“Dành riêng Em đấy, khi tình tự,”& “Anh còn nợ em, công viên ghế đá,”

“Dành riêng Em đấy, khi tình tự,”

Ta sẽ đi về, những cảnh xưa.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Lc 12: 32-48

Cảnh xưa anh về, tình tự sao vẫn thế. Tình tự em đi, nay có thánh Hội cùng đi cùng đến, chốn thiên đường. Trình thuật thánh Luca nay cũng diễn tả thiên đường có cửa hẹp rất khó vào. Khó, thì có khó nhưng sao người vẫn cứ hỏi: thiên đường là chốn hạnh ngộ đầy chúc phúc, sao vẫn còn nhiều người khóc lóc/nghiến răng, nhiều đến thế?

Trải qua giòng đời lịch sử, người người nay cho thấy nhiều đáp trả khác biệt cho vấn nạn này. Thánh Augustinô, là đấng bậc hiển thánh uy tín là thế, lại vẫn bi quan cho rằng: người được cứu cũng rất hiếm. Theo thánh-nhân, hiếm là bởi nhân loại xưa nay là tập đoàn chúng-sinh bị án phạt đời đời; nên, thánh-nhân quyết biến cải mọi người để họ sống đạo cho tốt.

Thánh nhân lại quan niệm: nếu không có ơn Chúa, mọi người sẽ ngập trong lỗi tội. Truyền thống Đạo Chúa, lúc sau này còn gay gắt, những bảo rằng: nhiều người sẽ bị Chúa phạt đến muôn đời do phạm lỗi. Các đấng bậc giảng thuyết về nền thần học cổ điển, có thể chia làm hai loại: một, gồm các “ngôn-sứ-địa-ngục” chuyên đặt nặng việc Chúa nổi giận với dân con mọi người. Thứ đến, là những vị vẫn tin rằng Chúa sẽ thứ tha hết tất cả.

Các thần-học-gia loại đầu, luôn có khuynh hướng ngả về ảnh-hình sai lầm một Đức Chúa, lẫn con người. Nhóm người sau, nhận thức cũng chưa đủ về trách nhiệm của con người khi đáp-trả lại lời Chúa mời gọi sống yêu thương giùm giúp, chính đó mới là thiên đường. Trình thuật, nay diễn bày về thiên đường và ơn cứu rỗi như tiệc mặn, có đủ thức ăn phục vụ mọi thực khách, có sự hiện diện của Đức Chúa. Ơn cứu độ, là ảnh-hình về tiệc vui có Chúa, có con dân mọi người tốt/xấu đến dự.

Giáo huấn Hội thánh lâu nay tóm gọn ba điểm: điểm đầu, Chúa muốn kết-thân làm hoà, cứu độ hết muôn người. Chúa làm thế, ngang qua Hội thánh bấy lâu nay, nhưng ta không thể đoán biết đường lối cụ thể Chúa thực hiện. Trong khi đó, người người phải có trách nhiệm về cuộc sống hiện tại và tương lai của chính mình. Dù, thực tế cũng có người kình chống hoặc xa rời Chúa, nhưng  nhiều vị vẫn tôn trọng trách nhiệm của người khác; vẫn muốn người khác ngồi cùng hang hoặc đồng vị với mình. Điểm cuối, không ai được phép xét đoán người khác. Chỉ mình Chúa mới thông hiểu được mọi người, nên chỉ mình Ngài mới có phán quyết về mỗi người và mọi người. Tuy nhiên, Chúa vẫn dành chỗ cho con người có hy vọng và Ngài vẫn tặng ban ơn lành để con người còn có dịp mà cải-hối.

