Đỉnh Cao

                                           Đỉnh Cao

 Đỉnh Everest cao nhất thế giới của dãy Hy Mã Lạp Sơn như có một ma lực hấp dẫn những người leo núi thiện nghệ. Ai đã vướng vào môn thể thao leo núi xem đó như là một giấc mơ, nếu ngày nào đó họ đặt được chân trên đỉnh núi cao 8,880 thước, quanh năm phủ tuyết này, nhưng chỉ có một số ít người thực hiện được giấc mộng ấy và rất nhiều người đã bỏ mình dọc theo con đường lên đỉnh.

Trên những con đường ấy, người ta thấy hai bia mộ ghi những dòng chữ sau đây: bia thứ nhất đề “Họ thấy được lần cuối cùng trong lúc gắng sức leo lên”. Và bia thứ hai tưởng niệm một huấn đạo viên chỉ viết vỏn vẹn một câu “Ông ta chết trong lúc đang leo”.

Nếu đời sống là một cuộc tranh đấu không ngừng thì để sống đạo và hành đạo cũng thế. Điều quan trọng không phải là thành công hay thất bại, mà là chỗi dậy và tiến bước. Phải gọi là thẳng tiến thì đúng hơn, vì câu tâm niệm của các Kitô hữu phải là: “ngày hôm nay tốt hơn ngày hôm qua, nhưng kém hơn ngày mai”.

Bí quyết thành công thứ hai là không bao giờ chúng ta nên đi trên con đường nên thánh một mình, hãy noi gương những người đi trước, những thánh nhân và hãy cùng nhau tiến bước. Và nhất là hãy đi vào những vết chân Chúa Giêsu đã để lại.

Trích từ Lẽ Sống

Kẻ Ăn Cắp Một Ổ Bánh Mì

Kẻ Ăn Cắp Một Ổ Bánh Mì

 Người ta thường kể về một trong những ông thị trưởng đầu tiên của thành phố New York bên Hoa Kỳ giai thoại như sau: một ngày mùa đông lạnh buốt nọ, ông thị trưởng phải chủ tọa các phiên tòa. Người ta điệu đến trước mặt ông một ông lão quần áo tả tơi. Người đàn ông này bị tố cáo là đã ăn cắp một mẩu bánh mì. Lời tự biện hộ duy nhất mà người đàn ông khốn khổ đưa ra là: “Gia đình tôi đang chết đói”.

Nghe xong lời cáo buộc của cử tọa cũng như lời biẹn bạch của ông lão, viên thị trưởng đưa ra phán quyết như sau: “Luật pháp không tha thứ cho bất cứ một hành động xấu nào. Tôi thấy cần phải trừng phạt ông, và hình phạt cho tội ăn cắp là ông phải đóng 10 đô la”. Vừa công bố bản án, ông thỉntưởng rút trong túi của mình ra 10 đô la và trao cho ngwòi đàn ông khốn khổ. Quay xuống cử tọa ông nói tiếp: “Ông lão đã bồi thường vì tội ăn cắp của ông. Còn phần quý vị, tôi yêu cầu mỗi người phải đóng 50 xu tiền phạt vì sống dửng dưng đến độ để cho trong thành phố của chúng ta còn có một người nghèo phải đi ăn cắp”. Nói xong, ông ra lệnh cho viên biện lý đi thu tiền vảtao tất cả cho ông lão.

Khi chiếc mũ đã được truyền một vòng tòa án và trở về tay mình, ông lão đếm được tất cả 47 đô la 50 xu.

Trong sứ điệp Mùa Chay năm 1991, Đức thánh Cha Gioan Phaolô II mời gọi chúng ta hãy đọc và suy ngẫm về bài dụ ngôn người giàu có và Lazarô.

Mới nghe qua, chúng ta có cảm tưởng người giàu có trong bài dụ ngôn đã không làm điều gian ác nào để đến độ phải bị trầm luân. Chúa Giêsu đã không nói: ông đã trộm cướp, hay biển lận hoặc gian xảo trong việc làm ăn. Ngài cũng không kết án việc ông ngày ngày yến tiệc linh đình.

Vậy thì đâu là tội của người phú hộ? Thưa đó là tội dửng dưng trước nỗi khổ của người khác. Chúa Giêsu nói đến sự hiện diện ngày qua ngày của một người khốn khổ trước cửa nhà ông để cho chúng ta thấy sự đang tâm làm ngơ của người giàu có… Máu chảy, ruột mềm. Trước cảnh khốn khổ của người đồng loại, mà người giàu có ấy vẫn không biểu lộ một chút xúc động hoặc làm như không nhìn thấy, thì quả thật không gì đáng trách bằng, bởi vì người giàu có đã làm cho trái tim của mình khô cứng.

Dửng dưng trước nỗi khổ của người khác không là một thái độ vô thưởng vô phạt, mà là một hành động tội ác. Ông thị trưởng thành phố New York trong câu chuyện trên đây quả thực đã thấy được tội ác của chính ông và của thị dân của ông đối với lão ông ăn cắp bánh mì.

Trich từ Lẽ Sống

Tỉnh thức trong tình hình mới

Tỉnh thức trong tình hình mới

                                                                                           Gm Gioan B. Bùi Tuần

 1. Đất Nước Việt Nam đang đi vào một tình hình mới. Quốc Hội mới, Chính phủ mới và hệ thống chính trị mới là những nhân tố mới thuộc cơ chế.

Ngoài cơ chế còn có nhiều cái mới, như những phong trào mới, những tư tưởng mới, những sản phẩm kinh tế, văn hoá, nghệ thuật mới, những lối sống mới, những nhóm quyền lực mới. Nhiều cái mới rất khó kiểm soát. Lòng người thay đổi càng không dễ khắc phục.

Tất cả những cái mới đang làm nên một tình hình mới. Mọi cái mới trong tình hình mới đều ảnh hưởng đến con người sống trên Đất Nước Việt Nam. Ảnh hưởng mà tôi để ý nhất là về lĩnh vực tâm lý, lĩnh vực tâm linh, lĩnh vực đạo đức và lĩnh vực đức tin.

Theo hy vọng, chúng ta mong tình hình mới sẽ có nhiều ảnh hưởng tốt đến chúng ta. Nhưng theo cảnh giác, chúng ta cũng nên thấy trước những nguy cơ. Ở đây, tôi xin đề cập đến việc cảnh giác. Với những “nếu”.

            2. Trong lĩnh vực tâm lý, hầu hết người Việt Nam đều khát khao sự bình an. Họ coi sự bình an là yếu tố căn bản của hạnh phúc. Bình an thường được ví như căn nhà bền vững, trong đó con người được chở che yên ổn, tránh được những lo sợ. Sự bình an như thế sẽ không được giải quyết do chỉ có được những cái tốt, mà còn nhờ gặp được những tấm lòng tốt. Hơn nữa bình an cũng tuỳ thuộc vào hoàn cảnh xung quanh gần xa. Sau cùng bình an còn tuỳ thuộc rất nhiều vào chính lòng mỗi người.

