Nhà hoạt động Phạm Thanh Nghiên được chọn trao giải nhân quyền

Nhà hoạt động Phạm Thanh Nghiên được chọn trao giải nhân quyền

 
2017-03-31
 
 

Cựu tù nhân chính trị Phạm Thanh Nghiên.

Cựu tù nhân chính trị Phạm Thanh Nghiên.

Courtesy of danlambao
 
 
Nữ cựu tù chính trị Phạm Thanh Nghiên được chọn vào danh sách 5 nhân vật chung kết cho giải thưởng Người Bảo vệ Nhân quyền Trước Hiểm nguy năm 2017 của Tổ chức Front Line Defenders.

Thông cáo báo chí đưa ra vào ngày 30 tháng 3 của Front Line Defenders nêu rõ: tại Dublin, Ireland cùng trong ngày các thành viên ban tuyển lựa đã chọn 5 nhà bảo vệ nhân quyền của những quốc gia Ukraine, Nicaragua, Nam Phi, Kuwait và Việt Nam trong số 142 ứng viên được đề cử từ 56 quốc gia.

Giải thưởng thường niên của Front Line Defenders được trao cho nhân vật có những đóng góp đặc biệt vào công cuộc bảo vệ và cổ xúy  quyền con người trong cộng đồng của họ. Cá nhân nhân vật này phải đối diện những hiểm nguy lớn lao.

Những người được chọn vào danh sách chung kết trao giải năm 2017 và gia đình của họ từng phải đối diện với những vụ tấn công, các chiến dịch bôi nhọ, sách nhiễu về mặt pháp lý, dọa giết, án tù, và đe nẹt.

Tổ chức Front Line Defenders hoạt động nhằm tăng cường giúp bảo vệ và nêu bật cho mọi người trên thế giới biết về 5 nhân vật được chọn vào chung kết giải thưởng Người Bảo vệ Nhân quyền Trước Hiểm Nguy trong năm nay. Họ là những nhân tố thiết yếu cho phong trào nhân quyền tại đất nước và cộng đồng của họ.

Thông cáo của Front Line Defenders nêu rõ về nhân vật Việt Nam được chọn, bà Phạm Thanh Nghiên rằng blogger này từng bị tù 4 năm do hoạt động nhằm công khai những vi phạm và bảo vệ quyền cho thân nhân của những ngư dân bị phía Trung Quốc giết hại.

Sau khi mãn án tù, bà bị quản chế, nhưng trong thời gian đó vẫn tiên phong tiến hành nhiều chiến dịch về nhân quyền, đồng thời cùng sáng lập nên Mạng lưới Blogger Việt Nam.

Nhà bà Nghiên từng bị khám xét, bản thân bà từng bị chặn không cho đi khám bệnh theo hẹn, cửa nhà bị khóa trái từ bên ngoài, và thậm chí kết hôn cũng không được cấp giấy chứng nhận hôn phối.

Cựu tù nhân Phạm Thanh Nghiên đã sống sót qua nhiều đợt đánh đập nhằm ngăn chặn hoạt động ôn hòa nhưng mạnh mẽ của bà với mục tiêu công khai những vi phạm nhân quyền tại Việt Nam.

Nữ nghệ sĩ Kim Chi, từ Sài Gòn, đưa ra một số nhận định về cựu tù nhân Phạm Thanh Nghiên khi nghe tin Front Line Defenders chọn 5 nhân vật vào chung kết cho giải thưởng năm nay:

“Một cô bé bé bỏng, ốm đau nhưng rất can trường, dấn thân; bị công an hành hung, bắt bớ, tù đày và đến bây giờ vẫn tiếp tục còn bị đánh phá, cả hai vợ chồng.

Nhưng theo quan niệm của tôi, tôi thấy Nghiên vẫn liên tục có những bài viết đáng cho mọi người đọc. Và tôi thấy Nghiên tranh đấu không mệt mỏi.”

Mới vào ngày 29 tháng 3 vừa qua, một nhân vật nữ đấu tranh khác tại Việt Nam và cũng là thành viên đồng sáng lập Mạng lưới Việt Nam, blogger Mẹ Nấm- Nguyễn Ngọc Như Quỳnh được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh danh trao giải là một trong 13 phụ nữ quốc tế Dũng cảm năm 2017.

Nhân dịp đó, cựu tù nhân chính trị Phạm Thanh Nghiên có phát biểu về người bạn đồng chí hướng và một số công việc mà Mạng lưới Blogger Việt Nam đóng góp được cho công cuộc chung:

“Tôi muốn nói đến đóng góp của cá nhân Quỳnh cũng như của Mạng Lưới Blogger Việt Nam: chúng tôi chủ xướng hoặc cùng tham gia phong trào hoạt động đường phố như ‘Lời Tuyên bố của Công dân Tự do’, chiến dịch ‘Chúng ta muốn biết’, hay phong trào ‘Không Bán nước’ … Đó là những chiến dịch lớn, nhỏ mà Mạng lưới Blogger Việt Nam đưa ra sáng kiến chủ xướng hay cùng làm với các nhóm xã hội dân sự khác.”

Lễ công bố nhân vật được trao giải Người Bảo vệ Nhân quyền Trước Hiểm nguy năm 2017 sẽ diễn ra vào ngày 26 tháng 5 tới đây tại Dublin.

Front Line Defenders là tổ chức chuyên bảo vệ những người hoạt động vì quyền con người phải đối diện với nguy hiểm. Đó là những người hoạt động một cách ôn hòa, phi bạo lực vì những quyền được ghi trong Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc.

Front Line Defenders được thành lập năm 2001 tại Dublin, Ireland.

“Đẹp lắm! Trên đời những vấn vương,”

Suy Tư Tin Mừng Trong tuần thứ 5 mùa Chay năm A 02/4/2017

 Tin Mừng: (Ga 11: 3-7,17.20-27.33b-45)

Hồi đó, hai cô cho người đến nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng.” Nghe vậy, Đức Giêsu bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh.”

Đức Giêsu quý mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô.

Tuy nhiên, sau khi được tin anh La-da-rô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở. Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: “Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê! “

Khi đến nơi, Đức Giêsu thấy anh Ladarô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi.

Vừa được tin Đức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón Người. Còn cô Maria thì ngồi ở nhà. Cô Mácta nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.” Đức Giêsu nói: “Em chị sẽ sống lại!” Cô Mácta thưa: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.” Đức Giêsu liền phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” Cô Mácta đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.”

Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. Người hỏi:”Các người để xác anh ấy ở đâu?” Họ trả lời: “Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem.” Đức Giêsu liền khóc.36 Người Do-thái mới nói: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!” Có vài người trong nhóm họ nói: “Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư?” Đức Giêsu lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. Đức Giêsu nói: “Đem phiến đá này đi.” Cô Mácta là chị người chết liền nói: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày.” Đức Giêsu bảo: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giê-su ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con.” Nói xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh Ladarô, hãy ra khỏi mồ!” Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn. Đức Giêsu bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi.”

Trong số những người Do-thái đến thăm cô Maria và được chứng kiến việc Đức Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người.

&    &   &

Đẹp lắm! Trên đời những vấn vương,

Chao ôi! Thiên lí một con đường.”

(dẫn từ thơ Lưu Trọng Lư)

Mai Tá lược dịch.

Bởi vấn vương, nên đời người vẫn là con đường của thiên lý. Của, những vấn vương, thương tình bầu bạn rải khắp nhân gian, như trình thuật nay còn nói.

Trình thuật, nay thánh Gioan lại nói đến tình bạn, Chúa vấn vương nhiều tình thương. Lòng Chúa xót thương, vấn vương tình người bạn vừa mới còn đó nay khuất bóng đi vào chốn ngủ vùi, khiến Ngài phải ra tay chữa chạy. Nhưng thiên lý đời người vẫn phải đương đầu với nỗi chết, theo cung cách khác biệt. Khác biệt ở chỗ: người có kinh nghiệm về chết chóc lại đã đặt cuộc đời mình vào niềm tin vô bờ bến. Nhờ có tin, con người mới thấy được chân lý của sự sống đang đi dần vào chốn ngủ vùi rất miên viễn. Nhờ niềm tin, người người mới hiểu được nhiệm tích vượt qua là để sống lại. Sống, bằng một hành trình băng qua thế giới khác. Hành trình đó, là cởi bỏ những lớp vỏ bọc bên ngoài để rồi người người dám đón nhận nỗi chết đang trờ tới.

Không kể về yếu tố siêu nhiên, đạo giáo, người người sẽ nhận ra nỗi chết chính là con đường thiên lý rất tự nhiên buộc Lazarô khi xưa và nay là mọi người phải đi qua. Tựa như hạt cải có rơi xuống đất và chết mục, nó mới đạt được hành trình tiến triển để vươn thành cây cải cao lớn. Cứ sự thường, con người vẫn có khuynh hướng chối bỏ khiá cạnh bình thường/tự nhiên con đường thiên lý vốn dẫn tới nỗi chết dần mòn, ở con người.

Thiên Chúa ban cho mỗi người quà tặng quý giá là chính sự sống, để ta tôn trọng. Khi tặng ban, Ngài cũng kèm theo đó một hệ thống biến cải để hoàn thiện sự sống của mỗi người bằng việc chết dần mòn như một tiến trình tăng trưởng cần có, ở mọi loài. Quà Chúa ban, Ngài không chỉ ban tặng cho cá nhân riêng một ai để rồi mỗi người cứ khư khư giữ nó suốt đời mình. Quà Ngài ban, là ban tặng cả và trời đất vũ trụ, theo qui cách rất tự nhiên, thực tiễn. Quà Ngài ban, đã hiện tỏ cả vào lúc trước khi ta lọt lòng mẹ. Và, nơi quà tặng bình thường/tự nhiên ấy, luôn có qui luật của sự chết dần mòn ngõ hầu sẽ còn diễn tiến suốt đường thiên lý, của cuộc đời.

Là hữu thể sống, con người không mặc lấy cho mình qui trình khép kín, tự thấy mình đầy đủ, nhưng vẫn là qui trình mở để sống với hệ thống mở rộng khác còn lớn nhiều, là thiên nhiên. Chính vì thế mỗi cá nhân riêng lẻ tự thấy không thể tập trung mọi sự, kể cả sự sống, cho riêng mình. Tức, có sống là phải có chết. Ít ra, là chết dần mòn. Bởi, mỗi cá nhân là thành phần của cộng đồng vũ trụ, trong đó sự chết là chuyện bình thường, rất tự nhiên. Cá nhân con người không thể chối từ tính bình thường/tự nhiên của sự chết. Chí ít, là chết dần mòn.

Ở tuần thánh, tín hữu Đức Kitô thường suy tư cùng một kiểu như thế khi nghĩ về cái chết của Đức Giêsu. Đó là thói quen cho rằng: chắc vì sự cố nào đó xảy đến khiến Chúa mới bị bắt và bị bách hại cho đến chết, đến dần mòn. Có người còn nghĩ: Chúa chết là do bọn xấu tra tay làm chuyện tày trời để Ngài phải tức tưởi đi vào chốn ngủ vùi. Và, họ coi cái chết của Chúa là do lỗi tội của con người mà ra. Thực tình, ít ai hiểu được tính bình thường/tự nhiên của con đường “thiên lý” những chết dần Chúa chấp nhận. Ngài chấp nhận, để thực hiện ý Cha khi Cha muốn tạo dựng sự sống cho muôn loài.

Chúa chấp nhận liệt mình vào với những người bé nhỏ, rất dễ chết. Thực sự, Chúa chấp nhận đường thiên-lý-những-chết-dần chẳng vì bọn xấu dám ra tay trừ khử Ngài, cho bằng Ngài không muốn thay mặt loài người sửa đổi luật bình thường/tự nhiên mà Cha Ngài tạo ra. Ngài chết dần, là vì yêu thương con người. Ngài muốn trở thành giống hệt người phàm. Nhất quyết không rút lui khi thấy có khó khăn, bực bõ, chết chóc. Và, bằng vào việc chấp nhận đường-thiên-lý-rất-chết-dần như con người, Ngài mới tỏ cho mọi người thấy Ngài yêu thương họ biết chừng nào.

Ốm đau tật bệnh, cũng như thế. Bệnh là khủng hoảng cá nhân. Tật, là ngõ bí khó tránh thoát. Khi mắc phải tật/bệnh, ta không còn thấy mình là mình nữa, nhưng đã mất đi cái ‘mình’ ấy và cứ hy vọng sẽ đạt trở lại tính chất ‘riêng tây’ của cái “mình” ấy. Có thể đạt được hoặc không thì vẫn là chuyện bình thường, tự nhiên.

Người mắc phải tật/bệnh sẽ cảm thấy may mắn nếu có ai ở cạnh, không nói ra, những vẫn gửi cho mình thông điệp nào đó để nói rằng: sự việc xảy ra như thế là chuyện bình thường, dễ hiểu. Kinh nghiệm thương đau là cái gì có thật, ai cũng biết. Chẳng riêng gì chỉ mình thôi. Đến khi bạn bè hỏi han/thăm viếng mới vỡ lẽ ra rằng thông điệp của đường thiên-lý-rất-chết-dần được đón nhận rất thông suốt. Cũng chẳng có gì phải sợ. Chẳng sợ đau đớn, cô đơn cho đến chết.

