CHÚA CHE CHỞ VÀ Ở GẦN KỀ

CHÚA CHE CHỞ VÀ Ở GẦN KỀ

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Chính Chúa Là Đấng Vẫn Chở Che, Người Luôn Luôn Ở Gần Kề!

Cha Alfonso là Linh Mục cộng tác viên và là bạn thân của Linh Mục Giám Đốc một Cô Nhi Viện ở miền Bắc nước Ý. Cha Alfonso kể lại câu chuyện sau đây.

Nơi Cô nhi viện có Giuliano là thiếu niên 13 tuổi rất hung dữ và cộc cằn. Cậu bé có một niềm vui ác-quỉ là rất thích đập vỡ kính các xe lửa đang chạy trên đường rầy. Cậu lượm đá rồi canh chừng khi xe lửa chạy qua thì ném mạnh vào các kính xe. Cậu như muốn trả thù và trả thù. Dù không biết trả thù ai!

Giuliano không bao giờ chịu làm bài và học bài. Cậu chỉ chấp nhận học duy nhất các bài giáo lý, trong đó có kể chuyện Cuộc Đời Chúa Cứu Thế. Giuliano thường nói với các bạn:

– Tao thích học Phúc Âm vì thấy Đức Chúa GIÊSU cũng bị người ta cư xử tàn tệ như tao!

Đầu tháng 5 năm 2004, Cha Giám Đốc Cô Nhi Viện nói với các thiếu niên:

– Viện sẽ tổ chức một cuộc tĩnh tâm 3 ngày do Cha Alfonso hướng dẫn. Cuộc tĩnh tâm có mục đích chuẩn bị tâm lòng các con lãnh bí tích Giải Tội và Rước Lễ lần đầu. Ai muốn thì ghi tên tham dự.

Và Cha Giám Đốc ngạc nhiên biết bao khi thấy tên của Giuliano cũng nằm trong danh sách. Cha Giám Đốc hóm hỉnh nói với tôi:

– Thật hú hồn! Chúc bạn can đảm! Còn chúng tôi sẽ được nghỉ ngơi đôi chút!

Nghe Cha Giám Đốc nói, lòng cảm thấy hơi lo lo. Nhưng tôi phó thác tất cả trong bàn tay yêu thương dẫn dắt của Đức Chúa GIÊSU, Vị Thầy Chí Thánh Chí Nhân Chí Ái.

Ngày đầu tiên diễn tiến bình thường. Không có tai nạn nào đáng tiếc xảy ra. Các buổi cầu nguyện không kéo dài lâu. Trái lại các trò chơi thể thao được chú ý nhiều hơn. Giuliano là tướng lãnh dẫn đầu các cuộc chơi. Sang ngày thứ hai có vài chuyện đáng tiếc xảy ra nhưng không lớn lao và trầm trọng cho lắm. Đức Chúa GIÊSU đang ở giữa chúng tôi. Sang ngày thứ ba tôi thử chơi ván bài cuối cùng. Tôi chọn lựa thời điểm thuận tiện nhất trong ngày. Tôi nhẹ nhàng nói các thiếu niên về Đức Chúa GIÊSU. Tôi dùng lời nói và cách nói thật ngọt ngào. Tôi nói như rót mật vào tai. Tôi nói với trọn tâm lòng của một Linh Mục. Tôi kết thúc buổi nói chuyện như sau:

– Đức Chúa GIÊSU KITÔ yêu thương chúng ta với trọn những ưu và khuyết điểm của chúng ta. Ngài tha thứ và quên đi những lỗi lầm chúng ta đã làm. Ngài ban cho chúng ta một niềm vui mới lạ. Niềm vui chưa từng hưởng nếm.

Tôi để ý thấy Giuliano chăm chú lắng nghe. Cậu thiếu niên ngồi im như uống từng lời tôi nói. Tôi long trọng tuyên bố khởi đầu việc lãnh ơn tha thứ của Đức Chúa GIÊSU qua bí tích Hòa Giải. Tôi nói:

– Bây giờ Cha ngồi tòa giải tội. Ai trong các con sẵn sàng thì bắt đầu trước!

Tôi vui mừng khi thấy Giuliano giơ tay nói lớn tiếng:

– Thưa Cha, con xin xưng tội trước!

Thế là các thiếu niên khác xếp hàng nối đuôi sau Giuliano.

Nơi tòa giải tội, tôi lặng lẽ cầu nguyện. Tôi van xin THIÊN CHÚA Nhân Từ viếng thăm và thay đổi tâm lòng các thiếu niên đã trải qua quá nhiều thử thách: hoặc mồ côi hoặc bị cha mẹ bỏ rơi .. Xưng tội xong Giuliano ghé sát vào tai tôi thầm thì:

– Thưa Cha, Đức Chúa GIÊSU nói với con mấy điều. Ngài không nói bằng lời, nhưng nói với con vài điều. Tuy nhiên, giờ đây con không thể nói cho Cha biết là điều gì!

Tối hôm ấy các thiếu niên tỏ lộ nét vui mừng. Mọi người lên giường ngủ, không gây tiếng động, không lời nói ồn ào. Ngày kế tiếp tất cả trở lại Viện Mồ Côi và chuẩn bị cho cuộc Rước Lễ lần đầu vào sáng hôm sau. Thật là một đại lễ. Các thiếu niên mau mắn lên giường ngủ sớm. Thế nhưng chiếc giường của Giuliano lại trống trơn! Cha Giám Đốc lo lắng giơ tay than trời:

– Thôi rồi, cậu bé lại bỏ trốn một lần nữa!

Riêng tôi, tận thâm tâm không tin chuyện có thể xảy ra. Tôi thầm thì van xin Đức Chúa GIÊSU cứu giúp. Tôi đi một vòng để tìm Giuliano. Tôi đến nhà nguyện. Trong bóng tối tôi trông thấy một khối trắng. Đó là Giuliano đang quì cầu nguyện. Giuliano lại thầm thì với tôi:

– Chúa GIÊSU nói với con mấy điều. Ngài không nói bằng lời, nhưng quả thật Ngài nói với con.

Tôi hỏi:

– Chúa nói gì với con?

Cậu bé đáp:

– Xin Cha đợi một chút để con hỏi Chúa có bằng lòng con nói cho Cha biết không. Chúa nói được. Con có thể cho Cha biết. Chúa nói Ngài sung sướng vì con bằng lòng tiếp rước Ngài ngày mai. Nhưng Ngài, Ngài còn hài lòng hơn con vì được ngự vào lòng con.

Nói đến đây, hai hàng nước mắt chảy dài, Giuliano cảm động vừa khóc vừa nói:

– Thật là chuyện khó xảy ra. Bởi lẽ con là một đứa trẻ dữ dằn, không ai thương con hết!

Tôi chậm rãi giải thích:

– Chính vì thế mà Đức Chúa GIÊSU yêu thương con nhất, yêu hơn mọi người khác.

… ”Xin Chúa gìn giữ bạn đừng để bạn lỡ chân trật bước, xin Người chớ ngủ quên. Đấng gìn giữ Israel, lẽ nào chợp mắt ngủ quên cho đành! Chính Chúa là Đấng canh giữ bạn, chính Chúa là Đấng vẫn chở che, Người luôn luôn ở gần kề. Ngày sáu khắc, vầng ô không tác họa, đêm năm canh, vành nguyệt chẳng hại chi. Chúa gìn giữ bạn khỏi mọi điều bất hạnh, giữ gìn cho sinh mệnh an toàn. Chúa giữ gìn bạn lúc ra vào lui tới, từ đây cho đến mãi muôn đời” (Thánh Vịnh 121(120),3-9).

(”Il Settimanale di Padre Pio”, n.21, 29 Maggio 2005, trang 29)

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Ngôi Lời Là Ánh Sáng Ở Giữa Thế Gian Và Thế Gian Nhờ Người Mà Có!

Ngôi Lời Là Ánh Sáng Ở Giữa Thế Gian Và Thế Gian Nhờ Người Mà Có!

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 

Cuộc đời tội lỗi con đã được tẩy rửa trong Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ – RV

 Thầy làm vườn Urbano nói với Cha Giáo Tập Bruno:

– Anh chàng đến xin tu này có dáng điệu trông giống tên côn đồ hơn là kẻ đi tìm kiếm THIÊN CHÚA!

Rồi Thầy ghé tai Cha Bruno thì thầm:

– Cha nên cẩn trọng! Con đang chăm sóc mấy hàng cà chua bên dưới cửa sổ phòng khách. Nếu có gì nguy hiểm, Cha ra hiệu là con đến ngay!

Cha Bruno mỉm cười trả lời:

– Thầy an tâm! Đâu phải ai đến gõ cửa Đan Viện cũng đều phải là Thiên Thần cả! Vã lại, tôi quen việc thẩm định chân giả rồi!

Dầu nghe Cha Giáo Tập nói thế, Thầy làm vườn vẫn còn nghi ngờ. Thầy vặn lại:

– Cha cứ nhìn cái mũi méo xệch của anh ta thì đủ thấy. Sao giống cái tên chuyên nghề đấm đá quá! Do đó ..

Không để Thầy nói hết câu, Cha Bruno cắt ngang:

– Thôi được! Rồi chúng ta sẽ thấy! Vã lại Chúa đâu có phán xét chúng ta theo hình dạng bên ngoài mà theo các việc lành dữ chúng ta làm!

Nói xong, Cha Bruno đứng lên bước đến phòng khách. Nhìn qua cửa sổ, chàng trai quả trông giống một tên cướp! Cha Bruno nhủ thầm:

– Có lẽ Thầy Urbano có lý!

Vừa khi Cha Bruno bước vào, chàng trai giật mình đứng bật dậy như chiếc lò xo và tự giới thiệu cộc lốc:

– Bogdan Grela. Xin chào!

Cha Giáo Tập lịch sự đáp lại:

– Ngợi Khen Đức Chúa GIÊSU KITÔ!

Rồi Cha vui vẻ nói:

– Ơ kìa, anh không biết phải chào như thế nào cho đúng kiểu một tín hữu Công Giáo hay sao?

Sau mấy câu trao đổi, Cha Bruno biết ngay mình đang đối diện với tên đao phủ khét tiếng của nhà tù chính quyền cộng sản vô thần Ba Lan. Chính chàng đã treo cổ Cha Micae, vị Linh Mục bạn thân của Cha Bruno. Nhưng không mấy chốc sau đó, Cha Bruno đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Chàng trai bắt đầu nói với Cha Bruno về những ngày sau cùng của Cha Micae.

Cha Micae không giống bất cứ tử tội nào khác. Cha nhìn cái chết với đôi mắt an bình. Cha không coi con như kẻ thù nhưng như người con, hay đúng hơn, đứa con đáng thương. Một buổi chiều, sau khi phát xong bữa ăn tối, con đi thẳng vào phòng giam và hỏi Cha Micae:

– Ông có chuyện gì vui mà cứ mỉm cười với tôi như thế? Ông không biết là trong vòng 10 ngày nữa người ta sẽ treo cổ ông sao?

Cha Micae bình thản trả lời:

– Bị treo cổ đâu phải là một bất hạnh! Bất hạnh thật chính là sống bất hòa với THIÊN CHÚA!

Cơn giận bốc cao, con nói:

– THIÊN CHÚA ư? .. THIÊN CHÚA cóc cần! Nếu không, sao Chúa ông không can thiệp để ông khỏi bị treo cổ?

Cha Micae vẫn nhẫn nhục nói:

– THIÊN CHÚA không cóc cần đâu! Bằng chứng là để cứu chúng ta, Ngài đã bị treo xác trên Thánh Giá mà!

Nói xong câu này, Cha Micae cất tiếng cười vang! Gương mặt an bình, tiếng cười của Cha Micae làm con càng hăng tiết hơn nữa. Con nói:

– Thánh Giá dành cho ông chứ không phải cho tôi!

Cha Micae càng cười to hơn và nói:

– Thánh Giá chính là cho bạn. Nếu Chúa chết, chính vì bạn mà Chúa chết đó! Bởi vì Ngài yêu bạn!

Những cuộc đối thoại với Cha Micae dần dần làm con hồi tỉnh. Con lần lượt kể cho Cha nghe tất cả tội lỗi tầy trời của con: từ tội trộm cắp đến tội cướp của giết người. Cuộc sống ”dã man rừng rú” ấy biến con thành tên đao phủ lý tưởng cho chính quyền cộng sản vô thần Ba Lan!

Sau khi nghe con kể hết tội trạng, Cha Micae hiền từ nói với con:

– Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ sẽ rửa con sạch mọi tội. Con có bằng lòng lãnh bí tích Giải Tội không?

Dĩ nhiên con chấp nhận ngay.

Ngày hôm trước khi bị treo cổ, Cha Micae gọi con vào phòng giam và nói:

– Con có thể tìm cho Cha một ít rượu trắng và bánh mì Giáng Sinh (bánh mì không men truyền thống Ba Lan mùa Giáng Sinh) không? Cha ước ao cử hành Thánh Lễ cuối cùng trong cuộc đời Linh Mục của Cha!

Con đi tìm ngay rượu bánh và đem đến phòng Cha Micae. Trước khi cử hành Thánh Lễ, Cha Micae ban phép giải tội cho con và ôm hôn con. Con hỏi:

– Sao Cha lại có thể hôn con, một tội nhân đáng ghê tởm?

