Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Công đồng đã đến (10)

Lm. Chân Tín: Luồng gió mới – Công đồng đã đến (10)
VRNs (16.01.2013) – Sàigòn
Công đồng đã đến
Công đồng Vatican II đã đến. Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã ấn định
ngày 11 tháng 10 để long trọng khai mạc. Các giám mục khắp toàn cầu đã lần lượt
lên đường về La Mã. Thế là thời gian chuẩn bị trong vòng gần 4 năm đã hoàn tất.
Trong thời gian ấy chúng ta đã theo dõi từng biến cố từng giai đoạn. Giờ đây,
trước khi Công đồng khai mạc, chúng ta tự hỏi: Chúng ta còn phải làm gì cho
Cộng đồng?
Trước hết, chúng ta phải cầu nguyện sốt sắng hơn nữa cho Công
đồng. Chính Đức Thánh Cha đã thúc giục chúng ta: “Giờ đây, Ta nài xin mỗi tín
hữu và toàn thể giáo dân hướng tất cả lòng nhiệt thành của mình về công đồng và
sẵn sàng cầu nguyện tha thiết cùng Thiên Chúa Toàn năng, xin Người lấy lòng
nhân ái của Người yểm hộ công trình trọng đại này, mà hôm nay đã cận ngày khai
mạc; xin Người lấy uy lực của Người củng cố Công đồng ngõ hầu Công đồng thành
tựu một cách tương xứng với địa vị của mình”. Qua lời của Đức Thánh Cha, chúng
ta nhận thấy rằng lời cầu nguyện của chúng ta là một yếu tố cần thiết cho sự
thành tựu của Công đồng. Đó là bổn phận của tất cả những ai mang danh con cái
Giáo hội. Tất cả công trình chuẩn bị trong vòng gần 4 năm qua sẽ trở nên vô
hiệu, nếu không được ơn đặc biệt của Đấng Toàn Năng.
Một công việc thứ hai chúng ta phải làm để Công đồng được hiệu quả
đó là thánh hóa bản thân ta, là sống đời sống đức tin của ta cách đầy đủ. Yếu
tố này chính Đức Thánh Cha đã dạy: “Ước gì mọi lời cầu nguyện đó phát ra cách
liên lỉ từ nguồn mạch sự sống đức tin. Có như vậy mới dễ được Chúa nhận lời và
trở nên hoàn toàn đắc lực. Ước gì chúng con được tăng thêm giá trị bằng một cố
gắng tận tình để sống đời sống Công giáo để ta kết hợp được rằng hết mọi người
đều dọn mình sẵn sàng tuân theo mệnh lệnh và những quyết nghị mà chính Công
đồng sẽ ban bố một ngày gần đây”. Chúng ta chưa biết được những chỉ thị và
quyết định nào sẽ được ban bố. Nhưng có một điều chắc chắn là Công đồng sẽ đòi
hỏi ở ta một cuộc đổi mới trong đời sống đức tin của ta.
Sau hết để Công đồng được kết quả mỹ mãn, Đức Thánh Cha đã nhấn
mạnh việc ăn năn đền tội. trong thông điệp “Sám hối” Đức Thánh Cha đã khuyên
dạy chúng ta lo việc ăn năn đền tội: “Sám hối theo giáo lý của Chúa Giêsu, là
một phương làm cho người có tội được ơn tha thứ và bảo đảm phần rỗi đời sau.
Bởi thế không ai lạ gì, khi Giáo hội Công giáo… vẫn coi việc ăn năn sám hối như
một điều kiện căn bản, để cải thiện đời sống con cái mình và để chấn hưng tiền
đồ của chính Giáo hội. Vì lý do trên đây,trong sắc chỉ triệu tập Công đồng
Vatican II, ta đã kêu gọi giáo dân phải chuẩn bị tiếp đón công cuộc lớn lao này
không những bằng lời cầu nguyện, bằng sự thực hành các nhân đức Công giáo, mà
còn bằng cả sự tự ý hu sinh hãm mình. Hôm nay, đứng trước thềm đại Công đồng,
Ta càng phải nhấn mạnh lời khuyên nhủ trên đây… Trước hết, cần sự thống hối bề
trong, tức là ăn năn và đền các tội mình đã phạm… Thực ra, các viện đền tội bề
ngoài sẽ thánh vô ích, nếu không đi theo với sự trong sạch bên trong nếu không
có sự ăn năn hối lỗi”.
Cầu nguyện, sống đức tin Công giáo và ăn năn đền tội, đó là ba
việc cần thiết chúng ta phải làm, trong những ngày trọng đại Cộng đồng nhóm họp
tại La Mã. Chúng ta hãy nhiệt tình tham gia vào Công đồng. Chúng ta hãy theo
các giám mục chúng ta bằng lời cầu nguyện, bằng sự sống đức tin và bằng sự ăn
năn đền tội, để Công đồng Vatican II trở nên một Lễ Hiện Xuống mới khả dĩ đem
lại cho Giáo hội một mùa xuân mới.
Nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp

Số 161-10/1962

THIÊN ĐƯỜNG . . .hạ giới

THIÊN ĐƯỜNG . . .hạ giới

Những gì mẹ Thiên Nhiên mang lại cho chúng ta luôn kì diệu và ấn tượng. Hãy cùng chúng tôi khám khá những thiên đường ấn tượng trên mặt đất.

Mỏm đá Preikestolen, Naouy

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Preikestolen là khối đá vuông vức này trông giống như một chiếc bục giảng kinh của Cha sứ. Khối đá tự nhiên này có diện tích bề mặt là 24.99m × 24.99m, khá bằng phẳng, cao 604m so với mực nước biển. Để có thể đến được đây, du khách phải mất hơn 2 giờ đi bộ, tuy nhiên khối đá kỳ vĩ này cũng có thể được thưởng ngoạn bằng cách đi thuyền trên biển. Tên gốc của tảng đá này là ‘Hyvlatonnå’, nghĩa là cái lưỡi
của cái bào gỗ.

Hang Ngọc Bích, Hy Lạp
Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Tên của nó xuất phát từ màu xanh thật đáng kinh ngạc của vùng nước biển nơi đây do sự khúc xạ của ánh sáng. Thời gian tốt nhất trong ngày để ngắm những hang động này là khoảng buổi trưa, khi mặt biển yên tĩnh ta có thể thấy cát hạt cát lăn tăn hòa quyện cùng nước biển.

Các hang động ngọc bích được hình thành do cấu tạo địa chất đặc biệt tạo thành một chuổi các hang động dọc bờ biển theo hướng Tây Bắc của hòn đảo, chúng bắt đầu từ Agios Nikolaos và kết thúc gần Skinari Cape.

Các hang động này chỉ có thể tham quan bằng đường biển, từ thành phố Zakynthos hoặc bằng thuyền từ ngọn hải đăng Skinari gần đó.

Hang băng Skaftafeli, Iceland

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Hang băng Skaftafeli nằm trong khuôn viên công viên quốc gia Skaftafeli ở niềm Nam Iceland. Bước vào hang bạn sẽ có cảm giác như bước vào trong nhà gương bởi băng ở đây trong suốt.

Hồ Plitvic – Croatia

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Vườn quốc gia Plitvice nằm trên cao nguyên cùng tên ở Croatia; gần biên giới với Bosnia và Herzegovina – một nơi nổi tiếng với cảnh quan thiên nhiên độc đáo. Công viên Plitvice trở thành Di sản quốc gia của Croatia năm 1949 và đồng thời cũng được công nhận là Di sản thế giới 30 năm sau đó. Tại Plitvice có 16 chiếc hồ nối liền với nhau từng tầng ở độ cao 636m tới 503m,trong đó có 12 hồ ở trên cao và 4 hồ nước ở
phía dưới.

Cửu Trại Châu, Trung Quốc
Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Cửu Trại Châu (Thành Đô, Trung Quốc) mùa thu đẹp như một bức tranh. Quả nhiên xứng với tên gọi “thiên đường hạ giới”, Cửu Trại Châu sở hữu phong cảnh thiên nhiên
độc đáo, gần như chưa có sự can thiệp của bàn tay con người.

Đảo Bora Bora

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Đảo Bora Bora cách Papeete, trung tâm Polynésie, Pháp, 230km về phía tây bắc, được bao quanh bởi một đầm phá lớn và một rặng san hô dài. Trung tâm của đảo là tàn tích của một ngọn núi lửa đã tắt. Qua thời gian và các hoạt động địa chất, hai ngọn núi lớn
của đảo là Pahia và Otemanu đã được hình thành.

Bora Bora rất nổi tiếng với làn nước trong xanh và dải cát trắng mịn màng quanh đảo. Hỏn đảo xinh đẹp này được rất nhiều người ưu ái gọi là thiên đường du lịch biển ở Thái Bình Dương.

Động Cẩm Thạch, Chile

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Vẻ đẹp thiên nhiên độc đáo của những vách đá cẩm thạch cùng với dòng nước trong xanh tuyệt đẹp đã mang lại cho động cẩm thạch Marble Cathedral nét cuốn hút đặc biệt đối với du khách thập phương. Động cẩm thạch Marble Cathedral tọa lạc tại hồ General Carrera (hồ nước ngọt lớn thứ hai của vùng Nam Mỹ) ở Pantagonia, Chile

Vườn Marqueyssac

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Marqueyssac là một khuôn viên có từ thế kỷ 17 với những khu vườn nằm ở Vézac, tại Dordogne của nước Pháp. Khuôn viên được tạo dựng vào cuối thế kỷ 17. Đó có thể gọi là công trình tuyệt đẹp với những view trên cao của khối vách đá nhìn xuống thung lũng Dordogne.

Đường trượt băng giữa hồ Paterswoldse Meer, ở miền nam Hà Lan

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Hẻm băng, Greenland, Đan Mạch
Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Greenland là một quốc gia tự trị nằm trong vương quốc Đan Mạch và là hòn đảo lớn nhất thế giới. Đây là một quốc giá rất đặc biệt, bởi khoảng 81% diện tích bề mặt Greenland bị băng bao phủ. Hiện tượng băng tan ở đây đã tạo nên một hẻm núi sâu khoảng 46m.

Cầu treo Capilano

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Cầu treo Capilano (Capilano suspension bridge) ở Vancouver là một cây cầu đoạt được 3 cái nhất thế giới: cao nhất, xưa nhất và dài nhất. Mỗi năm khoảng trên 800,000 du khách đã đến đây thăm viếng và đi qua cây cầu này.

Hồ Moraine, Canada

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Moraine thuộc công viên quốc gia Banff, cách làng hồ Louise 14km, ở tỉnh Alberta, Canada. Hồ nằm trong thung lũng dưới chân núi Ten Peaks, gồm 10 đỉnh phủ đầy tuyết trắng, ở độ cao trung bình 1.885m trên mực nước biển, được bao bọc bởi dãy núi đá Canada Rocky xinh đẹp. Diện tích mặt hồ rộng 0,5 km2.

Hồ Moraine chỉ đón du khách từ tháng 6 đến tháng 10 hàng năm khi băng tuyết trên núi Ten Peaks tan chảy và trút xuống lòng hồ tạo thành sắc xanh diễm lệ.

Petra, Jordan
Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Petra – khu di tích khảo cổ ở miền Tây Nam Jordan, một trong những điểm du lịch nổi tiếng với nhiều công trình kiến trúc và tượng đài được chạm trổ tinh xảo trên vách đá.