Tình hình mới chắc sẽ không tránh được nhiều phức tạp khó khắc phục. Nếu điều đó xảy ra, thì tâm lý con người ước mơ bình an sẽ bất ổn, có thể sẽ bất bình, bất mãn. Con người bất an bất bình bất mãn thường sinh ra nhiều chứng bệnh tâm lý dưới nhiều hình thức, kể cả hình thức nổi loạn.

            3. Trong lĩnh vực tâm linh, hầu hết người Việt Nam đều có một niềm tin tự nhiên vào những gì là linh thiêng, là bất tử. Những niềm tin đó nằm sâu trong vô thức. Nó làm nên những sợi dây vô hình nối kết người đang sống với người đã chết, đời này với cõi đời sau.

Tình hình mới không chủ yếu bảo vệ và phát triển tâm linh, nhưng sẽ nghiêng về hướng đón nhận và đi tìm những sáng kiến làm cho cuộc sống được sung sướng hơn. Hướng đó khi phát triển quá tự do sẽ vô tình làm suy yếu những giá trị tâm linh. Hồn thiêng của Văn Hoá Việt Nam sẽ bị lãng quên dần. Những người có trách nhiệm dễ thấy điều đó, nhưng không dễ kiểm soát và khống chế được làn sóng phá hoại. Nếu tình hình tới lúc đó, tại hại sẽ khôn lường.

            4. Trong lĩnh vực đạo đức, người Việt Nam hiện nay đang đứng trước nhiều thách thức. Đạo đức là biết chọn lựa hợp đạo lý. Đạo lý bởi Trời và do Trời chứng giám. Câu hỏi sẽ đặt ra là mọi người có đủ sáng suốt và can đảm chọn lựa theo đạo đức không? Sáng suốt và can đảm sẽ tìm được ở đời sống nội tâm. Nhưng nếu tình hình mới sẽ quá bận rộn với những hoạt động bề ngoài, lại trốn tránh đời sống nội tâm, thì nguy cơ đó đáng báo động. Mà dù có báo động, thì chẳng mấy ai nghe. Thế mới đáng sợ.

Hiện nay người ta thường chọn cái mình ưa thích, chứ không chọn cái đạo lý dạy. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa thực dụng đang là những làn sóng mạnh tràn vào xã hội Việt Nam. Tội ác xem ra không giảm, mà còn có chiều hướng gia tăng. Đạo đức suy giảm sẽ đe doạ đến hưng thịnh tồn vong của Dân tộc, và trước hết sẽ gây hại lớn cho chính con người. Điều đáng lo ngại, là những người đứng ra chấn chỉnh đạo đức lại nhiều khi phải cô đơn.

Nói chung, theo tôi, nếu cứ đà này, thì tình hình mới sẽ khó tránh được một cuộc khủng hoảng nặng nề về đạo đức, trong đó có khủng hoảng về niềm tin. Ngay trong gia đình, người ta cũng không còn tin nhau như trước. Phương chi trong xã hội. Giáo Hội Việt Nam xem ra cũng không tránh được khủng hoảng về niềm tin. Không còn tin nhau, đó là một thảm kịch

            5. Trong lĩnh vực đức tin, ngoài những ảnh hưởng chung dành cho bất cứ ai, tình hình mới cũng còn có ảnh hưởng riêng đến những người sống đức tin.

Một ảnh hưởng, mà tôi cho là quan trọng, đó là những phức tạp mới đòi chúng tôi phải có những chọn lựa thích hợp, để diễn tả đức tin và giới thiệu đức tin.

Xin phép cho tôi được nói về chọn lựa của tôi. Chọn lựa của tôi luôn dựa trên Lời Chúa Giêsu và đời sống Chúa Giêsu. Lời Chúa Giêsu và đời sống Chúa Giêsu là nguồn ánh sáng. Trong ánh sáng đó, để diễn tả đức tin và giới thiệu đức tin, tôi chọn lối sống này:

* Cầu nguyện, sống mật thiết với Chúa Giêsu (x. Ga 15,5).

* Từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Chúa (x. Mt 16,29).

* Bác ái như Chúa dạy (x. Lc 10,29-37).

Trên thực tế, khi thực thi ba yếu tố trên đây, tôi phải có một đức tin sống động. Lúc đó, tin là gặp gỡ Chúa, là đón nhận Chúa, là lắng nghe Chúa, là để Chúa dẫn đưa.

Kết quả là sự gặp gỡ Chúa giúp tôi gặp gỡ người khác. Người khác là đồng bào tôi, là Đất Nước tôi. Tôi cảm thấy một tình yêu dạt dào trong tôi. Mến Chúa thì yêu thương người khác. Yêu thương người khác thì nhờ mến Chúa và vì mến Chúa.

Cảm nghiệm trên đây cho phép tôi xác tín rằng: Tình hình mới tuy có nhiều phức tạp, nhưng sẽ khắc phục được. Các khó khăn rồi sẽ vượt qua. Nhờ tình yêu. Không phải chỉ một tình yêu của tôi, mà còn vô số tình yêu của hàng triệu đồng bào. Nhất là nhờ tình yêu Chúa.

Tất nhiên, tình yêu của mỗi người nói ở đây là tình yêu dấn thân, đòi nhiều phấn đấu, chấp nhận mọi hy sinh, mà đỉnh cao là thánh giá. Đây cũng là tình yêu luôn nhận mình yếu đuối hèn mọn tội lỗi, và coi sự nhận biết đó chính là chân lý quan trọng cần hiện diện trong mọi quan hệ với mọi người, nhất là với Chúa.

Công cuộc khắc phục sẽ không dễ dàng. Trước mọi khó khăn, người công giáo chúng ta luôn phải là những chứng nhân của niềm hy vọng.

            6. Tới đây, tôi xin được phép gởi tới anh chị em yêu quý một mong muốn cần thực hiện tốt, để sống Tin Mừng và làm chứng cho Tin Mừng trong tình hình mới, đó là hãy tăng cường tinh thần trách nhiệm đối với gia đình mình.

Gia đình sẽ bị thử thách nhiều trong tình hình mới. Hãy chăm lo cho nhau về mọi mặt, nhất là về mặt đạo đức. Đạo đức gia đình đang bị lung lay, do nhiều khái niệm sai về các giá trị. Một phần trách nhiệm là từ gia đình. Gia đình trong tình hình mới sẽ phải tất bật để lo cho cuộc sống cạnh tranh. Vì thế rất cần có những hồi tâm cho đạo đức gia đình. Gia đình mất đạo đức sẽ không thể có hạnh phúc.

Khi làm tông đồ cho người khác, chúng ta không được quên làm tông đồ cho chính gia đình mình.

Đạo đức gia đình xuống dốc, đó là một sự dữ cực kỳ nguy hiểm.

