KIẾP BỤI TRO – Trầm Thiên Thu

Thuy Phan

Trầm Thiên Thu

Không chỉ trong Mùa Chay, mà cả đời người Công giáo luôn phải ghi nhớ thực-tế-thật này: “Ngươi là bụi đất và sẽ trở về bụi đất” (St 3:19).

Tuy không là Kitô hữu, nhưng nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng chân nhận kiếp người chẳng là gì trong ca khúc “Cát Bụi”, với lời lẽ: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai vươn hình hài lớn dậy…  Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi…  Bao nhiêu năm làm kiếp con người chợt một chiều tóc trắng như vôi, lá úa trên cao rụng đầy, cho trăm năm vào chết một ngày…  Mặt trời nào soi sáng tim tôi, để tình yêu xoay mòn thành đá cuội… Ôi cát bụi phận này, vết mực nào xóa bỏ không hay.”

Ca từ da diết trong giai điệu trầm lắng.  Triết lý kiếp người là sự yếu đuối, mỏng dòn, bất túc, bất trác,… vì kiếp người chỉ là cát bụi, là bụi tro, là bụi cát, là bụi đất – không được là hạt cát hoặc hạt đất, mà chỉ là hạt bụi quá bé nhỏ!

Cũng với nỗi niềm về thân phận con người, nhạc sĩ Lê Dinh đã trải tâm sự qua ca khúc “Trở về Cát Bụi” (*), ca từ rõ ràng hơn và gần gũi với tư tưởng Công giáo: “Sống trên đời này, người giàu sang cũng như người nghèo khó.”  Tất cả những gì chúng ta sở hữu và tận hưởng đều không do tài năng của mình, vì thế mà phải chân nhận tích cực: “Trời đã ban cho, ta cám ơn trời, dù sống thương đau.”  Tất cả đều là Hồng Ân Thiên Chúa, Ngài CHO hay LẤY LẠI là quyền của Ngài, chúng ta không thể đòi hỏi, vả lại rồi ai cũng “trắng tay” như nhau: “Mai kia chết rồi, trở về cát bụi, giàu khó như nhau, nào ai biết trước số phận ngày sau ông trời sẽ trao.”  Số phận mai sau là do mình quyết định qua cách sống trên trần gian này: Được hưởng phúc trường sinh, hoặc chịu án phạt đời đời.

Nhạc sĩ Lê Dinh có cách lý giải bình dân mà vẫn thâm thúy: “Này nhà lớn lầu vàng son, này lợi danh, chức quyền cao sang, có nghĩa gì đâu, sao chắc bền lâu, như nước trôi qua cầu.”  Tất cả sẽ qua như “nước trôi qua cầu” mà không thể lấy lại.  Thế mà người ta vẫn vênh vang tự đắc khi sống ung dung hơn người khác, nhưng Chúa Giêsu nói rõ: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5:3).  Vậy người giàu đừng vội “hãnh diện,” còn người nghèo đừng quá “tủi thân.”  Thiên Chúa nói là làm.  Chắc chắn như vậy.  Nhưng ngày nay chưa ai biết, quan trọng là kiếp sau!

Về vật chất đã vậy, về tinh thần cũng thế.  Tất cả đều giả dối: “Này lời hứa, này thủy chung, này tình yêu, chót lưỡi đầu môi cũng thế mà thôi, sẽ mất ngày mai như áng mây cuối trời.”  Cái CÓ mà như KHÔNG, cái KHÔNG mà như CÓ.  Ngay cả lời hứa tưởng chừng “chắc chắn” mà cũng chỉ như “mây cuối trời,” mà mây thì luôn di động, thay đổi thất thường.  Người ta gọi là “hứa cuội.”  Vui cười chỉ trong thoáng chốc, nỗi buồn lo cứ đằng đẵng theo tháng ngày.  Tiệc cưới một ngày mà vui được bao nhiêu phút?  Tết cả ba ngày mà vui được bao lâu?  Thực tế phũ phàng đó có giúp chúng ta cảm nghiệm được gì về tâm linh chăng?  Ý Chúa muốn gì qua các biến cố cuộc đời – dù lớn hay nhỏ?

Nhạc sĩ Lê Dinh nói về cuộc đời và nhắc nhở mọi người, nhất là với người giàu: “Sống trên đời này tựa phù du có đây lại rồi mất, cuộc sống mong manh, xin nhắc ai đừng đổi trắng thay đen.  Nào người sang giàu, đừng vì tham tiền, bỏ nghĩa anh em.  Người ơi, xin nhớ cát bụi là ta, mai này chóng phai.”  Thánh Gióp đã từng nhận thức rất rõ: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng” (G 1:20).  Thế nên, dù mất tất cả và bản thân cũng bệnh tật đau đớn, ngài vẫn không than trách và vẫn tạ ơn Chúa.  Một tấm gương sáng ngời để chúng ta cố gắng noi theo!

Lời nhắc nhở đó được lặp đi lặp lại ở phần kết (coda), cũng là lời xoáy sâu vào tâm khảm của mỗi chúng ta: “Người nhớ cho ta là cát bụi, trở về cát bụi, xin người nhớ cho!”  Nốt kết không ở chủ âm mà ở át âm, cứ lơ lửng, cứ ngân vang, như lời nhắc nhở không ngừng và mỗi người phải suy nghĩ đêm ngày, nhất là trong Mùa Chay này…

Kinh thánh đã so sánh rất cụ thể: “Con tim của anh là tro bụi, hy vọng của anh hèn hơn đất, cuộc đời của anh tệ hơn bùn” (Kn 15:10).  Quả thật, thân phận con người chẳng là gì cả.  Vì thế, hãy bắt chước Thánh Phaolô: “Nếu phải tự hào, tôi sẽ tự hào về những yếu đuối của tôi” (2 Cr 11:30).

Đã bao lần chúng ta chứng kiến những người thân nhất của mình “ra đi,” dù y học có tân tiến đến đâu và các thầy thuốc có cố gắng hết sức thì cũng vẫn đành “bó tay” trước lưỡi hái của Tử Thần.  Họ nhắm mắt và xuôi tay, một đi không hẹn trở lại, và đã bao lần chúng ta tiễn đưa người khác ra nghĩa trang.  Đất lấp đầy huyệt là xong một kiếp người!  Chúng ta suy nghĩ điều gì?

Lá cứ rụng, dù xanh hay vàng.  Nhưng với người Công giáo, chết không là hết, mà chỉ là biến đổi (1 Cr 15:51), vì “chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Thánh Phanxicô Assisi).  Chúng ta tin sẽ được sống lại trong ngày sau hết, đó là niềm tin chắc chắn, không mơ hồ hoặc ảo tưởng, thế nên chúng ta vẫn dâng lời cảm tạ: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118; Tv 136).

Lạy Chúa, xin thương xót những tội nhân chúng con, xin giúp chúng con can đảm chết với Con Chúa để có thể được đồng phục sinh vinh quang. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người cứu độ chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.

Trầm Thiên Thu

Nguồn: Mạng lưới cầu nguyện


 

SAU TINH GỌN: CẤP PHÓ MỌC NHƯ NẤM SAU MƯA

Người ta nói sáp nhập để tinh gọn bộ máy, giảm biên chế, tiết kiệm ngân sách và tăng hiệu quả quản lý. Nhưng ở Việt Nam, cái gọi là “tinh gọn” lại đang phình ra. Càng sáp nhập, bộ máy càng đồ sộ, số cấp phó càng sinh sôi như nấm sau mưa.

Chỉ riêng con số 9 Phó Thủ tướng đã đủ

khiến người ta choáng váng. Một quốc gia không quá lớn về diện tích, dân số, cũng chẳng phải nền kinh tế đầu tàu thế giới, lại có số Phó Thủ tướng nhiều gấp ba, gấp bốn so với các nước phát triển.

Thế nhưng, nghịch lý ấy không dừng ở cấp trung ương. TP.HCM, Sở Tài chính có đến 18 phó giám đốc, một “đội hình” mà nếu xếp ghế họp thôi cũng phải mất nửa ngày.

Một đất nước với ngân sách còn phải chắt chiu từng đồng cho giáo dục, y tế, an sinh, lại chi hàng nghìn tỷ mỗi năm để trả lương cho các “ông phó”. Những con người mà đôi khi, chức danh nhiều hơn cả công việc thực tế.

Sáp nhập mà không giảm ai, chỉ đổi tên ghế, thì đó không phải là tinh giản, mà là tái sinh bộ máy cồng kềnh trong hình hài mới. Một bộ máy mà số phó ngang ngửa số dân thế này thì dân trả lương sao cho nổi?

Hiểu Lam


 

TƯỞNG NIỆM MỘT CON NGƯỜI CHÍNH TRỰC…-LÊ NGUYỄN

Sau 54 năm ngày mất của một con người chính trực mang tên Ngô Đình Diệm, người dân miền Nam không bao giờ quên 9 năm ngắn ngủi dưới chính thể Đệ nhất Cộng hòa mà đời sống kinh tế luôn vững vàng, ổn định. Đặc biệt hơn cả, ngày nay, những thế hệ sinh ra từ gần một triệu người miền Bắc di cư vào Nam cần hiểu rõ những gì cha ông mình đã trải qua, đã được chính thể Ngô Đình Diệm đối xử như thế nào. 

 Theo những con số thống kê chính thức vào năm 1956, dân số miền Nam chỉ có 12, 366 triệu người, như vậy, trước khi tiếp nhận đồng bào di cư từ miền Bắc vào, dân số miền Nam chưa đến 11,5 triệu người. Vậy mà, vào những năm 1954-1955, ông Diệm và bộ tham mưu của ông đã lo chu toàn cho cuộc sống của thêm gần một triệu người vượt cả ngàn cây số để vào Nam. Ông cho thành lập ba Phủ Tổng ủy quan trọng đặc trách những vấn đề liên quan đến đồng bào di cư miền Bắc. Phủ Tổng ủy Di cư lo tiếp nhận đồng bào mới đến, ổn định tạm thời cuộc sống của họ; Phủ Tổng ủy Dinh điền phụ trách thành lập các khu dinh điền, khu trù mật tại những địa phương còn nhiều đất rộng, chưa canh tác hết, để đưa đồng bào đến định cư lâu dài; và Phủ Tổng ủy Hợp tác xã và Nông tín nhằm cung cấp tín dụng hỗ trợ đời sống của đồng bào các khu dinh điền, khu trù mật, giúp họ có vốn liếng canh tác làm ăn trong khuôn khổ các hợp tác xã được lập ra vì mục đích công ích. 