Cha trả lời:

– Nếu Cha không giống con, không phải vì công lao gì của Cha, nhưng hoàn toàn nhờ ơn Chúa gìn giữ. Con cũng như Cha, chúng ta đều được Chúa cứu chuộc nhờ Lòng Thương Xót vô biên của Chúa!

Trong Thánh Lễ, Cha Micae cũng cho con rước Mình và Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Sau Thánh Lễ, Cha Micae cho con địa chỉ của Cha và bảo con tìm gặp Cha, làm theo tất cả những gì Cha dạy bảo.

Nghe đến đây, Cha Bruno vô cùng xúc động. Cha nói:

– Cha tiếp nhận con như di chúc tinh thần của Cha Micae. Nhưng con nên nhớ kỹ điều này: cuộc đời tội lỗi con đã được tẩy rửa trong Máu Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Từ nay, Cha khuyên con không được kể ra với bất cứ ai khác, ngoại trừ khi con quỳ trước Thánh Giá Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Cha cũng khuyên con không được nghĩ tới dĩ vãng, ngoại trừ để dâng lời cảm tạ hồng ân vô biên THIÊN CHÚA Nhân Từ ban cho con.

 (Câu chuyện xảy ra tại một đan viện ở Ba Lan trong thời kỳ đất nước Ba Lan còn sống dưới ách cai trị độc tài của chính quyền cộng sản vô thần).

 … ”Ngôi Lời là Ánh Sáng thật, Ánh Sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con THIÊN CHÚA. Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi THIÊN CHÚA” (Gioan 1,9-13).

 (Maria Winowska ”Les Voleurs de Dieu”, Editions Saint Paul, 1989, trang 114-121)

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Giá Trị Vô Giá Của Đau Khổ

Giá Trị Vô Giá Của Đau Khổ

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

 

Con xin dâng những đau khổ của con lên Chúa qua tay Mẹ Rất Thánh của Chúa. Xin Chúa tha tội cho con. Xin cho con được trở về với Chúa

(Chứng từ của ông Phaolô Trần Quang Minh sống tại bang California bên Hoa Kỳ về cuộc đời và cái chết lành thánh của bào tỷ thân yêu)

Cách đây không lâu, tôi qua Úc để gặp mặt chị tôi lần cuối, vì bác sĩ nói cuộc sống của chị chỉ còn đếm từng ngày. Chị tôi có một người con bị bệnh thần kinh và một người chồng rượu chè cờ bạc. Mỗi khi say, anh thường chửi la gây gổ làm cho cuộc sống của chị phải đau khổ rất nhiều. Đến một ngày, chị mệt phải vào nhà thương. Bác sĩ cho biết chị bị ung thư gan, gan không còn làm việc, sẽ chết một ngày rất gần. Nghe tin dữ, chị bị tinh thần sụp đổ, Đức Tin lung lay và bắt đầu than thân trách phận.

Trên đoạn đường từ Mỹ sang Hồng Kông rồi từ Hồng Kông sang Úc, tôi mỏi mệt và buồn ngủ lắm, nhưng luôn cố gắng thức để cầu nguyện. Tôi nhớ đến đoạn đường xa xôi và khổ cực mà Đức Mẹ đã đi, để viếng thăm Bà thánh Isave. Khi vừa gặp Đức Mẹ thì Bà Isave tràn đầy ơn Thánh Thần. Tôi liền nài van, khẩn cầu Đức Mẹ: ”Xin Đức Mẹ hãy chiếm hữu lòng con để con đem ơn Thánh Thần đến cho chị con”.

Đến Úc, tôi vào ngay nhà thương để gặp chị. Câu nói đầu tiên là chị hỏi tôi: ”Em có bắc mối liên hệ được với Chúa không vậy?”. Tôi nhẹ gật đầu. Chị nói tiếp: ”Đời chị sao cứ khổ miết, khổ miết!”.   Tôi ở lại nhà thương để săn sóc chị vì chị bị căn bệnh ung thư hành hạ quá đau đớn. Chị nói với tôi: ”Trước đây, mỗi khi nghe đến trợ tử là chị chống đến cùng. Bây giờ chị mới thấy nó đúng!”. Có lúc chị tuyệt vọng la lên: ”Sao không có lối thoát vậy?”. Tôi xót xa nhìn chị và âm thầm cầu nguyện.

Mấy hôm sau, giờ phút thuận tiện đến. Trong phòng chỉ còn tôi với chị. Tôi quỳ xuống, cầm tay chị rồi nhìn thẳng vào mắt chị và nói: ”Chị không còn thời gian nữa. Chị phải sửa soạn tâm hồn để trở về với Chúa”. Chị trả lời: ”Chị không biết trở về làm sao? Không biết nói gì với Chúa!”. Tôi nói với chị: ”Dễ lắm! Chị có nhớ dụ ngôn người con hoang đàng không? Phúc Âm không kể nó bỏ đi bao lâu, nhưng chắc phải nhiều năm. Ngày ngày người cha nhìn ra xa xăm trông ngóng. Vì vậy khi nó còn ở đàng xa thì cha nó đã thấy nó. Ông chạy tới ôm lấy nó hôn lấy hôn để. Già đâu còn sức để mà chạy, vậy mà ông đã phải chạy”. Chị tôi nói: ”Tại vì ông quá thương nhớ nó”. Tôi tiếp lời chị: ”Hiện tại ngay bây giờ, Chúa cũng đang trông ngóng chị, đang ước ao được ôm chị vào lòng, hôn lấy hôn để”. Nghe đến đây, nét mặt chị tôi lộ vẽ xúc động.

Tôi liền bảo chị: ”Chị hãy nhớ lại tất cả những khổ cực chị đã chịu để lo cho con, cho thằng Nguyên, những khổ cực chị phải chịu với chồng và nhất là những đau khổ của căn bệnh hiện tại chị đang chịu. Chị phải ‘muốn thật là muốn’ nó đã xảy ra cho chị!”. Ơ Hơ!!! Chị tôi trố mắt kinh ngạc nhìn tôi. Tôi giải thích cho chị nghe: ”Chớ thằng trộm dữ nó đâu có muốn đâu, nhưng nó cũng phải vác thập giá, rồi nó cũng chết, rồi nó rơi xuống hỏa ngục”. Nghe đến ”rớt xuống hỏa ngục” thì tôi thấy chị giật mình hoảng sợ. Tôi lại nói tiếp: ”Còn người trộm lành, đâu phải chỉ nhờ vào câu nói với Chúa: ‘Khi nào lên Trời xin Ngài nhớ đến con’ mà ông ta được vào thiên đàng ngay đâu. Ai có tội cũng phải đền tội. Sở dĩ ông được lên thiên đàng ngay là ở câu ông nói với tên trộm dữ: ‘chúng ta bị như vầy là đáng tội’. Câu nói đó có nghĩa là ông ta đã bằng lòng chịu những đau khổ ông đang chịu để đền tội cho những tội lỗi ông đã phạm. Khi chết mình không còn tự do để lựa chọn nữa. Bây giờ còn sống còn tự do, nếu mình thực lòng bằng lòng chịu khổ, chịu nhục, để đền tội, thì khi chết, những đau khổ mình phải chịu dưới luyện ngục, sẽ được giảm đi rất rất là nhiều lần. Vì vậy người trộm lành không còn cần phải xuống luyện ngục để đền tội nữa, vì ông đã đền tội đủ rồi”.

Rồi hai chị em bắt đầu cầu nguyện. Chị chậm rãi lập lại theo tôi: ”Lạy Chúa, lạy Đức Mẹ, con xin bằng lòng chịu tất cả những đau khổ đã xảy ra trong cuộc đời con, đau khổ với chồng, với con và nhất là căn bệnh ung thư đang làm cho con phải đau đớn tột cùng, để đền bù những tội lỗi con đã phạm, làm đau lòng Chúa, làm buồn lòng chồng của con, con của con cũng như anh em con. Con xin dâng tất cả những đau khổ của con lên Chúa qua tay Mẹ Rất Thánh của Chúa. Xin Chúa tha tội cho con. Xin cho con được trở về với Chúa”.

Sau đó chị đã đọc Kinh Ăn Năn Tội chậm rãi, sốt sắng. Niềm Vui và Bình An rạng ngời trên khuôn mặt của chị.

Tôi nói tiếp với chị: ”Còn ông Simon đang đứng coi, bị quân dữ bắt vác đỡ Thánh Giá cho Chúa, nhưng khi kê vai vác rồi thì ông vác rất nhiệt tình”. Vậy chúng ta cùng cầu nguyện: ”Lạy Chúa, con xin lỗi Chúa vì từ bấy lâu nay con chỉ muốn Chúa chia sẻ cho con bình an và hạnh phúc của Chúa, còn những lúc đau khổ thì con để Chúa phải cịu một mình. Xin Chúa cho con từ nay được cùng chia sớt đau khổ với Chúa, được cùng vác Thánh Giá với Chúa”.

Lúc đó tôi ước gì mọi người nhìn thấy được khuôn mặt, ánh mắt của chị khi chị cứ lẩm bẩm lập đi lập lại: ”Cho con được cùng chia sớt đau khổ với Chúa, được cùng vác Thánh Giá với Chúa”. Tôi chưa từng thấy ai cầu nguyện một cách thiết tha, chân thành như vậy. Chị nói: ”Cầu nguyện như vầy tốt quá, từ giờ trở đi, cứ theo những ý này mà cầu!”. Tôi liền nói với chị: ”Những đau khổ chị đang chịu đây, nếu mà là chị chịu, thì chẳng giúp ích gì được cho ai, nhưng nếu là Đức Chúa GIÊSU đang chịu, thì lại là một chuyện hoàn toàn khác, sẽ cứu được rất rất là nhiều linh hồn”.

Rồi chị tôi và tôi cùng cầu nguyện như sau: ”Lạy Chúa, lạy Đức Mẹ, con chỉ là người tội lỗi, hèn hạ, chẳng ra gì, nhưng để chứng tỏ quyền phép của Chúa, không phải Chúa và Mẹ thích dùng những gì hèn hạ nhất, chẳng ra gì nhất, để làm những chuyện lớn lao của Chúa sao? Vậy thì con đây, con xin dâng đời con lên Chúa qua tay Đức Mẹ, từ nay đời con không còn là của con nữa. Con không còn làm chủ cuộc đời con nữa. Con cũng không còn làm theo những gì con muốn nữa. Xin Chúa hãy dùng con để tiếp tục chịu trăm ngàn đau khổ, nhục nhã, xấu hổ một cách vô cùng bất công để đền tội cho nhân loại, để cứu các linh hồn, để làm cho mọi người nhận biết Tình Yêu bao la của Chúa mà trở về cùng Chúa”.

Vài ngày sau, chị kiệt sức. Bác sĩ cũng không hiểu tại sao với liều thuốc morphine tối đa như vậy mà cũng không làm giảm đi chút nào đau đớn của chị. Tôi thấy cứ một chút chị lại yếu ớt đưa tay lên làm dấu Thánh Giá. Và chị đã ra đi trong vòng tay yêu thương của Đức Chúa GIÊSU và Đức Mẹ MARIA.

 … ”Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được. Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mátthêu 10,37-42).

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

NGƯỜI NỮ CHIẾN THẮNG CON RẮN

NGƯỜI NỮ CHIẾN THẮNG CON RẮN

Sự tích Lễ mừng Đức Bà Guadalupe ngày 12/12

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Trong chuyến viếng thăm mục vụ Mêhicô lần thứ hai, Đức Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (1978-2005) nâng thổ dân Juan Diego (1474-1548) lên hàng Á Thánh vào Chúa Nhật 6-5-1990.  Hôm ấy, Đức Thánh Cha âu yếm gọi tân chân phước là “người tâm phúc của Đức Bà dịu hiền Tepeyac.”  (Thổ dân Juan Diego được Đức Mẹ Maria (Đức Bà Guadalupe) hiện ra 5 lần vào năm 1531).

NGUOI NU CHIEN THANG

12 năm sau, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II sang thủ đô Mêhicô lần thứ năm và chủ sự lễ tôn phong hiển thánh cho chân phước thổ dân Juan Diego vào ngày 31-7-2002.

Xin lược thuật 5 lần Đức Nữ Trinh Rất Thánh Maria hiện ra cùng thổ dân Juan Diego trên đồi Tepeyac.  Lần đầu vào sáng thứ bảy 9-12-1531 và lần cuối vào chiều thứ ba 12-12-1531.  Trong lần hiện ra sau cùng, Đức Mẹ Maria tỏ lộ danh thánh là “Đức Bà Guadalupe.”  “Guadalupe” trong tiếng thổ dân có nghĩa “Người Nữ Chiến Thắng con rắn.”

Các cuộc hiện ra được thổ dân Antonio Valeriano (1520-1605) kể lại tỉ mỉ.  Thổ dân Antonio Valeriano sống đồng thời với thổ dân Juan Diego.  Vào năm 1531, thổ dân Juan Diego 57 tuổi và thuộc về nhóm thổ dân thiểu số rất ít người.  Trước đó 7 năm, ông Juan Diego lãnh bí tích Rửa Tội cùng với người vợ hiền là bà Maria Lucia.  Bà Maria Lucia qua đời năm 1529.

