HÃY BÌNH SỬ VỚI TƯ CÁCH LÀ NGƯỜI TỬ TẾ, TÔN TRỌNG SỰ THỰC, SÒNG PHẲNG VẢ TIẾN BỘ…

HÃY BÌNH SỬ VỚI TƯ CÁCH LÀ NGƯỜI TỬ TẾ, TÔN TRỌNG SỰ THỰC, SÒNG PHẲNG VẢ TIẾN BỘ…

Anh tôn trọng người khác để nhận được sự tôn trọng ngược lại.

Nhiều người đang bụm miệng vì một ông tiến sĩ kinh tế nhận định về lịch sử Miền Nam, ông ta cho rằng Miền Nam là “tinh hoa Bắc Việt tụ lại, dồn vào theo dòng khai phá Phương Nam”.

Thiệt là…! Bậu không hề hiểu câu “Ăn theo thuở, ở theo thời” gì hết.

Dân gian Bắc Hà có câu:

“L.. bà bà tưởng l.. ai

Bà cho ông Lý mượn hai tháng liền”

Tự nhận mình là “người liêm chính” và giảng moral, nói về năng lực, đạo đức và khơi về dòng họ mà đại bác thụt không tới.

Lý thuyết là cùng một dân tộc, cùng chữ viết, cùng tiếng nói, điều đó không ai phủ nhận.

Nhưng trời ơi! Thực tế Nam và Bắc hoàn toàn khác nhau về cách sống, tư duy, văn hóa ,ẩm thực. Bây giờ nói về “bà con” thì có lẽ chắc không ai còn nhớ đâu.

Máu pha nhiều quá.

Thí dụ như người Mỹ, nếu người Anh nói người Mỹ là người Anh thì dân Huê Kỳ sẽ cười vô mặt liền.

Cũng như danh xưng “Việt kiều”, người VN ở hải ngoại đời đầu, khi mà họ còn sanh đẻ và lớn lên ở VN rồi di tản ra hải ngoại thì còn dính chữ Việt Nam. Nhưng qua thế hệ thứ hai, thứ ba, thứ tư thì con cháu đã thành người Mỹ, người Úc, người Châu Âu rồi, nói nó là người VN thì nó cười vô mặt. Nhìn bà con rồi kêu cháu hãy làm nghĩa vụ gửi tiền về VN cho họ hàng là cái không bao giờ có vì nó không thể có trách nhiệm như cha mẹ nó được, đây là sự thực.

Miền Bắc từng có 1000 năm Bắc thuộc, khi đó người Tàu di cư qua hàng hà sa số đặng cai trị, nhưng người Tàu không làm sao đồng hóa Lạc Việt được vì tinh thần dân quá cứng cỏi, thậm chí người Tàu di cư qua ở vài đời thành người Việt cũng đòi độc lập ,dính mẫu hệ cả dòng.

Nếu nhìn họ hàng thì Bắc Kinh giờ làm như Putin với Ukraine, nói rằng người VN ở Miền Bắc giờ là con cháu của “tinh hoa người Hoa Hạ xưa” thì nghe có vui không?

Mà ngẫm lại Bắc và Nam như âm với dương vậy, thời tiết Nam nóng thì Bắc lạnh và Bắc luôn dính cái lòng thòng từ Trung Hoa, bên đó có cái gì Bắc có cái đó, rõ nhứt là sĩ diện hảo và rất thích làm “anh cả”.

Vũ trụ là một dòng sông dài, cả một quá trình lịch sử cũng dài, con người qua bao khúc nhoi, thăng trầm có đủ hết, Nam Kỳ và Bắc Kỳ cũng vậy.

Mà ngộ!

Rất nhiều người cứ thắc mắc, tại sao kêu Nam Kỳ, Trung Kỳ, dân hai xứ này cười hề hề, không để ý gì hết. Còn kêu người Bắc nào là Bắc Kỳ, nếu người Bắc di dân vào nam 1954, hay gọi là Bắc 54 thì cũng không sao, nhưng Bắc 75, Bắc đang ở phên dậu thì đa số họ sẽ đưng đửng lên như bị con gì cắn, rồi chửi người kêu là phân biệt vùng miền, chửi người kêu là miệt thị.