 Vào thời điểm đó, nhiều khu vực hoạt động tốt, đời sống người dân ổn định và ngày càng phát triển, như khu định cư Hố Nai, Biên Hòa, khu trù mật Hậu Mỹ, quận Cái Bè, khu trù mật Vị Thanh – Hỏa Lựu thuộc tỉnh Chương Thiện, tách ra từ các tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ), Kiên Giang (Rạch Giá)… 

 Đặc biệt khu dinh điền Cái Sắn nằm trong phạm vi hai tỉnh Kiên Giang và An Giang (Long Xuyên), mỗi gia đình được cấp một khoảnh đất ngang 100 mét, dài một cây số, day mặt ra một con kênh đào, cứ hai nhà đâu lưng nhau giữa 2 con kênh đào cách nhau 2 cây số. Để có một khu vực vuông vắn như thế, chính quyền đã phải di dời nhiều hộ dân địa phương, phần lớn theo đạo Hòa Hảo, đến nơi khác, đất không tốt bằng. Song do chính sách đúng đắn nhằm hỗ trợ đồng bào di cư, không dính dáng gì đến quyền lợi cá nhân hay bè phái, đồng bào địa phương sẵn lòng hi sinh một phần quyền lợi riêng của họ. Năm 1968, khi tôi xuống tham gia chính quyền ở quận Kiên Tân, tỉnh Kiên Giang, trong đó có phần lớn khu dinh điền Cái Sắn, từ kênh 1 đến kinh 10, đồng bào di cư Cái Sắn đã có của ăn, của để, lúa thóc đầy bồ, tắc-ráng (loại xuồng máy đuôi tôm nhỏ) chạy ngang dọc các kinh đào như đi trẩy hội. 

 Những năm tháng khó khăn ban đầu, vừa ổn định chính trị, vừa bình định các tổ chức vũ trang chống đối quyết liệt (Bình Xuyên, Hòa Hảo, Cao Đài…), vừa tiếp nhận và lo cho cuộc sống của hàng triệu đồng bào chân ướt chân ráo vào Nam, nếu không có những bộ óc sáng suốt, vì dân, và một đội ngũ công chức biết xả thân vì đại cuộc, miền Nam không thể nào có một bộ mặt ổn định 9 năm liền. 

 Trong những ngày qua, trên một vài trang Facebook, một số bạn trẻ bị đầu độc bởi những thứ văn hóa phẩm “bưng bô”, xuyên tạc, lên án cái gọi là ‘tình trạng tham nhũng” của thời ông Diệm. Xin thưa, nếu thời đó có tham nhũng chăng, thì cũng chỉ bằng 1% của thời đại chúng ta đang sống. Không kể những quan to chức lớn nuôi tham vọng xây biệt phủ, mua nhà nước ngoài hay cho con đi du học, tham nhũng ngày nay được nhiều công bộc sử dụng như một loại biện pháp “chữa cháy” trước đồng lương thấp kém, đời sống khó khăn. 

 Thời ông Diệm, một công chức trung cấp nuôi sống được cả gia đình 4-5 miệng ăn. Khoảng đầu thập niên 1960, học sinh, sinh viên, công chức xa nhà ăn cơm tháng trả khoảng 500 – 600 đồng, trong khi lương tháng một viên chức mới tốt nghiệp đại học gần 7 ngàn đồng, phụ cấp một dân biểu Quốc Hội (tất nhiên là chuyên trách hoàn toàn) 25 ngàn đồng/tháng, một dược sĩ cho thuê bằng mỗi tháng 20 ngàn đồng. 

 Nhìn vào các con số thống kê chính thức (của Viện Quốc gia Thống kê VNCH) công bố vào thập niên 1960, mới thấy tiếc nhớ đời sống kinh tế – xã hội dưới  chính quyền Ngô Đình Diệm. Niên khóa 1955-56, tổng số sinh viên – học sinh chỉ ở mức 665.000 (lấy số tròn), đến niên khóa 1963-64, đã lên tới con số 1.936.000 người, tăng gần gấp 3 lần; tổng chỉ số giá tiêu thụ (trên cơ sở giá tháng 12/1963 là 100) của giới lao động vào năm 1954 là 74,5, vào năm 1962 là 94, và vào năm 1970, sau gần 7 năm chính quyền nằm trong tay các quân nhân, là … 664, tức mức đắt đỏ cao gấp 9 lần chỉ số năm 1954 và 7 lần chỉ số năm 1962! Thịt heo năm 1954 giá 2,4 đồng/kg, 8 năm sau (1962) chỉ tăng thêm 2 cắc, giá 2,6 đ/kg, một viên chức cấp thấp, lương 2.000 đồng/tháng  mua được khoảng 770 kg thịt heo, tính theo thời giá trung bình 70.000 đồng/kg thịt heo, khoản tiền trên bằng với gần 54 triệu đồng. 

 Năm 1962, tôi thi đỗ vào Học viện Quốc gia Hành chánh với học bổng 1.500 đồng/tháng, trả tiền cơm tháng cho người cô 500 đồng, còn 1.000 đồng bỏ túi, đi xe buýt 1đồng/ chuyến, ăn tô hủ tiếu 5 đồng, tiêu hoài không hết.

 Nhắc chuyện khu dinh điền, khu trù mật thời chính quyền Ngô Đình Diệm, xin kể hai giai thoại:

 – Những năm 1955-1960,  tình trạng an ninh tại miền Nam còn khá ổn định, hầu hết sinh viên tốt nghiệp Học viện QGHC đều được bổ nhiệm làm Quận trưởng tại địa phương. Khoảng năm 1958-1959,  ông Nguyễn Đình Xướng, cựu sinh viên khóa 1 QGHC, làm Quận trưởng Cai Lậy, chịu trách nhiệm xây dựng khu trù mật Hậu Mỹ. Một  ngày nọ, ông Diệm đi kinh lý, chứng kiến sự tổ chức tinh tế, khoa học của khu trù mật, hết sức khen ngợi ông Quận trưởng, khi trở về đã thăng ông Xướng làm Tỉnh trưởng Vĩnh Bình (Trà Vinh), đến khi quân sự hóa lãnh đạo cấp tỉnh (khoảng 1959-1960), ông Xướng còn được tiếp tục làm Tỉnh trưởng với cấp bậc Thiếu tá giả định. Con đường thăng tiến của viên chức này luôn suôn sẻ, sau Tỉnh trưởng Vĩnh Bình là Tổng thư ký Bộ Nội vụ, rồi cuối cùng là Tổng quản trị Hành chánh Phủ Tổng thống, mãi đến tháng 6.1975, mới chịu dừng lại, với cương vị người bạn tù cải tạo cùng một nhà, một đội với người viết bài này tại trại Long Thành. 

 – Thời ông Diệm, số công chức như ông Xướng khá nhiều, nhưng không phải không có đôi trường hợp bê trễ, tắc trách. Người ta kể rằng lần nọ, Phủ tổng thống loan báo chuyến kinh lý của Tổng thống đến tỉnh Bình Tuy (Hàm Tân) thăm một khu trù mật ở đây. Quan chức nghe tin rụng rời vì công việc tổ chức khu trù mật chưa hoàn tất theo tiến độ đã trình. Cuối cùng, họ chọn một hạ sách là chờ đến sáng ngày Tổng thống đến, đi nhổ cây xanh ở những nơi xa, đem trồng hai bên đường. Khi ông Diệm ngồi xe trên đường về tỉnh, thấy hai bên đường cây xanh tốt, bèn dừng xe lại, đến gần những cây trồng, trầm trồ khen ngợi, chẳng ngờ cây trồng cạn quá, chỉ mới đụng qua đã bật gốc. Nhận ra mình vừa bị lừa, cụ giận lắm, nhưng chưa biết thể hiện thái độ bằng cách nào, sẵn chiếc nón nỉ đội trên đầu, cụ nhấc lên và quẳng mạnh. Ông Tỉnh trưởng Bình Tuy là Thiếu tá Lê Văn B. đi cạnh Tổng thống đã kịp nhảy tới, hai tay chụp gọn chiếc nón, nhanh và chuẩn xác như thủ môn Buffon thời hiện đại. Giai thoại này tôi nghe kể lại từ anh Trần Văn K. P., Trưởng ty Y Tế Bình Tuy, có mặt trong phái đoàn đón cụ Diệm lúc bấy giờ.

 LÊ NGUYỄN

2.11.2017

Đăng trên trang 8 Sài Gòn

From:haiphuoc47 & Nguyen NThu

XUỐNG MAU ĐI! – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn hối cải ăn năn!”.

“Ai leo lên cây? Khỉ! Ai leo xuống cây? Người! Dẫu đó là một mô tả giản lược về ‘sự tiến hoá’, nhưng nó vẫn nói lên một điều gì đó hối thúc bạn “Xuống mau đi!” để gặp ‘Một Ai đó’ mà người ấy có thể khiến niềm vui của bạn vỡ oà!” – Tgm. Michel Aupetit.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay man mát một niềm vui. Giakêu không còn leo lên cây như ‘khỉ’; nhưng theo lời gọi “Xuống mau đi!” của Chúa Giêsu, ông tụt xuống để làm ‘người’ và niềm vui vỡ oà.

Chúa Giêsu đi qua Giêricô, Giakêu tìm cách nhìn Ngài. Khổ nỗi, ông thấp bé! Giakêu trèo lên một cây sung; Ngài dừng lại, gọi ông, “Giakêu, xuống mau đi vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!”. “Khi Chúa Giêsu dừng lại, thế giới của những kẻ bị lãng quên bắt đầu chuyển động trở lại!” – Jean Vanier. “Xuống mau đi” vì tôi đã quá vất vả, nay mới tìm được ông! “Xuống mau đi” vì tôi không cần phải đi đâu xa nữa, tôi đã tìm được người tôi tìm! “Xuống mau đi” vì người ta khinh dể ông bao nhiêu, tôi trân quý ông bấy nhiêu! “Xuống mau đi” vì tôi đang đói, không phải một bữa ăn nhưng đói linh hồn ông! Những lời ấy là một hối thúc dịu dàng, một đề nghị bất chợt, một thỉnh cầu đến kinh ngạc. Trước ánh mắt ấy, trước lời gọi ấy, Giakêu tưởng như mơ… ông vội vàng leo xuống.