 “Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Nhờ Chúa rộng lòng thương cứu giúp, chúng con sẽ luôn luôn thoát khỏi tội lỗi, và được an toàn khỏi mọi biến loạn” (Nghi thức Hiệp lễ).

nguồn: Từ Maria Mai gởi

Chúa chữa lành bịnh Sida

 Chúa chữa lành bịnh Sida

                                                                          John Le, California  

Sat, 15/10/2011

 Tôi ra đi vượt biên và đến Hoa Kỳ một mình vào năm 1980. Là một thanh niên độc thân nên tôi share phòng ở nhà người bà con. Tôi đi học nghề gấp rút trong một năm và cũng may khi vừa học xong có được việc làm. Đó là giấc mơ lớn nhất của tôi. Sau khi có việc làm tôi mua được một chiếc xe Ford cũ rích. Thế nhưng, đối với tôi lần đầu có xe thì cưng nó còn hơn mình. Xe lau chùi sạch sẽ, mua nước thơm bỏ vào trong xe cho nó tẩy cái mùi xe cũ kỹ. Thế là toại nguyện cho tôi rồi.

 Vì độc thân nên tôi rất rảnh rỗi sau giờ làm việc. Tôi thường rủ bạn bè la cà nơi các quán cà phê ở Bolsa để ngắm giai nhân và nói chuyện tầm phào trên trời dưới đất. Uống một ly cà phê mà ngồi đến 2, 3 tiếng không biết chán. Cái không khí trong quán cà phê thì ngột ngạt vì toàn khói thuốc và tiếng nhạc trống đánh thình thình muốn bể lỗ tai. Thế nhưng chỗ đó là nơi giải trí lý tưởng. Thứ Sáu và thứ Bảy muốn tìm tôi thì hãy ra các quán cà phê vì tôi ngồi “chầu” các nàng ở đó. Các nàng bồi bàn lượn qua lượn lại thấy mà đã con mắt, tuy chẳng làm gì cả chỉ ngắm thôi nhưng cũng khá tốn tiền. Thời đó lương 4 đô một giờ, ly cà phê có 2 đô thôi nhưng tiền típ cũng 2 đô trở nên, chơi xộp mà. Cái tiền ấy coi như trả tiền “ngắm”.

 Một ngày kia, một ông độc thân cũng tới share phòng nơi nhà tôi ở. Thế là chúng tôi có dịp làm quen với nhau. Ông độc thân tại Mỹ thôi, vì vợ con ở Việt Nam. Người Việt Nam có câu: “gần mực thì đen gần đèn thì sáng” quả là đúng như vậy. Một hôm ông rủ tôi lên thành phố Los Angeles thăm khu nhà “chị em ta”. Tôi thực tình mà nói vì rảnh rỗi và muốn tò mò đi theo. Thế nhưng khốn cho tôi, chỉ một lần thôi mà ân hận suốt đời. Số là sau lần đi chơi ấy, tôi mang bị si đa. Đi khám, bác sĩ nói bệnh này không có thuốc chữa, phải chịu đau đớn mà thôi. Nghe vậy, tôi cảm thấy như trời sụp xuống. Tôi cứ tưởng bệnh gì cũng phải có thuốc chữa khỏi chứ. Thôi rồi còn chi đâu em ơi….

 Từ Vực Sâu U Tối

 Thế nhưng đó chưa hết nỗi lo âu. Tôi không biết mình có mang bệnh AIDS không? Thời bấy giờ chưa có nhiều người mắc bệnh AIDS như hôm nay. Thế là phải đi thử máu cho biết chắc ăn. Ngày đi thử máu thật xấu hổ, chỉ muốn lấy bao rác chụp lên đầu cho ai khỏi thấy mặt như mấy tên khủng bố ở Trung đông. Trong khi chờ đợi kết quả thử máu thì tôi không ngừng cầu nguyện, biết lỗi lầm và ăn năn nhưng không biết Chúa có ok không, vì khi có chuyện rồi mới chạy tới Chúa làm sao Chúa nhận lời? Thế những biết bám víu vào cái phao nào bây giờ. Thôi thì năn nỉ Chúa vậy. Phen này mà mắc bệnh AIDS thì chắc dọn đi xa không ai biết rồi chết âm thầm. Tạ ơn Chúa, kết quả cho biết tôi không mắc bệnh AIDS tử thần, nhưng phải mang bệnh si đa suốt đời.

 Cái bệnh si đa nó hành hạ tôi hàng tháng. Tôi thật khổ sở nhưng đành cam chịu vì lỗi tại tôi mọi đàng vì vậy tôi chỉ cầu xin Chúa chữa… Hằng ngày vào giờ trưa, tôi đến nhà thờ cầu nguyện với mục đích xin Chúa chữa và thống hối. Thế rồi bệnh tái phát ít hơn trước những vẫn còn đó. Qua một thời gian dài, bệnh càng ngày càng tái phát ít hơn và rồi khỏi hẳn. Tôi như được Chúa giải thoát khỏi cảnh nô lệ ở Ai cập và đưa về miền đất hứa.

 Và Con Tim Đã Vui Trở Lại

 Chúa thật cao thượng hơn trí tưởng tượng của tôi. Chúa không ác như tôi nghĩ vì tôi ác nên mang ấn tượng ấy đối với Chúa. Ân phúc Ngài to lớn tội lỗi của tôi. Chúa thật vĩ đại! Mọi bệnh tật của tôi Chúa dùng uy quyên quăng chìm đáy biển, tội lỗi của tôi Chúa lấy lòng thương xót mà bao phủ. Chúa cho tôi một cơ hội đổi đời. Chúa không đánh phạt tôi! Chúa kéo tôi ra khỏi vũng bùn nhơ nhớt. Chúa rửa sạch quá khứ đen tối của tôi và đưa tôi về. Tôi vẫn nhớ lỗi lầm của mình nhưng Chúa đã quên.

 Tôi đã bước đi trong ánh sáng của Chúa. Ngài mặc cho tôi chiếc áo mới làm con. Không những thế, Chúa đang dùng tôi. Tôi không trở nên vô dụng khi tôi quyết tâm đền đáp ơn Chúa. Chúa của bà Maria Mađalêna như thế nào thì Chúa của tôi cũng như vậy. Chúa cho mở tung nấm mồ cho tôi gặp Chúa. Chúa phục sinh nơi xác chết của tôi. Ngài đã dùng tôi loan tin cho Chúa. Bên tôi đang có Chúa…

 Gởi Người Bạn Trẻ

 Bạn thân mến, mình nhắn gởi đến các bạn vài điều. Là người trẻ, bạn hăng máu lắm như con thiêu thân không sợ chi cả, chỗ nào cũng dám lủi vào. Thế nhưng trước khi gài số lủi vào, bạn hãy dừng lại bảng stop và suy nghĩ một chút. Bạn lủi vào và chết ngay thì cũng đỡ, thế nhưng nếu bạn lủi vào mà mang thương tật, đau đớn suốt đời, sống không nỗi, mà chết cũng không xong, đó mới là điều khốn nạn. Mình biết hôm nay có nhiều cám dỗ lắm, nào là thuốc phiện, xì ke, rượu chè, tình dục, bệnh Aids, thờ satan v.v… (drugs, alcohols, Sex, Aids, satanism). Nguy hiểm lắm. Hãy lựa bạn tốt mà chơi. Đừng khôn ba năm dại một giờ như mình!