Điều người bệnh cần, không phải ai cũng có thể tâm tình, dù riêng tư. Cũng chẳng do người chạy chữa đưa ra lý lẽ để “giải thích” về căn bệnh. Nhưng, chỉ cần người khẳng định: đó là tiến trình rất bình thường/tự nhiên của trời đất. Đã là người, ai ai cũng đều phải ngang qua con đường thiên-lý-chết-dần ấy.

Nhà thương, thường là nơi người người tìm đến giải pháp kỹ thuật y-tế cho mọi trường hợp tật bệnh. Nơi đó còn là cơ ngơi để giúp những người đang còn yếu hiểu được qui luật như thế. Nhuốm bệnh, là tình trạng không thể sống sót mà không có người giúp đỡ. Là, chết dần chết mòn suốt đoạn đường thiên lý, rất trớ trêu. Nhà thương, còn là nơi có người thương yêu chăm nom săn sóc cho người đau yếu thấy dễ chịu. Chăm nom săn sóc từ cái ăn thức uống, rất vệ sinh. Là nơi, để người đau yếu kềm chế cơn đau. Nơi, để người còn khoẻ chăm sóc liên tục, rất đặc biệt. Nơi, bảo đảm kỹ thuật nay an toàn.

Với tật bệnh, tuy vẫn cần giải pháp kỹ thuật để chữa chạy. Nhưng với con đường thiên-lý-rất-chết-dần, thì vô phương. Và, khi ấy quyết định có nên đưa người đau yếu vào nhà (để) thương hoặc viện (để) dưỡng lão hay không, lại là quyết định của người khoẻ, chứ không phải người đau yếu, tật bệnh. Người đau và yếu khi ấy đã mất đi khả năng kiểm-soát các quyết-định như thế. Và, bên dưới sự việc, thì chính thiên nhiên là kẻ trợ đắc tiến trình bình thường/tự nhiên, “thiên lý” ấy.

Người đau yếu đang rơi vào tiến trình rất “thiên-lý-chết-dần” tại nhà, hoặc ở nhà thương, là người đang thực hiện một sự việc bình thường/tự nhiên rất chết dần. Họ muốn được đối xử như sự việc bình thường. Và, họ vẫn muốn làm thành phần trái đất và không muốn để mất tiêu chuẩn hoặc bị đào thải khỏi chốn miền đầy yêu thương ấy. Họ không chối bỏ sự thật. Cũng chẳng muốn bạn bè quên đi sự việc là họ đang trên đường thiên-lý-rất-chết-dần. Và không muốn ai làm ầm ỹ. Nói tóm, họ là người bình thường muốn được bình tĩnh khi cái chết chợt đến, như chuyện bình thường/tự nhiên, trong đời.

Ta đang đi vào tuần thánh là tuần để suy tư về sự chết dần của Đức Chúa-làm-người. Phúc Âm trình bày việc Chúa đi vào cái chết là về lại cùng Cha. Ngài về lại, sau khi hoàn tất sứ vụ của Ngài ở nơi này. Nơi, con đường thiên-lý-có sự chết, trên trái đất. Và, ý tưởng của thánh Gioan hôm nay nói về tính bình thường/tự nhiên của sự chết Chúa chấp nhận. Điều đó áp dụng cho ta, cho người thân của ta nữa.

Tác giả Sarah Coakley có lần từng viết: “Đã có e ngại thời hiện đại lôi cuốn nhiều người hiểu rằng: chết dần mòn, sự tắt lịm của ‘lịch trình tiến hoá’ chính là điều tệ hại nhất xảy đến với mọi người, và mọi sự. Nếu là tôi, tôi sẽ biện luận rằng… cơn hấp hối sâu xa nhất của Đức Chúa là sự mất mát phí phạm thấy rõ trong tạo dựng của Thiên Chúa sẽ được đo lường bằng lời loan báo của Chúa Thánh Linh về một hy vọng sống lại.” (x. Harvard Divinity Bulletin, 2002)

Xem như thế, có chết “bất đắc kỳ tử” hoặc chết dần mòn, thì sự chết vẫn là để loan báo sự sống lại rất tự nhiên như qui luật bình thường của sự sống.

Với tư thế hướng về sự sống lại ngay khi chết, ta cũng nên về với lời thơ trên mà ngẫm nghĩ:

“Đẹp lắm! Trên đời những vấn vương,

Chao ơi! Thiên lí một con đường

Đi trong trời đất từ duyên ấy

Sớm tối không rời một chữ thương.”

(Lưu Trọng Lư – Đi Giữa Vườn Nhân)

Cũng một chữ “thương” ấy, giải quyết hết mọi chuyện rất bình thường. Chuyện sống, chuyện chết và sống lại của Đức Chúa và con người trong trời đất thân thương. Bình thường. Tự nhiên.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –

Mai Tá lược dịch.

Giòng đời trôi, bao tháng năm qua rồi,

httpv://www.youtube.com/watch?v=Qmcki0l6zSQ

Mong Chờ Giêsu

Chuyện Phiệ’m Đọc Trong Tuần thứ 5 mùa chay năm A 02/4/2017

“Giòng đời trôi, bao tháng năm qua rồi,”

Chuyện buồn chuyện vui, cho tôi mãi mong chờ.

Lòng chờ mong không biết đến bao giờ được gặp Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Lòng chờ mong không biết đến bao giờ

được gặp Giêsu.”

(Nhạc: Maranatha – Lời: Lm Vũ Khởi Phụng DCCT – Mong Chờ Giêsu)

 (Amos 4: 12 / Mt 8: 34)

 Trần Ngọc Mười Hai

Trên đây, là lời ca vãn có những yêu cầu kéo dài mãi đến vô cùng vô tận. Yêu cầu, là nỗi niềm mong mỏi “được gặp Giêsu”, đồng thời được gần cận mãi với tạo cho bạn bè/người thân, trong cuộc đời. Đó là trải-nghiệm có được khi nghe người anh em đồng môn đọc lời bạt do chính anh viết ở dĩa nhựa Chuyện Phiếm Đạo Đời số 8, trên “Sound Cloud”..

Và dưới đây, lại thêm một cảm-nhận chân-tình của người anh em khác cùng Dòng gửi đến bạn bè đồng song sau chuyến ra đi của thân mẫu, vừa xảy đến:

Quí anh chị rất mến thương,

Không có ngôn-từ nào có thể diễn tả đươc tấm lòng của gia đình trước nghĩa-cử thật yêu thương mà quí anh chị đã dành cho gia đình trong dịp tang lễ của mẹ vừa qua. Xin anh chị em nhận nơi đây lòng biết ơn thật sâu xa của bần đệ và gia quyến.

Lời cầu nguyện của anh chị em trong các Thánh lễ, nhất là những tâm tình chia sẻ trong giờ cầu nguyện tại nhà quàn đã nhắc cho bần đệ, các em và các cháu trong tang quyến được phép ngẩng đầu lên mà hãnh diện về mẹ. Và đây cũng là nguồn động-lực giúp gia đình từ từ vượt qua nỗi đau thương để đón nhận.

Xin anh chị em đã thương thì thương cho trót bằng cách là tiếp tục cầu nguyện với, cùng và cho linh hồn Anna.

Thân ái trong Chúa Cứu Thế.

(trích điện thư của Lm Mai Văn Thịnh, CSsR gửi anh em trong gia đình An-Phong qua anh Mai Tá lá thư đề ngày 04/3/2017)

“Vượt qua nỗi đau thương để đón-nhận..”, chính đó là ý-nghĩa và mục tiêu mà mọi người trong Đạo đều nhắm đến. Lời ca cảm-nhận hay câu vãn có yêu cầu, vẫn là những lời tụng ca đầy ý-nghĩa như còn thấy ở nhiều chỗ khác, có bài hát rất như sau:

“Giòng đời trôi theo nắng sớm mưa chiều.

Tìm gần tìm xa, nghe như vẫn tiêu điều.

Rồi ngày nao tôi sẽ yêu thương nhiều vì gặp Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Rồi ngày nao tôi sẽ yêu thương nhiều vì gặp Giêsu.

Cuộc trần ai đưa nát tan cho đời.

Người người biệt ly, bao sông núi chia lìa.

Rồi ngày nao từ bốn phương quay về gặp được Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Rồi ngày nao từ bốn phương quay về gặp được Giêsu.

Người ở đâu mang mác bốn phương trời.

ngàn trời mây, muôn hoa lá mong người.

Và hằng đêm tôi vẫn khêu ngọn đèn đợi chờ Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Và hằng đêm tôi vẫn khêu ngọn đèn đợi chờ Giêsu.”

(Nhạc: Maranatha – Lời: MONG CHỜ GIÊSU bđd)

“Rồi ngày nao tôi sẽ yêu thương nhiều vì gặp Giêsu”, đó còn là mục-tiêu mà mọi người “cần vượt qua để đón nhận”. Đón và nhận, sự-kiện “gặp Giêsu” nơi những người đang sống quanh mình vào mọi lúc. Không chỉ vào lúc cùng ta quây quần bên người thân thuộc vừa quá vãng mà thôi, nhưng còn là và phải là mọi lúc, trong đời người.

Và, “ngày nao tôi sẽ yêu thương nhiều vì được gặp Giêsu.” Ôi! Đây chính là ý-nghĩa của cuộc sống vào dạo trước và cả vào thời mai hậu, như lời khẳng định của thần-học-gia tên tuổi là Edward Schillebeeckx từng nói đến như sau:

“Bản thân con người phàm-trần bao giờ cũng mang tính-chất sử-học, đưa vào lịch-sử để làm nên lịch-sử. Vì thế nên, hành trình mà con người còn rong ruổi lại chính là hành-trình được thiết-lập với Thiên-Chúa. Bởi lẽ, con người là tạo-vật do Thiên-Chúa thiết-dựng. Nhưng, có thể đó cũng là hành-trình không có Chúa đi cùng hoặc vào thời-điểm con người cứ mải kình-chống Thiên-Chúa nữa.

 Con người là hữu-thể phàm-tục có chất sử luôn sống trong tương-quan với Thiên-Chúa vĩnh-cửu. Tương-quan đây, là hành-trình rong ruổi được thể-hiện giữa bản-thể con người với Thiên-Chúa vĩnh-cửu đã dấy lên vấn-đề cánh-chung-luận. Bởi lẽ, cuộc sống con người là sự sống phụ thuộc vào thứ gì có khởi-đầu và kết-đoạn hẳn-hoi.

 Vậy nên hỏi rằng: con người có thể tồn-tại mãi không? Ta thấy những gì được thêm vào đây? Có chăng sự sống sau khi chết? Có chăng thiên-đàng dành cho những người làm điều tốt lành? Có chăng luyện-ngục là nơi chốn dành cho những người luôn làm việc gian-ác?

 Vấn-đề này được lịch-sử đặt ra cho con người phàm-trần. Cánh-chung-luận là câu đáp trả của Đạo Chúa với những câu hỏi đại-loại như thế. Sự sống vĩnh-cửu không là thứ gì dính-liền với bản-chất của hữu-thể hạn hẹp và bất ngờ. Cả ở trường hợp bản-thể người có linh-hồn thiêng-liêng, ta cũng không thể nào bảo là: tính-chất thần-thiêng nơi linh-hồn con người lại là nền-tảng của sự sống sau khi chết…” (X. Lm Edward Schillebeeckx, I Am a Happy Theologian, SCM Press Ltd 1994, tr. 63)

 Rõ ràng là, thần-học-gia Schillebeeckx những muốn chứng-tỏ trong cuốn “Tôi là nhà thần-học phúc-hạnh” vốn dĩ bảo rằng: sự sống và nỗi chết của con người vẫn cứ là trạng-huống của hữu-thể hạn-hẹp, chứ không là khúc/đoạn của không gian và thời, bao giờ hết.

Bản thể “người” luôn ưu-tư/quan-ngại về những hạn-chế của không-gian và thời-gian, nên mới sáng-tạo ra các phạm-trù đầy ấm-ức bằng các cụm-từ như: thiên đàng, luyện-ngục, trần-gian hoặc chốn vĩnh-hằng.

Thế nhưng, thực sự thì các phạm-trù đó có ý-nghĩa gì đáng để ta lưu-tâm, bàn-thảo hay không? Đáp trả bằng những quan-niệm vững chãi, lại xin mời bạn và mời tôi, ta tiếp-tục đi vào giòng chảy đầy phân-tích của thần-học-gia tên tuổi ở trên, đã xác định bằng những ý-tưởng sau đây:

“Thiên-đàng và hoả-ngục là những sự, những việc có thể xảy đến với con người. Tôi thường biện-bạch rằng: ta luôn có tính-chất rất đối-xứng giữa ý-niệm về thiên-đàng và quan-niệm về hoả-ngục: cả hai đều không thể đặt chung vào cùng lãnh-vực được. Giả như nền-tảng của sự sống sót là tương-quan sống động như thế với Thiên-Chúa, tôi vẫn tự hỏi xem những gì xảy đến khi tương-quan với Thiên-Chúa không sống-động cách nào hết, nghĩa là: khi người nào đó làm chuyện gian ác cố ý đến cùng tột.

