dữ! Tuy nhiên, đó là Hà Nội của một thời đã qua rồi – tự thế kỷ trước lận. Sau khi Đảng và Nhà Nước anh dũng và quyết tâm đổi mới, Chính Phủ Cách Mạng Công Nghiệp 4.0 đã ra đời. Hà Nội hiện nay đã hoàn toàn biến đổi, văn minh chưa từng thấy. Báo chí trong nước vừa đồng loạt và hân hoan ghi nhận một hình ảnh đẹp, khiến nhân dân thủ đô vỡ oà trong niềm vui và hạnh phúc lâng lâng :

“Hai người tham gia giao thông nghiêm chỉnh chấp hành đèn tín hiệu trên trục đường Đại Cồ Việt – Phố Huế. Bức ảnh hai người đàn ông đi xe máy dừng chờ đèn đỏ giữa đêm khuya ở Hà Nội nhận được sự tán dương và chia sẻ mạnh mẽ. Bottom of Form

Trong đó, nhiều người còn khẳng khái cho rằng: ‘Dù là người lao động, đi xe máy nhưng ý thức của hai người đàn ông này còn hơn rất nhiều người đi xe sang nhưng thường xuyên vượt đèn đỏ, lấn làn, cản trở giao thông của các phương tiện khác’.

Theo TS. Đức, để giao thông Việt Nam có nhiều tấm hình đẹp như bức ảnh hai người dừng chờ đèn đỏ giữa đêm khuya đang gây ‘bão’ mạng xã hội, các cơ quan chức năng cần tăng cường lực lượng chốt trực, lưu động trên đường, nghiên cứu đầu tư hệ thống thiết bị giao thông thông minh giám sát, kiên quyết không bỏ lọt vi phạm, phải tổ chức các đợt cao điểm để tạo sự răn đe, nâng cao ý thức của người dân.”

Cơn “bão mạng xã hội” vừa đi qua Hà Nội, vào những ngày cuối năm, khiến tôi nhớ đến những con sóng nhỏ lăn tăn trong lòng một tù nhân lương tâm VN (Anh Ba Sàm – Nguyễn Hữu Vinh) khi ông bước chân đến Sài Gòn, hồi cuối thế kỷ trước :

“Sau 1975, có những thứ mà Sài Gòn, miền Nam làm cho hắn rất lạ và không thể quên. Một đêm, chạy xe máy về nhà (ông cậu), tới ngã tư đèn đỏ, ngó hai bên đường vắng hoe, hắn rồ ga tính vọt thẳng. Bất ngờ nghe bên tai tiếng thắng xe cái rẹc, liếc qua thấy ông lão với chiếc xích lô trống không. Quê quá, phải dừng theo! Nhiều năm sau, ở Hà Nội, những ngã tư đông đúc như Tràng Tiền-Hàng Bài, ngoài một chú cảnh sát đứng bục, thường phải thêm  4 chú cầm gậy chặn bốn phía, lùa, đuổi mà cũng không xuể.”

Bữa nay thì kể như êm. Lùa, đuổi “xuể” là cái chắc. Khoảnh khắc lịch sử đã ghi: vào lúc 1 giờ sáng ngày 24 tháng 12 năm 2019, ít nhất, đã có hai người đàn ông đi xe máy dừng chờ đèn đỏ ở Hà Nội rồi. Thiệt là “khẳng khái” và quí hoá biết chừng nào.

2019 – 1975: 44 năm, chưa tới nửa thế kỷ, khoảng thời gian tuy không dài lắm nhưng vẫn đủ để Hà Nội bắt kịp Sài Gòn. Thêm năm mươi năm nữa, đến cuối thế kỷ này, không ai có thể đoán được rồi cả nước sẽ “rót” về đâu – kể cả đồng chí TBT. Riêng tôi, đêm nay, chắc phải “rót” thêm rất nhiều chén nữa.

01/2020

S.T.T. D Tưởng Năng Tiến – Tù tây & tù ta

Báo Đàn Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

30/12/2022

Cũng như Cát Bụi Chân Ai, tác phẩm Chiều Chiều rất được công luận quan tâm cùng không ít những lời tán thưởng:

  • Nguyễn Sỹ Đại: “Tô Hoài sinh ra để viết.”
  • Đặng Tiến: “Ở các tác phẩm trước, Tô Hoài thường bao che, bào chữa, như là một hồi ký bao cấp. Đến Chiều Chiều, giọng kể nghiêm nghị hơn về đời sống chính trị và văn nghệ ngột ngạt những năm 1955-1970, về những sai lầm trong chính sách Cải cách ruộng đất, về những đợt học tập chiếu lệ ở trường Đảng cao cấp là trường Nguyễn Ái Quốc …”
  • Hoàng Khởi Phong: Cát bụi chân ailà một tác phẩm có nằm trong lãnh vực phản kháng hay không khoan hãy xét tới. Nó là một tập hồi ký nên chỉ có vấn đề trung thực hay giả dối là quan trọng… Nó đã được viết như những lời thì thầm trong bóng tối, những lời thật thà mà vì sợ hãi quá lâu không dám nói to… Con chim sắp chết cất tiếng bi ai, con người sắp chết nói lời nói thật. Huống hồ Tô Hoài là một nhà văn, lại có tài!”

Tôi hoàn toàn và tuyệt đối không dám nghi ngờ chi về tài năng của ông, chỉ có hơi nghi ngại, và thoáng chút ngỡ ngàng (vì dăm ba câu chữ) thôi:

Phùng Cung bị bắt khi nhân văn, nhân võ đã được dọn dẹp yên ắng, đã tàn… Tôi không thể tưởng tượng ra được một Phùng Cung thế nào mà bị bắt… Lại hơn mười năm sau. Chặp tối, một người bước vào cửa. Dáng ủ rũ, mặt tái ngoét, không phải Phùng Cung mà là cái bóng Phùng Cung trên tờ giấy tẩy chì mờ mờ.

– Phùng Cung phải không?

– Tôi đây.

– Còn sống về được a?

– Cũng không hiểu tại sao, anh ạ.

Phùng Cung hỏi tôi:

– Anh có biết tôi phải giam bao nhiêu năm?

– Không biết.

– Vâng, mười một năm tù biệt giam.

Đã tù lại biệt giam, lại bệnh lao, thế mà không chết rũ tù.” (Tô Hoài. Cát Bụi Chân Ai. Hà Nội: Hội Nhà Văn, 1992).

Nửa thế kỷ sau – sau “khi nhân văn, nhân võ đã được dọn dẹp yên ắng” – nhưng sự hậm hực của Tô Hoài về những đồng nghiệp (không may) xem chừng vẫn chưa “yên ắng” lắm. Lối viết cường điệu, theo tiêu chuẩn của thời bao cấp –  xem ra –  cũng không thay đổi chi nhiều :

“Thói quen người Mỹ, bữa ăn thịnh soạn nửa đêm có món thịt gà tây – như ta Tết ông táo cúng cá chép… Thế mà những năm ấy, nhiều làng hai bên sông Đuống, hợp tác xã, đã chuyển ruộng cho các xóm khác để chuyên nuôi gà tây. Đến áp Nôen, hàng đoàn xe tải số biển đỏ của quân đội về lấy gà. Gà tây đem cho tù binh Mỹ ăn tết.”

Trời! Chỉ có vài trăm tù binh Mỹ thôi mà “hàng đoàn xe tải về lấy gà cho tù binh Mỹ ăn tết.” Ăn uống kiểu đó thì bội thực chắc chết, chết chắc, chớ sống gì nổi – cha nội?

Văn phong của một ngòi bút lớn, viết vào lúc cuối đời (“con người sắp chết nói lời nói thật”) mà sao cứ xoen xoét như một anh cán bộ tuyên huấn hay một chị bí thư chi bộ vậy đó. Mà Đại Tá Trần Trọng Duyệt thì đúng là bí thư chi bộ trại Hỏa Lò, và miệng lưỡi của ông – rõ ràng – nghe có thơn thớt thật: “Trên thế giới, có lẽ không có nước nào đối xử với tù binh Mỹ tốt như ở nước ta. Đó là nhờ truyền thống khoan hồng và nhân đạo đã có từ hàng ngàn năm trước của dân tộc ta.”

Chưa hết, quý ông “nhà báo” còn thêm mắm/dặm muối cho câu chuyện Hỏa Lò được thêm phần đậm đà và hấp dẫn :

“Để thay đổi không khí cho các tù binh đã phải ở trong trại lâu ngày, được sự phối hợp giúp đỡ của Công an Hà Nội và An ninh Quân đội, Ban chỉ huy trại còn nhiều lần tổ chức cho các tù binh đi tham quan một số di tích lịch sử, văn hóa và danh thắng của Thủ đô Hà Nội như: Hồ Hoàn Kiếm, Công viên Lê Nin, Quốc tử giám, chùa Trấn Quốc, chùa Một Cột, Viện Bảo tàng Quân đội (nay là Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam), bệnh viện Bạch Mai…

Để bảo đảm an toàn cho những ‘vị khách đặc biệt’ này, ta đã cho phép các tù binh ăn mặc như khách du lịch: Cũng comlê, cavát, giày đen v.v… ” (Đặng Vương Hưng & Nguyễn Văn Tường. Cuộc Sống Thường Ngày Của Tù Binh Mỹ Tại Hoả Lò Hơn Bốn Mươi Năm Trước – Báo Người Đưa Tin 8/10/2013).

Thiệt là quá đã và quá đáng!

Cũng bị giam giữ tại Hoả Lò (vào cùng thời điểm) nhưng sinh hoạt của một người tù Việt Nam lại hoàn toàn khác: chả thấy ổng được mặc complet, đeo cravate và đi tham quan lần nào cả:

“Hắn cởi truồng nằm trong xà lim, thiếp đi vì nóng. Và choàng tỉnh vì nóng. Người hầm hập. Mồ hôi toát ra. Hắn nhỏm dậy nhìn vết mồ hôi in thẫm trên những tấm ván lim thành hình một bộ xương người…

Tiêu chuẩn nước tắm của mình: Nửa lít bớt ra từ khoản nước uống. Nhúng khăn mặt vào ca. Lau. Lau từ mặt xuống cổ. Lau từ cổ xuống ngực. Xuống bụng. Dấp nước khăn mặt, rồi khoanh tay đập, đập vã vào lưng. Rồi lau xuống bẹn, xuống chân, cho đến khi cái khăn mặt nóng lên thì vắt nước đi. Vắt vào cái nắp bô vệ sinh để ngừa cho khỏi bắn nước bẩn vào bô ra ngoài. Rồi mới nghiêng nắp cho nước chảy vào bô.

Cái thứ nước vắt ra ấy nâu nâu đen đen đặc nhơn nhớt. Bô đầy thì vắt nước lên tường xà lim cho nước vào tường. Cũng thấy người dễ chịu. Còn dễ chịu vì lúc tắm là lúc không để ý tới thời-gian-xà-lim. Nó qua đi mà chẳng tra tấn được mình như mọi lúc. Nhưng không bao lâu đã lại hầm hập. Không thể tắm nữa. Còn phải dành nước đế uống…” (Bùi Ngọc Tấn. Chuyện Kể Năm 2000, tập I. CLB Tuổi Xanh, Westminster, CA: 2000).

Mà Bùi Ngọc Tấn vốn xuất xứ từ một gia đình “thuần cộng” và chỉ bị “tạm giữ” để điều tra “phục vụ cho việc xử lý nội bộ” thôi đó nha, ông không hề bị xét xử vì bất cứ tội danh nào cả. Chớ còn cái thứ ngụy quân, can tội cầm súng chống lại nhân dân, cỡ như Phan Nhật Nam thì mới thiệt là … mát Trời ông Địa: “Những ngày dài suốt thời gian từ 7/9/1981 đến 29/5/1988 tôi chỉ ao ước được đưa bàn tay ra khỏi khung cửa sổ nhà giam để xem gió mát như thế nào!”

Thôi (bác Nam à) chuyện từ thế kỷ trước lận, nhắc lại làm chi cho má nó khi. Vả lại, Đảng và Nhà Nước đã “dũng cảm” và “quyết tâm đổi mới toàn diện” lâu lắc rồi mà. Bây giờ mọi sự chắc đã hoàn toàn khác trước.

Hổng dám khác đâu!

FB Trịnh Thị Thảo (thứ nữ của bà Cấn Thị Thêu) đã lên tiếng, vào hôm 2 tháng 7 năm 2021, báo động về tình trạng cả gia đình mình bị ngược đãi đây nè :

Gia đình tôi mới nhận được tin là trại tạm giam công an Hoà Bình đang biệt giam mẹ tôi – Cấn Thị Thêu, hiện tại miền Bắc Việt Nam đang là mùa hè, thời tiết nắng khủng khiếp có hôm lên tới trên 40 độ C, trong buồng giam có thể nhiệt độ lên đến 45 độ C, vậy mà trại giam không có quạt điện, buồng giam thì đóng kín cửa cả ngày lẫn đêm. Mẹ tôi có dặn các bạn buồng bên cạnh mẹ tôi là nếu thấy mẹ tôi đập cửa buồng giam thì hô hoán cho mẹ tôi đi cấp cứu đủ để thấy tình hình sức khỏe của mẹ tôi đang vô cùng nguy hiểm…

Em tôi Trịnh Bá Tư cũng đang bị giam giữ cùng chỗ mẹ tôi, hiện tại tình hình của em Tư cũng có thể tương tự giống mẹ tôi.