LẦN HIỆN RA THỨ NHẤT

Hôm đó là sáng thứ bảy 9-12-1531, ông Juan Diego đến nhà thờ Thánh Giá ở Tlatelolco để tham dự buổi học giáo lý.  Khi đến gần đồi Tepeyac, ông nghe tiếng líu lo êm ái, tiếng ríu rít nhẹ nhàng, với các cung trầm bổng tuyệt vời của muôn ngàn chim sẻ, như tiếng nhạc réo rắt vọng xuống từ trời cao.  Thổ dân Juan Diego vô cùng bỡ ngỡ.  Ông dồn dập tự hỏi: “Liệu mình có xứng đáng với những gì đang nghe không?  Hay mình đang mơ?  Mình đã tỉnh hẳn chưa?  Mình đang ở nơi nào đây?  Có lẽ mình đang ở địa đàng, nơi cõi trần hạnh phúc mà các bậc tiên tổ đã nói tới chăng?  Hay là mình đã vào thiên đàng rồi?”  Còn đang đảo mắt nhìn chung quanh, bỗng tiếng hót im bặt và ông nghe một tiếng nói xa xôi, vọng xuống từ trên cao và gọi rõ tên ông:
– Juan Diego, Juan Diego bé nhỏ!

Juan Diego không hề cảm thấy sợ hãi, trái lại, ông sung sướng tiến nhanh về hướng đồi cao.  Khi leo lên tới đỉnh, Juan Diego trông thấy một Bà đang đứng đó.  Bà ra hiệu mời Juan Diego tiến lại gần Bà.  Khi đến trước mặt Bà, Juan Diego vô cùng bỡ ngỡ và kinh ngạc trước vẻ đẹp siêu thoát của Bà.  Áo Bà long lanh các tia sáng mặt trời.  Tảng đá nơi Bà đặt chân như toàn bằng đá quí và mặt đất chung quanh Bà tỏa sáng như cầu vòng.

Thổ dân Juan Diego kính cẩn quì xuống và cảm động lắng nghe lời Bà nói cách êm ái dịu dàng:
– Hỡi Juan bé nhỏ, người con nhỏ bé nhất trong các con Mẹ, con đang đi đâu đấy?
Juan Diego trả lời:
– Thưa Bà, con phải đến Nhà Bà ở Messico-Tlatelolco để tiếp tục học về các mầu nhiệm của Thiên Chúa do các linh mục dạy.  Các linh mục là các thừa tác viên thánh của Chúa chúng ta.

Bà Đẹp liền bày tỏ cùng Juan Diego ước muốn của Bà:
– Con hãy cẩn trọng ghi khắc nơi lòng con rằng con là người bé mọn nhất trong các con của Mẹ, và Mẹ chính là Đức Nữ Trinh Rất Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa thật, Đấng là suối nguồn sự sống, là Đấng Tạo Dựng muôn loài.  Ngài là Chủ Tể trên trời và dưới đất.  Mẹ hết sức mong ước người ta xây cất nơi đây một đền thánh, hầu Mẹ có thể minh chứng và trao ban cho mọi người tình thương của Mẹ, lòng cảm thông, sự trợ giúp và che chở của Mẹ.  Bởi vì, Mẹ là Mẹ Từ Bi của các con, Mẹ của riêng con, cũng như của toàn dân sống trên phần đất này và của tất cả những ai thành khẩn kêu cầu cùng Mẹ với trọn lòng tin tưởng.  Mẹ nghe rõ tiếng kêu than ai oán của họ.  Mẹ muốn trao ban cho mọi người phương thuốc chữa trị các nỗi đau đớn, các khó khăn cùng các sầu khổ buồn phiền.  Và để có thể thực hiện các nguyện ước khoan nhân của Mẹ, con hãy đi tới tòa Giám Mục Mêhicô và thưa với Đức Giám Mục rằng, chính Mẹ sai con tới và Mẹ ước ao người ta xây cho Mẹ một đền thánh trên ngọn đồi này.  Con hãy kể lại tỉ mỉ cho Đức Giám Mục tất cả những gì con thấy và nghe.  Con hãy tin chắc rằng, Mẹ sẽ nhớ ơn con, Mẹ sẽ ban thưởng cho con.  Mẹ sẽ làm cho con được hạnh phúc và con, con sẽ xứng đáng với phần thưởng, dành cho các cố gắng và các nhọc mệt con hy sinh để chu toàn sứ mệnh Mẹ trao phó.  Đấy nhé, con đã nghe rõ mệnh lệnh của Mẹ, hỡi con Mẹ, đứa con nhỏ bé nhất trong tất cả các con Mẹ.  Bây giờ con hãy đi và dùng trọn sức lực để thi hành công tác.

Thổ dân Juan Diego kính cẩn cúi mình nói:
– Thưa Bà, con sẽ đi ngay và thực hiện lệnh Bà truyền.  Giờ đây đứa đầy tớ khiêm hạ của Bà xin được phép lui gót.

Ông Juan Diego mau mắn xuống khỏi đồi và trực chỉ thành phố Mêhicô.  Vào thành, ông đi thẳng đến tòa Giám Mục.  Vị Giám Mục sở tại lúc bấy giờ là Đức Cha Juan de Zumárraga thuộc dòng Anh Em hèn mọn thánh Phanxicô.  Juan Diego xin gặp Đức Cha và thưa với ngài về sứ điệp của Bà Đẹp Thiên Quốc.  Nhưng Đức Cha không tin lời ông nói.  Juan Diego buồn bã ra về, lòng thất vọng vì nhiệm vụ giao phó không hoàn thành.

LẦN HIỆN RA THỨ HAI

Cùng ngày thứ bảy 9-12-1531, thổ dân Juan Diego quay trở lại đồi Tepeyac.  Khi lên tới đỉnh đồi, Juan Diego trông thấy Bà Đẹp Thiên Quốc đang đứng chờ mình.  Ông quỳ sụp xuống và nói:
– Thưa Bà, con đã mang sứ điệp của Bà đến cho Đức Giám Mục.  Ngài ưu ái lắng nghe con nói, nhưng ngài không tin lời con.  Có lẽ ngài nghĩ là con bịa chuyện.  Vì vậy, con tha thiết xin Bà, xin Bà hãy trao phó nhiệm vụ này cho một người khác quan trọng hơn.  Có thế, Đức Giám Mục mới tin.  Bởi vì con chỉ là người chót bét, một sợi dây mỏng manh, một chiếc thang bằng gỗ, một cái đuôi, một mảnh giấy.  Con thuộc về một nhóm dân cùng đinh, nghèo khổ, vậy mà Bà lại sai con đến một nơi quá cao xa đối với con, đến một chỗ mà con không bao giờ dám đặt chân tới.  Xin Bà tha thứ cho con, nếu con làm phật ý Bà, nếu con làm Bà nổi giận.  Hỡi Bà là Bà Chủ của con!

Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria trả lời:
– Hỡi người con bé nhỏ nhất của Mẹ, hãy lắng nghe lời Mẹ nói đây.  Mẹ biết rõ là có nhiều tôi tớ khác của Mẹ có thể thi hành mệnh lệnh Mẹ truyền.  Tuy nhiên, Mẹ rất cần đến sự giúp đỡ của con.  Vậy thì, Mẹ truyền cho con trở lại tòa Giám Mục một lần nữa.  Ngày mai, con đến tòa Giám Mục và thưa với Đức Cha rằng con đến nhân danh Mẹ và xin ngài xây cất một đền thờ theo ý hướng của Mẹ.  Con lập lại với ngài lần nữa rằng chính Mẹ là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, chính Mẹ đã đích thân sai con đến với ngài.

Thổ dân Juan Diego khiêm tốn thưa:
– Thưa Bà, con không hề muốn làm phiền lòng Bà, con sẽ trung tín thi hành nhiệm vụ Bà trao phó.  Con không quản ngại đường xa cũng không lưu ý việc Đức Giám Mục không tin lời con nói.  Ngày mai, con sẽ mang đến cho Bà câu trả lời của Đức Giám Mục.  Bây giờ xin Bà cho phép con ra đi. Trong khi chờ đợi, xin Bà nghỉ ngơi!

Sáng hôm sau, Chúa Nhật 10-12-1531, thổ dân Juan Diego rời nhà thật sớm đi tới Tlatelolco để tham dự các buổi cử hành phụng vụ.  Trong lòng, ông cương quyết tìm mọi cách gặp cho bằng được Đức Giám Mục.  Thánh Lễ kết thúc, thổ dân Juan Diego phải nài nỉ mãi người ta mới cho ông được hầu chuyện với vị Giám Mục.  Ông quì gối trước mặt Đức Giám Mục, vừa khóc ông vừa lập lại lệnh truyền của Bà Đẹp Thiên Quốc.  Ông khẩn khoản xin Đức Giám Mục tin lời ông.  Ông tha thiết xin ngài chấp thuận thi hành ước nguyện của Đức Nữ Trinh Vô Nhiễm.

Với mục đích kiểm chứng thực hư, Đức Cha Juan de Zumárraga đặt ra không biết bao nhiêu câu hỏi. Thổ dân Juan Diego kiên nhẫn trả lời rõ ràng từng câu một, thật chính xác.  Sau khi tỉ mỉ tra vấn, Đức Giám Mục truyền cho ông Juan Diego phải xin Bà Đẹp Thiên Quốc tỏ lộ một “dấu chỉ.”  Mặt khác, ngài còn cẩn thận sai vài người giúp việc nơi tòa Giám Mục hãy đi theo ông Juan Diego xa xa, và theo dõi mọi hành động của ông.  Thế nhưng, khi đến chân đồi Tepeyac thì những người này không còn trông thấy bóng dáng thổ dân Juan Diego đâu nữa.

LẦN HIỆN RA THỨ BA

Cùng ngày Chúa Nhật 10-12-1531, thổ dân Juan Diego lên đồi trình bày với Đức Mẹ về câu trả lời của Đức Giám Mục.  Nghe xong, Đức Mẹ liền nói:
– Hỡi con bé nhỏ của Mẹ, con đã thi hành tốt đẹp lệnh truyền của Mẹ.  Được rồi. Ngày mai con hãy trở lại đây để đón nhận “dấu chỉ” mà vị Giám Mục xin.  Như thế, ngài sẽ tin lời Mẹ, sẽ không hoài nghi cũng không còn ngờ vực con nữa.  Phần con, con luôn ghi nhớ rằng Mẹ sẽ trả công bội hậu cho con vì tất cả khó nhọc con dành để phục vụ Mẹ.  Giờ đây con hãy chạy nhanh về đi.  Ngày mai Mẹ đợi con cũng nơi ngọn đồi này!

Ngày hôm sau, thứ hai 11-12-1531, thổ dân Juan Diego không đến nơi hẹn với Đức Trinh Nữ.  Lý do vì chiều Chúa Nhật hôm trước, khi về đến nhà, ông Juan Diego trông thấy người chú Juan Bernardino lâm bệnh nặng.  Ông Juan Diego vội vã chạy đi tìm thầy thuốc đến chữa bệnh cho chú.  Thầy thuốc đến ngay.  Nhưng cơn bệnh đã đến hồi trầm trọng, vô phương cứu chữa.  Biết thế, ông chú liền xin Juan Diego đi mời linh mục đến, để ông được lãnh nhận các phép Bí Tích sau cùng và dọn mình chết lành.

LẦN HIỆN RA THỨ TƯ VÀ THỨ NĂM

Sáng tinh sương ngày thứ ba 12-12-1531, ông Juan Diego nhanh nhẹn đi đến Tlatecolco để mời linh mục cho chú.  Ông cẩn thận chọn một con đường khác, đi vòng quanh ngọn đồi về hướng đông, để có thể vào ngay thành phố Mêhicô, và khỏi bị Bà Đẹp Thiên Quốc giữ lại nói chuyện!  Tuy nhiên, ông Juan Diego rất đỗi ngạc nhiên khi trông thấy Bà Đẹp từ trên đồi đi xuống.  Khi đến gần, Bà hỏi ông Juan Diego:
– Có chuyện gì xảy ra vậy con?  Con đang đi đâu đó?

Thổ dân Juan Diego cảm thấy vừa sợ hãi vừa xấu hổ thẹn thùng.  Ông nghiêng mình thưa:
– Con hy vọng Bà hài lòng!  Sáng nay Bà có cảm thấy dễ chịu không? Sức khoẻ Bà như thế nào?  Con biết Bà sẽ phật ý.  Nhưng xin Bà hiểu cho rằng, chú con bị bệnh nặng vì bị lây bệnh dịch hạch.  Con đi mời linh mục đến giải tội cho chú con.  Xin Bà thứ lỗi cho con.  Xin Bà vui lòng chờ đợi con.  Con không đánh lừa Bà đâu.  Ngày mai con sẽ đến đây thật sớm để gặp Bà!

Sau khi lặng lẽ nghe ông Juan Diego bào chữa một hơi dài, Đức Nữ Trinh Rất Thánh Maria nhân từ dịu dàng trả lời:
– Con hãy lắng nghe và hiểu cho kỹ, hỡi đứa con bé nhỏ nhất của Mẹ.  Con đừng xao xuyến trong lòng.  Con đừng lo lắng về bệnh tình của chú con cũng như về bất cứ điều gì không may sẽ xảy ra.  Mẹ đang có mặt nơi đây, không như là Người Mẹ của con sao?  Con không tìm thấy an nghỉ dưới bóng rợp mát của Mẹ sao?  Mẹ không phải là sức khỏe của con sao?  Con không được Mẹ ấp ủ sao?  Hãy nói cho Mẹ biết con đang cần gì?  Con chớ nên âu lo và buồn phiền, ngay cả bệnh tình trầm trọng của chú con.  Bởi vì chú con chưa chết bây giờ đâu.  Con hãy tin tưởng vững chắc rằng, ngay chính lúc này đây, chú con sẽ được khỏi bệnh!