Giêricô là thành được sử sách gọi là “Thành Bị Lãng Quên”. Về mặt địa lý, thành này thấp hơn mực biển; về mặt xã hội, thành này chỉ dành cho tiện dân. Ấy thế, Chúa Giêsu vẫn đi vào, dừng lại, Ngài không sợ đến với tầng lớp thấp nhất, ty tiện nhất mà đại diện là Giakêu – một người xấu xa, không thể được cứu thoát. Vậy mà, điều đó không có trong cái nhìn của Chúa Giêsu, Ngài gọi ông bằng tên, “Giakêu” – nghĩa là “Chúa nhớ đến”. Thú vị thay, trong ‘thành bị lãng quên’, ‘Thiên Chúa nhớ đến’ một người tội lỗi; Ngài đã gọi ông, “Xuống mau đi!” và ông được biến đổi! “Nơi mỗi tội nhân, Thiên Chúa thấy một câu chuyện nên thánh đang chờ được viết!” – Henri Nouwen.

Anh Chị em,

“Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi!” – đó là khởi điểm của mọi ơn cứu độ. Chính vì lòng thương xót vô biên ấy, Thiên Chúa không huỷ diệt, nhưng chờ đợi để con người hối cải – bài đọc một. Giakêu đã cảm được ánh nhìn xót thương ấy nơi Chúa Giêsu – ánh nhìn khiến trái tim bằng đá tan chảy, lòng băng giá bừng lửa yêu thương. Gặp được lòng Chúa, Giakêu xé nát lòng mình; ông đứng lên xưng thú và làm việc đền tội – bù đắp và chia sẻ. Cũng thế, ai biết “xuống mau đi”, từ bỏ cái tôi kiêu ngạo, để Chúa bước vào ‘nhà’ mình, người ấy sẽ được nên công chính, “xứng đáng với ơn gọi” – bài đọc hai – “Khi Thiên Chúa chậm lại, ấy là vì lòng thương xót thích chờ đợi hơn là huỷ diệt!” – Fulton Sheen. Và bấy giờ là niềm vui ắt sẽ đến, “Xin chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, mỗi ngày con lén lút, lập lờ, lây lất đời ‘khỉ’; chỉ khi con chạm đất, con mới gặp được Chúa – Đấng gần con biết mấy – và bấy giờ, con được lại niềm vui!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

*************************************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN, NĂM C 

Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 19,1-10

1 Khi ấy, Đức Giê-su vào Giê-ri-khô, đi ngang qua thành phố ấy. 2 Ở đó có một người tên là Da-kêu ; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. 3 Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. 4 Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó. 5 Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông : “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông !” 6 Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. 7 Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau : “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ !” 8 Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng : “Thưa Ngài, tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo ; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” 9 Đức Giê-su mới nói về ông ta rằng : “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. 10 Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”


 

Nguyễn Ánh hay Hồ Chí Minh: Ai là người “bán nước”, ai là người “cõng rắn cắn gà nhà”?

Ba’o Tieng Dan

31/10/2025

Trương Nhân Tuấn

31-10-2025

Sử gia CSVN lên án Nguyễn Ánh “bán nước”, bằng chứng là Hiệp ước Versailles 1787 và vụ cắt đất Trấn Ninh. Hiệp ước Versailles Nguyễn Ánh hứa nhượng Đà Nẵng và đảo Côn sơn cho Pháp. Đất Trấn Ninh, sau khi lên ngôi Nguyễn Ánh cắt Trấn Ninh để ban thưởng cho vua Ai Lao đã có công giúp Nguyễn Ánh trong chuyện dẹp Tây Sơn.

Thực tế là gì?

Hiệp ước Versailles 1787 không được thi hành. Quan chức Pháp thấy là “không có lợi Pháp”, do đó khước từ. Tức là hiệp ước đơn thuần “vô giá trị”. Nguyễn Ánh không có nhượng “cục đất” nào cho Pháp cả.

Còn đất Trấn Ninh bị Pháp sáp nhập vào Ai Lao để dựng lên nước Lào. Điều không thấy ai nói là sau đó Pháp tách ra từ Lào (và Cambodge) vùng đất rộng lớn, gồm cao nguyên trung phần (bao gồm Darlac, Đà Lạt, Kon Tum v.v..) để sáp nhập vô Việt Nam, để “đền bù” cho Việt Nam vụ Trấn Ninh. Vụ này tôi có viết hôm trước.

Sử gia CSVN phê phán Nguyễn Ánh dựa trên “ý định nhượng đất cho Pháp”.

Vấn đề là việc phê phán của họ không dựa trên tinh thần khách quan, khoa học, mà lại dựa theo ý kiến của ông Hồ Chí Minh trong một “bài vè”, tựa đề “Lịch sử nước ta”. Trong bài có các câu:

“Gia Long lại dấy can qua,

Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.

Tự mình đã chẳng có tài,

Nhờ Tây qua cứu, tính bài giải vây.

Nay ta mất nước thế này,

Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà,

Khác gì cõng rắn cắn gà,

Rước voi giầy mả, thiệt là ngu si…”

Đâu phải cái gì ông Hồ nói, hay làm cái gì thì những cái đó đều đúng hết đâu!

Ông Hồ bị sử gia Tây phương xếp chung “một giỏ” với những “đồ tể cộng sản” như Mao Trạch Đông, Pol Pot… Họ Mao trách nhiệm về cái chết của hàng trăm triệu người Hoa. Pol Pot trách nhiệm “diệt chủng” 1/4 dân Cambodge. Ông Hồ chỉ giết sơ sơ có 4 triệu người Việt mà thôi.

Thực tế cho thấy những gì mà ông Hồ nói về Gia Long đều là “vu khống”, vì không có bằng chứng.

Nguyễn Ánh có “rước Tây vào nhà không?”

Pháp chiếm 6 tỉnh Nam kỳ, sau đó chiếm Bắc kỳ, vì nhiều lý do mà không có lý do nào cho thấy có yếu tố “Nhà Nguyễn rước Tây vô nhà” hết cả.

Pháp chiếm Việt Nam “bằng vũ lực”. Pháp chiếm 6 tỉnh Nam kỳ bằng vũ lực. Pháp chiếm Hà nội bằng vũ lực. Pháp đánh quân Thanh để “bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của nước An Nam” bằng vũ lực. Cuộc chiến tranh với nhà Thanh khiến Pháp thiệt hại nặng nề. Chuyện này tôi cũng nói rồi.

Tôi có thể kết luận rằng ông tổ ngành “sử phịa” của Việt Nam là ông Hồ!

Giả sử rằng nhà Tây Sơn không bị Nguyễn Ánh tiêu diệt. Liệu nhà Tây Sơn có giúp Việt Nam giữ được “độc lập” hay không?

Theo tôi là không! Càng “cương” thì càng chết nhiều.

Cùng thời kỳ, những đế quốc sừng sỏ nhứt, từ Ấn Độ cho tới Trung Hoa, tất cả đều bị thực dân chiếm đóng làm thuộc địa. Trung Hoa bị các đại cường “phân liệt” thê thảm hơn hết. Vì đế quốc này giàu quá. Đây là thời kỳ “trăm năm nhục nhã” của đất nước Trung Hoa. Tất cả các nước trong khu vực, không ngoại lệ, từ Ấn Độ trải dài qua tới Trung Hoa, đều trở thành thuộc địa của nước ngoài.

Ngoại trừ Nhật, nước này thấy coi bộ “chống không lại” nên “thua trước cho cao cờ”. Bèn mở cửa cho nước ngoài (Mỹ) vào buôn bán. Mục đích của Mỹ, cũng như các đế quốc khác, là tìm một chỗ trú chân, trước để buôn bán, sau là nơi dưỡng quân. Mục đích của các đế quốc là “xẻ thịt” con heo mâp ú là Trung Hoa.

Việt Nam đã có thể trở thành một nước Nhật, nếu Hiệp ước Versailles 1787 được Pháp thi hành. Việt Nam được một đại cường hải quân bảo vệ, qua một hiệp ước “an ninh hỗ tương”, không khác gì các hiệp ước an ninh giữa Mỹ và các đồng minh NATO hay Nhật, Hàn, Phi… Nước nào lại không cắt đất cho Mỹ đóng quân? Nước nào không trả tiền để được Mỹ bảo vệ? Vụ này tôi cũng đã nói rồi.

***

Không có một bằng chứng nào cho thấy nhà Nguyễn “cõng rắn cắn gà nhà”. Nhưng có rất nhiều bằng chứng cho thấy ông Hồ và các hậu duệ cộng sản của ông đích thị là những kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”. Ngoài ra còn có bằng chứng cho thấy ông Hồ và hậu duệ đã “bán nước có văn bản”.

Biết bao nhiêu tài liệu từ nguồn Trung quốc, từ Mỹ, trong các thư viện các nước Tây phương… từ nhiều thập niên trước, đã cho ta thấy vai trò của Trung quốc trong cuộc kháng chiến gọi là “đánh Pháp giành độc lập”.

Khởi đầu phải tính từ cột mốc tháng 8 năm 1945: Thời điểm Nhật đầu hàng Đồng minh. Sử sách CSVN khoe khoang là “Việt Minh đã thành công đánh pháp, đuổi Nhật, chạy đua với Đồng minh để cướp chính quyền“.

Sự thật là sau khi quân Đồng minh vào Việt Nam để giải giới quân Nhật, miền Bắc được ủy nhiệm cho quân Trung Hoa Dân quốc và miền Nam cho quân Anh. Quân Trung Hoa vô tới đâu là tước vũ khí của Việt Minh tới đó, rồi giao chính quyền địa phương cho quân Việt Quốc. Miền Nam thì Anh “trả chủ quyền của An Nam” lại cho Pháp. Tức là không có vụ “đánh Pháp, đuổi Nhật, chạy đua với Đồng minh” mà chỉ có vụ Việt Minh “chạy có cờ”.