Kỳ chỉ là đất một cõi mà ta? Thành đô một nước còn có tên là “Kinh Kỳ” đó thôi.

Trong lịch sử Việt Nam ta có một cái huyện được sử Nguyễn ghi chép là “Quý huyện”, trong đó có một ngoại trang gọi là “Quý hương”.

Vùng đất đó là Gia Miêu ngoại trang thuộc tổng Thượng Bạn huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, trấn Thanh Hoa, là nơi phát tích của vương triều Nguyễn.

Là nơi quê nhà lão tướng Nguyễn Kim đã trung hưng thành công nhà Lê Trung Hưng.

Cũng là quê của Quận Công Nguyễn Hoàng ra đi trấn thủ xứ Thuận Hóa năm 1558, ông về Phương Nam, tiên khởi hùng mạnh khởi lập lên xứ Đàng Trong với 9 chúa, 13 vua.

Xin lật lịch sử vào những năm 1558-1600.

Chúng ta nghe giai thoại rằng chúa Nguyễn Hoàng vì “nghe lời” Trạng Trình “Hoành sơn nhứt đái, vạn đại dung thân” nên xuôi về Nam.

Tôi thì đọc giai thoại cho vui thôi, cái đám sĩ phu Bắc Hà rất thích đặt giai thoại, thiệt ra là tầm nhìn chánh trị của chính chúa Nguyễn Hoàng mà thôi, ông nhìn xa ra cái hướng mà dung thân, phát triển khi anh rể Trịnh Kiểm đã nuốt hết cơ nghiệp nhà vợ rồi giết anh trai Nguyễn Uông,sẽ giết tới Nguyễn Hoàng.

Đi vô vùng “Ô châu ác địa”, “Biên viễn xa xôi” là một cuộc thử thách thực sự chứ không phải đi du lịch chơi chơi như thời nay. Cái duyên này là Trời định, là Thiên Mệnh, để Việt tộc phát triển dài ra cương thổ.

Năm 1558 Nguyễn Hoàng ôm theo nhiều anh em, bà con, tùy tùng quê ở Tống Sơn.

Ta phải kể ra ba ông lớn có tiếng trong đời Nguyễn Hoàng mà lịch sử ghi là: Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Trị và Mạc Cảnh Huống.

Con cháu Nguyễn Ư Dĩ sau này đổi sang họ Nguyễn Khoa, với Nguyễn Khoa Chiêm, Nguyễn Khoa Đăng.

Dòng thứ hai là họ Tống của ông Tống Phước Trị.Tống Phước Trị là người mang họ Tống của chính “Qúy huyện” Tống Sơn. Khi Nguyễn Hoàng vào Nam thì ông đã có danh phận chức tước ngang hàng với chúa Nguyễn Hoàng, tước Luân Quận Công, làm Trấn thủ Thuận Hóa trước cả Nguyễn Hoàng.

Dòng Tống Phước Trị là đệ nhị công thần của chúa Nguyễn Hoàng.

Ông Tống Phước Trị là tổ của hai ông Tiền Hiền Tống Phước Hiệp, Tống Phước Hòa là bậc danh tướng, có công gìn giữ Vĩnh Long và Sa Đéc.

Đất Trung Kỳ là đất của Chàm. Người Việt kêu người Champa là người Cham, Chăm, Chàm, Chiêm, Thổ, Mọi , Hời.

Cham Pa gồm 5 tiểu quốc là:

– Indrapura (vùng Quảng Bình, Quảng Trị – tương đương với lãnh thổ Lâm Ấp)

– Amaravati (vùng Quảng Nam, Thừa Thiên)

– Vijaya (Bình Ðịnh)

– Kauthara (Phú Yên, Khánh Hòa)

– Panduranga (Phan Rang, Phan Rí)

Vua Chàm Chế Bồng Nga đánh Đại Việt 12 lần.Từ 1371 đến 1383, quân Chiêm Thành 4 lần chiếm đóng Thăng Long và năm 1390, lúc đang tiến vào Thăng Long lần thứ tư, thì Chế Bồng Nga bị tử trận.Cái chết vô cùng lãng nhách, thằng đầy tớ phản chủ qua bên Việt chỉ chiếc thuyền Chế Bồng Nga có một vết sơn xanh nhỏ và Trần Khắc Chân chỉ tập trung hỏa lực bắn vô thuyền nầy là Chế Bồng Nga tử trận.