Lắng nghe những lời nói dịu dàng của Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria, thổ dân Juan Diego cảm thấy lòng tràn ngập niềm an ủi.  Ông mau mắn leo lên đồi cao, theo lệnh truyền của Bà Đẹp Thiên Quốc. Ông hái những đóa hồng Tây-Ban-Nha nở tươi, thơm phức, tuyệt đẹp, ngoại lệ, vì lúc bấy giờ là tháng 12.  Thổ dân Juan Diego nhanh nhẹn hái hết và bỏ vào chiếc áo choàng, đan bằng sợi cây xương rồng.  Giờ đây ông trở thành vị sứ giả đáng tin cậy.  Ông hăng hái trở lại con đường tiến thẳng vào thành phố Mêhicô.

Ông Juan Diego vào tòa Giám Mục, quì gối trước mặt Đức Cha Juan de Zumárraga.  Thổ dân Juan Diego lập lại sứ điệp của Đức Mẹ Maria rồi từ từ mở chiếc áo choàng, mà cho đến lúc ấy, ông vẫn còn giữ chặt trước ngực.  Vừa khi những đóa hồng tươi rơi xuống đất, tức khắc, xuất hiện trên chiếc áo choàng hình ảnh thật đẹp của Đức Nữ Trinh Rất Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa.

Vị Giám Mục cùng tất cả những người hiện diện liền sấp mình xuống đất, tôn kính hình ảnh lạ được Đức Mẹ Maria in trên áo choàng.  Vị Giám Mục thật ân hận vì không tin ngay lời thổ dân Juan Diego nói.  Ngài muốn giữ chiếc áo choàng lạ nơi nhà nguyện riêng của ngài ở tòa Giám Mục.  Ngày hôm sau, Đức Giám Mục cùng với một đoàn người đông đảo, đi hành hương kính viếng nơi Đức Mẹ đã hiện ra trên đồi Tepeyac.

Về phần thổ dân Juan Diego, ngoài hồng phúc được tận mắt trông thấy Đức Mẹ Maria, ông còn cảm thấy thật sung sướng vì chứng kiến phép lạ đầu tiên thực hiện theo lời hứa của Đức Mẹ.  Đó là cuộc khỏi bệnh lạ lùng của người chú Juan Bernardino.  Chính với người chú này – ông Juan Bernardino – mà trong lần hiện ra thứ năm, cũng là lần sau cùng, Đức Mẹ tỏ lộ danh thánh:
–  Đức Bà Guadalupe.

“Guadalupe” trong tiếng thổ dân có nghĩa ”Người Nữ Chiến Thắng con rắn.”

Chiếc áo choàng với hình Đức Mẹ Maria được rước từ nhà nguyện riêng của Đức Giám Mục ra Nhà Thờ Chính Tòa và được trưng bày cho các tín hữu đến kính viếng.  Hơn 2 tuần sau, ngày 26-12-1531, chiếc áo choàng lạ lại được rước tới nhà nguyện nhỏ đầu tiên do chính các thổ dân xây cất dâng kính Đức Bà Guadalupe trên đồi Tepeyac.

Trong vòng 17 năm trời, tức cho đến ngày nhắm mắt từ trần vào năm 1548, thổ dân Juan Diego sống cạnh đền thánh tí hon này, làm người canh giữ đền thánh.  Nhưng nhất là, ông trở thành người đầy tớ đơn sơ khiêm hạ, trở thành vị chứng nhân và tông đồ nhiệt thành của Đức Bà Guadalupe.

Cuộc hiện ra của Đức Bà Guadalupe với thổ dân Juan Diego đã ghi dấu ấn sâu đậm nơi cuộc sống người dân Mêhicô.  Đức Bà Guadalupe trở thành biểu tượng sức mạnh của kẻ bé nhỏ, yếu đuối và là niềm hy vọng của tất cả những ai đang lo âu sầu khổ.

Hình ảnh Đức Mẹ Maria in trên áo choàng vẫn còn trông thấy rõ ràng mãi cho đến ngày nay, sau 480 năm.  Chiếc áo choàng hiện được tôn kính nơi đền thánh trên đồi Tepeyac.  Đền thánh mang tên Đức Bà Guadalupe.

Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Guadalupe là Trung Tâm Thánh Mẫu lớn nhất thế giới.  Mỗi năm có khoảng 20 triệu tín hữu đến hành hương.

Đức Mẹ Guadalupe được tuyên xưng bổn mạng nước Mêhicô vào năm 1737, bổn mạng toàn Mỹ Châu vào năm 1910 và bổn mạng nước Phi-Luật-Tân vào năm 1935.

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

(CSD 1009, ”Contesto Storia e Significato della Apparizione Guadalupe”, 13-7-2002)

Nếu Được Cả Thế Giới Mà Phải Thiệt Mất Mạng Sống, Thì Nào Có Lợi Gì?

Nếu Được Cả Thế Giới Mà Phải Thiệt Mất Mạng Sống, Thì Nào Có Lợi Gì?

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Không, không, mẹ à! Con không có gì để than thân trách phận cả! – RV

ME A`

Ngày 1-4-1982 – một ngày mùa xuân – vạn vật như bừng nở, vui tươi chào đón khí trời êm ả dễ chịu. Nơi một bệnh viện ở tỉnh Québec, Canada, một thiếu nữ 18 tuổi – đang tuổi xuân mơn mởn – cũng cảm thấy lòng tràn ngập yêu thương.

Thiếu nữ đó là Edith Ferguson mắc chứng hoại huyết và đang ở giai đoạn cuối đời. Cùng hòa nhịp với niềm vui vũ trụ, Edith lấy giấy và viết tờ di chúc. Tờ di chúc tinh thần để lại cho Cha Christian Beaulieu, vị Linh Mục trẻ đồng hành với Edith trong thời gian cô thọ bệnh. Edith viết:

Thưa Cha Christian kính mến,

Vì không biết phải viết di chúc như thế nào nên con xin viết dưới hình thức một bức thư. Như con từng nói với Cha: tất cả những gì con sở hữu xin dùng để giúp anh chị em tàn tật hầu các anh chị em này trở về với cuộc sống của những người mệnh danh là ”bình thường”. Con rất ước ao sống đến ngày con hân hạnh nghe câu nói: ”Tôi sống thật sự chứ không phải chỉ hiện hữu mà thôi”. Đối với con thì thật là tuyệt diệu, ít ra là một người, hay càng nhiều người càng tốt, có cuộc sống bình thường, chứ không phải bị xã hội và thành kiến ruồng rẫy. Nhưng vì con không thể sống đến ngày đó nên xin giao phó cho Cha thực hiện ước nguyện của con. Thế nhưng, trong xã hội chúng ta đang sống, muốn thực hiện chương trình nào đó cần phải có tiền. Con không có nhiều tiền nhưng tất cả tiền của con nơi nhà băng cũng như tiền bán các vật dụng của con sẽ giúp Cha có số vốn ban đầu. Những gì không bán được – chẳng hạn những đồ lặt vặt – thì xin Cha phân phát cho những gia đình thật túng thiếu .. Con muốn yêu nhiều chừng nào có thể. Trong cuộc sống, con từng gặp những người dạy con biết yêu thương, nhưng con cũng có nhiều thiếu sót lầm lẫn nên con xin mọi người tha thứ cho con. Điều đáng buồn là con có thói xấu hay làm mất lòng người khác mặc dầu con không chủ ý. Nhưng sau đó con hối hận nhiều lắm. Con yêu mọi người và mong mọi người đừng quên con. Trên trời, con không quên ai hết. Con sẽ dõi theo cuộc sống của mọi người và yêu mến mọi người mãi mãi .. Ký tên, Edith.

Đó là di chúc của Edith Ferguson, đúng 10 ngày trước khi qua đời, 10-4-1982, hưởng dương 18 tuổi.

18 tuổi với con tim tràn đầy yêu thương, dĩ nhiên ban đầu Edith không dễ chấp nhận chết. Hai tháng trước đó, khi bác sĩ cho biết là bệnh tình vô phương cứu chữa và đang đi vào giai đoạn trầm trọng, Edith vẫn còn nuôi hy vọng sống. Cô muốn sống để thực hiện ước mơ:

– Thành lập một hội chuyên việc giúp đỡ người tàn tật, giống như hội ”Arche – Con Tàu” do ông Jean Vanier thành lập.

Để thực hiện giấc mơ Edith bắt đầu tiết kiệm từng đồng tiền túi. Vì hạnh phúc của người tàn tật, bằng mọi giá, Edith muốn sống chứ không muốn chết. Edith mở to mắt nói với mẹ:

– Mẹ à, con có một sứ mệnh phải chu toàn: con muốn thành lập một Hội chuyên việc chăm sóc người tàn tật!

Lấy hết can đảm, bà Marie-France dịu dàng nói với con gái:

– Con à, ở dưới đất này, con chỉ chăm sóc giỏi lắm là vài người tàn tật, nhưng trên trời, con có thể chăm sóc không biết bao nhiêu người tàn tật, trên toàn thế giới!

Câu nói nhẹ nhàng của hiền mẫu như một sự thật rót thẳng vào tim. Edith bỗng hiểu rõ tất cả. Cô thiếu nữ giữ thinh lặng không đáp lại lời nào. Nhưng cũng từ giây phút đó Edith can đảm đối đầu với thực tế, sẵn sàng chấp nhận thánh ý THIÊN CHÚA.

Khi thấy con chịu bệnh cách anh hùng bà Marie-France sung sướng nói:

– Con thật gan dạ, mẹ không thấy con rên rĩ bao giờ!

Edith tươi cười trả lời:

– Mẹ à, có biết bao bạn trẻ và người tàn tật phải chịu nhiều đau khổ mà không than thở bao giờ. Không lẽ con lại mở miệng than van sao? Không, không, mẹ à! Con không có gì để than thân trách phận cả!

Một lần khác, Edith trầm tư nói với mẹ:

– Kể từ ngày bị bệnh con mới hiểu rõ thế nào là giá trị của cuộc sống!

Suốt thời gian chịu bệnh Edith luôn giữ nét mặt trầm tĩnh và dáng điệu thanh thản. Cô gái luôn mang trong mình Kinh giải thoát và đọc Kinh này thường xuyên. Cứ sau mỗi lần bị thổ huyết, Edith nắm chặt trong tay Ảnh Đức Mẹ ban ơn (Ảnh vảy phép lạ) và ảnh thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU để cầu nguyện. Edith không muốn người khác cầu nguyện thay cho mình. Cô nói:

– Phải cầu nguyện luôn luôn. Cầu nguyện không ngừng!

Edith vào nhà thương tám ngày trước khi qua đời. Cô thiếu nữ chịu bệnh cách anh hùng. Edith từ chối không dùng thuốc giảm đau. Cô can đảm chờ đợi cái chết đến gần. Edith vẫn luôn giữ nét thanh thản cho đến đêm Thứ Bảy Tuần Thánh, Vọng Lễ Phục Sinh, 10-4-1982, thì êm ái đi vào cõi phúc vĩnh cửu.

Trước khi trút hơi thở cuối cùng đôi mắt Edith Ferguson mở thật lớn, như muốn nói với mọi người hiện diện:

– Thật là tuyệt đẹp điều mà con đang diễm phúc trông thấy!

 … Đức Chúa GIÊSU nói với các môn đệ: ”Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ấy sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình? Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của CHA Người cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm” (Matthêu 16,24-27).

 (Daniel-Ange, ”Les Témoins de l’Avenir”, Le Sarment FAYARD, 1989, trang 146-153)

 Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Khi Con Người Kêu Cầu, THIÊN CHÚA Đáp Lời!

Khi Con Người Kêu Cầu, THIÊN CHÚA Đáp Lời!

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Tôi học cách thức sống với Đức Chúa GIÊSU KITÔ và thưa chuyện thường xuyên với Ngài

Tôi (Rémi người Pháp) chào đời năm 1961 trong một gia đình có 3 con trai. Tôi là trai út. Cuộc sống gia đình không có gì khác lạ ngoại trừ tính tình thân phụ tôi rất khe khắt. Tôi nhớ rất rõ biến cố ngày rước lễ lần đầu. Mấy ngày tĩnh tâm trước đó như đưa tuổi thơ tôi vào cõi bồng lai. Tôi tưởng rồi mình sẽ giữ mãi tâm tình sốt sắng của những ngày ấy. Thế nhưng, Đức Tin của thời ngây thơ trong trắng sớm biến mất vì bị đè bẹp bởi những thú vui giả tạo của cuộc sống.

Bước vào tuổi dậy-thì tôi lăn xả vào những buổi họp đêm và các cuộc dạo chơi đây đó. Tôi muốn chứng tỏ cuộc sống tuổi trẻ tôi khác xa với cái thời ”cũ-rích” xa xưa của Song Thân. Tôi đi từ khám phá này sang khám phá kia cho đến một lúc, tôi cảm thấy chán ngấy vì nội tâm trống rỗng. Tôi thất vọng tự hỏi: ”Sống để làm gì?”. Đôi lúc tâm trí tôi xuất hiện hình ảnh ngày tôi chết. Tôi tưởng tượng cả đến ngày diễn ra đám táng của tôi nữa kìa! Tôi thầm nghĩ:

– Trước sau gì cũng phải chết! Vậy thì chết hôm nay hay chết ngày mai đâu có khác xa bao nhiêu? Đâu có cần phải ”giết” thời gian khi thời gian vẫn lạnh lùng trôi đi mà không gì ngăn cản được? Tôi có thể đợi chờ gì nơi cuộc sống đời này?