Nhờ thuật “bôi trơn” (truyền lại cho tới ngày nay) ông Hồ được Trung Hoa ủng hộ, ép Pháp ký Hiệp ước sơ bộ. Vấn đề là khi ký nhận, ông Hồ nhìn nhận “nước của ông Hồ” thực tế chỉ là một “tiểu bang tự do” trong “liên bang Đông dương thuộc Pháp”. Tức là cái “chính danh” của ngày 2-9-1945 rốt cục chỉ là “làm tay sai” lại cho Pháp mà thôi!!! Vụ này ông Bảo Đại có phê bình như vầy: “Để sửa sai ông Hồ đã đưa đất nước vào biển máu“.

Rõ ràng y chang như vậy: Ông Hồ đã đưa đất nước vào biển máu.

Sau năm 1949, nhờ sự trợ giúp về quân sự lẫn nhân sự từ cộng sản Tàu, lực lượng ông Hồ ngày càng mạnh, trên vùng biên giới. Trận Điện Biên Phủ năm 1954, quân ông Hồ thắng quân Pháp hay là quân Tàu thắng quân Pháp?

Bàn cãi vụ này tới chiều chưa hết. Để biết ai thắng, ta nên quy chiếu về Hiệp định Genève 1954. Bên nào chủ động trong bàn Hội nghị Genève? Xin thưa một bên là Pháp (dĩ nhiên), bên kia là Trung Cộng. Châu Ân Lai đóng vai chánh, Phạm Văn Đồng ngồi cho có. Kết quả phân chia Việt Nam ở vĩ tuyến 17, là quyết định của họ Châu.

Tới đây tạm đặt một dấu chấm để nói về “quyền dân tộc tự quyết”, là nền tảng của tính “chính danh” trong cuộc “đánh Pháp giành độc lập” của phe Cộng sản Việt Nam.

Làm gì có chuyện “tự quyết”, bởi vì sau lưng ông Hồ có Trung Cộng ủng hộ, từ cây súng, viên đạn, hột gạo… Trên mặt trận thì cố vấn Tàu Cộng chỉ vẽ đánh thế nào, đánh ở đâu v.v… Trên bàn hội nghị thì có Châu Ân Lai thương nghị với Pháp. Tức là Trung Cộng thủ vai chánh, “quyết” mọi thứ với địch thủ là Pháp.

Trong khi Việt Nam đã được Pháp trả độc lập trước đó 5 năm rồi, qua Hiệp ước Elysée 1949.

Việt Nam đã độc lập rồi, năm 1951 nước Việt Nam này tham dự Hội nghị San Francisco 1951, với tư cách là “quốc gia độc lập có chủ quyền, có tuyên bố chiến tranh với Nhật“. Việt Nam là khách mời của Mỹ.

Chuyện “đánh Pháp giành độc lập” của ông Hồ thực tế chỉ là chuyện “thọc gậy bánh xe” của Trung Cộng. Mao Trạch Đông không muốn có một Việt Nam thân tư bản ở sát nách nước mình.

Cho đến năm 1958, ông Hồ và chính phủ ký công hàm 1958, trong đó tôn trọng và thực thi mọi yêu sách về lãnh hải 12 hải lý, trên những vùng lãnh thổ của Trung quốc. Vấn đề là yêu sách của Trung Quốc bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.

Công hàm Phạm Văn Đồng ký năm 1958. Ảnh trên mạng

Quan điểm của nhà nước CSVN đối với công hàm này là gì?

Đó là nhà nước CSVN chỉ nhìn nhận lãnh hai 12 hải lý mà thôi. Không có chuyện gì khác nữa.

Theo tôi đây là lập luận ngu xuẩn nhứt trong những lập luận ngu xuẩn khác của CSVN về chủ quyền biển đảo.

Khi công nhận hiệu lực 12 hải lý thì nhà nước CSVN đã mặc nhiên nhìn nhận hiệu lực của công hàm 1958.

Mọi bàn luận khác của học giả CSVN chung quanh chuyện này để phủ nhận công hàm 1958 trở thành chuyện hài.

Vấn đề là khi nhìn nhận hiệu lực công hàm 1958 rồi, thì công hàm này phải được rọi dưới luật pháp quốc tế.

Chiếu luật quốc tế về “hiệu lực các tuyên bố đơn phương”. Không cần giải thích dông dài. Khi Việt Nam đã nhìn nhận hiệu lực công hàm 1958. Việt Nam đã mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.

Chiếu Luật quốc tế về Biển 1982, Việt Nam nhìn nhận hiệu lực công hàm thì Trung Quốc có quyền yêu sách hải phận các đảo Hoàng Sa và Trường Sa lên tới 200 hải lý.

Ngưng chuyện Hoàng Sa và Trường Sa ở đây.

Là gì? Là đích thị ông Hồ và hậu duệ ông Hồ đã chủ trương “bán nước”. Bán nước có văn tự hẳn hoi.

Học giả CSVN nghe ông Hồ dựng chuyện về Nguyễn Ánh rồi cả đàn hùa nhau “lật sử”, buộc Nguyễn Ánh về tội “bán nước”.

Ai bán nước có văn tự, Gia Long hay ông Hồ?

Cho tới cuộc chiến 54-75, có tới trên 300 ngàn quân Trung Cộng có mặt tại Việt Nam, giúp CSVN trong suốt cuộc chiến tranh “đánh Mỹ cứu nước”.

Theo luật quốc tế về việc thực thi quyền “dân tộc tự quyết”, khi một dân tộc gọi là “bị áp bức” nhờ tay một thế lực ngoại bang giúp đỡ để chống lại thế lực áp bức, quyền tự quyết của dân tộc này đã tiêu vong. Ta thấy quân Palestine khi chống Do thái, với danh nghĩa là sử dụng “quyền dân tộc tự quyết”, ta thấy có người ngoài nào trong hàng ngũ của họ hay không?

Tức là khi CSVN vịn vào quyền “dân tộc tự quyết” để “đánh Mỹ, giải phóng miền nam” mà trong hàng ngũ của họ lại có mặt 30 sư đoàn quân Tàu Cộng, thì CSVN không còn chánh nghĩa nào nữa cả.

Ngay cả khi quân Tàu chỉ đóng ở ngoài Bắc, thì theo luật và tập quán quốc tế, Trung Cộng vẫn là “một bên” can dự vào chiến tranh Việt Nam. Đây là lý do mà các nước EU không gởi quân giúp Ukraine tự vệ đánh lại Nga, ngay cả khi đạo quân này chỉ ở hậu phương không chạm súng với Nga.

Tức là gì?

Là không có chuyện “giải phóng miền Nam” mà chỉ có chuyện “xâm lược miền Nam”. Khi quyền tự quyết đã tiêu vong thì danh nghĩa “giải phóng” cũng thành mây khói.

Rốt cục lại, Gia Long hay Hồ Chí Minh, ai là kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”?

Rắn Trung Cộng, rắn Liên Xô, rắn Bắc Hàn… có mặt cả đàn theo lời kêu gọi của ông Hồ và đảng CSVN.

Phê phán Gia Long thì phải lập luận theo “hệ quy chiếu thiên mạng”.

Phê phán ông Hồ thì phải quy chiếu theo luật lệ và tập quán quốc tế hiện hành.

Không phải ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN “cõng rắn cắn gà nhà” thì còn ai vô đây?

Có người dân miền Nam nào muốn được mấy ông cộng sản giải phóng? Không có ai hết. Việt Cộng vô tới đâu dân chạy “chết mẹ” tới đó, biết chết trong bụng cá họ vẫn chạy. Ngay cả bây giờ, thà chết trong thùng đông lạnh người Việt Nam vẫn bỏ nước ra đi. Không có bấy nhiêu người muốn ở lại Việt Nam để “xây dựng đất nước” với đảng CSVN hết cả.

Không ai tin vào cộng sản bất cứ một chuyện gì hết cả, huống chi là chuyện lịch sử.


 

Đảo chính 1-11-1963: Đại sự bất thành của bốn đại tá dân ông Tạ

Ba’o Tieng Dan

01/11/2025

Cù Mai Công

1-11-2025

(Ba cái chết thảm, một án tử hình và năm mộ phần ở khu ngoại vi/ phụ cận/environ vùng Ông Tạ. Xin nói rõ: Tôi không phải là người viết sử mà chỉ ghi nhận thông tin từ góc người Ông Tạ. Nhưng lịch sử VNCH chắc chắn sẽ phải viết lại hoàn toàn nếu mưu sự ấy thành công).

Trong một con hẻm trên đường Thánh Mẫu (nay là Bành Văn Trân, Tân Bình cũ, TP.HCM) có một ngôi nhà khá lặng lẽ. Dân trong xóm này gọi bà chủ nhà lịch thiệp, lộ rõ nét sang trọng này là o Khôi. Ít ai biết đó là vợ đại tá VNCH Lê Quang Tung – tư lệnh Lực lượng Đặc biệt VNCH, phụ trách Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống phủ.

O Khôi hay đi bộ đến thăm gia đình đại tá Bùi Dzinh cách nhà o hơn trăm thước, đối diện hồ tắm Cộng Hòa. Phó của ông Tung là đại tá Trần Khắc Kính, nhà khu Bắc Hải – Ông Tạ, con rể cụ lý Sóc trong ngõ Con Mắt – Ông Tạ; cách nhà cũ của nhà thơ Đỗ Trung Quân chừng vài chục mét.

ĐẠI SỰ BẤT THÀNH

Ông Dzinh, ông Tung cùng Công giáo nhiều đời như gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm, thậm chí đồng hương Lệ Thủy (Quảng Bình), Huế với ông Diệm nên không khó để biết hai vị này rất ủng hộ ông Diệm. Riêng ông Tung, người tuyệt đối trung thành với ông Diệm; từng được ông Ngô Đình Nhu giao nhiệm vụ thành lập Quân ủy Trung ương đảng Cần Lao. CIA lúc đó xếp ông là người có quyền lực nhất ở Nam Việt Nam, sau anh em ông Diệm và ông Nhu.

Ngày 15.3.1963, Tổng thống Diệm đổi Sở Liên lạc thành Lực lượng Đặc biệt, thăng ông Tung lên đại tá, tư lệnh Lực lượng Đặc biệt, ông Kính làm phó.

Lực lượng Đặc biệt và Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống phủ là nỗi ám ảnh thất bại của nhóm tướng lĩnh đảo chính với hậu thuẫn của Mỹ – như đã từng thất bại trong cuộc đảo chính năm 1960. Ngày 19.10.1963, tướng Paul D. Harkins, chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ ở Việt Nam Cộng hòa thông báo cho Tổng thống Diệm biết ngân khoản Hoa Kỳ dành cho Lực lượng Đặc biệt bị cắt giảm.

Rõ ràng phía Mỹ đã “ngửi mùi” một âm mưu đáng sợ từ Lực lượng Đặc biệt mà hai vị tư lệnh và phó tư lệnh là Lê Quang Tung và Trần Khắc Kính – đều là dân Ông Tạ – đã lên kế hoạch: Một nhóm lính thuộc Lực lượng Đặc biệt mặc đồ thường dân sẽ phóng hỏa đốt Tòa đại sứ Mỹ, ám sát đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr. và một số quan chức chủ chốt của tòa đại sứ.

Và nhóm tướng lĩnh âm mưu đảo chính, với hậu thuẫn của Mỹ và đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr., ra tay trước.

NGÀY LỄ CÁC THÁNH, CÁC LINH HỒN 1 VÀ 2-11-1963 ĐẪM MÁU

Cả Tổng thống Diệm và ba vị đại tá kia đều là người Công giáo nhiệt thành chắc chắn không bỏ qua việc dự thánh lễ những ngày này. Thực tế sáng 2-11, ngay trong cơn dầu sôi lửa bỏng, thập tử nhất sinh, trước khi quyết định gọi điện thoại cho phe đảo chính báo nơi ẩn náu của mình, ông Diệm và em trai là ông Nhu vẫn bí mật dự lễ Các linh hồn ở nhà thờ Cha Tam.

Cuộc đảo chính của nhóm các tướng lĩnh, do tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, có lẽ đã tính toán cả những chuyện này khi quyết định chọn ngày D cho cuộc đảo chính: 1-11-1963.

Tuy nhiên, ngày 1-11, trong khi đại tá Kính cùng gia đình chuẩn bị bước vào nhà thờ An Lạc, nơi mà “thằng bé” sau này là nhà thơ Đỗ Trung Quân từng giúp lễ để dự lễ Các thánh thì đại tá Lê Quang Tung lại phải chuẩn bị đến Bộ Tổng tham mưu (nay là Bộ Tư lệnh Quân khu 7) cách khu An Lạc khoảng cây số – theo yêu cầu của nhóm tướng lĩnh tổ chức cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm.

Trong cuộc gặp này, ông Tung đứng lên phản đối cuộc đảo chính, bị lôi ra ngoài giết chết. Sau đó, em trai ông Tung là thiếu tá Lê Quang Triệu, tham mưu trưởng Lực lượng Đặc biệt vào Bộ Tổng tham mưu tìm anh cũng bị giết.

Thân xác của hai anh em ông Tung và ông Triệu bị vùi ở đâu đó ở khu vực nghĩa trang Bắc Việt (nay là khu vực chùa Phổ Quang, Tân Bình cũ), bên hông Bộ Tổng tham mưu mà tới giờ vẫn chưa tìm thấy.

Một ngày sau khi hai anh em ông Tung – ông Triệu bị thảm sát, ngày 2-11-1963, hai anh em ông Diệm và ông Nhu cũng bị thảm sát đẫm máu.

Điều trùng hợp là thoạt đầu, trước khi dời mộ về nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (nay là công viên Lê Văn Tám), hai ông Diệm – Nhu cũng được chôn cất gần nơi hai anh em ông Tung – Triệu bị giết (nghĩa trang Bắc Việt). Cụ thể hai ông Diệm, Nhu ban đầu đã được an táng trong một nghĩa trang trong khuôn viên Bộ Tổng Tham mưu, cạnh mộ Lê Văn Phong, em ruột Tổng trấn thành Gia Định Lê Văn Duyệt…

Sáu tháng sau, ngày 22-4-1964, em trai Tổng thống Diệm là ông cố vấn miền Trung Ngô Đình Cẩn bị Tòa án Cách mạng tuyên án tử hình. Ngày 9-5-1964, ông Cẩn bị hành quyết bằng xử bắn và chôn cất ở nghĩa trang Bắc Việt – xã Tân Sơn Hòa, ngoại vi Ông Tạ, cách mộ hai anh mình vài trăm thước.

Như vậy, ban đầu cả ba anh em ông Diệm – Nhu – Cẩn đều được chôn cất trên phần đất xã Tân Sơn Hòa, sát bên vùng Ông Tạ (trung tâm xã Tân Sơn Hòa).

MỘT ĐẠI TÁ BỊ TUYÊN TỬ HÌNH, MỘT ĐẠI TÁ BỊ SÁT HẠI

Ngày 1-11-1963, hay tin cuộc đảo chính nổ ra ở Sài Gòn, đại tá Bùi Dzinh đã lập tức điều động Trung đoàn 15 thuộc Sư đoàn 9 bộ binh và một pháo đội của Tiểu đoàn 9 pháo binh về phản đảo chính.

Nhưng đại tá Nguyễn Hữu Có, thuộc phe đảo chính, đã dàn lính Sư đoàn 7 bộ binh chặn ở ngã ba Trung Lương sau khi ra lệnh cho tỉnh trưởng Định Tường – trung tá Nguyễn Khắc Bình rút hết phà tại bến bắc Rạch Miễu và Mỹ Thuận về bờ phía Mỹ Tho để ngăn Sư đoàn 9 vượt sông Tiền.

Đây không phải là lần đầu tiên ông Dzinh phản đảo chính cứu Tổng thống Ngô Đình Diệm, người đồng hương huyện Lệ Thủy, Quảng Bình của mình. Ba năm trước, ngày 11-11-1960, ông Dzinh, lúc ấy là trung tá, tư lệnh phó kiêm tham mưu trưởng của Sư đoàn 21 bộ binh, cũng từ miền Tây mang một pháo đội 105 cùng đại úy Lưu Yểm, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1/33 của của Sư đoàn 21 bộ binh kéo về Sài Gòn nhổ chốt Phú Lâm, do Tiểu đoàn 8 Nhảy dù trấn giữ; thẳng đường về Dinh Độc Lập dẹp tan cuộc đảo chính do đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu.

Ông Dzinh không ngồi yên. Ngày 19-2-1965, ông cũng ra tay: Tham gia cuộc đảo chính nhằm lật đổ tướng Nguyễn Khánh, do thiếu tướng Lâm Văn Phát chỉ huy cùng đại tá Phạm Ngọc Thảo.

Cuộc đảo chính thất bại. Ông Dzinh chạy về vùng Ông Tạ, ẩn náu ở lò bánh mì nhà ông bà Dần trên đường Thánh Mẫu, sau đó sang Nhà hưu dưỡng các linh mục trong khuôn viên nhà thờ Chí Hòa cách đó vài chục mét. Đại tá Thảo vốn nhà ở khu Bắc Hải – Ông Tạ nên thoạt đầu cũng chạy về vùng Ông Tạ, được nhà báo Thiên Hổ – linh mục Nguyễn Quang Lãm, xứ Nghĩa Hòa che giấu.

Bị lùng sục ráo riết, hai ông chạy sang nơi khác. Ông Dzinh bị tòa án quân sự kết án tử hình khiếm diện với tội danh “chuyên viên đảo chính và sử dụng quân đội bất hợp pháp” (sau hạ xuống chung thân rồi tha bổng).

Ông Dzinh chạy về nhà một ông trùm giáo xứ Lạng Sơn ở Xóm Mới (Gò Vấp) và bị bắt ở đây. Ông Thảo chạy về Biên Hòa, bị bắt và sát hại ở đây.

… Những ngày đại lễ tam nhật Các thánh ấy đầy oan khiên, máu và nước mắt.


 

Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. (Mt 5:12a)- Cha Vương

Mừng Lễ Các Thánh đến bạn và gia đình nhé. Xin Chúa chúc lành và ban bình an cho bạn hôm nay và mãi mãi.

Cha Vương

Thứ 7: 1/11/2025

TIN MỪNG: Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. (Mt 5:12a)

SUY NIỆM: Thông thường phần thưởng chỉ được trao cho cá nhân nào sau khi đã trải qua những công lao nỗ lực trong sứ vụ mà họ đảm nhận. Phần thưởng của các thánh là được vui hưởng niềm hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng với Chúa sau khi đã hoàn tất hành trình làm chứng cho Tin Mừng trên thế gian này. Đây cũng là niềm khát vọng của mỗi người Ki-tô hữu. Mỗi người Ki-tô hữu đều có cơ hội để trở nên những vị thánh. Dù bạn có là ai đi nữa—giầu, nghèo, sang, hèn, học thức, không học thức, đàn ông, đàn bà, trai, gái, tu hành, giáo dân… cả đến tội nhân—tất cả đều có thể nên thánh: “Mỗi vị thánh đều có một quá khứ, mỗi tội nhân đều có một tương lai”. Miễn sao bạn phải THÀNH TÂM và CƯƠNG QUYẾT sống xứng đáng với ơn làm con Thiên Chúa. Thánh Gioan Bosco nói: “Muốn làm thánh phải làm người trước”.  Muốn làm con Thiên Chúa bạn phải làm điều mà Chúa Giêsu muốn bạn làm, bạn phải đến nơi mà Người muốn bạn đến, và thực hiện điều đó với tình yêu lớn lao. Bạn chỉ làm điều mà Chúa Giêsu muốn bạn làm mà thôi! Nếu bạn là người chồng, hãy trở thành người chồng mà Chúa muốn! Nếu bạn là người vợ, hãy trở thành người vợ mà Chúa muốn! Nếu bạn là người độc thân vui tính, hãy trở thành người độc thân mà Chúa muốn! Nếu bạn là người tu sĩ, hãy trở thành người tu sĩ mà Chúa muốn!

Mỗi ngày bạn hãy tự hỏi tôi có phải là người mà Chúa muốn tôi trở thành không? Chúc bạn thành công trong hành trình nên thánh nhé.