 Nếu bạn chẳng may đang vướng mắc các chứng bệnh trên. Chỉ có một lối thoát duy nhất, only one escape route. Đó là con đường đầu phục Chúa Giêsu Christ. Nhận Chúa là Chúa Cứu của mình. Chúa không thua bạn đâu. Hãy giơ tay lên cho Chúa kéo bạn lên.

 John Le, California  
                                                     nguồn:     thanhlinh.net

Chân dung cuộc sống…

Chân dung cuộc sống…

  Cuộc sống là một cơ hội – Hãy nắm lấy.

Cuộc sống là một vẻ đẹp – Hãy chiêm ngưỡng.

Cuộc sống là một giấc mơ – Hãy nhận ra.

Cuộc sống là một thử thách – Hãy đương đầu.

Cuộc sống là một bổn phận – Hãy hoàn thành.

Cuộc sống là một trò chơi – Hãy tận hưởng.

Cuộc sống  là một lời hứa – Hãy thực hiện.

Cuộc sống là một nỗi buồn – Hãy vượt qua.

Cuộc sống là một bản nhạc – Hãy hát lên.

Cuộc sống là một trận đấu – Hãy chấp nhận.

Cuộc sống là một thảm kịch – Hãy đối đầu.

Cuộc sống là một cuộc phiêu lưu – Hãy can đảm dấn thân.

Cuộc sống là một niềm may mắn – Hãy nắm lấy.

Cuộc sống là sự sống – Hãy tranh đấu vì nó.

Cuộc sống vô cùng quý giá – Đừng hủy hoại nó.

Mỗi ngày như thể là ngày cuối cùng (Câu chuyện của Steve Jobs)

Mỗi ngày như thể là ngày cuối cùng

(Câu chuyện của Steve Jobs)

Trong bài nói chuyện trước hàng ngàn sinh viên của trường đại học danh tiếng Stanford vào ngày tốt nghiệp 12.6.2005, vị khách mời Steve Jobs đã kể rằng: “Tôi nhìn vào gương mỗi sáng và tự hỏi: Nếu hôm nay là ngày cuối cùng của đời mình, tôi có muốn làm trong hôm nay những gì mà tôi dự định không? Và bất cứ khi nào câu trả lời “Không” xuất hiện liên tục trong quá nhiều ngày, tôi biết tôi cần phải thay đổi thứ gì đó”.

Steve Jobs kể rằng ông đã nhìn vào gương mỗi sáng và tự hỏi như thế từ khi ông đọc được đâu đó vào năm 17 tuổi câu nói: “Nếu bạn sống mỗi ngày như thể đó là ngày cuối cùng của mình, một ngày nào đó bạn chắc chắn sẽ ổn”, và việc ghi nhớ rằng mình sẽ chết được Steve Jobs nhìn nhận như là “một công cụ lợi hại nhất mình tình cờ có được”, và công cụ đó đã giúp ông đưa ra những chọn lựa quan trọng nhất trong đời.

Đó là câu chuyện thứ ba – câu chuyện về cái chết –  một trong ba câu chuyện đời mà Steve Jobs mang đến kể trước các tân khoa Stanford, sau câu chuyện về việc kết nối các điểm mốc của cuộc đời, và câu chuyện về tình yêu và sự mất mát.

Cuộc đời Steve Jobs đã được tạo ra một cách sống động bằng cách nghĩ đến cái chết của mình mỗi ngày. Dường như việc nhìn đến tận điểm cuối của cuộc đời đã giúp Steve Jobs có cái nhìn toàn cảnh hơn, nhận thức rõ ràng những gì thực sự quan trọng để theo đuổi, và có động lực để đeo đuổi một cách nhiệt huyết nhất, như cách ông đã theo đuổi việc chế tạo những chiếc máy làm thay đổi nhân loại trong bốn thập kỷ qua. Là Apple, là Macintosh, là iPod, iPhone, Ipad, v.v.

Biết nhìn đến tận điểm cuối của cuộc đời từ hàng chục năm trước khi cuộc đời đó kết thúc, đã giúp Steve Jobs vượt qua những lẽ thường của nó. “Vì hầu như mọi thứ – tất cả những kỳ vọng bề ngoài, tất cả sự tự hào, tất cả nỗi lo sợ bị thất bại hay ngượng ngùng – những thứ đó sẽ biết mất trước mặt cái chết, để lại duy nhất thứ thực sự quan trọng”, Steve Jobs nói trước các tân khoa trường Stanford.

Khi Steve Jobs tham dự buổi lễ tốt nghiệp của trường Đại học Stanford vào ngày 12.6.2005, có một chiếc máy bay đã lượn qua đó kéo theo một băng rôn có dòng chữ “Steve — Don’t be a mini- player — recycle all e-waste” (Steve — Đừng là một chiếc máy chơi nhạc nhỏ bé — hãy tái chế tất cả rác thải điện tử). Đó là ứng xử của Steve Jobs sau vụ việc xảy ra trước đó hai tháng, khi ông mắng mỏ những người ủng hộ việc bảo vệ môi trường ngay tại một cuộc gặp gỡ thường niên của Apple ở Cupertino, vì họ chỉ trích quy trình tái chế rác điện tử yếu kém của Apple. Rồi Apple mở rộng chương trình tái chế,  loại bỏ các thành phần không thân thiện môi trường trong mọi sản phẩm.

Steve Jobs và Apple đã dẹp bỏ được những ứng xử theo kiểu chối cãi thông thường trước những chỉ trích của những nhà bảo về môi trường. Vì trước cái chết tất cả sẽ biến mất chỉ còn lại những thứ thực sự quan trọng?

Một năm trước khi đứng phát biểu trước hàng ngàn sinh viên trường Stanford, tức là vào giữa năm 2004, Steve Jobs đã được chẩn đoán mắc ung thư tuyến tụy. Thời điểm mà Steve Jobs gọi là lúc “nhận thức rõ bản thân cận kề với cái chết” lại trở thành một điểm mốc của cuộc đời Steve Jobs, mang đến một kết nối mới, suy nghĩ tích cực mới về cái chết. “Cái chết dẹp sạch cái cũ để dọn đường cho cái mới”, Jobs nói với các tân khoa.

Ông và Apple sau đó đã tiếp tục làm thay đổi thế giới bằng những cái mới không ngừng được sáng tạo. Năm 2007, Apple gia nhập thị trường điện thoại di động với sản phẩm iPhone có màn hình cảm ứng và chạy trên hệ điều hành. Tháng 1.2010, Apple tung ra chiếc máy tính bảng iPad tạo ra một làn sóng máy tính bảng trên toàn thế giới.

Câu chuyện thứ ba của Steve Jobs kết thúc với những lời khuyến khích:“Thời gian của các bạn có hạn, vì vậy đừng lãng phí nó để sống cuộc đời của ai khác. Đừng để những ồn ào từ ý kiến của những người khác dìm mất tiếng nói trong chính bạn. Và điều quan trọng nhất, hãy can đảm đi theo trái tim và trực giác của bạn. Chúng biết rõ bạn thực sự muốn trở thành như thế nào. Mọi thứ khác là thứ yếu”.