Về phương diện tình cảm lại càng thê thảm hơn. Tôi thay đổi bạn gái như thay áo. Và cứ mỗi lần thay bạn gái như thế để lại trong trái tim tôi một kinh nghiệm đắng cay chua xót. Tôi thất bại từ cuộc tình này sang cuộc tình kia. Cuối cùng rồi chỉ còn lại trong tôi sự ghê tởm và nỗi tuyệt vọng.

Để tránh cái nhìn phán đoán khe khắt của gia đình cũng như để cắt đứt với mọi ràng buộc khiến tôi cảm thấy mất tự do, tôi quyết định thay đổi chỗ ở.

Vào cùng thời kỳ này tôi gặp lại cô bạn gái của thời thơ ấu. Nàng sinh hoạt trong một cộng đoàn dành riêng cho người trẻ mang tên Giới Trẻ – Ánh Sáng. Cộng đoàn do Linh Mục Daniel-Ange điều khiển. Nơi nàng chiếu sáng niềm vui và hy vọng. Tôi gặp nàng thường xuyên. Mỗi lần gặp mặt nàng lòng tôi như bừng cháy khi nghe nàng nói về cuộc sống hiện tại của nàng. Tôi như muốn dẹp ngay mọi chuyện để bước theo nàng. Tôi tự nhủ:

– Thay vì ước ao chết mình có thể quyết định sống, ít ra là để phục vụ tha nhân ở một nơi nào đó, xét vì không tìm được lý do để sống cho chính mình ..

Nghề nghiệp đưa tôi đi du lịch nhiều nơi trên thế giới. Một ngày trong một chuyến công tác, THIÊN CHÚA Quan Phòng dẫn đưa tôi gặp một nhóm của Giới Trẻ – Ánh Sáng. Tôi ở lại với Nhóm trong vòng 4 ngày. Vào buổi tối cuối cùng cả nhóm cầu nguyện cách riêng cho tôi. Vào chính lúc ấy, tôi cảm nghiệm sâu xa Tình Yêu THIÊN CHÚA tràn ngập người tôi.

Tiếp tục chuyến đi công tác, tôi quyết định mua một cuốn Kinh Thánh và dành ra mỗi ngày một tiếng đồng hồ để cầu nguyện. Mỗi buổi sáng trước khi bắt đầu công việc tôi tìm một nhà thờ gần nhất để tham dự Thánh Lễ. Cơn khủng hoảng tâm linh của tôi giờ đây chỉ còn là bóng mờ kỷ niệm ..

Tôi học cách thức sống với Đức Chúa GIÊSU KITÔ và thưa chuyện thường xuyên với Ngài. Dần dần Chúa chiếm chỗ đứng trong mọi khoảnh khắc cuộc đời tôi. Ngài ngự trong lòng tôi và trở thành Bạn Thân dấu ái thường trú nơi tôi. Mỗi ngày tôi càng cảm thấy ước ao sống một mình với Đức Chúa GIÊSU KITÔ và dâng hiến cuộc đời tôi cho Ngài. Tôi thực sự sống kinh nghiệm một cuộc hoán cải trở về với Tình Yêu THIÊN CHÚA.

Từ đó Đức Tin của tôi tiếp tục lớn mạnh và trưởng thành. Tôi vô cùng tri ân THIÊN CHÚA đã soi sáng dẫn dắt cho tôi. Tôi gặp Suzan và chúng tôi thành hôn. Chúng tôi không con cái nên đã nhận nuôi một bé gái xinh đẹp mỹ miều tên Anne.

Tôi muốn xác quyết rằng, đối với THIÊN CHÚA không gì là không thể làm được. Không một ngõ cụt nào mà Lòng Thương Xót Ngài không thể xuyên qua. Không một thống khổ tuyệt vọng nào mà Ngài lại không thể ngự xuống. Ngài đến tìm kiếm chúng ta ngay nơi chúng ta đang sống dưới bất cứ hoàn cảnh đau thương nào. THIÊN CHÚA quả thật lớn lao gấp trăm ngàn lần con tim bé nhỏ của chúng ta. Khi con người kêu cầu, THIÊN CHÚA đáp lời. Nếu chúng ta sẵn sàng lắng nghe và tiếp nhận Ngài, tức khắc Ngài đổi mới con người thấp hèn của chúng ta.

… ”Hãy tìm THIÊN CHÚA khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên. Kẻ gian ác, hãy bỏ đường lối mình đang theo, người bất lương, hãy bỏ tư tưởng mình đang có mà trở về với THIÊN CHÚA – và Người sẽ xót thương – về với THIÊN CHÚA chúng ta, vì Người sẽ rộng lòng tha thứ. Thật vậy, tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các con, và đường lối của các con không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các con chừng ấy. Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì Lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta trao phó” (Isaia 55,6-11).

(”Il a changé ma vie! Dieu je L’ai rencontré”, Tome II, Éditions de l’Emmanuel, 2001, trang 112-116)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Nếu Không Nên Như Trẻ Thơ Thì Sẽ Chẳng Được Vào Nước Trời

Nếu Không Nên Như Trẻ Thơ Thì Sẽ Chẳng Được Vào Nước Trời

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Lạy Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng, con yêu mến Chúa

Câu chuyện êm ái ngọt ngào mang đầy mầu sắc ngây thơ trong trắng xảy ra vào một ngày xa xưa cách đây lâu thật lâu bên vương quốc Anh.

Hôm ấy vị Thừa Sai quy tụ một nhóm trẻ em và say sưa nói về sự hiện diện thật sự của Đức Chúa GIÊSU KITÔ trong bí tích Thánh Thể. Vị Thừa Sai giải thích thêm rằng Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể vì quá yêu thương loài người nên ẩn mình – như một tù nhân – trong Nhà Tạm đơn sơ bé nhỏ đặt bên trên bàn thờ trong mọi thánh đường Công Giáo.

Trong nhóm trẻ hiện diện hôm ấy có một bé trai đặc biệt lắng nghe lời giải thích của vị Thừa Sai. Bỗng chốc, có một ý tưởng loé lên trong đầu cậu bé.

Cậu bé lặng lẽ rời các bạn và đi ngay vào nhà thờ. Cậu bé đến thẳng trước bàn thờ bên trên có đặt Nhà Tạm. Nhưng vì Nhà Tạm quá cao so với tầm thước bé nhỏ của mình, cậu bé liền lấy một cái ghế rồi leo lên ghế và trèo lên ngồi gọn trên bàn thờ ngay trước cửa Nhà Tạm. Sau khi ngồi yên ắng trên bàn thờ, cậu bé lấy tay gõ nhẹ cửa Nhà Tạm, bên trong có Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể đang ẩn mình. Cậu bé ghé sát miệng vào cửa Nhà Tạm và hỏi nhỏ:

– Thưa Đức Chúa GIÊSU, Chúa đang có mặt ở đây phải không?

Hỏi xong, cậu bé im lặng lắng tai nghe ngóng. Nhưng không có tiếng trả lời.

Vẫn không nao núng cũng không hề đánh mất điềm tĩnh, cậu bé gõ cửa Nhà Tạm lần nữa và hỏi nhẹ:

– Chúa đang có mặt ở đây phải không? Xin Chúa trả lời cho con biết! Trong giờ giáo lý người ta dạy con rằng đúng thật là Chúa đang có mặt ở đây!

Mặc cho câu hỏi van xin của cậu bé, Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể vẫn giữ thinh lặng, không trả lời. Trong khi đó cậu bé vẫn không đánh mất niềm kiên nhẫn, đưa tai ghé sát vào cửa Nhà Tạm và chờ đợi câu trả lời. Nhưng im lặng vẫn hoàn toàn im lặng. Lần này cậu bé tự nhủ:

– Có lẽ Đức Chúa GIÊSU đang ngủ chăng, vậy mình phải đánh thức Chúa dậy!

Và để đánh thức, cậu bé dùng lời lẽ thật ngọt ngào thưa với Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể:

– Lạy Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng, con yêu mến Chúa, con ngưỡng mộ Chúa và con tin nơi Chúa. Xin Chúa làm ơn trả lời cho con biết, xin Chúa nói chuyện với con đi!

Và hiện tượng lạ lùng đã xảy ra .. Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể không thể giữ mãi thinh lặng trước một lời van xin êm-ái ngọt-ngào và đầy lòng tin tưởng ngây-thơ trong-trắng của cậu bé can cường. Đức Chúa GIÊSU Thánh Thể cất tiếng trả lời:

– Có, Cha đang có mặt ở đây, hỡi con bé nhỏ yêu quí của Cha. Con muốn gì? Hãy xin thì Cha sẽ ban cho con điều con ước nguyện.

Bất ngờ nghe tiếng trả lời cậu bé suy nghĩ một chút rồi thưa:

– Má con luôn luôn nổi giận vì Ba con không chịu giữ Đạo. Vậy, lậy Đức Chúa GIÊSU, xin hoán cải lòng Ba con, con van xin Chúa ban cho con điều này.

Và tiếng Đức Chúa GIÊSU trả lời:

– Con hãy về đi! Cha hứa sẽ cứu rỗi linh hồn Ba con!

Được như lòng ước nguyện, cậu bé hân hoan trở về nhà. Ngày hôm sau – hôm ấy là Chúa Nhật – cậu bé sung sướng khi nghe Ba nói với Má là Ba đi nhà thờ với Má để tham dự Thánh Lễ.

Kể từ đó, thân phụ cậu bé bắt đầu sống đạo nghiêm chỉnh đúng với tư cách một tín hữu Công Giáo ngoan Đạo.

Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể đã ân thưởng bội hậu cho Đức Tin đơn sơ nhưng vững chắc của cậu bé và thực hiện lời đã hứa với cậu bé! Ôi êm ái dịu ngọt biết bao Tình Yêu Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thánh Thể dành cho tín hữu Công Giáo nào biết đặt trọn niềm tin tưởng và yêu mến bí tích THÁNH THỂ.

… Đức Chúa GIÊSU gọi một em nhỏ đến đặt vào giữa các môn đệ và bảo: ”Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không hoán cải mà nên như trẻ thơ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Vậy ai tự hạ coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời. Còn ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. Nhưng ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin Thầy đây phải sa ngã, thì thà treo cối đá lớn vào cổ nó mà xô cho chìm xuống đáy biển còn hơn. Khốn cho thế gian, vì làm cớ cho người ta sa ngã. Tất nhiên phải có những cớ gây sa ngã, nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta sa ngã” (Matthêu 18,2-7).

(”Il Settimanale di Padre Pio”, Anno VII, n.21, 25 Maggio 2008, trang 15).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Bình An Dưới Thế Cho Người Thiện Tâm!

Bình An Dưới Thế Cho Người Thin Tâm!

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Theo gương thánh tổ lập dòng – thánh Phanxicô thành Assisi (1182-1226) – các tu sĩ dòng Phanxicô cũng đặc biệt có lòng yêu mến, tôn thờ và chiêm ngắm hình ảnh thơ trẻ dịu hiền của Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng. Một tình yêu hoàn toàn trong sáng và vô cùng dịu ngọt! Và Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng cũng âu yếm đáp trả cách nồng hậu mối tình êm ái này.

Trong tiểu sử các vị thánh dòng Phanxicô như thánh Antôn thành Padova (1195-1231), chân phúc John Duns Scotus (1265/1266-1308) đều được Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng hiện ra và ngồi gọn trong vòng tay của các ngài. Các ngài trìu mến vuốt ve và Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng cũng vuốt ve lại! Thật là mối tình say đắm độc nhất vô nhị, không bút mực nào có thể diễn tả cho hết nét hiền dịu thơ ngây trong trắng! Thật tuyệt vời!

Thánh nữ Maria Francesca delle Cinque Piaghe (1715-1791) thuộc dòng ba Phanxicô, người Ý. Thánh nữ có lòng sùng kính Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng cách riêng. Hàng năm, Thánh nữ không những sốt sắng làm tuần Cửu Nhật để chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh vào ngày 25-12, mà còn khởi đầu ngay công cuộc chuẩn bị vào Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng. Thánh nữ thanh tẩy con tim bằng chay tịnh, hy sinh và nguyện kinh cách hết sức tha thiết. Vì chuẩn bị tâm hồn cách vô cùng chu đáo như thế, nên cứ vào Đêm Lễ Chúa Giáng Sinh, thánh nữ thường nhận được nhiều ân huệ như xuất thần hoặc được hồng phúc chiêm ngưỡng Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng.

Vào năm 1741, trong lúc quì cầu nguyện trước Hang Đá Giáng Sinh, thánh nữ bỗng được ơn xuất thần. Đức Chúa GIÊSU đích thân hiện ra trong Vinh Quang rực sáng. Ngài âu yếm cầm lấy tay phải của thánh nữ và long trọng phán:

– Đêm nay Thầy chọn con làm hiền thê Thầy!

Thánh nữ Maria Francesca trở thành hiền thê Đức Chúa GIÊSU do tình yêu sùng mộ tuổi thơ của Ngài.

… Cha Niccolò Zucchi (1586-1670), dòng Tên người Ý, cũng có lòng đặc biệt sùng kính Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng.