 Anh tôi Trịnh Bá Phương đã kết thúc giai đoạn điều tra theo luật thì luật sư có thể vào gặp được vậy mà hôm qua luật sư vào gặp thì phía trại giam Hoả Lò nói phải xin ý kiến của bên viện kiểm sát.

Các ông cộng sản Việt Nam luôn nói với quốc tế là tôn trọng nhân quyền mà các ông đối xử với các tù nhân một cách tàn độc như vậy, mẹ, anh và em tôi chỉ lên tiếng trước bất công của chế độ, mong muốn góp tiếng nói của mình để đất nước tốt đẹp hơn thôi mà.

Nói thế – chả lẽ – các ông cộng sản Việt Nam lại là những người kỳ thị, phân biệt đối xử giữa tù tây và tù ta chăng?

Cũng hổng dám “kỳ thị” đâu!

Tù Tây cũng bị hành cho tới bến, chứ đừng có mà tưởng bở nhá. Xin trích dẫn một câu, chỉ một câu thôi, trong Hồi Ký Hoả Lò của Thuợng Nghị Sĩ John McCain :

Họ đánh tôi dập vùi, đánh tôi bất tỉnh. Họ liên tục hăm dọa:“Mày sẽ không nhận được bất kỳ chữa trị thuốc men gì cho đến khi mày mở miệng.”

Tây/Ta gì thì cũng chết bà với chúng ông ráo trọi!

Tiếng Nước Mình – STTD Tưởng Năng Tiến

Giữa khe cửa trước nhà, bữa rồi, thấy có gài một mẩu giấy quảng cáo – với dòng chữ in đậm – trộn lộn cả hai thứ tiếng Việt/Anh: “Under New Management. Tăng Cường Ẩm Thực. Tăng cường giờ mở cửa tới midnight. Đọc nghe hơi chương chướng nhưng tui cũng hiểu được liền, và còn đoán được luôn tác giả: cha nội Hải Ký Mì Gia – ở ngay ngã tư đầu đường – chớ còn ai vô đó nữa!

Tiệm này “chuyên trị” mì gà chiên và mì vịt tiềm. Thỉnh thoảng, tui vẫn ghé qua và lần nào cũng có trao đổi với chủ nhân đôi câu chào hỏi (xã giao) nên biết cái kiểu nói chuyện và hiểu ý của ổng mà: “Tiệm có quản lý mới. Thực đơn phong phú hơn. Từ đây sẽ mở cho tới tận khuya.”

Ông chủ người Minh Hương, sinh trưởng ở Bạc Liêu, vượt biên hồi đầu thập niên 1980. Dân Việt gốc Hoa, sống ở Mỹ gần nửa thế kỷ mà vẫn viết được “tiếng nước tôi” như vậy là ngon lành cành đào rồi – đúng không?

Tôi đã từng “đụng chuyện” với một vị “người Hoa gốc Tầu” nữa kìa. Ổng viết tiếng Việt (theo kiểu gu gồ) đọc mà muốn khóc bằng … tiếng Tây luôn. Thằng chả (chắc) là chủ nhân của một hãng làm thức ăn khô của Đài Loan hay Hồng Kông gì đó, và sản phẩm được bầy bán ê hề ở California, bao bì cũng in một dòng chữ trộn lộn cả hai thứ tiếng Việt/Anh: Chuẩn Bị Con Cá Mực – Prepared Cuttlefish!

Cái gì vậy, hả Trời? Thông minh tới cỡ tui mà phải mất mấy chục giây mới hiểu (té ra) là … Khô Mực Ăn Liền. Thiệt là thầy chạy!

Tiếng Việt, cũng như dân Việt – trên bước đường lưu lạc – tránh sao khỏi những cảnh ngộ bi hài hay những mảnh đời tơi tả. Kampuchea là nơi không thiếu những cảnh tình này. Nhà báo Ngy Thanh đã từng cảm thán: “Người ta bảo sông có khúc, người có lúc. Thế mà, khúc đời nào của Việt Kiều Cambodia cũng nhiêu khê. Thời nào của họ cũng là thời mạt vận.”

Việt ngữ ở đây cũng thế, cũng “mạt vận” chả khác chi người.

Theo tường trình của MIRO (Minority Rights Organization) thì có khoảng năm phần trăm, hay 750.000 người gốc Việt đang sinh sống ở Xứ Chùa Tháp. Đây là nhóm dân thiểu số đông nhất ở đất nước nhỏ bé này. Phần lớn đều không có được một tờ giấy lận lưng (không khai sinh, cũng không căn cước) nên không được quyền tiếp cận với bất cứ dịch vụ xã hội nào cả. Họ cũng không có quyền sở hữu tài sản hay đất đai gì ráo. Bởi vậy, rất nhiều kiều bào ở Miên hiện vẫn sống trong những túp lều tranh (lều bều như mấy dề lục bình) trên mặt Biển Hồ – Tonlé Sap.

Chắn chắn không nơi nào trên trái đất này mà dân Việt phải sống lam lũ và thảm thương đến thế. Y tế cũng như giáo dục đều là những điều xa xỉ, nói chi đến chuyện báo/đài hay một cái trường (Việt Ngữ) cho những đứa bé luôn trôi nổi bấp bênh.

Vậy mà chả hiểu nhờ vào cơ duyên nào đó, năm 2008, bỗng dưng có vài người Việt từ Canada lặn lội đến tận làng Kampong Luong (Kampong Luong Floating Village) làm tặng cho dân ấp Koh Ka Ek một ngôi trường tử tế.

Mãi đến năm 2014, tôi mới theo chân sư Minh Trí (người sáng lập Hội Vì Dân – Vidan Foundation) lò dò tìm đến chốn này. Tới nơi thì trường học đã nằm chỏng chơ trên cạn vì nổi hết được rồi.

Sau khi gắn vô mấy chục cái thùng phuy nhựa mới (mỗi cái cỡ 25 Mỹ Kim) và dặm thêm một mớ lồ ô hai bên cạnh sườn (không có tre để giữ cân bằng nó sẽ bị bồng bềnh) rồi sửa sang lại chút đỉnh thì kể như êm. Tụi nhỏ lại có cơ hội đến trường ê a (“mờ a ma sắc má” – “ba a ba huyền bà”) như trước.

Năm 2012, lại có thêm một cơ duyên kỳ diệu nữa, người Việt từ Perth (Australia) cũng lặn lội đến tận làng Kandal – thuộc xã Phsar, tỉnh Kampong Chhnang – để xây tặng cho đồng bào mình một ngôi trường bề thế, tốn kém cả trăm ngàn Mỹ Kim chứ không phải ít.

Vài ba năm sau, sư Minh Trí cũng đưa tui đến đây luôn. Chúng tôi đều hân hoan khi nhìn thấy ba lớp học được dựng trên những cột xi măng vuông vắn và vững chắc, bên trong được trang bị bàn ghế đàng hoàng. Chỉ kẹt cái là nó không có điện, cũng không có nước nên WC vô phương sử dụng.

Chuyện nhỏ thôi (so với tiền của và công sức của bao nhiêu người VN tại Úc) nên chúng tôi hăng hái bắt điện, bơm nước, gắn quạt máy, và còn lát xi măng luôn cả cái nền để vào mùa khô học sinh có chỗ chơi đùa.

Từ đó – theo sự cắt đặt của nhà sư – tôi vẫn thường trở lại thăm non hai cái trường này (cùng dăm ba lớp học ở vài nơi khác nữa) để mang sách vở bút viết cho học sinh, và chút tiền trợ cấp cho mấy vị giáo viên.

Tới đâu, tôi cũng đều “lớn tiếng” lập đi lập lại cái quan niệm rất thực tiễn và cấp tiến của mình: Xin quý thầy cô đừng quá quan tâm đến Việt Ngữ. Thay vào đó hãy dùng thời giờ dậy các em làm được mấy phép tính (cộng – trừ – nhân – chia) căn bản, và đọc được tiếng Miên để sau này chúng có thể sinh tồn một cách dễ dàng hơn nơi đất nước này.

Cái quan niệm “đúng đắn và cấp tiến” đó, mới đây, vừa bị thử thách (một cách vô cùng nghiêm trọng) khi tôi ghé qua lớp học ở Bati – nằm trong khuôn viên của Chùa Ông Quan Đế, thuộc huyện Peam Ro, tỉnh Prey Veng – vào tháng 11 vừa rồi. Đây là một nơi hết sức đặc biệt vì người Việt chả những có chùa (và ban trị sự) mà còn có cả hội đồng hương tề luôn nữa.

Tôi được coi là khách quý, đến tự phương xa, và được hân hạnh họp mặt với tất cả quý vị chức sắc địa phương. Họ đều thuộc vào hàng lão hạng nên tôi rất nhỏ giọng khi lập lại quan niệm (cố hữu) của mình là con cháu chúng ta cần học toán và học tiếng Khmer để sinh tồn, chứ không phải là Việt Ngữ. Mỗi đứa trẻ chỉ được tới trường vài ba năm thôi, mất thời giờ học tiếng Việt làm chi khi mà cái cơ hội đọc được một tờ báo (hay viết một cái thư) bằng Việt Ngữ kể như là bằng không. Chỉ cần sắp nhỏ vẫn nói chuyện bằng tiếng nước mình là cũng đã tốt lắm rồi, chớ…”

Tôi chưa dứt lời mà không khí buổi họp đã trầm hẳn xuống. Những ánh mắt, và những nụ cười chứa chan thiện cảm mà mọi người đã dành cho tôi từ lúc ban đầu (bỗng) tan biến hết trơn. Rồi một vị lão nhiêu, chắc cũng đã bát tuần, mới nhỏ nhẹ đáp lời:

“Chúng tôi lại có chút suy nghĩ khác. Người Việt ở nơi đây từ đời này qua đời nọ nên bây giờ ai cũng đen thủi, đen thui y như người bản xứ. Ngó qua thiệt khó nhận ra là “Duồn” ai là “Miên” nữa. Sự khác biệt chỉ còn ở cái tiếng nước mình thôi. Bởi vậy, khi đã có cơ hội cắp sách đến trường thì ưu tiên là phải dậy bầy trẻ đọc viết tiếng mẹ đẻ cái đã, chớ còn nói như ông thì …”

Ông anh cũng chưa nói hết lời nhưng tôi đã cảm được sự đồng tình của mọi người hiện diện. Rồi có lẽ vì quá xúc động (hay quá bất nhẫn) ổng đưa tay gạt nước mắt và ngồi phịch xuống ghế, tựa như là muốn đứng cũng không nổi nữa!

Những “giọt lệ như sương” của vị đồng hương cao niên khiến tôi chợt nhận ra sự nông nổi và thiển cận của mình. Cùng lúc, tôi cũng “ngộ” được đôi điều quan trọng khác:

Nào phải là tình cờ mà những người Việt từ Bắc Mỹ, từ Úc Châu đều đã cất công tìm đến Cambodia để làm trường học. Cũng đâu phải là vô cớ mà chỉ riêng ở tiểu bang California (Hoa Kỳ) đã có đến cả chục Trung Tâm Dậy Việt Ngữ và hầu như ở khắp mọi nơi trên thế giới, nơi đâu có dân Việt là có những lớp học cho trẻ Việt cùng với sự tham gia (tự nguyện) của hàng vạn giáo viên – từ nửa thế kỷ qua.

Khi Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ cho phép giảng dậy Việt Ngữ ở một số trường trung học và đại học tại quốc gia này thì giản dị chỉ vì đó là chủ trương nhân bản và bao dung (đa văn hóa) của xứ sở này. Còn mọi cố gắng, chắt chiu, thương khó để bảo tồn tiếng mẹ đẻ của hàng triệu người dân Việt, đang lưu lạc ở khắp bốn phương (có lẽ) là do sự thôi thúc tiềm ẩn từ vô thức. Đây là phản ứng tự nhiên từ vô thức tập thể (collective uncounciousness) của cả một giống nòi (trong cơn quốc biến) khi ngôn ngữ của họ đang “bị tha hóa, bị thao túng, bị phá sản một cách có hệ thống” –  theo như lời báo nguy của nhà giáo và nhà báo Thái Hạo.

Lời báo động muộn màng này cũng đã giúp tôi hiểu ra lý do mà sư Minh Trí – sau khi xuất gia, từ bỏ mọi hoạt động chính trị – đã hết lòng tận tụy chăm lo cho những ngôi trường Việt Ngữ, ở Kampuchea, cho đến … hơi thở cuối!

Tưởng Năng Tiến
12/2022

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Một bài báo cũ

Báo Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

18/12/2022

Nhân viên caddie kể lại giây phút bị đại gia đánh bằng gậy chơi golf

(Dân trí) – Caddie Trương Tiến Công, người phục vụ tại sân golf Tam Đảo (Vĩnh Phúc) kể lại: “Chiều ngày 15/9, sau khi bức xúc với tôi, ông Sơn đã dùng gậy vụt vào đầu khiến tôi bị choáng, rơi ô, ngã xuống đất. Lúc đó tôi không biết gì nữa”.

Theo lời kể của anh N.V. Công, sinh năm 1986, sáng 15/9, anh đi làm ca 1, tiếp nhận khách là ông Nguyễn Đức Sơn, Tổng Giám đốc Công ty TNHH MTV Quản lý & Phát triển nhà Hà Nội, cùng nhóm bạn. Do không có nhân viên phục vụ nên anh Công phải ở lại để tiếp tục phục vụ trong tiết trời khá nóng nực.