Thiên đường cứu độ, là yến tiệc Chúa mời gọi mọi người đến tham dự. Cứu độ, là ân huệ được ban cho mọi người đến dự tiệc cùng Chúa, suốt mọi thời. Mọi người sẽ đến dự tiệc, dù gần/xa hoặc có là dân “tứ chiếng” tám hướng bốn phương, đều được mời. Chủ-nhà-là-Thiên-Chúa, có dùng  lời lẽ hơi cứng ngắc với người dự, như: “Ta không biết các ngươi là ai, từ đâu đến!” cũng để ám chỉ người đó không là “người” thật, mà chỉ là thể-loại tưởng-tượng do tác giả trình-thuật muốn đưa ra một luận-cứ để ta suy về tình huống “tìm đến Chúa.” Tìm đến Chúa, phải chăng họ chỉ đến bằng mặt, chứ không bằng lòng. Nói cách khác, họ đến thật đấy, nhưng tâm can vẫn để đâu đó, vắng xa, cách biệt.

Thế nên, đôi lúc, ta cũng hãy tự kiểm để xem từ phần sâu lắng của tâm can, ta có thật lòng muốn gần Chúa hay không? Và, điều gì thúc giục ta tìm đến Chúa? Có khác biệt gì chăng giữa lòng muốn “tìm đến với Chúa” theo kiểu ngoài mặt và thật lòng?

Đáp trả các vấn-nạn trên, thánh-sử rày ghi rõ tâm trạng của những người lâu nay xa rời Chúa. Họ là những người hầu hết từng phạm lỗi bất công. Bất công, không ở cung cách đối xử với Chúa, mà với chòm xóm, với người nghèo hèn, thuộc giai cấp ở dưới thấp. Hoặc, họ có đến dự tiệc thật đấy, nhưng trong lòng chỉ muốn đến để vui chơi hoặc để thưởng thức các món ngon mà chẳng làm bất cứ thứ gì, từ: việc sắp bàn, phục vụ cho mọi người ăn no đủ. Làm như thế, chủ-nhà-là-Thiên-Chúa sẽ nói với người đến gõ cửa: “Thật tình, tôi chẳng biết quí vị là ai, đến từ nơi nào…” hoặc: “Quí vị không là khách được mời!”

Cũng nên suy về lập trường rất đúng từ trình thuật, rằng: mọi người đều sẽ có đủ thức ăn đến mãn đời, nếu biết sẻ san/phục vụ người khác; chí ít, là những kẻ có nhu cầu nhiều hơn ta. Nghĩ như thế, mới đúng là mình quyết đến với Chúa, rất thật tình. Có thể, người đến dự tiệc lại từ phương Đông hay phương trời nào đó tới, không ai biết. Nhưng, một khi đã đến, ắt là họ đến để phục vụ cho người khác ăn. Đến, với tâm-trạng như thế, tức: đã biết chào đón/hoan nghênh hết mọi người, không trừ ai. Thực tế đời người, đôi lúc ta lại nói quá nhiều về những việc từ thiện/bác ái ở đời, nhưng kỳ thực, ta chẳng lý gì đến tình bác ái/thương yêu rộng lớn hơn.

Trình thuật hôm nay, thánh Luca còn ám-chỉ điều mà ta coi đó như một hành trình. Hành trình dài từ Galilê đến Giêrusalem. Và, thánh-sử còn tạo dịp để Chúa ban huấn-từ về hành-trình dự tiệc, còn diễn tiến. Bằng vào hành trình dự tiệc, Chúa lại ban nhiều quà cáp đến với ta. Quà thiên đường ở gần Chúa, là để ta tiếp tục hành-trình đi vào cõi chết và Sống lại. Khi đó, “quà tặng” Chúa ban, sẽ lớn dần và gần gũi ta đến độ ta không còn gạn hỏi, nghi ngờ hoặc ngần ngại về tính lâu dài của nó nữa. Sự sống lại, đã mở cửa mộ phần để ta bật dậy, ngõ hầu sống trở lại thật kiên trì, vững chắc.