CẦU NGUYỆN: Lạy Cha nhân từ, xin thánh hoá đời sống con để con được ở bên Chúa muôn đời.

THỰC HÀNH: Chu toàn bổn phận trong ơn gọi của mình trong Chúa.

From: Do Dzung

***********************

Đường con theo Chúa -tinmung.net

Obamacare vì đâu nên nỗi! – Hiếu Chân/Người Việt

Ba’o Nguoi-Viet

October 31, 2025

Hiếu Chân/Người Việt

Chính phủ liên bang Hoa Kỳ đóng cửa đã tròn một tháng, gây nhiều khó khăn cho cuộc sống người dân Mỹ và chưa biết bao giờ mới mở cửa hoạt động trở lại.

Ai cũng biết điểm vướng mắc chủ chốt dẫn tới vụ đóng cửa là bất đồng quan điểm giữa hai đảng Cộng Hoà cầm quyền và Dân Chủ đối lập chung quanh một chương trình chăm sóc sức khỏe, thường gọi là Obamacare. Chừng nào điểm nghẽn này chưa thông thì chính phủ liên bang chưa có tiền để hoạt động.

Người biểu tình trước trụ sở của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ hồi năm 2020, bảo vệ ACA, hay còn gọi là Obamacare. (Hình minh họa: NICHOLAS KAMM/AFP via Getty Images)

Tin mới nhất là chiều tối Thứ Năm 30 Tháng Mười, Tổng Thống Donald Trump đã viết trên trang Truth Social của ông một thông điệp ngắn gọn: “Như tôi đã nói nhiều năm, OBAMACARE LÀ MỘT THẢM HOẠ! Chi phí tăng vượt trần cho sự chăm sóc y tế thực sự tồi tệ!!! Các đảng viên Dân Chủ làm gì đi chứ!!!”

Ông đá trái banh về chân đảng Dân Chủ nhưng vấn đề không đơn giản như thế.

Obamacare có phải là thảm hoạ không, tại sao nó trở thành điểm bất đồng gay gắt giữa hai đảng và nó ảnh hưởng thế nào đến túi tiền của người Mỹ?

Obamacare có phải là thảm hoạ?

Obamacare – ở California có tên là Covered California – tên đầy đủ là đạo luật Bảo Vệ Bệnh Nhân Và Chăm Sóc Y Tế Vừa Túi Tiền (The Patient Protection and Affordable Care Act – ACA) được Quốc Hội thông qua và Tổng Thống Barack Obama ký ban hành ngày 23 Tháng Ba năm 2010 và có hiệu lực đầy đủ vào năm 2014.

Mục đích chính của luật ACA là cải cách toàn diện hệ thống y tế Mỹ, giúp nhiều người Mỹ, nhất là các gia đình có thu nhập thấp và trung bình, có thể mua bảo hiểm y tế.

Những điều khoản chính của Obamacare là khuyến khích các tiểu bang mở rộng phạm vi bảo hiểm y tế miễn phí cho người thu nhập thấp (Medicaid); thiết lập các thị trường bảo hiểm trực tuyến (health insurance marketplace) nơi cá nhân và gia đình có thể so sánh và mua các chương trình bảo hiểm tư nhân; cung cấp các khoản trợ cấp tài chính dưới dạng tín dụng thuế phí bảo hiểm (premium tax credit) và các hình thức hỗ trợ khác để giảm gánh nặng chi phí bảo hiểm y tế cho người nghèo; cấm các công ty bảo hiểm từ chối bảo hiểm hoặc tăng phí bảo hiểm dựa trên tình trạng sức khoẻ hoặc bệnh lý có sẵn của người mua bảo hiểm; cho phép người dưới 26 tuổi được tiếp tục ở trong chương trình bảo hiểm của cha mẹ…

Đáng chú ý nhất là chính phủ liên bang sẽ trả trực tiếp cho công ty bảo hiểm một phần phí bảo hiểm hằng tháng, giúp giảm ngay số tiền bảo hiểm phải trả mỗi tháng cho những cá nhân và gia đình có thu nhập trong phạm vi từ 100% đến 400% mức nghèo liên bang (federal poverty level – FPL) và mua bảo hiểm qua thị trường bảo hiểm y tế (health insurance marketplace). Ngoài ra, Obamacare còn giúp giảm chi phí đồng chi trả (co-pay), mức khấu trừ (deductible) và giới hạn số tiền khách hàng phải trả trong một năm (out of pocket maximum)… Nhờ chính phủ, người nghèo và trung lưu đã có thể mua bảo hiểm sức khỏe “vừa túi tiền” như tên gọi của đạo luật.

Cũng nhờ sự trợ giúp tài chính của chính phủ, số người Mỹ mua được bảo hiểm y tế đã tăng rất nhanh. Thống kê cho biết, trước khi Obamacare có hiệu lực hoàn toàn năm 2014, tỷ lệ người Mỹ dưới 65 tuổi không có bảo hiểm y tế là 18.2% dân số, tương đương 48 triệu người. Những người này không dám đi khám bệnh, không phát hiện sớm được bệnh tật để chạy chữa; khi đau ốm họ vẫn được điều trị nhưng phải tự trang trải chi phí, nhiều người lâm vào cảnh nợ nần, tán gia bại sản, nhiều bệnh viện phải gánh núi nợ khổng lồ do bệnh nhân không có bảo hiểm để lại…

Chỉ trong vài năm sau Obamacare, số người không có bảo hiểm y tế đã giảm gần một nửa, xuống còn 10.4% năm 2016, tức thêm 20 triệu – 24 triệu người có bảo hiểm y tế. Số liệu mới nhất năm 2023 ghi nhận tỷ lệ người Mỹ dưới 65 tuổi không có bảo hiểm y tế chỉ còn 9.5%, thấp nhất từ trước đến lúc đó.

Obamacare là động lực chính dẫn tới sự gia tăng số người Mỹ được bảo hiểm sức khỏe; đẩy lùi mối lo nợ nần, phá sản khi chẳng may lâm trọng bệnh; và đó là thành quả không thể phủ nhận.

Trợ cấp tăng cường – mấu chốt gây tranh cãi

Đại dịch COVID-19 bùng phát năm 2020 gây ra một tác động kép: người dân dễ bị nhiễm bệnh hơn nhưng cũng khó khăn hơn về kinh tế do cơ sở kinh doanh đóng cửa, mất việc làm, mất thu nhập. Trong đạo luật Cứu Nước Mỹ (American Rescue Plan Act – ARPA) ban hành Tháng Ba 2021, chính phủ Mỹ thời Joe Biden đã giảm thiểu tác động tai hại này bằng cách mở rộng và tăng trợ cấp Obamacare để giúp người dân bị ảnh hưởng của đại dịch có thể mua bảo hiểm y tế với giá phải chăng. Khoản mở rộng này được gọi là trợ cấp tăng cường (enhanced subsidies) hoặc trợ cấp thêm (extra subsidies) bổ sung vào Obamacare.

Đạo luật ARPA loại bỏ giới hạn trợ cấp. Nếu trước đó người có thu nhập trên 400% mức nghèo liên bang FPL (tức khoảng $65,000 mỗi năm) thì không được trợ cấp để mua Obamacare thì nay giới hạn thu nhập đó bị bãi bỏ. Bất cứ ai mua bảo hiểm qua thị trường bảo hiểm y tế đều được trợ cấp nếu chi phí bảo hiểm cao hơn 8.5% thu nhập hằng tháng của họ; 8.5% thu nhập cũng là mức tối đa mà người dân có thể trả cho bảo hiểm y tế; người có thu nhập dưới 150% mức nghèo liên bang (tức khoảng $22,000 mỗi năm) thì tỷ lệ thu nhập phải trả cho bảo hiểm y tế là 0%.

Ban đầu các khoản trợ cấp tăng cường như vậy chỉ được áp dụng cho năm 2021 và 2022, sẽ chấm dứt khi đại dịch COVID được đẩy lùi. Nhưng sau đó Tổng Thống Biden ban hành Đạo luật Giảm Lạm Phát (Inflation Reduction Act – IRA) năm 2022, kéo dài các khoản trợ cấp Obamacare tăng cường đến ngày 31 Tháng Mười Hai 2025; nghĩa là hàng triệu người Mỹ tiếp tục được mua bảo hiểm y tế chi phí thấp đến hết năm nay.

Bất đồng giữa hai đảng trong Quốc Hội Mỹ hiện nay là nên chấm dứt hay kéo dài khoản trợ cấp tăng cường theo hai đạo luật ARPA và IRA nói trên. Đảng Cộng Hòa muốn chấm dứt trợ cấp tăng cường, muốn Quốc Hội thông qua ngân sách tạm thời để chính phủ hoạt động trở lại, sau đó sẽ bàn chuyện Obamacare, còn đảng Dân Chủ muốn mọi kế hoạch ngân sách đều phải bao hàm khoản trợ cấp Obamacare để bảo đảm người Mỹ tiếp tục được mua bảo hiểm y tế hợp túi tiền.

Theo tính toán của Văn Phòng Ngân Sách Quốc Hội (CBO), nếu duy trì khoản trợ cấp tăng cường thêm một năm 2026 thì ngân sách liên bang tốn khoảng $23 tỷ, nếu kéo dài thêm 10 năm (2025-2034) thì ngân sách có thể tốn $350 tỷ. (Thiệt hại cho nền kinh tế Mỹ trong một tháng chính phủ đóng cửa đã vượt quá con số $23 tỷ mà chính phủ có thể tiêu tốn nếu gia hạn trợ cấp Obamacare thêm một năm!)

Đảng Dân Chủ không tin rằng, sau khi chính phủ hoạt động trở lại, đảng Cộng Hòa sẽ nghiêm túc thảo luận và giải quyết vấn đề trợ cấp Obamacare nên họ cương quyết không bỏ phiếu thông qua kế hoạch ngân sách tạm thời chừng nào kế hoạch đó chưa bảo đảm duy trì Obamacare như trình bày trên.

Hai đảng bất hòa người dân chịu thiệt!

Nỗi nghi ngờ của đảng Dân Chủ có cơ sở là đảng Cộng Hòa ngay từ đầu đã phản đối Obamacare và đã nhiều lần tìm cách xoá bỏ nó dù không đưa ra được một chương trình thay thế tốt hơn. Từ một chương trình chăm sóc sức khỏe giá phải chăng cho người Mỹ, Obamacare bị biến thành một vấn đề chính trị, thành “chiến trường” cho cuộc tranh chấp ý thức hệ giữa hai đảng.

Đảng Cộng Hòa cho rằng Obamacare là sự can thiệp quá mức của chính phủ vào thị trường tự do, là một hình thức “xã hội chủ nghĩa”, trong đó người có thu nhập cao phải đóng góp nhiều để tài trợ cho người có thu nhập thấp hơn mà cả hai điểm này đều trái ngược với đường lối của đảng Cộng Hòa. Tổng Thống Trump gọi Obamacare là thảm họa xuất phát từ quan niệm đó.

Đảng Dân Chủ thì quan niệm chính phủ phải bảo đảm “quyền sống” của người dân, trong đó quyền được chăm sóc y tế là nhân quyền căn bản của con người, không thể phó mặc cho thị trường tự do vốn đặt ưu tiên cho lợi nhuận của nhà kinh doanh. Đảng Dân Chủ không chấp nhận tình trạng nước Mỹ hùng mạnh nhất thế giới, có thể giảm thuế hàng ngàn tỷ đô la cho giới nhà giàu, lại là nơi nhiều người dân đau bệnh không dám đến bệnh viện chạy chữa chỉ vì không đủ tiền mua bảo hiểm y tế.

Cuộc tranh chấp chưa biết lúc nào sẽ kết thúc. Chỉ biết rằng, từ ngày 1 Tháng Mười Một 2025, những người đang có bảo hiểm Obamacare sẽ phải ghi danh lại cho năm 2026 và do các khoản trợ cấp tăng cường sắp hết hạn nên phí bảo hiểm mà mỗi người phải trả sẽ tăng lên đáng kể, mức tăng nhiều hay ít còn tùy thuộc vào nơi sinh sống, tuổi tác và thu nhập.

Báo The New York Times dẫn dữ liệu của Kaiser Family Foundation cho ví dụ về mức tăng phí bảo hiểm Obamacare 2026 cho người trong độ tuổi 40 và 60 với các mức thu nhập khác nhau như sau: Người có thu nhập hằng năm $22,000 sẽ phải đóng $66 mỗi tháng (hiện là 0%), người có thu nhập $35,000 đóng $132 mỗi tháng, người có thu nhập $65,000 đóng mỗi tháng $196 nếu ở tuổi 40 nhưng phải đóng mỗi tháng $920 nếu ở tuổi 60. Đây chỉ là số liệu tham khảo, để biết chi tiết mức phí bảo hiểm Obamacare mà mình phải đóng quý vị nên liên lạc với nhân viên Covered California nơi mình sinh sống. [kn]


 

MẦU NHIỆM CÁC THÁNH CÙNG CẦU THÔNG – Lm. Đan Vinh, HHTM

Lm. Đan Vinh, HHTM 

  1. NGUỒN GỐC LỄ CẦU CHO CÁC LINH HỒN

 –   Theo lịch sử Hội thánh: Thánh ODILO (962- 1048) là viện phụ của đan viện Cluny trong đế quốc Germany, là một tu sĩ rất có lòng đạo đức.  Người luôn tưởng nhớ cầu nguyện kèm ăn chay hãm mình và dâng lễ cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời.  Một hôm, một đan sĩ Dòng của người đi hành hương Đất thánh.  Trên đường trở về, tàu chở vị đan sĩ đã bị bão đánh giạt vào một hòn đảo, và tại đây đan sĩ đã gặp gỡ và trao đổi với một vị ẩn sĩ.  Trong buổi trò chuyện, ẩn sĩ cho biết: “Trên đảo này có nhiều hang lửa, trong hang có nhiều linh hồn người chết thường bị hành hạ, đánh đập đau đớn.  Có lần tôi nghe được mấy tên quỉ phàn nàn với nhau về Viện phụ Odilo và các đan sĩ Dòng Cluny mỗi ngày đều giải thoát được một số linh hồn ra khỏi hang lửa nói trên.  Vì thế, xin thầy hãy về nói với cha Odilo và các anh em trong Dòng tiếp tục cứu giúp các linh hồn đang chịu đau khổ.  Việc này làm cho các thánh trên trời vui mừng và cũng làm cho ma quỷ trong hỏa ngục phải buồn sầu tức giận.”  Sau khi nghe tu sĩ kể lại sự việc, cha Odilo đã chọn ngày 2 tháng 11 hằng năm để cử hành lễ cầu hồn trong đan viện Cluny của người.  Về sau lễ cầu hồn này đã truyền sang nước Pháp, và Đức Giáo hoàng Gio-an 14 đã thiết lập lễ cầu Cho Các Linh Hồn trong Hội Thánh Công Giáo Rô-ma từ giữa thế kỷ 11.

 –   Giáo lý Hội Thánh Công giáo do Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II ban hành năm 1992 có 3 số nói về luyện ngục như sau:

 Số 1030: Cần có Luyện ngục: “Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh tẩy cách trọn vẹn, thì tuy được bảo đảm về ơn cứu độ muôn đời của mình, vẫn phải chịu một sự thanh luyện sau khi chết, hòng đạt được sự thánh thiện cần thiết để bước vào niềm vui thiên đàng.”

 Số 1031: Luyện ngục để thanh tẩy: “Giáo Hội gọi là luyện ngục là sự thanh luyện sau cùng này của các người được chọn, hoàn toàn khác với hình phạt của những kẻ bị án phạt.  Giáo Hội đã trình bày giáo lý của đức tin về Luyện ngục, nhất là tại các Công đồng Florentia (xem DS 1304) và Trentô (xem DS 1820; 1580).  Dựa vào một số bản văn của Thánh Kinh (Chẳng hạn 1 Cr 3,15; 1 Pr 1,7), truyền thống của Giáo Hội nói đến một thứ lửa thanh luyện: “Đối với một số những lỗi lầm nhẹ, ta phải tin có một thứ lửa thanh tẩy trước ngày Phán xét, theo như những gì mà Đấng là Chân lý đã dạy khi Người nói rằng nếu ai nói lời phạm thánh chống lại Chúa Thánh Thần, thì sẽ không được tha cả đời này lẫn ở đời sau” (Mt 12,31).  Theo lời quyết đoán này, chúng ta có thể hiểu rằng một số lỗi lầm có thể được tha ở đời này, nhưng một số lỗi khác thì được tha ở đời sau” (Th. Gregoriô Cả, Dial. 4,39). 

Số 1032: Người sống cứu người chết: Giáo huấn này cũng dựa vào cách cầu nguyện cho kẻ chết, như được nói đến trong Thánh Kinh: “Đó là lý do tại sao ông Giuđa Macabê đã truyền phải dâng hy lễ đền tội này cho các người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi của mình” (x. 2 Mcb 12,46).

 –   Ngày 10 tháng 8 năm 1915: Trong một Tông hiến, Tòa thánh cho các linh mục được dâng 3 lễ vào ngày lễ cầu cho các linh hồn: 1 cầu như ý người xin, được lấy bổng lễ, 1 cầu theo ý Đức thánh cha (không bổng), và 1 cầu cho các linh hồn (không bổng).  Giáo hội cũng xác định dành trọn tháng 11 để cầu cho các linh hồn trong luyện ngục. 

–  Ngày 1 tháng 11 năm 1967, ĐTC Phaolô 6, trong Tông huấn Ân xá đã ban một đại xá với điều kiện thường lệ (xưng tội, rước lễ, cầu theo ý ĐGH) cho những ai “viếng nhà thờ vào Chúa nhật trước hoặc sau, hoặc chính lễ Các Thánh (số 67), và những ai viếng nghĩa địa trong 8 ngày đầu tháng 11 để cầu cho các linh hồn (số 13).

2. GIÁO LÝ VỀ MỘT HỘI THÁNH BA TÌNH TRẠNG

Chúa Giê-su thiết lập Nước Trời là Hội Thánh.  Hội Thánh ấy hiện nay gồm có ba tình trạng: Một là Hội Thánh “Lữ Hành,” hai là Hội Thánh “Vinh Thắng,” ba là Hội Thánh “Đau Khổ” như sau:

 –  Hội Thánh “Lữ Hành” trần gian: Gồm các tín hữu đang còn sống, đang bước đi trên con đường của Chúa Giê-su.  Như Dân Israel xưa, Hội thánh sẽ phải vượt qua sa mạc trần gian tiến về Đất Hứa Nước Trời là Thiên Đàng đời sau.  Các tín hữu trong Hội thánh lữ hành trần gian còn phải chiến đấu với ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt của mình.  Họ được Chúa ban cho hai thứ bánh thiêng liêng là Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể.  Nhờ đó họ sẽ đủ sức vượt qua sa mạc trần gian để tiến về miền Đất Hứa là Thiên Đàng đời sau. 

–  Hội Thánh “Vinh Thắng” trên trời: Gồm các tín hữu đã qua đời trong niềm tin cậy vào Chúa.  Khi còn sống ở trần gian, các Người đã thực hành Hiến Chương Nước Trời là Tám Mối Phúc Thật của Chúa Giê-su, nên ngày nay các Người đang được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng với Chúa. 

–  Hội Thánh “Đau Khổ” thanh luyện: Gồm các tín hữu tuy đi theo con đường của Chúa Giê-su, nhưng khi chết vẫn đang ở trong tình trạng còn nhiều sai lỗi, chưa xứng đáng được vào Nước Trời.  Họ cần tiếp tục chịu đau khổ trong ngọn lửa tin yêu để được thanh luyện sạch mọi vết nhơ.  Rồi khi hoàn toàn trở nên thánh thiện, họ sẽ được về hưởng hạnh phúc Thiên Đàng. 