Cha phổ biến lòng sùng kính bằng cách phân phát ảnh thánh Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng. Công cuộc tông đồ này đưa một số rất đông các linh hồn trở về cùng THIÊN CHÚA.

Một ngày, Cha Niccolò phát ảnh thánh Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng cho một thiếu nữ Công Giáo. Thiếu nữ vốn ngoan hiền, đức hạnh, ngây thơ trong sáng nhưng vẫn trì hoãn trong quyết định dâng hiến toàn thân cho THIÊN CHÚA.

Khi nhận ảnh thánh Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng, thiếu nữ lịch sự cám ơn nhưng mỉm cười thưa:

– Con làm gì với ảnh thánh này?

Cha Niccolò trả lời ngay:

– Con đặt ảnh thánh Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng nơi chiếc đàn dương cầm nhỏ con vẫn đánh mỗi ngày!

Đúng thế, cô gái rất thích chơi đàn vì cô có khiếu về âm nhạc. Cô gái ngoan ngoãn làm theo lời khuyên của Cha Niccolò Zucchi.

Sự kiện luôn luôn có ảnh thánh trước mặt, cô thiếu nữ bỗng thường xuyên chiêm ngắm ảnh thánh, đưa đến việc thật sự kính mến Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng. Từ từ bừng lên trong lòng cô thiếu nữ ước muốn sống mỗi ngày một hoàn hảo hơn. Giờ đây, cái đàn dương cầm nhỏ trở thành dụng cụ để cầu nguyện hơn là để chơi nhạc. Sau cùng, thiếu nữ quyết định rời bỏ thế gian để vào dòng tu.

Với tâm tình hân hoan cô gái đến gặp Cha Niccolò Zucchi để loan báo tin vui và nói:

– Thưa Cha, chính Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng đã lôi kéo con về với Tình Yêu vô biên của Ngài. Chính Ngài ban cho con ơn trút bỏ mọi dính bén tình nghĩa trần gian để thuộc trọn về Ngài. Xin muôn vàn tri ân Cha đã gợi ý và đưa con vào con đường tình yêu, vào lòng sùng kính Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng. Một lòng sùng kính vô cùng êm ái dịu ngọt!

… Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: ”Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”. Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen THIÊN CHÚA rằng: ”Vinh danh THIÊN CHÚA trên Trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Luca 2,8-14).

(”La Mia Messa”, 1 Ottobre 2011 – 31 Dicembre 2011, Anno V/A, vol.IV, Casa Mariana Editrice, trang 437-438+444-445)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

VẠN TUẾ RẤT THÁNH TRÁI TIM ĐỨC CHÚA GIÊSU LÀ VUA HẰNG SỐNG HẰNG TRỊ ĐỜI ĐỜI!

VẠN TUẾ RẤT THÁNH TRÁI TIM ĐỨC CHÚA GIÊSU LÀ VUA HẰNG SỐNG HẰNG TRỊ ĐỜI ĐỜI!

… Câu chuyện do Cha Gnarocas kể lại và xảy ra tại giáo xứ Thánh Nicola ở Melicucco, vùng Reggio Calabria, miền Nam nước Ý.

Tại giáo xứ Thánh Nicola, vào đầu thập niên 1940, một thanh nữ Công Giáo đức hạnh tên Anna được bầu làm Đoàn Trưởng Hội Công Giáo Tiến Hành ngành trẻ. Cô Anna rất có lòng sùng kính Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Cô liền hăng say cổ động các thành viên trẻ Công Giáo Tiến Hành thi hành một việc đạo đức. Đó là sốt sắng tham dự Thánh Lễ và rước Mình Thánh Chúa trong 9 Ngày Thứ Sáu Đầu Tháng liên tiếp.

Đầu năm 1943, Cô Anna thành công trong việc thuyết phục Antonio – một đoàn viên Công Giáo Tiến Hành nguội lạnh – chấp nhận thi hành việc lành thánh này. Với ơn Chúa trợ giúp, cộng với lời khuyến khích chân thành của Cô Anna, Antonio đều đặn đến nhà thờ xưng tội, tham dự Thánh Lễ và rước lễ trong 9 Ngày Thứ Sáu Đầu Tháng liên tục. Antonio thi hành các việc đạo đức với trọn lòng kính mến Thánh Tâm Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Vị Vua và là Vị Anh Hùng Lý Tưởng của giới trẻ.

Sau đó trong một thời gian dài Antonio vẫn duy trì thói quen đạo đức đến nhà thờ xưng tội và tham dự Thánh Lễ. Nhưng rồi, ma quỷ, xác thịt và thế gian lôi kéo, Antonio bị sa ngã. Chàng không lãnh các Bí Tích nữa và sống buông thả. Chàng dan díu với một phụ nữ đã lập gia đình, tên Giovanna. Bà Giovanna ly dị chồng và sống một mình. Bà Giovanna và Antonio trở thành đôi tình nhân sống ngoài vòng luật lệ gia đình và Giáo Hội. Nhưng bà Giovanna thuộc về một gia đình khá giả. Carlo – em trai của bà Giovanna – không chấp nhận lối sống ”lăng loàn” của bà chị, mà theo tâm thức thời đó, là một ô nhục cho gia đình. Do đó, Carlo tìm cách thủ tiêu Antonio để giải thoát chị khỏi vòng tay tình nhân ràng buộc. Có thế, bà Giovanna mới dễ dàng trở về với nếp sống bình thường, không gây tiếng xấu cho gia đình.

Carlo chờ đợi một dịp thuận tiện để bắn chết Antonio. Và một ngày, cơ hội xảy đến, Carlo rút súng lục bắn vào người Antonio mấy phát liên tục. Antonio ngã gục trên vũng máu, nhưng chàng chưa chết ngay. Người ta chở chàng đến Nhà Thương cấp cứu. Bác sĩ thấy là chàng không thoát chết được.

Khi nghe tin không lành, cô Anna tức tốc đến viếng thăm người hấp hối. Cô lựa lời an ủi Antonio. Sau cùng, cô nghiêm giọng nói:
– Nếu đúng như lời người ta đồn thổi về anh, thì thật là anh đang tẩy rửa tội lỗi mình bằng chính máu anh!

Antonio với giọng thều thào đáp:
– Đúng như lời chị nói!

Cô Anna liền mời Cha Sở đến. Cha Sở hỏi Antonio có muốn lãnh các Bí Tích lần cuối cùng không. Chàng đáp ngay:
– Thưa Cha Có!
Cha Sở lại hỏi:
– Nhưng trước hết, Cha xin hỏi con, con có bằng lòng tha thứ cho người đã giết con không?

Antonio trả lời liền:
– Thưa Cha Có! Con sẵn sàng tha thứ cho kẻ sát nhân!

Sau đó, Antonio sốt sắng xưng tội, lãnh Mình Thánh Chúa làm của-ăn-đàng và chịu phép Xức Dầu Bệnh Nhân.

Mấy giờ sau, Antonio êm ái trút hơi thở cuối cùng, trên gương mặt điểm niềm an bình và niềm vui khó tả.

Câu chuyện Antonio, người thanh niên tội lỗi, được ơn trở lại, ơn tha thứ cho người giết mình và ơn chết lành, thực hiện lời Đức Chúa GIÊSU KITÔ long trọng nói với thánh nữ Marguerite-Marie Alacoque (1647-1690), trong lần hiện ra vào một ngày thứ sáu năm 1688:
– Trong mức độ tột cùng lòng từ bi Trái Tim CHA, CHA hứa với con rằng: ”Tình Yêu Toàn Năng của CHA sẽ ban ơn hoán cải sau cùng cho những ai rước lễ 9 ngày Thứ Sáu Đầu Tháng liên tiếp. Những người này sẽ không chết khi còn mắc tội trọng nhưng sẽ được lãnh các Bí Tích và trong giờ sau hết, Trái Tim CHA sẽ là nơi nương náu vững vàng nhất”.

… DÂNG MỌI SỰ CHO TRÁI TIM CHÚA

Kính lạy Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa GIÊSU, chúng con xin dâng linh hồn và xác cùng mọi sự cho Trái Tim Chúa; nếu ngày hôm nay chúng con sa phạm điều gì lỗi lời chúng con đã hứa, thì xin Chúa thứ tha. Lạy Chúa, xin hãy dùng Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ, là Nữ Vương hay ban sự bình an mà lập Nước Chúa trong mọi gia thất khắp cả miền xứ chúng con.

Chớ chi chẳng những mọi người giáo hữu, mà lại các dân các nước đều nhìn biết Chúa là VUA rất nhân từ, mà yêu mến phượng thờ. Chớ chi cả và thiên hạ chóng rập một tiếng tán tạ tung hô rằng: Nước Chúa trị đến! Vạn Tuế Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa GIÊSU là VUA hằng sống hằng trị đời đời. Amen.

(”Sembra Impossibile .. eppure è così”, Editrice Comunità, 1992, trang 81-82)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

From: hnkimnga & Anh chị Thụ Mai gởi

Linh Hồn luyện Ngục Hiện Về

Linh Hồn luyện Ngục Hiện Về

Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

1/  Linh hồn luyện ngục hiện về tại California

Câu chuyện dưới đây xảy ra tại vùng Orange, Cali: Linh hồn một thanh niên Công Giáo VN đã được Chúa cho hiện về nhập vào một thanh nữ chừng 20 tuổi để nói truyện với mọi người trong gia đình, có sự chứng kiến của cha già Vũ Tuấn Tú và một số người.

Anh Giuse Mai Văn Trung, con ông bà Mai Xuân Nghi. Anh bị bắn chết cách bí mật gần bên cô bồ ở San Jose, CA trước đây 10 năm (1986), cô nghe súng nổ, nhưng không biết ai bắn. Khi cô đưa anh vào bệnh viện thì anh chết.. Lý do tới nay cũng còn bí ẩn (có lẽ vì tình).

Tưởng câu truyện đã vào quá khứ, nhưng nay, ngày 8 tháng 10 năm 1996, đúng 10 năm sau, anh Trung được Chúa cho về nói truyện qua chị Bạch Thị Trâm là người ngoại giáo, đang học đạo để thành hôn với em ruột anh Trung.

Sáng hôm ấy, chị Trâm đang làm việc với mẹ là bà Bạch Vân, Giám đốc Trung Tâm băng nhạc Asia ở Garden Grove, CA. thì anh Trung nhập vào cô. Lúc đó, anh Hùng là nhân viên của Asia, anh cũng là thư ký của Cộng đồng VN Orange, cũng ở đó. Vì anh Trung nói qua cô Trâm rằng anh muốn nói chuyện với người nhà anh với sự chứng kiến của một linh mục, nên anh Hùng tới Trung Tâm Công giáo đón cha cố Vũ Tuấn Tú về Trung Tâm Asia, rồi mọi người cùng lên xe về nhà ba má anh Trung là ông bà Nghi ở gần nhà thờ Orange. Tại đây, có mẹ anh Trung, các em của anh khoảng gần 10 người, và một số bà con xóm ngõ.

– Đầu tiên anh chào mọi người và cho biết mình là ai: “Con là linh hồn Giuse Trung, Chúa cho phép con về gặp gia đình”. – Bà Nghi, mẹ anh hỏi: Con muốn gì, mẹ phải làm gì cho con?- Anh Trung nói: Mẹ xin cho con 5 Thánh lễ.- 5 lễ thôi à?- 5 lễ đủ rồi. Gia đình đã quên con cả 10 năm nay, không cầu nguyện cho con.-Má đâu có quên con, má vẫn cầu nguyện cho con mà.- Má cầu nguyện mà chia lòng chia trí, để ý đi đâu…

Rồi anh xin gặp từng người em. Anh đưa họ ra khoảng 5,6 thước để nói riêng với mỗi người. Sau đó anh hỏi:- Ba đâu?- Ba đi làm muộn mới về.- Con phải chờ ba về.

Và người ta gọi điện thoại mời ông về. Trong khi chờ đợi,  cha Tú xin mọi người đọc 5 chục kinh mùa Thương. Gần hết 5 chục kinh thì ông Nghi về. Gặp ông, anh Trung Chào ba và nói với ba anh:

– Ba phải dự lễ và giữ ngày Chúa nhật. Ba phải xưng tội mỗi năm ít là một lần, và phải sống đức tin Công giáo.- Ông Nghi nói: Ba vẫn tin mà.

– Anh Trung: “Đức tin phải có việc làm, đức tin không việc làm là đức tin chết”. Và nói tiếp: ” Xin gia đình đừng tìm biết và oán hận kẻ hại con, Chúa dậy tha thứ.”. “Gia đình hãy cầu nguyện và xin lễ cho linh hồn Maria Tuyết (người quen đã qua đời), Và xin lễ cầu cho linh hồn dì Maria Ngọc Bảo (Em gái bà Vân đã chết hồi 15 tuổi. Cô Bảo đã xin học đạo, nhưng bị gia đình ngăn cản, vì không muốn cho …Cô đã chết trong thời dự tòng và cô được ơn cứu rỗi).

Sau cùng anh Trung bắt tay từ giã mọi người. Rồi anh hỏi: – Còn em bé đâu

– Mẹ anh nói: Em nhỏ đang ngủ trong phòng.

Anh Trung xin gặp em, anh bế  rồi hôn em. Sau đó, anh (chị Trâm) nằm xuống giường gần đó thiếp đi. Chừng gần 15 phút sau, cô Trâm tỉnh lại và tỏ vẻ thật ngỡ ngàng sao mình lại ở đây (vì cô chưa thuộc về gia đình này, còn đang học đạo để dự định thành hôn với em trai của anh Trung)! Vì từ sáng, cô vẫn làm việc với mẹ cô tại Trung Tâm băng nhạc Asia.

Khoảng một tuần sau, cha Cố Tú (hiện đã về nhà hưu) đến nhà ông bà Nghi dâng lễ, ngài thấy, ông Nghi không được đánh động bao nhiêu về việc anh Trung hiện về. ngài nói: “Thất đúng như lời Chúa phán trong Kinh Thánh: Dù kẻ chết hiện về, họ cũng chẳng tin (Lc 16,37).

2/  Giọt mồ hôi của thầy dòng nhỏ chết nhỏ xuống tay thầy Dòng bạn

Có  một truyện trong sách dạy đàng nhân đức kể về cái nóng của Luyện ngục như sau:

Một ngày kia, một thầy Dòng đã chết được Chúa cho hiện về với một thày Dòng bạn vào ban đêm. Sau khi trò truyện, thầy sống hỏi thầy chết rằng:

– Anh có thể cho tôi biết Luyện ngục nóng nảy ra sao không?

– Thầy chết trả lời: Anh không thể hiểu được Luyện ngục nóng thế nào, nhưng để anh hiểu một chút thì anh giơ tay ra đây.

Thầy sống giơ tay ra, thầy chết chỉ nhỏ vào một giọt mồ hôi. Thầy sống đau đớn nhức nhối quá, la lên tùm lum và chạy chung quanh nhà Dòng, tay vẫy vẫy, không chịu được. Cả nhà Dòng nghe la ó, mất ngủ, các thầy dậy hết coi xem chuyện gì?

Sau khi nghe thầy sống kể lại chuyện giọt mồ hôi của thầy chết, ai nấy đều rợn tóc gáy.

Thầy sống ngã bệnh đau đớn và qua đời mấy ngày sau.

3/  Sử liệu các cha dòng Capucino ghi lại câu chuyện liên quan đến những cực hình các đẳng Linh hồn phải chịu trong Lửa Luyện Ngục

Cha Hippolyte de Scalvo là người tôi tớ tín trung của Chúa. Cha đặc biệt có lòng thương mến các đẳng Linh hồn. Cha luôn luôn cầu nguyện cho các vị được mau mau giải thoát khỏi chốn Luyện Hình. Cầu nguyện chưa đủ, cha Hippolyte còn ăn chay hãm mình đền bù thay cho các đẳng và thường thuyết giảng về Luyện Ngục. Cha nhắc các tín hữu nhớ cầu nguyện, dâng các hy sinh và việc lành phúc đức để cầu cho các Linh hồn được sớm về hưởng tôn nhan Chúa. Sáng nào cũng thế, cha Hippolyte thức dậy thật sớm để nguyện kinh cầu cho những người quá cố. Chúa Nhân Lành đã dùng gương vị tôi tớ Ngài để giúp các tín hữu hiểu phần nào những hình phạt các đẳng Linh hồn phải chịu trong Lửa Luyện Hình.

Năm ấy cha Hippolyte được Bề Trên gởi đến Flandres, một thành phố nằm ở biên giới hai nước Pháp và Bỉ, để mở một tu viện các cha dòng Capucino. Trong số các tu sĩ cùng đi với cha Hippolyte có một thầy dòng hết sức đạo đức. Nhưng vừa đến nơi, vị tu sĩ này ngã bệnh nặng và đột ngột từ trần.

Sáng hôm sau đó, cha Hippolyte quì cầu nguyện trong nhà thờ, sau giờ Kinh Sáng. Bỗng chốc cha thấy xuất hiện trước mặt mình vị tu sĩ quá cố, dưới hình một bóng ma phủ đầy lửa. Người quá cố thú tội cùng Cha Bề Trên với lời rên rỉ não nề về một lỗi nhẹ mà thầy đã quên xưng khi còn sống. Thú tội xong, thầy thưa: “Xin cha cho con việc đền tội tùy ý cha và xin cha ban phép lành cho con hầu con được giải thoát khỏi khuyết điểm khiến con phải đau khổ vô ngần trong Lửa Luyện Ngục”. Cảm kích trước tình trạng thảm sầu của vị tu sĩ thuộc quyền quá cố, cha Hippolyte vội vàng nói ngay:

– “Nhân danh quyền được phép, tôi xin tha tội cho thầy và chúc lành cho thầy. Còn về việc đền tội, vì thầy bảo là tôi có quyền ra việc đền tội, thì xin thầy hãy ở trong Lửa Luyện Ngục cho đến giờ Kinh Thứ Nhất, tức vào khoảng 8 giờ sáng nay”.

Cha Hippolyte nghĩ rằng mình đã khoan hồng khi ra việc đền tội cho tu sĩ quá cố chỉ ở lại nơi Luyện Hình vài giờ! Nào ngờ, vừa nghe xong án lệnh, thầy dòng đạo đức như rơi vào trạng huống tuyệt vọng. Thầy vừa chạy vòng vòng trong nhà thờ vừa kêu la thảm thiết:

– “Ôi tấm lòng không đại lượng! Ôi người cha không biết cảm thương một Linh hồn sầu não! Sao cha lại trừng phạt cách khủng khiếp một lỗi nhẹ mà nếu con còn sống, hẳn cha chỉ ra một việc đền tội cỏn con. Cha quả thật không biết tí gì về những kinh hoàng các Linh hồn phải chịu trong Lửa Luyện Ngục!”.

Nghe lời trách cứ nặng nề của vị tu sĩ quá cố, cha Hippolyte như “dựng tóc gáy” và cảm thấy vô cùng ân hận. Cha tìm cách “vớt vát” cái vô ý thức của mình. May mắn thay, cha nghĩ ra được một diệu kế. Cha vội vàng đánh chuông, gọi các tu sĩ trong cộng đoàn vào nhà thờ nguyện Kinh Giờ Một. Khi các tu sĩ có mặt đầy đủ, cha Hippolyte kể lại câu chuyện vừa xảy ra và cùng với cộng đoàn bắt đầu đọc ngay Kinh Giờ Một, hầu cho thầy dòng quá cố được sớm giải thoát khỏi lửa luyện hình.

Từ ngày đó cho đến khi qua đời, trong vòng 20 năm trời, Cha Hippolyte de Scalvo không bao giờ quên câu chuyện đã xảy ra. Trong các bài giảng, cha thường lập lại câu nói của thánh Anselmo (1033-1109): “Sau khi chết, hình phạt nhẹ nhất đón chờ ta trong Lửa Luyện Hình trở thành lớn lao hơn tất cả những gì trí khôn ta có thể tưởng tượng được khi còn sống trên trần gian này”.

(Jacques Lefèvre, “Les Âmes du Purgatoire dans la vie des Saints”, Editions Résiac, 1995, trang 24-26).

4/ CẦU CHO CÁC ĐẲNG LINH HỒN TRONG LUYỆN NGỤC

Vào năm 1827, tại thủ đô Paris nước Pháp có một thiếu nữ giúp việc nghèo thật nghèo nhưng vô cùng quảng đại.  Cô tên Têrêsa.  Têrêsa có thói quen lành thánh: mỗi tháng xin một thánh lễ cầu cho các đẳng Linh Hồn trong Luyện Ngục.  Nhưng rồi Thiên Chúa thử thách cô bằng một chứng bệnh hiểm nghèo, khiến cô vô cùng đau đớn.  Têrêsa bị mất việc làm và tiêu tán tiền của.  Ngày cảm thấy kha khá, Têrêsa ra khỏi nhà với vỏn vẹn 20 xu trong túi.  Cô rảo qua các khu phố để tìm việc làm.  Khi đi ngang nhà thờ thánh Eustache, Têrêsa ghé vào cầu nguyện.  Bỗng cô sực nhớ ra là tháng ấy, cô chưa xin lễ cho các đẳng Linh Hồn.  Nhưng Têrêsa thoáng chút do dự.  Số tiền 20 xu cũng là lương thực cho cô trong ngày hôm ấy.  Nhưng Têrêsa không do dự lâu.  Cô biết mình phải làm gì.  Bất ngờ một linh mục bước vào nhà thờ, chuẩn bị dâng thánh lễ.  Têrêsa hỏi cha có bằng lòng dành thánh lễ hôm ấy để cầu cho các đẳng Linh Hồn không.  Cha vui vẻ nhận lời với số tiền dâng cúng 20 xu của Têrêsa.  Thánh lễ cầu cho các đẳng Linh Hồn chỉ có vị linh mục chủ tế và một giáo dân tham dự.

Lễ xong, Têrêsa ra khỏi nhà thờ tiếp tục đi lang thang tìm việc làm.  Têrêsa thật sự lo lắng vì đi mãi mà không có hy vọng gì hết.  Bỗng một chàng trai dáng vẽ quí tộc tiến đến gần và hỏi:

– Cô tìm việc làm phải không? -Têrêsa nhanh nhẹn trả lời: – Thưa ông phải.

Người thanh niên nói tiếp:- Cô hãy đến đường X nơi nhà số Y, chắc chắn cô sẽ có việc làm và sẽ được hạnh phúc.

Nói xong, chàng trai bỏ đi ngay không đợi nghe lời Têrêsa rối rít cám ơn.  Khi tìm được căn nhà đúng số đã chỉ, Têrêsa thấy một cô giúp việc từ trong nhà đi ra, nét mặt cau có khó chịu.  Têrêsa rụt rè hỏi thăm bà chủ có nhà hay không?  Cô kia đáp lửng lơ: – Có lẽ có .. có lẽ không .. nhưng có hệ gì, vì đâu có dính dáng gì đến tôi.

Nói xong, cô gái ngoay ngoảy bỏ đi.  Têrêsa run rẩy bấm chuông.  Một tiếng nói dịu dàng bảo vào.  Têrêsa bỗng đối diện với một phụ nữ cao niên quí phái.  Bà nhẹ nhàng bảo Têrêsa hãy trình bày cho bà biết cô muốn gì.  Têrêsa nói nhanh:

– Thưa bà, sáng nay cháu hay tin bà cần một người giúp việc.  Cháu xin đến nhận chỗ làm này.  Người ta bảo đảm với cháu là bà sẽ tiếp nhận cháu với lòng nhân hậu.

Bà chủ ngạc nhiên nói với Têrêsa:

– Điều cháu vừa nói thật là lạ.  Sáng nay bà chả cần ai hết.  Nhưng cách đây nửa giờ bà vừa đuổi một cô giúp việc vì nó chễnh mãng trong việc làm.  Chuyện này chưa hề có người nào biết, ngoại trừ bà và cô giúp việc.  Vậy thì ai đã chỉ cho cháu đến đây?

Têrêsa đơn sơ trả lời:

– Một thanh niên dáng điệu sang trọng, cháu gặp ngoài đường, đã bảo cháu đến đây.

Bà chủ nhà thử tìm cho biết người thanh niên ấy là ai, nhưng vô hiệu.  Bỗng Têrêsa nhìn lên và trông thấy tấm hình một chàng trai treo trên tường.  Têrêsa mừng rỡ kêu lên:

– Thưa bà, bà không cần phải tìm đâu cho xa.  Đây chính là gương mặt người thanh niên đã nói chuyện với cháu.  Chính anh ta đã chỉ đường cho cháu đến đây.

Vừa nghe xong, bà chủ nhà kêu lên một tiếng thất thanh, như muốn ngã xuống bất tỉnh.  Xong, bà bảo Têrêsa tỉ mỉ kể lại cho bà nghe, bắt đầu từ chuyện cô có lòng thương mến các đẳng Linh Hồn, đến Thánh Lễ sáng hôm ấy, rồi chuyện gặp gỡ chàng thanh niên.  Khi Têrêsa chấm dứt, bà chủ âu yếm ôm hôn cô và nói:

– Cháu không phải là đầy tớ giúp việc cho bà, nhưng từ giờ phút này, cháu là con gái bà.  Chàng thanh niên mà con trông thấy chính là đứa con trai độc nhất của bà.  Con bà chết cách đây hai năm và ngày hôm nay chính con đã giải thoát nó ra khỏi Lửa Luyện Hình.  Bà chắc chắn như thế.  Bà hết lòng ghi ơn con.  Giờ đây chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho tất cả những Linh Hồn còn chịu thanh tẩy trong Lửa Luyện Ngục trước khi được vào hưởng hạnh phúc vĩnh cửu muôn đời.

Soeur Jean Berchmans Minh Nguyệt

Anh chị Thụ Mai gởi

CHÚNG TÔI RAO GIẢNG MỘT ĐẤNG KITÔ BỊ ĐÓNG ĐINH

CHÚNG TÔI RAO GIẢNG MỘT ĐẤNG KITÔ BỊ ĐÓNG ĐINH

Tác giả: Sr. Minh Nguyệt

Cha René-Luc 48 tuổi là Linh Mục thuộc giáo phận Montpellier ở miền Nam nước Pháp. Vốn là con hoang không cha, được một tên vô-lại nuôi dưỡng, sau một thời thơ ấu bầm-dập rách-nát, Cha may mắn gặp gỡ THIÊN CHÚA và dâng hiến trọn cuộc đời cho Ngài. Xin ghi lại chứng từ Cha trình bày trước cử tọa gồm khoảng hơn một ngàn học sinh trung học của hai trường tư thục Công Giáo ở Roche-sur-Yon.