Từ ngàn xưa, thần-học Đạo Chúa nói khá nhiều về nét tiêu-cực của sự sống và cũng diễn giải khá nhiều về khía cạnh tích-cực của nó, bằng những hù doạ, rất bi quan. Vì thế nên, dân con trong Đạo mới hãi sợ một Đức Chúa có “cơn giận lành”, đầy phẫn nộ, cứ muốn đưa hối-nhân vào chốn lửa bỏng rất hoả ngục; và rồi, biến thiên đường thành chốn ngoại lệ rất khó đến. Ngày nay, có lẽ ta cũng nên quay về với đặc trưng tích-cực hiền-lành của Đức Chúa. Bởi, ví dù các nhà thần-học có nhấn mạnh nhiều đến khía-cạnh tiêu cực của cuộc sống Đạo, thì đó cũng chỉ là phương-pháp hung-biện ngõ hầu giúp người nghe biết mà cảnh giác để làm tốt cho mọi người; chí ít, là người nghèo khó, khốn đốn, tủi nhục.

Làm như thế, mới tạo được thiên đường phúc hạnh cho mọi người; và, mới vinh thăng được phẩm cách con người được. Đồng thời, sẽ còn khích-lệ mọi người về cuộc sống tương lai/mai ngày đúng như ơn gọi là vinh thăng chính mình. Vinh thăng phúc lợi cho con người mình. Vinh thăng chính mình để mình không giống như những người chỉ biết nhận chìm kẻ khác vào chốn tối tăm đầy khóc lóc và nghiến răng; mà, vui hưởng một mình chốn thiên cung phúc-hạnh, chẳng thực tế. Trái lại, phải biết đỡ nâng những kẻ đang khốn khổ vì cảnh bất công, chèn ép, bức bách.

Cuối cùng, như ý của tác giả trình-thuật hôm nay viết ở các chương/đoạn khác: Hãy đến với kẻ nghèo hèn mà làm chút gì đó cho họ. Có làm thế, mới có nghĩa: mở cửa lòng mình ra với Chúa, tựa hồ như Chúa từng mở đường cho ta làm, dù ngang qua con đường nhiều gai góc, khó thực hiện. Có như thế, mới là phấn đấu, khắc kỷ và đáng làm.

Trong cảm nghiệm điều lành thánh Chúa khuyến khích, cũng hãy ngâm lên lời thơ ý nhị, rằng:

“Dành riêng em đấy, khi tình tự

Ta sẽ đi về, những cảnh xưa.”

(Đinh Hùng– Tình Tự Dưới Hoa)

Cảnh xưa bây giờ, là như thế. Cũng như thể, chốn thiên đường phúc-hạnh có anh, có em, có tất cả mọi người chung vui trong cảnh sống rất Nước Trời. Ở đây. Bây giờ.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh

Mai Tá lược dịch

Chuyện Phiếm Đạo Đời đọc trong tuần thứ 19 thường niên năm C11-8-2013

“Anh còn nợ em, công viên ghế đá,”


“Công viên ghế đá, Lá đổ chiều êm.

Và còn nợ em giòng xưa bến cũ
Giòng xưa bến cũ, con sông êm đềm.”

(Thơ: Thái Can – Nhạc: Anh Bằng – Anh còn nợ em)

(Rm 13: 8)

Hôm ấy, là buổi liên hoan “Hát Cho Nhau Nghe” ở Sydney , như thường lệ. Nhưng, có điều không giống lệ thường của buổi này, là hôm ấy có giọng hát trẻ của vị linh mục còn khá trẻ ở Sydney lại cứ hát đi hát lại mỗi câu nhắn: “Anh còn nợ em, anh còn nợ em”, tựa hồ như “đức ngài” như còn nợ rất nhiều thứ, mà Lời đấng thánh hiền ở Kinh Sách, vẫn cứ nhủ:

“Anh em đừng mắc nợ gì ai,

Trừ phi là yêu mến nhau.

Vì kẻ yêu người, tất đã làm trọn Lề Luật.”