Người Chàm rất xui khi lập quốc cạnh người Việt vì nằm ngán đường của người Việt. Bắc là Tàu, tây là dãy Trường Sơn cao ngút,đông là biển, chỉ còn hướng Nam là con đường sanh tồn của Việt tộc. Nên Chàm bị vong quốc m.

Nhưng Chàm vẫn còn đâu đây trong huyết quản người Miền Trung.

Khi ông Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng Thống VNCH nhiều người già nói sấm ám chỉ có một ngày một người có máu Chàm làm vua người Việt.

Nhiều người hỏi, vậy dân Chàm hồi xưa ở VN đi đâu mất tiêu hết vậy?

Chiến tranh, loạn lạc, có những vụ đánh nhau, kể cả tận diệt, nhưng người Việt không thể nào giết hết dân tộc này như nhiều người kết tội, dân tộc này không có nhỏ.

Thực ra người Chàm nào chịu ở lại định cư chung với người Việt đã bị đồng hóa, pha máu từ từ, lần hồi thành người Việt hết ráo. Trước tiên đàn ông Việt lấy vợ Chàm, cái phụ hệ của Việt khuất phục mẫu hệ Chàm, rồi đàn bà Việt lấy chồng Chàm, cái “mẫu hệ” ngầm trong gia đình Việt cũng khuất phục luôn dân tộc này.

Nói về đồng hóa bằng hôn nhân thì dân Tàu cũng quỳ lạy dân Việt chúng ta. Người Việt không nề hà, đụng đâu lấy đó, Chàm quất tuốt, Miên không tha, Tàu quất sạch.

Người Trung mang nhiều máu Chàm trong người. Người Trung có da ngăm đen, vai ngang, mặt vuông, tóc dợn sóng, mắt sâu, má cao, mắt một mí, mũi cao, môi dầy, miệng kín. Rồi cái âm Trung lơ lớ với mô, tê, răng, rứa, hè… ảnh hưởng rõ rệt người Chàm.

Một nhúm Chàm ở Phan Rang, Phan Thiết do co cụm, sống tách biệt nên vẫn còn bản sắc.

Thế hệ đầu tiên ngoài Bắc vô Trung của Nguyễn Hoàng thành dân Trung Kỳ đã phai lợt từ từ “gốc gác”, tới những thế hệ sau thì họ đã là người Đàng Trong, khác hoàn toàn tâm tánh, ăn ở, văn hóa Đàng Ngoài .

Chưa kể lại đối nghịch nhau về chánh trị.

Lịch sử Việt Nam ta có cuộc Trịnh, Nguyễn phân tranh rất nhiều giai thoại thú vị.

Khi họ Nguyễn tạo ra xứ Đàng Trong ly khai vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài thì hiểu rằng người ở phía Nam đã muốn độc lập, cắt đứt với người phía Bắc.

Trịnh, Nguyễn đánh nhau từ 1627 tới 1672 với 7 lần đánh nhau với đại quân.

Trong bảy lần đó quân Trịnh chủ động tấn công đánh quân Nguyễn tới sáu lần, quân Nguyễn chỉ chủ dộng tấn công quân Trịnh trong lần giao tranh thứ năm (1655-1660).

Họ Trịnh dựa vua Lê, người Bắc rất lơ láo, họ chuyên lấy vua Lê ra làm bình phong cho sự chính danh của họ khiến quân Đàng Trong rất ghét.

Tương truyền trong một trận đánh, hai bên dàn trận rồi mà Đàng Ngoài còn chơi trò lấy lông gà làm lịnh tiễn “vua Lê”.

Một ông quan Bắc chạy xe ngựa có cờ lộng uy nghi ra giữa trận tay giơ cao tờ chiếu la lớn “Chiếu chỉ vua Lê tới đây, quân họ Nguyễn nghênh đón”.

Thoáng ngỡ ngàng, quan bên Nguyễn thấy rằng hai bên đang đánh nhau thì mang chiếu chỉ vua Lê ra làm chi, Đàng Trong đã thực tế là đất của chúa Nguyễn.