“Khi qua lỗ số 10, đến lỗ số 13 nơi ông Sơn và nhóm bạn chơi golf đi cùng, ông Sơn đánh xấu, kết quả chơi đã không như ý ông này. Đến lúc gạt gậy, ông Sơn đã hỏi Caddie về kết quả chơi. Nghe xong thì ông Sơn bảo ‘Cái gì á’. Đúng lúc tôi đang che ô cho khách ở gần chỗ tôi phục vụ, tôi có nói với để giải thích sự việc. Vừa nghe xong lời tôi, ông Sơn nhặt quả bóng đi đến sát tôi rồi bất ngờ vụt gậy vào đầu khiến tôi bị choáng, rơi ô rồi tôi bị ngã nằm xuống đất mà không biết gì xảy ra sau đó nữa” – Caddie Công kể lại.

Lãnh đạo UBND TP Hà Nội đã ký văn bản yêu cầu ông Nguyễn Đức Sơn giải trình vụ việc gây thương tích cho nhân viên phục vụ tại sân golf Tam Đảo.

Theo lời anh Công, hôm đó ông Sơn và nhóm bạn chơi độ với nhau nên rất cần nhân viên theo dõi sát sao: “Trước khi đánh hết hố đầu tiên chuẩn bị sang hố thứ 2, nhóm của ông Sơn gọi 3 nhân viên Caddie chúng tôi đến và dặn, “hôm nay bọn anh đánh độ, độ bình thường thôi nhưng bọn em theo dõi để thông báo kết quả, tránh việc ăn gian gậy”, nên chúng tôi đều phải để ý” – anh Công cho biết.

Kết quả kết luận của bác sĩ cho thấy, tình trạng sức khỏe của anh Công không bị ảnh hưởng nghiêm trọng sau cú vụt gậy của ông Sơn. Sau đó, anh Công đã làm đơn đề nghị công an cho phép 2 bên tự giải quyết nội bộ.

Ngày 23/9, ông Vũ Hồng Khanh – Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội đã ký văn bản yêu cầu ông Nguyễn Đức Sơn giải trình vụ việc gây thương tích cho nhân viên phục vụ tại sân golf Tam Đảo (Vĩnh Phúc) để có cơ sở xem xét, xử lý theo đúng quy định của pháp luật.

Thông tin từ một cán bộ tại Ban điều hành sân golf Tam Đảo, trước đó vào ngày 6/7/2013, một người trong nhóm của ông Sơn đến chơi golf tại sân cũng đã gây thương tích cho chị Trần Thị Thương (25 tuổi, nhân viên Caddie) khiến chị này phải nằm viện điều trị một tháng, hiện vẫn phải nghỉ điều trị vì sức khỏe chưa hồi phục, chi phí tiền viện hết khoảng 13 triệu đồng. Biên bản xác nhận vụ gây thương tích cho chị Thương ghi rõ người đứng tên gây hậu quả là ông Hữu – bạn ông Sơn. Nhưng theo xác nhận của cán bộ tại sân golf Tam Đảo, vẫn có những nghi vấn về một “thủ phạm” thật sự khác và ông Hữu chỉ là người nhận lỗi thay.

Liên quan đến vụ việc này, ông Sơn khẳng định đó là do bạn ông gây ra, đã giải quyết ổn thỏa, đền bù cho nạn nhân 11 triệu đồng.

Về chiếc gậy chơi golf dùng để đánh anh Công, ông Sơn cho biết cả bộ đồ chơi golf của ông đươc mua với giá khoảng 30 triệu đồng.

Trả lời câu hỏi của phóng viên về việc bị truất quyền chơi golf 1 năm tại sân golf Tam Đảo, ông Sơn nói đó là quyết định của sân golf Tam Đảo, và ông cũng không muốn tới sân golf này chơi nữa.

Ngày 24/9, Đại tá Vũ Quang Thịnh – Trưởng Công an huyện Tam Đảo – cho biết Công an huyện Tam Đảo vẫn đang điều tra vụ việc ông Nguyễn Đức Sơn dùng gậy chơi golf đánh vào đầu một nhân viên phục vụ.

Liên quan đến thông tin ông Sơn cho biết phía gia đình nạn nhân đã bãi nại hành vi của ông này, Đại tá Thịnh nói đang trong quá trình điều tra nên không thể cung cấp thông tin.

Haiti – Sổ tay thường dân-Tưởng Năng Tiến

Tưởng Năng Tiến

Cũng như bao nhiêu đồng loại (và sinh vật) khác, với thời gian, mỗi lúc tôi một thêm già nua và cằn cỗi. Lưng còng, tóc bạc, da mồi, mắt mờ, tai điếc, răng long … thì đã đành rồi; não bộ, trí óc, trí tuệ, trí́ tưởng, trí nhớ … cũng mỗi ngày một thêm đù đờ/lờ quờ và mù mờ thì (hơi) khó đành hơn – chút xíu!

Bữa rồi đọc được một bài báo ngắn (Lời Nguyền Haiti”) của tác giả Đặng Văn Dũng, về cuộc khởi nghĩa ở xứ sở Haiti, tôi lờ mờ cảm thấy có nhiều điểm quen quen nhưng cố gắng mãi cũng không thể nhớ được là (hình như) mình cũng đã từng biết về một cuộc cách mạng từa tựa thế – xẩy ra ở đâu đó – rồi thì phải?

Cố gắng mãi cũng hoài công (và chỉ thêm nhức đầu nhức óc thôi) nên tôi quyết định cứ ghi lại vài điểm chính, của bài viết thượng dẫn, với hy vọng là sẽ có độc giả nhận ra được vụ này:

Haiti là nước độc lập sớm nhất tại Mỹ la tinh (1804) và là cuộc khởi nghĩa nô lệ thành công duy nhất trong thời cận đại. Lúc đó tại Haiti có khoảng 450 ngàn nô lệ da đen và 32 ngàn người da trắng…

Chuyện gì đến sẽ phải đến, các nô lệ da đen đã ngay lập tức thiết lập nền chuyên chính vô sản của mình. Trong năm 1804 họ đã thảm sát 5000 người da trắng, không cho phép người da trắng được sở hữu tài sản tại Haiti và cuối cùng là trục xuất toàn bộ người da trắng khỏi Haiti.

Các ông chủ da đen mới không biết gì về kinh doanh, làm giàu, cũng như không hiểu gì các khái niệm như phát triển đất nước, nâng cao dân trí, khai sáng dân tộc… lôi thôi của bọn da trắng.

Họ ra sức chiếm đoạt, vơ vét cho bản thân mình, đàn áp giết chóc thả cửa mọi loại thù địch mà chủ yếu là đồng bào của chính họ. Họ hết xưng là thủ lĩnh, toàn quyền rồi hoàng đế… các trang trại mía đường, cafe được chia cho các chiến binh và những người này lập tức chuyển sang trồng khoai, sắn, lạc… những thứ đủ cho cuộc sống hàng ngày của họ.

Trồng mía lôi thôi hơn, phải chế biến thành đường rồi xuất khẩu mà việc này chỉ bọn da trắng biết làm. Có thể nói sau khi độc lập, nước Haiti của nô lệ giải phóng, hoàn toàn không có tầng lớp tinh hoa. Trước đây các bác sỹ da trắng chữa bệnh thì sau cách mạng việc chữa bệnh là của thày phù thuỷ, chưa nói đến các kiến thức khác… Hễ ai có sáng kiến làm giàu một chút lập tức bị quan chức tước đoạt hết. Từ một nền kinh tế nông nghiệp xuất khẩu giàu có Haiti trở thành một nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp vì căn cứ văn hoá của phát triển đã bị trục xuất khỏi Haiti cùng với thành phần tinh hoa của xã hội…

Đất nước Haiti không thể tiến lên được vì họ thiếu hẳn tầng lớp tinh hoa làm hạt nhân tinh thần cho dân tôc. Ngày nay, 80% sinh viên Haiti tốt nghiệp đại học di cư ra nước ngoài; 50% dân số mù chữ. Haiti thật sự là địa ngục của chậm phát triển và lời nguyền của độc lập…

Một đất nước được thành lập và cai trị bởi các nô lệ ưa bạo lực và mù quáng đã không thể phát triển lên được vì đã huỷ hoại đi nền tảng tinh thần của phát triển. Thật kỳ khôi là điều này lại được lặp lại với nước Zimbawe. Từ một đất nước Rodesia đang phát triển của thiểu số da trắng trở thành đất nước Zimbawe cách mạng của đa số da đen, lụn bại và phụ thuộc vào Trung Quốc.

Dốt nát và độc tài không bao giờ đồng hành với phát triển. Phát triển có đạo lý riêng của nó; đó là: công bằng, minh bạch, khai sáng, dân chủ và tự do dân sự!

Thật là may mắn và kỳ diệu!

Những câu chữ dẫn thượng của tác giả Đặng Dũng vừa mới được đưa lên FB (chưa đến 30 giây) là đã có phản hồi tức khắc: “Ủa! Sao giống y chang như cuộc cách mạng vô sản ở Việt Nam vậy cà?”

Ơn Trời!

Tưởng vụ gì khác chớ chuyện cách mạng ở xứ sở mình thì tui rành (sáu câu) nên nói là “giống y chang” thì e không đúng đâu. Cũng có vài điểm dị biệt (nho nhỏ) chớ:

  • Trong năm 1804 họ đã thảm sát 5000 người da trắng, không cho phép người da trắng được sở hữu tài sản tại Haiti và cuối cùng là trục xuất toàn bộ người da trắng khỏi Haiti. Cách mạng Việt Nam thì không hề “thảm sát” hay “trục xuất” một người da trắng nào sất. Thay vào đó, họ giết chết đâu cỡ gần hai trăm ngàn nông dân (vì bị quy là thành phần địa chủ) trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất xẩy ra hồi 1953 – 1956. Qua tới 1975 thì họ nhốt tù dài hạn cả triệu binh lính VNCH mà không qua một phiên toà nào ráo.

Còn trong vụ “trục xuất” cái đám người “bất hảo, cặn bã của xã hội, ma cô, đĩ điếm, trộm cướp, trây lười lao động, ngại khó ngại khổ, chạy theo bơ thừa sữa cặn… ” ra khỏi Việt Nam (bằng hình thức vượt biên) thì thiên hạ ước đoán là đã có chừng vài trăm ngàn thuyền nhân vùi thây trong lòng biển cả (*).

  • Họ hết xưng là thủ lĩnh, toàn quyền rồi hoàng đế… các trang trại mía đường, cafe được chia cho các chiến binh và những người này lập tức chuyển sang trồng khoai, sắn, lạc… những thứ đủ cho cuộc sống hàng ngày của họ. Việt Nam thì không đến nỗi kém văn minh tới cỡ đó đâu. Tất cả mọi chức vụ mà các đồng chí lãnh đạo cách mạng cấp cao đảm trách (liên tu bất tận, từ thập niên này qua thập niên khác) đều qua bầu bán đàng hoàng, và họ luôn luôn được từ 95 đến 99 phần trăm cử tri tín nhiệm.

Thêm chút khác biệt nữa là sau khi cách mạng thành công thì đất đai bỗng trở thành là tài sản của toàn dân nên khỏi cần chia chác gì hết. Bởi thế  mới có cảnh nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng,” và hình ảnh của các cựu chiến binh… : Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ/  Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ/ Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ !

  • Ngày nay, 80% sinh viên Haiti tốt nghiệp đại học di cư ra nước ngoài… Đại đa số sinh viên Việt Nam thì lại khác. Họ chọn lựa ở lại để phục vụ quê hương đất nước, trong lãnh vực giao thông vận tải, bằng cách chạy… Grabike.

Ngoài những tiểu dị trên thì Haiti và Việt Nam lại có một điểm tương đồng lớn:

Đất nước Haiti ngày càng điêu tàn, tài nguyên bị phá sạch, đất đai bạc màu dần. Những người lãnh đạo vơ vét tất cả những gì có thể vơ vét được còn nhân dân Haiti thì rơi xuống tận cùng của khốn khó …

TNT

(*) Death Tolls and Casualty Statistics Vietnam – Vietnamese Boat People

  • Jacqueline Desbarats and Karl Jackson (“Vietnam 1975-1982: The Cruel Peace”, in The Washington Quarterly, Fall 1985) estimated that there had been around 65,000 executions. This number is repeated in the Sept. 1985 Dept. of State Bulletin article on Vietnam.
  • Orange County Register (29 April 2001): 1 million sent to camps and 165,000 died.
  • Northwest Asian Weekly (5 July 1996): 150,000-175,000 camp prisoners unaccounted for.
  • Estimates for the number of Boat People who died:
    • Elizabeth Becker (When the War Was Over, 1986) cites the UN High Commissioner on Refugees: 250,000 boat people died at sea; 929,600 reached asylum
    • The 20 July 1986 San Diego Union-Tribune cites the UN Refugee Commission: 200,000 to 250,000 boat people had died at sea since 1975.
    • The 3 Aug. 1979 Washington Postcites the Australian immigration minister’s estimate that 200,000 refugees had died at sea since 1975.
      • Also: “Some estimates have said that around half of those who set out do not survive.”
    • The 1991 Information Please Almanac cites unspecified “US Officials” that 100,000 boat people died fleeing Vietnam.
    • Encarta estimates that 0.5M fled, and 10-15% died, for a death toll of 50-75,000.
    • Nayan Chanda, Brother Enemy (1986): ¼M Chinese refugees in two years, 30,000 to 40,000 of whom died at sea. (These numbers also repeated by Marilyn Young, The Vietnam Wars: 1945-1990 (1991))
  • Rummel
    • Vietnamese democide: 1,040,000 (1975-87)
      • Executions: 100,000
      • Camp Deaths: 95,000
      • Forced Labor: 48,000
      • Democides in Cambodia: 460,000
      • Democides in Laos: 87,000
      • Vietnamese Boat People: 500,000 deaths (50% not blamed on the Vietnamese government)

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Bình luận bóng đá & lãnh đạo quốc gia

Đàn Chim Việt

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

Cơn suyễn đến bất ngờ khiến tôi phải nằm bẹp (dí) trong một cái nhà trọ tồi tàn, ở ngoại ô Bangkok. Thái Lan lại đang ở giữa mùa mưa, mưa nhiệt đới: tơi tả, xối xả, và tá lả …

Trời buồn, lòng buồn, cả vũ trụ – tất nhiên – cũng buồn luôn và buồn thê thảm! Rượu không dám nhấp môi, đã đành; bia cũng khỏi dám đụng tới luôn. Thuốc lá chỉ cần nhìn cái bao thôi … đã muốn ho hen rồi.

Phen này chắc chết, chết chắc. Adieu, nhân loại. Vĩnh biệt cuộc đời!

Nằm chờ vài ngày mà Thần Chết vẫn chưa chịu đến nên đâm ra chán. Tôi bèn bật TV coi chơi chút xíu. Màn hình bất ngờ hiện ra cảnh trận bóng U 23 Việt Nam vs U 23 Nam Hàn, trên sân cỏ Indonesia. Dù hoàn toàn không mặn mà gì lắm với thể dục thể thao, tôi cũng ráng xem cho đến giây phút cuối. Để lỡ mà qua đời (thiệt) còn có chuyện mà “tám” với mấy con ma, ở thế giới bên kia.

Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy những cầu thủ đồng hương tranh tài. Thiệt không có gì để có thể phàn nàn. Các em chơi rất tới, rất hết mình, và rất đáng ngợi khen.

Đây cũng là lần đầu tiên tôi được nghe những lời bình, bằng tiếng mẹ đẻ, trong một trận túc cầu. Bình luận viên hay nhắc đi nhắc lại những cụm từ rất nặng nề: xử lý tình huống, quật khởi, nỗ lực kiên cường, phương cách đá, tham gia lấy bóng, khoảng cách lợi thế, sự tiếp cận, sự thay người, toả sáng …

Nghe sao mà mệt cầm canh. Tiếng nước tôi (vốn) đâu có gò bó, nghiêm trọng, và thậm xưng dữ vậy – hả Trời? Đến phút thứ 69, cầu thủ Minh Vương sút một quả banh tuyệt đẹp vào lưới đối phương, bình luận viên mô tả đây là … một “siêu phẩm” của bóng đá!

Loại ngôn ngữ cường điệu này (tôi đoán) đã phát triển qua hệ thống loa đài – giăng mắc khắp phố phường, len lách vào từng thôn xóm, và ăn sâu vào tâm trí người dân – từ rất lâu rồi:

“Có một lần từ mặt trận đường 9 ghé về thăm nhà, tôi gặp đúng đêm máy bay Mỹ đánh phá Hà Nội. Còi báo động từ Nhà hát Lớn rú vang. Quầng sáng ánh đèn điện phía nội thành bỗng như dụi tắt bớt. Rồi những chùm đạn phòng không đỏ lừ thun thút lao lên vòm trời. Rồi bom nổ phía Yên Viên, Cầu Giát…

Còi báo yên, đàn chó trong làng vẫn sủa râm ran, đường làng ngõ xóm vẫn rậm rịch bước chân người, không một ai ngủ lại cả. Các cô các chị thức thẳng từ lúc đó cho tới lúc quẩy gánh rau húng, rau thơm tới các phiên chợ sớm. Người làng Láng chia sẻ âu lo với người nội thành như thế đấy!

Giữa phút tĩnh lặng, nghiêm trang ấy tôi bỗng nghe có tiếng gì động mạnh như tiếng ai đập chiếu trên mặt ao, tiếng đổ vỡ loảng xoảng, ngay sau đó là tiếng kêu la của một người đàn bà:

Ối bà con xã viên đội một, đội hai, đội ba, đội bốn ơi! Lão chồng tôi tàn ác, thâm độc như đế quốc thực dân. Nó đánh tôi trường kỳ, gian khổ như thế này làm sao tôi chịu nổi?

Đêm sau máy bay Mỹ tiếp tục đánh phá Hà Nội. Đúng vào giây phút không ai chợp mắt nổi ấy, bà Hin lại chạy bổ ra đường la hét váng động cả xóm:

Ới bà con xã viên ơi! Chiều nay lão chồng tôi không nấu cơm cho tôi ăn. Nó còn giấu biệt hòm gạo đi. Nó rắp tâm triệt hạ kinh tế tôi đấy mà! (Tô Hoàng – “Nỗi Buồn Lâu Qua.” Talawas blog).

Cuộc chiến đã tàn từ lâu nhưng “nỗi buồn chiến tranh” bao giờ mới “qua” thật khó khó có câu trả lời chính xác nhưng rõ ràng là mãi cho đến tuần rồi (vào hôm 29 tháng 8) thì ngôn ngữ thời chiến, cùng mùi thuốc súng lẫn mùi vị tuyên truyền, vẫn còn thoang thoảng trong buổi tường thuật của trận cầu Asiad 2018. Miệng lưỡi của các đồng chí lãnh đạo hiện nay cũng vậy, cũng vẫn còn âm điệu (phèng la) của những người bán thuốc Sơn Đông:

– Toàn cầu bất ổn nhưng Việt Nam rất ổn

– Chỉ số thị trường chứng khoán Việt Nam trong top 3 thế giới

– Việt Nam là nước giàu nhanh nhất thế giới 10 năm qua

– Ngày nay, chúng ta ngẩng cao đầu, sánh vai cùng cường quốc

– Việt Nam tuy là nước có thu nhập thấp nhưng có chỉ số hạnh phúc cao thứ 5 thế giới

Những gánh Sơn Đông Mãi Võ có nguồn gốc tuốt luốt bên Tầu. Bởi thế, ngay tại sân nhà, đồng chí Tập Cận Bình còn “nổ” lớn hơn nhiều, lớn đến độ mà có lẽ ngay cả chính đương sự cũng phải … ù tai:

Trung Quốc đang ở vào một “thời cơ lịch sử”, bước vào một “kỷ nguyên mới” sẽ được đánh dấu bằng sự kiện đất nước đang trở thành một “lực vĩ đại” [mighty force] trên thế giới và đóng một vai trò gương mẫu [role model] cho việc phát triển chính trị và kinh tế.

Những lời bình có cánh không thể làm thay đổi được tỷ số (3 – 1) trong trận banh  Olympic vừa qua. Những câu tuyên bố thậm xưng và cường điệu của những vị lãnh đạo quốc gia cũng thế. Cũng không thể nâng cao “vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế,” hay thay đổi được “chỉ số thị trường chứng khoán” – đang rơi tự do – bên nước (bạn) Trung Hoa Vỹ Đại.

Đến khi mà thực trạng bị phơi bầy hằng ngày, ở khắp mọi nơi, và vô phương che đậy thì giới quan chức của nhà nước Việt Nam lại loay hoay tìm một cách nói mới (newspeak) để làm giảm nhẹ sự nghiêm trọng của mọi vấn đề:

– Cướp đất = giải phóng mặt bằng

– Thuốc giả = thuốc không có khả năng trị bệnh

– Cầu gẫy = cầu tạo hình chữ V

– Tát = gạt tay trúng

– Đá = dơ chân quá cao

– Ngập = tụ nước

– Lụt = thế nước đang lên

– Chuyến bay bị hủy hay bị chậm = bay chưa đúng giờ

– Tầu Trung Cộng = tầu lạ

– Biểu tình = tụ tập đông người

Theo nhà báo Từ Thức thì những “nhúm từ ngữ ngây ngô” này cũng chả phải là “chuyện tình cờ.” Ông trích dẫn lời của Joseph Goebbels (Bộ Trưởng Thông Tin Tuyên Truyền của Đức Quốc Xã) để minh thị cho nhận xét của mình:

“Chúng ta không muốn (không cần) thuyết phục dân chúng về tư tưởng của ta. Chúng ta chỉ muốn thu nhỏ cái vốn ngữ vựng của họ, tới độ họ chỉ còn đủ chữ để diễn tả tư tưởng của ta.”’

Thời của Joseph Goebbels đã qua, và đã xa như dĩ vãng. Mọi thứ ngôn từ ma mị (cùng những trò ma bùn/ma tịt/ma mãnh) đều trở thành lố bịch, và không còn đất sống trong thế giới phẳng hiện nay.

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Những Rổ Tép Khô

Tưởng Năng Tiến

Tôi bước vào tuổi dậy thì cùng với những sáng tác đầu tay của của Trịnh Công Sơn:

Gọi nắng

Cho cơn mê chiều

Nhiều hoa trắng bay…

Trong căn nhà vắng – sau giấc ngủ trưa muộn màng – nằm lắng nghe Hạ Trắng bỗng thoáng thấy buồn, và không dưng tôi hiểu ra thế nào là nỗi buồn vô cớ. Giữa đêm (những đêm dài giới nghiêm) ngồi ôm đàn hát mỗi mình, trên sân thượng – nhìn hoả châu rơi, loé sáng ở chân trời – rồi chợt biết thèm muốn một cuộc sống bình an:

Ta đã thấy gì trong đêm nay

Cờ bay trăm ngọn cờ bay

Rừng núi loan tin đến mọi miền

Gió Hoà bình bay về muôn hướng …

Mẹ già cười xanh như lá mới trong khu vườn

Ruộng đồng Việt Nam lên những búp non đầu tiên

Một đoàn tàu đi nhả khói ấm hai bên rừng…

Chinh chiến rồi tàn. “Gió hoà bình bay về muôn hướng” nhưng người dân trên những đoàn tầu Thống Nhất, tiếc thay, không mấy ai cảm thấy hồ hởi hay phấn khởi gì.

Kẻ lo bị móc túi, nếu có tí tiền. Người lo hàng hoá bị tịch thu, nếu là dân buôn bán. Và tất cả đều sợ bị đá ném vào đầu. Những hòn đá xanh, to bằng nắm tay, được trẻ con dọc hai bên đuờng thi nhau ném vun vút vào cửa sổ.

Những con tầu rất bất an (trên đường sắt Bắc/Nam) đã không hớn hở hú còi, và cũng không hân hoan “nhả khói ấm hai bên rừng,” như dự tưởng của người nhạc sĩ tài hoa!

Hành khách Trần Thành Nam tường thuật:

“Ở mỗi ga, khoang tàu biến thành cái chợ hay hàng ăn, tùy vào thời điểm. Ngoài sự nghèo đói, lộn xộn, mất vệ sinh và nói chung là kém văn hóa là đặc trưng của những gì xảy ra trên chuyến tàu đó hay cho cả đất nước ta thời đó, điều tôi nhớ nhất và thất vọng vô cùng là: từ Nam ra Bắc tôi hầu như không thấy một nụ cười trên gương mặt một ai cả…

Ở một ga miền Bắc Trung bộ, tôi không nhớ ở đâu, hình như ở xứ Thanh, có một cô bé khoảng 14-15 đội lên tàu bán một rổ tép khô. Do đông người đi lại bán hàng va chạm, rổ tép khô của cô bé bị rơi đổ hết xuống sàn tàu, ngay trước mắt tôi và cách chỗ tôi ngồi chừng 1-2 mét.

Cô bé hốt hoảng lo sợ, luốn cuống quì xuống gom vội tép lại. Theo bản năng ‘ga lăng’, tôi lao ngay ra giúp cô bé vơ tép khô lại thành từng đống nhỏ. Cùng lúc đó, nhiều người xung quanh cũng đều xông vào, đa số cũng là những người bán hàng trên tàu như cô bé, xúm lại làm như tôi: vơ tép khô của cô bé gọn lại. Tôi cười nhìn mọi người và nghĩ: ‘Ồ, mọi người tốt quá! Thế mà mình đã nghĩ dân ta bây giờ không yêu quí nhau như trước nữa…’

Chưa kịp nghĩ hết ý trên thì tôi đã đớ người ra khi nhìn thấy mọi người không bốc tép khô vào rổ cho cô bé như tôi mà cho vào những cái túi riêng của họ! Một loáng, sàn tàu đã sạch trơn không còn tí tép khô nào! Và mọi người thản nhiên bỏ đi với những túm tép khô vơ vét được của họ, như không có gì xảy ra…

Tôi chẳng thấy nét mặt ai mừng rỡ hay buồn hay ái ngại gì cả, bình thường… Còn cô bé đứng dậy co dúm thút thít khóc bên cạnh rổ tép khô nay chỉ còn một vốc. Tôi cứ đứng bên cạnh cô bé, ngơ ngác và lòng rưng rưng với nắm tép khô còn chưa kịp đưa vào rổ của cô bé, và không hiểu tại sao mọi người làm như thế!

Còn những hành khách trong toa tàu, trong đó có mẹ tôi, đã chứng kiến toàn bộ chuyện đó, cũng làm ngơ, không ai phản đối gì, cho là chuyện bình thường…

Cho đến hôm nay tôi vẫn còn khinh ghét con người mình vì lúc đó đã không làm được việc mình muốn làm nhất là gào thét lên: ‘Mọi người! Hãy trả lại tép khô cho cô bé!”

Cô bé bán tép – có lẽ – là một trong những “dân oan” đầu tiên của đất nước, kể từ khi Nam/Bắc hòa lời ca. Với thời gian, số lượng dân oan lên đến hằng chục triệu người (vật vạ, la lết, lang thang, vất vưởng) ở khắp mọi nơi.

Mất tép hay mất đất, tự bản chất, chả khác chi nhiều. Rổ tép đang cầm thì vẫn còn là của mình nhưng sau khi lỡ tay, hoặc trượt chân, làm đổ thì mớ tép khô (bỗng) thuộc “quyền sở hữu của toàn dân.”

Bất cứ ai đang có mặt tại chỗ cũng có quyền vơ vét, cất giữ như của riêng tư.

“Hiến pháp 1959 vẫn chưa ‘quốc hữu hóa đất đai’ như Hiến pháp 1936 của Liên Xô mà nó được coi là một bản sao. Cho dù, từ thập niên 1960 ở miền Bắc và từ cuối thập niên 1970 ở miền Nam, ruộng đất của nông dân đã bị buộc phải đưa vào tập đoàn, hợp tác xã, đất đai chỉ chính thức thuộc về “sở hữu toàn dân” kể từ Hiến pháp 1980…

Chiều 18-1-2011, khi điều khiển phiên họp toàn thể của Đại hội Đảng lần thứ XI biểu quyết lựa chọn giữa ‘chế độ công hữu về tư liệu sản xuất’ và ‘quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp’, ông Nguyễn Phú Trọng hứa với Đại hội ‘thiểu số sẽ phục tùng đa số’. Nhưng, tháng 5-2012, Ban Chấp hành Trung ương mà ông Nguyễn Phú Trọng là tổng bí thư vẫn quyết định duy trì ‘chế độ công hữu’ với đất đai, ‘tư liệu sản xuất” quan trọng nhất.” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

Nói cho nó gọn lại là luật pháp của Nhà Nước Cách Mạng đã khiến cho tài sản ruộng đất của bao người trở thành một rổ tép khô, có thể bị hất đổ tung toé bất cứ lúc nào, tùy vào dự án của các doanh nghiệp và lòng tham của đám quan chức địa phương.

Họ hành xử cũng tồi tệ chả khác gì đám hành khách có mặt trên con tầu năm nọ: Một loáng, sàn tàu đã sạch trơn không còn tí tép khô nào! Và mọi người thản nhiên bỏ đi với những túm tép khô vơ vét được của họ, như không có gì xảy ra… Còn cô bé đứng dậy co dúm thút thít khóc bên cạnh rổ tép khô nay chỉ còn một vốc.

Có bao nhiêu người dân oan Lộc Hưng đang đứng khóc thút thít bên những căn nhà đổ nát của họ. Có bao nhiêu người dân oan Văn Giang, Dương Nội, Thủ Thiêm, Long An, Cần Thơ, Đồng Nai, Dak Nong … đang “co dúm thút thít” trên mảnh đất (còn lại) mà diện tích chỉ đủ dựng một túp lều, kỳ dư đã bị thu hồi với giá đền bù “mỗi m2 bằng giá một… cốc bia” – theo như ghi nhận của blogger Đào Tuấn.

Mà nào có riêng chi ruộng đất. Dưới mắt của giới quan chức hiện nay thì quĩ bảo hiểm xã hội cũng thế, cũng có khác chi một rổ tép khô:

– Bảo hiểm xã hội Việt Nam sẽ vỡ quỹ theo cách nào?

– Quỹ BHXH: ALC II phá sản, bao nhiêu tỷ đồng gửi quỹ khó thu hồi

– Người lao động còn lại gì từ Quỹ Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam?

– Bảo hiểm xã hội cho vay 1.000 tỉ, có nguy cơ mất 800 tỉ

– Quỹ Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam: Kiểu nào cũng vỡ

– Nguyên Tổng giám đốc BHXH cho vay hàng nghìn tỷ đồng trái quy định…

Rõ ràng chả cần đến lúc rổ tép đổ, cả đám quan chức vẫn cứ (nháo) nhào vào giật tới tấp và giật tự nhiên như chốn không người. Lịch sự hơn chút xíu là cách “giật tép” của qúi vị chuyên trị “mảng” Doanh Nghiệp Quốc Doanh, vay vốn ưu đãi từ những Ngân Hàng Nhà Nước, và tìm mọi cách để kinh doanh thua lỗ:

– Lộ diện những doanh nghiệp lỗ khủng

– Kiểm toán chỉ ra hàng loạt doanh nghiệp nhà nước lỗ lớn, nợ chồng chất

– Doanh nghiệp nhà nước nợ 60 tỷ đôla

– Hàng loạt doanh nghiệp nhà nước lỗ nặng, nợ hàng chục ngàn tỉ khó đòi

Tuy khó đòi nhưng trước sau gì cũng có người phải trả, và số tiền này được báo Thanh Niên số ra ngày 17 tháng 8 năm 2018 tính gọn như sau: “Bình quân mỗi người gánh hơn 35 triệu đồng nợ công năm 2018, tăng gần 4 triệu đồng mỗi người so với năm 2017.”

Với thời gian, con số nợ công (tất nhiên) sẽ không dừng ở đó vì dưới mắt quan chức của chế độ hiện hành thì mọi tài sản và tài nguyên của đất nước có chả khác chi cái rổ tép khô trên tay một em bé gái quê đâu.

8/2019

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Quýt Tập Cận Bình

Đàn Chim Việt

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

Nhà văn Bá Dương phàn nàn rằng đồng bào của ông bị “dị ứng” với hai chữ cám ơn : “Tôi nghi rằng để có thể móc trong mồm một người TQ ra cái câu cám ơn ông e rằng nếu không dùng đến cái cào cỏ năm răng của ông bạn Trư Bát Giới của chúng ta thì không thể được.”

Ngoài cái bệnh dị ứng với chuyện ơn nghĩa, vẫn theo như lời của tác giả Người Trung Quốc Xấu Xí, dân Tầu còn mắc cái tật hơi lớn tiếng : “Nói đến ồn ào, cái mồm người Trung Quốc thì to không ai bì kịp.”

Những ghi nhận đọc được qua trang FB của Nguyễn Chương về người Đài Loan lại hoàn toàn khác:

  • Tại bến xe mọi người đều tự giác xếp hàng. Khi lên xe, nhân viên nhiệt tình hỏi bạn muốn đi đâu, và khi thu tiền hoặc thối lại tiền, họ đều nói “cảm ơn”vì bạn đã thịnh tình chiếu cố.
  • Khi mua cơm ở cửa hàng, mỗi lần kêu món hoặc đến lúc trả tiền, tôi đều nghe nhân viên nói “cảm ơn”luôn miệng.

Kinh nghiệm của tôi ở Singapore cũng thế, cũng khác. Có lần bước vào một tiệm ăn ở Đảo Quốc này, tôi rất ngạc nhiên khi thấy hình một tô hoành thánh mì, cùng dòng chữ song ngữ (Please Keep The Volume Down While Eating After 10:30 PMdán ngay trên tường.

Ảnh (tnt) chụp năm 2019

Thảo nào mà quán đông nhưng không ồn. Hoá ra không phải ở đâu người Trung Quốc cũng là những kẻ vô ơn, và lúc nào họ cũng lớn họng, như lời than phiền của Bá Dương. Có nơi – và có lúc – họ cũng thường “cảm ơn luôn miệng” và cũng ăn nói nhỏ nhẹ, đàng hoàng, rất mực.

Thế mới rõ là có nhiều giống người Hoa chứ không phải một: Tầu Singapore, Tầu Hồng Kông, Tầu Đài Loan, Tầu Đại Lục … Và họ khác nhau một trời/một vực – theo như ghi nhận của một người cầm bút khác, Tạ Duy Anh:

“Không phải vô cớ mà người Đài Loan kiên quyết không nhận mình là Trung Quốc, dù họ phần lớn từ Phúc Kiến sang. Người Đài Loan hiền lành, tinh tế, trung thực thuộc loại nhất thế giới. Trong khi người Trung Quốc đại lục thì luôn tạo ra ác mộng cho bất cứ đâu họ đặt chân đến.”

Ở bình diện thể chế cũng thế: “Điểm khác biệt giữa hai hệ thống pháp luật tại Đài Loan và Trung Quốc sâu và rộng gấp mấy lần vài trăm dặm eo biển chia cắt hai quốc gia này. The gulf between legal systems across the Taiwan Strait is far wider than a hundred miles.” (Margaret K. Lewis. “Taiwan’s Human Rights Revolution and China’s Devolution.” The Diplomat 10 Mar 2017 translated by Quỳnh Vi). 

Sao kỳ vậy cà?

Tác giả Huy Phương lý giải như sau : “Cũng giống quýt đó, trồng ở Giang Nam thì chua, trồng ở Giang Ðông thì ngọt. Ðó chính là nhờ phân, nước, khí hậu mỗi nơi cho những thứ trái có phẩm chất khác nhau… Bây giờ hầu hết giống quýt đều muốn được trồng ở Giang Ðông, chứ không muốn mọc ở Giang Nam.”

Tương tự, “bây giờ hầu hết” người Trung Quốc cũng đều muốn “được trồng” lại ở một nơi nào khác, cho nó bớt chua, chớ không phải ở nơi quê hương (bản quán) của mình:

Đất lành chim đậu. America, Canada, Australia thì không nói làm chi, chớ ngay tới  Châu Phi mà cũng được người Tầu coi như là đất lành thì ai cũng phải thấy rằng Trung Hoa Lục Địa (quả) là dữ thiệt, và dữ lắm – trừ ông Tập Cận Bình.

Chủ quan và kiêu ngạo cộng sản là chứng bệnh chung của rất nhiều đồng chí lãnh đạo cấp cao, chớ chả riêng chi bác Tập. Bởi thế, bác ấy rất bất bình (và bị chạm tự ái) vì người dân Trung Cộng đã bỏ chạy tá lả bùng binh – theo tôi – là điều hoàn toàn thông hiểu và thông cảm được.

Tôi chỉ phàn nàn mỗi ở điểm là ông Chủ Tịch Nước đã có cái thái độ quá đáng, hay nói chính xác hơn là quá quắt, khi đòi hỏi Nước Trung Hoa Là Một – One  China Policy. Ổng muốn thâu tóm tất cả vô cái phần đất dữ dằn (và chua lè) của mình cơ.

Ngày 1 tháng 7 năm 2017, Tập Cận Bình đến dự lễ kỷ niệm Hai Mươi Năm Trao Trả Hồng Kông – Hong Kong Handover 20th Anniversary. Bữa đó, tôi tình cờ cũng có mặt tại Hương Cảng và đang ngồi ăn mì (nên suýt ói) khi nghe thằng chả nói –  y như thiệt – trên TV rằng: “Hong Kong has always been in my heart.”

Biểu tình phản đối TCB tại H.K. Ảnh: South China Morning Post – 01 July, 2017

Tui quen cả đống người dân Hồng Kông, đủ mọi thành phần, chả hề nghe ai nói là trong trái tim họ lại có Tập Cận Bình cả. Họ cũng hoàn toàn không có chút xíu xiu thiện cảm, hay gắn bó gì với Trung Hoa Lục Địa. Giới truyền thông cũng phản ảnh y như thế:

– Reuter: Người trẻ Hong Kong muốn tất cả biết họ là người Hong Kong, không phải Trung Quốc.

– Le Monde: Thất bại của một đất nước, hai chế độ.

– RFI: Hồng Kông trong bàn tay thép của Trung Quốc.

– BBC: Đừng ảo tưởng rập đầu trước Trung Quốc.

– RFA: Người Hong Kong xin hộ chiếu Anh quốc vì lo sợ tương lai.

Người Đài Loan cũng vậy, cũng sợ thấy bà luôn. Đối với họ (chắc) hai chữ “cộng sản” cũng có nghĩa tương tự như “dịch tả” hay “dịch hạch,” chớ không là gì khác cả – dù  Tập Cận Bình vẫn luôn miệng trấn an:

“Sau khi thống nhất hòa bình, Đài Loan sẽ có hòa bình lâu dài và người dân sẽ được hưởng cuộc sống tốt đẹp và thịnh vượng. Với sự hỗ trợ tuyệt vời của ‘mẫu quốc,’ nền an ninh của đồng hương Đài Loan sẽ còn tốt hơn nữa, và không gian phát triển của họ sẽ còn lớn hơn nữa.”

Chuyện của thiên hạ nhưng FB Nguyễn – Chương Mt (VN) vẫn nhất định xía vô, và bàn ra, cho bằng được:

“Cái này kêu bằng ‘nằm mơ giữa ban ngày’ từ phía Bắc Kinh… Đài Loan đã và đang là một lãnh thổ độc lập gần 70 năm rồi đa! Bảy thập kỷ (từ 1950 tới nay) sống mình ên, mọi chính sách đối nội lẫn đối ngoại do Đài Bắc tự quyết định (Bắc Kinh chớ hề được phép nhúng tay vào mà ‘chỉ đạo’). Ở đời, có ai đang độc lập mà không chịu sướng, lại đi chui vào một thiết chế để cho người khác chỉ đạo? Mà phải chi Bắc Kinh văn minh hơn, mức sống dân chúng cao hơn, an sinh xã hội tốt hơn thì… cũng dám xin thôi độc lập để được nâng khăn sửa túi lắm à.”

Nguyễn – Chương Mt còn làm tài hay, cầm đèn chạy trước ô tô, mau mắn cho độc giả biết rằng: “Danh xưng ‘Cộng hòa Đài Loan’ (tức ‘Đài Loan dân quốc’ 台灣民國) đang rục rịch để một ngày đẹp trời thế chỗ, không còn xài danh xưng ‘Trung Hoa dân quốc’ (中華民國), khỏi dính tới vòng kim cô ‘One China’ làm chi cho má nó khi…”

Theo VOA, nghe được hôm 02/01/2019, Tổng Thống Thái Anh Văn cũng mới vừa tuyên bố : “Đại đa số người dân Đài Loan kiên quyết chống đối khái niệm ‘một quốc gia, hai chế độ,’ đây là sự đồng thuận tại Đài Loan.” Mấy tháng sau, ngày 8 tháng 4, Taiwan News đưa tin : “Thousands of Taiwanese protest against ‘one country, two systems’ in Kaohsiung. Hàng ngàn người Đài Loan xuống đường phản đối ‘một nhà nước, hai chế độ’ ở Cao Hùng.”

Chưa hết, RFI nghe được hôm 7 tháng 5 năm 2019, lại vừa hớn hở cho hay : “Hạ Viện Mỹ thông qua luật bảo vệ Đài Loan … Với 414 phiếu thuận và 0 phiếu chống.”

Tui thì không rành (và cũng không mặn mà) chuyện chính trị/chính em nên không dám xía vô, hay bàn ra gì ráo, chỉ trộm nghĩ rằng : hiện tại dân số Trung Cộng đã lên tới 1/5 tổng số nhân loại rồi, gieo trồng 1,418,804,794 trái quýt chua (lè) như vậy bộ chưa đủ sao mà còn muốn ấn thêm vô làm chi nữa, cha nội? Bộ không thấy hằng triệu người dân Hồng Kông đang xuống đường biểu tình phản đối và cả loài người đang nhăn mặt hay sao?

Hun Sen- STTD Tưởng Năng Tiến

Hun Sen

Nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh vừa có nhận định ngắn, về một vị quan chức cao cấp của xứ sở láng giềng (“Hunxen là nhà cai trị hiểu biết và bản lĩnh”) và đã nhận được không ít những lời lẽ tán đồng nồng nhiệt:

  • Đình m Nguyn: Chính xác.Một thời tôi đã hiểu sai về anh này.
  • Phuong Lam: Nếu ko bản lĩnh thì ông ấy ko tồn tại đến hôm nay ạ.
  • Nguyễn Ngoc Anh: Ông ấy là kẻ thức thời.
  • Tran Trong Duc: Campuchia là một nước nhỏ nhưng có một nhà lãnh đạo mang tầm vóc thời đại làm rạng rỡ dân tộc.

Tất cả quí vị thức giả thượng dẫn – tiếc thay – đều rất kiệm lời, không ai chịu nói thêm (đôi câu) về “bản lĩnh” của ông Samdech Hun Sen để người đọc được dịp mở mang tầm mắt. Tôi chưa bao giờ có dịp đặt chân đến London, Moscow, New York, Paris, Varsovie … (và cũng không cảm thấy hào hứng lắm, khi nghĩ đến những nơi xa xôi như thế) duy Kampuchea thì tôi có dịp lui tới rất nhiều lần nhưng chưa bao giờ nhận ra được cái “tầm vóc thời đại làm rạng rỡ dân tộc” của vị thủ tướng của đất nước này.

Lần gần nhất tôi ghé qua Cambodia là hồi đầu tháng 11 năm 2022, trước khi khai mạc Hội Nghị Cấp Cao Asean – kỳ thứ 40 và 41, tại Phnom Penh – chừng độ một tuần. Bộ mặt thủ đô của xứ sở này, giờ đây, đã hoàn toàn đổi khác.

Phố xá ngăn nắp và sạch sẽ hơn thấy rõ, nhất là con đường Preah Sisowath Quay và khu công viên (Riverside Park) nằm ngay mé sông Tonle Sap. Lũ trẻ con trần truồng, đen đủi, nhếch nhác (vẫn thường lê la chơi đùa trước Hoàng Cung) đều đã … đi chỗ khác chơi. Những kẻ vô gia cư hay nằm vật vã trên ghế đá cũng không còn nữa. Đám hành khất cũng thế, cũng biến mất tiêu. Cứ như thể là họ chưa bao giờ có mặt trên đất nước này, dù chỉ một ngày.

Sự đổi thay không chỉ diễn ra ở Phnom Penh. Dọc Quốc Lộ 1, hằng trăm bức ảnh của Hun Sen (khi ngồi, lúc đứng) đã được gỡ bớt và thay bằng chân dung của hoàng gia: Quốc vương Norodom Sihamoni, phụ vương Norodom Sihanouk, và hoàng thái hậu Norodom Monineath.

Dù chậm – cuối cùng – Hun Sen cũng đã hiểu ra rằng ngoài giới tăng lữ, ông còn cần thêm một liên minh chính thống (một ông vua làm cảnh kề bên) để bộ mặt của chế độ quân phiệt trông bớt phần tệ hại!

Cả ngàn bảng hiệu Cambodian People’s Party (Đảng Nhân Dân Cam Bốt) của Hun Sen cũng thế, cũng không còn xuất hiện trên từng cây số nữa. Xen vào đó là tên hiệu của dăm bẩy cái đảng dấm dớ nào đó: Candlelight Party, Youth Party, Liberty Party … Tuy không ai tin rằng Kampuchea đang thực thi chính sách đa nguyên hay đa đảng nhưng cái mớ hoa giả này cũng giúp cho không khí toàn trị ở Phnom Penh đỡ khó thở hơn – chút xíu!

Quốc lộ 5, dài hơn 400 KM – nối liền Nam Vang với Thái Lan – kể như đã hoàn tất. Không còn những đoạn lởm chởm ổ gà, và mịt mù bụi đỏ, như những năm trước nữa. Chạy suốt một mạch từ thủ đô cho đến tỉnh Pursat, gần cả dặm trăm đường (êm ru bà rù) nhưng tuyệt nhiên không có một cái BOT nào ráo trọi, và cũng chả thấy bóng dáng của một anh cảnh sát giao thông nào sất.

Ngay cả đến hương lộ (ngã rẽ vào làng nổi, Kampong Luong Floating Village, ở cuối Biển Hồ) cũng đã được sửa sang. Dù chỉ “tân trang” chút đỉnh thôi nhưng vẫn đỡ “gập ghềnh” thấy rõ.

Tôi hớn hở khoe những thành tích mà mình vừa chứng kiến với dăm ba tân hữu nhưng không nhận được chút đồng tình nào (ráo) mà còn bị chọc quê:

– Mày còn ở đây bao lâu nữa?
– Vài bữa nữa.
– Sao không ở luôn cho qua ngày hội nghị rồi hãy đi.
– Ở chi lâu dữ vậy, mấy cha?
– Để thấy đất Kampuchea sẽ trở về … nguyên trạng, sau cái màn trình diễn rất ngoạn mục và vô cùng tốn kém này của Hun Sen!

Thương nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau thì quả bồ hòn cũng vuông. Những người bạn trẻ trí thức mà tôi quen biết ở Cambodia – xem ra – chả mấy ai có cảm tình gì với vị thủ tướng (trường trị muôn năm) của đất nước họ nên mọi “thiện ý” của ông ta, nếu có, cũng đều bị nhìn với cặp mắt nghi ngờ hay dè bỉu.

Giới bình dân thì khác. Hun Sen, xem chừng, được họ dành cho nhiều thiện cảm hơn vì không chỉ hứa hẹn (suông) mà còn thực hiện được – đôi điều – thiết thực. Ông tuyên bố: Kể từ năm 2016, người lái xe grab, xe tuk-tuk, xe công nông, và ghe thuyền sẽ không phải đóng thuế nữa. Kẻ buôn thúng bán mẹt cũng thế, cũng được miễn thuế luôn. (Kang Sothear, “Hun Sen Announces Broad Cuts of Petty Taxes,” Cambodia Daily: October 23, 2015).

Khi có dịp tiếp xúc với vài vị đồng hương, đang lênh đênh trên Hồ Tonlé Sap, tôi còn được nghe nhiều lời tán thưởng về sự nới lỏng trong luật lệ di trú (vốn rất khắt khe) dành cho thân phận nổi trôi của họ. Có người còn bắt đầu nhen nhúm chút hy vọng là sẽ có lúc được sống (và chết) trên bờ, như đa phần nhân loại.

Chưa hết, gần triệu dân Việt ở Cambodia đều tin chắc chắn rằng cuộc sống tha phương cầu thực của họ sẽ khốn khổ và khốn nạn hơn nhiều, nếu Sam Rainsy (đối thủ chính trị của Hun Sen) có cơ hội cầm quyền.

Trong những ngày qua, Hun Sen còn vừa nhận được hàng loạt tràng pháo tay không ngớt của rất nhiều người (chứ chả riêng chi người Việt) vì đã công khai lên án Nga xâm lăng Ukraine và ngang nhiên bỏ phiếu chống lại Putin. Hun Sen, rõ ràng, không chỉ là một tay bản lãnh mà còn là một kẻ thức thời.

Ông có niềm tin vào tương lai (ít nhất thì cũng là tương lai của gia tộc và phe nhóm) với kỳ vọng là “không chỉ con mà đến cháu mình cũng sẽ thành thủ tướng Campuchia.” Và có lẽ vì thế nên đương sự không vơ vét hết ngân quỹ và tài sản quốc gia như quí vị lãnh đạo (vốn vừa đồng chí, vừa là anh em) bên nước láng giềng.

Ngoài những điểm son vừa kể, hồ sơ của Hun Sen – tất nhiên – không ít những điểm đen:

  • Chính phủ của Hun Sen đã chịu trách nhiệm việc cho thuê 45% tổng diện tích đất ở Campuchia, chủ yếu cho các nhà đầu tư nước ngoài, trong những năm 2007- 08, làm hơn 150.000 người Campuchia bị đe dọa trục xuất.
  • Hun Sen có liên quan đến tham nhũng tài nguyên dầu mỏ và tài nguyên khoáng sản của Campuchia, trong báo cáo Global Witness 2009.
  • Còn theo ước tính của Global Witness 2016 thì Hun Sen và gia đình đã  thâu tóm khoảng từ 500 triệu đến 1 tỷ Mỹ Kim, và bọn thủ hạ thì cũng hốt làm của riêng một mớ không phải ít. (Hun Sen and his family were estimated to have amassed between US$500 million and US$1 billion by Global Witness in 2016, and a number of allies have also accumulated considerable personal wealth during his tenure.)

Bằng cách nào mà gia tộc Hun Sen có thể hốt được tiền tỷ (U.S. Dollar) một cách dễ dàng, gọn gàng như thế? Câu trả lời có thể tìm được qua hai dữ kiện sau:

  • Hun Sen và đảng chính trị của ông, CPP, đã nắm giữ quyền thống trị gần như toàn bộ trên các phương tiện truyền thông chính thống trong phần lớn thời gian cai trị.
  • Tất cả 125 dân biểu quốc hội đều là người của Đảng Nhân Dân Cam Bốt, 58 trong số 62 thượng nghị sỹ cũng vậy, cũng đều nằm trong túi áo của Hun Sen tuốt luốt.

Khó mà phủ nhận được rằng Hun Sen là một tay bản lĩnh (có thừa) nhưng bản lĩnh của ông – tiếc thay – đã không giúp được cho dân tộc Khmer có đủ áo cơm, dù đã phải cầm cố gần nửa phần (45%) đất đai của Cambodia!

Tưởng Năng Tiến
11/2022

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Phi thuyền & bóng đá

Đàn Chim Việt Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến Tôi không rõ năm sinh hay ngày qua đời của thi sĩ Bùi Giáng nhưng vẫn nhớ hoài hai câu thơ (ngơ ngác) mà ông viết từ cuối thế kỷ trước, sau khi tầu vũ trụ Soyuz 37 được phóng lên không gian, vào hôm 23 tháng 7 năm 1980: Hoan hô đồng chí Phạm Tuân Khi không anh bỗng nhẩy tưng lên trời! Đây là một cú “nhẩy” lịch sử, được chuẩn bị rất kỹ càng và chu đáo, chớ đâu phải chuyện (khi khổng) “khi không” – cha nội. Chỉ cần xem lại mớ hành trang rình rang mà Phạm Tuân mang theo cho chuyến đi (ké) này cũng đủ thấy “ớn chè đậu” rồi: “Tôi mang theo quốc kỳ, quốc huy, chân dung của bác Hồ, bản tuyên ngôn độc lập do bác viết, di chúc bác để lại, cùng với một túi đất của quảng truờng Ba Ðình (nơi xây lăng của Hồ Chí Minh) và nhiều phù hiệu nữa…” – “I took several national flags, national emblems, portraits of Uncle Ho, his national independence proclamation, his testament, a small pack of soil from Ba Dinh Square [site of the Ho Chi Minh mausoleum] and many other badges.” (Vietnam Marks Anniversary Of Giant Leap – BBC 24 July, 2000). Vài năm sau, phóng viên Nguyễn Dũng Sĩ (báo Tuổi Trẻ, 17/01/2004) còn ngần ngại cho biết thêm rằng ngoài chân dung bác Hồ, Phạm Tuân còn mang theo “một tấm ảnh của Tổng Bí Thư Lê Duẩn” nữa cơ. Thiệt là quá đã, quá đáng, và … quá tải! Mớ hành lý lỉnh kỉnh vừa kể, tất nhiên, không phải do Phạm Tuân hay hiền mẫu (hoặc hiền thê) của ông sắp xếp. Đây hẳn phải là chủ trương của Đảng và Nhà Nước VN. Cũng như bao nhiêu chủ trương lớn khác, chủ trương này cũng hoàn toàn đúng đắn nhưng không đúng được lâu. Ba ngày sau, sau khi phi thuyền con thoi Atlantis của Hoa Kỳ hạ cánh, Gerard De Groot (tác giả của cuốn Dark Side of the Moon: The Magnificent Madness of the American Lunar Quest) kết luận: “Cho dù với tất cả phấn khích, bi kịch và thảm kịch, chúng ta vẫn chưa tiếp cận được câu trả lời là làm gì trong không gian” – Despite all the excitement, drama and tragedy, were no nearer an answer about what to do in space. (“The Shuttle: a journey through space and time that took us nowhere.” The Telegraph, 23 July 2011). Từ đó, thiên hạ không còn mấy hào hứng … “nhẩy tưng lên trời” như trước. Dân Việt, vì thế, mất hẳn cơ hội để ôm hình mấy bác – và cờ quạt – đu theo. Cũng kể từ đó, tháng 7 hằng năm không còn là dịp cho các cơ quan truyền thông của xứ sở này thi nhau xưng tụng thành tích (“chân dép lốp mà đi vào vũ trụ”) như xưa nữa. Buồn! May mà Nga không chỉ có phi thuyền mà lại còn có World Cup. Nhờ thế, dân Việt lại có cơ hội khiêng ảnh Bác và cờ quạt sang tận Mạc Tư Khoa: FB Đỗ Duy Ngọc phàn nàn: “Ronaldo ăn mừng bàn thắng thì anh ấy tự hào, thân nhân anh í tự hào, dân tộc anh ấy tự hào chứ mắc mớ chi đến Việt Nam mà khiến cả dân tộc tự hào. Ăn ké kiểu này vô duyên thúi. Đi xem World Cup, có Việt Nam thi đấu đâu mà cũng mang quốc kỳ theo, buồn cười. Sao không mang hình cụ Hồ với tướng Giáp luôn cho nó đủ bộ. Câu: ‘Vỡ oà khoảnh khắc lá cờ Việt Nam tung bay khi Ronaldo ăn mừng bàn thắng khiến cả dân tộc tự hào’ là cái tít báo ngu ngốc và hài hước nhất mà tui đọc được trong đời. Tui đọc đi đọc lại, tui nghiền ngẫm rất lâu mà không hiểu tự hào cái cc chi?” FB Trung Quang càm ràm: “Sự tự hào ăn mày. Chừng nào còn tự hào, còn hy vọng với lá cờ này, dân tộc này còn bị đe dọa diệt vong.” FB Bùi Thanh Tuấn chửi thề: “Đi ăn giỗ nhà người ta mày mang theo hình thờ của cha mẹ mày theo để làm cái đéo gì???!!!” FB Đào Lê Công còn nặng lời hơn nữa: “Đây là một hiện tượng quái thai.” Nói thế, tôi e có hơi quá đáng. Những đứa trẻ trâu vác hình Hồ Chí Minh và cờ xí qua Nga, trong dịp WC vừa qua, không phải là đám “quái thai” hay “hoang thai” đâu. Chúng đến từ nước CHXHCNVN (Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc) đàng hoàng, và được thừa hưởng tràn đầy đủ truyền thống tự hào, tự mãn (và tự sướng) từ những bậc “phụ mẫu chi dân” của xứ sở này:
  • Nguyễn Minh Triết: “Ngày nay, chúng ta ngẩng cao đầu, sánh vai cùng cường quốc…”
  • Trương Tấn Sang: “Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 30 năm đổi mới mà nhân dân ta đạt được khiến chúng ta hãnh diện và tự hào, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ.”
  • Nguyễn Phú Trọng: “Đất nước có bao giờ được như thế này không?”
  • Nguyễn Xuân Phúc: “Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam đứng thứ 5 thế giới.”
  • Nguyễn Thị Kim Ngân: “Đất nước này được như thế này, ngẩng mặt lên nhìn với bạn bè năm châu bốn biển như thế này, vai trò vị thế như thế này đó là do chúng ta duy trì được sự ổn định chính trị và trật tự an toàn trong cả nước.”
Tất cả họ đều nói cùng một giọng, và làm chung một điệu – theo nhận xét của Huỳnh Ngọc Chênh: Ông Đinh Thế Huynh bị bệnh nặng phải qua Nhật chữa. Trước đó ông Phùng Quang Thanh thì đi Pháp, ông Nguyễn Bá Thanh thì bỏ cả tiền triệu đô la qua tận nước Mỹ để nhờ họ cứu mạng. Nghe nói hai ông Chung và Thưởng vừa rồi lâm bệnh cũng đi Nhật và Pháp điều trị. Trước đó nữa, ông Võ Văn Kiệt thì đi Singapore, ông Nguyễn Minh Triết đi Pháp rồi đi Sing chữa bệnh. Đó là hàng lãnh đạo đảng cao cấp được biết đến nhiều. Còn hàng cán bộ đảng trung trung khi bị bệnh, len lén đi các nước tư bản chữa trị nhiều lắm, nên ít ai biết đến  Nhưng điều đáng nói ở đây là các bác trắng trợn lừa người dân. Các bác biết mấy nước cộng sản hoặc đã từng kinh qua cộng sản thân thiết ấy cũng giống như Việt Nam, trình độ y tế chẳng ra gì, dịch vụ tệ hại, lương tâm nghề nghiệp yếu kém, tình người thiếu vắng, nhưng các bác cứ hô lên là tốt đẹp để tuyên truyền cái định hướng XHCN là ưu việt. Các bác biết tỏng do cái gì làm ra sự tệ hại đó vì các bác đang nằm trong chăn cùng với các nước ấy. Cái gì làm cho nền y tế của Nga, của Trung cộng vĩ đại lại thua kém xa lắc nền y tế của một nước bé tí xíu là Singapore, đừng nói là so với Mỹ, Nhật, Châu Âu, các bác biết hết. Biết nhưng vẫn cố tình duy trì một nền y tế XHCN cho dân đen chịu đựng còn các bác và con cháu các bác thì thụ hưởng các dịch vụ y tế đỉnh cao của nhân loại không cộng sản. Tương tự như vậy, các bác xây dựng nên một nền giáo dục gọi là XHCN ưu việt cho con cháu dân đen thụ hưởng, còn phần lớn con cháu các bác thì đẩy hết qua các nước tư bản thù địch để bị nhồi sọ. Lừa đảo! Tưởng gì chớ lừa bịp thì là nghề của “các bác” ấy mà. Tổ quốc, nhân dân, chủ nghĩa … đều được mang ra dùng làm phương tiện (lừa gạt) ráo – mấy bức ảnh Bác hay mớ cờ quạt thì có ăn nhằm (ccc) gì mà cũng phải bận tâm. 2018

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ký Giả & Kỹ Giả Trong Vụ Án Khu Sinh Thái Bia Sơn

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ký Giả & Kỹ Giả Trong Vụ Án Khu Sinh Thái Bia Sơn

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

Nhà văn Phan Anh sinh năm 1984. Hơn hai mươi năm trước, trước khi ông mở mắt chào đời, làng báo của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (trong cùng một ngày) đã đồng loạt loan tin (*) về một vụ án gián điệp, với những lời lẽ mạt sát nặng nề đến độ lố bịch – dành cho các bị cáo :

  • Báo Thời Mới(21/01/1960): Năm tên gián điệp phản cách mạng, phá hoại hiện hành cúi đầu nhận tội …Nguyễn Hữu Đang và Thụy An, đầu sỏ chủ mưu, bị phạt giam 15 năm và mất quyền công dân 5 năm sau khi hết hạn giam.
  • Báo Nhân Dân(21/01/1960): Trước tòa án, với những bằng chứng đầy đủ, bọn gián điệp nói trên đã nhận hết tội lỗi của chúng.
  • Báo Thủ Đô Hà Nội( 21/01/1960): Tên Nguyễn Hữu Đang thú nhận: “Báo Nhân văn có tính chất chính trị ngay từ số 1. Mục đích của tờ báo là khích động quần chúng cùng với chúng tôi chống lại lãnh đạo.
  • Báo Quân Đội Nhân Dân(21/01/1960): Ta hãy nghe Đang cung khai trước Tòa án: Tôi đã gây hoài nghi đối với sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ. Tôi đã cổ động cho những xu hướng chính trị phản động. Tôi đã thổi phồng hoặc xuyên tạc bịa đặt ra những khuyết điểm để nói xấu Chính phủ và những cơ quan Nhà nước.
  • Báo Văn Học(05/02/1960): Nguyễn Hữu Đang thú nhận: “Tư tưởng của chúng tôi là phản động nên chúng tôi ra tờ báo Nhân văn để chống đối lãnh đạo, kích động quần chúng làm áp lực đấu tranh”. Ngoài báo Nhân văn, Nguyễn Hữu Đang còn dùng nhà xuất bản Minh Đức làm một công cụ để chống cách mạng. Y cung khai: “Tôi đã biến nhà xuất bản Minh Đức thành một công cụ chống lãnh đạo.”

Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại, Lê Nguyên Chí… và những nạn nhân có liên quan đến Nhân Văn – Giai Phẩm đều đã lần lượt qua đời. Tác giả của những bài báo bẩn thỉu kể trên (chúng tôi không nêu tên ra đây vì tôn trọng con cháu họ) có lẽ cũng đều đã chết.

Tuy thế, cái vết nhơ của nền tư pháp và truyền thông Việt Nam – qua phiên toà thượng dẫn – vẫn còn … sống mãi. Nó vẫn tồn tại với thời gian, mỗi lúc một thêm nhơ nhớp và …. “băng hoại tới mức độ không thể cứu vãn nổi” nữa – theo như cách nói của nhà văn trẻ tuổi Phan Anh.

Ông có quá lời chăng?

Xin để từ từ phân giải. Trước hết, hãy xem (qua) vài bài báo khác, xuất hiện trong những năm gần đây, về một “vụ án gián điệp, phản động, chống phá xuyên tạc cách mạng, âm mưu lật đổ…” – đã được xét xử tại toà án tỉnh Phú Yên :

  • Báo Công An(09/02/2012) : Tổ chức phản động “Hội đồng công luật công án Bia Sơn” do đối tượng Phan Văn Thu tức Trần Công (SN 1948, quê ở xã An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tổ 10, Liêm Trực, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định) cầm đầu. Đây là đối tượng đã lập nên tổ chức “Ân đàn đại đạo”, núp dưới danh nghĩa tu hành để hoạt động tình báo, gián điệp.
  • Báo Pháp Luật(05/02/2013): Nhóm hoạt động lật đổ chính quyền “chia nhau”… 299 năm tù. Sau 5 ngày xét xử, hôm qua, TAND tỉnh Phú Yên tuyên phạt Phan Văn Thu (còn gọi là Trần Công, sinh năm 1948, ngụ phường Bình Định, thị xã An Nhơn, Bình Định), đối tượng cầm đầu tổ chức phản động “Hội đồng công luật công án Bia Sơn” án chung thân về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.
  • Báo Thanh Niên(05/02/2013): Các bị cáo “Hội đồng công luật công án Bia Sơn” lãnh án…Theo HĐXX, từ năm 2003 đến tháng 2.2012, tại khu du lịch sinh thái Đá Bia (xã Hòa Xuân Nam, H.Đông Hòa, Phú Yên), Thu cùng đồng phạm thành lập tổ chức có tên gọi Hội đồng công luật công án Bia Sơn, núp bóng doanh nghiệp để xây dựng khu du lịch sinh thái Đá Bia thành căn cứ địa làm trung tâm chỉ huy hoạt động.
  • Báo Tuổi Trẻ(04/02/2013): Án chung thân cho thủ lĩnh “hội đồng công luật công án Bia Sơn… Với chiến lược “tiền sinh thái, hậu tổ đình” và “bất bạo động”, nhóm này đã tổ chức lập thành 12 ban, 26 pháp hội và 4 nhóm chưa đặt tên ở các địa phương; sáng tác, biên soạn nhiều tài liệu có nội dung xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Ngôn ngữ của những người làm báo Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Pháp Luật … bây giờ  – nghe ra – cũng cuồng tín, nông nổi, và “bẩn” không khác gì những cái loa sắt đặt ở Ba Mươi Sáu Phố Phường, hồi giữa thế kỷ trước. Đã thế, nay họ còn có thêm cái nét “đểu” (đặc trưng) của thời đại mới: “Nhóm hoạt động lật đổ chính quyền ‘chia nhau’ … 299 năm tù.”

Tuy thế, hai tuần lễ sau, vào ngày 17 tháng 2 (ngày đánh dấu 34 năm xảy ra cuộc chiến Việt-Trung ở biên giới phía Bắc) những người làm báo ở Việt Nam lại đồng lòng giữ im lặng trước sự kiện này. Không phải vô cớ mà đến nỗi có blogger đã gọi họ là bọn “đĩ bút an-nam.” Hoa ngữ cũng có một hạn từ đồng nghĩa nhưng được chuyển ngữ một cách thanh lịch hơn là “kỹ giả”:

“Trang mạng của “Đề án nghiên cứu truyền thông Trung Quốc” (China Media Project, 中國傳媒研究計劃) của Viện Đại học Hương Cảng có chuyên mục ‘Từ điển truyền thông’ (Media Dictionary) giảng giải những từ ngữ thuộc loại ‘chỉ có ở Trung Quốc’. Đọc rồi ngẫm lại thấy nhiều mục giống y như ở Việt Nam.

Từ kỹ giả là một ví dụ.  Mấy năm trước cư dân mạng đặt ra thuật ngữ này để bày tỏ bất bình với đạo đức nghề nghiệp yếu kém của giới làm báo. Từ này chỉ những nhà báo, nhất là từ các cơ quan truyền thông chính thức của đảng, sẵn sàng bẻ cong ngòi bút. Một thay đổi nhỏ nhiều hàm ý: về căn bản thì phát âm giống nhau, nhưng chữ  (記, ) trong ký giả (記者,jìzhě) được thay bằng kỹ (妓, jì; gái điếm).

Từ này được dịch sang tiếng Anh là whorespondent, kết hợp giữa whore (gái điếm) và correspondent (ký giả, phóng viên).” (Ký Giả Và Kỹ Giả – Phạm Vũ Lửa Hạ).

Tôi e rằng giới kỹ nữ sẽ cảm thấy bị xúc phạm khi họ bị đem ra so sánh với những kỹ giả ở Việt Nam, hiện nay. Bán thân nuôi miệng là một việc làm cổ xưa của nhân loại mà những người hành nghề đều là những kẻ (chả may) bị hoàn cảnh sống đẩy cho đến bước đường cùng.

Bán miệng nuôi thân cũng là một chuyện bất đắc dĩ, cũng có thể thông cảm được, khi con người ở vào tình thế chẳng đặng đừng. Trong cái không khí khủng bố, đe doạ (cùng với chính sách hộ khẩu khắc nghiệt) ở miền Bắc Việt Nam, khi xẩy ra sự kiện Nhân Văn/ Giai Phẩm, người ta có thể hiểu được cái thái độ hèn kém, cũng như cái ngôn ngữ hạ tiện của những người cầm bút – vào thời điểm đó – đã dành cho nạn nhân của vụ án. Họ (có lẽ) đã không có được lựa chọn nào khác ngoài việc “đánh đĩ ngòi bút” để được yên thân, chứ chả dám mong đến chuyện ấm thân.

Hơn nửa thế kỷ đã qua. Cái bức màn sắt che kín đất nước đã bị chọc thủng. Cái sổ gạo cũng không còn là vũ khí đáng sợ trong tay của Đảng CS Việt Nam. Người ta không nhất thiết cứ phải bám vào nhà nước mà vẫn có thể sống còn một cách đàng hoàng, và lương thiện. Cái thời mà người dân “sợ lạc đàn, sợ đi một mình không có cơm ăn, không có khí đốt, không có hộ khẩu thành phố” (theo như cách nói của Solzhenitsyn) cũng đã qua rồi.

Vậy điều gì đã khiến cho những người làm báo Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Pháp Luật …. hôm nay có thể thản nhiên gạt bỏ liêm sỉ, đứng về phía cường quyền (thay vì là nạn nhân) trước một vụ cướp đất trắng trợn – như xảy ra ở khu Sinh Thái Bia Sơn, thuộc tỉnh Phú Yên?

Hãy nhìn hai viên công an, đứng giữ tay ông Trần Thu (người bị kết án chung thân) trong tấm ảnh dưới đây đi. Họ trông đều rất buồn phiền và ái ngại. Chút tình cảm nhân bản đó, tiếc thay, không thể tìm thấy được trong bất cứ một bài báo của những người cầm bút VN (vừa) viết về vụ án này.

Nhà văn Phan Anh, rõ ràng, đã không quá lời khi thốt lên rằng: “Báo chí nước ta nó đã băng hoại tới mức độ không thể cứu vãn nổi.”

Tưởng Năng Tiến

————–
(*) Tất cả các bản tin về phiên toà xử Nhân Văn – Giai Phẩm, do Lại Nguyên Ân sưu tầm, đều có thể đọc được ở talawas 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Những cô giáo nhỏ

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Những cô giáo nhỏ

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

17/11/2022

Bữa coi phim Titanic tui khóc ướt áo luôn khiến mấy đứa nhỏ cười bò lăn, bò càng:

– Trời ơi, sao nghe nói “tuổi già hạt lệ như sương” mà ba lại nhiều nước mắt dữ vậy cà?

Sau con, tới vợ:

– Chắc tại cái tuyến nước mắt của ổng bị bể (ngang) nên nó mới tràn lan quá xá ể như vậy!

Tui (ra đường) hay đi tròng ghẹo thiên hạ nên (về nhà) bị mẹ con nó xúm lại chọc quê kể cũng… đáng đời. Tui không giận dỗi hay buồn phiền gì ráo mà chỉ cảm thấy mình cũng hơi kỳ.

Tui không chỉ yếu xìu trong chuyện làm tiền (cũng như làm tình) mà còn yếu ớt trong đủ thứ chuyện tào lao khác nữa. Tui đi mua hàng bị thối thiếu tiền nhưng sợ người bán ngượng nên đành nín lặng cho qua. Sáng sớm chạy tập thể dục, lỡ đạp nhằm con ốc sên (“nghe cái rốp”) là tui bần thần cho tới tận trưa luôn. Dọn vườn – có khi – lỡ tay làm gẫy một nhánh hoa, cũng khiến tôi đâm ra áy náy.

Nói tóm lại, và nói theo ngôn ngữ của tâm lý học phổ thông, là tui thuộc loại người đa cảm và có hơi nhiều … nữ tính. Đây không hẳn vì tính trời sinh đâu mà còn do ảnh hưởng của giáo dục từ những năm thơ ấu.

Không hiểu tại sao, và bằng cách nào, khi vừa đến tuổi cắp sách đến trường thì tôi (và năm bẩy thằng nhóc khác) lại được nhận vô trường nữ tiểu học Đoàn Thị Điểm – ở Đà Lạt. Thành phố này vốn sẵn nhiều bông, tui lại lâm vào cảnh “lạc giữa rừng hoa” nên trở thành “mong manh” là phải.

Các cô giáo của tôi đều là những phụ nữ xinh đẹp, dịu dàng, hiền lành và vô cùng tận tụy. Qua năm năm tiểu học, tôi được dậy dỗ kỹ càng nhiều điều cần thiết để thành người tử tế: phải rửa tay trước khi ăn, đánh răng trước khi ngủ, phải viết chữ (thay vì con số) ở đầu câu, phải xuống hàng sau mỗi đoạn văn đã đủ ý, phải vâng lời cha mẹ và anh chị, kính mến người già, tôn trọng thiên nhiên, thương mến xúc vật, quí trọng bạn bè, yêu quê hương đất nước, thương người như thể thương thân…

Tuy không không thành công hay hiển đạt (gì ráo trọi) tôi vẫn sống được như một người đàng hoàng cho mãi đến hôm nay là nhờ luôn ghi khắc (và biết ơn) những gì đã được học hỏi vào thưở ấu thời. Hình ảnh của những cô giáo (thiên thần) của tôi cũng thế, cũng mãi mãi in đậm trong tâm trí của một kẻ tha hương – dù tóc đã điểm sương.

Trên con đường học vấn, tôi tự cho mình là một kẻ may mắn. Ít nhất thì cũng may mắn hơn rất nhiều những đứa bé thơ, hiện đang lớn lên ở đất nước Việt Nam:

– Cô giáo mầm non dùng dép đánh vào đầu trẻ

– Viết sai chính tả học sinh bị cô giáo đánh thâm tím mặt

– Giáo viên buộc học sinh uống nước giẻ lau bảng

– Thầy giáo cấp 1 bị tố dâm ô 9 học sinh lớp 3 …

– Phụ huynh biểu tình phản đối lạm thu

Như đã thưa, tôi vốn đa cảm và yếu đuối. Nghe tiếng vỡ vụn của một cái vỏ ốc sên dưới gót chân (lỡ bước) cũng đủ khiến tôi cảm thấy bất an nên không khỏi hoang mang, lo ngại cho những mầm non xứ sở vì những mẩu tin thượng dẫn.

May thay – tuần rồi – tôi tình cờ quen được một cô giáo trẻ, đang đi thăm người  thân ở thủ đô Bangkok. Khi được hỏi về nghề nghiệp, cháu hãnh diện cho biết mình là một giáo viên dạy học tại một vùng quê thuộc tỉnh Nghệ An.

Tính cởi mở, và vẻ bặt thiệp, của người đồng hương khiến tôi bớt ngần ngại khi đặt những câu hỏi về tình trạng trẻ thơ bị ngược đãi hay bạo hành nơi trường học. Cháu xác nhận là có nhưng không nhiều lắm, và nói thêm rằng trở ngại lớn của nền giáo dục Việt Nam (hiện nay) là mức sống quá thấp nơi những thôn làng heo hút. Ở lắm chỗ, chuyện ăn mặc vẫn còn là vấn đề nên việc học hành gần như đang bị lãng quên hay bị coi như là điều xa xỉ.

Trước khi chia tay, chúng tôi trao đổi fb, email …  Có lẽ vì sợ tuổi tác khiến cho tôi khó cập nhật thông tin nên vài hôm cô giáo trẻ gửi cho tôi vài bài báo, rất cảm động, về công việc của nhiều bạn đồng nghiệp:

– Cô giáo bản nghèo, cống hiến tuổi thanh xuân cho học sinh vùng cao
– Cô giáo trẻ mang lời ca tiếng hát ra hải đảo
– Ngưỡng mộ cô giáo trẻ năng động, tâm huyết ở bãi bồi ven bờ sông Hậu
– Cô giáo 19 năm hi sinh hạnh phúc riêng vì học trò vùng cao

Tuần qua, tôi cũng tình cờ đọc được một đoạn văn ngăn (ngắn) nhưng đầy ắp tình cảm của nhà báo Mai Thanh Hải. Ông viết vì quá xúc động sau cái chết của một cô giáo vùng cao, bị lũ cuốn trôi:

Vẫn nhớ gương mặt em hòa lẫn cùng hơn 20 gương mặt giáo viên Mầm non toàn nữ, trong những ngày rét nhất, rét đến cứng đơ người của mùa rét 2011 năm trước, khi các em tập trung về điểm Trường chính Sàng Ma Sao (Bát Xát, Lào Cao) nhận áo ấm, thực phẩm, chăn màn của Gánh Hàng xén – “Cơm có thịt” cho bọn lít nhít đang ngồi yên ở điểm Trường Ki Quan San, đợi cô về.

Hôm ấy, mình phải ngủ lại điểm trường chính vì đường rừng bị sạt lở và lần đầu tiên, mấy thằng đàn ông bị “quây” rượu bởi hơn 30 cô giáo trẻ măng, vừa học xong đã phải lên trên bản dạy học, cả tháng may ra về Thị trấn được 1 lần.

Cuộc rượu về đêm, không say nổi bởi nghe các em thay nhau kể về cái cảnh thiếu thốn, chịu đựng và còn cả khát khao rất tầm thường của những thiếu nữ mới hơn 22-23 tuổi, đang ở phố thị, nhoằng cái phải lên rừng dạy học.

Sống cuộc sống không điện đóm, không tivi, không đài, không bạn bè, không tiếng người Kinh qua lại. Thiếu thốn từ hạt muối cho đến thanh củi, đêm nằm trong căn nhà tranh dột nát, gió lùa hun hút, không ngủ được vì lạnh, thành mất ngủ triền miên… Gần 2 năm, dự định gần Tết lại mang áo của Áo ấm biên cương lên Sàng Ma Sáo, gặp lại các em. Vậy mà!

Vĩnh biệt em, cô giáo Lý Thị Hồng (SN 1987, dân tộc Giáy, cư trú ở thôn Piềng Láo, xã Mường Hum, Bát Xát, Lào Cai) – Giáo viên thuộc phân hiệu Ki Quan San, Trường Mầm non xã Sàng Ma Sáo…

Họ hy sinh mọi thứ (kể cả tính mạng) nhưng họ chỉ được nhận lại khoản tiền thù lao vô cùng ít ỏi. Theo BBC: “Một nhà khoa học Việt Nam đưa ra đánh giá nói công an và quân đội có thu nhập chính thức cao nhất, còn nghề giáo và làm nông là thấp nhất nước này.” Bà Nguyễn Thị Kim Thanh – Trưởng Phòng GD, Sở GD-ĐT TPHCM – cho biết thêm chi tiết: “Tính ra, thu nhập của giáo viên mầm non còn thua cả người giúp việc!”

Ông Nguyễn Tiến Đạt, Phó Giám Đốc Sở GD-ĐT TPHCM, khẳng định: “Không đâu chăm lo mầm non tốt như ở nước ta!” Tôi e khó mà chia sẻ với sự lạc quan của vị Phó Giám Đốc Sở GD-ĐT TPHCM, trước thực trạng “thu nhập của giáo viên mầm non còn thua cả người giúp việc!”

Tuy thế, không ai có thể phủ nhận được sự tận tụy, cùng tấm lòng vị tha, của hằng vạn giáo viên trên khắp nẻo đường đất nước. Xin chân thành cảm ơn các em, các cháu – những cô gái Việt Nam vô danh và thầm lặng – đã vì những mầm non bất hạnh mà hy sinh, và trao trọn tuổi thanh xuân, để tương lai của xứ sở đỡ được phần đen tối.