Nét kiến trúc A Rập cổ độc đáo cùng với bề dày văn hóa lịch sử, thể hiện trên các di vật ở đây đã tạo nên nét hấp dẫn thu hút du khách khắp nơi đến tham quan Petra mỗi năm.

Lâu đài Benteng Chittorgarh, Ấn Độ
Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Lâu đài Benteng Chittorgarh, Ấn Độ đẹp như bước từ trong các câu chuyện cổ tích ra đời thật.

Vườn hoa Keukenhof, Hà Lan

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Keukenhof, ở Lisse, một thị trấn nhỏ ở phía nam Amsterdam, Hà Lan, là một trong những vườn hoa lớn nhất thế giới. Keukenhof mở cửa cho khách du lịch bắt đầu từ tuần cuối cùng của tháng 3 đến giữa tháng 5.

Lễ hội đèn trời tại Đài Loan

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Vào dịp lễ Nguyên Tiêu, giống như nhiều nước khác Đài Loan cũng tổ chức lễ hội đèn trời với qui mô hoành tráng. Trong lễ hội, những chiếc đèn lồng được thả lên trời sau khi được viết vào giấy đèn lồng những mong muốn, ước nguyện của người thả với niềm tin là mong muốn của họ bay lên trời và được chuyển giao cho thần thánh…

The Wave, Arizona, Mỹ

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Sau hơn 190 triệu năm hình thành, những đụn cát biến thành núi đá gặp sự bào mòn bền bỉ của gió đã hình thành vô số đường cong mềm mại như những con sóng, tại khu vực nằm giữa hai bang của Mỹ là Arizona và Utah.

Để chiêm ngưỡng kỳ quan thiên nhiên nhưng còn ít người biết đến này chỉ có cách đi bộ khoảng ba dặm, từ nơi gần nhất mà ôtô có thể tiếp cận.

Đỉnh Roraima, Brazil

Sững sờ trước những thiên đường mặt đất

Núi Roraima là ngọn núi cao nhất trong cao nguyên Pakaraima, Nam Mỹ. Nó nằm trên biên giới 3 nước Venezuela, Brazil và Guyana.

Núi Roraima là dãy núi luôn ngập trong mây, khung cảnh tựa như trong truyện cổ tích với một hệ động, thực vật phong phú và rất nhiều giống, loài độc nhất vô nhị chỉ có ở nơi đây. Toàn bộ bề mặt của núi là đá sa huỳnh. Do luôn nằm lẫn trong mây nên Roraima quanh năm mưa ẩm.

(theo tìin)

nguồn: Anh Nguyễn Đình Hữu gởi

Cô gái Pakistan: Malala Yousafzai – tiếng nói cho giáo dục

Cô gái Pakistan: Malala Yousafzai – tiếng nói cho giáo dc

Jos. Tú Nạc,

 

NMS 1/11/2013

nguồn:Vietcatholic.net

“Họ không cấm được tôi. Tôi cần nhận được sự giáo dục. Dù ở nhà, ở trường học, hay bất cứ nơi nào. Đây là yêu cầu của chúng tôi đối với toàn thế giới. Hãy cứu Pakistan chúng tôi! Hãy cứu Swat của chúng tôi.”

Đây là những lời của Malala Yousafzai. Cô là một thiếu nữ từ Thung lũng Swat ở
Pakistan. Malala đã thốt lên những lời này trong phim “Class Dismissed”. Cuốn
phim này nói về sự giáo dục đối với thiếu nữ ở Thung lũng Swat. Adam Ellick và
tờ New York Times đã dựng cuốn phim này năm 2009. Họ bắt đầu cuốn phim này sau khi một nhóm, gọi là Taliban, nắm quyền kiểm soát thung lũng này. Nhóm Hồi giáo cực đoan này tuyên bố cấm sự giáo dục đối với thiếu nữ.

Malala không đồng ý với Taliban. Cô đã tranh đấu cho sự giáo dục của mình ở
tuổi 11. Từ đó, cô là tiếng nói cho nền giáo dục của thiếu nữ. Sự tranh đấu của
cô đã ảnh hưởng đến thế giới.

Cuối năm 2008, Taliban đưa ra một thông báo trên đài phát thanh. Họ nói rằng
sau ngày 15 tháng 1 ngăm 2009, con gái ở thung lũng swat không còn được đi học.
thông báo này làm Malala rất buồn. Cô đã yêu mái trường.

Sau thông báo này Malala đạ viết một cuốn nhật ký. Mỗi ngày cô đều viết những
suy nghĩ và trải nghiệm của mình. Nhưng Malala không giấu kín cuốn nhật ký. Cô
đã chia sẻ cuốn nhật ký của cô trên website tin tức BBC của Pakistan. Malala
muốn cho thế giới biết về nỗ lực tranh đấu của cô cho giáo dục.

Để bảo vệ sự sống, cô đã dùng bút danh là Gul Makai. Cô đã nói với Owais Tohid,
người viết tin tức của chương trình Spotlight, lý do mà cô muốn chia sẻ cuốn
nhật ký của mình trên internet.

“Tôi muốn gào thét lên. Tôi muốn nói với toàn thế giới những gì mà chúng tôi
đang phải trải qua. Nhưng điều đó không thể. Taliban sẽ giết tôi, giết cha tôi
và cả gia đình tôi. Tôi không muốn chết mà không để lại một dấu tích nào. Nên
khi viết tôi đã chọn một cái tên khác.”

Năm 2009, Pakistan đã đánh Taliban. Trong thời gian giao chiến. Malala và gia
đình đã rời khỏi nhà, nhiều gia đình khác cũng rời khỏi Thung lũng Swat. Sau
vài tháng, chính quyền Pakistan giành được quyền kiểm soát Thung lũng Swat.
Nhưng nhiều thủ lĩnh Taliban vẫn ở trong khu vực này.

Malala và gia đình trở lại thung lũng Swat. Cô cũng đến trường trở lại. Malala
đã bắt đầu lên tiếng nhiều về vần đề quyền lợi giáo dục cộng đồng đối với thiếu
nữ. Sau đó, Adam Ellich đã phát hành phim tài liệu về những trải nghiệm của
Malala. Malala và cha cô đã gặp những nhà lãnh đạo quốc tế. Cô đã xuất hiên
trên truyền hình. Cô đã nói chuyện với nhiều cơ quan thông tấn. Vượt thời gian,
Malala đã trở nên nổi tiếng về sự can đảm của cô đã dám lên tiếng chống lại
Taliban.

Dân chúng trên khắp thế giới đã chú ý đến những nỗ lực của Malala. Năm 2011,
những viên chức nhà nước đã giới thiệu cô là ứng viên Giải thưởng Hòa binh
Thiếu nhi Quốc tế, Cô không đạt. Nhưng cô được tôn vinh về lòng can trường và
dũng cảm. Malala đã nói với BBC về cách mà các phương tiện truyền thông tin tức
đã giúp đỡ tạo cho công việc của cô thực hiện được.

“Trường Trung học và Cao đẳng Khushal của tôi và những phương tiện truyền thông
đại chúng đã ủng hộ tôi rất nhiều. Nếu không có BBC, không có New York Times,
làm sao mà tiếng nói của tôi có thể vươn tới quần chúng.”

Dân chúng Pakistan cũng tôn vinh những nỗ lực của Malala cho nền giáo dục nữ
giới. Tháng 12 năm 2011 các viên chức thẩm quyền đã trao tặng cho cô Giải
thưởng Hòa bình Quốc gia dành cho Thanh niên đầu tiên cho cô. Sau khi nhận phần
thưởng này, Malala đã nói với các cơ quan truyền thông. Cô nói với họ về những
kế hoạch của mình trong tương lai.

“Tôi muốn thay đổi hệ thống chính trị để có một xã hội công bằng và bình đẳng.
Tôi muốn thay đổi vị trí của thiếu nữ và phụ nữ. Tôi có kế hoạch mở trường học
của riêng tôi cho thiếu nữ.”

Nhưng không một ai ở Pakistan tự hào về những thành công của Malala. Taliban
không bằng lòng ý kiến những ý kiến của cô. Họ không ưa cách mà cô đã cổ vũ
thiếu nữ và phụ nữ đi học.

Vào ngày 9 tháng Mười năm 2012, những phần tử thuộc Taliban đã cố tìm cách giết
cô. Họ muốn làm im tiếng nói của cô mãi mãi. Vào lúc tan trường của Malala.
Malala và các học sinh khác đang trên xe bus nhà trường về nhà. Những người có
vũ trang súng đã chận chiếc xe bus. Một trong số họ đã yêu cầu cho biết học
sinh nào là Malala Yousafzai. Kho họ thấy cô, họ đã bắn cô. Những viên đạn đã
trúng đầu và ngực cô. Và cũng trúng hai em khác trên xe bus. Sau biến cố kinh
hoàng này, những tay súng đã bỏ chạy.

Malala đã bị thương rất trầm trọng. Nhưng cô vẫn còn sống sau cuộc tấn công
này. Các bác sỹ đã thực hiện một cuộc giải phẫu để lấy những viên đạn ra. Nhưng
người ta sợ Malala không được an toàn tại bệnh viện địa phương. Họ sợ Taliban
sẽ tìm cách giết cô lần nữa. Nên gia đình Malala và các bác sỹ quyết định đưa
cô rời khỏi Pakistan. Họ đã đưa cô bằng máy bay tới Anh quốc để chữa trị.

Tin tức về Malala đã lan khắp thế giới. Nhiều người tỏ ra căm phẫn Taliban đã
nhắm mục tiêu vào một cô gái trẻ trung, vô tội. Những người khác yêu cầu chính
phủ Pakistan phải đưa ra những hành động của họ. Nhưng hầu hết người ta noi về
việc mà Malala đã tranh cho đấu cho giáo dục đã ảnh hưởng tới họ. Feryal Gauhar
đã viết những suy tư của bà trên tờ Express Tribune của Pakistan.

“Tiếng nói của em là tiếng nói mà đã làm cho chúng ta cân nhắc kỹ rằng có thể
có những đường lối khác để hành động. Điều đó có thể là sự kháng cự đối với mọi
hình thức trấn áp. Hôm nay, những cố gắng làm im tiếng sẽ chỉ tạo cho em thêm
mãnh mẽ hơn.”

Hai nhóm quyền phụ nữ ở Anh, họ đã tổ chức một cuộc tập trung ủng hộ Malala.
Tại sự kiện này, họ đã lên tiếng.

“Malala dũng cảm đã nói lên những gì mà nhiều người trong chúng ta muốn nói
nhưng chúng ta rất sợ …Giống như nhiều người trên khắp thế giới, chúng ta được
đánh thức và cổ vũ bời lòng quả cảm của cô. Chúng ta cầu mong cô và bạn bè của
cô mau bình phục,”

Giờ đây, dân chúng trên toàn thế giới đang trả lời. Cha của cô, ông Ziauddin
Yousafzai đã nói với tạp chí Time,

“Mọi người trên toàn thế giới đã lên án cuộc tấn công bằng những lời mạnh mẽ.
Họ đã cầu nguyện cho con gái tôi. Cháu không chỉ là con gái của tôi, mà cháu là
con gái của mọi người, chị em của mọi người.”

Người Mỹ gốc Việt có tên trong danh sách ‘tài năng trẻ’ của Forbes

Người Mỹ gốc Việt có tên trong danh sách ‘tài năng trẻ’ của Forbes

Danh sách có tên gọi ’30 under 30’ của Forbes gồm 30 cá nhân xuất sắc nhất dưới 15
tuổi trong 15 lĩnh vực như tài chính, marketing hay công nghệ.