(Rm 13: 8)

À thì ra, vị linh mục trẻ có hát như thế, cũng chỉ để nhắc bà con người nghe và người đọc hôm nay, mỗi điều này tựa như thế. Như thế, nghĩa là: mỗi lần nghe ca/nhạc sĩ xưng hô anh/em với nhau không hẳn là như người con trai nói với con gái, mà như thể người người nhắn nhủ nhau, trong đời. Tựa như người Do thái xưa cũng từng nợ nần nhau, rất nhiều thứ. Và nhiều sự, như: những thứ và những sự được người nghệ sĩ lại hát tiếp:

“Anh còn nợ em, chim về núi nhạn

Trời mờ mưa đêm, trời mờ mưa đêm

Anh còn nợ em nụ hôn vội vàng

nụ hôn vội vàng nắng chói qua song.”

(Thái Can/Anh Bằng – bđd)

Xem thế thì, nợ ở đây, là: nợ tình thân thương bao dung giữa người với người. Nợ trời, nợ đất trời chưa trả được, nên vẫn cứ coi đó là tội. Tội và nợ, như cuộc tình đã lỡ, được nói ở câu thơ/ý nhạc, như câu hát cuối của nhạc bản ở trên:


“Anh còn nợ em Con tim bối rối
Con tim bối rối Anh còn nợ em
Và còn nợ em Cuộc tình đã lỡ..
Cuộc tình đã lỡ Anh còn nợ em…”

(Thái Can/Anh Bằng – bđd)

Thành thử ra, “linh mục nhà” của mình và của người vẫn cứ la cà đây đó để hát và để nói những lời của thánh-nhân vẫn từng nói, vào khi trước. Hôm nay đây, thánh-nhân hiền từ trong đạo, lại cứ nhắc nhở những tình tiết trong Đạo, coi như nợ nần rất “đồng lần”, vẫn khó trả.

Về nợ và nần mà linh mục nọ vẫn nhắn nhủ, mà người nhà Đạo mình lại coi đó, là tội nợ, nên đã trích dẫn lời cầu ở kinh “Lạy Cha”, rất như sau:

“Xin tha nợ chúng con,

như chúng con cũng tha

kẻ có nợ chúng con. “

(Mt 6: 12; Lc 11: 4)

Diễn giải ý tưởng về tội và nợ, các nhà chú giải Kinh thánh thường vẫn bảo: ngay từ đầu, người Do thái quan niệm tội và nợ như nợ nần vật chất rất tiền bạc/của cải, cần được xoá bỏ. Bởi thế nên, qua rất nhiều bản văn thánh kinh, người Do thái thời xưa cũ vẫn nặng trĩu những ưu tư về sự việc cần được Chúa thứ tha, hết mọi nợ, cũng như tội.

Thế nhưng, nếu bảo rằng: ý chính của Kinh Lạy Cha là kính xin Chúa thứ tha mọi tội/nợ mà các vị tiên tổ từng mắc phải. Các cụ mắc tội, không chỉ là sai lầm khi nghĩ về Đức Chúa là Đấng cột buộc mọi thứ, đến độ phải xin thứ tha, rất nhiều lần. Mà kỳ thực, Đức Chúa là Đấng Thánh rất hiền lành thương yêu con người đến mức độ dạy mọi người chỉ nên gọi Ngài là “Cha”, mà thôi.

Đúng như cha giáo Thánh Kinh của bần đạo, từng có nhận định rất chính xác, như:

“Kinh “Lạy Cha!”, là cả một mặc khải về Thiên Chúa, và về mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và Thiên Chúa, có một cái gì tuyệt đối, mà người khác không thể nói được.” (Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR, Kinh Lạy Cha, tài liệu Giảng Huấn Nội bộ  tr.159)

Điều mà người khác không thể nói và gọi được là thế, có thánh-sử ghi rõ:

“Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “ráp-bi”,

vì anh em chỉ có một Thầy;

còn tất cả anh em đều là anh em với nhau.

Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em,

vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời.

(Mt 23: 8-10)

Diễn và giải thật rõ nét về điều được thánh sử nói đến, cha giáo Nguyễn Thế Thuấn, lại đã nói như sau:

“Đọc đoạn trên, kẻ nhận tín thư của Ngài thì phải ra khỏi lề lói thường có và bạo dạn đủ để không làm như người ta, ngay bề ngoài. Bởi lẽ, lời dạy của Chúa Yêsu cực đoan, tuyệt đối như thế, mà nhiều khi Hội thánh của chúng ta bênh chữa bằng những lý lẽ thật phiền phức để thoát khỏi những lời lẽ này và để nương theo những điều vốn có! Có lẽ chúng ta phải dần dần làm một việc cực đoan như Chúa Yêsu dạy, như các giám mục ở Đức đã truyền lệnh thực sự cho tín hữu chỉ gọi họ bằng các ông, chứ đừng gọi bằng cha hay thày.

Trong Hội thánh, vì cơ cấu tổ chức bao giờ cũng có cái nguy nan là: những nghi thức được làm một cách vô ý thức thật sự, phản với Tin Mừng mà không ngờ! Ví dụ, chúng ta có thể gọi một cách dễ dàng: Đức Thánh Cha (sa sainteté bên tiếng Pháp, hoặc Holy Father, ở tiếng Anh). Trong khi Chúa Yêsu nói: “Sao ngươi nói Ta tốt lành? Không có ai tốt lành trừ phi có một mình Thiên Chúa (Ms 190: 10, 18). Ngài quở người gọi Ngài là Tốt Lành như thế. Chữ “thánh” chỉ có thể thuộc về Thiên Chúa, ai chiếm lấy là một sự phạm thượng. Chúa Yêsu còn cho chúng ta những lời tương tự như vậy trong Lc 12: 30-31. Phải làm thế nào để khi nói đến Cha, chúng ta không còn thái-độ như dân ngoại: “Các điều đó, dân ngoại nơi thế gian kiếm tìm. Nhưng, Cha các người biết rõ, các người cần đến các điều ấy. Song, hãy tìm kiếm Nước của Người, và các điều ấy sẽ được ban thêm cho các người.” (xem Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR, sđd tr. 161)

Về lại với lời hát do vị “cha” trẻ nọ ở Sydney, và/hoặc Đức “Thánh” Cha là đấng “thánh” vẫn chưa già, cũng từng gọi/từng nói và hát những lời tương tự như: “Anh” đây là linh mục, hoặc “Đức thánh Cha” đây vẫn còn nợ nhiều nơi Em (tức: dân con mọi người trong thánh hội), như lời lẽ của nhà thơ và người viết nhạc, từng ca cẩm:

“Anh còn nợ em, Con tim bối rối
Con tim bối rối, Anh còn nợ em
Và còn nợ em, Cuộc tình đã lỡ..
Cuộc tình đã lỡ, Anh còn nợ em…”

(Thái Can/Anh Bằng – bđd)

Nói của đáng tội, có ca cẩm hoặc hát lớn tiếng những lời tương tự, vẫn để bảo: mối nợ ta canh cánh bên lòng, không chỉ nợ mỗi “Công viên ghế đá”, “Con tim bối rối”, hoặc “Cuộc tình đã lỡ” đi chăng nữa, thì nợ đó cũng chỉ là món nợ “tình” của mọi người, ở Nước Trời, thôi.

Nói cũng tội, là nói như đấng bậc vị vọng này/khác, về “Lòng Chúa thương yêu” hết mọi người, chứ không chỉ những người cứ hát câu  “Anh còn Nợ Em! Anh còn nợ em! Ghế đá không đèn”. Nói, là nói về cái tội của “bầy tôi” những là hay nói và thích trích dẫn khá nhiều đoạn kể, để qua ngày đoạn tháng cũng để cho vui mà thôi.