Đó là những điều Steve Jobs không chỉ nói mà đã làm đúng như vậy. Ông đã sống cuộc đời của ông, cuộc đời của một đứa con nuôi xót tiền của cha mẹ nuôi nên bỏ ngang đại học, cuộc đời có những ngày như thể hôm nay là ngày cuối đời nên phải làm mọi điều mình muốn, cuộc đời tận hưởng mọi điểm mốc, mọi tình yêu, và mọi tổn thất.

Trong chuỗi ngày như thể là ngày cuối cùng của đời mình, Steve Jobs có lẽ đã mãn nguyện khi thấy một sản phẩm mới – chiếc iPhone 4S mà ông đã cùng với đế chế Apple của mình tạo ra được trình làng vào hôm 4.10, trước khi ông nhắm mắt xuôi tay ở tuổi 56 vào chiều ngày 5.10, ngày cuối cùng của đời ông.

Nguyễn Hồng Ngân

Một bà sơ khỏi bịnh nhờ lời chúc phúc của Đức Giáo Hoàng John Paul II

Một bà sơ khỏi bịnh nhờ lời chúc phúc của Đức Giáo Hoàng John Paul II

 Một nữ tu tại Pháp nói rằng sự chúc phúc của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phao Lô Đệ Nhị đã khiến bà khỏi được chứng bịnh Parkinson. Đây là trường hợp có thể đưa Đức Giáo Hoàng tiến tới giai đoạn được phong thánh. 

Nữ tu Marie-Simone-Pierre nói bà được khỏi bịnh Parkinson vào đêm mùng 02 tháng sáu năm 2005 đúng hai tháng sau khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phao Lô Đệ Nhị tạ thế. Bà đã có thể viết rõ ràng một cách bất ngờ sau khi đã phải vật lộn trong nhiều tháng để cầm bút vì chứng bịnh của bà. Bà cho biết khi thức dậy sáng hôm sau, những triệu chứng bịnh của bà đã biến mất.

Lời xác nhận về việc khỏi bịnh nhờ phép lạ của vị nữ tu này liên quan tới Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phao Lô Đệ Nhị có thể dẫn tới việc phong thánh, giai đoạn chót trước khi được phong thánh.

Nữ tu  Marie-Simone-Pierre đã tới Rome để tham gia các lễ hội vào ngày thứ hai đánh dấu năm thứ nhì ngày tạ thế  của  Đức Cố Giáo Hoàng  Gioan Phao Lô Đệ Nhị.

Hai năm sau ngày Đức Giáo Hoàng Gioan Phao Lô II qua đời, Ba Lan tổ chức tường niệm Đức Thánh Cha bằng các thánh lễ cầu nguyện và hòa nhạc. Đông đảo giáo dân Ba Lan đổ xô về Wadowice (miền Nam) thành phố sinh trưởng của Đức Giáo Hoàng tên thật là – Karol Wojtyla –chào đời năm 1920.

Trước đó đúng giờ qua đời của cố Giáo Hoàng lúc 19 giờ 37 GMT  tại Cracovie và Varsaw cũng đã diễn ra các lễ tương tự.

Ngày 01 tháng 05 năm 2011 Đức Thánh Cha biển Đức XVI chủ sự lễ phong chân phước cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phao lô 2 trước đền thờ thánh Phêrô.  Số tín hữu từ khắp nơi trên thế giới về dự lễ phong chân phước này khoảng một triệu người.

Toà thánh tiến hành điều tra các phép lạ mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phao Lô II đã thực hiện. Ngài đã chữa lành một nữ tu Pháp Sơ Marie Simone Pierre bị bịnh Parkinson là một yếu tố chính trong tiến trình phong chân phước cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phao lô II. Nữ tu Pháp 46 tuồi phổ biến công khai vài ngày trước rằng bà được chữa lành bịnh Parkinson là nhờ cầu nguyện cố Giáo Hoàng. Chính Ngài lúc sinh tiền mang chứng bịnh này trong nhiều năm.   xem thêm

Bước vào con đường gian khổ

                                        Bước vào con đường gian khổ

                                                                                                           Lữ Giang

 Một biến cố trong tháng 4 năm 1975 đã đưa Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận vào những ngày bi thảm nhất của cuộc đời ngài, nhưng cũng từ đó ngài đã bước lên những địa vị quan trọng sau này trong Giáo Hội. Đây là một biến cố mà chính tôi là người đã chứng kiến và theo dõi rất sát.

 ĐƯỢC ĐƯA LÊN LÀM TGM SÀI GÒN

 Vào tháng 4 năm 1975, khi đoán biết miền Nam sẽ rơi vào tay Cộng Sản, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đã 5 lần đề nghị Đức Khâm Sứ Tòa Thánh tại Việt Nam, Henri Lemaitre, xin Tòa Thánh cử Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận làm Tổng Giám Mục Saigon với hy vọng sự khôn ngoan của ngài có thể đưa Giáo Hội Việt Nam vượt qua những cơn khó khăn sắp đến. Cuối cùng, chiếu theo đề nghị của Đức Khâm Sứ, ngày 23.4.1975 Tòa Thánh đã phong Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận làm Tổng Giám Mục hiệu tòa thành Vadesitana, và ngày 24.4.1975 cử ngài giữ chức Phó TGM Giáo Phận Saigon với quyền kế vị. Đức TGM Nguyễn Văn Bình nghĩ rằng nếu tình hình quá khó khăn, ngài sẽ từ chức và trao quyền lại cho Đức TGM Nguyễn Văn Thuận. Đây là một biến cố đã đưa ngài vào một khúc quanh mới của lịch sử dân tộc và lịch sử giáo hội,

Đước tin nói trên, ngày 8.5.1975, một nhóm Linh mục đã gởi đến Đức TGM Nguyễn Văn Bình một kiến nghị yêu cầu hoãn bổ nhiệm ĐGM Nguyễn Văn Thuận làm TGM Phó. Kiến nghị này do các Linh mục sau đây ký tên: Trương Bá Cần, Trần Viết Thọ, Vương Đình Bích, Phan Khắc Từ, Thanh Lãng, Nguyễn Quang Lãm, Hoàng Kim, Huỳnh Công Minh, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Đinh Bình Định, Nguyễn Thiện Toàn, Nguyễn Văn Hòa, Nguyễn Văn Huệ và Nguyễn Nghị.

Mặc dầu có sự phản đối nói trên, ngày 12.5.1975 Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn thông báo cho các giáo xứ trong giáo phận biết Đức Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Giám Mục Giáo Phận Nha Trang, đã được Tòa Thánh bổ nhiệm làm TGM Phó với quyền kế vị của TGP Sài Gòn vào ngày 24.4.1975. Và ngày 12.5.1975 Đức TGM Nguyễn Văn Thuận đã đến nhận nhiệm vụ mới.

 CHIẾN DỊCH CHỐNG ĐỐI BÙNG LÊN

 Ngay lập tức, các Linh mục Trương Bá Cần, Trần Viết Thọ, Vương Đình Bích, Phan Khắc Từ, Thanh Lãng, Nguyễn Quang Lãm và Hoàng Kim đã đến Chủng Viện Thánh Giuse ở đường Cường Để, Sài Gòn, chất vấn Đức TGM Nguyễn Văn Bình và yêu cầu Đức Phó TGM Nguyễn Văn Thuận từ chức.