 Ta không thể biết được là có hay không những người làm điều gian-ác theo cung-cách nhất-định, bác-bỏ mọi ân-huệ Chúa tha thứ cho họ, nữa. Và, đây chỉ là giả-thuyết bảo rằng: nếu trên đời này lại có những người không có tương-quan thần-thánh với Thiên-Chúa, thì những người như thế sẽ không có nền-tảng về sự sống vĩnh-cửu.

 Và, hoả-ngục là kết-đoạn cho những ai làm điều gian ác theo cung-cách nhất-định, thì cái chết thể xác và kết đoạn cuộc đời nơi họ sẽ là điều tuyệt-đối. Thành thử, từ một quan-điểm cánh-chung-luận, ta nói được là chỉ có thiên-đàng mà thôi.” (X. Lm Edward Schillebeeckx, I Am a Happy Theologian, SCM Press Ltd 1994, tr. 64)

Nếu thế thì, các phạm-trù ở trên được sáng-chế là để đề-nghị ta và mọi người hãy cùng nhau nghe lại khẳng-định làm nền nơi ca-từ đã trích có những lời vang vọng mãi:

“Giòng đời trôi, bao tháng năm qua rồi,”

Chuyện buồn chuyện vui, cho tôi mãi mong chờ.

Lòng chờ mong không biết đến bao giờ được gặp Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Lòng chờ mong không biết đến bao giờ

được gặp Giêsu.”

(Maranatha – Vũ Khởi Phụng DCCT – bđd)

Nếu thế thì, trọng-tâm cuộc sống hay nỗi chết vẫn cứ là “đợi chờ để được gặp Giêsu”, một khẳng-định được tác-giả Marcus J. Borg lại cũng quả-quyết như sau:

“Tất cả mọi người chúng ta, trước đây đều đã gặp gỡ Đức Giêsu. Phần đông chúng ta gặp Ngài hồi còn thơ ấu. Điều này, hà tất là chuyện có thật, đối với những ai được nuôi dưỡng trong lòng Giáo-hội và nhất là những người lớn lên ở vùng trời có nền văn-hoá Tây phương. Ở đó, mọi người đều có cùng một ấn-tượng về Đức Giêsu, theo cách nào đó như ảnh-hình về Ngài tuy lu-mờ nhưng rất đặc-biệt.

 Với nhiều người, ảnh-hình về Đức Giêsu mà họ có từ thời ấu-thơ, vẫn hoàn-hình cả vào lúc trưởng-thành. Với người khác, ảnh-hình này được giữ gìn bằng những xác-tín đậm-sâu, đôi khi còn nối-kết cả với lòng sủng-mộ tư-riêng đầm ấm và nhiều lúc còn kết chặt vào với lập-trường đầy học-thuyết cứng ngắc, nữa.

 Một số người khác, cả ở bên trong lẫn bên ngoài Giáo-hội, thì ảnh-hình về Đức Giêsu thời ấu-thơ còn trở-thành vấn-đề, tạo nên nhiều bối rối/ phức-tạp và ngờ-vực, có khi lại dẫn đến tình-huống dửng-dưng đối với Giáo-hội hoặc chống-đối cái Giáo-hội của thời con trẻ mà họ từng sống.

 Quả là, đối với nhiều tín-hữu Đạo Chúa, đặc-biệt là các thành-viên Giáo-hội chính-cống, có lúc xảy ra thời-kỳ trong đó ảnh-hình Đức Giêsu thời son trẻ không còn mang ý-nghĩa gì to tát cả. Và, rất nhiều người trong số đó, không cảm thấy cần thay thế nó. Với họ, gặp gỡ Đức Giêsu thêm một lần nữa lại sẽ như chỉ mới gặp Ngài lần đầu tiên, tức là lúc họ cảm thấy tràn-ngập ảnh-hình mới mẻ về Ngài.

 Thật sự mà nói, ý-niệm nền-tảng sẵn có trong đầu nhiều người là sự nối kết mạnh mẽ giữa ảnh-hình Đức Giêsu và nét phác hoạ về đời sống tín-hữu Đạo Chúa thật rõ nét. Nối kết đây, là sự tương-giao giữa những điều mọi người người nghĩ về Đức Giêsu và những gì mọi người trong chúng ta suy-tư về cuộc sống phải có của người đi Đạo. Ảnh-hình ta có về Đức Giêsu vẫn luôn tạo ảnh-hưởng lên nhận-thức ta có về cuộc sống của người tín-hữu theo hai cách: một, là cung-cách tạo nên hình-dạng cuộc sống người tín-hữu Đạo Chúa; và cách kia, là quyết-tâm biến Đức Chúa trở-thành đạo-giáo đáng tin hoặc không đáng tin.

 Xem như thế, thì người đi Đạo lâu nay nhiều ít vẫn cứ tin Đức Giêsu mà mình được gặp tựa như ảnh-hình mình duy-trì từ thời niên-thiếu. Dù ảnh-hình ấy có do Giáo-hội nhồi nhét vào đầu óc son trẻ của mình hay không.” (X. Marcus J. Borg, Meeting Jesus Again for the First Time, HarperCollins1994, tr. 1-2)

 Lòng chờ mong không biết bao giờ được gặp Giêsulại là sự mong chờ được gặp Đức Giêsu của thời trưởng-thành. Ảnh-hình của một Đức Giêsu-thực vừa là người thực như ta, vừa là Đấng được toàn-thể Hội-thánh nâng-nhấc lên thành Ngôi Hai Thiên-Chúa.

Chờ mong một gặp gỡ như thế để làm gì? Phải chăng là để như lời hiền-nhân ngôn-sứ khi xưa trong Cựu Ước từng khuyên-bảo như sau:

“Hỡi Israel,

ngươi hãy chuẩn bị

đi gặp Thiên Chúa của ngươi.”

(Amos 4: 12)

Đó là người đời thời Cựu ước. Còn thời Tân Ước, sau khi chứng kiến Đức Giêsu làm việc lạ lùng, khi trừ tà, người trong làng lại cũng tụ-tập để gặp Ngài sau đó thì mời Ngài ra đi như Tin Mừng Mát-thêu còn nói rõ:

“Bấy giờ,

cả thành ra đón Đức Giêsu,

và khi gặp Ngài,

họ xin Ngài rời khỏi vùng đất của họ.”

(Mt 8: 34)

Thành ra, cũng là chờ mong/mong chờ “được gặp Giêsu”, nhưng mỗi thời và mỗi người lại có ý khác nhau. Chờ và mong “được gặp Giêsu” như bài hát trên lại mang một ý-nghĩa khác hẳn:

“Rồi ngày nao tôi sẽ yêu thương nhiều vì gặp Giêsu.

Cuộc trần ai đưa nát tan cho đời.

Người người biệt ly, bao sông núi chia lìa.

Rồi ngày nao từ bốn phương quay về gặp được Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Rồi ngày nao từ bốn phương quay về gặp được Giêsu.

Người ở đâu mang mác bốn phương trời.

ngàn trời mây, muôn hoa lá mong người.

Và hằng đêm tôi vẫn khêu ngọn đèn đợi chờ Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Và hằng đêm tôi vẫn khêu ngọn đèn đợi chờ Giêsu.”

(Nhạc: Maranatha/Lời: Lm Vũ Khởi Phụng DCCT – bđd)

Có mong/có chờ rồi mới thấy. Có chờ và có đợi rồi sẽ hay. Duy, có điều là: khi gặp Ngài rồi, thì bản thân người chờ đợi cũng như người xục xạo kiếm tìm sẽ ra sao? Có mãn nguyện không? Người mãn-nguyện rồi, lại sẽ có quyết-tâm như thế nào? Phải chăng như lời lẽ người anh em vừa viết trong bức thư tâm-tình đầy tri-ân, vang vọng mãi rằng: “Những tâm tình chia sẻ trong giờ cầu nguyện tại nhà quàn đã nhắc cho bần đệ, các em và các cháu trong tang quyến được phép ngẩng đầu lên mà hãnh diện về mẹ.” (X. tâm-thư trích-dẫn ở trên)

Với mẹ ruột, mà người con còn hãnh-diện đến độ “sẽ ngẩng đầu lên” như thế. Thì, với Đức Giêsu được nâng-nhắc thành Thiên-Chúa Ngôi Hai, chắc người người sẽ còn ngẩng cao đầu ghi dấu ấn đến mãn đời, nữa mới phải.

Dấu ấn ấy. Cảm-nghiệm đây, còn là và sẽ là những cảm và nghiệm của đời người vẫn có niềm vui bất tận của những người đã và đang trên đường kiếm tìm hoặc từng mong chờ nay được gặp. Tâm tình ấy, nay hoà-đồng vào với tình-tiết của câu truyện kể đầy cảm-tính như dưới đây:

“Một chuyến tàu ngoài khơi gặp bão và bị đắm. Có hai người giạt đến một hoang đảo. Cả hai đã nhiều lần làm thuyền nhưng không lần nào thành công. Cuối cùng, họ đồng ý với nhau là cùng ngồi cầu nguyện. Mỗi người sẽ ở một nửa hòn đảo xem lời cầu nguyện của ai sẽ linh nghiệm.

 Đầu tiên, người thứ nhất cầu nguyện có được thức ăn. Sáng hôm sau, người thứ nhất tìm thấy một cây có nhiều quả rất ngon nên anh ta không còn phải lo lắng đi tìm thức ăn nữa. Ở phần bên kia hòn đảo, đất vẫn khô cằn và người thứ hai không tìm được gì cả.

 Hết một tuần, người thứ nhất cầu nguyện cho có bầu bạn. Chỉ sau một ngày, ở bên đảo của người thứ nhất có một chiếc tàu khác bị đắm và một người phụ nữ giạt vào. Hai người chuyện trò cho bớt cô đơn, còn ở phần bên kia hòn đảo, người thứ hai vẫn không có gì khác.

 Liên tục những ngày sau đó, người thứ nhất cầu nguyện được căn nhà, quần áo ấm và nhiều thức ăn hơn. Phép mầu lại xảy ra. Những gì anh ta ước thường xuất hiện ngay vào buổi sáng ngày hôm sau. Tuy nhiên, vẫn không có gì khác xảy ra ở phần đảo của người đàn ông thứ hai.

 Cuối cùng, người thứ nhất và người phụ nữ – nay đã là vợ anh ta- cầu nguyện có một chiếc tàu. Sáng hôm sau, một chiếc tàu lớn xuất hiện trên bãi biển. Người thứ nhất dẫn vợ mình lên tàu và quyết định bỏ người thứ hai ở lại trên đảo. Anh ta nghĩ rằng người kia không đáng được nhận bất kỳ thứ gì anh ta có được từ những lời cầu nguyện riêng của anh ta.

 Khi chiếc tàu chuẩn bị rời bến, bỗng người thứ nhất nghe thấy có tiếng nói vang lên từ không trung: “Tại sao con lại bỏ bạn mình?” Người thứ nhất thản nhiên cao giọng: “Tất cả mọi thứ đều do tôi cầu nguyện mà có. Anh ta cầu nguyện nhưng chẳng được gì cả nên không xứng đáng để đi cùng với tôi.”

 “Con lầm rồi” – giọng nói vang lên  – “Từ đầu đến cuối, anh ta chỉ ước có một điều và Ta đã thực hiện cho anh ta điều ước ấy.” Người thứ nhất rất ngạc nhiên: “Anh ta đã ước gì?”

 “Anh ta đã ước rằng những lời cầu nguyện của con được biến thành sự thật!” (truyện do St sưu tầm)

 Tâm tình của người chờ mong, nay được gặp Đấng mà mình mong ước, lại sẽ hằn in nơi ca-từ nhè nhẹ được nghe thêm một lần nữa làm kết-đoạn cho bài luận-phiếm về một “chờ mong/mong chờ được gặp Giêsu” rất hôm nay. Câu hát nhẹ ấy, cứ từ từ đi vào lòng người nghe với những lời lẽ gọn gàng như sau:

“Rồi ngày nao từ bốn phương quay về gặp được Giêsu.

Người ở đâu mang mác bốn phương trời.

ngàn trời mây, muôn hoa lá mong người.

Và hằng đêm tôi vẫn khêu ngọn đèn đợi chờ Giêsu.

Maranatha! Maranatha!

Và hằng đêm tôi vẫn khêu ngọn đèn đợi chờ Giêsu.”

(Nhạc: Maranatha/Lời: Lm Vũ Khởi Phụng DCCT – bđd)

 Trần Ngọc Mười Hai

Với những tình-tự hằn in nơi tâm-khảm

Khi nghe bài

“Giòng đời trôi” với lời ca

Lã chã, êm ả, rất mong chờ

Được gặp Giêsu.

HỎI ĐÁP VỚI THIỀN SƯ Ottamasara Sayadaw

HỎI ĐÁP VỚI THIỀN SƯ Ottamasara Sayadaw

 Câu hỏi 18: Con đang rất đau khổ, bởi vì vợ chồng con bất hòa, mấy tháng trước mẹ con vừa mất thì đến nay bố con không muốn sống nữa, bố con kinh doanh tại nhà và có một khoản nợ ngân hàng khổng lồ, với tình hình làm ăn như thế này có thể con phải bán nhà để trả nợ. Cuộc sống đối với con hiện nay như địa ngục. Con phải làm sao?

 Thiền sư Ottamasara:
 

Rồi một ngày bạn sẽ mất tất cả mọi thứ: gia đình, nhà cửa, nghề nghiệp, vợ con, tài sản. Điều đó là Sự Thật không thể trốn thoát. Và điều đó chắc chắn sẽ xảy ra, không chỉ với bạn mà với tất cả mọi người. Điều này là hoàn toàn chắc chắn. Bạn cho rằng nỗi đau khổ của bạn xuất phát từ mọi người xung quanh, nhưng bản chất nỗi khổ ấy xuất phát từ việc bạn không có khả năng chấp nhận sự mất mát. Bạn càng có khả năng chấp nhận mất mát, càng có khả năng chấp nhận sự thật thì bạn sẽ càng bớt đau khổ. Đây cũng là sự thật nữa. Bạn không chấp nhận được mất mát là vì bạn nắm giữ, hiểu sai lầm rằng đó là nhà của bạn, cha mẹ, tài sản của bạn. Do có sự hiểu lầm đó nên bạn nắm giữ, điều khiển và không có khả năng chấp nhận sự thật là chúng sẽ mất. 

 

Thật sự rằng bạn đã mất chúng ngay từ khi bạn bắt đầu “có” chúng, vì hiểu là mình có chúng nên bạn mới mất chúng, còn hiểu được rằng chúng đến với bạn là do các điều kiện nhân duyên hội tụ thì khi không đủ điều kiện nữa nó sẽ ra đi, khi đó bạn sẽ chấp nhận được sự mất mát.

 

Khi kết hôn bạn cho rằng đó là vợ của mình và sở hữu được người vợ, nắm giữ được họ, khi có con bạn cũng cho rằng con của bạn và nắm giữ ý tưởng đó, cùng hiểu lầm ấy với tài sản, cha mẹ, nhà cửa, nghề nghiệp. Cho nên có thêm một vật gì, điều gì là bạn có thêm sự nắm giữ, và sự nắm giữ ấy trở thành thói quen của bạn. Bạn có thói quen nắm giữ chứ không có thói quen chấp nhận mất mát (chấp nhận sự thật). Từ trước tới nay bạn không mất mát nhiều nên khả năng chấp nhận mất mát rất yếu và sự nắm giữ rất mạnh mẽ, chúng được tích lũy cùng với nhau. Bạn cần xây dựng và ghi nhớ sự thật rằng mọi thứ có bản chất riêng, và bản chất tột cùng của chúng là chúng đang thay đổi và bạn sẽ phải mất chúng, hãy ghi nhớ và tạo cho mình khả năng chấp nhận điều đó. Khi bạn nghĩ rằng mình “có” bất cứ điều gì, hãy nhắc nhở và ghi nhớ sự thật đó, chúng không phải là của bạn và bạn không thể nắm giữ được chúng.

 

Hỏi tiếp: Con còn quá trẻ để mất tất cả những thứ đó, và mất cùng một lúc, nếu như mất từ từ và mất khi con đã già có khi con lại dễ chấp nhận hơn.

 Thiền sư Ottamasara:
 

Với người không có khả năng chấp nhận mất mát thì không có gì để mất là điều tốt nhất cho anh ta, giả sử nếu mất gia đình, mất nhà, mất nghề nghiệp thì bạn sẽ ra sao? Nếu có được bài học lớn từ điều đó, có thể đó là cơ hội cho bạn xuất gia và trở thành tu sĩ không tài sản như tôi đây, có sao đâu (cười). Đó là bạn nghĩ vậy thôi, còn sự thật chưa chắc bạn đã mất tất cả những thứ đó. Bạn còn trẻ, còn sức khỏe nên còn rất nhiều thời gian cho bạn học hỏi và rút kinh nghiệm, những gì đang xảy ra là cơ hội rất tốt cho bạn, là điều rất mừng cho bạn để có thể đối diện, xây dựng tính chấp nhận mất mát cho tương lai. Nếu bạn đã lớn tuổi và bệnh tật, bạn vẫn có thể mất những thứ kể trên nhưng khi đó sẽ còn khó khăn hơn, khó chấp nhận hơn nữa. Nếu bạn mất mát từng thứ một thì khả năng chấp nhận mất mát sẽ rất nhỏ, đây là cơ hội để bạn xây dựng khả năng chấp nhận đối với những mất mát lớn hơn. Đến một ngày, bạn và tôi và tất cả đều sẽ mất cùng một lúc, khi đó bạn có đủ mạnh mẽ để chấp nhận rồi. Điều đó là cần thiết. Bây giờ bạn còn trẻ và không phải người trẻ nào cũng có cơ hội tốt như bạn để học hỏi. 

 

Hỏi: Vậy những điều Ngài nói giúp ích gì cho con để giải quyết tình hình hiện nay?

 Thiền sư Ottamasara:
 

Bạn không thể điều khiển được tất cả mọi người, tất cả mọi hoàn cảnh, bạn không thể làm cho sự việc, con người, niềm vui tồn tại mãi mãi nhưng bạn có thể xây dựng được cho mình khả năng chấp nhận sự thay đổi ấy. Khi có được sự chấp nhận sự thật ấy, tâm lý bạn sẽ ổn định hơn, khi đó tự bạn sẽ biết cần làm gì để thay đổi con người, hoàn cảnh xung quanh. Khi bạn biết chấp nhận mất mát thì sẽ giúp cho gia đình, người thân cũng biết chấp nhận mất mát, và khi đó có tự do, sự hiểu biết trong tâm trí của mọi người thì gia đình bạn sẽ thay đổi.

 (Cảm ơn Sư Cô Hương Thiền đã thông dịch)

Vì sao đa nguyên là lựa chọn chính trị tối ưu của nhân loại cho đến lúc này?

Vì sao đa nguyên là lựa chọn chính trị tối ưu của nhân loại cho đến lúc này?

FB Nguyễn Đình Bổn

31-3-2017

Hãng tin AFP đưa tin, sau phán quyết của tòa án trung tâm quận Seoul ngày 30-3, cựu tổng thống Hàn Quốc bị phế truất đã bị bắt giam như một nghi phạm liên quan tới một loạt bê bối cáo buộc tham nhũng, tiết lộ bí mật quốc gia, lạm dụng quyền lực.

Bà Park Geun-hye từng được nhận xét như một phụ nữ tài năng, liêm chính, có khả năng lãnh đạo, và người Hàn Quốc khi bầu cho bà hẳn là đã nhìn và tin vào các tính cách đó, vậy nhưng vì sao bà đã rơi vào bi kịch như hiện nay?

Phải chăng quyền lực tột đỉnh đã làm tha hóa người phụ nữ một thời được người Hàn Quốc tự hào, kính trọng?

Bản chất con người là tham, sân, si, thiện ác trộn lẫn. Vì vậy khi nắm trong tay quyền lực, nhất là quyền lực chính trị, họ sẽ bộc lộ tham vọng của mình. Cái mầm mống bất thiện sẽ trồi lên, lấn át lý tưởng phục vụ quốc gia, và vậy là bi kịch xảy ra.

Trong lịch sử nhân loại, chế độ phong kiến minh họa rõ nhất điều này, với rất nhiều anh hùng dân tộc nhanh chóng trở thành hôn quân khi trở thành hoàng đế.

Vì vậy, để khống chế nó, nền dân chủ ra đời và đa nguyên là lựa chọn chính trị tối ưu của nhân loại cho đến lúc này, bởi chỉ có đa nguyên mới ngăn chặn được độc tài. Một khi lạm quyền xảy ra, dù là tổng thống, các đảng đối lập sẽ nhanh chóng chứng minh sự phạm tội, và tòa án độc lập sẽ xét xử. Cựu tổng thống Hàn Quốc là một ví dụ. Từ đỉnh cao quyền lực, hiện nay Park Geun-hye phải sống trong tù với bữa ăn 1,30 USD và phải tự rửa bát sau khi ăn như bất cứ một phạm nhân nào khác.

Hàn Quốc trở thành một quốc gia hùng mạnh hàng đầu thế giới dù vẫn đang trong “tình trạng chiến tranh” với Bắc Triều tiên là do họ đã chọn lựa thể chế tối ưu cho mình.

Không có một biện luận nào khác về sự phi dân chủ của một thể chế độc tài, nơi mà tài sản cán bộ cấp tỉnh cũng là một “bí mật quốc gia” và tất nhiên, với sự tự tung tự tác nay, tài nguyên dù phong phú bao nhiêu cũng bị xâu xé cho đến cạn kiệt, và lạc hậu, đói nghèo cũng chính từ thể chế này mà ra.

QUÂN ĂN CƯỚP

QUÂN ĂN CƯỚP

  Đặng Chí Hùng

quanancuop (1)

Mấy tháng nay, mẹ của Lan bệnh ngày càng nặng, không thể đi làm nữa. Cho nên, ngoài giờ đi học, Lan phải làm đủ việc để nuôi mẹ. Từ mò cua, bắt ốc, đi mót cá con ở các bến thuyền của ngư dân…Lan gầy và ốm yếu. Nước da đậm màu của nắng và nước biển, trông bạn ấy nhỏ thó và tội nghiệp. Mẹ Lan là một người đàn bà còn trẻ và bất hạnh. Bà không có chồng. Trong một lần đi lao động ở thành phố, bà nhặt được Lan từ một thùng rác trong đêm. Đêm đó, bà bỏ thành phố mang Lan về sống ở làng chài này. Hai năm trước bà bị tai nạn, ảnh hưởng về thần kinh, khiến bà nhiều lúc như trẻ con, có khi như điên dại. Cám cảnh trước đứa con nhỏ phải quần quật nuôi sống mình, nhiều lần bà đã muốn quyên sinh. Những lúc tỉnh táo sau một quãng dài giữa những cơn bạo bệnh bà thường nói với Lan:

– Con …hãy để mẹ được ra đi. Mẹ biết con sẽ buồn khi không có mẹ. Nhưng rồi thời gian sẽ đưa con lớn lên, và nỗi buồn sẽ vơi theo. Còn thế này….mẹ đau lắm. Mà nỗi đau này chẳng bao giờ vơi được. Mẹ không muốn con mẹ khổ….

Bà thường nói với con như thế. Lúc đầu Lan khóc, nhưng dần dần Lan đã không còn nước mắt. Cô bé ôm mẹ vào lòng, với một tình yêu vô bờ bến. Chỉ cần nhìn thấy con, được con động viên, bà ấy lại quên đi ý định tự tử.

***

Một buổi sáng, Lan vừa về đến nhà thì có tiếng người lạ vọng từ căn nhà rách nát của mình ra:

– Bà nên xem bán lại căn nhà này cho Xã để xã lấy đất làm đường mới. Bà không có con đẻ, con bé Lan là con rơi bà nhặt về. Và nó lại là con gái, sau này đi lấy chồng thì bà cần gì mảnh đất này. Thôi chịu khó nghe lời đảng và nhà nước ký vào biên bản này đi !

Lan nghe rõ đó là giọng đàn ông ồm ồm như con vịt đực nhà bà Năm hàng xóm. Nó ghé mắt qua vách nhà có những lỗ thủng do bao năm nay nó chỉ là cái nhà tranh thiếu bàn tay đàn ông tu sửa. Con bé chợt nhận ra là ông chủ tịch xã là tác giả của câu nói vừa phát ra mà nó nghe lạnh cả xương sống.

Nó không lạnh sao được khi mẹ con nó chỉ có ngôi nhà này làm chỗ chui ra, chui vào nhưng mà giờ đây nguy cơ nó không còn là chỗ che mưa nắng của mẹ con Lan nữa.

Tiếng của mẹ Lan đều đều trong hơi thở mệt nhọc:

– Mẹ con tôi không có ý chống đối ai cả, nhưng ông chủ tịch ơi, cái giá nhà nước đưa ra quá rẻ, tại sao chỉ có cách 200 m mà đất vườn của nhà ông bí thư được đền bù 5 triệu đồng/m2 còn ngôi nhà ở của mẹ con tôi lại chỉ có 1 triệu đồng/ m2. Mẹ con tôi lấy gì mà mua đất làm nhà mới ? Mẹ con tôi sẽ sống ra sao ? Làm sao tôi nỡ nào ký vào để con bé Lan phải ra đường. Tôi thì như ông biết chết sống chẳng cam, nhưng ngặt nỗi còn con bé Lan…

Nói chưa dứt câu, người đàn bà với khuôn mặt khắc khổ vì bệnh tật và nghèo khó dừng lại ở đó và đưa đôi mắt thâm quầng ra xa một cách thiểu não.

Không để cho bà tiếp tục câu nói, ông chủ tịch xã tiếp ngay:

– Tôi đã nói với bà nhiều lần rồi ! Cái này là chủ trương và chính sách của đảng và nhà nước. Người như ông bí thư là cán bộ của đảng, họ phải gánh trọng trách với dân với nước nên có ưu tiên một chút cũng là hợp tình hợp lý thôi! Nếu bà cứ khăng khăng thì chúng tôi phải cưỡng chế đó. Đây là lần cuối cùng tôi nói chuyện tử tế với bà, ngày mai là hạn cuối cùng xe ủi sẽ đến đây cưỡng chế…

Đôi tai Lan ù đi vì câu nói đó của ông chủ tịch, nó lao đầu xuống căn bếp lợp bằng lá dừa dại không đủ che mưa khi trời nổi gió trên ngọn tre đầu xóm. Nó thấy trời như đang sụp xuống dưới chân nó. Hàng loạt câu hỏi đang vần vũ xung quanh đầu nó như những đám mây đen những ngày bão biển nổi lên mà lúc đó nó nép mình vào bàn tay gầy guộc nhưng luôn nồng hơi ấm của mẹ. Lan đã biết nó là một đứa con rơi được mẹ nó nhặt về từ năm ngoái khi lũ bạn học đã vô tình cho nó biết. Và cũng từ ngày đó, nó càng yêu bà hơn vì nó đủ nhận thức để nhận ra rằng bà yêu nó hơn cả một bà mẹ thương con ruột của mình.

***

Sáng nay, trời hãy còn lờ mờ sáng khi ánh mặt trời mới lấp ló trên đầu ngọn dừa ngoài bãi thì mẹ con Lan đã thức dậy vì những tiếng ồn ào ngoài đầu đường. Tiếng bà con lẫn tiếng động cơ máy xúc đã phá tan không khí tĩnh lặng thường nhật của vùng quê yên ả miền biển nghèo khó này. Lan đứng bên cạnh mẹ như hai thân cây dừa dại trước cơn song dữ của lốc biển mùa hè. Nó nắm chặt tay mẹ, mắt nhìn về phía mấy chục người công an tay dùi cui đang đứng bên máy xúc thái độ thật hung dữ. Nó chợt nói với bà:

– Mẹ ! Sao họ lại đến đây ủi nhà mình? Mẹ không đồng ý ký giấy bán nhà cơ mà? Chẳng nhẽ họ nói và làm thật à ?

Mẹ của Lan vốn hiền lành, bà chưa bao giờ có một tiếng nặng lời với Lan, cũng chưa bao giờ nói một lời chê trách với hàng xóm. Nhưng hôm nay, bà đã nói một câu mà Lan có lẽ bất ngờ nhất:

– Con à, mẹ con mình phải ra đường rồi ! Mình chẳng làm gì được đâu con. Chúng là quân ăn cướp đó …!

Nói xong câu đó, bà kéo tay Lan lẳng lặng vào nhà thu dọn vài bộ đồ rách rưới và mấy thứ lặt vặt rồi bước ra khỏi nhà. Hai mẹ con Lan lầm lũi đi ra trước ánh mắt tỉnh bơ của một đám công an. Đâu đây vài lời xì xầm bàn tán của bà con lối xóm thông cảm với mẹ con bà. Chợt một tiếng còi nổi lên:

– Tuýt, tuýt, tuýt …Đề nghị Bà con trật tự và tránh lối cho xe ủi làm nhiệm vụ ! Lái xe ủi đâu ? Vào ủi sập ngay ngôi nhà này cho tôi.

Lan chợt ngước mắt quay lại, nó thấy tiếng còi được phát ra từ cái miệng phúng phính mỡ của ông trưởng công an xã, đứng cạnh ông ta là cái dáng bệ vệ của 2 ông bí thư và chủ tịch xã. Mắt nó nhòe đi vì ngôi nhà đã nuôi dưỡng tuổi thơ nó, đã che chở cho người mẹ kính yêu của nó sắp trở thành miếng mồi ngon cho chiếc xe ủi có cánh tay dài tựa như con ngáo ộp đang chực chờ nuốt con mồi ngon miệng.

Đâu đó có vài tiếng thở than của bà con lối xóm: Quân ăn cướp !.

Đặng Chí Hùng.

BIEN CHET

ĐỪNG CẦM TÙ CHÍNH BẠN

Nhiều người đã đặt câu hỏi cho tôi “Vì sao anh là con cháu cộng sản, anh lớn lên trong môi trường XHCN mà anh lại chống cộng sản và chống Hồ Chí Minh ?”.Tôi đã trả lời rất nhiều lần và lần này thì tôi muốn tóm gọn lại một kinh nghiệm sống của bản thân đến với bạn bè xa gần.

Lý do tôi đến với VNCH, đến với Cờ Vàng đó là do nhạc vàng và chịu khó tìm hiểu sách vở, hồi ký, lịch sử. Tôi thù ghét cộng sản bởi luôn tự đặt câu hỏi cho mình để đi tìm lời giải về sự thật của cộng sản, Việt Nam, Hồ Chí Minh. Cộng thêm một chút máu liều thì tôi đã trở thành một tên “phản động” như quí vị đã thấy.

Nhưng sự thật ẩn sau những nguyên nhân đó là một nguyên nhân chính yếu: Tôi không muốn cầm tù chính bản thân tôi !

Tôi không tự cầm tù mình trong sự bao bọc của gia đình. Tôi không tự cầm tù ý chỉ chỉ cần sống sao cho sung sướng bản thân mình là đủ.

Tôi không tự cầm tù mình với tư tưởng: Đất nước này có đảng, có nhà nước, có kẻ khác lo. Mình thì mặc kệ họ.

Tôi không tự cầm tù mình với tư tưởng ăn chơi để ngủ quên trên đau khổ của dân tộc Việt Nam.

Tôi cũng không tự cầm tù mình với tư tưởng đấu tranh để được gì và sẽ mất gì.

Tôi không tự cầm tù mình với tư tưởng an phận, tôi muốn mình khám phá những chân trời xa, những điều còn chưa biết như cách cha ông chúng ta đã mở nước và dựng nước…

Tôi không tự cầm tù mình rằng phải sợ hãi trước bạo quyền và sợ hãi trước giặc Tàu hung bạo. Tôi phải chiến đấu dù có cô đơn, khổ sở và phải chết đi chăng nữa.

Tôi không tự cầm tù mình với tư tưởng phải nhìn thấy rồi mới làm, tôi tin rằng muốn có một con đường mòn thì ít ra chúng ta cũng phải biết dẫm lên cỏ dại mà bước đi hàng ngày.

Những điều đó, tôi muốn chia sẻ với các bạn gần xa từ kinh nghiệm bản thân mình. Tôi muốn chúng ta tự xóa bỏ sợ hãi, tự giải phóng trái tim mình để vươn lên chiến đấu cho sự tồn vong của dân tộc.

Đừng tự trói trái tim và khối óc, tư tưởng của mình trong những vũng bùn sáo rỗng…

Đừng cầm tù chính bạn !

Đặng Chí Hùng

Đinh Việt Nữ gởi

LƯỠI HÁI HAY CHÌA KHÓA VÀNG?

LƯỠI HÁI HAY CHÌA KHÓA VÀNG?

 

Thánh Charles Borrômê sống ở Italia trên 400 năm trước đây (1538-1584).  Khi còn trẻ, Borrômê đầy những tước vị, danh vọng.  Nhưng một lúc Borrômê đã nhận ra ngày nào đó, Ngài sẽ phải bỏ tất cả.  Ngài muốn ghi khắc điều đó, nên nhờ một họa sĩ nổi tiếng vẽ bức bích họa trong tư thất để diễn tả cái chết.  Bức họa hoàn thành: họa sĩ trình bày thần chết theo lối cổ điển: một bộ xương người nắm chặt lưỡi hái trong tay.

 

Borrômê ngạc nhiên: “Tại sao họa sĩ hình dung cái chết bằng chiếc lưỡi hái?”

 Họa sĩ đáp: “Vì thần chết cắt hái mọi cuộc sống.  Cái chết hủy hoại mọi cuộc đời.”

 “Đồng ý”, Borrômê nói, “nhưng thần chết cũng mở cửa Nước Trời nữa chứ.  Cái chết là cửa ngõ vào đời sống tốt đẹp hơn.  Vì thế, tôi đề nghị họa sĩ xóa chiếc lưỡi hái đi và đặt vào tay thần chết chiếc chìa khóa vàng.”

 Phải, Chúa Kitô đã chết và đã sống lại. Thập giá là chìa khóa Nước Trời. Thần chết đã buông lưỡi hái và cầm lấy chiếc chìa khóa vàng. Cửa Trời đã mở ra cho con người vào Nhà Cha.

 Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là sự sống lại và là sự sống”.  Lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Lagiarô sống lại là một trong những lời “lạ tai” nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Thiên Chúa giáo và những người không tin ngày nay.  Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó chính là nền tảng và hy vọng của cuộc đời.

Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là sự sống.  Ai đang sống mà tin tôi sẽ không bao giờ chết.”  Chúa không nói đùa.  Chúa không thể đùa với sự chết, vì nó hoàn toàn trái nghịch với Ngài.  Là sự sống và đến để đem lại sự sống, Chúa không thể muốn sự chết cho con người.  Phép lạ cho ông Lagiarô sống lại làm chứng rằng Ngài có quyền ban sự sống.  Không phải sự sống như đám đông bao quanh Ngài thầm nghĩ – sống một thời gian rồi chết – cũng không phải sống lại ngày tận thế mà thôi, như Matta tin tưởng, mà là sống ngay bây giờ và sống đời đời, như Ngài đã nói: “Ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống” (Ga 5,24).

VERITAS

Vậy là có một sự sống khác.  Có một sự sống thật.  Sự sống ấy đã bắt đầu từ bí tích Rửa Tội và tiếp tục mãi đến đời đời.  Sự sống thật này không mất đi khi con người chết, nhưng chỉ mất đi bởi tội lỗi (Ga 8,21).  Tội lỗi mới là cái chết thật.  Và ngược lại, cái mà chúng ta coi là sống chưa hẳn là sống.

Chỉ khi nào sống bằng chính sự sống của Chúa thông ban cho, lúc đó mới là sống thật và bảo đảm sống đời đời ngang qua cái mà chúng ta gọi là chết.

Thánh Phaolô, trong bài đọc 2 hôm nay (Rm 8,8-11) đã nói đến tình trạng những người “sống mà như chết” và “chết mà vẫn sống” đó: “Ai sống theo xác thịt, tội lỗi, thì dù có sống cũng như chết; ngược lại, ai sống theo Thánh Thần thì dù có chết cũng vẫn sống; hơn nữa, một ngày kia, Đấng đã cho Đức Kitô phục sinh cũng sẽ cho thân xác của những kẻ sống theo Thánh Thần được sống lại”.

Một người nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi đời này được coi là chết.  Nhưng nhiều người đang sống vẫn tự coi mình đã chết.  Vì sống mà không có hy vọng, sống không tình thương, sống mà bị đời bạc đãi, phản bội, sống không ra con người, và nhất là sống trong tội ác.  Sống như vậy, con người không cần đợi đến chết mới là chết.  Chúng ta khóc thương người chết, nhưng biết đâu người sống lại chẳng đáng khóc thương hơn?

Bất cứ ai đã thoát khỏi tội lỗi và sống trong ân sủng thì đang sống trong sự sống đời đời rồi.  Sự chết thể xác không làm gián đoạn được sự sống thân thiết với Thiên Chúa trong Nước Trời.  Sự sống lại ngày tận thế, sự sống vinh quang đời sau đã bắt đầu ở hiện tại như cây trái đã bắt đầu trong hạt giống.

Từ Lời Chúa hôm nay, chúng ta mới có được một cái nhìn lạc quan hơn về thân phận con người chúng ta.  Là tội nhân, là loài người phải chết, nhưng chúng ta đã được Con Thiên Chúa xuống thế làm người mạc khải tình yêu thương của Thiên Chúa cho chúng ta và Ngài đã thực hiện công việc cứu chuộc của Thiên Chúa giữa chúng ta và cho chúng ta.  Cuối cùng, bằng chính cái chết và cuộc Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi chết đời đời và cho chúng ta được tham dự vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa.

Như thế, đối với chúng ta, những người đã tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế và đang cố gắng sống Lời Chúa dạy, thì sống hay chết, không thành vấn đề, mà chỉ có một thực tại duy nhất là sống, sống trong Chúa, sống cho Chúa, sống thuộc về Chúa.  Cái chết chẳng qua chỉ là bước vượt qua từ đời sống trần gian đến đời sống vinh quang vĩnh hằng với Chúa Cha trên trời.  Chính vì có sự liên tục giữa hai cuộc sống mà đời sống trần gian này mới có ý nghĩa và mới quan trọng, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải sống làm sao cho cuộc sống trần gian này là khởi điểm, là bảo đảm, là dấu chứng cho cuộc sống mai sau.

Trước khi bước vào Tuần Thánh là đỉnh cao của mầu nhiệm Khổ Nạn Phục Sinh, Giáo Hội đọc bài Tin Mừng hôm này nhằm kêu gọi chúng ta tin vào Đấng là sự sống lại và là sự sống.  Niềm tin ấy thắp sáng lên trong chúng ta một hy vọng mà trần gian này dù đen tối đến đâu cũng không thể nào dập tắt được.  Đức tin không chuẩn chước cho chúng ta khỏi những tang chế đau thương, những chia ly mất mát hay sự sợ hãi khi đối diện với cái chết.  Nhưng đức tin là chấp nhận hiểu và sống các biến cố hiện tại dưới ánh sáng của sự sống siêu việt mà Đức Giêsu Kitô, Đấng là nguồn cội sự sống đã loan báo.

“Tôi là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Tôi sẽ không chết bao giờ.”  “Matta, con có tin điều đó không?”  Chúa Giêsu hỏi.