Trích dẫn hôm nay, còn một nhận định của đấng bậc nào đó viết trên mạng thật đậm nét về chân lý cuộc đời tuy gồm những khiếm khuyết, nợ nần, lần chần nhưng vẫn là chân lý rất triết học, như sau:

“Hôm nay viết về chân lý cuộc đời, với câu: “Có những người…”, tôi sẽ viết như sau:

-Thật ra, chẳng ai có được cuộc đời hoàn hảo hoặc không một khiếm khuyết, nào cả!

-Thật ra thì, mỗi người đều có khiếm khuyết, và còn nợ nhau khá nhiều.

-Có những vợ chồng vừa trí thức, vừa lương bổng cao, nhưng lại bị mắc bệnh nan y, như của nợ canh cánh bên lòng.

-Có người tài sắc vẹn toàn, giỏi dang, nhưng đường tình duyên lại trắc trở.

-Có những người thừa kế gia tài kếch sù, nhưng keo kiệt ích kỷ, đầu óc rỗng tuếch.

-Có những gia đình thế lực/giàu sang nhưng con cái bất hiếu, khiến tán gia bại sản và làm nhiều điều phi pháp.

-Sống trên cõi trần, ai cũng cần nợ nần/khiếm khuyết để bớt đi phần kiêu ngạo.

-Dù bạn có muốn hay không, là người, bạn vẫn bị bệnh tật lây bám, như định mệnh.

-Đừng bực bõ về khiếm khuyết/nợ nần trong đời. Vì, sở dĩ người đời mở rộng lòng mình ra là để đón nhận cả những nợ nần, lẫn khiếm khuyết.

-Bởi, con người vẫn biết rằng: nợ nần, lẫn khuyết điểm là như cái gai mình cõng trên lưng để biết mà khiêm tốn hợp tác với người khác.

-Cuộc đời mà thiếu thăng trầm, thì con người dễ tìm chốn an thân, khó mà biết cảm thông những người nghèo hèn, đầy công nợ. Sống ở đời, mà không trải nghiệm mọi thiếu thốn với nợ nần, làm sao có thể trưởng thành!

-Những người thứ gì cũng thừa mức, có đủ, sẽ không biết đến niềm vui của đợi chờ và hy vọng.

-Đừng quá khổ tâm, buồn sầu, bất mãn với những gì mình chưa có hoặc tuy là có nhưng do nợ chồng chất đến tận cổ, nên không bao giờ thấy là mình cũng …có.

-Hãy lấy làm vui, vì có những thiếu thốn, cũng như “nợ đồng lần” vì có thế mình mới có khát vọng mà vươn lên.

-Vốn ý thức rằng: là người ai cũng có khuyết điểm, nên sẽ không cần so đo với mọi người. Và như thế, mình sẽ biết quí trọng hơn nữa, những gì mình đã có và đang có.

-Thay vì ta cứ đứng núi này trông núi nọ, hãy kiểm lại những gì Ơn Trên đã tặng ban cho mình! Và khi đó, mình sẽ nhận ra rằng: những gì mình có, vẫn nhiều hơn những gì “mình không có”.

-Nếu nhìn lên, thấy chẳng bằng ai, nhưng nhìn xuống sẽ thấy chẳng có bao người bằng mình.

-Trời cho ta khiếm khuyết để biết nhờ và, giúp đỡ lẫn nhau.

-Niềm vui đời này, không chỉ là biết cho đi mà thôi, mà là biết đón nhận nhau nữa.

-Nếu coi nợ nần cùng khuyết điểm là thành phần cuộc đời, ta sẽ lạc quan yêu đời hơn.

-Đừng để niềm vui luột khỏi vòng tay. Đừng ngồi đó ủ rũ đêm ngày vì khiếm khuyết hoặc nợ nần rồi giải sầu bằng chén rượu say. Chúc tất cả mọi người tìm thấy được niềm vui và phúc hạnh, mỗi một ngày.” (trích lời khuyên của đấng bậc trên mạng)

Của đáng tội, -tội chứ không phải nợ-, là: mỗi lần nói đến “nợ đồng lần” các cụ nhà ta xưa nay vẫn rất sợ. Sợ, là bởi: ai rồi cũng đến phiên mình sẽ phải trả nợ và nếu có nợ cao chồng chất đến độ như núi/như đồi, thì chắc chắn trả đến đời con đời cháu cũng không hết.