 

VOA Tiếng Việt

15.01.2013

Anh Nam Nguyễn, 29 tuổi, mới được tạp chí Forbes chọn vào danh sách những
thanh niên tài năng dưới 30 tuổi, có khả năng tạo nên sự thay đổi trên toàn thế
giới.

Danh sách có tên gọi ’30 under 30’ gồm 30 cá nhân xuất sắc nhất dưới 15 tuổi
trong 15 lĩnh vực như tài chính, marketing hay công nghệ.

Anh Nam Nguyễn dứng ở vị trí thứ 19 trong danh sách hơn 30 thanh niên xuất sắc nhất trong lĩnh
vực marketing và quảng cáo.

Trả lời VOA Việt Ngữ, anh Nam cho biết anh rất bất ngờ khi được Forbes lựa
chọn.

Anh Nam cho biết: “Đây không phải là điều tôi từng mong đợi, nhất là một
giải thưởng có quy mô như vậy. Forbes là một tạp chí danh tiếng, với lượng
người đọc có khả năng xuất sắc. Vì vậy nên khi được nêu tên trong danh sách ‘30
under 30’, tôi thực sự bị choáng ngợp, nhưng đồng thời cũng cảm thấy hết sức
vinh dự.”

Chàng thanh niên gốc việt 29 tuổi là giám đốc phụ trách về nội dung của công ty
360i.

Anh quản lý nội dung theo thời gian thực, tận dụng các dữ liệu về người tiêu
dùng để tạo ra các sản phẩm đa phương tiện cho các công ty lớn như Coca-Cola
hay Kraft Foods.

Anh Nam Nguyễn sinh ra và lớn lên tại California.  Nhưng anh cho biết Việt
Nam có một vị trí quan trọng trong anh và đó chính là lý do vì sao anh đã giữ
tên họ Việt Nam.

Anh Nam cũng mới cùng cha trở lại Việt Nam, và anh gọi đó là một ‘ước mơ đã
thành sự thật’.

Anh Nam nói: “Tôi sinh ra và lớn lên ở Hoa Kỳ, tôi luôn luôn tự hỏi về
nguồn gốc Việt Nam của mình. Dù là một người Mỹ nhưng tôi luôn tự hào là một
người gốc Việt. Tôi thất rất hạnh phúc khi được cảm nhận văn hóa Việt Nam từ âm
thanh của đường phố, quang cảnh, con người và ẩm thực của Việt Nam. Tôi thật sự
xúc động được trở về nơi đã sinh ra cha mẹ tôi.”

Anh Nam nói với VOA Việt Ngữ rằng anh hy vọng sẽ có dịp quay trở lại Việt Nam
trong tương lai.

 

Bởi yêu thương là điều không đơn giản

Bởi yêu thương là điều không đơn giản

‘Chúng ta sẽ luôn bên nhau, không xa rời’.

Năm 7 tuổi, cậu đi học về tình cờ thấy một cô bé đứng khóc run rẩy vì trước mặt
là con chó hung dữ đang gầm gừ. Không chần chừ, cậu vớ lấy cây sao nhét

bên hông cặp, chạy đến đánh đuổi con vật rồi cùng cô bé nọ chạy thoát.

Được một đoạn, cả hai dừng lại thở…

“Cám ơn cậu nha!” Cô bé lau nước mắt nói.

“Không có gì. Lần sau cậu đừng đi đường đó nữa. Chó dữ lắm”. Cậu dặn dò.

“Nhưng đường về nhà mình chỉ có thể đi qua đó thôi”.

Nghe vậy, cậu nhóc đắn do hồi lâu rồi bảo:

“Hay là đến chiều, cậu đứng chờ mình ở đầu đường khi nãy mình sẽ giúp cậu về nhà”.

“Thiệt hả? Tuyệt quá! Thế chúng ta làm bạn nhé!”.

Cậu cười tươi, gật đầu.

Năm 10 tuổi, cậu nhóc và cô bé đã là đôi bạn thân. Một hôm, cô bé mang sổ liên lạc về khoe bố mẹ vì đạt thành tích cao. Nhưng không may, bố mẹ lại đang cãi nhau. Trong lúc nóng giận, họ đã ném cuốn sổ đi và la mắng con.

Cô bé bật khóc, chạy ra khỏi nhà đến tìm cậu bạn.

Cậu nhóc không ngừng an ủi, chọc cười cô bé.

“Cám ơn cậu vì đã luôn bên mình.” Cô bé nói khẽ.

“Bất kể khi nào cậu cần, mình sẽ luôn bên cạnh!” Cậu tuyên bố.

“Vậy… chúng ta hãy hứa sẽ luôn bên nhau, không xa rời!”.

Lời đề nghị của cô bé vừa dứt, cậu nhóc đồng ý liền: “Ừ, hứa!”.

Năm 14 tuổi, cả hai dần có tình cảm với nhau. Ngày nọ, cô bé bị đám bạn trai cùng lớp bắt nạt. May thay cậu nhóc thấy và lập tức chạy đến bảo vệ cô. Vì chúng quá đông nên cậu bị đập một trận tơi bời.

“Xin lỗi, vì mình mà cậu ra thế này.” Cô bé vừa băng bó vết thương cho cậu vừa khóc.

“Có gì đâu, mình ổn. Cậu bị hiếp đáp, dĩ nhiên mình phải bảo vệ.” Dù rất đau nhưng cậu cứ cười lớn.

Im lặng một lúc, cô bé khẽ cất tiếng:

“Thế, chúng ta tiếp tục lời hứa sẽ luôn bên nhau, không xa rời nha?”

Mặt đột nhiên đỏ ửng nhưng cậu vẫn đáp:
“Ừm, hứa!”

Năm 18 tuổi, hai người học cùng trường.
Vào ngày sinh nhật mình, cậu đã bất ngờ hôn cô.

“Cậu thích không?” Cậu ngập ngừng hỏi.

“Mình chờ nụ hôn này lâu lắm rồi”.
Cô bẽn lẽn nói.

“Chúng ta sẽ luôn bên nhau, không xa rời!”. Cậu nắm tay cô, dịu dàng lặp lại lời hứa.

Cô không đáp chỉ mỉm cười gật đầu.

Năm 23 tuổi, anh cầu hôn cô. Một lễ cưới hạnh phúc diễn ra trong thánh đường. Khi Cha đọc lời thể xong, cả hai cùng đồng thanh.

“Con đồng ý.”

Lúc đeo nhẫn cưới vào tay cô, anh hỏi: “Sẽ luôn bên nhau, không xa rời?”

Cô nở nụ cười thật tươi, trả lời:
“Vâng, em hứa!”

Năm 25 tuổi, khi đã là vợ chồng được hai năm, ngày nọ, cô hẹn anh ra và trao lại nhẫn cưới.

“Mình chia tay anh nhé”. Cô chậm rãi bảo.

“Tại sao?” Anh vô cùng kinh ngạc.

“Em thật sự xin lỗi! Cảm giác yêu thương em dành cho anh đã không còn như xưa!” Cô cúi đầu, nói thật khẽ.

Khi cô rời khỏi, chàng trai cầm nhẫn cưới trong tay, im lặng rất lâu. Sau đó, anh mỉm cười: “Tiếp tục lời hứa sẽ luôn bên nhau, không xa rời”.

Hôm ấy, chỉ còn một mình anh hứa.

Năm 26 tuổi, ly dị xong cô quen người yêu mới. Còn anh, vẫn yêu cô. Mỗi ngày, anh đều đứng từ xa quan sát cô nói chuyện vui vẻ với người con trai xa lạ.

Nhìn cô, anh thì thầm: “Sẽ luôn bên nhau, không xa rời”.

Lúc giận bạn trai, cô ngồi khóc một mình. Anh thấy liền giả làm thú bông đến tặng cô bó hoa và  chọc cười.

Trông cảnh người yêu cầm hoa, cười trở lại, trong đầu anh nghĩ: “Sẽ luôn bên nhau, không xa rời”.

Năm 30 tuổi, bạn trai đi xa, cô ở lại một mình. Và anh, biết tin mình bị bệnh nan y.

Mỗi buổi chiều, dù mưa hay nắng, anh đều trốn khỏi bệnh viện đến nơi làm việc chỉ để được nhìn cô. Dù mệt mỏi, anh vẫn âm thầm đi theo để biết rằng, cô đã về nhà an toàn.

“Sẽ luôn bên nhau, không xa rời”.
Anh luôn nói câu đó trước khi quay lưng trở về.

Bệnh trở nặng, bác sĩ bắt anh phải ở trong bệnh viện. Nhưng anh không nghe, tiếp tục ra ngoài vì biết tối nay cô sẽ dự sinh nhật một mình.

Cô ngồi tại quán cafe ăn bánh kem trong nỗi cô đơn. Và cô đã không biết, cách đó mấy chiếc bàn, anh âm thầm bên cô đón sinh nhật.

“Sẽ luôn bên nhau, không xa rời”.
Anh để dành lời hứa năm xưa làm quà cho cô.

Tối đó, anh và cô cùng về muộn.

Năm 32 tuổi, người yêu cô trở về rồi cả hai quyết định kết hôn. Về phía anh, bác sĩ lắc đầu, bảo hết hy vọng. Ngày cuối cùng, mặc cơn đau của bệnh, anh vận đồ thật đẹp đến dự đám cưới lần thứ hai của cô.

Lúc chú rể đeo nhẫn cho cô, anh nở nụ cười:

“Lời hứa sẽ luôn bên nhau, không xa rời có lẽ anh không thể thực hiện được nữa. Nhưng từ giờ, đã có người thay anh tiếp tục lời hứa đó với em!”.

Khi chúc phúc cô xong, anh rời khỏi thánh đường.

Trưa hôm ấy, người ta thấy có một chàng trai chết trong công viên. Anh ngồi trên ghế đá với vẻ mặt thanh thản.

Dù yêu theo cách nào, chúng ta đều mong muốn người mình yêu được hạnh phúc, phải không?

Nguồn: FB

Nguyễn Phi Phượng gởi

ÂN SỦNG

ÂN SỦNG (CN 2 QN.C)

(Is 62, 1-5; 1Cor 12, 4-11; Ga 2, 1-12)

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Tất cả là hồng ân. Hồng ân, ân sủng, đặc ân, đặc sủng, qùa tặng, tài năng, ân lộc, ân phúc, phúc lộc, thiên tài, an lạc và hạnh phúc đều là những món qùa được trao ban. Người ta thường nói: Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Trải qua bao đời, cha ông của chúng ta đã nghiệm ra rằng con người không thể làm chủ toàn diện đời mình. Trước hết, mỗi người đón nhận hồng ân sự sống để được hiện hữu. Mỗi tạo vật lãnh nhận một kho tàng mầu nhiệm một cách nhưng không. Người hữu thần tin tưởng vào Thượng Đế, Đấng đã tạo dựng và quan phòng vạn vật muôn loài trong trật tự. Người vô thần cắt đứt nguồn gốc sáng tạo và chỉ chú tâm vào nỗ lực của con người hiện tại. Có người nghĩ rằng với khả năng và nỗ lực tu tâm và tu
thân, con  người có thể quyết định hoàn toàn số mệnh của mình. Là người trí tuệ,
chúng ta nên mở rộng tâm trí để học hỏi và trau dồi kiến thức thêm. Quan sát sự
sống muôn loài và vũ trụ vạn vật bao la, điều quan trọng là chúng ta hãy khiêm
tốn chấp nhận thân phận yếu đuối, mỏng dòn và rất giới hạn của mình.