Ngày 13.5.1975, một nhóm sinh viên công giáo đã xâm nhập Tòa Giám Mục Saigon, căng lên những biểu ngữ sau đây:

– Nguyễn Văn Thuận, Giám Mục của ai?

– Vì quyền lợi của Giáo Hội Việt Nam, yêu cầu Nguyễn Văn Thuận từ chức.

– Không có hòa giải, Nguyễn Văn Thuận phải rút lui.

Ngoài ra, nhóm này cũng gởi đến Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre một văn thư nói rằng “Mỹ – Thiệu và tay sai đã dẫm lên nhau chạy trốn, sự bổ nhiệm một Giám Mục chống Cộng tại Saigon là một điều nguy hiểm không những cho Giáo Hội mà cho cả dân tộc Việt Nam”. Họ yêu cầu Đức TGM Nguyễn Văn Thuận từ chức để “tránh cho Giáo Hội và dân tộc Việt Nam những phiêu lưu vô vọng và nguy hiểm”.

Ngày 14.5.1975, một đoàn biểu tình do Đoàn Phú Khánh cầm đầu, đã xâm nhập Tòa Khâm Sứ của Tòa Thánh ở đường Hai Bà Trưng, trèo lên nóc nhà hạ cờ Tòa Thánh xuống và căng biểu ngữ đòi Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre phải cút đi. Họ đẩy một linh mục người Ba Lan và linh mục Trần Ngọc Thụ ra khỏi Tòa Khâm Sứ. Trong khi đó, Linh mục Huỳnh Công Minh đứng chụp hình và Linh mục Thanh Lãng phát bản tuyên cáo. Ngày 3.6.1975, họ đến phá Tòa Khâm Sứ một lần nữa. Được tin này, các thanh niên công giáo thuộc giáo xứ Bùi Phát ở đường Trương Minh Giảng đã kéo lên. Nhưng khi các toán thanh niên này mới đến đầu cầu Trương Minh Giảng thì bộ đội đã xả súng bắn vào họ, một người bị chết và nhiều người bị thương. Linh mục Vũ Bình Định, Phó xứ Bùi Phát đã bị bắt ngay sau đó.

Trước sự chống đối này, ngày 7.6.1975 Đức TGM Nguyễn Văn Bình đã gởi cho các linh mục và giáo dân một văn thư, trong đó có những đoạn như sau:

“Tôi đã hết sức ôn hòa, lắng nghe và thông cảm đồng thời giải thích trực tiếp hoặc gián tiếp cho những ai muốn đối thoại với tôi về những sự việc trên. Nhưng tình trạng ấy chưa khả quan hơn.”

Sau đó, ngài kêu gọi:

“Tôi kêu gọi tất cả quý cha, các tu sĩ nam nữ và toàn thể giáo dân sẵn sàng tuân phục hoàn toàn quyết định của Tòa Thánh La Mã”.

Ngày 18.6.1975, Đức TGM Nguyễn Văn Bình đã gởi cho Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, một văn thư yêu cầu ba điểm sau đây:

1) Triệt để thi hành Sắc Lệnh Tự Do Tín Ngưỡng và chính sách 10 điểm của chính phủ để gây tin tưởng và phấn khởi nơi toàn dân đối với chính phủ.

2) Chấm dứt chiến dịch tuyên truyền bôi nhọ, vu cáo các chức sắc của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

3) Chấm dứt ngay chiến dịch vận động phi pháp trục xuất Đức TGM Nguyễn Văn Thuận, vì việc trục xuất phi pháp này vi phạm trầm trọng Sắc Lệnh Tự Do Tín Ngưỡng và chính sách 10 điểm của chính phủ, sẽ gây nguy hại cực kỳ lớn lao không lường được, về đối nội cũng như đối ngoại, cho Quốc Gia Dân Tộc.

Ngày 27.6.1975, tại Dinh Độc Lập (cũ), Ủy Ban Quân Quản thành phố Saigon – Gia Định công bố quyết định không cho Đức TGM Nguyễn Văn Thuận được hoạt động tại nhiệm sở mới. Ngày 1.7.1975 Ủy Ban Quân Quản gởi cho ngài một văn thư yêu cầu ngài phải trở lại nơi cư trú trước ngày 30.6.1975.

MỘT CUỘC HÀNH TRÌNH GIAN KHỔ

 Chiều 15.8.1975, Ủy Ban Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Thành Phố Sài Gòn đã mở cuộc họp tại Nhà Hát Thành Phố (trụ sở Hạ Nghị Viện cũ) để trình bày trường hợp của Đức TGM Nguyễn Văn Thuận. Có khoảng 350 giáo sĩ, tu sĩ và đại diện các giáo xứ được mời đến nghe trình bày. Ông Mai Chí Thọ tuyên bố rằng chính phủ quyết định đưa TGM Nguyễn Văn Thuận trở về Nha Trang, nơi đương sự cư ngụ trước ngày 30.6.1975, vì sự hiện diện của đương sự gây trở ngại cho sự đoàn kết dân tộc.

Cũng trong ngày 15.8.1975, ngài được mời lên Dinh Độc Lập, ở đó ngài bị bắt đưa về Nha Trang, nhưng không phải đưa về Tòa Giám Mục Nha Trang, nơi ngài cư trú trước 30.4.1975, mà đưa đến giáo xứ Cây Vông thuộc xã Diên Sơn, Huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Chính Đức TGM Nguyễn Văn Thuận đã kể lại câu chuyện này như sau:

“Ngày 15 tháng 8 năm 1975, lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, tôi được mời đến Phủ Tổng Thống, “Dinh Độc Lập”, vào lúc 14 giờ. Tại đó, tôi bị bắt và đem đi trên một xe hơi có hai công an đi kèm. Và đó là khởi đầu cuộc phiêu lưu của tôi.

“Trong lúc ấy, tất cả các linh mục, tu sĩ nam nữ bị gọi tới Nhà Hát, với mục đích tránh mọi phản ứng của dân chúng đối với vụ bắt tôi.

“Trong cuộc hành trình, tôi bắt đầu ý thức rằng mình đang mất tất cả. Tôi ra đi, với chiếc áo chùng thâm trong túi có một cỗ tràng hạt. Tôi chỉ còn biết phó thác cho Chúa Quan Phòng. Nhưng giữa bao nhiêu lo âu ấy, tôi vẫn thấy có một niềm vui lớn: “Hôm nay là lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời…”

“Từ lúc đó, người ta cấm gọi tôi là “Đức Cha…”. Tôi là ông Nguyễn Văn Thuận. Tôi không được phép mang dấu hiệu gì về chức vị của tôi. Không hề báo trước chút nào. Chúa yêu cầu tôi hãy trở về với điều cốt yếu.

“Trên đường dài 450 cây số, không có một ai. Tôi thực sự bị bỏ rơi.