3.TÍN ĐIỀU CÁC THÁNH THÔNG CÔNG

Ngọai trừ các người theo quỷ phải sa hỏa ngục để chịu hình phạt lìa xa Chúa đời đời, còn các tín hữu tin vào Chúa Giê-su dù còn sống hay đã qua đời, dù đã được lên trời hay đang được thanh luyện cũng đều được thông hiệp với ơn cứu độ của Chúa Giê-su và cầu nguyện cho nhau.  Đó là mầu nhiệm các thánh cùng thông công:

 Các tín hữu còn sống có thể giúp các linh hồn đã qua đời bằng việc viếng nhà thờ hay Đất Thánh và đọc kinh cầu nguyện, xưng tội rước lễ và cầu nguyện hiệp thông với Đức Giáo Hòang để được nhận các ân xá trong dịp đầu tháng 11; Nhất là có thể xin lễ và hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho các linh hồn, làm các việc lành phúc đức như chia sẻ bác ái phục vụ với ý chỉ cầu nguyện đền tội thay cho các linh hồn ông bà cha mẹ đang ở trong chốn luyện hình.  Nhờ đó các linh hồn sẽ được ơn Chúa chiếu soi, được thêm lòng yêu mến Chúa để được tha thứ tội lỗi như lời Chúa: “Yêu nhiều sẽ được tha nhiều.”  Khi các linh hồn được nên thanh sạch thánh thiện hoàn toàn thì sẽ được Chúa đưa vào hưởng hạnh phúc Thiên Đàng.  Bấy giờ các đấng sẽ không quên cầu bầu cùng Chúa xuống muôn ơn lành cho con cháu là chúng ta trên trần gian.

 Riêng khái niệm về Lâm-bô: Lâm bô là khái niệm của thánh Albertô Cả (1200-1280), nói về một nơi dành cho các linh hồn trẻ em chết khi chưa được lãnh bí tích Rửa tội.  Tuy chúng không bị phạt nhưng cũng không được lên thiên đàng vì chưa được rửa tội.  Về sau khái niệm này ít được đề cập đến.  Gần đây Ủy ban thần học quốc tế thuộc bộ Giáo Lý Đức Tin đã công bố một tài liệu mang tên “Niềm hy vọng ơn cứu rỗi dành cho các trẻ em chết mà không được rửa tội.”  Trong đó Ủy Ban cho rằng: “Giả thuyết về Lâm-bô” không có nền tảng rõ ràng trong Mặc Khải.  Theo ủy ban, có nhiều lý do rút ra từ thần học và phụng vụ cho phép chúng ta tin tưởng và hy vọng rằng các em chết trước khi được rửa tội cũng được hưởng nhan thánh Chúa, vì “Thiên Chúa muốn cho hết mọi người đều được hưởng ơn cứu độ.”  Tuy vậy, Ủy ban cũng khẳng định bí tích rửa tội vẫn là điều kiện cần thiết để được hưởng ơn cứu rỗi của Đức Giê-su như lời Chúa phán: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3,5).  Tóm lại: Hội Thánh tín thác các em chết khi chưa chịu phép rửa tội cho lòng thương xót của Chúa, và hy vọng nhờ đức tin của Hội Thánh, các em cũng được hưởng ơn cứu độ (x. GLHTCG số 1261). 

4. PHẢI “BIẾT CHẾT” ĐỂ “BIẾT SỐNG”

–  Không thích nói đến cái chết: Nhiều người nghĩ rằng: không nói đến sự chết thì mình sẽ không phải chết.  Nhà tỷ phú Mỹ William Randoph Hearst, chủ nhân của nhiều tờ báo và phim trường ở Holywood hồi trước thế chiến thứ hai, đã ra lệnh cấm các nhân viên của mình nhắc đến từ ngữ “chết” trước mặt ông.  Những ai lỡ miệng nói ra liền bị đuổi việc.  Ông là người thông minh, tài giỏi, thành công, nhưng lại không dám đối diện với sự thật phũ phàng là sự chết!  Rồi cuối cùng Hearst cũng bị chết bất đắc kỳ tử, để lại một tòa lâu đài rộng lớn, hiện nay trở thành một điểm du lịch nổi tiếng ở bang California Hoa Kỳ. 

–  “Sinh ký tử quy” (Sống gửi thác về): Nhiều người khi lớn tuổi liền nghĩ đến việc hậu sự và lo chuẩn bị cho cái chết của mình, bằng việc mua đất nghĩa trang, chọn nhà quàn, mua sẵn ván làm hòm để trong nhà.  Họ còn viết chúc thư về những điều con cháu phải làm để lo việc ma chay cho họ: Khi chết phải cho họ chiếc áo này, đeo vòng ngọc kia, cầm cái quạt nọ.  Lại còn dặn dò phải bỏ vào quan tài dụng cụ này hay vòng vàng nọ để sử dụng ở thế giới bên kia, giống như chuẩn bị hành lý cho một chuyến đi xa để về với ông bà tổ tiên.

   Chết là bắt đầu một cuộc sống mới: Đối với những kẻ không tin có Thiên Chúa và đời sau thì chết đi là hết!  Nếu quả thực như thế thì cái chết thật đáng sợ!  Vì nó là đặt dấu chấm hết tất cả những ước mơ của đời người: “Con người là bụi cát lại trở về với cát bụi!”  Nhưng đức tin Ki-tô giáo dạy cho biết: chết không phải là hết.  Nó chỉ là khởi đầu của một cuộc sống mới vĩnh hằng.  Sau cái chết mỗi người sẽ phải trả lẽ những gì đã làm khi còn sống trước tòa Chúa phán xét.  Nếu chúng ta đã sống trong ân nghĩa của Chúa thì giờ chết sẽ là sự trở về ngôi nhà của mình.  Chúng ta sẽ được trở về thiên đàng, là nhà của Thiên Chúa Cha, Đấng đã dựng nên loài người chúng ta.  Ở đây không còn nước mắt đau khổ, nhưng chỉ có niềm vui và hạnh phúc viên mãn như sách Khải Huyền đã viết: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ.  Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, khóc than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (x. Kh 21,4).

 –  Đền tội khi sống lúc chết: Dầu vậy trong cuộc sống, ít nhiều lần các tín hữu chúng ta cũng đã để cho những dục vọng làm chủ bản thân mình, khiến chúng ta không vâng lời Chúa, không làm theo thánh ý Thiên Chúa.  Đó là ta đã phạm tội hay mắc phải các thói hư.  Khi chúng ta còn sống thì các tai nạn, bệnh tật và các điều trái ý cực lòng gặp phải sẽ giúp chúng ta đền tội đã phạm.  Rồi sau khi qua đời chúng ta còn tiếp tục được thanh luyện trong lửa tin yêu gọi là tình trạng luyện hình.

 5. NGUYỆN CẦU

 –  Lạy Chúa Giê-su.  Mỗi lần đối diện với cái chết gần kề, con cảm thấy run sợ vì con chưa sẵn sàng để gặp Chúa.  Trong suốt cuộc đời, con đã lo toan rất nhiều thứ như lo tìm kiếm tiền tài, danh vọng, chức quyền trần gian…  Còn điều quan trọng chính yếu là chuẩn bị cho giờ chết sẽ đến thì con lại chưa quan tâm đúng mức!  Con thật dại khờ khi nghĩ rằng mình sẽ có đủ thời gian chuẩn bị trước khi chết.  Nhưng lời Chúa đã dạy “Con Người sẽ đến như kẻ trộm” và đòi con phải luôn tỉnh thức bằng thái độ sẵn sàng.  Một ngày nào đó con không ngờ trước, con sẽ phải ra trình diện trước mặt Chúa, không biết bấy giờ Chúa có nhận ra con không, hay Chúa sẽ bảo con: “Ta không hề biết các ngươi.  Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7,23). 

–  Lạy Chúa Giê-su, xin ban cho con ơn khôn ngoan của Thánh Thần để con sống trọn vẹn từng giây phút hiện tại Chúa ban trong ơn nghĩa Chúa, để ngày nào đó khi giờ chết đến, con sẽ ra trình diện trước mặt Chúa không phải như hai người xa lạ, nhưng như người rất thân quen.  Khi ấy Chúa sẽ gọi con bằng một cái tên trìu mến và giang rộng vòng tay đón con vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời: “Hỡi kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng ‘Vương Quốc’ dọn sẵn cho các con từ thuở tạo thiên lập địa” (x. Mt 25,34), Amen!

 Lm. Đan Vinh, HHTM

From: Langthangchieutim


 

Đọc sách để làm gì?

Trầm Mặc Huơng Lai

 — Thưa thầy, con đã đọc biết bao nhiêu sách… nhưng phần lớn con quên hết. Vậy đọc để làm gì?

Một cậu học trò tò mò hỏi thầy mình như thế.

Ông lão không trả lời. Chỉ nhìn cậu, lặng im.

Vài ngày sau, họ ngồi bên bờ sông.

Đột nhiên, thầy nói:

— Thầy khát. Con lấy cho thầy ít nước… nhưng dùng cái rổ cũ kia nhé.

Cậu học trò sững lại.

Thật vô lý. Làm sao múc nước bằng một cái rổ đầy lỗ?

Nhưng cậu không dám cãi.

Cậu cầm rổ, thử.

Một lần. Hai lần. Rồi nhiều lần nữa…

Cậu chạy nhanh hơn, đổi góc, thậm chí lấy ngón tay bịt vài lỗ.

Vẫn không được. Chẳng giữ lại nổi một giọt.

Kiệt sức, bực bội, cậu ném cái rổ xuống chân thầy:

— Con xin lỗi. Con thất bại rồi. Việc này bất khả thi.

Thầy nhìn cậu hiền hậu, khẽ bảo:

— Con không hề thất bại. Nhìn cái rổ đi.

Cậu cúi xuống… và nhận ra điều khác lạ.

Cái rổ cũ kỹ, đen bám bẩn giờ sáng bóng.

Nước, tuy chẳng ở lại, đã rửa nó hết lần này đến lần khác cho đến khi nó lấp lánh.

Thầy nói tiếp:

“Đọc sách cũng như thế.

Không quan trọng con nhớ từng chữ, từng ý.

Không sao nếu tri thức trôi tuột qua tay con như nước qua rổ…

Vì khi con đọc, tâm trí được gột rửa. Tâm hồn được làm mới.

Ý nghĩ được thở. Và dù con không nhận ra ngay, con đã đổi khác — từ bên trong.”

Đó mới là mục đích thật sự của việc đọc:

không phải nhồi đầy trí nhớ, mà là thanh lọc và làm giàu tâm hồn.

St TG Văn Chương