Quan Bắc vẫn gân cổ, là thần tử vua Lê thì phải nhận chiếu.

Rốt cuộc súng của quân Nguyễn chỉa thẳng vô ông quan cầm chiếu vua Lê ngay giữa trận.

Nhớ tới Quốc Phụ xứ Đàng Trong Đào Duy Từ nửa đêm ôm bè chuối vượt sông giới tuyến vô Nam giúp chúa Nguyễn giữ đất Đàng Trong độc lập.

Đào Duy Từ hay Nguyễn Hoàng là bỏ xứ ra đi rồi, bỏ luôn rồi, kiểu “Người ra đi đầu không ngoảnh lại”.

Thuận Quảng là đất chó ăn đá gà ăn muối lúc bấy giờ. Kinh tế thấp kém, đất đai rộng nhưng hoang vu, lam sơn chướng khí, lại bị người Chàm đánh miết để đòi lại, vô đó chỉ có nước chết mà Nguyễn Hoàng tồn tại được là cái không ai ngờ.

Bản thân Nguyễn Hoàng từ năm 1600 đã từng đốt quán trọ, hạ nhục sứ họ Trịnh là Lê Nghĩa Trạch để phản kháng. Sự bất mãn, phân ly và phản kháng đã từ từ phát diện.

Rốt cuộc, Phú Xuân (Huế) từ năm 1687 thành kinh đô của Đàng Trong.

Chúa Trịnh vua Lê ở Đàng Ngoài.Đàng Ngoài năm nào cũng có đói, thời chúa Trinh các năm 1557, 1559, 1570, 1571, 1572, 1577 hàng loạt trận đói xảy ra.

Chúa Tiên Nguyễn Hoàng và các vị sau đó còn làm bộ nhún nhường thần tử, song tới đời Võ vương Nguyễn Phước Khoát (1714-1765 ) mở ra một thời kỳ mới.

Năm 1744 lên ngôi vương xưng là Võ Vương cho đúc ấn Quốc Vương với cương vực từ sông Gianh tới Cà Mau, vạch rõ san hà Nam-Bắc khác nhau.

Ta nhớ tới bài thơ của Đào Duy Từ viết thay chúa Nguyễn trả lời cho chúa Trịnh.

Năm 1762 chúa Trịnh bắt họ Nguyễn Đàng Trong phải thần phục, bèn cử đoàn sứ giả mang sắc vua Lê vào phong cho Sãi Vương Nguyễn Phước Nguyên và đòi Sãi Vương phải cho con về Thăng Long chầu, đồng thời phải nộp 30 con voi cùng 30 chiếc thuyền làm lễ vật cống nạp nhà Minh.

Sãi Vương không chịu nhận chiếu chỉ, không thuận theo điều gì hết, Đào Duy Từ viết bài thơ trả lời:

Mâu nhi vô dịch,

Mịch phi kiến tích

Ái lạc tâm trường

Lực lai tương địch

Phùng Khắc Khoan phải ra tay dịch ra bốn chữ: Dư bất thụ sắc (ta không nhận sắc phong).

Họ Nguyễn không chịu thần phục triều đình, không nhận sắc vua Lê cho nên làm ra bốn câu thơ đó.

Đào Duy Từ là người Đàng Ngoài, giỏi nhưng bị chà đạp, nửa đêm ôm bè chuối vượt sông Gianh vô Nam làm Lộc Khuê Hầu giúp chúa Nguyễn độc lập, cắt đứt Đàng Ngoài.

Họ Trịnh biết, tiếc nên cho người ôm vàng bạc vô Nam dụ họ Đào về Bắc, chúa Trịnh viết thư ưỡm ờ:

“Trèo lên cây bưởi hái hoa

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Em có chồng anh tiếc lắm thay”

Đào Duy Từ trả lời rằng:

“Ba đồng một mớ trầu cay

Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?

Bây giờ em đã có chồng

Như chim vào lồng như cá cắn câu.

Cá cắn câu biết đâu mà gỡ

Chim vào lồng biết thuở nào ra?”

