Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc nhận xét về Trung Quốc và vấn đề biển Đông

Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc nhận xét về Trung Quốc và vấn đề biển Đông

Gia Minh, PGĐ Ban Việt Ngữ RFA
2016-06-06

000_BJ18Q.jpg

Từ trái sang: Bộ trưởng Quốc phòng Pháp Jean-Yves Le Drian, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh, tổng giám đốc và giám đốc điều hành của Viện Quốc tế Nghiên cứu Chiến lược (IISS) John Chipman, và phó tham mưu trưởng của Trung Quốc Đô đốc Sun Jianguo trong một đối thoại Shangri-La 15 tại Singapore vào ngày 5 tháng 6 năm 2016.

AFP PHOTO

00:01/06:49

Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Vấn đề Biển Đông lại trở thành đề tài nóng ở Đối thoại Shangri-la vừa kết thúc vào ngày hôm qua 5 tháng 6.

Việc đưa vấn đề Biển Đông ra bàn thảo như thế có hứa hẹn những chuyển biến tích cực gì cho tình hình tranh chấp lâu nay là nội dung cuộc phỏng vấn nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc từ Sài Gòn ngày 3 tháng 6.

Gia Minh: Có thể đánh giá Trung Quốc đã thành công khi đặt những sự việc đã rồi không?

Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc: Tôi tán thành với anh. Năm 1974 khi Trung Quốc chiếm phần còn lại quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam trước sự phản kháng mạnh mẽ của Việt Nam Cộng Hòa và một số nước nhưng rồi từ từ Trung Quốc cũng xác lập vùng chiếm đóng trên quần đảo Hoàng Sa đến nay hơn 40 năm.

Trong cuộc chiến ngăn chặn ảnh hưởng, sự bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông thì không thể một hai Shangri-la có thể giải quyết được.
– Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc

Rồi vấn đề Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm trái phép 7 cụm đảo thuộc Trường Sa của Việt Nam xong biến chúng thành các đảo nhân tạo; Mỹ, Nhật cũng lên tiếng và Liên hiệp quốc cũng cảnh báo…; và việc tôn tạo đó cũng ‘là sự đã rồi’. Rồi tiến đến Trung Quốc đưa máy bay quân sự, đưa tàu và đưa các lực lượng dân sự chuyển đến sinh sống trên các đảo này thì cũng là sự đã rồi và cũng không thấy có sức mạnh nào kiềm chế hành động của Trung Quốc. Do đó Trung Quốc cảm thấy rằng quốc tế đã bất lực trước hành động của mình, vì Trung Quốc bao giờ cũng cho đồng tiền đi trước với lợi thế là cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới. Do đó trong cuộc chiến ngăn chặn ảnh hưởng, sự bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông thì không thể một hai Shangri-la có thể giải quyết được mà đây là sự quyết tâm, sự đồng lòng của các siêu cường trên thế giới, của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc.

Gia Minh: Mới ngày hôm qua (2/6), người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Lê Hải Bình, cho biết vào ngày 9 tháng 6 tại Hạ Long sẽ có cuộc họp cấp cao ASEAN – Trung Quốc về việc thực hiện DOC (Tuyên bố các bên về ứng xử tại Biển Đông). Là một nhà nghiên cứu thì ông thấy có thêm một hoạt động như thế nữa sẽ có tín hiệu gì cho tình hình tại Biển Đông?

Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc: Nếu Trung Quốc đồng ý họp với ASEAN về Tuyên bố Ứng xử tại Biển Đông cũng chỉ nhằm hòa hoãn và kéo dài thời gian mà thôi. Còn COC (Bộ Quy tắc về ứng xử tại Biển Đông) thì tương lai rất mù mịt, vì các nước ASEAN, bao gồm Việt Nam, bao giờ cũng yêu cầu giữ nguyên trạng, không làm phức tạp tình hình, không đe dọa, không dùng vũ lực; nhưng nguyên trạng là nguyên trạng lúc nào, nguyên trạng của các đảo mà Trung Quốc chiếm đóng trái phép, hay là nguyên trạng về thể hiện chủ quyền, quá trình thực hiện chủ quyền, hay là nguyên trạng ‘ở đâu, ở đó’ như tình hình hiện nay mà Trung Quốc mong muốn?

Gia Minh: Ông cũng có ý kiến Liên hiệp quốc phải tham gia vào vấn đề này, và người ta dự đoán Tòa Trọng Tài Thường Trực Quốc tế trong thời gian sắp đến sẽ đưa ra phán quyết về vụ kiện do Philippines đệ nạp hồi đầu năm 2013. Thế nhưng có những diễn tiến như Đài Loan vừa lên tiếng, rồi Philippines có tổng thống mới mà đường lối có vẻ khác với vị tiền nhiệm; tất cả những điều đó có ý nghĩa gì trong tình hình hiện nay?

000_BJ0OG.jpg

Đô đốc Sun Jianguo của Trung Quốc, phó tham mưu trưởng của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), phát biểu trong Đối thoại Shangri-La tại Singapore vào ngày 5 Tháng 6 năm 2016. AFP PHOTO

Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc: Trước hết nói về thái độ của tân tổng thống Philippines muốn hòa hoãn, muốn đối thoại với Trung Quốc, tôi cho rằng đây là một bước lùi trong đường lối đấu tranh của Philippines với Trung Quốc.

Còn vấn đề Tòa sắp sửa phán quyết về đơn kiện của Philippines thì tôi nghĩ rằng có khả năng tòa cũng sẽ tuyên bố đường lưỡi bò ‘vô giá trị’. Bao nhiêu đó cũng đủ để Trung Quốc mất mặt trên thế giới dù Trung Quốc đã tuyên bố sẽ không thực hiện phán quyết của Tòa.

Nhưng đây là dịp may để chúng ta đấu tranh chính trị và đấu tranh pháp lý trên toàn thế giới để cho cộng đồng trên toàn thế giới thấy được bộ mặt thật của Trung Quốc.

Còn nói đối với Liên hiệp quốc, hay cụ thể là Hội Đồng Bảo an Liên hiệp quốc thì chúng ta thấy có hai nhân tố: Trung Quốc và Nga là thành viên Hội Đồng Bảo an; mà Nga bao giờ cũng đứng ngoài ‘tọa sơn quan hổ đấu’ tìm cho mình cái lợi nhiều nhất. Nga có quyền phủ quyết cũng như Trung Quốc nên vấn đề tiếng nói của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc trong giải quyết vấn đề Biển Đông, tôi nghĩ cũng dừng lại ở mức độ ‘bảo vệ hòa bình, tránh chiến tranh, không đe dọa sử dụng vũ lực’… dù có nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc.

Do đó vấn đề quan trọng nhất hiện nay muốn đấu tranh chặn đứng bá quyền của Trung Quốc trên Biển Đông là các nước ASEAN phải nhất trí, phải quyết tâm cùng thống nhất phương án đấu tranh; còn nếu cứ để Trung Quốc xé lẻ ra từng nước – quan điểm của Lào, quan điểm của Campuchia, quan điểm của Philippines như hiện nay, thì Biển Đông mất về tay Trung Quốc chỉ còn là vấn đề thời gian!

Gia Minh: Như vậy không có gì sáng sủa lắm. Trong thực tế vừa rồi Lào cũng tuyên bố nên đàm phán song phương, Campuchia đường lối của họ lâu nay cũng như vậy; khả năng đoàn kết ASEAN theo ông thấy ra sao?

Muốn đấu tranh chặn đứng bá quyền của Trung Quốc trên Biển Đông là các nước ASEAN phải nhất trí, phải quyết tâm cùng thống nhất phương án đấu tranh.
– Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc

Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc: Là một người nghiên cứu về ASEAN trong mấy mươi năm qua, tôi thấy ASEAN không phải như Châu Âu, không phải như Bắc Mỹ, không phải khối NATO. Trong lòng bản thân các nước ASEAN có quá nhiều mâu thuẫn và xung đột giữa các quốc gia với nhau.

Có một điều cụ thể chúng ta nhìn thấy trong hơn 40 năm hình thành và phát triển của ASEAN chưa có một công trình, chưa có một thành tựu nào mang dáng dấp của ASEAN, có hay chăng chỉ là từng nước ASEAN riêng biệt; do đó đừng mong ASEAN trong một sớm một chiều đoàn kết, nhất trí để đối phó lại Trung Quốc trên vấn đề Biển Đông. Vì họ cần ổn định chính trị, họ cần phát triển kinh tế mà hiện nay người ra tay đầu tư, đổ tiền cho họ nhiều nhất là Trung Quốc chứ không phải Mỹ.

Chính vì vậy, ASEAN sẽ bị xé lẻ, ASEAN sẽ tiếp tục mất đoàn kết và ASEAN sẽ không có tiếng nói chung trong vấn đề Biển Đông.

Gia Minh: Theo ông thì thái độ của Việt Nam trong thời gian sắp đến phải thế nào để có thể giữ được những cái có thể giữ?

Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc: Tôi nghĩ chiến lược của Việt Nam hiện nay là đi luồn lách giữa các thế lực siêu cường trên thế giới để giữ vững những phần đất chưa mất và tìm cách đấu tranh pháp lý với Trung Quốc. Nhưng tôi nghĩ những biện pháp đó cũng chưa phải là biện pháp tối ưu.

Tôi mong muốn rằng Nhà nước Việt Nam phải xác định được Trung Quốc là ai? Bạn hay thù! Nếu xác định được bạn hay thù thì mới có được một đối sách hoàn toàn hữu hiệu với Trung Quốc; nhất là nếu trong thời gian gần tuyên bố thiết lập vùng nhận diện phòng không; thậm chí dẫn đến vùng cấm bay, thậm chí đe dọa tất cả các tàu thuyền của Việt Nam di chuyển trên Biển Đông và trong khu vực quần đảo Trường Sa của Việt Nam thì lúc đó bạn – thù sẽ rõ và lúc đó sẽ dễ có phương pháp đối phó với Trung Quốc hơn.

Gia Minh: Cám ơn nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc.

Lời của hai tấm hình

Lời của hai tấm hình

HINH 1

Nguyễn thị Cỏ May (Danlambao) – Người dân Việt Nam ở hai thành phố lớn đứng đầy hai bên lề đường, dưới trời mưa lớn, vẫy tay chào đón tổng thống Hoa Kỳ đi ngang qua, với những tiếng reo hò đồng thanh “Obama! Obama!”. Tên của ông tràn ngập cả trên vỉa hè, quán café, quán nhậu,… trong những ngày qua.

Hình ảnh đó quả thật là một sự bất ngờ, khó có ai có thể hình dung được người dân Việt Nam lại bày tỏ tình cảm nồng nhiệt như vậy đối với tổng thống Hoa Kỳ, một quốc gia thù địch như chế độ ra rả tuyên truyền cho tới ngày 30/04 vừa qua. Trong khi đó, chánh quyền Việt Nam dành cho quốc khách một sự đón tiếp với nghi thức tối thiểu phải có.

Về phía khách, ông Obama vẫn thản nhiên, hoàn toàn không để ý đến nghi lễ ngoại giao, vẫn thoải mái, chân tình, cười hồn nhiên, ngồi lê hàng quán, bắt tay mọi người đứng gần một cách thân thiện,… Trọng tâm thật sự của ông là muốn đo lường thái độ của người dân đối với chánh phủ Hoa Kỳ và dân huê kỳ. Có ý kiến cho tất cả đó là sự giàn cảnh tinh vi của Holywood nhưng thực tế là đã thu hút nhân tâm của mọi từng lớp người dân Việt Nam. Ngoại trừ nhà cầm quyền bởi theo biện chứng hể cái gì dân hoan nghênh thì họ đề cao cảnh giác. Do từ nguyên lý nhà cầm quyền cộng sản là không phải do dân và vì dân.

Obama đã đi rồi

Giới cầm quyền ở Hà Nội, cũng như đồng chí vàng của họ ở Bắc Kinh, khi tới thăm viếng Hoa Thịnh Đốn hay Paris, chẳng những không được kiều bào của họ đón tiếp nồng nhiệt, mà còn bị la ó, phản đối sự thăm viếng, tố cáo những hành động dã man của chế độ ở trong nước, làm cho họ nhiều lúc đã phải ra về bằng cửa hậu.

Trái lại, ông Obama, sau bốn ngày viếng thăm Việt Nam, ra về còn để lại trong lòng người Việt Nam, nhất là tuổi trẻ, những tình cảm trân quí.

“Hỏi vì sao dân tôi mến mộ ngài

Có phải vì ngài là tổng thống

Hay vì xứ ngài đôla chất đống

Không! Chúng tôi yêu vẻ đẹp tỏa từ ngài.

…Nụ cười tươi và những cái bắt tay… dệt lối chân tình

…Mà rung động hàng triệu con tim người Việt

Ngài bàn việc đại sự bằng lời chân thành tha thiết

Chẳng buộc tội ai… nhưng bao kẻ phải cúi đầu”…(Thơ của Thương Hoài )

Và người phụ nữ Phượng Trần bị sự chơn tình của khách đã làm cho trái tim của bà rung động sâu xa:

“…Em như đang trong mơ

Khi nghe Anh nói đến

Nam Quốc Sơn Hà ấy

Chỉ có Nam Ðế cư 

Anh muốn nói gì ư?

Dẹp dã tâm Khựa nhé!

Anh ơi lời Anh khẽ

Chạm đến triệu lòng dân!”… (Thơ của Phượng Trần)

Và cả chân dung của ông cũng được sinh viên hội họa tự ý thực hiện với lời ghi chú đầy thiết tha quí mến.

Obama và tấm hình ở Tòa Bạch Ốc

Ông Obama có gốc gác từ một gia đình da màu nghèo, cha mẹ xa nhau, thuở nhỏ từng sống ở Nam Dương, một xứ Đông Nam Á kém mở mang, tức ý muốn nói ông thuộc thành phần xã hội không lấy gì làm khá hơn đám cộng sản lãnh đạo ở Hà Nội nhưng ông lại hoàn toàn không cùng bản chất với họ. Nhờ hấp thụ một nền giáo dục nhân bản, khai phóng, tự do.

Chính giáo dục đào tạo con người. Nhìn tấm hình dưới đây để hiểu tại sao ông Obama qua Việt Nam lần đầu tiên mà được dân chúng dành cho ông những tình cảm quí trọng sâu xa như vậy. Thực tế này là phản ứng nghịch lý của những điều mà dân chúng tiếp thu được từ truyền thông chánh quyền. Cũng là kết quả trái chìu của sự giáo dục quần chúng về bạn và thù của chế độ.

TT 1

 

 

 

 

 

 

 

 

Ảnh: Pete Souza/The White House

Nhiều thập kỷ qua, Nhà Trắng treo rất nhiều ảnh chụp các đời tổng thống, hoặc làm việc hoặc vui chơi. Tấm mới thay chỗ tấm cũ. Nhưng tấm ảnh này chụp Tổng thống Barack Obama đã yên vị suốt 3 năm qua, không bị tháo xuống.

Bé trai trong ảnh là Jacob Philadelphia, sống ở Columbia, bang Maryland. Khi chụp tấm ảnh này vào tháng 5 của ba năm trước, Jacob mới 5 tuổi. Lúc đó, cha cậu là ông Carlton Philadelphia, một cựu lính thủy, rời Nhà Trắng sau hai năm làm việc trong Hội đồng An ninh quốc gia. Như nhiều nhân viên khác, ông Philadelphia cũng đề nghị tổng thống chụp ảnh cùng gia đình ông trước khi ra đi.

Ảnh chụp xong, gia đình Philadelphia sắp giã từ thì ông Carlton nói với ông Obama rằng hai con trai của ông có hai câu hỏi tổng thống, mỗi đứa một câu.

Jacob nói trước: “Cháu muốn biết tóc cháu có giống tóc tổng thống không?”. Cậu bé nói nhỏ đến nỗi ông Obama phải bảo nhắc lại. Sau khi nghe rõ, ông Obama trả lời: “Sao cháu không sờ thử đi, xem có giống tóc cháu không”? Rồi Obama hạ thấp đầu ngang tầm với của Jacob. Cậu bé ngần ngừ, tổng thống khuyến khích: “Sờ đi, anh bạn!”.

“Cháu thấy sao? – ông Obama hỏi.

“Dạ, cũng giống nhau”, Jacob đáp lời.

Cậu bé Isaac, nay đã 11 tuổi, thì hỏi ông Obama tại sao lại loại trừ chiến đấu cơ F-22. Ông Obama cho biết vì quá tốn kém.

Theo thông lệ có từ thời Tổng thống Gerald R. Ford, mỗi tuần các phóng viên ảnh Nhà Trắng lại chọn ảnh ấn tượng để trình bày. Tuần đó, tấm ảnh của Jacob là số một. (Theo Bằng Vy, The New York Times)

DM

 

 

 

 

 

 

 

Đỗ Mười và nhà Toán học Ngô Bảo Châu

Đỗ Mười, cựu Bộ trưởng, cựu Thủ tướng và cựu Tổng Bí thư đảng cộng sản Hà Nội, khi tiếp thanh niên Ngô Bảo Châu vừa kết thúc Trung học với thành tích học tập xuất sắc, thể hiện rõ thái độ căm thù những người có học và học giỏi. Theo quan điểm của ông thì chính cách mạnh mới nâng cao con người chớ không gì khác hơn hết cả. Quan điểm này phát xuất từ bản thân của ông và từ quá trình học tập giáo lý của người cách mạng.

Đỗ Mười tên thiệt là Nguyễn Duy Cống, người làng Đông Phủ, gọi quen thuộc là làng Nhót, Thanh Trì, Hà Đông. Giáo sư Đại Học Khoa học Sài Gòn, ông Nguyễn Trọng Ba, nhỏ hơn Nguyễn Duy Cống vài tuổi, cùng làng nên quen biết Nguyễn Cống và kể chuyện lại (Bảo Giang). Cụ Tiên chỉ là thân sanh của Giáo sư Ba, có mở lớp chống mù chữ miễn phí dành cho trẻ trong làng. Thù lao thầy giáo do sự đóng góp vì lòng hảo tâm của viên chức và những nhà có tiền trong làng. Nhờ đó Nguyễn Cống tới học được ít lâu.

Người được làng mời dạy học là thầy giáo Dư. Vốn đã được bổ làm giáo học, Dư hoạt động cho Việt Minh, bị bắt, sau hơn một năm tù, được tha và trở về làng Nhót, không có công ăn việc làm.

Dư được đề nghị lãnh dạy trẻ con nhà nghèo, với thù lao khiêm tốn của dân làng đóng góp nhưng với điều kiện không được hoạt động và tuyên truyền cho Việt Minh nữa.

Vài năm sau, Cống đã biết đọc, biết viết và có thể làm được những bài toán cộng, toán trừ đơn giản. Khi ấy, mẹ Cống ngửa mặt lên trời: trước là cám ơn Trời Phật, sau là cám ơn các viên chức làng đã cho bà một niềm vui ngoài sự ước mong của bà.

Cũng từ dạo ấy, bà không bao giờ ngớt lời khuyên Cống phải biết ơn, phải giữ lễ nghĩa đối với những người đã ban ơn cho gia đình nó. Và bà cũng tính đến việc, vì Cống đã biết làm toán cộng toán trừ, sẽ mua chịu phần thịt thặng dư và lòng lợn của bà phó Hồi để mẹ con bà gánh đi bán, thay vì tiếp tục gánh thuê bán mướn như trước giờ.

Phần Cống, từ ngày được đi học, nó vẫn không thấy thiết tha việc học. Tuy nhiên, nó cảm thấy cũng dễ chịu phần nào vì được ra khỏi nhà trong những giờ giấc nhất định mà mẹ không thể la mắng nó. Hơn nữa, nó nhờ những con số cộng trừ giúp mẹ trong việc bán thịt như một lá bùa cho phép nó tự do rong chơi với bè bạn, và mặc tình đi sớm, về trễ.

Riêng thầy giáo Dư, tuy đã có lời cam kết với viên chức trong làng là sẽ chuyên tâm dạy dỗ cho lũ trẻ thoát nạn mù chữ, nhưng cứ mỗi khi nhìn thấy thầy Thông, thầy Phán hoặc các viên chức và những nhà phú hộ trong làng là uất khí hận thù giai cấp vụt bốc lên nghẹn cổ. Do đó, thay vì dạy cho trẻ chữ nghĩa, lễ phép, Dư lại lén tuyên truyền Việt Minh cho chúng. Đám trẻ được Dư sớm nhồi sọ lòng thù hận, dạy dùng mã tấu để giành lấy phần cơm ăn áo mặc từ những người có chút ăn, chút để ngay trong làng.

Học được những điều mới mẻ này, Cống như mở bừng con mắt. Trí nó linh động nghĩ đến ngày đi làm Việt Minh, với mã tấu trong tay. Quả thật, chỉ ít lâu sau đó, nó liền hăng hái đứng dậy, đi theo bọn thằng Chân, thằng Khắc, cùng bỏ học, đi làm cách mạng dưới sự dìu dắt của thầy Dư.

Trong khi ấy, bà đậu Tiến, tức mẹ của Cống, lại không thể hiểu và cũng không bao giờ biết cậu con trai của mình đang nuôi dưỡng giấc mơ đi làm cách mạng. Bà nghĩ đến việc phải cưới vợ cho Cống. Bà chọn được một người con gái trong làng, báo tin mừng cho con. Nghe qua, Cống chẳng vui và cũng chẳng buồn. Nó chỉ muốn bỏ nhà đi theo Việt Minh. Nhưng chưa đi được nên đành tạm nghe lời khuyên của mẹ. Cưới vợ xong, Nguyễn Cống giữ lấy một phản thịt heo trong chợ cho mẹ. Nhơn đi tìm heo mua đem về làm thịt, Cống lãnh luôn thiến heo. Thiến con nào chết, Cống mua đem về làm thịt cho mẹ bán. Lúc nào không có heo, Cống đi lãnh sửa ống khóa và cửa nhà cho người trong làng. Giá cả do Cống đề nghị. Nhưng sau này, khi thật sự cán bộ đảng viên, Cống thường lấy bản thân minh chứng giới lao động bị tư bản, cường hào bốc lột!

Một hôm, vợ Cống hớt hải để đôi quang gánh xuống trước cửa, chạy bay vào trong nhà báo tin cho bà đậu Tiến:

– U ơi! thầy thông Ký chết rồi! Tất cả mọi người ở chợ đều chuyền tai, bảo nhau rằng chồng của con và đám thằng Khắc, thằng Chân, đã giết ông ấy! Anh Cống đã bỏ đi từ nửa đêm… Lợn thì đêm qua không mổ.

Nhờ thành tích giết “cường hào” trong làng, Cống được sớm kết nạp vào đảng. Và đời Cống cũng phất lên từ đây, dưới tên Đỗ Mười.

Hai tấm hình, mỗi tấm có lời nói của nó. Người đọc hiểu chắc không khác nhau lắm.

ĐI BIỂU TÌNH ĐƯỢC GÌ?

ĐI BIỂU TÌNH ĐƯỢC GÌ?

FB Nguyễn Anh Tuấn

5-6-2016
Ảnh: FB Nguyễn Anh Tuấn

Ảnh: FB Nguyễn Anh Tuấn

Tôi là một người có trình độ đại học, có công việc thu nhập ổn định, có bố mẹ, có vợ, và hai con.

Đến giờ này thì chẳng có kẻ nào dám mở mồm nói tôi là đi biểu tình được tiền. Vì hầu như ko có sự ngu xuẩn nào đến mức ấy. Và các kênh thông tin mở của mạng xã hội, không cho phép những vu cáo ngu xuẩn ấy tồn tại.

Để tham gia được vào các cuộc biểu tình ôn hoà vì môi trường, tôi thường phải chia tay vợ con mình từ hôm trước, vạ vật ở nhà anh em thân thiết, nếu không muốn bị công an chặn ở nhà, không cho đi đâu hết.

Nếu cuộc biểu tình diễn ra như mong đợi, tôi sẽ được đi bộ một vòng bờ hồ HK dưới nắng nóng. Xong thì về nhà với cái cổ họng khản đặc, cùng đói và khát.

Như mấy lần gần đây, chưa kịp giơ biểu ngữ, hô khẩu hiệu vì môi trường thì đã bị cưỡng chế về Phường, CA Quận. Thế là phí bao công sức tránh né công an để tham gia.

Đến mức như hôm nay:

Chúng tôi mặc quần áo đẹp, lịch sự. Tuần hành ôn hoà. Cố gắng đi thành hàng, gọn nhất có thể, để không cản trở giao thông. Biểu tình, đòi các bên liên quan phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ về bảo vệ môi trường biển, trong Ngày Môi Trường Thế Giới – ngày mà Chính Phủ VN cũng đã cho treo băng rôn khắp nơi là:

TIẾNG GỌI THIÊN NHIÊN
HÀNH ĐỘNG CỦA CHÚNG TA

Ấy thế mà, Chính phủ lại dùng công an đàn áp hoạt động biểu đạt văn minh này của chúng tôi.

Tôi đã có lúc quá thất vọng, mà thốt lên:

Tôi nản lắm rồi! Tại sao Chính Phủ không thể tôn trọng tiếng nói của chúng tôi? Cứ dập tắt tiếng nói và bưng bít thông tin thế này, thì mắm muối độc sẽ ngày càng chui nhiều vào mâm cơm, và đầu độc cả đất nước mất thôi!

Đến bao giờ thì Chính phủ thôi là một lực lượng cai trị, mà trở lại đúng nghĩa là “Của Dân”, tôn trọng tiếng nói của người Dân, như đã ghi trong Hiến Pháp?

Cứ thế này, thì bao giờ mới có văn minh?

Tôi thất vọng quá mà thấy các nỗ lực của bản thân, và những người khác hôm nay chẳng được việc gì cả!

Nhưng không phải như thế.

Lúc này, khi đã về nhà. Dù là những điều nhỏ nhưng tôi cũng đã nhận ra. Việc chúng tôi làm hôm nay, ko phải là vô ích.

Hôm nay trên xe Bus tôi đã thấy có 1 chiến sĩ cảnh sát trẻ, đã cư xử nhã nhặn, tôn trọng chúng tôi. Có 1 sĩ quan An Ninh tươi cười, đối thoại với tôi… Họ đã hiểu, và chọn cách đối xử với chúng tôi không như kẻ thù. Không một bịa đặt, bôi xấu nào có thể khiến họ hiểu lầm chúng tôi nữa.

Tại CA Quận LB, các anh cảnh sát, cùng tôi, đã nhanh chóng tìm thấy sự thấu hiểu và tôn trọng. Các anh thừa nhận việc tôi làm, và tôi tôn trọng, việc các anh ấy phải hoàn thành nhiệm vụ, trên giao.

Quá trưa, công An phường nơi tôi ở, đến đón, và đưa tôi về tận nhà. Mấy cậu Công An canh cửa nhà tôi, thì chào, hỏi thăm, và nói chuyện thân tình cùng tôi.

Cho dù đây chỉ là những gì tôi thấy, và có thể nó ko phải là như tính chất chung, của những gì đang diễn ra, thì tôi cũng thấy nó, như một chỉ dấu cho nhiều cái được:

Chúng tôi đã được làm hết khả năng của mình, theo đúng tinh thần Hiến Pháp, cho môi trường sống.

Các anh công An đã thêm một lần gặp gỡ, và hiểu thêm, để dần ứng xử đúng mực hơn với người Dân đi biểu tình ôn hoà.

Nhiều người dân, đặc biệt là các bạn trẻ, các bạn sinh viên, tương lai của đất nước, đã thấy chúng tôi không sợ hãi, trước sự đàn áp suốt mấy tuần qua. Để rồi, sẽ ko bao lâu nữa, chính các bạn, rất đông, sẽ thấy thôi không phải sợ nữa.

Sẽ không có gì phải sợ, nếu làm điều đúng đắn cho Đất nước, cho Nhân Dân, cho tương lai của tất cả.

Chính Quyền cũng dần quen với việc người dân tìm mọi cách để lên tiếng, để dần phải chịu lắng nghe, và đáp ứng một cách văn minh, nếu không muốn bị cả thế giới văn minh tẩy chay, không ai chơi với.

Điều lớn lao nhất, tôi nhận ra:

Dù ít một, nhưng chúng ta, đang tiến thêm một bước gần hơn đến một ngày, mà việc lên tiếng của đông đảo người Dân, đặc biệt là giới trẻ, về các vấn đề hệ trọng của đất nước, sẽ như những cơn gió lớn, đẩy cánh buồm đất nước tới văn minh.

Khi ấy, Cảnh sát thì bảo đảm an toàn cho người Dân, An ninh thì đề phòng những kẻ phá hoại tính ôn hoà, còn Quốc Hội thì đồng hành cùng người Dân, Chính phủ thì lắng nghe và nỗ lực!

Ngày đó, người với người tôn trọng và tin cậy, ứng xử với nhau thượng tôn Pháp Luật. Và nước Việt sẽ trở lên văn minh, hùng cường!

Một số hình ảnh biểu tình. Nguồn: FB Nguyễn Anh Tuấn:

H1

H1

 

H 3

 

 

 

 

 

 

HINH @

 

 

 

Những Mặt Trái Khủng Khiếp Và Đáng Sợ Nhất Việt Nam

httpv://www.youtube.com/watch?v=3OrOxxFZ8-s

Những Mặt Trái Khủng Khiếp Và Đáng Sợ Nhất Việt Nam

Những sự thật về cái xấu, mặt trái khủng khiếp và đáng sợ nhất Việt Nam.
Việt Nam trong con mắt du khách quốc tế có hàng tá những điều thú vị và hấp dẫn. Người nước ngoài ca ngợi thanh niên ta cũng lắm, như cần cù, nhạy bén, có chí tiến thủ nhưng đồng thời cũng phê phán ta nhiều điều. “Thuốc đắng dã tật”, chịu khó nghe người ta nói về những khiếm khuyết của mình cũng là một cách học hỏi. Vì vậy ngày hôm nay, Khám Phá Thế Giới tiếp tục làm 1 video về chủ đề Việt Nam sau video Những Sự Thật Thú Vị Về Việt Nam Qua Con Mắt Du Khách Quốc Tế. để mọi người có cái nhìn toàn diện nhất, từ đó đưa Việt Nam ngày càng tiến bộ, văn mình và phát triển hơn nữa.

Dép & Giầy Sau Những Cơn Mưa

  Dép & Giầy Sau Những Cơn Mưa

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

tuongnangtien's picture

tuongnangtien

Theo thứ tự (a/b/c/d) xin được phép mượn lời của một nhà văn để nói về dép trước:

“Một lần tôi quay cảnh ông thăm đồng bào nông dân ở Hải Dương, mùa hè năm 1957. Sáng sớm hôm ấy trời mưa to, trên đường còn lại những vũng nước lớn. Ðến một đoạn đường lầy lội ông tụt dép, cúi xuống xách lên. Trong ống ngắm của máy quay phim tôi nhìn rõ hai bên vệ cỏ không bị ngập. Tôi chợt hiểu: ông không đi men vệ đường bởi vì ông muốn chưng đôi dép.

Vì lòng kính trọng đối với ông, không muốn rồi đây người xem sẽ nhận ra trên màn ảnh lớn diễn xuất lộ liễu, tôi tắt máy. Nghe tiếng cái Eymo 35 đang kêu xè xè đột ngột im tiếng, ông ngẩng lên nhìn tôi, nhưng ngay đó ông hiểu ra.” (Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày. California: Văn Nghệ, 1997).

Nhờ “lòng kính trọng” của tác giả đoạn văn thượng dẫn nên màn “chưng  dép” của ông Hồ Chí Minh đã không gây ra điều tiếng gì đáng tiếc. Thiệt là qúi hoá và may mắn.

Tuy nhiên, không phải ai cũng có sự may mắn tương tự. Mới đây, một ông quan cách mạng (khác) chỉ vì sợ ướt giầy mà bị “ném đá” tơi bời hoa lá – theo như tin loan của Tuổi Trẻ Online:

Từ chiều 25-5, trên mạng xã hội lan truyền tấm ảnh một người đàn ông vừa rời khỏi chiếc xe con biển xanh được một anh bảo vệ cõng đưa lên bậc tam cấp của hội trường.

Ảnh: Facebook

Theo tìm hiểu của chúng tôi, tấm ảnh được chụp trước bậc tam cấp của hội trường 1 Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (cổng 135 Nguyễn Phong Sắc – Hà Nội), sáng 25-5, nơi chuẩn bị tổ chức Hội nghị học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ XII Đảng, dành cho trên 850 lãnh đạo các cơ quan báo chí, xuất bản của 25 tỉnh, thành phố phía Bắc.

Úy Trời, Đất, Quỷ/Thần ơi, báo Tuổi Trẻ có “sắp chữ lộn” không ta?  Không lẽ chỉ nội trong “25 tỉnh, thành phố phía Bắc” mà có tới “trên 850 lãnh đạo các cơ quan báo chí” lận sao? Lãnh đạo ở đâu ra mà nhiều dữ vậy cà? Đã thế, ông nào cũng dùng “xe con bảng xanh” và tài xế riêng nữa chớ!

Hèn gì mà công luận cứ hậm hực hoài về chuyện thuế/phí ở Việt Nam:

Nói nào ngay thì khỏi cần ra ngõ, cứ ở nhà vẫn bị “thu phí” như thường – theo như lời than phiền của công dân mạng Nguyễn Đắc Quyền:

Anh bạn quen mới cho hay ảnh nhận được cái tờ thu tiền của khu phố mà không có mộc hay hóa đơn gì hết. Tụi nó lại kiếm tiền ăn tết đây. Bà con nhớ không đóng cái mả mẹ gì hết nha nếu gặp cái tờ giấy lộn này, dù đich thân ông tổ trưởng xuống vòi hay đứa CAKV xuống kiếm cũng phải đòi cho ra cái hóa đơn mộc đỏ của phường hay đại loại tờ giấy có giá trị chút nha. Tiên sư cuối năm lắm cô hồn.

Ảnh: F.B

Thảo nào mà Việt Nam được báo Dân Trí vinh danh là “đất nước cao nhất khu vực … về thuế khóa.” Tuy “thuế chồng lên thuế” và “cao gấp 3 so với các nước khác trong khu vực” nhưng Việt Nam lại là nơi duy nhất mà người có thể bắt cá (ngay trước cửa nhà) sau những cơn mưa, hay phải uống “nước sạch có giun ngoe nguẩy” xả từ vòi.

 Ảnh: Dân Trí

Như vậy là cơ sở hạ tầng ở Việt Nam có vấn đề mà nguyên do, theo Thanh Niên Online (đọc được vào hôm 21 tháng 3 năm 2016) chỉ vì “tổng thu ngân sách không đủ chi tiêu và trả nợ.”

Ô, thì ra thế!

Và nếu thế thì chỉ cần rà soát và khắc phục ở khâu thu/chi cho nó quân bằng là mọi việc sẽ đâu ra đó thôi. Về “thu” thì đã … “tận thu” rồi, không còn gì cần phải bàn thêm nữa. Vấn đề chỉ còn ở khoản “chi” thôi. Tôi e là đất nước đã “tiêu” hơi quá nhiều cho những chuyện hoàn toàn không cần thiết nên dân chúng mới bắt được cá ngay trước nhà, và uống nước có giun đang ngoe nguẩy.

Để chấm dứt tình trạng này tôi xin có một “đề xuất” nhỏ bằng cách tiếp tục câu chuyện còn đang bỏ dở, chuyện “850 lãnh đạo các cơ quan báo chí, xuất bản của 25 tỉnh, thành phố phía Bắc… học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ XII Đảng.”

Vụ này có thể thực hiện online, chớ cần gì phải có tài xế đưa đến Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh làm chi – hả Trời? Vừa tốn săng, vừa tốn công, và còn phiền những đồng chí bảo vệ phải cõng từng ông vô phòng họp nữa. Cứ gửi cho tất cả một cái email, đính kèm Nghị Quyết của Đảng, cùng với lời phụ chú “phải quán triệt cấp kỳ” là xong ngay. Trước giờ, có ông/bà “lãnh đạo các cơ quan báo chí” nào dám nói “không” hay nói khác ý Đảng đâu – đúng không?

Mô hình “quán triệt online” cũng có thể áp dụng cho rất nhiều sinh hoạt chính trị khác, kể cả những kỳ họp quốc hội. Đảng lãnh đạo hết trơn, hết trọi cả ba ngành (lập pháp – hành pháp – tư pháp) Quốc Hội Việt Nam chỉ còn mỗi việc là  “đồng thuận” mọi đường lối, chính sách, và chủ trương (lớn) thôi thì bầy chuyện họp hành làm chi, cho má nó khi, và thêm tốn kém.

Hãy nghe lại câu nói để đời của đại biểu Dương Trung Quốc về chuyện khai thác bauxite Tây Nguyên: “Nhưng Bộ Chính trị đã quyết rồi thì bây giờ ta chỉ bàn làm sao cho tốt, cho an toàn thôi.” Thế là tất cả các bạn đồng viện đều im phăng phắc. “Làm sao cho tốt, cho an toàn” là việc của những chuyên viên khai thác hầm mỏ và môi trường, chớ mắc mớ gì tới quốc hội – cha nội?

Mới đây, mới tháng trước, tôi nhận được youtube trên qua email của một anh bạn, cùng lời bình và lời nhắn: “Quá tuyệt vời … xem nhanh kẻo bị kéo xuống!” Vô coi  thì thấy  Đại Biểu Quốc Hội tỉnh Quảng Nam – sau nhiều năm “cố gắng ép suy nghĩ của mình” – trước khi chấm dứt nhiệm kỳ (và vì tuổi tác “sẽ không có cơ hội làm đại biểu nữa”) mới dám “lên tiếng” về hai vấn đề khiến ông “bức xúc” từ lâu: Chủ quyền quốc gia bị xâm phạm và nạn tham nhũng tràn lan!

Trời, đất, tưởng gì? Nguyên một nhiệm kỳ dân biểu kéo dài năm năm mà ông Lai chỉ phát biểu có ba phút thôi, về những điều mà … bà nội trợ Việt Nam nào cũng biết hết trơn. Tuy thế, cả nước vẫn vỗ tay tán thưởng và suýt xoa không ngớt là “quá tuyệt vời” rồi!

Mà nghĩ cho cùng thì cũng “tuyệt” thiệt, nếu so với hàng chục ngàn ông bà dân biểu từ khóa này đến khoá khác chưa bao giờ dám mở miệng lần nào, về bất cứ chuyện gì. Với loại quốc hội câm của VN thì cứ ngồi nhà bấm nút online cũng vậy thôi. Đã là nghị gật thì ngủ (gật) ở đâu không được, cần chi phải đến nghị trường ngồi ngáy, mấy cha?

Và khi không còn cần đến nghị trường thì cũng khỏi phải bận tâm về ngân sách để xây cất và bảo trì toà nhà quốc hội nữa. Đúng là … lưỡng tiện, và đỡ được cả đống tiền chứ không phải chuyện chơi.

Bữa rồi, ngồi nhậu với Trương Duy Nhất.  Rượu vào (lời ra) tôi hăm hở trình bầy “đề xuất” (online ) của mình. Nghe xong, ông nhà báo mặt buồn rười rượi rồi nhỏ giọng tâm sự:

Trong thành phần Chính phủ, tôi cũng có quen vài người. Hôm nọ ngồi tiếp chuyện một vị, ổng bất chợt hỏi:

          – Nghe nói chú có nhiều bài viết hay lắm, tìm thế nào để đọc được?

          Tôi thật thà:

          – Ôi, anh nhiều việc thế chắc nói dài dòng không nhớ nổi đâu. Tốt nhất cứ vào gút- gồ gõ chữ  Trương Duy Nhất là ra hết !

          Vậy mà ổng trợn tròn mắt:

          – Gút- gồ là cái chi rứa ?

Rứa là “bótay.com.” Rứa là nhân dân Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục bắt cá trước nhà, và nhân viên bảo vệ sẽ vẫn tiếp tục phải cõng lãnh đạo vào phòng họp (cho khỏi ướt giầy) sau những cơn mưa.  Mưa ơi, sao thảm vậy?

‘Chiến Sĩ Vô Danh’

‘Chiến Sĩ Vô Danh’
Nguoi-viet.com
Tạp ghi Huy Phương

 (Viết cho ngày “Chiến Sĩ Trận Vong”)

Năm 1972, trong “Mùa Hè Đỏ Lửa,” với thiệt hại lớn lao của bốn mặt trận Kontum, Bình Long, An Lộc, Quảng Trị, của cả hai bên, để vinh danh những người lính VNCH đã nằm xuống, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị đã phát động một chiến dịch vinh danh và tri ân các chiến sĩ, bằng cách vẽ hình ảnh các tử sĩ và treo ở trên đường phố Sài Gòn. Tôi chỉ nhớ tên một vài vị, đều là sĩ quan, như cố Chuẩn Tướng Không Quân Nguyễn Huy Ánh, cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo, cố Đại Úy Trần Thế Vinh, cố Đại Úy Nguyễn Văn Đương… Trong số anh hùng này, không thấy có một hạ sĩ quan hay binh sĩ nào.

Mộ Chiến Sĩ Vô Danh tại Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington. (Hình: Paul J. Richards/AFP/Getty Images)

Hồi ấy, tuần báo Diều Hâu là một tờ báo “tay trái” của Phòng Thông Tin-Báo Chí Cục Tâm Lý Chiến do Trung Tá Nguyễn Đạt Thịnh và Thiếu Tá Phạm Huấn chủ trương, và chúng tôi, nhân viên của Phòng Báo Chí lâu lâu cũng mượn đất của Diều Hâu để múa bút. Vào dịp đó, trên Diều Hâu tôi đã viết một bài ngắn, cũng lấy đề tựa “Chiến Sĩ Vô Danh,” và câu hỏi tôi đặt ra trong bài báo là phải chăng, anh hùng, tử sĩ của VNCH đều là sĩ quan mà không có một anh lính nào? Vậy thì người lính tử sĩ ở đâu?

Bài viết này không làm cho Trung Tướng Trần Văn Trung mấy hài lòng, và sau khi tờ báo phát hành, nhà văn Nguyễn Đạt Thịnh được gọi lên “trình diện” ông tổng cục trưởng. Ông Nguyễn Đạt Thịnh nổi tiếng là thẳng thắn và luôn luôn bênh vực nhân viên, mặt khác tờ báo do ông chủ trương, phần nào ông cũng có trách nhiệm, nên nội vụ được cho qua, và tác giả bài báo không phải khăn gói đi Kontum.

Người ta hay dễ dãi trong công việc, và tìm những việc dễ dãi mà làm. Tướng tá chết thì ai cũng biết, nhưng anh hùng vô danh, mặc dù là số đông mấy ai đã biết được tên tuổi.

Gần đây ở hải ngoại cũng vậy, cứ đến ngày 30 Tháng Tư mỗi năm, năm vị tướng tuẫn tiết lại được nhang khói, vinh danh. Về sau người ta thêm vào đó, Trung Tá Nguyễn Văn Long, tự sát trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến, rồi sau đó nữa là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng Chương Thiện, không tự sát, nhưng không chấp nhận đầu hàng, chiến đấu đến cùng, bị bắt và bị xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 14 Tháng Tám, 1975.

Cả miền Nam, vì mối nhục mất nước, có cả hàng nghìn chiến sĩ tự sát bằng cách này hay cách khác, từ một người lính quân cảnh tại Bộ Tổng Tham Mưu đến những anh em Thủy Quân Lục Chiến trên bãi biển Thuận An, hay các chiến sĩ Nhảy Dù chia nhau một quả lựu đạn tại ngã ba Ông Tạ, trên đường lui binh.

Câu hỏi ngày xưa vẫn còn nguyên: “Vậy thì người lính tử sĩ ở đâu?”

Gần đây, tại San Jose, theo cung cách xây dựng tượng đài vinh danh các anh hùng tuẫn tiết, một bức tường tưởng niệm với năm vị tướng lãnh cùng Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn và Trung Tá Nguyễn Văn Long được dựng lên.

Người lính Biệt Động Quân Đoàn Trọng Hiếu đã phê phán chuyện dựng bức tường này: “Việc làm dựng một bức tường tưởng niệm quân dân cán chính VNCH là một việc làm rất đáng hoan nghênh. Nhưng việc ủng hộ nội dung lại là hành động thiếu suy nghĩ đáng chê trách, vô tình biến chúng ta thành kẻ bất nhân bất nghĩa!” Và ông cũng cay đắng cho rằng: “Xin đừng phơi thây trăm họ, để chỉ vinh danh một người!”

Trên thế giới, không phải quốc gia nào hay ai có thể có khả năng làm một cuộc kiểm kê để có danh sách những người lính đã hy sinh, như người Mỹ đã làm khi xây dựng bức tường đá đen ở thủ đô Washington, DC, có tên của hơn 58,000 lính Mỹ đã chết hoặc mất tích tại chiến trường Việt Nam.

Có những người lính đã nằm lại ngoài mặt trận, không đem được về hậu phương, thân thể họ bị vùi lấp trong bom đạn, đất cát, không quan quách, không bia mộ, không ai gắn huy chương, không có nghi lễ phủ cờ đưa tiễn. Gần như không ai biết đến họ, không ai nhớ đến tên tuổi của họ, vì “họ là những anh hùng không tên tuổi,” được gọi là những “Chiến Sĩ Vô Danh.”

Nước Pháp có mộ chiến sĩ vô danh nằm dưới Khải Hoàn Môn từ ngày 11 Tháng Mười Một, 1920. Họ không có tên. Đây là ngôi mộ của một người lính Pháp vô danh chết trong trận Verdun, thời Thế Chiến 1. Cùng ở Paris, bảy chiến sĩ vô danh khác cũng được chôn cất ở Flandres, Artois, Somme, Chemin des Dames, Champagne, Verdun và Lorraine. Trên ngôi mộ ở Khải Hoàn Môn khắc dòng chữ: “Nơi đây yên nghỉ một người lính Pháp chết cho tổ quốc.” (1914-1918)

Người Mỹ cũng có ngôi mộ chiến sĩ vô danh (Tomb of the Unknowns) tại Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington, Virginia, để chôn cất các binh sĩ Hoa Kỳ vô danh tử trận trong Thế Chiến 1, Thế Chiến 2, chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh Việt Nam và những cuộc chiến tiếp theo sau đó!

Không ai kiểm kê được đầy đủ danh tánh những người đã tự sát hơn là đầu hàng giặc trong ngày tang tóc 30 Tháng Tư, 1975 của miền Nam Việt Nam, cũng không ai có đủ danh sách hàng triệu người đã chết cho tổ quốc, bởi vậy chúng ta cần thiết có một nấm mộ hay tượng đài cho những chiến sĩ vô danh. Chúng ta thường có thói quen ca tụng những người quen mặt biết tên!

Có khi nào bạn so sánh cái chết huy hoàng, rộn ràng của một tướng lãnh và cái chết của một người lính hòm gỗ đơn sơ với những nhánh hương lạnh lẽo trong một nghĩa trang buồn, hay những người lính không bao giờ trở về, thân xác chôn vùi đâu đó trên mảnh đất quê hương!

Chúng ta cần một bia mộ hay tượng đài cho những chiến sĩ vô danh như thế.

Liệu Việt Nam có quyết định rời khỏi Trung Quốc

Liệu Việt Nam có quyết định rời khỏi Trung Quốc

Bùi Quang Vơm

4-6-2016

Quan hệ Mỹ – Việt – Trung. Ảnh: Internet.

Tổng thống Mỹ Barack Obama, vị Tổng thống thứ ba của Mỹ đến thăm Việt Nam kể từ khi bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ, đã kết thúc chuyến thăm được đánh giá làm sâu sắc thêm quan hệ giữa hai quốc gia từng là cựu thù, trước hết đem lại nhiều chờ đợi trong dân chúng về một triển vọng sáng sủa hướng về phía tiến bộ. Chính sách ngoại giao của Việt Nam hứa hẹn sẽ có ít nhiều thay đổi.

Tuy nhiên, điều này hoàn toàn không đơn giản. Quan hệ Việt – Mỹ dù các cố gắng tăng cường, không thể tách hẳn đường lối các chính sách ngoại giao của Việt Nam khỏi những nguyên tắc truyền thống. Từ sau năm 1991, khi khối XHCN thế giới tan vỡ, Việt Nam theo đuổi con đường cải cách, trong đó có chính sách ngoại giao độc lập trong đa dạng và đa hướng, với quan điểm xây dựng một môi trường hợp tác và hòa bình với bên ngoài, tạo điều kiện theo đuổi các lợi ích quốc gia như phát triển kinh tế, chủ quyền quốc gia, duy trì chế độ độc đảng cầm quyền, phát triển kinh tế và xã hội. Nhưng những nguyên tắc này thường được rút gọn lại bằng bốn chữ, “chế độ và tăng trưởng”. Đó là những thứ mà lãnh đạo Việt Nam gọi là “nhị bất biến, ứng với vạn biến”. Trước hết là chế độ, chống mọi thế lực thù địch và âm mưu diễn biến. Tiếp đến là tăng trưởng kinh tế nhằm tìm kiếm chính danh và sức mạmh đảm bảo ổn định cho chế độ.

Ưu tiên chế độ trở thành ưu tiên ý thức hệ dẫn đến ưu tiên quan hệ Trung Việt. Sau ba mươi năm, quan hệ Trung Việt phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, bề ngoài, có vẻ như chế độ có một chân đế vững chắc. Không có gián điệp Trung Quốc gây bạo loạn, không có Trung Quốc làm diễn biến hoà bình. Không có Mặt Trận kháng chiến phục Việt do Trung Quốc giật dây, nuôi dưỡng. Không có “dân chủ và nhân quyền tư bản”.

Nhưng, sau ba mươi năm, biên giới hầu như thông thương, mọi thứ, cả con người lẫn phương tiện qua lại như anh em trong nhà, không thể phân biệt ngay, gian. Rừng biên giới có người Trung Quốc rào chắn, làm đường, đào hầm, lập làng, cưới vợ, gả chồng sinh con, đẻ cái. Công ty Trung Quốc hiện diện ở khắp mọi nơi, thuê dài hạn và chiếm những vị trí xung yếu, trên suốt chiều dài đất nước, đặc biệt vùng đất hẹp miền Trung. Nền công nghiệp què quặt của Việt Nam, phần lớn sản xuất bằng công nghệ lỗi thời của Trung Quốc, sử dụng nguyên liệu nhập từ trung Quốc, sẵn sàng tê liệt khi mất nguồn cung từ Trung Quốc. Người ta không thể quên, những lãnh tụ Trung Quốc từng tổng kết rằng, có ba con đường để Trung Quốc mở rộng lãnh thổ, một là đồng hoá các dân tộc trong cùng biên giới, hai là dồn dân tới các vùng giáp ranh để lấn đất, ba là gây chiến tranh.Với Bôxít trên nóc cao Nguyên, khu công nghiệp Vũng Áng trấn tại đèo ngang Hà Tĩnh, một khi chiếm trọn Trường Sa, thì cả biển lẫn đất có nguy cơ không có cách gì giữ được?

Chủ trương chế độ trên hết đã bộc lộ là một chủ trương sai lầm. Càng gần Trung Quốc, càng phát triển rộng và sâu với Trung Quốc, chính quyền Việt Nam càng mất dần khả năng kiểm soát đất nước, chủ quyền biển đảo càng có nguy cơ không giữ được. Đây mới chính là thực chất của mối đe dọa chế độ.

Việt Nam tìm kiếm trước hết sự hỗ trợ từ ASEAN, hy vọng tạo ra được một tiếng nói chung khả dĩ đa phương hoá nguy cơ chèn ép nước lớn của Trung quốc. Nhưng cộng đồng chung này chưa có gì chung ngoài ý chí, thực chất đã bị phân hoá trước thủ đọan chia rẽ bằng lợi ích kinh tế ích kỷ của từng quốc gia thành viên, trong khi cộng đồng tồn tại với một cơ chế đồng thuận lỏng lẻo.

Nhật Bản là một lựa chọn. Việt Nam biết Nhật Bản, với những ràng buộc chưa thể gỡ bởi luật pháp quốc tế đối với một quốc gia nguyên tội phạm chiến tranh, không cho phép Nhật triển khai một cách tự do tiềm lực quân sự và hỗ trợ quân sự các quốc gia khác. Chưa nói, bản thân tiềm lực quân sự của Nhật bản dẫu mạnh, vẫn chưa thể đối đầu với Trung Quốc. Nhưng Nhật Bản có một điểm đặc biệt. Nhật không có đối kháng về thể chế chính trị với chế độ cộng sản độc đảng. Nhật Bản không có yêu cầu nhân quyền kèm theo các hợp tác kinh tế. Vì vậy, Việt Nam gắn kết toàn tâm bằng sự tin cậy hoàn toàn với Nhật Bản. Nhật Bản là một quốc gia dân chủ và là đồng minh đặc biệt của Mỹ. Quan hệ gắn bó và sâu sắc, tin cậy hoàn toàn với Nhật bản, Việt Nam có cơ hội quen dần và thích nghi với chuỗi giá trị khác với hệ thống giá trị truyền thống của chế độ XHCN. Qua Nhật Bản, vốn từng là cựu thù chiến tranh, vì thế, cách nhìn nhận một cựu thù như Mỹ đối với lãnh đạo cộng sản Việt Nam, có phần bớt gay gắt.

Trước một thách thức lớn đến từ sự trỗi dậy, tiềm tàng một tham vọng bành trướng mang tên “giấc mộng Trung Hoa”, biển Đông có nguy cơ biến thành ao riêng của Trung Quốc. Khu vực biển có lưu lượng hàng hoá luân chuyển gần 50% tổng lượng hàng hoá lưu chuyển toàn cầu và trên 5000 tỷ đôla giá trị sản lượng hàng năm, tự do hàng hải, tự do hàng không phía trên vùng biển và an ninh trật tự khu vực có lợi ích gắn với lợi ích của Mỹ.

Sau tuyên bố Mỹ có lợi ích quốc gia với tự do hàng hải và luật pháp quốc tế tại biển Đông của bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, bà Hillary Clinton năm 2010 tại ASEAN, Tổng thống OBAMA tuyên bố chuyển trục chiến lược sang Đông Á.

Việt Nam vốn biết, đàm phán song phương với Trung Quốc chỉ đem lại thất bại. Đàm phán là thủ đọan hoãn binh và trói tay đối phương trên bàn, bằng mồi nhử kinh tế, để Trung Quốc lấn lướt, một mình tự tung, tự tác trên thực địa, tạo ra việc đã rồi, từng bước, từng lát cắt cho đến khi độc chiếm. Việt Nam tìm cách đa phương hoá tranh chấp. Việt Nam tìm kiếm chỗ dựa, tìm hỗ trợ cho cuộc chiến quá chênh lệch với Trung Quốc.

Và Việt Nam đã thấy ở chiến lược chuyển trục Đông Á của Mỹ nhằm bảo vệ tự do hàng hải và trật tự an ninh khu vực theo luật pháp quốc tế, có lợi ích ngăn chặn chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc đồng nhất với lợi ích bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt nam.

Tháng 7/2013, Việt Nam và Mỹ nhất trí nâng cấp quan hệ song phương lên “đối tác toàn diện”, thúc đẩy quan hệ trong mọi lĩnh vực, tạo sự tin cậy gắn kết từng bước tới thực chất.

Cũng bắt đầu từ sau chuyến thăm Mỹ của ông Trương Tấn Sang, Trung Quốc tăng cường trả đũa Việt nam bằng áp lực Hoàng, Trường Sa. Hai nước Việt Mỹ càng tiến lại gần nhau, quan hệ hợp tác giữa hai nước càng phát triển thì thái độ lấn chiếm biển đông càng kiên quyết, tốc độ xây dựng và quân sự hoá theo hướng tăng cường khả năng tấn công càng bộc lộ rõ. Dường như thông điệp mà Trung Quốc muốn chuyển tới lãnh đạo Hà Nội là việt Nam không còn lối thoát bất chấp mọi cố gắng tìm kiếm đồng minh.

Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS, Mỹ) nhận định “nếu tình hình Trung Quốc quân sự hóa biển Đông không được can thiệp, biển Đông sẽ biến thành ao nhà của Trung Quốc vào năm 2030.” Điều này có nghĩa là không có can thiệp Mỹ, sau 2030, Việt Nam sẽ không còn biển? Nếu đường lưỡi bò trở thành hiện thực, ra cách bở khảng 44km, Việt Nam đã lọt vào biển Trung Quốc.(12 hải lý lãnh hải + 12 hải lý giáp ranh lãnh hải), nếu không có phép, tàu thuyền Việt Nam sẵn sàng bị bắn hạ.

Báo Guardian (Anh) tuần trước dẫn lời Giám đốc Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ (NSA) Michael Hayden cảnh báo nếu Mỹ không xử lý tốt đà trỗi dậy của Trung Quốc trong 10 năm tới thì hậu quả sẽ là thảm họa với Mỹ và với cả thế giới. Theo ông Michael Hayden, “Mỹ cần soạn ra một kế hoạch chặt chẽ và lâu dài cho khu vực Thái Bình Dương trong thập niên tới và cả sau này”.

Mỹ đã có một chiến lược, đương nhiên. Nhưng điều đáng quan tâm là Việt Nam ở đâu trong kế hoạch này? Việt Nam rõ ràng không có nhiều lựa chọn.

Quan hệ Việt – Mỹ phát triển không ảnh hưởng tới các mối liên hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc. Thay vì phải chọn một bên nào, Việt Nam đang cố gắng hết sức để tăng cường quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ, và coi quan hệ với hai nước này là quan hệ các bên đều có lợi.

Để công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Việt Nam coi trọng Mỹ như nguồn chính về thị trường, đầu tư, công nghệ và phát minh sáng chế. Các nước khác, trong đó có Trung Quốc, đều đã củng cố quan hệ với Mỹ vì lý do tương tự. Tăng cường quan hệ Việt – Mỹ cũng đem lại cho Việt Nam các nguồn lực ngoại giao và chiến lược mạnh hơn. Mỹ ủng hộ ASEAN đóng vai trò trung tâm trong việc định hình các cấu trúc an ninh khu vực tại Châu Á – Thái Bình Dương và hỗ trợ các thành viên ASEAN, trong đó có Việt Nam, xây dựng năng lực hàng hải để cải thiện khả năng cảnh báo trong lĩnh vực hàng hải và các năng lực an ninh biển.

Tháng 9/2011, Việt Nam và Mỹ đã ký Biên bản ghi nhớ (MOU) nhằm thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương trong 5 lĩnh vực, bao gồm an ninh hàng hải, tìm kiếm và cứu hộ, các chiến dịch gìn giữ hòa bình của LHQ, các hoạt động nhân đạo và cứu trợ thiên tai, và hợp tác giữa các trường đại học quốc phòng và viện nghiên cứu. Trong chuyến thăm vừa qua, Tổng thống Obama đã thông báo dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vũ khí sát thương đối với Việt Nam.

Tuy nhiên, thúc đẩy quan hệ Việt – Mỹ, Việt Nam luôn nhấn mạnh không đồng nghĩa với kiềm chế và chống lại Trung Quốc. Việc dỡ bỏ lệnh cấm trên chủ yếu nhằm tạo điều kiện cho Việt Nam đa dạng hóa nguồn cung cấp trang thiết bị quân sự và đạn dược.

Hình ảnh độc lập của chính sách đối ngoại của Việt Nam chủ yếu dựa vào chính sách quốc phòng, theo đó Việt Nam theo đuổi nghiêm ngặt “nguyên tắc ba không” – Việt Nam sẽ không tham gia một hiệp định quân sự và trở thành một đồng minh quân sự với bất kỳ nước nào, không cho phép bất kỳ nước nào lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình, và không dựa vào bất kỳ nước nào để chống lại một nước khác.

Gần đây, Việt Nam đang chịu sức ép trong nước phải xem lại nguyên tắc này, tuy nhiên, việc kiên trì theo đuổi nguyên tắc này vẫn là cố gắng trong chính sách của chính phủ Việt Nam, mặc dù giới lãnh đạo Việt Nam thừa biết, không có sự can thiệp của Mỹ, Việt nam dẫu có quyền mua vũ khí ở bất kỳ đâu, hy sinh thu nhập cho trang bị quốc phòng đến mức nào, cũng không cản được bước tiến của Trung Quốc tới chiếm đọat hoàn toàn.

Là một thành viên ASEAN, Việt Nam đã chủ động tham gia các nỗ lực của Hiệp hội trong việc thu hút tất cả các nước lớn thông qua các cơ chế hợp tác do ASEAN đứng đầu, với chủ trương ASEAN không phải là một hiệp định quân sự hay nằm dưới sự ảnh hưởng của một nước lớn nào, mà là một tổ chức thúc đẩy ngoại giao để giải quyết những bất đồng.

Việc nghiêng về một bên nào đó là không hợp lý và không khả thi, vì cả Mỹ và Trung Quốc, bất chấp những bất đồng của họ, đều đang phối hợp dựa trên một quan hệ kiểu mới coi trọng việc tránh đối đầu quân sự, đồng thời thúc đẩy quan hệ trong mọi lĩnh vực.

Là một nước nhỏ theo dõi sát diễn biến trong quan hệ Mỹ – Trung, Việt Nam không thể không lo ngại các kịch bản Bắc Kinh và Washington trực tiếp đối đầu hoặc thỏa hiệp với nhau.

Lo ngại của Việt Nam không phải là không có cơ sở, vì lịch sử đã cho thấy Việt Nam bị ảnh hưởng bởi những thăng trầm trong quan hệ Mỹ – Trung trong thời Chiến tranh Lạnh.

Vả lại Trung Quốc sẵn sàng làm mọi việc để đạt được thoả hiệp với Mỹ, nhằm chủ yếu dạy bài học cho các quốc gia nhỏ yếu khác. Một chính sách như vậy sẽ đẩy Mỹ đối diện với thử thách không dễ vượt qua, khi Quốc hội Mỹ chỉ lựa chọn lợi ích của người dân Mỹ.

Vì vậy, lựa chọn chính sách là bạn với cả Mỹ và Trung Quốc, chủ động trong ASEAN, và tuân thủ các nguyên tắc toàn cầu của luật pháp quốc tế cũng như các chuẩn mực khu vực đã được thiết lập về cách hành xử và bộ quy tắc ứng xử, có thể là lựa chọn chiếm ưu thế trong các nhà lãnh đạo Việt Nam. Sự cải thiện trong quan hệ Việt – Mỹ sẽ củng cố xu hướng này.

Nhưng liệu chủ trương này của Việt Nam có khả thi không? Với Mỹ, dù không gắn kết bằng một hiệp định đồng minh, Việt Nam vẫn có thể phát triển quan hệ đối tác toàn diện với đầy đủ sự tin cậy và tôn trọng bình đẳng, căn cứ trên luật pháp quốc tế và văn minh nhân quyền. Với Trung Quốc, ngược lại, quan hệ thân thiện hoặc đối tác toàn diện chỉ đem lại thiệt hại. Ngay cả khi là đồng minh, Trung Quốc luôn lợi dụng các hiệp định hợp tác để tạo ra sự trói buộc và lệ thuộc tới mức Việt nam mất khả năng kiểm soát. Trong trường hợp không còn là đồng minh, hoặc có biểu hiện ngả sang phía đối thủ, Trung Quốc sẽ gây áp lực và đe dọa an ninh chế độ, nuôi lửa xung đột buộc Việt nam phải chạy đua quốc phòng, dẫn tới tình trạng chảy máu, kiệt sức.

Làm thế nào để chặn được tất cả các vòi bạch tuộc đang len lách ở khắp mọi nơi. Cách ly hoàn toàn thì có nguy cơ xung đột, gây đổ vỡ lập tức, không thể kịp ứng phó. Nhưng nếu không cách ly, để ngỏ cửa, thì nguy cơ có thể đến chậm, nhưng cũng không có cách nào ngăn chặn được.

Có thể phải lựa chọn cặp đôi với Mỹ, cho dù không tránh khỏi những điều không thể tránh khỏi, nhưng nguy cơ mất nước thì không.

 

Liệu Việt Nam có quyết định rời khỏi Trung Quốc?

Liệu Việt Nam có quyết định rời khỏi Trung Quốc?

Bùi Quang Vơm

4-6-2016

Quan hệ Mỹ – Việt – Trung. Ảnh: Internet.

Tổng thống Mỹ Barack Obama, vị Tổng thống thứ ba của Mỹ đến thăm Việt Nam kể từ khi bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ, đã kết thúc chuyến thăm được đánh giá làm sâu sắc thêm quan hệ giữa hai quốc gia từng là cựu thù, trước hết đem lại nhiều chờ đợi trong dân chúng về một triển vọng sáng sủa hướng về phía tiến bộ. Chính sách ngoại giao của Việt Nam hứa hẹn sẽ có ít nhiều thay đổi.

Tuy nhiên, điều này hoàn toàn không đơn giản. Quan hệ Việt – Mỹ dù các cố gắng tăng cường, không thể tách hẳn đường lối các chính sách ngoại giao của Việt Nam khỏi những nguyên tắc truyền thống. Từ sau năm 1991, khi khối XHCN thế giới tan vỡ, Việt Nam theo đuổi con đường cải cách, trong đó có chính sách ngoại giao độc lập trong đa dạng và đa hướng, với quan điểm xây dựng một môi trường hợp tác và hòa bình với bên ngoài, tạo điều kiện theo đuổi các lợi ích quốc gia như phát triển kinh tế, chủ quyền quốc gia, duy trì chế độ độc đảng cầm quyền, phát triển kinh tế và xã hội. Nhưng những nguyên tắc này thường được rút gọn lại bằng bốn chữ, “chế độ và tăng trưởng”. Đó là những thứ mà lãnh đạo Việt Nam gọi là “nhị bất biến, ứng với vạn biến”. Trước hết là chế độ, chống mọi thế lực thù địch và âm mưu diễn biến. Tiếp đến là tăng trưởng kinh tế nhằm tìm kiếm chính danh và sức mạmh đảm bảo ổn định cho chế độ.

Ưu tiên chế độ trở thành ưu tiên ý thức hệ dẫn đến ưu tiên quan hệ Trung Việt. Sau ba mươi năm, quan hệ Trung Việt phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu, bề ngoài, có vẻ như chế độ có một chân đế vững chắc. Không có gián điệp Trung Quốc gây bạo loạn, không có Trung Quốc làm diễn biến hoà bình. Không có Mặt Trận kháng chiến phục Việt do Trung Quốc giật dây, nuôi dưỡng. Không có “dân chủ và nhân quyền tư bản”.

Nhưng, sau ba mươi năm, biên giới hầu như thông thương, mọi thứ, cả con người lẫn phương tiện qua lại như anh em trong nhà, không thể phân biệt ngay, gian. Rừng biên giới có người Trung Quốc rào chắn, làm đường, đào hầm, lập làng, cưới vợ, gả chồng sinh con, đẻ cái. Công ty Trung Quốc hiện diện ở khắp mọi nơi, thuê dài hạn và chiếm những vị trí xung yếu, trên suốt chiều dài đất nước, đặc biệt vùng đất hẹp miền Trung. Nền công nghiệp què quặt của Việt Nam, phần lớn sản xuất bằng công nghệ lỗi thời của Trung Quốc, sử dụng nguyên liệu nhập từ trung Quốc, sẵn sàng tê liệt khi mất nguồn cung từ Trung Quốc. Người ta không thể quên, những lãnh tụ Trung Quốc từng tổng kết rằng, có ba con đường để Trung Quốc mở rộng lãnh thổ, một là đồng hoá các dân tộc trong cùng biên giới, hai là dồn dân tới các vùng giáp ranh để lấn đất, ba là gây chiến tranh.Với Bôxít trên nóc cao Nguyên, khu công nghiệp Vũng Áng trấn tại đèo ngang Hà Tĩnh, một khi chiếm trọn Trường Sa, thì cả biển lẫn đất có nguy cơ không có cách gì giữ được?

Chủ trương chế độ trên hết đã bộc lộ là một chủ trương sai lầm. Càng gần Trung Quốc, càng phát triển rộng và sâu với Trung Quốc, chính quyền Việt Nam càng mất dần khả năng kiểm soát đất nước, chủ quyền biển đảo càng có nguy cơ không giữ được. Đây mới chính là thực chất của mối đe dọa chế độ.

Việt Nam tìm kiếm trước hết sự hỗ trợ từ ASEAN, hy vọng tạo ra được một tiếng nói chung khả dĩ đa phương hoá nguy cơ chèn ép nước lớn của Trung quốc. Nhưng cộng đồng chung này chưa có gì chung ngoài ý chí, thực chất đã bị phân hoá trước thủ đọan chia rẽ bằng lợi ích kinh tế ích kỷ của từng quốc gia thành viên, trong khi cộng đồng tồn tại với một cơ chế đồng thuận lỏng lẻo.

Nhật Bản là một lựa chọn. Việt Nam biết Nhật Bản, với những ràng buộc chưa thể gỡ bởi luật pháp quốc tế đối với một quốc gia nguyên tội phạm chiến tranh, không cho phép Nhật triển khai một cách tự do tiềm lực quân sự và hỗ trợ quân sự các quốc gia khác. Chưa nói, bản thân tiềm lực quân sự của Nhật bản dẫu mạnh, vẫn chưa thể đối đầu với Trung Quốc. Nhưng Nhật Bản có một điểm đặc biệt. Nhật không có đối kháng về thể chế chính trị với chế độ cộng sản độc đảng. Nhật Bản không có yêu cầu nhân quyền kèm theo các hợp tác kinh tế. Vì vậy, Việt Nam gắn kết toàn tâm bằng sự tin cậy hoàn toàn với Nhật Bản. Nhật Bản là một quốc gia dân chủ và là đồng minh đặc biệt của Mỹ. Quan hệ gắn bó và sâu sắc, tin cậy hoàn toàn với Nhật bản, Việt Nam có cơ hội quen dần và thích nghi với chuỗi giá trị khác với hệ thống giá trị truyền thống của chế độ XHCN. Qua Nhật Bản, vốn từng là cựu thù chiến tranh, vì thế, cách nhìn nhận một cựu thù như Mỹ đối với lãnh đạo cộng sản Việt Nam, có phần bớt gay gắt.

Trước một thách thức lớn đến từ sự trỗi dậy, tiềm tàng một tham vọng bành trướng mang tên “giấc mộng Trung Hoa”, biển Đông có nguy cơ biến thành ao riêng của Trung Quốc. Khu vực biển có lưu lượng hàng hoá luân chuyển gần 50% tổng lượng hàng hoá lưu chuyển toàn cầu và trên 5000 tỷ đôla giá trị sản lượng hàng năm, tự do hàng hải, tự do hàng không phía trên vùng biển và an ninh trật tự khu vực có lợi ích gắn với lợi ích của Mỹ.

Sau tuyên bố Mỹ có lợi ích quốc gia với tự do hàng hải và luật pháp quốc tế tại biển Đông của bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, bà Hillary Clinton năm 2010 tại ASEAN, Tổng thống OBAMA tuyên bố chuyển trục chiến lược sang Đông Á.

Việt Nam vốn biết, đàm phán song phương với Trung Quốc chỉ đem lại thất bại. Đàm phán là thủ đọan hoãn binh và trói tay đối phương trên bàn, bằng mồi nhử kinh tế, để Trung Quốc lấn lướt, một mình tự tung, tự tác trên thực địa, tạo ra việc đã rồi, từng bước, từng lát cắt cho đến khi độc chiếm. Việt Nam tìm cách đa phương hoá tranh chấp. Việt Nam tìm kiếm chỗ dựa, tìm hỗ trợ cho cuộc chiến quá chênh lệch với Trung Quốc.

Và Việt Nam đã thấy ở chiến lược chuyển trục Đông Á của Mỹ nhằm bảo vệ tự do hàng hải và trật tự an ninh khu vực theo luật pháp quốc tế, có lợi ích ngăn chặn chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc đồng nhất với lợi ích bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt nam.

Tháng 7/2013, Việt Nam và Mỹ nhất trí nâng cấp quan hệ song phương lên “đối tác toàn diện”, thúc đẩy quan hệ trong mọi lĩnh vực, tạo sự tin cậy gắn kết từng bước tới thực chất.

Cũng bắt đầu từ sau chuyến thăm Mỹ của ông Trương Tấn Sang, Trung Quốc tăng cường trả đũa Việt nam bằng áp lực Hoàng, Trường Sa. Hai nước Việt Mỹ càng tiến lại gần nhau, quan hệ hợp tác giữa hai nước càng phát triển thì thái độ lấn chiếm biển đông càng kiên quyết, tốc độ xây dựng và quân sự hoá theo hướng tăng cường khả năng tấn công càng bộc lộ rõ. Dường như thông điệp mà Trung Quốc muốn chuyển tới lãnh đạo Hà Nội là việt Nam không còn lối thoát bất chấp mọi cố gắng tìm kiếm đồng minh.

Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS, Mỹ) nhận định “nếu tình hình Trung Quốc quân sự hóa biển Đông không được can thiệp, biển Đông sẽ biến thành ao nhà của Trung Quốc vào năm 2030.” Điều này có nghĩa là không có can thiệp Mỹ, sau 2030, Việt Nam sẽ không còn biển? Nếu đường lưỡi bò trở thành hiện thực, ra cách bở khảng 44km, Việt Nam đã lọt vào biển Trung Quốc.(12 hải lý lãnh hải + 12 hải lý giáp ranh lãnh hải), nếu không có phép, tàu thuyền Việt Nam sẵn sàng bị bắn hạ.

Báo Guardian (Anh) tuần trước dẫn lời Giám đốc Cơ quan An ninh Quốc gia Mỹ (NSA) Michael Hayden cảnh báo nếu Mỹ không xử lý tốt đà trỗi dậy của Trung Quốc trong 10 năm tới thì hậu quả sẽ là thảm họa với Mỹ và với cả thế giới. Theo ông Michael Hayden, “Mỹ cần soạn ra một kế hoạch chặt chẽ và lâu dài cho khu vực Thái Bình Dương trong thập niên tới và cả sau này”.

Mỹ đã có một chiến lược, đương nhiên. Nhưng điều đáng quan tâm là Việt Nam ở đâu trong kế hoạch này? Việt Nam rõ ràng không có nhiều lựa chọn.

Quan hệ Việt – Mỹ phát triển không ảnh hưởng tới các mối liên hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc. Thay vì phải chọn một bên nào, Việt Nam đang cố gắng hết sức để tăng cường quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ, và coi quan hệ với hai nước này là quan hệ các bên đều có lợi.

Để công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Việt Nam coi trọng Mỹ như nguồn chính về thị trường, đầu tư, công nghệ và phát minh sáng chế. Các nước khác, trong đó có Trung Quốc, đều đã củng cố quan hệ với Mỹ vì lý do tương tự. Tăng cường quan hệ Việt – Mỹ cũng đem lại cho Việt Nam các nguồn lực ngoại giao và chiến lược mạnh hơn. Mỹ ủng hộ ASEAN đóng vai trò trung tâm trong việc định hình các cấu trúc an ninh khu vực tại Châu Á – Thái Bình Dương và hỗ trợ các thành viên ASEAN, trong đó có Việt Nam, xây dựng năng lực hàng hải để cải thiện khả năng cảnh báo trong lĩnh vực hàng hải và các năng lực an ninh biển.

Tháng 9/2011, Việt Nam và Mỹ đã ký Biên bản ghi nhớ (MOU) nhằm thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương trong 5 lĩnh vực, bao gồm an ninh hàng hải, tìm kiếm và cứu hộ, các chiến dịch gìn giữ hòa bình của LHQ, các hoạt động nhân đạo và cứu trợ thiên tai, và hợp tác giữa các trường đại học quốc phòng và viện nghiên cứu. Trong chuyến thăm vừa qua, Tổng thống Obama đã thông báo dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vũ khí sát thương đối với Việt Nam.

Tuy nhiên, thúc đẩy quan hệ Việt – Mỹ, Việt Nam luôn nhấn mạnh không đồng nghĩa với kiềm chế và chống lại Trung Quốc. Việc dỡ bỏ lệnh cấm trên chủ yếu nhằm tạo điều kiện cho Việt Nam đa dạng hóa nguồn cung cấp trang thiết bị quân sự và đạn dược.

Hình ảnh độc lập của chính sách đối ngoại của Việt Nam chủ yếu dựa vào chính sách quốc phòng, theo đó Việt Nam theo đuổi nghiêm ngặt “nguyên tắc ba không” – Việt Nam sẽ không tham gia một hiệp định quân sự và trở thành một đồng minh quân sự với bất kỳ nước nào, không cho phép bất kỳ nước nào lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình, và không dựa vào bất kỳ nước nào để chống lại một nước khác.

Gần đây, Việt Nam đang chịu sức ép trong nước phải xem lại nguyên tắc này, tuy nhiên, việc kiên trì theo đuổi nguyên tắc này vẫn là cố gắng trong chính sách của chính phủ Việt Nam, mặc dù giới lãnh đạo Việt Nam thừa biết, không có sự can thiệp của Mỹ, Việt nam dẫu có quyền mua vũ khí ở bất kỳ đâu, hy sinh thu nhập cho trang bị quốc phòng đến mức nào, cũng không cản được bước tiến của Trung Quốc tới chiếm đọat hoàn toàn.

Là một thành viên ASEAN, Việt Nam đã chủ động tham gia các nỗ lực của Hiệp hội trong việc thu hút tất cả các nước lớn thông qua các cơ chế hợp tác do ASEAN đứng đầu, với chủ trương ASEAN không phải là một hiệp định quân sự hay nằm dưới sự ảnh hưởng của một nước lớn nào, mà là một tổ chức thúc đẩy ngoại giao để giải quyết những bất đồng.

Việc nghiêng về một bên nào đó là không hợp lý và không khả thi, vì cả Mỹ và Trung Quốc, bất chấp những bất đồng của họ, đều đang phối hợp dựa trên một quan hệ kiểu mới coi trọng việc tránh đối đầu quân sự, đồng thời thúc đẩy quan hệ trong mọi lĩnh vực.

Là một nước nhỏ theo dõi sát diễn biến trong quan hệ Mỹ – Trung, Việt Nam không thể không lo ngại các kịch bản Bắc Kinh và Washington trực tiếp đối đầu hoặc thỏa hiệp với nhau.

Lo ngại của Việt Nam không phải là không có cơ sở, vì lịch sử đã cho thấy Việt Nam bị ảnh hưởng bởi những thăng trầm trong quan hệ Mỹ – Trung trong thời Chiến tranh Lạnh.

Vả lại Trung Quốc sẵn sàng làm mọi việc để đạt được thoả hiệp với Mỹ, nhằm chủ yếu dạy bài học cho các quốc gia nhỏ yếu khác. Một chính sách như vậy sẽ đẩy Mỹ đối diện với thử thách không dễ vượt qua, khi Quốc hội Mỹ chỉ lựa chọn lợi ích của người dân Mỹ.

Vì vậy, lựa chọn chính sách là bạn với cả Mỹ và Trung Quốc, chủ động trong ASEAN, và tuân thủ các nguyên tắc toàn cầu của luật pháp quốc tế cũng như các chuẩn mực khu vực đã được thiết lập về cách hành xử và bộ quy tắc ứng xử, có thể là lựa chọn chiếm ưu thế trong các nhà lãnh đạo Việt Nam. Sự cải thiện trong quan hệ Việt – Mỹ sẽ củng cố xu hướng này.

Nhưng liệu chủ trương này của Việt Nam có khả thi không? Với Mỹ, dù không gắn kết bằng một hiệp định đồng minh, Việt Nam vẫn có thể phát triển quan hệ đối tác toàn diện với đầy đủ sự tin cậy và tôn trọng bình đẳng, căn cứ trên luật pháp quốc tế và văn minh nhân quyền. Với Trung Quốc, ngược lại, quan hệ thân thiện hoặc đối tác toàn diện chỉ đem lại thiệt hại. Ngay cả khi là đồng minh, Trung Quốc luôn lợi dụng các hiệp định hợp tác để tạo ra sự trói buộc và lệ thuộc tới mức Việt nam mất khả năng kiểm soát. Trong trường hợp không còn là đồng minh, hoặc có biểu hiện ngả sang phía đối thủ, Trung Quốc sẽ gây áp lực và đe dọa an ninh chế độ, nuôi lửa xung đột buộc Việt nam phải chạy đua quốc phòng, dẫn tới tình trạng chảy máu, kiệt sức.

Làm thế nào để chặn được tất cả các vòi bạch tuộc đang len lách ở khắp mọi nơi. Cách ly hoàn toàn thì có nguy cơ xung đột, gây đổ vỡ lập tức, không thể kịp ứng phó. Nhưng nếu không cách ly, để ngỏ cửa, thì nguy cơ có thể đến chậm, nhưng cũng không có cách nào ngăn chặn được.

Có thể phải lựa chọn cặp đôi với Mỹ, cho dù không tránh khỏi những điều không thể tránh khỏi, nhưng nguy cơ mất nước thì không.

Trung Quốc phát tờ rơi xuyên tạc về biển Đông tại Shangri-La

Trung Quốc phát tờ rơi xuyên tạc về biển Đông tại Shangri-La

Tuổi Trẻ

Quỳnh Trung (từ Shangri-La)

4-6-2016

Tờ rơi tiếng Hoa gồm những nội dung xuyên tạc về Biển Đông mà Trung Quốc chủ ý phát cho các đại biểu quốc tế tại Đối thoại Shangri-La - Ảnh: V.T.

TTO – Tờ rơi gồm hai phiên bản tiếng Anh và tiếng Hoa, cung cấp thông tin xuyên tạc sự thật cho rằng toàn bộ biển Đông là của Trung Quốc.

Chiều 3-6, ngay sau cuộc tiếp xúc song phương với đoàn quốc phòng Việt Nam, đoàn Trung Quốc đã phát tờ rơi có nội dung xuyên tạc về chủ quyền ở Biển Đông cho các đại biểu quốc tế tham dự Đối thoại Shangri-La ở Singapore.

Tờ rơi được phát có nội dung tuyên truyền những luận điệu sai trái của nước này về vấn đề tranh chấp chủ quyền ở biển Đông.

Nội dung tờ rơi này cho rằng các đảo của Trung Quốc bao gồm quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa của Việt Nam), quần đảo Trung Sa, và quần đảo Nam Sa (là Trường Sa của Việt Nam). Bốn quần đảo này đều hợp thành lãnh thổ của Trung Quốc.

Về quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, Trung Quốc trắng trợn viết: “Một số nước xung quanh biển Đông đã đưa quân xâm chiếm các đảo, dẫn đến tranh chấp lãnh thổ quần đảo Trường Sa hiện nay và Trung Quốc là quốc gia phát hiện sớm nhất, đặt tên, và khai thác quần đảo Trường Sa”.

Trong tờ rơi, Trung Quốc còn ngang nhiên cho rằng yêu cầu lãnh thổ của các nước khác đối với quần đảo Trường Sa không phù hợp với luật pháp quốc tế:

“Theo luật pháp quốc tế, tranh chấp chủ quyền có những đặc tính mang tính loại trừ. Chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa từ xa xưa đã được thiết lập, bất kỳ nước nào khác cũng không thể yêu cầu chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa, nếu không sẽ đi ngược lại nghĩa vụ của mình đối với việc tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước khác”.

Ngoài ra, theo nội dung tờ rơi, Trung Quốc cho rằng vấn đề Biển Đông vô cùng phức tạp và nhạy cảm, con đường tốt nhất để giải quyết vấn đề này là đàm phán trực tiếp giữa các nước liên quan.

Bắc Kinh còn cho rằng ASEAN là một tổ chức khu vực, không thể tham gia phán quyết với tư cách là một đương sự trong tranh cãi này.

Hai chủ tịch xã nghi tham ô vẫn lên chức huyện ủy

 Hai chủ tịch xã nghi tham ô vẫn lên chức huyện ủy
Nguoi-viet.com
KIÊN GIANG (NV) – Từ phản ánh của truyền thông Việt Nam, ông bí thư huyện ủy Hòn Đất buộc phải lên tiếng “sẽ kỷ luật hai chủ tịch xã làm sai rồi cùng lên chức,” gây bất bình dư luận.

Người dân xã Bình Giang bất bình về việc hai đời chủ tịch tham ô vẫn lên đến huyện ủy viên. (Hình: Báo Tuổi Trẻ)

Báo Tuổi Trẻ dẫn tin, ngày 2 Tháng Sáu, ông Trần Đức Mậu, bí thư Huyện Ủy Hòn Đất tỉnh Kiên Giang, cho biết ban thường vụ huyện ủy đã tiếp nhận và xử lý thông tin báo chí phản ánh chuyện hai ông Phạm Văn Lý và Cam Anh Dũng, đều nguyên là chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân xã Bình Giang, làm sai nhưng vẫn được đại hội đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2015-2020 bầu vào ban chấp hành.

Cụ thể, từ năm 2010 đến cuối năm 2014, Ủy Ban Nhân Dân xã Bình Giang đã ký bán 91 lô nền trên tuyến dân cư T5 cho 61 cá nhân, thu về tổng số tiền 685 triệu đồng trên tổng số 1.555 tỷ đồng. Trong đó, ông Phạm Văn Lý ký 11 hợp đồng bán 17 lô thu 250 triệu đồng. Ông Cam Anh Dũng ký 50 hợp đồng bán 74 lô thu 435 triệu đồng.

Số tiền 685 triệu đồng thu được, ủy ban xã Bình Giang tự in phiếu thu rồi giữ lại 260.5 triệu đồng để chi xài, không nộp cho nhà nước. Trong đó, ông Lý chi hết 19.351 triệu đồng và ông Dũng chi hết 241.149 triệu đồng “không rõ mục đích.”

Mặc dù sai phạm như vậy, nhưng kết luận thanh tra chỉ đề nghị “kiểm điểm rút kinh nghiệm” đối với hai ông này. Ông Lý hiện đã lên chức huyện ủy viên, làm chủ tịch Liên Đoàn Lao Động huyện; còn ông Dũng hiện giữ chức huyện ủy viên, phó trưởng Ban Tổ Chức huyện ủy Hòn Đất. (Tr.N)

Tôi cứ tưởng bây giờ tôi đã chết,

“Tôi cứ tưởng bây giờ tôi đã chết,

Trước dung-nhan Thượng-Đế, xét tội/công.

Xin tha-thứ bao tội lỗi chất-chồng

Những chối bỏ, khinh chê người tật/bệnh.

Kẻ già nua, thơ trẻ Ngài truyền lệnh

Người bơ-vơ hèn mọn chính là Ta.”

(Dẫn từ thơ Nguyên Đỗ)

Mai Tá lược dịch.

Bơ vơ hèn mọn. Tật bệnh, lũ trẻ thơ. Và, người nữ-phụ chất-chồng nhiều tội-lỗi, Chúa thứ tha. Chúa tha thứ, Ngài thẩm-định mọi việc không do quá-khứ, hệ-lụy mà do biết từ-bỏ những gì lôi kéo người người xuống bùn đen. Bùn đen hôm nay, mon men đến gần với Chúa, để được tha-thứ. Tin Mừng cho thấy diện-mạo hai nhân-vật: một Biệt-phái tên Simôn, một nữ-phụ gọi tắt là Maria. Biệt-phái theo ngôn-ngữ Do-thái-giáo, là “người tách riêng”. Vào thời của Chúa, người Biệt phái như thế rất đông. Đông đến 6 ngàn người. Và, họ ở rải-rác trên toàn cõi Palestine.

Hôm nay, Biệt Phái Simôn mời Đức Kitô đến nhà, phải chăng để huênh hoang khoe chòm xóm: mình quen lớn. Hay, chỉ muốn thách thức thái độ và lời dạy của Đức Kitô, thôi? Điều này, không rõ. Nhưng, chúng ta đều biết, Đức Giê-su không chọn người để đến thăm. Ngài nhận lời đến với người giàu – kẻ nghèo, dù Biệt Phái. Với giới kinh sư, thu thuế, và người phạm tội, rất đáng ghê. Vào nhà Biệt Phái Simôn, ta thấy dường như ông ta cố ý để ngỏ cửa, và tiếp đón hời hợt như muốn đặt Đức Kitô vào tình trạng lúng túng, khó xử. Cửa để ngỏ, khiến người nữ phụ tội lỗi dễ đi  thẳng vào bên trong, để gặp Chúa. Dù không đuợc mời, nhưng chị vẫn đến. Chị đến, để xem Đức Kitô đối xử ra sao với đám tội phạm. Lạm dụng tình.

Cử chỉ của người nữ phụ tội lỗi, những là: xõa tóc, đổ dầu thơm lên chân. Rồi còn, hôn chân Chúa và khóc lóc, làm đẫm ướt chân Ngài. Cảnh tượng này, có lẽ đã gây xúc phạm đối với những người công chính hiện diện, buổi hôm ấy. Trình thuật kể rõ chi tiết, để nêu lên hai thái cực của hai loại người tội lỗi. Hai thái cực này, có thể gây khó chịu cho nhân vật chính được mời, là Đức Kitô.

Lỗi của Biệt Phái Simôn, là: tuy mời Đấng Thiên Sai Đức Chúa, nhưng ông lại không làm thủ tục xã giao đúng với qui cách của nhà chủ, tức: ông ta đã không rửa chân, không ôm hơn hoà bình. Không đổ dầu lên tóc. Cả đến cử chỉ sám hối – ăn năn, cũng không. Cảnh trí trong truyện, còn dẫn đến tình huống gay hơn: khi Chúa quay về phía người nữ phụ từng phạm lỗi khi trước, Ngài nói: “Tội của chị nhiều thật đấy, nhưng đã được tha; bằng chứng là chị đã yêu mến nhiều.” (Lc 7: 47)

Trình thuật Phúc âm, ngay từ đầu cho thấy: các xử sự của Đức Kitô rất nhẹ nhàng. Tự do. An bình. Ngài không tỏ dấu hiệu bất an. Lúng túng. Cũng chẳng ra lệnh cho người nữ phụ phải ngưng ngay các hành vi dễ gây ngộ nhận, ra như thế. Bởi, với người đời, chị luôn bị coi là người tội lỗi, mà lại dám có cử chỉ khiếm nhã, với Đấng Hiền Từ, Yêu Thương là Đức Kitô, sao? Thay vì nổi giận hoặc ngượng ngùng trước những động tác hơi xỗ sàng ấy, Đức Kitô đã không khiển trách chị; trái lại, Ngài tuyên bố: tội của chị đã được tha. Tuyên bố như thế, chẳng phải là: Chúa muốn chứng tỏ quyền uy của Ngài, là tha tội. Nhưng, qua hành động ấy, Ngài muốn nói với mọi người, rằng: lòng tin-yêu và hối cải của người phạm lỗi đã đem lại cho họ sự thứ tha. Tha thứ ấy, nay được thể hiện qua việc đổ tràn tình thương tiếp diễn, ngay sau đó.

Tình yêu và tội lỗi, hai điều không thể đi chung, cùng sống tương hợp với nhau. Càng không thể hiện diện trong cùng một nhân vị. Nhưng ở đây, người nữ phụ đã bày tỏ lòng chị đã tin-yêu Chúa thật sự. Nên, vì tình thương ấy, mọi lỗi phạm của chị đã trở thành những sơ xuất chị làm trong quá khứ. Hiện tại, khi được thứ tha, tâm hồn chị trở nên trong trắng. Rất nhiều. Xem thế thì, tình thương yêu xóa bỏ được mọi tì vết dù rất lớn, trong quá khứ. Quá khứ, không quan trọng. Hiện tại, mới cần quan tâm.

Thời nay, người đời thường chú trọng đến những gì người khác đã làm trong quá khứ. Vẫn cứ chụp lên đầu những người làm điều sai quấy bằng các nhãn hiệu/tên gọi rất khắt khe. Dù, họ đã biết đổi thay. Khắt khe quá, khiến đương sự dù có muốn, cũng không thoát khỏi các tai tiếng về các lỗi phạm, thời quá khứ. Và cứ thế, tiếng xấu cứ đeo bám họ suốt chuỗi ngày còn lại. Với Chúa, quá khứ tội lỗi không còn là vấn đề. Điều Ngài quan tâm, là: biết hối hỗi. Và, từ nay không làm thế.

Trong tâm tình này, tay trộm nghèo treo cạnh Chúa trên đồi cao hôm ấy, cũng đã ý thức. Hắn biết kêu gọi tình thương Chúa tha thứ. Nên, được Chúa hứa cho về với Ngài, nơi cõi phúc. Có lẽ, nhiều người sẽ cho đây là chuyện bất công, Chúa đã làm? Nhưng hãy nhớ rằng: ý niệm công bằng của Chúa, không là công bằng trần gian, ta vẫn hiểu. Thử hỏi: nếu Chúa không tha thứ; không đặt nặng đến hành vi ta làm trong hiện tại, thì e rằng người người sẽ không khỏi lúng túng về các lỗi phạm thời đã qua, của mình.

Đây còn là ý chính ở bài đọc 1. Nếu chỉ kể những việc mình làm trong quá khứ, thì Đavít sẽ là tay tội phạm tày trời. Hết cướp vợ người khác, lại giết người không gớm tay, không buông tha cả những đầu xanh vô tội. Nhưng, Đavít đã biết sám hối và đổi thay, nên ông được Yavê Chúa thứ tha. Nhờ sám hối – đổi thay, Đavít đã đi vào vòng tay ôm thương yêu của Chúa. Đúng như lời tiên tri Nathan nói: “Về phía Chúa, Người đã bỏ qua tội của ngài rồi.” (2Sm 12: 13).

Một lần nữa, Thiên Chúa cho thấy: Ngài muốn cải hóa người phạm lỗi, chứ không xử phạt. Xử phạt là hành vi hủy hoại. Chúa chẳng bao giờ hủy hoại ai. Một thứ gì. Ngài muốn mọi người trở nên một. Một thân mình. Một cộng đoàn yêu thương. Cộng đoàn biết sống hài hoà. Bình an. Trong nội tâm.

Tư tưởng này, thánh Phao lô cũng bộc bạch ở bài đọc 2. Tất cả mọi người hãy củng cố niềm tin vì đã có tình thương yêu tha thứ của Chúa, với mình. “Người được nên công chính không phải nhờ đã làm những gì luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Kitô.” (Gl 2: 16). Đó là khác biệt giữa lối hành xử của Simôn Biệt Phái và Maria, người nữ phụ đầy lỗi phạm.

Hôm nay, tất cả mọi người, công chính cũng như có tội, nhờ có niềm tin thương mến nơi Chúa, nên đã được cứu rỗi. Tin, không là động thái của tri thức. Tin, cũng không phải là mớ tín điều mọi người cần giữ. Nhưng, trước hết và trên hết, tin chính là hành động của những người biết yêu thương. Tin tưởng vào điều gì. Vào người nào.

Nếu agapè (lòng mến) là ngôn từ chỉ định tình Cha thương yêu, thì pistis (lòng tin), là đường lối để ta đáp lại tình yêu thương ấy. Ta không thấy Chúa, cũng không bao giờ biết được Ngài, nhưng vẫn tin vì đã dựa vào các trình thuật/truyện kể, nơi Phúc Âm. Ở nơi đó, Chúa đến với ta,qua xác hèn phàm trần bằng xương bằng thịt, của Đức Kitô. Nhờ đó, ta có bước dài củng cố lòng tin mà dâng hiến trọn mình để Ngài chăm sóc. Mến thương. Tựa như người nữ phụ tội lỗi đã làm, hôm nay. Và như thánh Phaolô khuyên nhủ, tin vào Đức Kitô đã cải hoán cuộc đời của chúng ta.

Như thánh Phaolô, luật lệ không còn mang ý nghĩa gì, đối với ta. Luật lệ, sẽ không là chuyện cần thiết ta phải có, khi cuộc sống của mọi người đã có tình thương yêu hướng dẫn. Ai yêu thật sự, chẳng bao giờ làm điều sai quấy. Ác độc. Dù họ có vi phạm những chấm phết của luật lệ. Và, khi đã yêu, thì luật lệ tự khắc sẽ được tuân thủ. Nói khác đi, nếu chỉ giữ luật mà không yêu thương, thì kết cuộc cũng sẽ đưa đến những hậu quả thảm khốc, không ngừa trước.

Chính vì thế, mà thánh Phaolô  -người Biệt Phái hăng say săn bắt người phạm luật Do Thái thuở trước-  đã biết từ bỏ luật lệ của nhóm mình để trở về hiến tặng trọn đời mình cho Đức Chúa. Và khi đã hiến trọn chính mình, thánh nhân dám nói lên câu để đời: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2: 20). Hôm nay, cuộc sống và lời rao giảng của thánh nhân đã trở thành gương sáng, cho ta theo.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch.

Tội phạm Vũng Áng…

Tội phạm Vũng Áng…

“Phải truy tìm cho ra ông Nguyễn Tấn Dũng và ông Võ Kim Cự đã nhận của Formosa bao nhiêu tìền, trong số tiền đó có bao nhiêu xuất phát từ Trung Quốc cộng sản. Số tiền này tuồn sang Quỹ đầu tư của cô Nguyễn Thanh Phượng bằng con đường nào. Phải truy tố bằng được ông Dũng ra Toà. Trước một thảm hoạ cho quốc gia như vậy, trước một nguy cơ tiêu diệt nguồn sống của hàng triệu người, có hàng nghìn bà con đang đói và nguy cơ chết vì nhiễm độc, không thể để cho Dũng có quyền thoát tội”.

______

Bùi Quang Vơm

3-6-2016

Ngư dân Quảng Bình xuống đường biểu tình, đòi chính phủ công bố nguyên nhân cá chết hàng loạt. Ảnh: Facebook.

Tội phạm Vũng Áng là ai?

Cho dù đến tận bây giờ, nguyên nhân cá chết xuất phát từ vùng biển Vũng Áng, Hà Tĩnh, vẫn chưa được nhà nước Việt Nam công bố, thậm chí có ý định không bao giờ công bố qua việc mượn lời chuyên gia Nhật Bản lấp lửng rằng, “có thể phải cần một năm”.

Nhưng trước áp lực của xã hội, ngày hôm qua, 02/06/2016, trong cuộc họp báo của Chính phủ, bộ trưởng Truyền Thông Trương Minh Tuấn nói “Về nguyên nhân cá chết chưa thể công bố, các nhà khoa học nỗ lực tìm ra nguyên nhân và đã sớm tìm ra nguyên nhân. Nhưng việc điều tra cá chết là nhiệm vụ của nhiều cơ quan nên còn nhiều ý kiến khác nhau vì thế cần phải rốt ráo xác định nguyên nhân.

Các cơ quan phải điều tra đầy đủ các bằng chứng pháp lý về môi trường xem các tổ chức, cá nhân có vi phạm không. Quan điểm của Chính phủ là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào vi phạm đều bị xử lý nghiêm minh. Cho nên, cần phải có thời gian kỹ lưỡng để có kết luận xác thực”.

Theo cách trả lời có phần ỡm ờ này, thì người ta “mười phần đã đoán ra được chín”. Chẳng có gì là khó hiểu. Vì kết luận khoa học xác định nguyên nhân cá chết đã có ngay từ ngày 20/04/2016, theo Giáo sư Tiến Sĩ Giáo sư Nguyễn Tác An, nguyên viện trưởng Viện Hải Dương Học Nha Trang “Ở Vũng Áng sau khi xảy ra sự cố như thế thì (các) nhà khoa học đã ra rất nhiều phương án để tiến hành và những phương án đều thu được những kết quả.

Theo tôi nghĩ có cái gì đó mà người ta không muốn nói. Chứ tìm cả năm cũng vậy vì người ta đã biết nguyên nhân rồi. Như thế thôi, không được ai phát biểu hết: chỉ Tổng Cục Môi Trường và Bộ Tài nguyên – Môi trường mới được phát biểu, ai muốn phát biểu cũng không được. Người ta đã nói như vậy rồi thì thôi!”

Dư luận của cả xã hội, cả tập thể các nhà khoa học Việt Nam và quốc tế không thể nói ra, nhưng thừa biết không ai khác ngoài nhà máy thép Formosa. Dẫu Chính phủ kết luận là ai, thì người ta vẫn tin rằng chỉ có nhà máy thép. Nếu thủ phạm Chính phủ nói không phải là Formosa thì dứt khoát có chuyện khuất tất được che đậy phía sau.

Chỉ có những kẻ ngớ ngẩn mới che đậy một sự thật hiển nhiên như vậy.

Bất chấp thủ đọan nhả tin từ từ của chính phủ Việt Nam, bất chấp phía sau chứa đựng âm mưu hay mục đích gì, bất chấp kết quả công bố thế nào, thủ phạm là ai, điều mà tất cả chúng ta, tất cả dân chúng, tất cả những người làm khoa học hay không làm khoa học, cả trong nước và cả trên thế giới đều nhất trí một điều là cần phải đóng cửa nhà máy thép Formosa. Vì nó còn nằm đấy thì còn xả thải và nguy cơ cá chết, dân chết và nguy cơ huỷ hoại môi trường sống của con cháu muôn đời vẫn còn nguyên đấy.

Nguyên nhân gây ra nạn cá chết không cần phải có các nhà khoa học nghiên cứu để kết luận. Truy ra nguyên nhân, để truy ra thủ phạm. Đó là việc của công lý, xử đúng người đúng tội. Nhưng vấn đề không chỉ đơn thuần nằm ở việc xử ai. Mục đích chính là bảo vệ môi trường và đời sống của con người.

Không cần biết có phải chính do nhà máy thép Vũng Áng xả thải không qua xử lý hay không, điều chúng ta đã không còn tranh cãi là sản xuất thép là một loại sản xuất gây ra độc hại, huỷ hoại môi trường. Và đặt nhà máý thép tại vị trí nhạy cảm này là hoàn toàn sai.

Vậy giải pháp cho nó rõ ràng là:

1- Bắt buộc nhà máy thép phải xử ký triệt để đúng quy định của pháp luật Việt Nam và quy chuẩn quốc tế về bảo vệ môi trường.

2- Sửa lại luật về quy trình và chế độ giám sát xử lý trước xả thải ra biển.

3- Đóng cửa từng bước và tiến tới đóng cửa hoàn toàn nhà máy thép tại Vũng Áng.

4- Xác minh thông tin tàu đánh cá Trung quốc thả những thùng chứa hoá chất độc, được đục thủng trước cho thoát ra từ từ, tại vùng biển ngoài khơi Vũng Áng, tiến hành trục vớt và nạo rửa đáy biển nếu có.

5- Xử lý tẩy rửa vùng biển khu vực xả thải của nhà máy thép Formosa ngay. Thủ phạm là Trung Quốc phía sau người Đài Loan, không có gì phải che giấu.

Vậy tại sao có sự ra đời và tồn tại của nhà máy này?

– Theo tất cả các phân tích khoa học, cả về mặt kinh tế, thảm họa môi trường lẫn an ninh quốc phòng, việc tồn tại một nhà máy thép tại thời điểm chính “Bắc Kinh hiện đã ra lệnh cấm các dự án mới trong lĩnh vực sản xuất thép, ximăng, nhôm điện phân, kính và đóng tàu cho tới năm 2017”. Sản lượng thép từ lâu đã vượt qua nhu cầu thị trường.“Đường Sơn, được xem như là “kinh đô” của ngành luyện thép, nay chỉ còn là cái bóng của chính họ với những nhà kho bị bỏ trống và bàn ghế bỏ không”.

“Các chuyên gia môi trường nhận định, nếu tất cả các dự án thép được cấp phép và triển khai đúng cam kết thì đến năm 2020, ngành thép sẽ thải ra 174 triệu tấn CO2 và lúc đó, riêng ngành thép sẽ “giáng” lên đầu mỗi người dân Việt Nam thêm 1,5 tấn khí CO2”.

Và chính Formosa “Năm 2009, Formosa “vinh dự” nhận giải “Hành tinh đen” – do Ethecon, tổ chức bảo vệ môi trường Đức dành cho những cá nhân/tổ chức “đóng góp” vào việc phá hủy môi trường”.

Vậy ai là người ký duyệt cho Formosa thực hiện đầu tư?

Trong thư ngỏ gửi Bộ trưởng tài nguyên môi trường Trần Hồng Hà, ngày 01/05/2016, Tiến sĩ Tô Văn Trường cũng nêu ra câu hỏi vì sao lại phải kêu gọi đầu tư nhà máy thép. Ông nhắc lại chi tiết vào “ngày 15 tháng giêng năm 2008, Formosa mới có thư trình thủ tướng về dự án thép thì ngay ngày hôm sau 16 tháng giêng, vị quan chức đứng đầu của Hà Tĩnh lúc bấy giờ là ông Võ Kim Cự bí thư kiêm chủ tịch HĐND Hà Tĩnh có thư trình xin Thủ tướng ‘cho phép’, mặc dù Formosa không hề gửi thư đó cho ông Cự”.

Tại sao ngày 15/01/2008, Formosa có thư trình thủ tướng xin đầu tư dự án, thì ngày 16/01/2008 đích thân bí thư chủ tịch Hà Tĩnh Võ Kim Cự làm tờ trình xin Thủ tướng cho phép Formosa đầu tư. Võ Kim Cự tiên tri trước ý định đầu tư của Formosa?

“Thủ tướng Chính phủ có ý kiến tại Văn bản số 323/TTg-QHQT ngày 4/3/2008 với nội dung: đồng ý chủ trương cho Tập đoàn công nghiệp nặng Formosa (Đài Loan) lập Dự án đầu tư nhà máy liên hợp thép tại Khu kinh tế Vũng Áng và Dự án cảng nước sâu Sơn Dương, tỉnh Hà Tĩnh”.

Ngay trong ngày 4/03/2008, Hoàng Trung Hải ký công văn 323/Ttg đồng ý cho tập đoàn Formosa lập Dự án Nhà máy thép Vũng Áng.

Ba tháng sau, ngày 6/06/2088, Hoàng Trung Hải ký tiếp công văn 869/Ttg thực hiện Dự án đầu tư khu liên hợp Gang thép và cảng sâu Sơn Dương tại Vũng Áng. Trên cơ sở công văn này, ngày 21/5/2008, Công ty Formosa có đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận đầu tư; ngày 12/6/2008 Ban Quản lý khu kinh tế Vũng Áng cấp Giấy chứng nhận đầu tư lần đầu số 282023000001 cho Công ty với thời hạn hoạt động của dự án là 70 năm.

Chưa bao giờ một Dự án có tổng vốn đầu tư 22 tỷ đôla, chiếm dụng 3,300ha đất, di dời hàng nghìn hộ dân, mà từ ngày trình tờ xin tới ngày lập luận chứng Dự án, trình duyệt Dự án tổng thể, lập và trình duyệt Dự án chi tiết, cấp giấy phép đầu tư, chỉ có thời gian 4 tháng, trong khi thông thường không thể dưới ba năm.

Tháng 1/2015, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết định cấp cho Formosa 300 tỷ đồng từ ngân sách, xây nhà ở cho công nhân người Trung quốc.

Thủ tướng Dũng dự lễ động thổ nhà máy thép Vũng Áng, ngày 02/12/2012, 17/09/2015 khánh thành tổ máy số 1 nhà máy nhiệt điện Vũng Áng.

Như vậy, chính thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là người quyết định và hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự có mặt của công ty thép Formosa tại Vũng Áng.

Tại sao. Vì không đủ trình độ. Vì tiền. Hay vì một thế lực nào khác.

Ông Nguyễn Gia Kiểng, chủ tịch Tập Hợp dân chủ đa nguyên nhận định “đã có sự câu kết bất chính giữa chế độ cộng sản và các thế lực tài phiệt nước ngoài, ở đây là công ty Formosa”.

Chế độ cộng sản mà ông Kiểng đề cập là bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam mà trực tiếp là ông cựu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nhưng cũng lưu ý một điều rằng, ban đầu, dự án được phê duyệt trên danh nghĩa là cho tập đoàn Formosa làm chủ đầu tư, nhưng hiện nay, cổ phần của tập đoàn Formosa đã được nhượng lại tới 25% cho tổng công ty thép Trung Quốc, Chine Steel, và lao động của công ty thép Vũng Áng hiện tại gồm10.000/16.000 là người Trung Quốc lục địa.

Phải truy tìm cho ra ông Nguyễn Tấn Dũng và ông Võ Kim Cự đã nhận của Formosa bao nhiêu tìền, trong số tiền đó có bao nhiêu xuất phát từ Trung Quốc cộng sản. Số tiền này tuồn sang Quỹ đầu tư của cô Nguyễn Thanh Phượng bằng con đường nào. Phải truy tố bằng được ông Dũng ra Toà. Trước một thảm hoạ cho quốc gia như vậy, trước một nguy cơ tiêu diệt nguồn sống của hàng triệu người, có hàng nghìn bà con đang đói và nguy cơ chết vì nhiễm độc, không thể để cho Dũng có quyền thoát tội. Hãy xem, trong khi dân đói, cá chết, ông Dũng đi thăm chùa Thiên Hưng tại Bình Định và nghe Đàm Vĩnh Hưng hát “Thành phố buồn” tại Sài Gòn. Phải là loại người như thế nào mới có thể nhẫn tâm như vậy.

Có liên hệ gì giữa Trung Nam Hải và cá nhân ông Nguyễn Tấn Dũng không? Chắc chắn an ninh chính trị của đảng đã có câu trả lời. Ông Võ Kim Cự đã buộc phải thôi chức bí thư Hà Tĩnh trước khi có đại hội đảng, tháng 10/2015. Ông Dũng bị buộc phải bàn giao cho ông Phúc trước tháng tư năm 2016.

Có gì liên hệ gì giữa vụ cá chết tại Vũng Áng với chuyến thăm của Tổng thống OBAMA không.

Cẩn tắc vô áy náy, tốt nhất là nên rà soát lại tất cả những dự án do ông Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt, và tiến hành kiểm tra, loại bỏ các yếu tố Trung Quốc ra khỏi các dự án đó.