“Và trong sự xúc động trước hoàn cảnh mới, diện đối diện với Chúa, tôi nghe thấy Chúa Giêsu hỏi Simon: “Simon, con bảo Thầy là ai?” (cf MT 16,15)”

Giáo xứ Cây Vong lúc đó có khoảng 1200 giáo dân do Linh mục Gioan Phùng Văn Như, 72 tuổi, làm chánh xứ. Trong thời gian bị quản chế tại đây, ngài được Linh mục chính xứ và giáo dân mộ mến và giúp đỡ tận tình. Tuy nhiên, vào 8 giờ sáng ngày 18.3.1976, công an đã đưa xe bịt bùng đến, đọc lệnh bắt giam ngài, lý do bị bắt là vì ngài có những hành vi phản động dinh líu đến vụ nhà thờ Vinh Sơn, mặc dầu lúc đó ngài đang bị quản thúc ở Cây Vong, cách xa nhà thờ Vinh Sơn hơn 400 cây số. Khi ngài bị đẩy lên xe, mọi người đều chảy nước mắt và ai cũng âm thần đọc kinh cầu nguyện cho ngài. Ngài bị đưa vào giam ở trại Phú Khánh. Ngài đã mô tả lại thời gian bị giam tại trại này như sau:

“Nhà tù nơi tôi bị giam trong những tháng đầu tiên tọa lạc tại khu vực có nhiều tín hữu nhất trong thành phố Nha Trang, nơi tôi đã làm giám mục trong 8 năm.

“Từ phòng giam, sáng tối tôi đều nghe thấy tiếng chuông nhà thờ ngân vang, và suốt ngày, tôi nghe những tiếng chuông của bao nhiêu giáo xứ và nhà dòng. Tôi ước mong được dời đi thật xa, lên miền núi để khỏi phải nghe những tiếng chuông ấy.

“Ban đêm, trong cái thinh lặng của thành phố, tôi nghe lại tiếng sóng Thái Bình Dương mà tôi đã từng nghe thấy từ văn phòng tòa giám mục của tôi. Không ai biết tôi ở đâu, mặc dù nhà tù chỉ cách nhà tôi vài cây số. Tôi sống tình trạng thật vô lý!”

 Lữ Giang

Thắp Lên Ngọn Ðèn Cũ

    Thắp Lên Ngọn Ðèn Cũ

        Trong một cuộc phỏng vấn, Mẹ Têrêxa thành Calcutta đã thuật lại một sự kiện như sau: Ở Úc Châu có một người thổ dân Aborigines kia sống trong một hoàn cảnh thật thảm thương. Ông cũng đã khá cao niên rồi, sống trong một túp lều xiêu vẹo. Khởi đầu câu chuyện tôi nói với ông:

    – Ðể tôi dọn dẹp nhà và sửa soạn giường ngủ cho ông. Ông ta trả lời một cách hững hờ:

     – Tôi đã quen sống như vậy rồi.

     – Nhưng ông cũng cảm thấy dễ chịu hơn với căn nhà sạch sẽ và ngăn nắp. Sau cùng ông ta bằng lòng để tôi dọn dẹp nhà cửa lại cho ông. Trong khi quét dọn tôi thấy một cái đèn cũ đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm và bồ hóng. Tôi hỏi ông:

     – Có bao giờ ông thắp đèn này chưa? Ông ta trả lời một cách cộc lốc:

  – Nhưng thắp đèn cho ai? Có ai bước chân vào nhà này bao giờ đâu. Tôi sống ở đây đã từ lâu không hề trông thấy một người nào cả. Tôi hỏi ông:

     – Nếu như các nữ tu đến thăm ông thường xuyên, ông có vui lòng thắp đèn lên không?

    – Dĩ nhiên rồi.

     Từ ngày đó các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé qua nhà ông. Từ đó ông ta bắt đầu thắp đèn và dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa. Trước khi chết ông nhờ các nữ tu ghé thăm nhắn tin cho tôi:

     – Xin nhắn với Mẹ Têrêxa, bạn tôi rằng, ngọn đèn mà Mẹ đã thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng. Ðó chỉ là một việc nhỏ mọn, nhưng trong bóng tối cô đơn của đời tôi, một tia sáng đã thắp lên và vẫn còn tiếp tục chiếu sáng mãi.

    Chúng ta đều cảm nghiệm được niềm vui sướng vì được yêu thương, được chính Chúa thương yêu. Và chúng ta cũng hiểu được giới răn của Chúa: “Hãy thương yêu nhau, như Thầy yêu thương các con”.

nguồn: Từ Maria Mai gởi

Kẻ Không Biết Sám Hối

     Kẻ Không Biết Sám Hối

     Ngày 03/4/1990, người tử tù Robert Alton Harris 37 tuổi đã bị đưa vào phòng hơi ngạt tại nhà tù San Quentin thuộc tiểu bang California bên Hoa Kỳ. Ðây là lần đầu tiên kể từ 23 năm nay, tiểu bang California tái lập bản án tử hình. Hiện nay, kể từ năm 1976, sau khi tối cao pháp viện Hoa Kỳ phán quyết án tử hình là hợp hiến, tiểu bang California là một trong năm tiểu bang tại Hoa Kỳ vẫn còn giữ bản án tử hình. Người ta tính có khoảng 2,200 người trên khắp nước Mỹ đang chờ sẽ được đưa lên ghế điện hoặc vào phòng hơi ngạt.

     Robert Harris là một kẻ giết người không biết gớm tay. Ngày 05/7/1978, sau khi đã mãn hạn tù hai năm vì đã đánh đập một người đến chết, Harris đã cùng với người em của mình định đến cướp một nhà băng tại San Diego. Ðể có phương tiện di chuyển, Harris đã chiếm chiếc xe của hai người thanh niên đang đậu trước một quán ăn. Anh ra lệnh cho hai người thanh niên lái xe đến một nơi vắng vẻ vàtại đây, anh đã rút súng sát hại họ một cách dã man. Sau khi đã hạ sát hai người thanh niên, Harris vẫn còn đủ ung dung và bình tĩnh để ăn cho hết cái bánh mà hai người thanh niên đang ăn dở… Bị bắt giữ sau đó, Harris đã không để lộ bất cứ một dấu hiệu nào của ăn năn sám hối…

     Theo thủ tục hiện hành của Hoa Kỳ, từ lúc tuyên án cho đến lúc thi hành bản án, người tử tội thường được bảy năm để kháng cáo hoặc xin ân xá. Robert Alton Harris vẫn chưa để lộ bất cứ một dấu hiệu nào của sợ sệt hoặc hối cải… Anh đã được dẫn vào phòng đầy hơi ngạt Cyanide. Chỉ trong vài phút đồng hồ, anh đã chết bằng đúng cái chết mà dường như anh đã tự chọn và chuẩn bị cho mình.

     Công lý và luật pháp của con người được xây dựng trên nguyên tắc: mắt đền mắt răng thế răng, hoặc tôi cho anh để tôi cho lại… Kẻ có tội luôn luôn phải bị trừng trị, nặng hay nhẹ tùy theo tội ác của người đó đã gây ra… Thiên Chúa dường như chỉ có một công lý: đó là công lý của Tình Thương. Thước đo duy nhất của Công Lý nơi Thiên Chúa chính là Tình Thương vô bờ bến. Nói như thánh Phaolô, nơi nào tội lỗi càng nhiều, nơi đó Thiên Chúa càng thi ân. Tội lỗi của con người, dù tày đình đến đâu, cũng không thể ngăn cản được Tình Thương, sự Tha Thứ của Thiên Chúa.

     Ðó phải là niềm xác tín của chúng ta mỗi khi chúng ta nhìn thấy tội lỗi và suy niệm về Tình Yêu của Thiên Chúa. Nếu có ai chết đời đời trong hỏa ngục, điều đó không phải do sự Công Thẳng của Thiên Chúa, cho bằng chính sự Khước Từ của con người. Khi con người không còn tin ở Tình Yêu của Thiên Chúa, khi con người tự chọn cho mình cái chết, đó chính là lúc con người tự chuẩn bị cho mình sự trầm luân. Hỏa ngục đồng nghĩa với quay mặt, với khước từ, với thất vọng… Chúng ta nhìn đến thân phận tội lỗi của mình không phải để thất vọng về sự yếu hèn của chúng ta, mà chính là để ngước nhìn lên ánh mắt từ nhân vô biên của Thiên Chúa.

nguồn: từ Maria Mai gởi

Trung Quốc: Hơn 22.000 người được rửa tội vào ngày Lễ Phục sinh

 

Trung Quốc: Hơn 22.000 người được rửa tội vào ngày Lễ Phục sinh

Minh Đức

 WHĐ (26.04.2012) / VIS – Theo hãng tin Công giáo Fides, vào Lễ Phục Sinh năm nay tại Trung Quốc có 22.104 người được rửa tội. Các số liệu do Trung tâm nghiên cứu Đức Tin tại tỉnh Hà Bắc thu thập. Trong số những người mới được rửa tội có 75 phần trăm là người lớn, thuộc 101 giáo phận. Ngay tại Hà Bắc có 4.410 người được rửa tội vào ngày Lễ Phục Sinh, ít hơn năm ngoái 615 người, trong khi ở Hồng Kông -nơi có hơn 360.000 tín hữu- 3.500 người đã được rửa tội trong dịp này.

Để lượng giá những số liệu này, cần lưu ý rằng một số giáo phận không chỉ cử hành bí tích Rửa tội vào lễ Phục sinh. Chẳng hạn, tại Thượng Hải có 379 người được rửa tội vào lễ Phục sinh, nhưng tổng cộng số người được rửa tội có thể vượt quá 1.500 người vào cuối năm nay. Theo nữ tu Lý Quách Sảng thuộc Trung tâm nghiên cứu, “vẫn còn một số giáo phận hoặc cộng đoàn đã không cung cấp dữ liệu cho chúng tôi vì những khó khăn về mặt truyền thông. Vì vậy, chúng tôi phải nhấn mạnh rằng các số liệu trên đây chưa đầy đủ, con số này vẫn có thể còn nhiều hơn thế”.

(VIS, 24-04-2012)

Nguồn: WHD

Không quá muộn để nên Thánh

 Không quá muộn để nên Thánh

                                                                                           Tác giả Veritas

  Người Nhật Bản có câu chuyện như sau: Zenkai là một thanh niên con của một hiệp sĩ Samourai. Anh được tuyển vào phục dịch cho một viên chức cao cấp trong triều đình. Không mấy chốc, Zenkai đem lòng say mê người vợ của chủ mình. Anh lập mưu giết người chủ và đem người đàn bà trốn sang một vùng đất lạ.

Anh tưởng có thể ăn đời ở kiếp với người đàn bà. Nhưng không mấy chốc, người đàn bà đã để lộ nguyên hình của một con người ích kỷ, đê tiện. Zenkai đành bỏ người đàn bà và ra đi đến một vùng đất khác, ở đó anh sống qua ngày bằng nghề hành khất.
Trong cảnh bần cùng khốn khổ, Zenkai đã bắt đầu hồi tâm để nhớ lại những hành động tội lỗi của mình. Anh quyết định làm một việc thiện để đền bù cho quá khứ nhơ nhớp của mình.    Anh đi về một vùng núi hiểm trở, nơi mà nhiều người đã bỏ mình vì khí hậu khắc nghiệt cũng như vì công việc nặng nhọc. Zenkai đem hết sức lực của mình để khai phá một con đường xuyên qua vùng núi ấy.
Ban ngày đi khất thực, ban đêm đào đường xuyên qua núi. Zenkai cặm cụi làm công việc ấy ròng rã trong 30 năm trời.
Hai năm trước khi Zenkai hoàn thành công trình của mình, thì người con của viên chức triều đình mà anh đã sát hại trước kia bỗng tìm ra tung tích của anh. Người thanh niên thề sẽ giết Zenkai để trả thù cho cha mình. Biết trước mình không thoát khỏi án phạt vì tội ác mình đã gây ra mấy chục năm trước, Zenkai phủ phục dưới chân người thanh niên và van xin:
“Tôi xin sẵn sàng chịu chết. Nhưng cậu hãy cho phép tôi được hoàn thành công việc tôi đang làm dở. Khi mọi sự đã hoàn tất, cậu hãy giết tôi”.
Người thanh niên ở lại để chờ cho đến ngày trả được mối thù cho cha. Nhưng trong khi chờ đợi, không biết làm gì, người thanh niên đành phải bắt tay vào việc đào đường với Zenkai mà vẫn nuôi chí báo thù cha.
Nhưng chỉ một năm sau cùng làm việc với kẻ đã giết cha mình, người thanh niên cảm thấy mọi ý muốn báo thù đều tan biến trong anh. Thay vào đó, anh lại thấy dậy lên trong lòng sự cảm phục và thương mến đối với sự nhẫn nhục, chịu đựng của Zenkai.
Con đường đã được hoàn thành trước dự định. Giờ đây dân chúng có thể qua lại vùng núi hiểm trở một cách dễ dàng.
Giữ đúng lời hứa, Zenkai đến phủ phục trước mặt người thanh niên để chấp nhận sự trừng phạt. Nhưng người thanh niên vừa đỡ Zenkai dậy vừa nói trong tiếng khóc:
“Làm sao tôi có thể chém đầu được thầy của tôi?”
Câu chuyện trên đây hẳn hàm chứa được nhiều bài học. Ngạn ngữ Latinh thường nói:
Sai lầm, vấp ngã là chuyện thường tình của con người, nhưng ngoan cố trong sai lầm là bản chất của ma quỉ “.
Nét đẹp quí phái nhất nơi lòng người đó là còn biết hồi tâm, còn biết nhận ra lỗi lầm và từ đó quyết tâm xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn.  Bài học đáng chú ý hơn trong câu chuyện trên đây có lẽ là: tình liên đới xóa tan được hận thù trong lòng người. Người thanh niên đã khám phá ra giá trị ấy khi bắt tay làm việc với Zenkai, con người mà trước đó anh đã quyết tâm tiêu diệt cho bằng được.   Quả thực, tình liên đới, sự đồng lao cộng khổ, sự hiện diện bên nhau có sức tiêu diệt được hận thù trong lòng người.