“Vâng, thưa Thầy, con tin.”  Matta nói lên niềm tin của chị cũng là niềm xác tín của chúng ta: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian.”

Chớ gì khi tuyên xưng: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”, trong kinh Tin Kính chúng ta sắp đọc, niềm tin ấy không chỉ được phát biểu cách máy móc ngoài môi miệng, nhưng sẽ trở nên sức mạnh giúp chúng ta đứng vững trước mọi đau khổ thử thách, ngay cả cái chết.  Đồng thời niềm tin ấy thúc đẩy chúng ta đến với anh em, để góp phần mang lại sự sống dồi dào cho anh em.

R. Veritas.

Trích trong “Niềm Vui Chia Sẻ”

Langthangchieutim gởi

Không thể có phát triển nhờ độc tài

Không thể có phát triển nhờ độc tài

Nguyễn-Xuân Nghĩa, RFA
2017-03-29
Ông Vladimir Zhirinovsky, thành viên quốc hội Nga, tổ chức một cuộc họp báo tại Hội đồng châu Âu hôm 25/1/2006, tranh luận về một báo cáo chống lại các tội ác do chế độ độc tài cộng sản gây ra.

Ông Vladimir Zhirinovsky, thành viên quốc hội Nga, tổ chức một cuộc họp báo tại Hội đồng châu Âu hôm 25/1/2006, tranh luận về một báo cáo chống lại các tội ác do chế độ độc tài cộng sản gây ra.

AFP photo
Một ngộ nhận của giới chuyên gia khi họ tin rằng một chế độ độc tài mà anh minh sáng suốt vẫn có thể đem lại thịnh vượng cho người dân.

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, qua nhiều chương trình liền, ông thường nhắc tới một nhu cầu là dân quyền và nhân vị trong công cuộc phát triển kinh tế và chế độ độc tài sẽ không thể đem lại thịnh vượng cho người dân. Ý kiến ấy có vẻ như đi ngược với luận cứ của nhiều chuyên gia kinh tế hay thành tích chói lọi của Trung Quốc với một chế độ thiếu dân chủ. Vì vậy, kỳ này xin đề nghị ông giải thích tiếp về nghịch lý đó.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng trong thế kỷ 20 đã có cuộc tranh luận về giá trị của hai mô hình kinh tế đối nghịch. Một là tập trung kế hoạch của các nước cộng sản hai là tự do phát triển theo quy luật thị trường của các nước dân chủ. Kết cuộc thì các chế độ cộng sản độc tài trôi vào khủng hoảng hoặc tan rã từ năm 1991 nên chẳng còn được nhà lý luận nào bênh vực nữa. Nhưng một số người từng đặt niềm tin vào chế độ cộng sản lại tìm ra một lý lẽ khác, từ cộng sản chạy qua xã hội chủ nghĩa. Rằng thế giới có các nước chuyên chế độc tài nhưng được lãnh đạo anh minh sáng suốt để quyết định về việc sung dụng hay phân phối tài nguyên quốc gia nên đạt thành quả phát triển cao.

Hiện tượng được viện dẫn là nhiều nước tân hưng Đông Á chưa có dân chủ thì đã phát triển mạnh. Lớn thì có trường hợp Trung Quốc, nhỏ thì là trường hợp Singapore, Hong Kong, ở giữa thì có Đài Loan, Nam Hàn. Vì nhiều chuyên gia kinh tế quốc tế của Tây phương cũng đồng tình với lập luận ấy cho nên chúng ta cần tìm hiểu sâu xa hơn về sự sai lầm của họ. Kỳ này, tôi xin được nói về chuyện đó, nhất là về trách nhiệm của giới chuyên gia và sẽ phải lần lượt đi từ đầu qua từng bước.

Có một quy luật thực tế ở đây là khi một nền kinh tế đạt mức tăng trưởng vượt bậc, hơn hẳn trung bình của các quốc gia khác, thì sau mươi năm là hụt hơi.
– Nguyễn-Xuân Nghĩa

Nguyên Lam: Nguyên Lam xin được mời ông trình bày sự thể này.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trước hết, thế giới có nhiều nước nghèo, chậm phát triển hoặc chưa phát triển mà nói cho phũ phàng thì còn chậm tiến. Nhưng các định chế quốc tế vẫn lịch sự gọi đó là các nền kinh tế “đang lên”. Trong lãnh vực kinh tế, có loại chuyên gia quan tâm đến việc phát triển các nước nghèo, ta gọi họ là “chuyên gia phát triển”, chứ không vơ đũa cả nắm mà phê phán mọi chuyên gia. Chuyện thứ ba, với giới chuyên gia phát triển thì nếu một nền kinh tế đạt mức tăng trưởng 6% một năm, như Việt Nam hiện nay, thì đấy là bước đầu của phát triển vì nếu giữ được tốc độ ấy trong 12 năm liền là có thể nâng lợi tức gấp đôi.

Lấy tiêu chuẩn 6% như hòn đá thử vàng, giới chuyên gia phát triển mới đo lường công cuộc phát triển của các nước nghèo và suy ngược lên lý do, là các nước đã có chính sách kinh tế quốc gia thế nào để giữ được đà tăng trưởng trong lâu dài? Trường hợp của bốn nền kinh tế Singapore, Hong Kong, Đài Loan và Nam Hàn được họ coi là mẫu mực. Sau đó họ viện dẫn thêm trường hợp của Trung Quốc rồi của Việt Nam. Yếu tố cần chú ý ở đây là khái niệm “chính sách kinh tế quốc gia”, với hàm ý rằng đà tăng trưởng là do các chính quyền hay nhà nước hoạch định và thi hành từ trên xuống, nghĩa là nhà nước mới giữ vai trò trọng yếu.

Quy luật về kinh tế

Nguyên Lam: Thưa ông, khi cho rằng nhà nước mới giữ vai trò trọng yếu qua chính sách kinh tế quốc gia từ trên ban xuống thì phải chăng các chuyên gia về phát triển vẫn đánh giá sai hai yếu tố kia là thị trường và người dân?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng đấy mới là vấn đề! Đầu tiên, cái tiêu chuẩn 6% ấy thật ra vô giá trị vì nhiều nước nghèo khác cũng từng có chục năm tăng trưởng như vậy, sau đó là suy sụp. Thí dụ như Togo vào quãng 1960, Paraguay vào quãng 1970 hay Oman quãng 1980, rồi Cộng hòa Dominican vào quãng 1990, nước Chad vào quãng 2000 hay Rwanda vào quãng 2010. Ngày nay chẳng còn ai nhắc đến sáu nước bại liệt đó nữa. Lý do ở đây là xứ nào cũng có thể được chục năm tăng trưởng mà không bền vững, và tăng trưởng chưa thể là phát triển.

Sai lầm thứ hai của các chuyên gia về phát triển là cho rằng yếu tố dẫn tới tăng trưởng lâu dài thuộc về chính sách vĩ mô do nhà nước đề ra. Thí dụ như bội chi ngân sách, chế độ kiểm soát giá cả và lãi suất hay mậu dịch, v.v… Lý do sai lầm là vì giới chuyên gia được mời làm tư vấn cho nhà nước về chính sách và tưởng rằng hoặc làm người ta tưởng là nhờ sự cố vấn của họ mà kinh tế đạt mức tăng trưởng trong lâu dài. Sự thật thì nhiều đà tăng trưởng ấy có thể khựng và đảo ngược như các trường hợp nói rên. Nguyên nhân tăng trưởng hay suy thoái có khi chẳng thuộc chính sách kinh tế nhà nước mà vì nhiều yếu tố có tính chất giai đoạn, như sự thăng trầm của giá nguyên nhiên vật liệu, của đầu tư hay viện trợ từ nước ngoài, hoặc thậm chí thiên tai lẫn cả cách đếm sai đà tăng trưởng. Vì thế, Singapore hay Hong Kong cũng có 10 năm ngoạn mục từ năm 2000 tới 2010 nhưng sau đó thì giảm.

Có một quy luật thực tế ở đây là khi một nền kinh tế đạt mức tăng trưởng vượt bậc, hơn hẳn trung bình của các quốc gia khác, thì sau mươi năm là hụt hơi. Đầu năm 1997, các chuyên gia quốc tế vừa ngợi ca phép lạ kinh tế Đông Á thì Tháng Bảy năm đó lại nổ ra vụ khủng hoảng kinh tế với hậu quả là Đông Á bị suy thoái trong bốn năm liền tới độ Nam Hàn còn phải xin Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế cấp cứu. Sai lầm căn bản nhất của giới chuyên gia là nhìn vào chuyện trừu tượng mà quên hẳn số phận của dân nghèo khi sẵn sàng cộng tác với các chế độ chuyên chính độc tài và lại còn nói rằng nhờ sức mạnh của nhà nước thì quốc gia mới dễ phát triển.

Nguyên Lam: Chúng ta bước qua một vấn đề khác, là thưa ông, liệu các chế độ độc tài có ưu thế cao hơn nền dân chủ hay không khi họ đề ra chính sách kinh tế cho toàn dân?

000_MJ3XE-400.jpg
Khách sạn và công viên giải trí tại Resort World Sentosa, Singapore chụp hôm 10/3/2017. AFP photo

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Đấy là huyền thoại nguy hại nhất. Huyền thoại là cái gì đó không thật mà cứ được loan truyền, và trong lĩnh vực kinh tế, các chuyên gia về phát triển ưa loan truyền lý luận tai hại đó. Tôi xin lấy một thí dụ tiêu biểu là công trình nghiên cứu hỗn hợp của Ngân hàng Thế giới và nhà cầm quyền Trung Quốc được công bố năm 2013 mà tiết mục chuyên đề của chúng ta cũng có nhắc tới. Đấy là Phúc trình có tên là “Trung Quốc năm 2030: Xây dựng một Xã hội Hiện đại, Hài hòa và Sáng tạo”.

Sự thật là trong khi Bắc Kinh đàn áp người dân, kiểm soát báo chí thì họ quyết định về các chuyên gia của Ngân hàng Thế giới và kinh tế gia của họ làm công tác tuyên truyền này. Khi thấy Ngân hàng Thế giới tung ra báo cáo ấy thì người ta tin rằng định chế tài trợ phát triển này xác nhận tương lai sáng láng của Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của một chế độ sáng suốt có đầy ý chí.

Trong khi đó, người ta bỏ qua số phận của dân nghèo trong một quốc gia đầy ô nhiễm và tham nhũng. Đây là một hiện tượng lầm lạc đã có từ lâu và rất khó sửa. Nó đã có từ thời Đặng Tiểu Bình nay tiếp tục với Tập Cận Bình. Sự thật thì kinh tế có thể tăng trưởng nhờ sức dân mặc dù người dân lại là nạn nhân của chế độ độc tài, và ngược lại, chính sách kinh tế của nhà nước độc tài mới dễ gây ra khủng hoảng.

Khó sửa sai

Nguyên Lam: Nhưng thưa ông, vì sao người ta lại khó cải sửa sự lầm lạc như ông vừa nói?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thứ nhất là nhiều người cho rằng chế độ độc tài có khả năng tập trung cao hơn chế độ dân chủ để phát triển quốc gia dù khái niệm phát triển đó chỉ là tăng trưởng mà thôi. Sự thật ở đây là một thống kê u ám. Các lãnh tụ độc tài thường tàn phá quốc gia mà không có thuốc chữa, còn trường hợp tương đối tốt đẹp như lãnh tụ Phác Chính Hy tại Nam Hàn, Lý Quang Diệu của Singapore hay Augusto Pinochet của xứ Chile chỉ là ngoại lệ, là rất hãn hữu. Thứ hai, nhiều người công nhận rằng dù các lãnh tụ độc tài tệ hại nhất có thể tàn phá quốc gia hơn một lãnh tụ dân chủ bất tài nhất thì các lãnh tụ độc tài sáng suốt vẫn có nhiều thành tựu hơn các lãnh tụ dân chủ sáng suốt nhất. Sai lầm thứ hai này mới khó cải sửa vì nó khá mơ hồ.

Sự thật thì kinh tế có thể tăng trưởng nhờ sức dân mặc dù người dân lại là nạn nhân của chế độ độc tài, và ngược lại, chính sách kinh tế của nhà nước độc tài mới dễ gây ra khủng hoảng.
– Nguyễn-Xuân Nghĩa

Thí dụ điển hình gần gũi với Việt Nam là trường hợp Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh là người khởi xướng đổi mới, hay Thủ tướng Võ Văn Kiệt là người tiến hành sau đó, hoặc gần đây hơn nữa là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nhiều tai họa kinh tế phát sinh từ thời lãnh đạo của các nhân vật ấy mà chuyên gia quốc tế không biết, hoặc có biết một cách mù mờ thì tránh nói tới. Sự thật ở đây là ngoài vài trường hợp ngoại lệ, không phải là chế độ độc tài phát triển quốc gia nhanh hơn chế độ dân chủ. Ách độc tài thu hẹp khả năng cải sửa của thị trường và người dân cho nên dân nghèo mới là nạn nhân ở dưới đáy. Hãy hỏi bà con ở miền Trung ngày nay tại Vệt Nam thì biết thế nào là nạn nhân ở dưới đáy vì nhiều quyết định xa xưa của chế độ độc tài.