Với nụ cười thẳng thắn và đoan hậu, với thân hình lực sĩ cao lớn và bằng giọng nói dõng dạc trầm lắng, Cha René-Luc mở đầu buổi nói chuyện như sau.

Điều Cha sắp kể cho các con nghe không phải là chuyện phim mà là chuyện thật cuộc đời Cha. Và Cha muốn nói ngay với các con rằng, ngay cả khi bị tuột dốc chúng ta vẫn luôn luôn tìm ra một lối thoát. Cha chào đời tại Nimes, có hai anh trai và hai em gái trong một gia đình vắng bóng thân phụ. Thân mẫu Cha một mình dưỡng dục các con. Năm Cha 10 tuổi, thân mẫu Cha gặp một người đàn ông tên Martial và chung sống với ông. Cứ tưởng cuộc sống gia đình giờ đây sẽ tươi sáng hơn, nào ngờ, mọi sự nhanh chóng đổi chiều. Bởi vì, ông Martial nghiện rượu và là một tên trộm cướp từng bị cảnh sát theo đuổi. Cuộc sống gia đình biến thành địa ngục. Không biết bao nhiêu lần thân mẫu dẫn Cha trốn chạy nhưng ông Martial luôn luôn tìm ra chỗ trú ẩn nên bắt cả hai mẹ con đem trở về nhà.

Mãi cho đến một buổi chiều trong tháng 11 năm 1979, ông Martial tự bắn một phát súng vào ngực và kết liễu cuộc đời. Năm ấy Cha 13 tuổi. Chứng kiến thảm trạng cuộc đời, lòng Cha bỗng nổi loạn và khởi đầu một cuộc sống ăn chơi trộm cắp và bạo hành ngay cả với thân mẫu Cha.

May mắn thay vào năm 1980 thân mẫu Cha gặp bà Marie-Do một tín hữu Công Giáo nhiệt thành. Bà mời cả hai mẹ con đến tham dự buổi thuyết trình của mục sư tin lành Nicky Cruz, một cựu thành viên băng đảng bất-lương ở thành phố New-York. Trước một cử tọa gồm 2 ngàn người, vị mục sư làm chứng rằng chính cuộc gặp gỡ với THIÊN CHÚA đã thay đổi toàn vẹn cuộc đời ông.

Chứng từ của mục sư Nicky Cruz đã đi vào tận cõi thâm sâu linh hồn Cha. Cha rất xúc động và nước mắt tuôn trào. Ngày hôm ấy, quả thật Cha đã sống kinh nghiệm câu kinh thánh nơi sách tiên tri Êdêkien: ”Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các con và sẽ ban tặng các con một quả tim bằng thịt” (36,26).

Chưa hết. Bà Marie-Do giúp Cha khám phá Đức Tin Công Giáo dưới những chiều kích sống động và mới mẻ. Rồi bà đưa Cha đi hành hương Lộ Đức. Chính tại Trung Tâm Thánh Mẫu Lộ Đức mà Cha đã quyết định dâng hiến cuộc đời cho Đức Chúa GIÊSU KITÔ, Đấng Cứu Độ nhân loại. Cha gia nhập Chủng Viện năm 20 tuổi và thụ phong Linh Mục năm 27 tuổi. Từ đó đến nay hơn 20 năm trôi qua, Cha du hành khắp nước Pháp để làm chứng về Tình Yêu THIÊN CHÚA cũng như làm chứng về niềm vui được trở thành Linh Mục. Độc thân không phải là một trạng thái bệnh-hoạn ẻo-lã. Trái lại, độc thân giúp trái tim được hoàn toàn tự do và có thể quảng đại yêu thương mọi người, không trừ ai.

Vào năm 13 tuổi Cha biết rằng thân phụ Cha là một người Đức và ông đã bỏ rơi thân mẫu Cha chỉ vỏn vẹn sau ba tháng chung sống, khiến Cha trở thành một đứa con hoang, một đứa trẻ không cha!

Thế rồi một ngày, người cha ruột này tìm kiếm và muốn gặp Cha. Thân phụ liên lạc được với Cha vào chính buổi chiều trước khi Cha thi vấn đáp môn Đức ngữ. Sau đó hai cha con tạo cơ hội gặp nhau và chính thân phụ ngỏ lời xin Cha tha lỗi. Sau đó cả hai cha con cùng đi ra tòa thị chính để làm giấy chứng thực về tờ khai sinh. Năm ấy Cha 37 tuổi và sống kinh nghiệm đầu tiên về lòng tha thứ cũng như hưởng nếm tình phụ tử bao la.

Một bạn trẻ nêu câu hỏi:

– Làm thế nào mà Cha có thể đặt trọn niềm tin tưởng nơi THIÊN CHÚA khi cuộc đời chỉ cống hiến toàn những gian trá đáng nghi ngờ?

Cha René-Luc cẩn thận trả lời bằng cách dùng một hình ảnh. Cha nói.

Các con cứ tưởng tượng có một ngôi nhà bị bỏ hoang. THIÊN CHÚA đứng trước nhà và gõ cửa. Đàng sau nhà có các cánh cửa khác mở ra bên ngoài: cho thể thao, cho chia sẻ và có lẽ cho cả ích kỷ nữa .. Trong khi cánh cửa THIÊN CHÚA đang đứng đã không bao giờ được mở ra. Nhưng khi quan sát thật gần người ta mới thấy rằng cánh cửa này không có nắm-cửa ở bên ngoài mà chỉ có ở bên trong. Vậy thì THIÊN CHÚA không thể nào mở được cánh cửa lòng các con. Ngài chỉ gõ và đứng đó chờ đợi. Chính các con mới là những người duy nhất có thể quyết định mở hay không mở cánh cửa này. Vậy thì, Cha xin cầu chúc cho mỗi người trong các con, một ngày nào đó, hãy mở cánh cửa lòng mình để đón tiếp THIÊN CHÚA Nhân Lành ngự vào.

… ”Thật thế, lời rao giảng về Thánh Giá là một sự điên rồ đối với những kẻ trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của THIÊN CHÚA. Vì có lời chép rằng: ”Ta sẽ hủy diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và sẽ vứt bỏ sự thông thái của người thông thái. Người khôn ngoan đâu? Người học thức đâu?” Người lý sự của thời này đâu? THIÊN CHÚA lại đã không để cho sự khôn ngoan của thế gian ra điên rồ đó sao? Thật vậy, thế gian đã không dùng sự khôn ngoan mà nhận biết THIÊN CHÚA ở những nơi THIÊN CHÚA biểu lộ sự khôn ngoan của Người. Cho nên THIÊN CHÚA đã muốn dùng lời rao giảng điên rồ để cứu những người tin. Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng KITÔ bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được THIÊN CHÚA kêu gọi, dù là Do-thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Chúa GIÊSU KITÔ, sức mạnh và sự khôn ngoan của THIÊN CHÚA. Vì cái điên rồ của THIÊN CHÚA còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của THIÊN CHÚA còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Côrintô 1,18-25).

(”Catholiques en Vendée”, La Vie de l’Église de Luçon, n.89, 13 Novembre 2013, trang 28)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Nguồn : vietvatican.net

 

HÃY CÙNG TÔI NGỢI KHEN THIÊN CHÚA!

HÃY CÙNG TÔI NGỢI KHEN THIÊN CHÚA!

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

”Con sẽ không ngừng chúc tụng Chúa. Câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi”. Đó là lời Thánh Vịnh 33 được mở đầu cho chứng từ ơn gọi tu dòng của Chị Carla Lucia, nữ tu Kín Clara, đang sống tại đan viện Porto Viro, miền Bắc nước Ý. Xin nhường lời cho Chị.

Với tín trung và trìu mến, THIÊN CHÚA gọi tôi một lần rồi hai lần rồi ba lần, giống như Chúa gọi Samuel thửơ xưa. Lần đầu chập chờn kín ẩn trong tuổi dậy thì và sinh viên. Vào thời kỳ đó tôi thường lo âu tự hỏi: ”Mình đi đâu và đến với Ai với Người nào?” Nhưng thắc mắc ấy bị đam mê du hành bóp nghẹt và vùi dập mất hút.

Học xong, tôi bắt đầu ngay nghề giáo. Đây là khoảng thời gian phong phú đáp ứng khát vọng trí thức và nhu cầu du hành của tôi. Tôi vui chơi tận hưởng cuộc đời. Chỉ duy một điều lạ: mặc dầu có tất cả, đầy đủ mọi sự tôi vẫn cảm thấy một khoảng trống nội tâm không gì lấp đầy được. Tôi như tìm kiếm một Ai Đó một Người Nào khác! Cuộc sống tôi như bị dằn co lôi kéo giữa 2 nẻo đường: một bên là ồn ào náo động bề ngoài và bên kia là trầm lắng kín ẩn bề trong. Cùng thời gian này, THIÊN CHÚA Quan Phòng cho tôi cơ hội quen biết một nhóm giáo dân sống Đạo chân thành, sống hiệp thông sâu xa với Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Cuộc gặp gỡ mang lại cho tôi một kinh nghiệm thiêng liêng thật bất ngờ và có sức mạnh biến đổi hẳn cuộc đời tôi.

Vào năm ấy, tôi tham dự cuộc hành hương Ba Lan. Từ thủ đô Varsava chúng tôi đi bộ tiến về Đền Thánh Đức Mẹ ở Czestochowa. Khi tiến lên đồi cao Jasna Gora cùng với hàng ngàn tín hữu Công Giáo Ba Lan khác, tức khắc trong tôi chín mùi hình ảnh một Giáo Hội lữ hành. Khi đến Đền Thánh, vào Nhà Nguyện nhỏ nơi có bức ảnh Đức Mẹ Đen, tôi quì cầu nguyện thật lâu và thật sốt sắng. Tôi linh cảm mình được kêu gọi thực thi đức trinh khiết.

Trở về nhà, tôi cẩn thận xem xét có thật mình được gọi sống đời đồng trinh hay không. Liền khi đó tôi tưởng tượng ngay: có lẽ mình sẽ tận hiến cho THIÊN CHÚA nhưng trong tư cách giáo dân sống độc thân giữa đời. Tôi nghĩ thế, bởi lẽ trái tim tôi vẫn còn bị vây bọc bởi trăm ngàn thú vui giả tạo ở trần gian này. Xin nói thêm, lúc ấy tính tình tôi hay lơ đãng, không thích kỷ luật và ưa tò mò. Có một thời gian tôi như bị rơi vào cơn khủng hoảng tinh thần. Nhưng THIÊN CHÚA Quan Phòng lại can thiệp vào cuộc đời tôi. Tôi thoát ra khỏi cơn khủng hoảng nhờ tìm kiếm, gặp gỡ và suy niệm LỜI CHÚA. Tôi tiến những bước thật khiêm tốn.

Cứ thế thời gian lặng lẽ trôi qua trong vòng vài năm trời. Tháng 8 năm 1991 tôi trở lại Czestochowa nhân Ngày Quốc Tế Giới Trẻ lần thứ 6. Lần ấy Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ký thác cho giới trẻ chúng tôi nhiệm vụ tái truyền giảng TIN MỪNG. Riêng tôi, một lần nữa, tôi được diễm phúc chiêm ngắm bức ảnh Đức Mẹ Đen Jasna Gora. Tôi chăm chú nhìn khuôn mặt dịu hiền thoảng nét u buồn của Đức Trinh Nữ Rất Thánh MARIA, Nữ Vương nước Ba Lan.

Chính lúc này đây tôi cảm nghiệm rõ ràng tiếng Chúa gọi tôi. Tôi hiểu rằng từ lâu lắm rồi THIÊN CHÚA yêu tôi. Ngài chờ tôi đáp lại tiếng Ngài.

Lần này tôi can đảm dứt khoát đáp lại tiếng gọi. THIÊN CHÚA đưa tôi vào đan viện các Nữ Tu Kín dòng Thánh Clara ở Porto Viro thuộc miền Bắc nước Ý. Đan Viện dâng kính Khiết Tâm Đức Mẹ MARIA. Nơi đây, mọi vấn nạn cuộc đời tôi đều được giải đáp cách thỏa đáng. Tôi gặp được đời sống thiêng liêng phong phú. Tôi đắm mình trong kinh nguyện và trong cuộc sống huynh đệ chân tình.

Nơi Đan Viện, Kinh nguyện riêng và chung được phân phối cách hòa điệu trải dài suốt ngày, trong đó có những giờ quì chầu trước Mình Thánh Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Tình huynh đệ san sẻ trong Cộng Đoàn làm nổi bật nét đẹp khó nghèo của con cái Cha thánh Phanxicô và Mẹ thánh Chiara thành Assisi. Riêng tôi, tôi còn đặc biệt sùng kính Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA. Đức Mẹ MARIA là Hiền Mẫu tôi. Chính Đức Mẹ khơi nguồn ơn gọi và tháp tùng tôi suốt trong cuộc sống của một nữ tu nghèo Clara.

Giờ đây nơi Đan Viện Kín, tôi chân thành cầu chúc cho nhiều bạn trẻ cũng tìm được niềm vui chân thật và tràn đầy khi thực hiện được lý tưởng sống cho cuộc đời mình. Mong thay!

… ”Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Hãy cùng tôi ngợi khen THIÊN CHÚA, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẻ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn. Sứ thần của Chúa đóng trại chung quanh để giải thoát những ai kính sợ Người. Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người” (Thánh Vịnh 34(33),2-9).

(”Grande Opera Mariana GESÙ e MARIA”, Luglio-Settembre/2004, n.3, trang 39)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt