KHIÊM TỐN : CHÌA KHÓA CỦA HẠNH PHÚC VÀ THÀNH CÔNG

KHIÊM TỐN : CHÌA KHÓA CỦA HẠNH PHÚC VÀ THÀNH CÔNG

( GS HỒ CÔNG HƯNG )

thay hung

Khiêm tốn là đức tính thiết yếu trong đời sống gia đình cũng như xã hội, nhưng dường như ít được lưu tâm.
Con người vốn là con vật xã hội, nghĩa là chỉ có thể thành người giữa những người khác. Vì thế cuộc đời mỗi người được dệt nên bằng những mối quan hệ rất đa dạng từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Các mối tương giao này nếu được xây dựng hài hòa sẽ đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho người khác chung quanh. Tuy nhiên, bạo lực dưới mọi hình thức, như một căn bệnh xã hội đang lây nhiễm khắp nơi và trong mọi giới, làm cho môi trường sống mất an vui. .
Bạo lực còn là nguyên nhân chính làm cho rất nhiều gia đình mất hạnh phúc và đổ vở, đặc biệt nơi giới trẻ. Theo Trung tâm Tư vấn Tình yêu – Hôn nhân – Gia đình, Hội Liên hiệp Thanh niên VN, thực trạng ly hôn ở các gia đình 8X (sinh 198..) đã đến mức báo động. Khảo sát hồ sơ ly hôn ở các tòa án quận huyện trong hai năm trở lại đây, người ta thấy tuổi thọ hôn nhân bình quân của thế hệ này dao động trong khoảng chỉ… 30 tháng. (1)
Các nhà tư vấn tâm lý cho rằng nguyên nhân của tình trạng trên là do giới trẻ hôm nay không biết rèn luyện cho mình những kỹ năng ứng xử cần thiết trong cuộc sống. Tháng 12 vừa qua, báo Tuổi Trẻ mở mục diễn đàn “Đâu rồi, chuyện tử tế?”, với tiêu chí hướng tới việc xây dựng thói quen ứng xử có văn hóa trong thanh thiếu niên. Người đọc không khỏi liên tưởng đến bộ phim tài liệu “Chuyện tử tế”, nổi tiếng một thời (1985) của NSND Trần Văn Thủy. Theo nhà đạo diễn này, tử tế có trong mỗi con người, mỗi nhà, mỗi dòng họ, mỗi dân tộc nên con người trước tiên phải biết sống tử tế với nhau. Nhưng thiết nghĩ, kỹ năng ứng xử hay chuyện tử tế thật ra phải phát xuất từ một đức tính căn bản và thiết yếu hơn mà dường như gia đình và học đường ngày nay ít quan tâm trong việc giáo dục con người: lòng khiêm tốn. Nếu thói kiêu căng tiềm ẩn nơi bản tính con người từ lúc sinh ra như một nhu cầu sinh tồn, thì lòng khiêm tốn lại là một đức tính cần được rèn luyện từ khi nhỏ đến suốt đời người. Bởi vì khiêm tốn là chìa khóa đem lại hạnh phúc và thành công trong cuộc sống của mỗi người (và của cả xã hội).

1. Bạo lực tràn lan trong xã hội ngày nay là một thực trạng gây nhức nhối đối với các bậc phụ huynh và những nhà giáo dục.

Mỗi ngày chỉ cần giở tờ báo ra là có thể đọc thấy tin vài vụ bạo lực đưa đến gây thương thích, thậm chí đổ máu chết người mà nguyên nhân nhiều khi chỉ là “chuyện rất nhỏ”. Hai chiếc xe máy va quẹt nhau, một câu nói hay dáng đi gây khó chịu, một cái nhìn bị cho là “đểu”, một vụ giành gái trong quán Kaoraoke v.v… thế là một người có thể bị đâm mất mạng và một kẻ phải vào tù hỏng cả cuộc đời. Xin đơn cử trong ngày 26.11.2014, trên báo điện tử vnExpress.net, có các tin sau: “Hai gia đình hổn chiến vì tiếng đài (radio) mở to”, “Phó công an đánh hàng xóm vì bênh vợ”, “Hai chú tiểu (10 và 8 tuổi) bị đánh đập dã man trong chùa ở Phan Rang”, “Người đàn ông bị đâm chết sau va quẹt xe, gần bến xe Miền Đông”…

Cũng trong ngày hôm đó, ở Hà Nội diễn ra cuộc hội thảo “Trường học an toàn, thân thiện và bình đẳng – Thực trạng và giải pháp”. Trong buổi hội thảo này, Viện nghiên cứu Y – Xã hội phối hợp với tổ chức từ thiện Plan Việt Nam đã công bố kết quả nghiên cứu về bạo lực giới từ tháng 3 đến tháng 9.2014 với 3.000 học sinh của 30 trường THCS, THPT trên địa bàn Hà Nội. Kết quả, khoảng 80% học sinh cho biết từ trước đến nay đã bị bạo lực giới trong trường học ít nhất một lần, 71% bị bạo lực trong vòng 6 tháng qua…

Một tháng sau, ngày 25.12, báo Thanh Niên có bài “Dửng dưng với bạo lực học đường”, nhắc đến nhiều vụ nữ sinh đánh nhau mà chỉ cần lên google.com gõ “nữ sinh đánh nhau” thì “trong 0,26 giây đã có 761.000 kết quả liên quan đến thông tin, hình ảnh, clip nữ sinh đánh nhau”. Các chuyên gia cho rằng nguyên nhân chính là do trường phổ thông hiện nay quên dạy làm người. Và tờTuổi Trẻ hôm đó viết bài “Học sinh THCS đánh nhau nhiểu hơn”. Rồi tuần báo Khoa Học Phổ Thông cũng lên tiếng “Bạo lực học đường đang có chiều hướng phức tạp”.Tiếp sau, nhiều phụ huynh phản ánh chính con cái họ là nạn nhân, dẫn đến tổn thương tâm lý, có người còn đưa trường hợp lạ đời: Con bị đánh chỉ vì… học giỏi!

Theo nghiên cứu của Ts Nguyễn Minh Hoà (Đại học KHXH&NV Tp HCM), dựa trên số liệu của tòa án các quận huyện ở thành phố, 63% số người đứng đơn ly hôn là các bà vợ, mà hầu hết vì không chịu được bạo hành gia đình (2). Báo Phụ Nữ còn nêu nhiều vụ chồng “đánh đập vợ như thởi Trung Cổ” (12.1.2015). Tình trạng ly hôn nơi giới trẻ trong những năm gần đây cũng tăng rất nhanh. Theo Cục Thống Kê thành phố, tỷ lệ ly hôn ở độ tuổi dưới 35, năm 2008, 2009, 2010 và 2011 lần lượt như sau: 46,8, 58,5, 59,7 và 49,2%. Các nhà tư vấn tâm lý cho rằng đa số các đôi tân hôn này từng được nuông chiều trong gia đình và đã tự coi mình như “trung tâm vũ trụ” lúc còn độc thân. Và, sau khi kết hôn, tính vị kỷ đó đã khiến họ có thái độ thiếu quan tâm và khoan dung đối với người khác.

Chưa hết. Cũng trên mục “Đâu rồi, chuyện tử tế?” của báo Tuổi Trẻ, nhiều đọc giả nữ còn nhắc đến tệ nạn những kẻ núp sau bàn phím máy tính để “ném đá”, nói theo ngôn từ dân mạng, có khi “hùa nhau ném đá”. Họ tự tiện vào Facebook của khổ chủ, lấy ảnh đưa lên mạng làm trò đùa với những lời bình luận thô tục đầy ác ý, xúc phạm đến người khác, mà nạn nhân là phái yếu rất nhạy cảm và dễ bị tổn thương, đáng được tôn trọng hơn hết. Đây là trò vô văn hóa, nếu không muốn nói là mất dạy, dường như đang được xã hội coi như “chuyện bình thường”.
Đó là chưa kể những vụ cướp của giết người, diễn ra ngày càng táo tợn và dã man với thái độ rất bình thản và lạnh lùng. Nhiều học giả đã đặt câu hỏi không biết trong lịch sử dân tộc ta vốn “dĩ hòa vi quý”, có thời nào mà con người lại độc ác với nhau như hôm nay.

2. Thói kiêu ngạo phát sinh từ một nhu cầu sinh tồn nên tiềm ẩn suốt đời nơi mỗi người và thể hiện dưới nhiều hình thức.

Trẻ sơ sinh vừa ra khỏi lòng mẹ, cất tiếng khóc chào đời. Theo y học, tiếng khóc đầu tiên là dấu hiệu an toàn làm bé nở phổi, có ích cho sự phát triển sau này. Đồng thời cũng là phản xạ tự nhiên của bản năng, là tin hiệu nhắc nhở “có tui đây” trên cõi đời này. Mà thật vậy, một trẻ thơ ra đời là trung tâm đem lại niềm vui cho cha mẹ và cả đại gia đình nội ngoại.

Trong quá trình phát triển, đứa trẻ cảm thấy mình được thừa nhân một cách rõ rệt nhờ tình thương và sự chăm sóc của người thân, đặc biệt của bà mẹ. Vì thế, để chu toàn thiên chức làm mẹ, người nữ được Trời phú một bộ não bén nhạy hơn nam giới trong việc nhận biết tiếng khóc của con mình. Nhưng đến một độ tuổi nào đó, nếu mọi đòi hỏi của bé được đáp ứng dễ dàng thì cái tôi nơi trẻ cũng bắt đầu phát triển. Từ đó, việc dạy dỗ dần trở trên khó khăn, đưa đến những biểu hiện của thói tự tôn và kiêu căng. Theo nhà giáo dục nổi tiếng thế giới người Ý, nữ bác sĩ Maria Montessori, 6 năm đầu là thời kỳ quan trọng nhất của đời người, vì trong thời kỳ này diễn ra quá trình phát triển nhân cách và trí tuệ một cách mạnh mẽ nhất. Đến năm sáu tuổi, một đứa trẻ luôn được nuông chiều, lớn lên sẽ dễ hư hỏng và ra đời thành người gàn bướng cố chấp, tự ái vặt, không làm chủ cuộc đời mình. Đa số thanh thiếu niên phạm pháp và nghiện ngập hút sách đều thuộc diện này. Có thể nói, như một qui luật, cha mẹ nào quá e ngại vì con mình khóc khi còn nhỏ thì mai sau sẽ khóc nhiều vì con.

Đặc biệt, nếu đứa trẻ chẳng may sinh ra và lớn lên trong một gia đình mang nặng não trạng hơn thua, chỉ coi con mình là số một, quen che đậy và dung dưỡng hành động xấu của con, thói tự tôn huynh hoang nơi trẻ không được cha mẹ lưu tâm uốn nắn mà còn khích lệ, thì tính kiêu căng lại càng tăng trưởng, thể hiện dưới nhiều hình thức: bệnh nổ, chảnh, phách lối, xấc láo, vô ơn, đua đòi, khoe khoang, chơi ngông, háo thắng v.v..

Vì thế kiêu căng trước tiên là thói hư tật xấu của những “ông bà trời con” muốn gì được nấy trong gia đình, có thể gọi là một thứ bệnh ấu trĩ, rồi tiếp tục tiềm ẩn nơi con người trưởng thành, dù thuộc giới nào (3), như căn bệnh mãn tính, cho đến suốt đời. Đặc biệt nơi người có nhiều tiền của, nổi tiếng hay có quyền lực, phát sinh nhiều biến tướng đa dạng như áp đặt quan điểm chủ quan một cách độc đoán bất chấp sự thật, phát ngôn những lời tự mãn dao to búa lớn, phô trương sự xa hoa phù phiếm, chức danh hay bằng cấp (kể cả bằng giả, bằng dởm và bằng ma), bệnh chạy theo thành tích ảo, thi đua thực hiện các công trình hoành tráng nhất nước, thậm chí nhất châu lục và thế giới, trong khi đất nước còn nghèo v.v… Suy cho cùng, âu đó cũng là những cách lên tiếng “có tui đây” của căn bệnh ấu trĩ mà thôi!

3. Lòng khiêm tốn là một đức tính tập thành và phải tập từ khi nhỏ cho đến suốt đời

Trước tiên, khiêm tốn không phải là tự hạ mình xuống hay cho mình kém cỏi hơn người, theo định nghĩa thường gặp trong nhiều sách tự điển. Thật ra đó chỉ là biểu hiện của mặc cảm tự ti. Khiêm tôn chủ yếu là thái độ sống phù hợp với sự thật. Mà sự thật là “vô nhân thập toàn”, ai cũng có khuyết điểm và sai lầm. Sự thật là khả năng và sự hiểu biết của mỗi người đều có giới hạn, nên cần phải thường xuyên học hỏi. Sự thật là mọi người sinh ra đều có quyền sống như nhau và có phẩm giá cần phải được tôn trọng. Vì thế giáo dục lòng khiêm tốn trước tiên cũng là giáo dục lòng yêu quí và tôn trọng sự thật, bắt đầu từ trong gia đình.

Thói kiêu căng làm cho trẻ luôn cố gắng gây ấn tượng về những giá trị mà thật ra mình không hề có. Từ đó, dần dần nảy sinh tình trạng mà triết học gọi là “ngụy tín” (mauvaise foi), nghĩa là tự lừa dối mà mình không biết. Vì thế người thiếu lòng khiêm tốn chẳng những khó nhận biết sự thật mà còn rất sợ sự thật.

Giáo dục trong từ Education của phương Tây có nguyên ngữ La-tinh là ex-ducere, (làm cho xuất ra) có nghĩa giúp trẻ phát huy những giá trị tiềm ẩn nơi mình. Triết lý phương Đông cũng quan niệm như vậy trong câu “xuất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo”. Tính ở đây là toàn thể tiềm năng do Trời phú cho một người (thiên mệnh chị vị tính). Như vậy, “bá nhân bá tính”, mỗi người nhận lấy cái tính khác nhau, thì không thể có việc so sánh hơn thua, mà chỉ nổ lực phát huy cái tính đó.

Đối với con cái chẳng may bị khiếm khuyết về thể chất hay tinh thần, cha mẹ cần tạo nơi nó lòng tự tin để vượt khó, không chút mặc cảm, đặc biệt dạy cho con biết rằng kẻ có lòng nhân xứng đáng làm người và đáng đươc quí trọng hơn hết. Hay nói theo đạo diễn Trần Văn Thủy, “hãy hướng con trẻ và cả người lớn đầu tiên vào việc học làm người – người tử tế, trước khi mong muốn và chăn dắt họ trở thành những người có quyền hành, giỏi giang hoặc siêu phàm…”. Bởi vì thiếu sự tử tế, “một cộng đồng dù có những nỗ lực tột bực và chí hướng cao xa đến mấy thì cũng chỉ là những điều vớ vẩn”.

Có lẽ cũng trong tinh thần đó, bắt đầu năm học 2014-2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo qui định không cho điểm và xếp hạng ở bậc tiểu học, giáo viên chỉ có nhận xét để phát hiện những cố gắng của học sinh và động viên khích lệ các em phát triển năng lực và phẩm chất đạo đức một cách tự nhiên, tránh được áp lực về điểm số và thành tích. Có người cho đây là một bước đột phá trong phương pháp giáo dục mà thật ra đã được áp dụng từ lâu ở nhiều nước.
Giáo dục trong gia đình vừa là một khoa học và một nghệ thuật để giữ sự cân bằng giữa yêu thương và uy quyền. Cha mẹ theo dỏi thái độ của con đối với trẻ cùng trang lứa, đặc biệt trẻ nghèo để kịp uốn nắn sửa đổi. Nhất là dạy cho con tránh thói ba hoa và tự đồng hóa giá trị mình với các vật dụng mình có, đồng thời biết chia sẻ niềm vui với bạn giỏi giang hơn mình và đồng cảm với bạn kém may mắn. Tuy nhiên, những lời khuyên răn đó chỉ có tác dụng giáo dục thật sự khi đi kèm với gương sáng của cha mẹ. Cha mẹ có lỗi với nhau hay với con cái, cần biết chân thành nói lời xin lỗi.