Phần phụng vụ lời Chúa của Chúa nhật thứ hai Thường Niên giúp chúng ta có một xác tín về ân sủng thiêng liêng. Thiên Chúa sáng tạo, dẫn dắt điều khiển sự vận hành của vũ trụ và sự sống của muôn loài. Con người là tạo vật cao quý mà Thiên Chúa đã tác tạo. Mỗi một con người được tựu thai là một tạo vật hoàn toàn mới và duy nhất. Mọi khả năng tiềm tàng về di truyền đã được in ghi trong từng tế bào của mỗi sự sống.
Thượng Đế cho con người có ý chí, lý trí, ước muốn, tự do và khả năng để phát
triển tới đỉnh cao. Con người có thể dùng khả năng và nỗ lực quyết tâm tu tâm
và tu thân để trở nên con người hữu dụng và trọn hảo. Tiên tri Isaia đã diễn
tả: Ngươi sẽ là ngọc miện huy hoàng trong lòng bàn tay Thiên Chúa, sẽ
là mũ triều thiên vương giả Thiên Chúa ngươi cầm ở tay (Is 62, 3).
Đấng
Tạo Hóa trao ban cho mỗi loài có khả năng truyền sinh giống nòi theo cách thế
riêng biệt. Sự sinh xôi nẩy nở và tăng triển thêm nhiều sẽ làm tăng vẻ huy
hoàng của vũ trụ vạn vật. Thiên Chúa đã chúc phúc cho mọi loài được tốt đẹp.

Chúng ta thử suy về nguồn sự sống trong con người cụ thể. Trước khi được hiện hữu, chúng ta chỉ là không. Đã có một khoảnh khắc mỗi người được bắt đầu hiện hữu. Mầu nhiệm sự sống khởi đầu từ sự kết hợp giữa mầm sống từ cha và mẹ. Ôi thật bé nhỏ và nhiệm mầu! Chỉ trong tế bào tí ti đó đã ẩn tàng mọi sự. Sự sống đó không chỉ bắt đầu từ cha và mẹ nhưng nó được nối dài từ thuở tạo dựng. Mầm sống đó được truyền sinh qua vô lượng kiếp. Sự sống phát sinh ra sự sống. Vậy sự sống trong chúng ta đã được
truyền sinh qua sự sống của muôn thế hệ cha ông. Cha mẹ cộng tác với Tạo Hóa
sáng tạo sự sống nơi mỗi con người một cách đặc thù và riêng biệt. Mỗi cá nhân
đều có Deoxyribonucleic acid (DNA) khác nhau và dấu chỉ tay cũng khác biệt.
Thật lạ lùng!

Người khôn ngoan và trí tuệ là đừng từ chối điều gì mà mình chưa được học hiểu. Vì càng tìm hiểu và học hỏi, chúng ta càng hiện hữu thêm. Chúng ta biết rằng cả kho tàng kiến thức của loài người góp lại cũng chẳng thấm vào đâu so với sự diễn tiến, hiện hữu và sinh tồn của vũ trụ. Nhiều người có trí khôn hiểu biết còn nông cạn, chưa thấu
hiểu được lòng người và cũng chẳng thông suốt thế thái nhân tình, nhưng lại phán
quyết nhiều điều vô căn cớ. Có người lại mạnh miệng lên tiếng phủ nhận sự hiện
hữu của Đấng tác thành mọi sự. Khi không muốn qui phục, người ta chỉ việc đơn
giản chối bỏ uy quyền của Thượng Đế và nói rằng mọi sự hiện hữu là tự nhiên mà
có. Họ nghĩ rằng những người hữu thần tin vào thượng đế là thiếu trí tuệ và
chưa giác ngộ. Đối với họ, thần thánh chỉ như là bánh vẽ hù dọa những người sơ
khai và âu trĩ. Có lẽ chính họ còn đang ngồi trong bóng tối của vô minh

Qua Kinh Thánh mạc khải và quan sát ngắm nhìn sự vạn vần trong vũ trụ, con người nhận ra nguyên nhân cội rễ của muôn loài. Đó chính là nguyên lý nhân qủa. Trông qủa thì biết cây. Ngày xưa, Thiên Chúa đã chọn một dân riêng để chuẩn bị đón nhận Đấng Cứu Thế. Người đã dùng mọi hình thức cụ thể để tỏ bày sự quan tâm chăm sóc, khế ước yêu thương ràng buộc và sự trung tín trong giao ước. Là Kitô hữu, chúng ta tin và tôn thờ một Thiên Chúa có ngôi vị và yêu thương.Tiên tri Isaia đã dùng hình ảnh đôi trai tài gái sắc để diễn tả tình yêu sống động của Đấng tác tạo: Như
tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô
dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ (Is
62, 5).

Thánh Phaolô phân tích một cách khá rõ ràng về những đặc sủng mà mỗi người được lãnh nhận: Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí (1Cor 12, 4). Quan sát cuộc sống trong bất cứ một nhóm người, một hội, môt tổ chức hay một sinh
hoạt chung nào cũng đều có con người có khả năng khác nhau. Mỗi người đều nhận
lãnh khả năng để sinh lợi. Thần khí ban cho mỗi người một cách: Người nói tiên
tri, kẻ giảng dạy, người được ơn chữa bệnh, kẻ làm phép lạ và người được ơn nói
nhiều thứ tiếng…Như trong dụ ngôn về nén bạc, mỗi người đều nhận số vốn khác
nhau: Có kẻ nhận 5 nén bạc, người 2 nén và người 1 nén tùy theo khả năng. Khả
năng, thời gian và tài lực là nguồn vốn của mỗi cá nhân. Điều quan trọng là mỗi
người biết dùng tài năng ân sủng của mình để sinh hoa kết trái. Khả năng như
hạt giống được trao, chúng ta phải biết gieo vãi, vun trồng và chăm sóc thì khả
năng mới phát triển.

Mỗi cá nhân là một thế giới riêng tư nhưng không thể tách rời. Sống là sống chung, sống cùng và sống với người khác, sự liên đới hỗ tương giúp xây dựng một xã hội tốt đẹp: Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung (1Cor 12, 7). Không ai nhận ân sủng cho riêng mình nhưng đều vì ích lợi chung. Cuộc sống rất đa
dạng. Lịch sử loài người phát triển từng bước liên tục và nối dài. Tất cả thành
qủa của chất xám tri thức đã đặt nền tảng phát minh trong mọi thời. Nhờ trí
khôn, con người đã tìm ra được một số những nguyên nhân ẩn tàng trong thiên
nhiên. Mỗi sự phát minh mới đều đặt nền tảng trên các định luật đã có trước. Sứ
mệnh của con người là phục vụ lẫn nhau trong khả năng của mình. Con người có
muôn trùng khả năng chuyên môn và công việc khác nhau để phục vụ công ích.
Chúng ta tuy nhiều nhưng cùng tin vào một Thiên Chúa: Có nhiều việc
phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa (1Cor 12, 5).

Chúa Giêsu đầy quyền năng trong ý tưởng, lời nói và việc làm. Chúa đã hiện hữu từ đời đời có uy quyền sáng tạo và biến đổi cả tinh thần lẫn vật chất. Tại tiệc cưới Cana qua lời khẩn nài của Mẹ Maria, Chúa Giêsu là làm phép lạ đầu tiên biến nước thành
rượu. Thánh Gioan đã viết: Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na
miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người (Ga
2, 11).
Với sự cộng tác của con người, Chúa đã tỏ quyền năng và vinh quang của Ngài. Ngài không khoe khoang hô lớn nhưng chỉ hành động âm thầm qua những việc rất bình thường của gia nhân: Đức Giê-su bảo họ: “Các anh đổ đầy nước vào chum đi! ” Và họ đổ đầy tới miệng (Ga 2, 7). Chỉ có các gia nhân biết sự việc đã xảy ra cũng giống như các mục đồng nhận diện ra Chúa nơi máng cỏ Belem.

Chúng ta hãy đến cùng Đức Maria, Mẹ là đấng cầu bầu có thần thế trước tôn nhan Thiên Chúa. Mẹ sẽ dẫn dắt chúng ta đến với Chúa Giêsu. Nghe lời của Thân Mẫu Chúa nói với các gia nhân: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.”(Ga 2,
5).
Lạy Chúa, Chúa đã biến nước thành rượu ngon, xin Chúa biến đổi tâm
hồn chúng con nên khí cụ bình an của Chúa.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Bronx, New York.

Anh chị Thụ & Mai gởi

Cuộc Sống Muôn Màu

Cuộc Sống Muôn Màu


Hãy biết quý trọng từng giây phút mà bạn có!

Sưu tầm
nguồn: tinmung.net

Có một ngân hàng, mỗi buổi sáng, cung cấp vào
tài khoản của bạn 86.400 USD.

Số dư trong tài khoản không được phép chuyển từ ngày này qua
ngày khác.

Mỗi buổi chiều, ngân hàng sẽ hủy bỏ hết số dư còn lại mà bạn đã
không dùng hết trong ngày.

Bạn sẽ phải làm gì ? Sử dụng hết số tiền đó, dĩ nhiên !

Mỗi người trong chúng ta đều có một ngân hàng như vậy.

Tên ngân hàng là THỜI GIAN.

Mỗi buổi sáng, ngân hàng này cung cấp cho bạn 86.400 giây.

Vào mỗi buổi tối, ngân hàng sẽ xóa bỏ, coi như bạn mất, thời gian mà bạn
không đầu tư được vào các mục đích tốt.

Ngân hàng không cho phép bạn được để lại số dư trong tài khoản.

Cũng không cho phép bạn bội chi.
Mỗi ngày, ngân hàng lại mở một tài khoản mới cho bạn.

Mỗi tối nó lại hủy hết những gì còn lại trong ngày.

Nếu bạn không dùng được hết thời gian mà bạn có trong ngày,người bị mất chính là bạn.

Không có chuyện quay lại ngày hôm qua.

Không có chuyện tiêu trước cho “ngày mai”

Bạn phải sống bằng những gì bạn có trong tài khoản ngày hôm nay.

Hãy đầu tư vào đấy bằng cách nào đó,

để bạn có thể nhận được nhiều sức khỏe, hạnh phúc, và thành công nhất !

Đồng hồ vẫn đang chạy. Hãy cố thực hiện thật nhiều trong ngày hôm nay.
Để biết được giá trị của MỘT NĂM,

hãy hỏi một học sinh bị ở lại một lớp.
Để biết được giá trị của MỘT THÁNG,

hãy hỏi một người mẹ sinh con thiếu tháng.
Để biết được giá trị của MỘT TUẦN,

hãy hỏi biên tập viên của một tuần báo.
Để biết được giá trị của MỘT GIỜ,

hãy hỏi những người yêu nhau đang mong chờ được gặp nhau.
Để biết được giá trị của MỘT PHÚT,

hãy hỏi một người bị lỡ chuyến tàu.
Để biết được giá trị của MỘT GIÂY,

hãy hỏi một người vừa thoát khỏi một tai nạn.
Để biết được giá trị của MỘT PHẦN NGÀN GIÂY,

hãy hỏi người vừa nhận được huy chương bạc trong kỳ thi Olympic.
Hãy quý trọng từng giây phút mà bạn có !

Và hãy nên quý thời gian hơn nữa bởi vì bạn đang chia sẻ thời gian đó với ai
đấy thật đặc biệt đối với bạn, đủ đặc biệt để có thể chia sẻ thời gian của bạn.

Và hãy nhớ rằng thời gian chẳng chờ đợi ai cả.

Ngày hôm qua đã là lịch sử. Ngày mai là một bí ẩn.

Hôm nay là quà tặng. Cũng vì vậy mà nó được gọi là PRESENT !

(có nghĩa là HIỆN TẠI, mà cũng có nghĩa là QUÀ TẶNG ).

Một Thị Kiến Mầu Nhiệm Về Thiên Đàng

Một Thị Kiến Mầu Nhiệm Về Thiên Đàng

11/01/2013

Tác giả: Nguyễn Thị Thân

nguồn:Thanhlinh.net

Tôi xin kể lại với một giấc mơ huyền diệu, để chứng tỏ rằng là Chúa Cứu Thế đã ban cho tôi được thấy thị kiến cảnh Thiên Đàng để Niềm Tin về Ngài và Cha của chúng ta ở trên Trời luôn vững vàng, dù có phải trãi qua bao nhiêu thiên tai, những biến cố đau thương về chiến tranh, bịnh tật, và tai nạn, v…v! Chúng ta phải vững lòng tin vì Cha chúng ta ở trên Trời vẫn luôn đồng hành, luôn bảo vệ và che chở cho các con ở nơi trần thế nầy.

Như ai cũng biết là cơn bảo Sandy đã xãy ra vào ngày 29 tháng 10, 2012. Cơn bảo lớn này đã xãy ra vài tiểu bang, nhưng riêng chỉ có tiểu bang New York và New Jersey là bị nặng nhất và đã gây rất nhiều thiệt hại về thiên mạng lẫn tài vật. Trong tình cảnh nầy, tôi chỉ biết cầu nguyện với Chúa mà thôi. Thì Chúa đã cho tôi thấy một giấc mơ huyền diệu sau đây.

Hai vợ chồng tôi đã đi về hưu trí sau 30 năm ở tiểu bang New York. Hiện giờ, chúng tôi thì đang ở chung với vợ chồng con trai và cháu nội đức tôn ở Maryland cho vui về tuổi già.Thì một hôm, ngày 5 tháng 11, 2012 vào 1 giờ khuya, tôi đang nằm ngủ và được thấy một giấc mơ thật là tuyệt dịu. Đang trong giấc ngủ, tự nhiên tôi ngửi thấy được mùi hoa hồng thơm nực nồng, bay tỏa khắp trong phòng tôi ngủ, mùi thơm này rất là đậm đà và tôi cảm thấy như hơi bị ngây ngất. Trong lúc ngây mê với mùi thơm đặc biệt này,  thì cùng lúc ở trong giấc mộng, tôi chợt nhiên được thấy một
vừng ánh sáng rất lạ, mà tôi chưa từng thấy bao giờ ở trên thế gian này cả. Tôi
không thể diển tả bằng lời nói được, một ánh sáng rất tinh khiết và êm dịu,
không có làm tôi bị chói mắt. Và trong lúc đó, tôi được thấy rất nhiều người trong
áng sáng đó, lẫn nam cả nữ, họ đi qua đi lại rất là bận rộn. Họ đều  mặc
quần áo màu trắng nhưng đặc biệt là họ không có cánh như Thiên Thần.

Thị Kiến này xẩy ra rất là nhanh, chỉ khoảng vài giây phút là tôi không còn được thấy nữa, nhưng riêng mùi hoa hồng kia thì vẫn còn thơm khá lâu, mãi cho đến khi tôi tỉnh dậy thì mới hết mà thôi. Sau khi thị kiến này, tôi cảm thấy rất là mệt và có linh cảm như là tôi sắp sửa ra đi với Chúa, nhưng khoảng một lúc sau thì tôi mới thấy khỏe lại và ngủ thiếp đi cho đến sáng.

Nhưng trong thời gian đang làm mệt, thì tự nhiên tôi chợt nghĩ tới Cha Việt Nam, Cha hiện giờ đang ở New York và chính Ngài đã lo và ban đầy đủ các Bí Tích cho vợ chồng tôi. Qua ngày hôm sau, tôi rất vui mừng vì tôi vẩn còn nhớ rõ điềm chiêm bao với những hình ảnh trên Thiên Đàng và mùi thơm đặc biệt của hoa hồng, như vẫn còn vương vấn trong người  tôi suốt. Tôi liền gọi cho Cha để hầu chuyện, nhưng Cha thì đang bị bịnh nên không có gặp Cha được. Sau đó, tôi liền gọi cho con gái lớn của tôi ở Texas và vài người Cô bạn thân để kể lại giấc mộng đó và để xin hỏi ý kiến.

Thì tất cả mọi người đều nghĩ rằng là mùi hoa Hồng đó là tượng trưng cho Mẹ MARIA (vì Mẹ thường hiện ra nhiều lần có bông hồng) và dẩn dắt cho tôi thấy cảnh ở trên THIÊN ĐÀNG.

Tôi thấy các vị Thánh, các Giáo Hội trên Thiên Đàng cũng đang bận rộn lo cho các con ở dưới trần gian nầy. Thì tự nhiên, tôi chợt nghĩ  ra đến những người Nam Nữ mặc áo trắng trong giấc mộng, đó chính là các quí vị Bác Sĩ, Y Tá giúp đỡ các bịnh nhân, giúp người già yếu để di tản, các ông cảnh sát, người cứu thương, người cứu hỏa, thấy giống y trong TV vậy đó v…v…!

Thì tôi mới hiểu biết rằng đó chính là Giáo Hội đang lữu hành, Giáo Hội nơi trần thế chúng ta đều mang hình ảnh của Cha Ta trên Trời, đang thể hiện Tình Yêu của Cha qua những chứng nhân sống động, còn phát quang yêu thương thì qua cử chỉ lời nói, việc làm, còn được lập công và đem những Công Đức nầy dâng lời cầu nguyện cho Giáo Hội ở nơi luyện ngục, các linh hồn đã và đang chờ chúng ta hiện còn sống cầu nguyện cho họ được sớm mau về với Cha trên Trời (vì nơi luyện ngục, các linh hồn không còn cơ hội để lập công nữa, và tháng 11 là tháng cầu nguyện cho họ).

Hai ngày sau, thì tôi gọi lại để thăm Cha và biết Cha đã khỏe lại. Sau đó, tôi mớì kể hết những gì tôi thấy trong giấc mộng và tôi được thỉnh ý kiến của Cha như sau:

***  Mùi thơm của hoa hồng đó chính là***

Nữ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu”.

(Bà có nguyện là cho mưa hoa hồng rải xuống khắp thế gian.)

Nguyễn Thị Thân

 

 

Tình yêu hồi sinh cô gái trẻ Afghanistan Aesha

Tình yêu hi sinh cô gái tr Afghanistan Aesha

Sau hơn 2 năm kể từ ngày thảm kịch kinh hoàng bị chồng cắt tai, xẻo mũi được phát hiện, cô gái Afghanistan Aesha đã hồi sinh trong tình yêu thương chan chứa của cha mẹ nuôi.

Mái ấm gia đình đã giúp cô có thể dũng cảm soi khuôn mặt mình vào gương, đối diện với một phần ký ức đau buồn mà cô từng muốn vùi sâu, chôn chặt. Nếu không có gì thay đổi, vào mùa hè năm tới, Aesha sẽ có một khuôn mặt mới như chưa hề có tai họa xảy ra sau hàng loạt các cuộc phẫu thuật.

Câu chuyện của Aesha lần đầu tiên được biết đến khi hình ảnh đau lòng về khuôn mặt cô xuất hiện ở trang bìa tạp chí Time của Mỹ năm 2010. Kể từ đó, số phận và một phần đời đau khổ của Aesha luôn được cả thế giới chú ý.

Aesha và người cha nuôi Mati sau 3 cuộc phẫu thuật

Nỗi đau tột cùng của cô gái trẻ

Năm 12 tuổi, cha Aesha hứa gả cô cho một tay súng Taliban đã có tuổi ở tỉnh Oruzgan. Đám cưới diễn ra trong nước mắt của những người phụ nữ trong gia đình. Tuy nhiên, sau đám cưới, Aesha vẫn được sống chung cùng cha mẹ. Hai năm sau đó, vào cái ngày Aesha tròn 14 tuổi, người đàn ông Taliban già khụ đó đã đến đón cô bé về nhà để làm vợ.

Gia đình nhà chồng Aesha có tới 11 người anh em. Khi người chồng đi chiến đấu ở Pakistan, Aesha nghiễm nhiên thuộc về quyền sở hữu của cha chồng và 10 người còn lại trong gia đình. Tất cả các thành viên trong nhà chồng Aesha đều là lính Taliban tại tỉnh Uruzgan. Hằng ngày, họ thay nhau lạm dụng và bóc lột sức lao động của cô bé.

Cô gái Afghanistan tự tin và hạnh phúc trong cuộc sống mới

Bị hành hạ triền miên, Aesha nghĩ cách để thoát khỏi gia đình Taliban tàn ác đó. Một hôm, khi gia đình chồng không để ý, cô đã lẻn trốn một mình. Trong thời gian bỏ trốn, Aesha bị cảnh sát Taliban bắt giữ và bị phạt 5 tháng tù giam. Sau đó, Aesha được trả lại cho gia đình nhà chồng. Chồng Aesha trở về biết chuyện đã tố cáo với chính
quyền Taliban rằng hành động bỏ nhà của cô đã bôi nhọ danh dự dòng tộc. Được sự
đồng ý của Taliban, Aesha sẽ phải chịu những hình phạt nặng nhất theo ý của nhà
chồng.

Đó là một buổi chiều, khi Aesha 18 tuổi, cô bị gia đình nhà chồng đưa lên trên một đỉnh núi. Tại đây, chồng cô cùng với những người anh em của anh ta đã khống chế và cắt mũi, cắt tai Aesha. Sau khi thực hiện hành vi thú tính, phần mũi và tai của Aisha được hắn cầm ném xuống vực. Khi tỉnh dậy bên vũng máu với vết thương đau đớn đến tột cùng, Aesha đã cố gắng lê lết về đến nhà ông ngoại. Cha đẻ của Aesha đã đến và
đưa con gái tới một trung tâm y tế của Mỹ, nơi Aesha được chăm sóc suốt 10
tuần. Các bác sĩ tại đây đã chuyển cô tới một trung tâm bí mật ở Kabul và đưa
tới Mỹ hồi tháng 8/2010.

Tình thương yêu giúp hồi sinh

Những ngày mới đến Mỹ, Aesha luôn sống trong sự hoảng loạn tâm lý bởi những cơn ác mộng cứ hành hạ cô triền miên. Nỗi ám ảnh về ngày kinh hoàng trên ngọn núi đôi lúc dội về khiến Aesha như điên dại. Cô từ chối bất cứ sự giúp đỡ y tế nào, thậm chí có những cơn thịnh nộ, kèm theo hành động bạo lực chống trả lại. Đó là một cú sốc tâm lý kinh khủng đối với một cô gái vừa bước qua tuổi trăng tròn. Hiểu được điều này,
các bác sĩ đã tạm dừng quá trình tái tạo mũi để làm biện pháp tâm lý cho Aesha.
Sau khi được trấn an tinh thần, Aesha hứa thay đổi và cho biết, cô rất cần có
người thân và một mái ấm thực sự.

Aesha xuất hiện lần đầu trên tạp chí Time

Và thật kỳ diệu, một cặp vợ chồng người Mỹ gốc Afghanistan đã dang tay chào đón Aesha. Đó là vào trước lễ Tạ ơn năm 2011, ông bà Mati Arsala đã đến làm thủ tục để nhận Aesha làm con nuôi và đón cô gái về nhà sống cùng ở California. Trong vòng tay yêu thương của cha mẹ nuôi, Aesha như lấy lại được sự cân bằng trong cuộc sống.

Cô chia sẻ: “Giờ đây tôi đã hiểu được ý nghĩa của cuộc sống và biết sống như thế nào”. Hiếm có bố mẹ nuôi nào thương con như ông bà Mati. Ông Mati mất ăn mất ngủ vì lo lắng cho cô gái. Ông chăm sóc cô tận tình như đứa con rứt ruột sinh thành. Ông đã phải rút rất nhiều trong phần tiền dành về hưu của mình để trang trải cho những chi phí phát sinh từ việc chữa trị của Aesha.

Aesha không còn gặp những cơn ác mộng nữa. Cô nhận ra có nhiều phụ nữ trên thế giới cũng phải trải qua nỗi khổ giống như cô, vì vậy cô không lẻ loi, đặc biệt là bên cạnh cô còn có rất nhiều người tốt bụng, có cha mẹ nuôi và những nhà hảo tâm luôn lo lắng cho các đợt điều trị của cô. Ông Mati đã chuyển cả gia đình từ California lên
New York để tiện cho việc phẫu thuật của Aesha. Trải qua suốt 6 tháng với các
cuộc phẫu thuật chỉnh hình, trên trán của Aesha đã nổi lên một cục u thâm sì,
còn phần mũi cũng mọc lên một chút ụ thịt nhỏ. Sau lễ Giáng sinh năm nay, Aesha
sẽ bước vào lần phẫu thuật thứ tư dự kiến kéo dài 8 giờ để tái tạo, cấy ghép
nhiều tầng da thịt.

Các bác sĩ đã đặt một vỏ silicon dưới da trán của Aesha và từ từ bơm chất lỏng vào trong đó để mở rộng phần da. Sau đó, họ sẽ sử dụng phần da trán này để đắp vào chiếc mũi mới. Các bác sĩ cũng phải lấy mô từ cánh tay Aesha, cấy nó lên mặt cô để tạo thành lớp bên trong và phần dưới của mũi. Bước kế tiếp là lấy sụn từ xương sườn nằm bên dưới ngực của cô để dựng khung mũi. Sau cùng là phần da từ trán sẽ được đắp phủ lên tạo thành chiếc mũi hoàn thiện. Nếu phẫu thuật lần này thành công,
Aesha đã đi được một nửa đoạn đường tìm lại nhan sắc. Và nếu may mắn, cô gái sẽ
có một chiếc mũi hoàn chỉnh vào mùa hè năm tới.

Aesha cho biết, ký ức kinh hoàng là một phần trong con người cô, thuộc về cuộc đời cô. “Nó mãi mãi trong tâm trí tôi, nhưng tôi phải sống và phải yêu” – cô gái Afghanistan không nhớ nổi mình 21 hay 22 tuổi, mạnh mẽ nói về tương lai như vậy.

nguồn: Anh Nguyễn Đình Hữu gởi

BÍ TÍCH THANH TẨY

BÍ TÍCH THANH TẨY
Lể Chúa Giêsu chịu Phép Rửa, Năm C  13-1-2013
(Isaiah 42: 1-4,6-7 /  40: 1-5,9-11; Acts 10:34-38/Timothy 2:11-14;3:4-7; Luke 3:15-16, 21-22)
Nguyễn Tiến Cảnh, MD

Có người gọi Lễ Hiển Linh là lễ Chúa Kitô khánh thành sứ mạng Thiên Chúa của
Ngài ở trần gian, và được hoàn chỉnh vào lễ Chúa Giêsu chịu phép thanh tẩy. Lễ
Chúa chịu phép Thanh Tẩy coi như kết thúc mùa Giáng Sinh, nhưng thực sự Giáng
Sinh sẽ kết thúc vào lễ Chúa Giêsu dâng mình vào đền thánh vào ngày 2 tháng
Hai.
Bài Tin Mừng hôm nay (Lc 3:15-16, 21-22) cho biết Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của
Ngài ở Galilée sau khi chịu phép thanh tẩy bởi thánh Gioan Tiền Hô. Nói về sự
mong chờ của mọi người (3:15), thánh Luca đã tả quang cảnh thánh Gioan thuyết
giảng giống như tình trạng những người Do Thái thành tâm trong khung cảnh Chúa
Hài Đồng sinh ra (2: 25-26, 37-38). Thánh Gioan Tiền Hô nói về một nhân vật vĩ
đại, cao trọng hơn, có quyền lực thanh tẩy mạnh mẽ hơn thánh nhân nhiều (Lc
3:16; Ga 1:26-27).
Khác hẳn với phép rửa thánh Gioan làm bằng nước, Chúa Giêsu nói  phép rửa
Ngài làm sẽ bằng ơn Chúa Thánh Thần và Lửa (Lc 3:16). Cộng đồng Kito Giáo sơ
khai quan niệm Ánh Sáng Lửa là biểu tượng của Chúa Thánh Thần được đổ ra ngày
Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống (Cv 2: 1-4). Theo giáo huấn của thánh Gioan,
Thánh Thần và Lửa phải được hiểu là những gì tinh khiết, tinh luyện và trinh
trong (Ez 36: 25-27; Ma 3: 2-3).
Tiếng nói phát ra từ trời khi Chúa Giêsu chịu phép rửa: “Con là Con yêu dấu
của Ta, rất đẹp lòng Ta”
(Mt 3:17) là một xác quyết rõ ràng Chúa Giêsu thành
Nazareth là con-người-thiên-sứ. Đây chính là một tuyên cáo về Tình Yêu của
Thiên Chúa đối với tân dân Israel / Do Thái của Chúa. Đó là cách Thiên Chúa đặt
tên cho một trách nhiệm cao cả. Nó là một bất ngờ đối với thế giới của những ai
hãnh tiến và uy quyền.
Qua phép rửa làm bằng nước sông Jordan bởi thánh Gioan Tẩy giả, chúa Giêsu đã
chấp nhận điều kiện và khả năng của loài người, gồm cả đau khổ và sự chết và
cách nối kết với Thiên Chúa theo cung cách chúng ta muốn. Người đã giang hai
cánh tay ra ở sông Jordan và trên thập giá. Nơi sông Jordan , Chúa đã chấp nhận
nhiệm vụ. Trên thập giá, Chúa đã hoàn thành nhiệm vụ. Để cho thánh Gioan làm
phép rửa tại sông Jordan , Chúa Giêsu đã xác quyết với thế giới Chúa đến thế
gian là để cứu chuộc muôn dân.
CHÚNG TA ĐƯỢC KÊU GỌI ĐỂ TRỞ THÀNH NGÔN SỨ
Khi chúng ta chịu phép rửa trong Chúa Kito là chúng ta được thanh tẩy trong sự
chết của Ngài. Phép thanh tẩy của chúng ta là một bí tích công khai, ngôn sứ và
vương quyền. Chúng ta chấp nhận sự sống của Giáo Hội và được kêu gọi gìn giữ
niềm tin sự sống đó, niềm tin nghĩ đến tha nhân. Niềm tin này là trách nhiệm
chung của mọi người, không của riêng ai cả.
Bí tích Thanh Tẩy là tiếng gọi người Kito hữu trở thành ngôn sứ. Cách thức
chúng ta sống thế nào là tùy từng người. Cách thức đó có thể không bi thương
như những cuộc mạo hiểm của một Isaiah hay một Gioan Tiền Hô. Tuy nhiên nó phải
ở trong cùng một truyền thống ngôn sứ vĩ đại là Đức Giêsu Kitô. Để là ngôn sứ
chúng tôi cần phải nhập cuộc và hành động; tay chân chúng tôi phải bị dơ bẩn,
nghĩa là không trắng muốt, sạch sẽ như những người suốt ngày ngồi trong văn
phòng và huởng thụ.
Qua phép Thanh Tẩy, chúng ta có thể trở thành ánh sáng cho tha nhân, như Chúa
Giêsu là ánh sáng cho chúng ta và toàn thế giới. Cuộc thanh tẩy của chúng ta sẽ
làm cho chúng ta can đảm, tin tưởng và hăng say hồ hỡi. Nó luôn luôn nhắc nhở
chúng ta là Tin Mừng cần phải được tuyên xưng bằng hành động để tỏ lòng tri ân
vì vẻ huy hoàng, tươi đẹp và ơn phúc của nó.
Khi nào chúng ta lần hồi khám phá ra được những đòi hỏi của niềm tin đó, và ở
đâu cách thức thống hối dẫn dắt chúng ta tới, khi nào chúng ta biết phân biệt
thiện với ác; khi nào chúng ta cố gắng tìm kiếm điều Chúa muốn  trong cuộc
sống của chúng ta và  xin Ngài giúp chúng ta hoàn thành nó; khi nào chúng
ta học hỏi thật nhiều hết sức có thể về Thiên Chúa và thế giới của Ngài; khi
nào chúng ta đến gần được Chúa, thì –lúc đó- con người mà bầu trời đã mở ra cho
Ngài sẽ được tỏ lộ cho chúng ta.
PHÉP THANH TẨY TRONG GIÁO HỘI NGÀY NAY
Ở nhiều nơi trên thế giới hiện nay, việc rửa tội trẻ em đã trở thành tùy nghi.
Số hài nhi, trẻ em, thanh niên thiếu nữ và người lớn không rửa tội đang tăng
lên. Việc xuống dốc đó là do tình liên đới gia đình bị soi mòn và xa rời khỏi
Giáo Hội. Tôi đã từng nghe và biết có những linh mục, những cha xứ thắc mắc và
tranh luận về một thực tế là nếu các ngài thấy có những dấu hiệu rõ ràng chứng
tỏ không có thực hành đức tin thì Giáo Hội có quyền từ chối làm các bí tích,
nhất là bí tích thanh tẩy. Đây quả là một vấn nại rất phức tạp.
Tuy nhiên, phải chăng chúng ta không thể một lần nữa, lắng nghe lệnh truyền của
sứ mạng rao giảng Tin Mừng là “Rửa Tội, Truyền Giáo và Giáo
Huấn
không phải là đợi cho người ta đến với mình mà chúng ta phải
đi ra ngoài, thăm hỏi, gặp gỡ, giúp đỡ người ta, ở những nơi mà tình trạng đang
bê bối, tội lỗi, áp bức, truy nã, tù tội, bất công, bất chính đang hoành hành?
Điều chúng ta cần phải có là nhiệt tình hăng say truyền giáo.  Nó không
phải là những cái gì ghê gớm. Nó rất bình thường. Đó là công tác truyền giáo
hàng ngày, là yêu thương, là thăm viếng kẻ đau yếu, thăm hỏi người tù tội, bênh
vực những người bị bạc đãi, bắt bớ, cưỡng đoạt, lên tiếng trước những bất công,
bất chính, đòi hỏi công bằng xã hội, tự do tôn giáo…như chính Chúa Giêsu đã
làm. Ở Hoa Kỳ tôi đã thấy những giám mục, đức ông –linh mục / giáo dân thì là
chuyện bình thường rồi- thường xuyên đi thăm bệnh nhân và tù nhân. PhépThanh
Tẩy chính là nền tảng tuyệt đối của những nhiệt tình hăng say ấy. Nó không phải
là xum xoe, o bế kẻ quyền thế giàu sang và thế quyền, dù họ là những kẻ chống
Chúa và đầu não của tội lỗi, ác quỉ.
Phép bí tích là để dành cho đời sống con người, thanh thiếu niên và người lớn
cả nam lẫn nữ, không phải là chúng ta muốn họ làm điều ta muốn, để cho ta được
yên thân. Chúng ta có thể nghe văng vẳng bên tai lời Chân phước Giáo Hoàng
Gioan Phaolo II kêu gọi chúng ta: “Duc in altum!” Bạn không thể kiếm
ra được những người cần bạn nơi những vũng nước quen thuộc và nông cạn!
Tình trạng khó xử phải từ chối ban phép thanh tẩy và những bí tích khác cho
những người không thích hợp vì đã không hành đạo trong Giáo Hội, đã được chính
Hồng Y Joseph Ratzinger trải nghiệm lúc còn trẻ, nhưng cuối cùng đã được giải
quyết.  Hãy nghe Ratzinger, nay là Giáo Hoàng Biển Đức XVI trả lời thắc
mắc có liên hệ đến chuyện này của một linh mục ở Bressanone tại Bắc Ý, trong
một cuộc vấn-đáp công khai với các giáo sĩ của giáo phận vào ngày 6-8-2008.
Linh mục Paolo Rizzio, là cha xứ và giáo sư thần học, đã hỏi Đức Thánh Cha một
câu hỏi về phép Thanh Tẩy, phép Thêm Sức và Rước Lễ Lần Đầu:
Thưa Đức Thánh Cha,
35 năm về trước, con đã nghĩ là chúng con khởi đầu là một đoàn chiên nhỏ, một
cộng đồng thiểu số, ít nhiều ở đâu đó tại Âu Châu; do đó chúng con đã chỉ thi
hành các bí tích cho những ai thực sự hành đạo mà thôi. Thế rồi, một phần vì
đường lối của triều đại Gioan Phaolo II, con nghĩ là mọi sự rồi cũng được cho
qua. Đức Thánh Cha nghĩ sao và cho chúng con ý kiến để thi hành về sau? Đức
Thánh Cha có thể gợi ý cho chúng con những đường hướng mục vụ nào phải theo?”
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã trả lời câu hỏi này rất thích hợp cho chúng ta về
Phép Thanh Tẩy trong ngày lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa:
“Tôi phải nói rằng, tôi đã đi cùng đường với quí cha. Khi tôi còn trẻ, tôi đã khá nghiêm ngặt. Tôi nói: Các bí tích là bí tích của Niềm Tin, và ở đâu không có Niềm Tin, ở đâu Niềm Tin không được thực hành, thì ở đó Bí Tích cũng không thể ban cho được. Và tôi đã thường nói với các cha xứ của tôi khi tôi làm Tổng Giám Mục Munich là: Đây cũng là hai yếu tố, một thì nghiêm ngặt, một thì rộng rãi cởi mở. Thế rồi, với thời gian, tôi cũng đã nhận thức ra là tôi phải bước theo gương Chúa Giêsu là Thiên
Chúa, là người đã rất cởi mở, ngay cả với dân Do Thái / Israel ở bên lề thời
bấy giờ.  Ngài cũng là Chúa Từ Bi Thương xót và cởi mở -theo như chính
quyền thời đó- với những kẻ tội lỗi, vui vẻ chào đón họ và chấp nhận lời mời
của họ đến nhà họ ăn cơm tối, lôi kéo họ đi theo về với cộng đoàn của Ngài. (…)
“Do đó, tôi có thể nói là, trong cách dạy giáo lý cho con trẻ, làm việc với cha mẹ là điều tối quan trọng.  Đây chính là một trong những cơ hội để tiếp cận với cha mẹ, nó cũng làm cho đời sống đức tin hiện diện nơi người lớn, vì lẽ, đối với tôi, chính họ
có thể học hỏi lại niềm tin nơi con trẻ và hiểu rằng nghi thức trọng thể này
chỉ có ý nghĩa thực và chính danh nếu nó được cử hành trong một khung cảnh /
tình huống của cuộc hành trình cùng với chúa Giêsu, trong tình trạng của đời
sống đức tin. Vậy thì, chúng ta phải cố gắng thuyết phục cha mẹ, qua con trẻ,
về những nhu cầu cần thiết để chuẩn bị cho cuộc hành trình đó, được biểu hiện
bằng cách cộng tác với những mầu nhiệm bí tích và làm cho chúng trở thành đáng
mến đáng yêu. (…)
“Tôi có thể nói rằng chắc chắn đây là một giải đáp chưa đầy đủ, nhưng hiểu theo khoa sư phạm thì đức tin luôn luôn là một cuộc hành trình và chúng ta phải chấp nhận mọi hoàn cảnh của xã hội ngày nay. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải mở rộng chúng cho nhiều người hơn để kết quả không phải chỉ là một ký ức hời hợt bề ngoài mà họ đã trải qua mà còn phải làm cho con tim họ rung động thực sự. Trong khoảnh khắc mà chúng ta bị thu hút để tim ta bị xúc động, như cảm thấy một chút xíu về tình
yêu chúa Giêsu, một chút ít ước muốn chuyển động theo cùng đường cùng hướng,
thì đó là lúc, đối với tôi, có thể nói rằng chúng ta đã thực hiện được một bài
dạy giáo lý thực sự. Ý nghĩa chính của việc dạy giáo lý phải là: mang lại ngọn
lửa tình yêu của Chúa Giêsu -cho dù nó nhỏ bé- xâm nhập trái tim con trẻ, và
qua con trẻ đến với cha mẹ chúng. Vậy là chúng ta đã tái mở cánh cửa niềm tin
của thời đại chúng ta rồi đấy.
“Chớ gì lễ Chúa chịu phép Thanh Tẩy hôm nay là lời mời gọi mỗi người trong  các bạn nhớ tới những lời hứa của mình khi chịu phép rửa và tái xác nhận niềm tin đó với lòng tri ân. Hãy làm sống lại giây phút nước đổ trên đầu các bạn. Hãy cầu nguyện để ân sủng của phép thanh tẩy của bạn giúp bạn trở thành ánh sáng cho tha nhân và thế giới, cho bạn sức mạnh và lòng quả cảm để làm một cái gì khác thường trên thế giới và trong Giáo Hội.”
Fleming Island, Florida
Jan. 10, 2013
NTC

LUẬT CỦA ĐẠO CHÚNG TA LÀ LUẬT “YÊU THƯƠNG”

LUẬT CỦA ĐẠO CHÚNG TA LÀ LUẬT “YÊU THƯƠNG”

Tác giả: Jos.Vinc. Ngọc Biển
nguồn: conggiaovietnam.net

“Yêu mến anh em, là sống chu toàn giới
luật. Yêu mến người lành và yêu thương kẻ gian ác, chính do tình yêu mà chúng
ta được cứu độ, thành con Chúa Trời và thành bạn hữu Chúa Kitô”. Đây là lời bài
hát mà có lẽ ai cũng thuộc vì nó được lặp lại nhiều lần trong Mùa Chay.
Đây cũng chính là lệnh truyền của Đức Giêsu cho các môn đệ, đồng thời cũng là
lời mời gọi cho những ai đang bước theo Đức Giêsu trên lộ trình cứu độ.

Qua bài viết này, người viết sẽ trình bày cách
tiệm tiến để làm sáng tỏ đâu là luật yêu thương thời Cựu ước. Đồng thời, cũng
đi xa hơn để làm nổi bật lên tinh thần yêu thương của Tân ước qua khuôn mặt một
vị Thiên Chúa giàu tình thương tới hết mọi người, Ngài cho mưa trên người lành
cũng như kẻ dữ. Thiên Chúa ấy được hiện tại hóa nơi Đức Giêsu và giáo huấn của
Ngài khi nói về luật yêu thương, đồng thời cũng cho thấy tinh thần đó được Giáo
hội sống và rao giảng như thế nào? Tất cả nhằm làm toát lên tính đặc thù, cốt
thiết của Kitô Giáo.

I. Một Số Quan Điểm Trong Cựu Ước Nói về Yêu
Thương

Cựu ước đã nhiều lần nói về luật yêu thương:“Ngươi
không được trả thù, không được oán hận những người thuộc về dân ngươi. Ngươi
phải yêu đồng loại như chính mình.”
(Lv 19,18). Trong sách Huấn Ca, tác giả
cũng dạy không được oán hờn, giận giữ anh em mình, vì nếu thù ghét đồng loại
mình và không tha thứ cho nhau thì không xứng đáng được Chúa tha thứ cho mình.
Như thế, tác giả lại còn đi xa hơn để nhắc về ngày tận số của mỗi người, nếu
muốn được Thiên Chúa tha thứ cho mình, thì cũng phải sẵn sàng tha thứ cho nhau
(x. Hc 28,1-9). Những tấm gương nổi bật của lòng bao dung vị tha, phải kể đến
tình yêu của Giuse đối anh em của ông, mặc dù đã bị anh em mình bán sang Ai
cập, nhưng khi có nạn đói hoành hành, ông đã sẵn sàng ra tay nâng đỡ cha già và
anh em. Một khuôn mặt khác cũng không thể không nhắc đến, đó là Vua Đavít đối
với những ác ý của Saun.[1]

Tuy nhiên, theo quan niệm của người Do thái,
yêu tha nhân là những người đồng chủng, đồng bào, nghĩa là chỉ người Do thái.
Còn tất cả mọi người khác là ngoại bang, là kẻ thù, không được thương mà cũng
không được giúp. Ngược lại, còn khuyên tránh xa, và nếu cần có thể giết nữa (x.
Đnl 20,13-17; 23,4-5; 25,17-19). Người Do thái từ chối mọi liên đới với người
không cắt bì, vì cho rằng họ không có bổn phận gì về đức công bằng với người
ngoại. Có thể đánh lừa, ăn trộm, mà không phải áy náy gì hết.

Ngày xưa dân Do thái cũng như dân ngoại đối xử
với nhau quá mức trong việc trả thù. Ví dụ: Cain báo thù 7 lần, Lamek báo thù
70 lần 7 (x. St 4,17-24): vì bị thương, ta giết một người; ta trầy da, một nam
nhi toi mạng (Kn 4,23-24). Nhưng khi luật báo thù ra đời, luật này qui
định một hình phạt tương đối với thiệt hại đã gây ra. Mắt đền mắt, răng đền
răng, luật ấy đã trở thành một phần nhỏ của đạo đức Cựu ước. Trong Cựu ước luật
ấy được đề cập không dưới ba lần:“Còn nếu có sự thiệt hại chi, thì ngươi sẽ
lấy mạng đền mạng, lấy mắt đền mắt, lấy răng đền răng, lấy tai đền tai, lấy
chân đền chân, lấy phỏng đền phỏng, lấy bầm đền bầm, lấy thương đền thương”
(Xh
21,23-25). “Khi người nào làm thương tích cho kẻ lân cận mình, thì người ta
phải làm thương tích cho người đó lại như chính người đó đã làm…Người ta sẽ làm
cho người ấy đồng một thương tích như người ấy đã làm cho người khác”
(Lv
24,19-20). “Mắt ngươi chớ có thương xót, mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng
đền răng, tay đền tay, chân đền chân”
(Tl 19,21).

Như thế, ta thấy luật Cựu ước là một luật đem
lại công bằng cho người đồng loại, nhưng được phép báo oán kẻ thù của mình. Còn
đến thời Tân ước thì sao? Chúng ta xem Đức Giêsu đến, Ngài dạy
gì?