Thế nhưng, có những món “nợ” tình thương trong đời người mà người người lại cứ tưởng là nợ đồng lần, trả không nổi, nhưng sự thật không thế. Nợ đồng lần, dù to như nợ “tình thương” với những người thương mình, vẫn là thứ nợ trả được nếu “con nợ” là mình vẫn còn nhớ, như truyện kể để khích lệ, như bên dưới:

“Anh dừng lại tiệm bán hoa để gửi hoa tặng mẹ qua đường bưu điện. Mẹ anh

sống cách chỗ anh khoảng 300km. Khi bước ra khỏi xe, anh thấy một bé gái

đang đứng khóc bên vỉa hè. Anh đến và hỏi nó sao lại khóc.

Cháu muốn mua một hoa hồng để tặng mẹ cháu – nó nức nở – nhưng cháu chỉ có

75 xu trong khi giá một hoa hồng đến 2 đôla.

Anh mỉm cười và nói với nó:

-Đến đây, chú sẽ mua cho cháu.

Anh liền mua hoa cho cô bé và đặt một bó hồng để gửi cho mẹ anh. Xong xuôi,

anh hỏi cô bé có cần đi nhờ xe về nhà không. Nó vui mừng nhìn anh và trả

lời:

-Dạ, chú cho cháu đi nhờ đến nhà mẹ cháu.

Rồi nó chỉ đường cho anh đến một nghĩa trang, nơi có một phần mộ vừa mới

đắp. Nó chỉ ngôi mộ và nói:

-Đây là nhà của mẹ cháu.

Nói xong, nó ân cần đặt nhánh hoa hồng lên mộ.

Tức thì, anh quay lại tiệm bán hoa, hủy bỏ dịch vụ gửi hoa vừa rồi và mua

một bó hồng thật đẹp. Suốt đêm đó, anh đã lái một mạch 300km về nhà mẹ anh

để trao tận tay bà bó hoa.” (truyện về ngày Vu Lan bên Tây rút từ mạng vi tính)

Thật ra thì, truyện kể ở trên chẳng dính dáng gì đến chuyện nợ nần rất “chồng chất”, hay “nợ đồng lần” gì ráo trọi. Nhưng, suy cho kỹ, bạn và tôi, ta sẽ thấy linh mục trẻ có hát hò nhiều lần ở đây đó, hết đám cưới của bạn bè/người thân hoặc vào những buổi “Hát Cho Nhau Nghe” ở Sydney , cũng chỉ để nói lên những điều và những sự khiến ta hát hoài và hát mãi có mỗi câu:

“Anh còn nợ em, Con tim bối rối
Con tim bối rối, Anh còn nợ em
Và còn nợ em, Cuộc tình đã lỡ..
Cuộc tình đã lỡ, Anh còn nợ em…”

(Thái Can/Anh Bằng – bđd)

Hát thế rồi, hỡi bạn trẻ linh mục của tôi hay bạn tôi không là linh mục trẻ, hãy nhớ rằng: mình còn nợ nhau “Con tim bối rối”, “Cuộc tình lỡ”, hay gì gì nữa, vẫn là tình yêu, của mọi người. Với mọi người. Chí ít là những người cần đến tình người, không chỉ từ linh mục trẻ hoặc Đức Cha rất thánh ở trần thế.

Trần Ngọc Mười Hai

Cũng còn nợ

Rất nhiều người

Một cuộc tình vẫn không lỡ.

Đó là tình người của người tình,

Rất trăm năm.

Được xem 1 lần, bởi 1 Bạn Đọc trong ngày hôm nay