4. Lòng khiêm tốn là chìa khóa của hạnh phúc

Cuộc sống của mỗi người, dù ở lứa tuổi nào, đều nhằm mục đích mưu cầu hạnh phúc cho bản thân. Và để đạt được mục đích này, sức khỏe, sắc đẹp, bằng cấp, tiền tài, quyền lực và danh vọng chỉ là phương tiện, nghĩa điều kiện cần chứ chưa đủ, bởi vì hạnh phúc xuất phát từ cái tâm con người.
Hạnh phúc là thái độ tâm lý thoải mái trước những sự việc xảy ra cho mình, là cảm nhận bằng lòng với những gì mình đang có. Theo các nhà tâm lý, trong suốt cuộc đời mỗi người, hầu hết các sự việc (90%) không phải do bản thân mình chủ động gây nên, mà chỉ đón nhận. Vì thế thái độ đón nhận mới quan trọng để đem lại đau khổ hay hạnh phúc..
Thời bao cấp, lương thực còn khó khăn, vào dịp trước Tết, người viết đặt mua từ Chợ Đào, gạo nàng thơm đặc sản để làm quà cho bạn bè và người thân. Có người nhận quà đã mắng vốn thẳng thừng: Bộ nó tưởng tui đói sao cho gạo? Một biểu hiện rõ ràng của mặc cảm tự ti. Thay vì vui vẻ với món quà tình nghĩa để gia đình có nồi cơm trắng bốc thơm trong ngày đầu năm mới, người đó đã tự gây đau khổ cho mình và làm cho người khác mất vui, khi suy diễn kẻ cho có ý khinh khi mình.

Nhờ nhận thức đúng về giá trị thật của mình, người khiêm tốn thoát được mặc cảm tự tôn và tự ti vốn là nguyên nhân gây nên dằn vặt, đau khổ, vở mộng nơi người cao ngạo vì mình không được thừa nhận như mình tưởng. Nếu kẻ kiêu căng thường than phiền vì những điều không vừa ý thì người khiêm tốn, trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng thấy được ơn nghĩa hay cơ hội để học hỏi. Vì thế lòng khiêm tốn giúp con người biết sống giản dị và chan hòa nên luôn cảm nhận được hạnh phúc trong tầm tay, ở từng giây phút hiện tại của cuộc đời. Chỉ cần biết mình mạnh khỏe cũng đủ hạnh phúc rồi, như dân gian thường nói “Ăn được ngủ được là tiên”. Trong tình yêu và hôn nhân cũng vậy, người khiêm tốn biết bao dung và tôn trọng lẫn nhau làm cho mối giao ước giữa hai người được bền vững, bởi vì sự khinh thường là kẻ thù số một giết chết tình yêu. Và trong gia đình hạnh phúc, không có lý lẽ hơn thua mà chỉ có sự nhường nhịn và yêu thương.

Chứng kiến sự thành đạt của bạn bè, người thân, hàng xóm…, thay vì đố kỵ ganh ghét, người khiêm tốn biết chia sẻ niềm vui, để cùng vui với kẻ vui. Và chi có lòng khiêm tốn mới giúp con người biết đồng cảm với nổi đau của đồng loại trong thân phận làm người. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa hứa đem lại hạnh phúc cho người biết đồng cảm: “Phúc cho kẻ có lòng thương xót vì họ sẽ được xót thương” (Mt, 5, 2-12).

Thử so sánh thái độ của người kiêu ngạo và kẻ khiêm tốn trước bệnh hoạn. Người kiêu căng che giấu bệnh của mình, thậm chí không muốn người thân gọi điện hay đến thăm hỏi. Trái lại người khiêm tốn đón nhận bệnh tật, kể cả cái chết với thái độ bằng lòng, thanh thản, hay nói theo Nhà Phật, coi Sinh, Lão, Bệnh, Tử như qui luật tất yếu của cuộc sống (4).

Tóm lại, có thể nói hạnh phúc trên cõi đời này dường như chỉ dành cho người có lòng khiêm tốn.

5. Lòng khiêm tốn là điều kiện để thành công, trong phạm vi cá nhân cũng như trên bình diện xã hội

Dân gian có câu “thất bại là mẹ thành công”, vì nhờ rút được bài học kinh nghiệm để có thể thành công trong lần sau. Nhưng chỉ có người khiêm tốn mới nhìn nhận mình thất bại, còn kẻ kiêu ngạo thường cố chấp, đổ thừa cho người khác hay cho những điều kiện khách quan, chứ không chịu thừa nhận sự yếu kém của mình. Vì thế sự thất bại là hậu quả tất yếu của tính kiêu ngạo và khiêm tốn là đức tính không thể thiếu để thành công trên đường đời
Người viết có anh bà con mở tiệm sửa xe và máy nổ ở một thị trấn nhỏ đìu hiu trên QL27. Người chủ luôn nghĩ bà con phải cần đến mình, mỗi lần sửa xe là như ban ơn cho khách. Hậu quả khách giảm dần và tiệm phải đóng cửa. Sau đó ít lâu, một đứa cháu cũng mở ở đó một tiệm sửa xe như thế mà lại rất thành công, chỉ vì nghĩ một cách đơn giản khách hàng nuôi sống mình. Ông chủ mới này còn cất công đến từng nhà có xe, xin đến ủng hộ. Sự thành công là kết quả của một thái độ biết người biết ta, vừa khôn ngoan và khiêm tốn.
Khiêm tốn cũng là đức tính của các bậc vĩ nhân từng cống hiến cho sự tiến bộ của nhân loại, Nhân trận đại dịch hạch ở Hong Kong năm 1894, bác sĩ Alexandre Yersin (1863-1943) được cử từ Việt Nam sang và ở đây ông khám phá trực khuẩn dịch hạch trong điều kiện khó khăn, phải lén dựng lều tranh trong nghĩa trang để nghiên cứu. Sau đó, một nhà bác học khác đã.cướp công kết quả của ông. Yersin không màng danh vọng nên không hề lên tiếng đòi công lý, nhưng cuối cùng giới khoa học thế giới đã thừa nhận công trình của ông và trực khuẩn gây dịch hạch mang tên ông “Yersinia pestis”. Đúng như lời người xưa: “Chí nhân vô kỷ, Thần nhân vô công, Thánh nhân vô danh” (Trang Tử) (Chí nhân không xá mình, thần nhân không kể đến công mình, thánh nhân không màng đến tiếng tăm, tên tuổi)

Trên tạp chí Nghiên Cứu & Phát Triển sô 3-4 (110-111) tháng 7.2014 của Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên-Huế, trong bài “Tổng thuật thói hư tật xấu người Việt”, tác giả Trần Văn Chánh nhắc đến câu nói của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn: “Thói xấu lớn nhất của người Việt là rất sợ nói về thói xấu của mình”. Sau đó, ông nhận xét từ 60 năm nay, đọc khắp các sách biên khảo và giáo khoa, không đâu thấy có một chữ nào nêu tính xấu của người Việt, nước Việt. Ngay cả khi tái bản các tác phẩm cũ, nhà xuất bản cũng cắt bỏ hết những đoạn “nói xấu” về người Việt. (5). Trái lại, chỉ toàn thấy ca tụng đất nước rừng vàng biển bạc, con người cần cù, thông minh, cao cả, đẹp đẽ, kiên cường, anh hùng, trong sáng… (6) Thậm chí có nhà văn còn bịa tên tác giả nước ngoài viết cả cuốn sách ca ngợi hết lời “Người Việt cao quý”. Một hiện tượng văn hóa dường như chưa từng có trên thế giới (7).

Thiết nghĩ giấu diếm, che đậy những thói hư tật xấu và sự yếu kém của mình là “chuyện không tử tế”, thể hiện tính cao ngạo. Ngược lại cần khiêm tốn và trung thực nhận ra, rồi quyết tâm khắc phục chúng mới là điều kiện tiên quyết và thiết yếu để một dân tộc tiên bộ, thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu.

Kết luận; Lòng khiêm tôn cần được giáo dục từ trong gia đình và học đường

Khi bạo lực xảy ra thường xuyên và tràn lan trong xã hội nhiều hơn lúc nào khác, thì chắc chắn phải có những nguyên nhân sâu xa mà những người có trách nhiệm điều hành đất nước không thể làm ngơ hay phân bua lấp liếm. Việc truy tìm nguyên nhân của hiện tượng bạo lực trên, xin nhường cho các nhà nghiên cứu tâm lý xã hội và lịch sử (8).
Ở đây chỉ xin đề cập đến phạm vi hạn hẹp mà vinh quang của công việc giáo dục con người trong gia đình và nhà trường.
Bạo lực dù dưới hình thức nào cũng đều xúc phạm đến phẩm giá con người, phát sinh từ thói cao ngạo đưa đến lòng tự ái, thù hận, đố kỵ, ganh ghét … Đặc biệt người sử dụng vũ lực gây tác hại đến thân thể người khác thật ra là kẻ yếu thế, không còn biết lý lẽ và trở về với bản năng thú tính. Vì thế kiêu ngạo dù ở Đông phương hay Tây phương hay trong bất cứ tôn giáo chân chính nào, đều được coi như đầu mọi tội lỗi và là nguyên nhân khiến con người không thể hạnh phúc và thành công trên đường đời. Trái lại người khiêm tốn chẳng những biết tôn trọng đồng loại mà còn nổ lực đem lại hạnh phúc cho người chung quanh, nhất là những người kém may mắn. Thái độ tôn trọng trẻ con, phụ nữ, kẻ già, người khuyết tật luôn được đánh giá như thước đo trình độ văn minh của một xã hội
Điều đáng mừng là trong xã hội chúng ta ngày nay, hơn bao giờ hết cha mẹ lo cho con cái rất nhiều. Tiếc rằng các lo toan đó chỉ nhắm đến những điều phụ, kể cả mộng ước (hảo huyền?) con mình trở thành một Đặng Thái Sơn hay một Ngô Bảo Châu, mà quên đi cái chính yếu là làm sao cho con cái được sống hạnh phúc trên cõi đời này. Muốn được như vậy, trên hết mọi việc, cha mẹ trong gia đình và thầy cô ở nhà trường cần chú tâm dạy cho trẻ thành “người tử tế”, nghĩa là có lòng nhân hậu và khiêm tốn.
Bước đầu xin mạo muội đề nghị một giải pháp thật dễ dàng. Trong các giao tiếp, trước tiên ở gia đình và học đường, tập cho con em chúng ta thói quen nói với nhau, tùy hoàn cảnh tương ứng, ba từ đơn giản: Xin lỗi (Sorry, Pardon), Cảm ơn (Thank you, Merci) và Xin vui lòng (Please, S’il vous plait).
Mong lắm thay!