Trong khi đó, sự thật lịch sử từ bảy tám chục năm qua đều cho thấy là các chế độ dân chủ đã phát triển bền vững hơn. Quan trọng nhất, chế độ dân chủ có khả năng thẩm xét thực tài của giới chuyên gia trong khi chế độ độc tài lại dùng chuyên gia quốc tế làm bình phong cho các chính sách tai hại của họ. Việc Ngân hàng Thế giới hay Công ty tài trợ IFC vừa bị phê phán cho thấy là chính khả năng các chuyên gia quốc tế về phát triển đang bị thẩm xét lại.

Nguyên Lam: Vì thời lượng có hạn cho một đề tài lý thú, Nguyên Lam xin yêu cầu ông đưa ra một kết luận, dù đó có thể chỉ là một kết luận tạm cho một vấn đề quá sâu xa phức tạp.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Khi một chế độ độc tài cho người dân có thêm quyền tự do về kinh tế thì đấy chỉ là một cách dung hợp với yêu cầu của thị trường mà lại được giới chuyên gia phát triển đánh giá là đổi mới hay cải cách. Trong khi đó, chế độ độc tài lại không cho người dân có thêm quyền tự do về chính trị, là trường hợp phổ biến của nhiều nước nghèo, kể cả Trung Quốc hay Việt Nam, thì giới chuyên gia tránh nhắc tới, hoặc còn biện hộ rằng nhờ đó mà có ổn định. Ta rất nên thận trọng với loại chuyên gia ấy khi họ ăn cây nào phải rào cây nấy.

Sự thật quan trọng nhất là công cuộc phát triển nước nghèo phải đi từ dưới lên, từ dân nghèo. Quyền tự do, nhân phẩm hay nhân vị của họ phải là điểm khởi đầu và chính sách phát triển phải ưu tiên nhắm vào họ. Cái chân lý hay “sợi chỉ đỏ xuyên suốt” theo ngôn từ cộng sản, phải xuất phát từ một điều đã được các nước Tây phương xiển dương từ hơn hai thế kỷ trước, rằng “con người ta sinh ra là phải có quyền tự do và được bình đẳng”. Lớp người nghèo khổ nhất không có cơ hội bình đẳng và thiếu tự do chọn lựa.

Chính sách phát triển phải khởi đi từ thành phần bần cùng đó, chứ không từ các giai tầng trên và nhất là không từ lãnh đạo ở chóp bu đã lấy tài nguyên quốc gia nuôi các chuyên gia có nhiệm vụ bảo vệ chính nghĩa đáng ngờ của chế độ. Bản thân tôi thường đọc phúc trình của các chuyên gia này với sự nghi ngờ đó!

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do và Nguyên Lam xin cảm tạ ông về cuộc phỏng vấn kỳ này.

Vì Sao Người Việt Lại Bỏ Xứ Ra Đi? – Ku Búa

Vì Sao Người Việt Lại Bỏ Xứ Ra Đi? – Ku Búa

Mới tuần rồi tôi ra sân bay tiễn một người quen bay đến một xứ khác. Tôi không hề đơn độc. Ở sân bay lúc đó có vô số người cũng làm điều tương tự. Họ tiễn người thân và bạn bè của họ ra đi không hẹn ngày về. Đó không phải là lần đầu và chắc chắn là sẽ không phải là lần cuối. Mặc dù cuộc chiến đã chấm dứt hơn 41 năm rồi nhưng làn sóng xuất ngoại vẫn không thay đổi. Cuộc di cư thầm lặng hiện tại không phải bằng những chiếc thuyền mà bằng những chuyến bay. Tuy đã giảm rất nhiều, giờ chỉ là một phần chút xíu so với trước đây, nhưng xu hướng này vẫn tồn tại.

Đọc báo hay lướt Facebook thì bạn có thể thấy hàng loạt các quảng cáo du học định cư, đầu tư lấy thẻ xanh hay tìm việc làm ở Nhật. Tôi không thể nào không buồn và chạnh lòng. Nhưng vì sao người Việt Nam lại ra đi? Họ không chỉ là những người nghèo bán nhà đi lao động ở Đài Loan hay những cô gái nghèo lấy chồng Hàn Quốc. Số người ngày càng trở nên khá giả và thuộc thành phần ưu tú của xã hội chúng ta. Họ là những doanh nhân, nghệ sĩ, nhà đầu tư, trí thức, giảng viên hoặc nhân viên cao cấp.

Vì sao họ lại ra đi? Có nhiều nguyên nhân, có nhiều lý do. Ở đây tôi không thể nào nói hết. Tôi chỉ có thể nói sơ sơ.
1. Họ ra đi vì họ không cảm thấy an toàn.
2. Họ ra đi vì họ chán cái không khí đầy ô nhiễm ở nơi này.
3. Họ ra đi vì họ cảm thấy mình không được tôn trọng khi đến cơ quan nhà nước làm thủ tục.
4.Họ ra đi vì đóng thuế nhiều nhưng nhận lại quá ít, hoặc chẳng nhận lại gì.
5.Họ ra đi vì họ không muốn con cái họ bị thầy cô dìm và ép.
6. Họ ra đi vì chính phủ liên tục ban hành những bộ luật vô lý.
7.Họ ra đi vì họ phát ngán với việc doanh nghiệp của họ bị thanh tra không lý do.
8. Họ ra đi vì họ lo sợ đồ ăn của họ có an toàn hay không, nó có hóa chất hay sạch hay không.
9. Họ ra đi vì để tìm cái hộ chiếu mà cho phép họ đi nhiều nước mà không cần phải bỏ tiền xin visa.
10. Họ ra đi vì ghét cảnh phải đút lót các y tá bác sĩ khi đi vào bệnh viện.
11. Họ ra đi vì họ không tìm thấy trách nhiệm trong một xã hội vô trách nhiệm.
12. Họ ra đi vì khi họ muốn sống một cuộc sống trung thực và không gian dối.
13. Họ ra đi vì họ muốn làm người lương thiện, vì nơi này làm người lương thiện vô cùng khó.
14. Họ ra đi vì họ muốn được hưởng lương cao, hay nói chính xác hơn là đúng giá trị với sức lao động của họ chứ không phải dựa vào mối quan hệ của họ.
15. Họ ra đi vì luật pháp không hề bảo vệ họ, nó chỉ bảo vệ những ai có tiền.
16. Họ ra đi vì họ muốn tìm sự công bằng.
17. Họ ra đi vì muốn cầm cái lá phiếu bầu để coi nó ra sao.
18. Họ ra đi vì khi họ lên tiếng nói nên những sự thật về đất nước, họ lại bị quy là phản động.
19. Họ ra đi vì họ đã mất niềm tin vào đất nước, con người và chính phủ Việt Nam.
20. Họ ra đi vì họ chẳng biết làm gì hơn trừ việc dùng đôi chân của họ để cất lên tiếng nói.

Việt Nam từ lâu đã không còn là một điểm đến, một nơi đáng sống. Nó chỉ là một trạm dừng chân. Nhà đầu tư đến đây để kiếm tiền, doanh nhân đến đây để nhận lương cao hơn, khách du lịch đến đây để ở khách sạn 5 sao giá rẻ và các cô cậu thanh niên đến đây để khám phá sự thú vị mà đất nước họ không có. Nhưng bao nhiêu người sẽ ở lại và coi nơi đây là nhà? Cũng có rất nhiều, nhưng so với số người ra đi thì là bao nhiêu? Quá ít. Việt Nam không là nơi đến, nó không thể là nơi đến được vì chính những người dân sinh sống ở đây cũng chẳng coi nó là nhà.

Ku Búa @ Café Ku Búa

Cuộc đời có 10 thứ dù con người có muốn cũng đành bất lực

Cuộc đời có 10 thứ dù con người có muốn cũng đành bất lực

Nếu bạn đang cảm thấy phiền não, cảm thấy mất niềm tin vào cuộc sống này, thì hy vọng rằng sau khi bạn biết được 10 điều “bất lực” trong đời người này, bạn sẽ thấu hiểu được nhiều hơn, buông bỏ nhiều hơn, đạt được nhiều hơn.

Trong dòng chảy cuộc đời, thời gian cuốn trôi đi bao thị phi, phiền muộn, bao niềm vui nỗi buồn, cũng như cả tuổi thanh xuân. (Tranh sưu tầm từ Internet)

  1. Người rời xa bạnCon người đến với nhau vì duyên, ra đi cũng là duyên, không cần quá níu kéo, bởi có níu kéo cũng không giữ được.

    Người rời xa bạn, đó là họ đã đánh mất bạn, không phải bạn đã đánh mất họ. Cũng có thể, rời xa là để gặp lại nhau tại một nơi nào đó tốt đẹp hơn.

    2. Thời gian trôi qua

    Trong dòng chảy cuộc đời, thời gian cuốn trôi đi bao thị phi, phiền muộn, bao niềm vui nỗi buồn, cũng như cả tuổi thanh xuân. Thời gian một khi trôi qua là không thể nào trở lại, vậy nên, việc gì cần làm thì nên cố gắng nỗ lực, đời này, ít nhất là không hổ thẹn với chính mình.

    3. Thất bại

    Thất bại tựa như một bức tường đổ sụp, nó đè lên thân bạn, khiến bạn không cách nào vùng vẫy, không thở được, khiến bạn mất đi niềm tin. Tuy nhiên, nếu bạn lặng lẽ chấp nhận nó, thì bạn sẽ không cách nào đứng dậy được nữa. Nếu bạn cố gắng đứng lên, bạn sẽ thấy mọi thứ không quá tồi tệ như mình vẫn nghĩ.

    4. Không thể lựa chọn xuất thân

    Có người sinh ra đã là vua, có người sinh ra là quý tộc, nhưng rất nhiều người sinh ra đã là thường dân. Trên thế giới này, chúng ta có thể thay đổi được mọi thứ, nhưng không thể lựa chọn cho mình được nơi sinh ra, lựa chọn bậc sinh thành.

CO DON

Từ trong sâu thẳm mỗi người đều có một nỗi cô đơn không sao hiểu được. (Ảnh sưu tầm từ Internet)

  1. Sự cô đơn không ai hiểu thấuCon người, bất kể là đang vui vẻ hay ưu sầu, cao sang hay hèn mọn, đều có thể bắt gặp cảm giác cô đơn không sao hiểu thấu, nó quanh quẩn trong tâm hồn mỗi người, tựa như đang tìm kiếm ý nghĩa chân thực của đời người.

    6. Tình yêu vô vọng 

    Một loại độc dược rất ngọt ngào gọi là “ưa thích”, cái thích này không có giới hạn, đủ dạng đủ loại, nhưng rốt cuộc ưa thích vẫn là ưa thích, nó không phải là “yêu”.

    7. Lãng quên

    Nhiều người trong chúng ta cho rằng cả đời sẽ không bao giờ quên đi sự tình, ngay cả những chuyện chúng ta cho rằng không thể quên, rốt cuộc vẫn sẽ bị lãng quên. Cuộc sống vì có kỷ niệm, nên mới có những phút giây hoài niệm. Hãy cứ để mọi chuyện thuận theo tự nhiên, vui với hiện tại là điều nên làm nhất.

    8. Quá khứ đã qua

    Một giây vừa trôi qua đã trở thành quá khứ. Cuộc sống này, rất nhiều thứ sẽ mất đi, dù muốn hay không cũng nên chấp nhận. Điều duy nhất có thể đọng lại, đó là những ký ức không bị lãng quên.

    9. Người khác cười nhạo

    Miệng là của người khác, tai là của bản thân mình, nói hay không đó là việc của họ, còn nghe hay không lại là chuyện riêng của mình, chúng ta phải học cách mỉm cười khi đối mặt với tất cả điều này.

    10. Không tránh khỏi cái chết

    Cuộc sống là một quá trình, và cái chết là điều không thể tránh khỏi. Nếu như đã không tránh khỏi, vậy cứ thản nhiên đối mặt, xem nhẹ nó, chuyện gì đến sẽ đến, như vậy những phút giây tồn tại trên đời này mới có ý nghĩa, mới có thể an nhiên tự tại.      Anh chị Thụ & Mai gởi

Để đón nhận sự sống đời đời

Để đón nhận sự sống đời đời

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà 

(Suy niệm Tin mừng Gioan (Ga 11,3-7.17.20-27.33-45) trích đọc vào Chúa Nhật 5 mùa Chay năm A)

Trong muôn vàn nỗi sợ, thì sợ chết đứng hàng đầu. Thiết tưởng trên đời không có gì làm người ta khiếp sợ cho bằng sự chết. Tin khủng khiếp nhất là tin bị mắc bệnh ung thư, bị án tử hình…

Và không gì đáng quý trọng, đáng khao khát trên đời cho bằng được vui sống, sống trong hạnh phúc và vĩnh cửu.

Sự giòn mỏng của kiếp người

Tuy nhiên, sự sống đời này lại rất mỏng giòn, mong manh, tạm bợ. Các em nhỏ ngày xưa có trò chơi thổi bong bóng thật hay. Các em hòa một ít xà phòng trong ly nước, rồi dùng một cọng rơm nhúng vào đó và bắt đầu thổi. Thế là rất nhiều quả bóng lớn nhỏ khác nhau xuất ra từ đầu cọng rơm, bay nhởn nhơ trong không gian, long lanh hấp dẫn, óng ánh muôn màu. Nhưng rồi, chỉ vài giây sau, bong bóng nầy nối tiếp bong bóng kia, bụp, bụp bụp…! Tan biến hết! Tất cả trở về hư không!

Đời sống con người cũng thế. Chúng ta xuất hiện trên đời như những chiếc bong bóng xuất ra từ đầu cọng rơm, chúng ta nhởn nhơ trong cuộc đời, cuộc đời chúng ta cũng lóng lanh sắc màu như những quả bóng xà phòng kia và số phận chúng ta cũng như những quả bóng bé bỏng đó, kẻ trước người sau nối tiếp nhau từ giã cuộc đời.

Đứng trước thân phận giòn mỏng, phù du của kiếp người, một nhà thơ Nguyễn Công Trứ than rằng: “Ôi, nhân sinh là thế, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao…”

Nhờ đâu có cuộc sống lâu bền?

Ai trong chúng ta cũng khát khao được sống, nhưng là muốn có được một đời sống lâu dài chứ không phải là đời sống giòn mỏng, tạm bợ; muốn có được một đời sống hoan lạc chứ không chỉ là một cuộc sống đầy gian truân khổ ải ở trần gian.

Nhưng làm sao để có được đời sống tuyệt vời như mong ước?

Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su bày tỏ cho chúng ta một bí mật tuyệt vời, một bí quyết giúp chúng ta chiếm hữu cho mình sự sống lâu bền bất tận, một đời sống hoan lạc trên thiên quốc. Bí mật đó, bí quyết đó đã được Chúa Giê-su bày tỏ từ hai ngàn năm qua, khi Chúa nói với Mác-ta là chị của La-da-rô,  khi anh này đã được mai táng bốn ngày:

“Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Và bất cứ ai sống mà tin vào Ta sẽ không chết bao giờ.”

Để minh chứng cho lời mình nói, Đức Giê-su đã làm cho La-da-rô sống lại, dù ông nầy đã an giấc trong mộ.

Qua sự kiện nầy, Chúa Giê-su muốn tỏ cho chúng ta biết Ngài là nguồn ban sự sống.

Như mặt trời là nguồn sáng cho địa cầu thế nào thì Chúa Giê-su là nguồn ban sự sống đời đời cho nhân loại như thế. Ngài đã ban lại sự sống cho người đã chết chôn trong mồ và chính Ngài sau khi chết đã tự mình sống lại.

Làm sao để đón nhận sự sống đời đời từ Chúa Giê-su?

Muốn đạt tới sự sống đời đời, thì chúng ta cần phải tin vào Đức Giê-su Ki-tô, như lời Ngài phán: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ.”

Nhưng tin là gì?  Tin ở đây không phải là tin suông. Vì “đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Tin vào Đức Giê-su là gắn bó đời mình với Đức Giê-su, kết hợp với Ngài và sống như Ngài đã sống, là yêu thương phục vụ mọi người như Ngài đã nêu gương…

Lạy Chúa Giê-su là nguồn ban sự sống,

Bóng đèn muốn được toả sáng thì phải được nối kết với nguồn điện;

Cành nho muốn được trổ sinh hoa trái phải được tháp nhập vào thân nho;

Bàn tay muốn sống còn và hoạt động thì phải nối liền với thân thể.

Xin cho chúng con luôn kết hợp với Chúa cách mật thiết, như bóng đèn với nguồn điện, như cành nho với thân nho, như bàn tay với thân thể… để được đón nhận sự sống đời đời do Chúa truyền ban.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Anh chị Thụ & Mai gởi

40 THỨ CÓ THỂ TỪ BỎ ĐỂ SỐNG MÙA CHAY VÀ SUỐT CẢ ĐỜI

40 THỨ CÓ THỂ TỪ BỎ ĐỂ SỐNG MÙA CHAY VÀ SUỐT CẢ ĐỜI

Trầm Thiên Thu,

Thứ Tư Lễ Tro là khởi đầu Mùa Chay.  Mùa Chay tới, nhiều người nghĩ phải cố gắng từ bỏ điều gì đó để bước theo Đức Kitô.  Tuy nhiên, những điều này lại thường ít ảnh hưởng đến cuộc sống, chúng ta “khôn lỏi” lắm!

Dưới đây là 40 thứ có thể từ bỏ để sống Mùa Chay.  Không phải là những thứ liên quan việc ăn uống, nhưng chúng thực sự cần từ bỏ.  Mùa Chay kéo dài 40 ngày, mỗi ngày cố gắng từ bỏ 1 điều.  Trong 40 điều này, có những điều không chỉ từ bỏ trong Mùa Chay mà phải từ bỏ suốt cả đời.

  1. SỢ THẤT BẠI– Bạn không thành công nếu chưa trải qua thất bại.  Đúng như tục ngữ Việt Nam nói: “Thất bại là mẹ thành công”.
  2. VÙNG AN TOÀN– Đó là “vùng thoải mái”, sợ khó.  Dám ra ngoài “vùng” này thì chúng ta mới có thể khám phá những điều mới lạ.
  3. CẢM THẤY HOÀI NGHI– Có lúc chúng ta nghi ngờ rằng không biết Tạo Hóa có tạo dựng nên mình hay không.  Hãy xác định như tác giả Thánh Vịnh: “Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con.  Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu!  Hồn con đây biết rõ mười mươi.  Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì, khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu.  Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy; mọi ngày đời được dành sẵn cho con đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu của đời con khởi sự”(Tv 139, 13-16).
  4. THIẾU KIÊN NHẪN– Thời giờ của Thiên Chúa là thời giờ hoàn hảo.  Mọi thứ đều đúng hẹn, đúng kỳ theo ý Ngài tiền định và quan phòng.
  5. SỐNG ẨN DẬT– Còn hít thở, chúng ta còn sống với người khác và tương tác với họ vì Đức Kitô.  Công việc của chúng ta luôn ảnh hưởng người khác.
  6. LÀM VUI LÒNG NGƯỜI KHÁC– Không ai có thể làm vừa lòng mọi người, nhưng chúng ta phải luôn cố gắng làm vui lòng người khác, còn họ có vừa lòng hay không là phần của họ.
  7. SO SÁNH– Một là cảm thấy mình kém cỏi hơn người khác, hai là cảm thấy mình “ngon lành” hơn người khác.  Dạng nào cũng không được.
  8. TRÁCH CỨ– Chúng ta có xu hướng không dám nhận lỗi, và luôn muốn đổ lỗi cho người khác.
  9. PHẠM TỘI– Nhân vô thập toàn.  Mặc dù chúng ta là tội nhân, Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, và Chúa Giêsu đã chết vì chúng ta.  Hôm nay là ngày mới, hôm qua đã không còn.
  10. MẤT TỰ CHỦ– Do đó chúng ta khó có thể hoàn tất công việc và làm tốt hơn.
  11. THIẾU DỰ ĐỊNH– Các quyết định khôn ngoan hiếm khi trở thành vô ích.
  12. KHÔNG MINH BẠCH – Một là không minh bạch về điều này hoặc điều nọ (khuất tất), hai là không trong sạch (nhân đức).
  13. TỰ QUYỀN– Thiên Chúa không mắc nợ chúng ta điều gì, thế giới cũng chẳng mắc nợ chúng ta điều gì.  Hãy cố gắng sống trong ân sủng và khiêm nhường.
  14. LÃNH ĐẠM– Cuộc đời có bao nhiêu mà hững hờ.  Không quý mến nhau thì cũng đừng kèn cựa nhau.  Tranh chấp nhau, giành giật nhau, hơn thua nhau làm gì?
  15. GHEN GHÉT– Hãy cảnh giác kẻo mắc lừa ma quỷ, bởi vì chúng rất ranh mãnh.  Kinh Thánh căn dặn: “Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác”(Rm 12, 21).
  16. TIÊU CỰC– Hãy cố gắng quan hệ hòa nhã với mọi người.  Tránh né người khác là tiêu cực, mà cũng chỉ vì chúng ta không coi trọng người khác nên mới tránh né họ.
  17. MÊ VẬT CHẤT– Hãy nhớ rằng có Thiên Chúa là có tất cả, mất Thiên Chúa là mất tất cả: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì”(Tv 23, 1).
  18. SỐNG MÁY MÓC– Càng đầu tư nhiều thì càng có lợi nhiều.  Về tinh thần và tâm linh cũng vậy.
  19. THAN PHIỀN– Đừng cằn nhằn, khó tính, than thân trách phận hoặc trách móc người khác, hãy cố gắng xử lý và giải quyết vấn đề cho thấu đáo.
  20. BẤT CẦN– Thiên Chúa muốn chúng ta hạnh phúc cả đời này và đời sau.  Đó là niềm vui sống. Đừng buông xuôi, bất cần đời !
  21. GAY GẮT – Đó là tự làm khổ mình, và tất nhiên cũng làm khổ người khác.  Tâm bất an thì không thể nào sống vui và sống khỏe, bệnh tật phát sinh từ đó.
  22. CHIA TRÍ– Cuộc sống có nhiều thứ khiến chúng ta chia trí, vì thế cần phải tập trung vào mục đích của mình.
  23. MẶC CẢM – Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ chúng ta, dù chúng ta xấu xa và tội lỗi: “Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa thì hãy còn có Chúa đón nhận con”(Tv 27, 10).
  24. TẦM THƯỜNG– Cuộc đời chúng ta có thể không ai biết đến, không có gì khác thường, sống rất bình thường, nhưng tuyệt đối đừng sống tầm thường.
  25. GÂY CHIA RẼ – Chia rẽ là chết, đoàn kết mới sống.  Khuyến khích nhau là điều cần thiết, mọi nơi và mọi lúc:“Phải khuyến khích nhau, nhất là khi anh em thấy Ngày Chúa đến đã gần”(Dt 10, 25).
  26. BẬN RỘN– Đó là “huy hiệu danh dự” của người mê công việc mà bỏ bê những thứ cần thiết khác.
  27. CÔ ĐỘC – Có Chúa Giêsu, chúng ta sẽ không cô độc.  Ngài luôn hiện diện và đồng hành với chúng ta.
  28. BẤT HÒA – Xung đột là mối nguy cho cuộc sống, cả đời thường và tâm linh.  Xung đột xảy ra thì không thể hợp tác.  Sự cộng tác và đồng tâm nhất trí rất cần: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho”(Mt 18, 19).
  29. VỘI VÀNG– Dục tốc bất đạt.  Dù to hay nhỏ, cái gì cũng cần có thời gian, không thể một sớm một chiều.
  30. LO LẮNG– Thiên Chúa kiểm soát mọi sự, chúng ta có lo lắng cũng chẳng thay đổi được gì: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo.  Ngày nào có cái khổ của ngày ấy”( Mt 6, 33-34 ).
  31. THẦN TƯỢNG HÓA – Đừng thần tượng hóa bất cứ ai, bắt chước là ngu xuẩn, hãy cứ là chính mình!  Chỉ có Thiên Chúa là Đấng hoàn hảo mà thôi.
  32. CỐ CHẤP– Cuộc sống luôn phải thay đổi để thích nghi mọi thứ.  Cố chấp là ích kỷ, là hèn nhát.
  33. KIÊU NGẠO– Thiên Chúa hạ bệ kẻ kiêu ngạo, nhưng nâng cao người khiêm nhường (Lc 1, 51-52).
  34. NÔNG CẠN – Đừng nói rằng vấn đề khó quá, chính vấn đề khó đó cho chúng ta biết Thiên Chúa vĩ đại.“Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”(Nguyễn Thái Học).
  35. ĐỐ KỴ– Người Pháp có câu nói chí lý: “Đừng vì kính mến Chúa mà chống đối người khác.” Mọi người đều là anh em và là con một Cha trên trời.
  36. VÔ ƠN BẠC NGHĨA– Cuộc sống là những ngày tháng chúng ta mắc nợ Thiên Chúa, chúng ta cũng mắc nợ tha nhân và xã hội nhiều thứ.  Do đó, chúng ta không thể không biết ơn Thiên Chúa và cuộc đời.
  37. THAM LAM– Thiên Chúa có kế hoạch riêng dành cho mỗi người: “Ta đã gọi ngươi đích danh, đã ban cho ngươi một tước hiệu, dù ngươi không biết Ta”(Is 45, 4).  Hãy cố gắng làm trọn công việc Ngài giao phó.
  38. TỰ MÃN – Chúa Giêsu là sức mạnh của chúng ta:“Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết”(Pl 4, 13).  Có Ngài thì chúng ta mới làm được công kia việc nọ, không có Ngài thì chúng ta chẳng làm nên trò trống gì đâu: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được”(Ga 15, 5).
  39. ƯU SẦU – Buồn thì cứ khóc, xong rồi thôi.  Đừng giam mình trong vòng ưu sầu.  Mọi sự sẽ qua, cứ tín thác vào Thiên Chúa: “Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Người”(Tv 30, 5b).
  40. CUỘC ĐỜI– Thế gian là cõi tạm, rồi sẽ qua đi.  Đừng coi nặng vật chất, kể cả cuộc sống của chúng ta, tất cả chỉ là bụi tro mà thôi.  Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”(Ga 12, 25).

Trầm Thiên Thu,

theo Greater Things Today, Mùa Chay 2017