II. Đức Giêsu Dạy và Sống Luật Yêu Thương

Trong Tân ước: Đức Giêsu đã tuyên bố Ngài đến
không phải để phá bỏ luật cũ nhưng đến để kiện toàn nó, làm cho nó nên hoàn hảo
hơn. Vì thế, theo giáo huấn của Đức Giêsu về luật yêu thương tha nhân, thì sự
bao dung đại lượng còn phải đi tới chỗ yêu thương cả thù địch nữa.

Luân lý của người Do thái xưa chỉ buộc yêu
thương những người gần gũi, nghĩa là những người đồng chủng, đồng bào, đồng tín
ngưỡng với mình. Nhưng nay Đức Giêsu dạy phải yêu thương hết mọi người, vì mọi
người là anh em với nhau. Đức Giêsu đã phán: Các con cũng đã nghe dạy rằng: “Hãy
yêu thương tha nhân, và ghét thù địch”
. Còn Thầy, Thầy bảo các con: “Các
con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”
(Mt
5,43-44). Rõ ràng, Đức Giêsu đã xóa bỏ nguyên tắc “ăn miếng trả miếng”.
Ngài đòi hỏi các môn đệ phải khước từ báo oán, phải tha thứ, yêu thương và cầu
nguyện cho kẻ thù nữa[2].
Trong Tin Mừng, chúng ta cũng thấy Đức Giêsu đã mở lối thoát cho nhưng ai bị
người đời giam hãm cách tuyệt vọng trong tội hay trong những khuyết điểm của
họ. Như với cây vả không có trái mà người ta muốn đốn nó đi, Đức Giêsu yêu cầu
hoãn lại một thời gian nữa và tận tâm chăm sóc nó nhiều hơn. “có lẽ nó sẽ có
trái…”
(x. Lc 13, 6-9). Đối với người phụ nữ bị các Luật sĩ và Biệt
phái giam hãm trong tội ngoại tình của bà và kết án tử hình, Đức Giêsu vạch ra
một con đường hy vọng, con đường sống: “Chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội
nữa”
(x. Ga 8,11)[3].
Khi Đức Giêsu nói như thế, Ngài dạy cho các môn đệ và những người nghe Ngài một
bài học về một tình yêu không biên giới, một tình yêu kiên nhẫn, khi nói “Các
con hãy yêu thương thù địch và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi các con”
(Mt
5,43-44). Khi Phêrô hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, khi anh em lỗi phạm đến
con, thì con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có tới bảy lần chăng”:
Đức Giêsu
đáp: “Thầy không nói là bảy lần, nhưng là tới bảy mươi lần bảy”
(Mt 18, 21-22). Ngài nói tiếp: “Nếu mỗi ngày, anh em con xúc phạm đến
con tới bảy lần, và bảy lần nó trở lại với con mà nói: Tôi hối hận thì hãy tha
cho nó”
(Lc 17, 4). Xa hơn nữa: “Khi con đang dâng của lễ nơi
bàn thờ mà sực nhớ người anh em lỗi phạm đến con, thì hãy để của lễ lại đó, đi
làm hòa với người anh em trước đã rồi bấy giờ trở lại dâng của lễ của con”
(Mt 5, 23-24).

Điều đó quả thật không dễ! Khó, nhưng cần
thiết biết bao, vì “tha thứ và xin thứ tha tạo ra một phẩm chất mới
trong quan hệ giữa người với người, bẻ gãy xiềng xích tội lỗi trói buộc trong
tâm tư những người thù hận nhau… không có con đường nào khác hơn là tha thứ
và xin thứ tha”
[4].
Thánh Công đồng Vat. II cũng nhấn mạnh luật yêu thương khi nói: “Giáo Huấn
của Đức Kitô còn đòi ta phải tha thứ những xúc phạm và mở rộng luật yêu thương
tới mức kể luôn cả những kẻ thù của mình nữa”
(Mv 28). Tuy nhiên, cũng
trong đoạn văn ấy, Công đồng lưu ý ta phải phân biệt giữa tội và người có tội.
Ghét tội, nhưng không được ghét kẻ có tội,  phải tìm cách giúp đỡ họ vượt
ra khỏi tình trạng tội lỗi. Như vậy, Công đồng cũng lấy lại tinh thần của Đức
Giêsu để hướng dẫn hành động cụ thể về việc yêu thương qua những cử chỉ rõ ràng
như: giao tiếp, giúp đỡ, bác ái, cầu nguyện…nếu người môn đệ Đức Giêsu chỉ yêu
thương những người đồng đạo thì chưa phải là một môn đệ đích thực. Người đời họ
cũng làm như thế: “Ta bảo các người: nếu đức công chính của các ngươi không
vượt hẳn các Ký Lục và Biệt Phái, các người sẽ không được vào Nước Trời

(Mt 5,20). Ngài đã đi một bước xa hơn để diễn tả một tình yêu không phân biệt
bạn và thù, để hướng tới mọi người ở mức độ tuyệt đối. Bởi vì mức độ của tình
yêu là yêu không mức độ.[5]

III. Yêu Thương Kẻ Thù là Đi Vào Trong Tình Yêu
Thiên Chúa và là Điểm Sáng Của Người Kitô

“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo
nhất của Đức Giêsu. Người đã cắt nghĩa rất cụ thể. Yêu thương kẻ
thù là :- Làm ơn cho kẻ ghét mình.

– Chúc phúc cho người nguyền rủa mình.

– Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.

– Ai vả má nầy thì đưa cả má kia.

– Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong.

– Ai lấy gì thì đừng đòi lại…

Lý do của thái độ nhân ái, lòng yêu thương bao
la ấy, là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời “Người
làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên
kẻ lành cũng như người bất lương…”

“Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt
thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người.
“Yêu thương kẻ thù”
là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái
Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.

Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Đức
Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là đề nêu cao tinh thần
khoan dung hiền từ quảng đại tha thứ.

“Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các
lệnh truyền của Đức Giêsu. Chính Ngài đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho
những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá “lậy Cha, xin tha cho họ vì
nó lầm chẳng biết
”. Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu
của Thiên Chúa. Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế. Người
đến để yêu thương và cứu chuộc con người. Người đến để tha thứ và đem lại cho
con người cơ may hầu sám hối và canh tân.

Như vậy Đức Giêsu mở ra con đường mới cho nhân
loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu
thương mới làm cho thù hận tiêu tan.

Giới răn của Đức Giêsu “Hãy yêu thương kẻ
thù”
là một sự từ bỏ triệt để bạo lực. Thay thế tình yêu cho thù hận là một
việc khó khăn nhất trên đời. Ý tưởng ấy rất cao và rất khó nhưng nó tạo nên ý
nghĩa.

Là những Kitô hữu, chúng ta đứng về phía bất
bạo động. Tuy nhiên đó không phải là một chọn lựa cho sự nhu nhược hay thụ động
leo thang, nhưng chọn lựa bất bạo động có nghĩa là tin tưởng mạnh mẽ vào sức
mạnh của chân lý, của công bằng và tình yêu hơn là sức mạnh của chiến tranh, vũ
khí và hận thù… Chúng ta phải cố gắng dùng điều tốt nhất để đáp lại điều xấu
nhất.

Là những Kitô hữu, chúng ta phải cố gắng học
theo lòng quảng đại của Thiên Chúa, sẵn sàng tha thứ, không đòi trả thù và oán
hận chống lại người khác.

Khi đến trần gian, Đức Giêsu đã mang ơn cứu độ
từ trời xuống cho nhân loại, nhưng ơn cứu độ này lại được ban cách ưu tiên cho
kẻ tội lỗi như Ngài đã nói: Ta đến không phải để kêu gọi người công chính, mà
là kêu gọi người tội lỗi [6].
Dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu đã làm nên sự nổi bật của Kitô giáo. Như vậy, nếu
các Kitô hữu không cố gắng bắt chước tình yêu không phân biệt của Thiên Chúa,
họ sẽ không tốt hơn những người khác.

Chính sự tha thứ sẽ giải phóng con người, còn
nếu nuôi lòng hận thù báo oán thì con người sẽ chuốc lấy sự đau khổ. Khi chúng
ta ghét kẻ thù là chúng ta cho họ quyền áp đảo chúng ta.

Nói cách khác, viên đạn căm thù chỉ có thể làm
thương tổn kẻ thù chúng ta sau khi đã xuyên qua thân xác chúng ta trước. Khi
nuôi trong mình sự trả thù thì đồng nghĩa với việc ta đào thêm một cái hố nữa
để chôn chính ta. Người Hy Lạp cổ thường ví von như sau: “Người khôn ngoan
thà chịu đựng sự ác hơn là làm điều ác”.
Chúng ta biết chỉ một mình Thiên
Chúa là Đấng hoàn thiện, tốt lành vô cùng, chúng ta không thể trọn hảo như Ngài
được. Nhưng chúng ta phải nên trọn lành như ý Ngài muốn, theo mẫu gương thánh
thiện của Ngài, là Đấng làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ
dữ.

Đỉnh cao của lời mời gọi yêu thương đó là lời
nguyện tha thứ của Đức Giê su trên Thập Giá: “lậy Cha, xin tha cho chúng, vì
chúng không biết việc chúng làm
” tinh thần ấy đã thúc đẩy tình yêu
đến mức độ anh hùng: đặc biệt là tha thứ cho kẻ thù và lấy ân báo oán. Như vậy “Các
con sẽ là con Cha trên trời, Đấng cho mặt trời chiếu soi kẻ dữ cũng như người
lành, và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương”
.

Cuối cùng, yêu thương tha thứ phải được định
hướng bởi sự thật. Không có sự thật thì tình thương trở thành mù quáng. Yêu
hoa, không có nghĩa là yêu luôn cả những con sâu ẩn núp trong những cánh hoa.
Đức ái Kitô Giáo đòi hỏi phải đấu tranh tích cực để khử trừ tội ác và cứu vớt
con người , biến kẻ thù thành anh em, biến con người thành con Chúa. Đây là một
lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng phải phấn đấu hằng ngày.

Tóm lại, qua bài viết trên, người viết muốn
trình bầy tổng quát về luật yêu thương của thời Cựu Ước. Dần dần, luật đó được
đề cao và tiến xa hơn trong thời Tân Ước, khi nói phải yêu thương cả kẻ thù,
làm ơn và cầu nguyện cho những người ngược đãi   mình nữa. Luật đó đã
chi phối toàn bộ con người và sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu. Đồng thời cũng là
điều kiện cần phải có của những người môn đệ Đức Giêsu trên lộ trình đón nhận
và loan truyền ơn cứu độ. Chính vì thế, “yêu mến kẻ thù là luật căn bản của
Đạo chúng ta”


Jos.Vinc. Ngọc Biển


[1] Tủ Sách Chuyên Đề, Thần Học Luân Lý Chuyên Biệt, tập
2, tr.40.

[2] Sđd. tr. 40-41.

[3] Th. REY-MERMET, C.SS.R. Tin, Nhãn quan mới về luân
lý, quyển 1, tập 1, tr.227.

[4] Lời khai mạc ngày tha thứ tại Quảng Trường Thánh Phê rô,
nhân dịp năm thánh 2000 của Đức Gioan Phao lô II.

[5] Th. REY-MERMET, C.SS.R. Tin, Nhãn quan mới về luân
lý, quyển 1, tập 1, tr. 102.

[6] Th. REY-MERMET, C.SS.R. Tin, Nhãn quan mới về luân
lý, quyển 1, tập 1, tr. 114.

Tác giả: Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển