Bên Thắng Cuộc: Một cuốn sách hay (2)

Bên Thắng Cuộc: Một cuốn sách hay (2) Ảnh: Danlambao
Ảnh: Danlambao
12.02.2013
Về thể loại của Bên Thắng Cuộc, có hai khía cạnh cần chú ý: phương pháp nghiên cứu và cách trình bày.
Về phương pháp, Huy Đức thu thập tài liệu chủ yếu qua các cuộc phỏng vấn, “hàng
ngàn cuộc phỏng vấn”, một phương pháp gắn liền với ngành khẩu sử (oral
history), một lối viết thịnh hành ở Tây phương từ khoảng cuối thập niên 1960,
và trở thành một ngành học ở các đại học Tây phương từ cuối thế kỷ 20. Khẩu sử
khác lịch sử. Khác, trước hết, ở nguồn tài liệu: với lịch sử, chủ yếu là các
văn bản viết; với khẩu sử, chủ yếu là các lời kể của những người trong cuộc
hoặc chứng nhân được thu thập qua các cuộc phỏng vấn. Khác nữa, ở đối tượng:
với lịch sử, đó là các tài liệu lịch sử, nói cách khác, lịch sử là lịch sử trên
lịch sử; với khẩu sử, đó là ký ức, hoặc ký ức cá nhân hoặc ký ức tập thể. Khác,
cuối cùng, còn ở tính chất, như là hệ quả của hai cái khác ở trên: trong khi
văn bản viết là những gì đã được công bố, nghĩa là, thứ nhất, thuộc về công
chúng; thứ hai, với những mức độ khác nhau, được xác minh, do đó, được xem là
ít nhiều đáng tin cậy; các lời kể trong các cuộc phỏng vấn, ngược lại, gắn liền
với từng cá nhân, xuất phát từ kinh nghiệm riêng, chúng có thể bị khúc xạ, bị
biến dạng, thậm chí, được “viết lại” theo những thay đổi trong tâm lý của người
kể. Nói cách khác, trong khi lịch sử là những gì đã được chọn lọc khá kỹ, khẩu
sử thường là những vật liệu thô; trong khi những người viết sử như những người
làm việc trong các tiệm kim hoàn, những người viết khẩu sử như những người làm
việc với vỉa quặng trong các hầm mỏ.
Tuy nhiên, về bản chất, lịch sử và khẩu sử giống nhau ở khá nhiều điểm. Thứ
nhất, chúng đều là những hình thức diễn ngôn về quá khứ (discourse about the
past) chứ không phải bản thân quá khứ. Quá khứ là những gì đã qua và đã biến
mất. Diễn ngôn về quá khứ là những tự sự được xây dựng để tái tạo lại quá khứ
ấy nhằm đáp ứng một nhu cầu trong hiện tại. Thứ hai, là diễn ngôn, cả lịch sử
lẫn khẩu sử đều có tính chất chủ quan, hoặc của một người hoặc của một nhóm
người. Thứ ba, do tính chất chủ quan ấy, cả lịch sử lẫn khẩu sử đều luôn luôn
được viết lại. Mỗi thời đại hoặc mỗi thế hệ đều cảm thấy có nhu cầu tái cấu
trúc ký ức và diễn dịch lại quá khứ, do đó, bao giờ cũng tìm cách viết lại
những gì các thế hệ đi trước đã viết.
Về cách trình bày, Bên Thắng Cuộc có tính chất báo chí hơn là lịch sử.
Có hai điểm khác nhau căn bản giữa báo chí và lịch sử: Thứ nhất, trong khi lịch
sử nặng về phân tích, báo chỉ nặng về miêu tả; thứ hai, trong việc sử dụng tài
liệu, kể cả tư liệu lấy được từ các cuộc phỏng vấn, yêu cầu cao nhất đối với
lịch sử là mức độ khả tín, nghĩa là cần được đối chiếu và xác minh cẩn thận;
với báo chí, là tính chất tươi ròng của tài liệu; và vì tính chất tươi ròng ấy,
nhiều lúc chưa chắc chúng đã chính xác, hoặc nếu chính xác, chưa chắc đã có ý
nghĩa tiêu biểu đủ để phản ánh thực chất của vấn đề.
Nhìn Bên Thắng Cuộc như một tác phẩm báo chí dựa trên phương pháp khẩu
sử, chúng ta dễ dàng chấp nhận một số khuyết điểm vốn rất dễ thấy trong cuốn
sách.
Thứ nhất, về phương diện cấu trúc, đặc biệt ở tập 2, “Quyền bính”; ở đó, thứ
nhất, quan hệ giữa các chương không theo một trật tự logic nào cả; thứ hai,
giữa các chương cũng không có sự cân đối cần thiết: có một số chương được viết
kỹ và nhiều chi tiết (ví dụ về Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt) hơn hẳn các
chương khác (ví dụ về Lê Khả Phiêu và Nông Đức Mạnh). Lý do khá dễ hiểu: Huy
Đức không hoàn toàn làm chủ nguồn tư liệu của mình. Với những người anh tiếp
cận được dễ, anh viết sâu; với những người ở xa, anh viết cạn. Vậy thôi.
Thứ hai, về vấn đề tư liệu. Huy Đức phỏng vấn rất nhiều người, nhưng không phải
TẤT CẢ mọi người ở mọi phía; hơn nữa, anh chưa tiếp cận được những nguồn tài
liệu mật của Bộ Chính trị nên nhiều vấn đề vẫn khiến người đọc hoang mang.
Trong số đó, có hai vấn đề lớn nhất: Một, việc cuối năm 1967, Hồ Chí Minh
thường xuyên sang Trung Quốc dưỡng bệnh và Võ Nguyên Giáp thì được cử đi
Hungary. Nhiều người cho đó là một cách nghi binh nhằm che giấu ý đồ tổng tấn
công vào Tết Mậu Thân. Huy Đức, theo lời kể của một số người, cho hai người bị
đưa đi “an trí” để Lê Đức Thọ ra tay thâu tóm quyền lực. Cách giải thích như
vậy lại làm nảy sinh nhiều vấn đề khác: chẳng hạn, tại sao Lê Duẩn và Lê Đức
Thọ lại tung ra cuộc đấu đá nội bộ ở vào một thời điểm quan trọng, lúc họ cần
đoàn kết và tập trung nhất cho một trận chiến quyết liệt như vậy? Hai, Huy Đức
cho giới lãnh đạo Việt Nam, trong những năm 1976 và 1977, không đánh giá đúng
mức sự thù nghịch của Pol Pot đối với Việt Nam và từ đó, tầm vóc của cuộc chiến
tranh chống Việt Nam do Pol Pot phát động, và đầu năm 1979, hoàn toàn bất ngờ
trước cuộc tấn công của Trung Quốc vào biên giới phía Bắc Việt Nam (GP, tr.
76); tuy nhiên, trước đó, anh lại kể, từ cuối năm 1977, trong chuyến thăm Cần
Giờ, Lê Duẩn đã trả lời thắc mắc của một số đảng viên trong huyện ủy: “Các đồng
chí hỏi đúng vào một tình hình cả nước đang quan tâm. Chúng tôi đau đầu lắm,
ngủ không được. Không phải là vấn đề Khmer Đỏ mà là vấn đề ai ở đằng sau Khmer
Đỏ, đằng sau Pol Pot. Ta đã đưa đại quân đâu, bọn nó làm sao chống ta nổi,
nhưng ta đánh nó, Trung Quốc đánh ta thôi.” (GP, tr. 72-3) Biết thế mà vẫn “bất
ngờ” là sao?
Thứ ba, quan trọng nhất, nhiều chương chỉ có tính chất tự sự nhưng lại thiếu
hẳn tính chất phân tích, do đó, tuy hấp dẫn, chúng không giải thích được gì cả.
Ví dụ, trong tập “Giải phóng”, Huy Đức viết về Lê Duẩn khá dài, nhưng phần lớn
đều tập trung vào cuộc sống và tính cách của ông: Ông có hai vợ, một ở miền Bắc
và một ở miền Nam; lúc ở miền Nam, ông nổi tiếng về nhiệt tình và năng lực làm
việc không biết mệt mỏi, lúc ra miền Bắc, ông lại nổi tiếng là thích nói chuyện
lý thuyết, và khi nói chuyện, có thói quen hay ngắt lời người khác. Nhưng có
những điểm quan trọng nhất lại không được phân tích: Một, tại sao Hồ Chí Minh
lại tin cậy Lê Duẩn đến độ giao ngay cho ông chức Tổng Bí thư ngay sau khi ông
mới ra Hà Nội như vậy? Lúc ấy, chung quanh Hồ Chí Minh, ngoài Trường Chinh vốn
đã bị mang tiếng sau vụ cải cách ruộng đất, có rất nhiều tay chân thân thiết,
kể cả hai người được ông và nhiều người khác yêu mến: Võ Nguyên Giáp và Phạm
Văn Đồng? Hai, tại sao, từ miền Nam mới ra Bắc, hầu như hoàn toàn đơn độc, chỉ
trong vòng mấy năm, Lê Duẩn đã có thể thao túng toàn bộ guồng máy đảng Cộng
sản, lấn át quyền hành của tất cả mọi người, kể cả Hồ Chí Minh, như vậy? Ông sử
dụng các biện pháp gì để xây dựng vây cánh và quyền lực một cách nhanh chóng và
hiệu quả như vậy? Ba, tại sao một người nổi tiếng quyền biến và, đến lúc chết,
vẫn có uy tín rất lớn, không những ở miền Bắc mà còn trên cả thế giới, như Hồ
Chí Minh, lại đành nhẫn nhục chịu đựng cảnh bị Lê Duẩn tước đoạt quyền hành mà
không hề tìm cách kháng cự như vậy? Đó là những vấn đề giới nghiên cứu lịch sử
Việt Nam hiện đại không thể không đặt ra.
Những khuyết điểm trên có thể được chấp nhận hoặc bỏ qua nếu chúng ta đọc Bên
Thắng Cuộc
như một tác phẩm tường thuật về tình hình chính trị của một thời
đại. Mang tính báo chí, Bên Thắng Cuộc gần với khẩu sử hơn lịch sử. Tự
bản chất, khẩu sử là ký ức. Với ký ức, quan trọng nhất là câu chuyện chứ không
phải phân tích. Mà các câu chuyện trong Bên Thắng Cuộc thì không những
hấp dẫn mà còn đa dạng vô cùng. Tính chất đa dạng ấy làm cho bức tranh Huy Đức
mô tả trở thành đa diện. Nhìn từ góc độ ấy, chúng ta sẽ thấy có khi ngay cả
những chi tiết nhí nhắt nhất cũng có thể hữu ích. Ví dụ, lời tâm sự của bà
Nguyễn Thụy Nga (trong sách có lúc viết tên lót là Thụy, lúc lại viết là Thị),
người “vợ miền Nam” của Lê Duẩn, về chồng bà: “Trong tình yêu anh cũng như con
nít” (GP, tr. 117). Câu ấy, tự nó, không tiết lộ được điều gì cả. Thì có người
đàn ông nào, trong tình yêu, lại không giống con nít? Nhưng nó vẫn giúp người
đọc, khi nhìn lại Lê Duẩn, thấy ở ông, ngoài hình ảnh một nhà lãnh đạo cuồng
tín, thủ đoạn và độc đoán, còn có một khía cạnh khác: một con người. Những cách
nói năng kiểu “thằng này, thằng nọ” của Nguyễn Văn Linh, cũng vậy, đều tiết lộ
một cá tính. Đối với người bình thường, cá tính thường bị loại trừ từ góc độ
nghề nghiệp. Nhưng với các chính khách, đặc biệt khi chính khách ấy nắm giữ vai
trò lãnh đạo, cá tính lại được chú ý vì nó ảnh hưởng đến chính sách, từ đó, đến
đường lối chung, và cũng từ đó nữa, đến cả vận mệnh của đất nước.
Bên Thắng Cuộc hay, rất hay, nhưng cũng giống như mọi cuốn tường thuật
hay khẩu sử, nó là một cái gì dở dang. Nó là một khối quặng chưa được tinh chế.
Nó cung cấp cho người đọc cả hàng ngàn câu chuyện từ cả mấy trăm người kể khác
nhau để người đọc, hoặc các sử gia sau này, so sánh, diễn dịch, phân tích
và/hoặc tổng hợp lại để thành một bức tranh hoàn chỉnh hơn.
Ở trên (bài số 1), tôi có viết điều tôi thích nhất ở Bên Thắng Cuộc
tư liệu. Vậy điều kế tiếp? Đó là quan điểm. Một số người ở hải ngoại, chỉ nhìn
vào mấy dòng lý lịch trích ngang của Huy Đức, thấy anh đã từng là bộ đội, lại
là sĩ quan, đã lên tiếng phê phán và tố cáo anh, dù có khi chưa hề đọc trang
nào trong cuốn sách. Đó chỉ là một nhận định vội vã và đầy thành kiến. Trong
lời nói đầu tập “Giải phóng”, Huy Đức cho biết cuốn sách của anh là “công trình
của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật”. Dĩ nhiên, chúng ta biết, “sự thật” là
một khái niệm rất mơ hồ. Và tương đối. Nhưng cách hiểu về cái gọi là “sự thật”
ấy của Huy Đức, theo tôi, rất đơn giản nhưng chính xác: Chúng là những gì khác
hẳn với “những thông tin được cung cấp bởi nhà trường và bộ máy tuyên truyền” ở
Việt Nam. Theo đuổi mục tiêu ấy, không thể nói lúc nào Huy Đức cũng thành công.
Đó là điều dễ hiểu. Ai cũng vậy thôi. Có điều tôi cho là đáng khen ngợi nhất ở
anh là anh có thiện chí và cố gắng.
Thiện chí và cố gắng ấy thể hiện ngay ở nhan đề cuốn sách: Bên Thắng Cuộc.
Tại sao không phải là “thắng trận” hay “chiến thắng” như hai cách nói khác
thông dụng hơn? Tôi nghĩ đó là một lựa chọn. “Thắng trận” chỉ thuần về quân sự.
Nhưng đề tài Huy Đức muốn trình bày không phải chỉ là quân sự. Còn “chiến
thắng”? Trong chữ “chiến thắng”, ngoài ý nghĩa “thắng”, còn có hai nét nghĩa
phụ khác, đi kèm, đến từ chữ “chiến”: chính nghĩa và vinh quang. Không ai dùng
chữ “chiến thắng” để nói về kẻ đi đánh lén người khác, chẳng hạn. Chữ “thắng
cuộc” hoàn toàn không có những hàm ý như thế. Đánh bài: thắng cuộc. Cá cược:
thắng cuộc. Dùng chữ “bên thắng cuộc”, Huy Đức, một mặt, tước bỏ các huyền
thoại chung quanh từ “chiến thắng” vốn thường được sử dụng, mặt khác, xem chiến
tranh, tự bản chất, như một ván bài về quyền lực. Vậy thôi. Trong ván bài, việc
thắng thua tuỳ thuộc may rủi chứ không dính dáng gì đến chuyện chính nghĩa hay
không chính nghĩa.
Trong tập “Quyền bính”, ở chương “XVII: Tam quyền không phân lập”, khi nói về
những sự thay đổi Hiến pháp ở Việt Nam, Huy Đức viết: “Hiến pháp 1992, vì thế,
đã không tiếp cận được những mô hình nhà nước tiến bộ để trở thành nền tảng cho
Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền.” (QB. 90) Xin lưu ý: chữ “tiến bộ” đằng
sau chữ “nhà nước” và đằng trước cụm từ “nhà nước pháp quyền” ở câu trên hoàn
toàn trái ngược với cách hiểu về chữ “tiến bộ” mà giới truyền thông Việt Nam
thường sử dụng.
Trong giới lãnh đạo Việt Nam, rõ ràng Huy Đức tỏ ra ưu ái đặc biệt với hai
người: Võ Nguyên Giáp và Võ Văn Kiệt. Nhưng ngay cả như vậy, ở cả hai, Huy Đức
đều nhận thấy những khuyết điểm căn bản của họ: trung thành một cách dại dột.
Phê bình như thế, Huy Đức thấy được một vấn đề thuộc về bản chất của chế độ.
Bản chất được anh viết trong lời nói đầu tập “Quyền bính”: “Hệ thống chính trị,
trải qua nhiều thế hệ, càng về sau lại càng có ít khả năng khắc phục sai lầm.”
Nhưng nếu nó không có khả năng tự khắc phục sai lầm thì sao? Ai sẽ đảm nhận
trách nhiệm ấy? Câu trả lời nằm trong những điều Huy Đức chưa nói hết: Có thể
là bất cứ ai, nhưng chắc chắn là không phải từ “hệ thống”.
Đó chính là lý do chính khiến báo chí trong nước xúm vào đánh cuốn Bên Thắng
Cuộc
.
Dĩ nhiên, Bên Thắng Cuộc không tránh khỏi khuyết điểm. Chả có cuốn sách
nào không có khuyết điểm cả. Vấn đề chỉ là nhiều hay ít. Ở cuốn Bên Thắng
Cuộc
, theo tôi: Ít. Điều thú vị là, hầu hết các sai lầm của anh đều liên
quan đến văn học. Trong chương “XI: Campuchia” của tập “Giải phóng”, anh nhận
định: “Cảnh giác với người Trung Hoa là điều đã có từ trong máu người Việt Nam.
Nhưng, trong lịch sử nghìn năm kháng cự để tồn tại với ‘thiên triều’, chưa có
triều đại nào lại công khai xác định Trung Quốc là ‘kẻ thù truyền kiếp và lâu
dài’ trong các văn kiện chính thức như thời Tổng bí thư Lê Duẩn.” (GP, tr. 160).
Sai. Huy Đức quên trong Bình Ngô đại cáo (1428) của Nguyễn Trãi có câu
này: “Kẻ thế thù đâu thể đội trời chung”  (Niệm thế thù khởi khả cộng đái
/ 念 世讎 豈 可 共 戴).
Thế thù: Kẻ thù truyền kiếp. Trong “chương XII: Cởi trói” của cuốn “Quyền
bính”, nhân nhắc đến các dấu mốc lớn trong  lịch sử báo chí Việt Nam, anh
viết : “Thơ Mới, cuối thập niên 1930” (QB, tr. 11).  Sai. Thời điểm ra đời
của Thơ Mới là đầu chứ không phải cuối thập niên 1930. Trong vòng chưa tới 10
năm, Thơ Mới đã đi hết một chặng đường. Cũng trong chương ấy, anh trích bài
“Vòng trắng” của Phạm Tiến Duật như sau: “Khói bom lên trời thành những vòng
đen / Và dưới mặt đất sinh ra bao vòng trắng / Tôi với bạn đi trong im lặng /
Khăn tang trên đầu như một số không” (QB, tr. 18). Sai nhiều chỗ. Nguyên văn
bài thơ ấy là:
Khói bom lên trời thành một cái vòng đen

Trên mặt đất lại sinh bao vòng trắng
Tôi với bạn tôi đi trong im lặng
Cái im lặng bình thường đêm sau chiến tranh.
Có mất mát nào lớn bằng cái chết
Khăn tang vòng tròn như một số không
Nhưng bạn ơi, ở bên trong vòng trắng
Là cái đầu bốc lửa ở bên trong.

Ngay cả mấy câu thơ của Nguyễn Duy được trích làm đề từ cho cuốn sách cũng sai:
Suy cho cùng trong mỗi cuộc chiến tranh
Bên nào thắng thì nhân dân đều bại.
Nguyên văn của Nguyễn Duy như sau:
Ta mặc niệm trước Angkor đổ nát

đá cũng tàn hoang huống chi là kiếp người

Đá ơi

xin tạc lại đây lời cầu chúc hoà bình!

Nghĩ cho cùng

Mọi cuộc chiến tranh
Phe nào thắng thì nhân dân đều bại…

(In trong tập Quà tặng, nxb Văn Học, 1990, tr. 78)
“Nghĩ” khác với “suy”, “mọi” khác với “mỗi”, và “phe” khác với “bên”.
Cũng như “bên thắng cuộc” khác với “bên chiến thắng”.
Một điều cuối cùng: Không ít người cho chọn cách tiếp cận từ phía những người
thắng cuộc như Huy Đức là một chọn lựa đầy thiên vị, từ đó, bức tranh anh muốn
phác họa sẽ bị lệch lạc theo. Theo tôi, không đúng. Thứ nhất, trong mọi lịch
sử, những người “thắng cuộc” – xưa là vua chúa, sau này, giới cầm quyền – bao
giờ cũng nằm ở vị trí trung tâm, cần được nghiên cứu nhất, bởi chính họ, một
cách tích cực hay tiêu cực, quyết định diện mạo của một thời đại và số phận của
một dân tộc. Thứ hai, vấn đề không phải lệch lạc hay không. Vấn đề chỉ là ở mức
độ. Không có một cuốn sách nào, kể cả lịch sử, chính xác hoàn toàn. Thậm chí,
các nhà hậu hiện đại chủ nghĩa còn hoài nghi cái gọi là lịch sử nói chung: Họ
xem lịch sử như một biểu hiện của đại tự sự (grand narrative), một tham vọng
đạt đến cái nhìn bao quát toàn bộ sự thật và thực tại: Với họ, đó là điều bất
khả. Hơn nữa, họ xem lịch sử bao giờ cũng gắn liền với một quan điểm và một góc
nhìn nhất định: lịch sử (history) là chuyện của ông-ấy, của một gã nào đó
(his-story). Chứ không có một lịch sử chung nhất cho mọi người.
Bên Thắng Cuộc là một tác phẩm hay nhưng dĩ nhiên, như mọi cuốn sách khác,
không hoàn hảo. Cái không hoàn hảo ấy cần được hoàn thiện dần dần. Bằng những
tác phẩm khác. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên. Và càng không đáng phản
đối.
***
Kỳ tới: Chân dung “bên thắng cuộc”
Chú thích: Số trang trong phần chú thích ghi theo bản “Smashworlds Edition”
của  Bên Thắng Cuộc.
Được xem 1 lần, bởi 1 Bạn Đọc trong ngày hôm nay