Hồ Công Hưng

(tháng 1.2015)
___________________________________
(1) Báo động tình trạng 8X ly hôn, Báo Phụ Nữ 6.2008
(2) “Hôn nhân – Gia đình trong xã hội hiện đại” (Nhà xuất bản Trẻ, 2000, tr. 80)
(3) Ngay trong giới cái bang (ăn xin) là thành phần thấp nhất trong xã hội, cũng phân chia cao thấp, cái bang nhiều túi phải hơn cái bang ít túi. Và trong chuyện nhậu nhẹt, điều chả hay ho gì, các lưu linh thời nay cũng tranh hơn thua về tửu lượng, nên không ít người “ra đi” giả từ bạn nhậu sớm.
(4) Theo nguyên ngữ, khiêm tốn trong tiếng Anh (humility) hay tiếng Pháp (humilité) bắt nguồn từ humus của tiếng La Tinh có nghĩa là đất cát, nhắc nhỡ con người từ cát bụi rồi sẽ trở về cát bụi như lời bài hát khá nổi tiếng của Trịnh Công Sơn: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, Để một mai tôi về làm cát bụi”. Hay trong ca khúc “Trở về cát bụi” của Lê Dinh: “Người nhớ cho, ta là cát bụi, trở về cát bụi. Xin người nhớ cho!”.
(5) Trong quyển Việt Nam sử lược, xuất bản năm 1919, ở phần đầu sách, tác giả Trần Trọng Kim đã đưa ra những nhận xét về tính tốt, xấu của người Việt, nhưng trong bản in tái bản năm 1999, NXB Văn Hóa Thông Tin đã cắt bỏ hết những đoạn “nói xấu” về người Việt.
Có thông tin Gs Trần Quốc Vượng và Gs Cao Xuân Hạo khi còn sống từng có ý định viết một cuốn sách về “Người Việt xấu xa” tương tự như nhà văn Bá Dương viết tác phẩm “Người Trung quốc xấu xí”, xuất bản tại Đài Loan và được tái bản tại Trung Quốc trong thập niên 80 thế kỷ trước. Nhưng cả hai đã qua đời trước khi thực hiện ý định trên.
(6) Trong bộ phim “Chuyện tử tế” nêu trên, đạo diễn Trần Văn Thủy kể chuyện ông đi quay phim về công việc lao động nặng nhọc của một ông thợ làm gạch. Ông thợ chạy ra quát tháo và đuổi đoàn làm phim đi. Ông ta nói “Tại sao các ông không quay cảnh thực xem chúng tôi đang sống như thế nào? Các ông chỉ tô vẽ những điều không có thật, còn chúng tôi sống như thế nào thì mặc kệ”. Đó là dấu ấn của nền văn nghệ minh họa, khi người nghệ sỹ sáng tác theo đơn đặt hàng, theo những gì mà “người ta” muốn. Để làm mặt này sáng đẹp hơn, họ phải tạm lờ tịt cái mặt kia của đời sống đi, coi như không thấy. Nhưng như thế là không tử tế.
(7) Ai cũng biết Do Thái là dân tộc thông minh, từng sản sinh nhiều nhân vật xuất chúng trong mọi lãnh vực. Với số dân khoảng 15 triệu (trên khắp thế giới), chỉ bằng 0,2 – 0,3 % dân số toàn cầu, nhưng lại chiếm 32% giải Nobel. Ở nước Mỹ hiện nay, 1/3 triệu phú, 20% giáo sư tại các trường đại học hàng đầu là người Do Thái. Đầu xuân 2014, người viết có dịp tham quan Do Thái một tuần lễ, đi khắp đất nước nhỏ bé này, để chứng kiến nhiều điều kỳ diệu. Đi theo đoàn là một anh chàng Do Thái gốc Đức, tên là Roni, nói trôi chảy 7 thứ tiếng, từng dạy đại học, nhưng thích nghề hướng dẫn du lịch hơn. Trong một lần trao đổi về sự thành công của người Do Thái, giải đáp một câu hỏi của người viết, ông quả quyết chưa hề có một văn bản hay tài liệu nào nhắc đến việc dân tộc ông tự cho mình là “đỉnh cao trí tuệ loài người”. Trong phương pháp dạy con của người Do Thái, việc giáo dục lòng khiêm tốn, từ trong gia đình, được đặt lên hàng đầu như điều kiện để học hỏi và tiến bộ. Người Do Thái thường tự nhủ: Thất bại không phải vì mình nhỏ yếu mà vì tự cho mình lớn mạnh
(8) Chỉ xin nhắc quan điểm của nhà văn Nga Maxim Gorki (1868-1936), ông tổ của trường phái hiện thực xã hội chủ nghĩa, trong cuốn “Những suy tư không hợp thời” (Untimely Thoughts, Pensées Intempestives) viết năm1918, nhưng mãi đến năm 1988, tức 70 năm sau, mới được xuất bản ở Liên Xô cũ. Mặc dù là bạn của Lênin và Stalin, tác giả đã can đảm phê phán cuộc “Cách mạng nửa với”, “đã mang chứng bệnh ngoài da vào bên trong nội tạng”, tạo nên môi trường đấu tranh chính trị làm nảy sinh rất nhanh “các loại cây gai của sự thù địch độc hại, các nghi kỵ xấu xa, các sự lừa dối trơ trẽn, vu khống, các thói háo danh bệnh hoạn và sự khinh thường nhân cách…”. Gorki còn viết thêm: “Đối với tôi, lời kêu gọi “Tổ quốc bị lâm nguy” không đáng sợ bằng lời kêu gọi “Hởi các công dân! Văn hóa bị lâm nguy!”

Được xem 1 lần, bởi 1 Bạn Đọc trong ngày hôm nay