Tháng 1 năm 1775 khi Tây Sơn nổi dậy đánh chúa Nguyễn, quân Trịnh do Hoàng Ngũ Phúc cầm quân đã tiến vô nam đánh chiếm Phú Xuân.

Quân Trịnh chiếm đóng Phú Xuân trong 11 năm với 3 vạn quân, cai trị mạnh tay, dân Thuận Hóa ná thở, oán khí ngập trời.

Nếu coi nhau là đồng bào thì đã không có sự cai trị kinh khủng như vậy.

Năm 1786 quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ tiến ra đánh bật quân Trịnh giải phóng Phú Xuân. Tây Sơn xua quân giết quân Trịnh, tàn sát gần hết, một số chạy thoát ra khỏi thành thì bị dân Huế bản địa căm thù ra tay giết.

Trong một ngày khắp Phú Xuân xuất hiện ăn mày nhưng toàn là á khẩu, câm để giấu cái giọng Bắc, tìm đường chạy ra Bắc thoát thân.

“Lịch Triều Tạp Kỷ” của Ngô Cao Lãng ghi rằng:

“Các lính thủ chạy đi các xóm làng để xin trú ngụ đều bị thổ dân giết sạch…. giết hại tất cả đến vài vạn người, chỉ còn vài trăm người là qua được sông Gianh trở về Bắc Hà thôi”.

Nguyễn Hữu Chỉnh, Ngô Thời Nhiệm, Đặng Trần Thường đều đã về Nam tìm gió mới, Nguyễn Du cũng từng đi nhưng không thành công.

Đặng Trần Thường một nho sanh Bắc Hà xuất sắc cũng đã vượt đường cái quan, qua sông núi biển xa vạn dặm vào đến Gia Định.

Đất Bắc với nạn nhân mãn, anh cả, nhà thờ họ, lũy tre làng, những con đê khổng lồ chặn hết phù sa, những ông lý như tiểu vương đã là nỗi ám ảnh của nhiều người Việt lúc đó.

Xuôi Nam là con đường mà họ chọn để theo nước đẩy thuyền.

“Tiếng ai than khóc nỉ non

Là vợ chú lính trèo hòn Cù Mông”

Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lý, lập phủ Gia Định gồm hai huyện: Phước Long kể từ tả ngạn sông Sài Gòn ra bờ biển Đông và Tân Bình kể từ hữu ngạn sông Sài Gòn tới sông Vàm Cỏ Đông.

Người Miền Nam là con cháu Nam Kỳ, vốn là xứ của lưu dân Ngũ Quảng hiệp cùng người Minh Hương, Chàm, Khmer và bổn địa như Stieng tạo ra.

Cái máu Bắc trong người Miền Nam khai hoang không có bao nhiêu.

Ông bà ta nói đất sanh ra người, người là hoa của đất, là tinh túy của xứ sở, đất tạo ra tâm tánh người dân.

Chúa Nguyễn áp dụng những chánh sách cai trị rất khôn khéo, trước khuyến khích tạo điều kiện cho dân vào Nam khai hoang lập ấp, nói chung làm ăn ổn định cuộc sống trước đã. Sau khi cuộc sống của dân cư đi vào ổn định, Chúa Nguyễn bắt đầu áp dụng chính sách thuế trên đất Miền Nam.

Người Nam Kỳ là dân khai hoang tứ xứ, vì kinh hoàng với xứ Bắc nên họ tạo ra văn hóa Nam Kỳ khác văn hóa Bắc rất nhiều, ví dụ chuyện dòng tộc, lũy tre làng là không có ở xứ Nam.

Miền Nam không có Thị Mầu, không có Chị Dậu, không có Chí Phèo, không có cảnh người dân ngụ cư, làng này đánh làng khác.

Người Miền Nam không lập gia phả, không có chế định nhà thờ họ. Nam Kỳ thời chỉ thờ cúng trực hệ tổ tiên trong 4 đời.Nam Kỳ bỏ “cả”, chỉ công nhận “hai”, cũng không lấy cái đình làng làm nơi dọa nạt người dân.

Lịch sử lưu dân Nam Kỳ quá trẻ, quá gần, không có nhiều quá khứ, nhưng quá khứ huy hoàng.

Bản chất dân Nam Kỳ đôn hậu mộc mạc. Tánh Nam Kỳ lửa rơm dễ nóng, dễ cháy. Sông rạch và đất nước bao la vì vậy đã tạo cho dân Nam Kỳ tánh khẳng khái, bộc trực, ít chịu cúi lòn, kém thủ đoạn.

“Ví dầu cầu ván đóng đinh

Cầu tre lắc lẻo gập ghình khó đi

Khó đi mượn chén ăn cơm

Mượn ly uống rượu mượn đờn kéo chơi”

Đất Nam Kỳ không dễ dàng mà có, ông bà cũng nẻ chưn tét da, rướm máu, mẻ xương, mất mạng mà giành nó, giữ nó và xây dựng, phát triển nó. Quá trình dài và đầy máu, nước mắt, ai đọc sử cũng sẽ biết quá trình này.

Một hột giống gieo xuống đất, đất đó phải xới, phải vun bồi, tưới tẩm, phải dẫn nước, xẻ mương, mưa thuận gió hòa qua sự điều hòa của trời đất thì hột mới nẩy mầm cho ra cái cây, sanh bông kết trái.

Miền Nam có những mùa hạn khô queo không còn một miếng nước cực khổ thấu trời. Có những vùng nước tù đọng muỗi mòng rắn rít, những vùng phèn vàng khè cháy da cháy tóc. Ông bà Miền Nam phải đổ xương máu ra khai phá, đào kinh, xẻ mương, lên liếp.

Nói gọn lại là đất Nam Kỳ không phải tự dưng trên trời rớt xuống cái chủm cho người Việt, đất này gốc của Phù Nam rồi Cao Miên, người Việt phải trầy vi tróc da giữ nó, khai phá nó mới có cơm gạo.

Prei NoKor, Phiên Trấn, Gia Định, Phan An, Sài Gòn đã thành một đô thị an vui, no ấm, thạnh vượng của Nam Kỳ Lục Tỉnh, là đô thành của Lục Tỉnh.

“Phủ Gia Định, phủ Gia Định, nhà đủ người no chốn chốn

Xứ Sài Gòn, xứ Sài Gòn, ở ăn vui thú nơi nơi.

Lạc thổ nhóm bốn dân: sĩ nông công thương ngư tiều canh độc”

Đất Nam Kỳ từ khi lưu dân cắm đất khai phá và Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược thì cha ông chúng ta luôn hướng tới tự do, dân chủ, tôn trọng và muôn đời là như vậy.

Sài Gòn là sản phẩm của người yêu chuộng tự do, của tinh hoa Nam Kỳ Lục Tỉnh.

“Sài Gòn dễ ở khó về

Trai đi có vợ, gái về có con”

Sài Gòn là cái đỉnh cao của văn minh kiểu Lục Tỉnh, cách chơi Lục Tỉnh, tâm hồn Lục Tỉnh.

Tây Sơn tràn vào, không phải tự dưng mà có “Thảm sát cù lao Phố”, “Thảm sát Chợ Lớn”, “Hủy diệt Mỹ Tho đại phố”.Mục đích là kiếm một mớ rồi nhân tiện tiêu thổ luôn.

Những ngày đầu từ Phú Xuân vô Nam thì chúa Nguyễn Ánh cũng không là cái gì, chẳng có danh gì ngoài cái danh “cháu Chúa Nguyễn”.

Lúc này Nam Kỳ đã có quân đội, dân và hào phú Ba Giồng vì chống sự cướp bóc, giữ an xóm làng đã hùn tiền của, góp con cháu lập ra đạo quân Đông Sơn 3.000 người do Đỗ Thanh Nhơn chỉ huy.

“Năm nầy Thanh Nhơn mới có 42 tuổi, khí lực cường tráng, tánh nết thẳng ngay, dám nói dám làm, không kiêng không vị”(Đỗ Nương Nương báo oán-Tác giả: Hồ Biểu Chánh)

Khi Tân Chánh Vương lẫn Thái Thượng Vương bị Tây Sơn bắt giết ở Sài Gòn thì chúa Nguyễn Ánh nổi lên như người kế thừa khôi phục sự nghiệp của họ Nguyễn.

Năm 1777 Đỗ Thanh Nhơn đưa Nguyễn Phước Ánh lên làm tôn chủ cho chánh danh. Năm 1780 chúa Nguyễn Ánh xưng vương.

Và chúa Nguyễn Ánh lập mưu giết Đỗ Thành Nhơn đặng đoạt binh quyền.

Chúa Nguyễn Ánh đụng ngay sự phản kháng và bất hợp tác của thuộc hạ ông Nhơn là Võ Nhàn, Đỗ Bảng là những phó tướng, đầu lãnh của ông Nhơn, họ dẫn quân đi gần hết, cát cứ vùng khác.

Một thời gian dân Nam Kỳ tẩy chay chúa Nguyễn Ánh. Tây Sơn lại hành quân vào, chúa Nguyễn Ánh đánh không thắng được trận nào, chỉ biết chạy lòng vòng.

Võ Tánh là em Võ Nhàn, Võ Nhàn chống lại Nguyễn Ánh và cũng bị giết chết, vì vậy Võ Tánh phải bỏ đi chổ khác, sau cùng dẫn binh về cát cứ ở Gò Tre Gò Công.

Từ năm 1784, quân đội Võ Tánh với đạo quân “Khổng Tước nguyên võ” là lực lượng duy nhứt dám dàn trận công khai đánh chận Tây Sơn ở Gia Định. Chúa Nguyễn Ánh nhiều lần “chiêu dụ” Võ Tánh nhưng ông làm ngơ, không thèm nhìn vì thù anh, ông tự mình đánh Tây Sơn.

Năm 1788 Võ Tánh nghe theo lời các tướng thân cận như Mạc Văn Tô, Nguyễn Văn Hiếu mới đồng ý theo Nguyễn Ánh vì hai chữ “chính danh”.

Tức là Võ Tánh bỏ qua tình riêng.

Nhà Nguyễn được thành lập là nhờ dân Miền Nam.

Chúng ta hiểu rằng với dân Nam Kỳ, họ Nguyễn Phước là họ tượng trưng nhưng không phải là số một.

Tỷ dụ vua Gia Long biết ông Lê Văn Duyệt là người ít học nhưng thẳng thắn và làm kinh tế giỏi nên đối với ông Duyệt có sự biệt đãi, ông Duyệt trung thành nhưng lại có cái cách “thinh thang” kiểu Nam Kỳ khi Nam Kỳ cho tự do tôn giáo, mua bán,thông thương, dân an vui no đủ.

Vua Minh Mạng tìm cách phá bỏ ảnh hưởng của phe Nam Kỳ trong Gia Định sau cái chết của ông Duyệt.

Vua đã đưa vào đất Nam “người của mình”, đám này chủ yếu có quê gốc ở Trung và Bắc để thực hiện những đường lối chánh sách mới,kiểm soát và nắm kinh tế, bỏ những ảnh hưởng của phái Gia Định và xóa bỏ mọi uy tín của vị Tả Quân trong dân chúng.

Dân Nam Kỳ đã trả lời bằng cuộc đảo chánh của Lê Văn Khôi.Bộ sậu có con cháu Nguyễn Văn Tồn, Nguyễn Văn Thoại, Mạc Cửu… những vị khai quốc công thần xưa.

Mắc cười thay! Lê Văn Khôi là người gốc Bắc. Điều này chứng tỏ rằng người Miền Nam không bao giờ câu nệ xuất thân, gốc gác, máu mủ. Cứ cùng chung suy nghĩ, cùng bảo vệ quyền lợi thì cứ mặc sức mà thể hiện.

Cuộc đảo chánh này không có phương hướng rõ, do dự, chần chừ và bị vài phần tử phản bội do “hèn” sau lưng nên rốt cuộc không thành công.

Dù trấn áp được cuộc khởi nghĩa Lê Văn Khôi thành công, nhưng từ thời Minh Mạng triều đình Huế đã không còn “uy tín” như thời vua Gia Long.

Sau 1862 Nam Kỳ thành thuộc địa của Pháp.

Nghị định 82 ký ngày 6.4.1878 toàn Nam Kỳ phải chuyển sang chữ Quốc Ngữ, tức chữ La Tinh.

Tức là thủ tiêu chữ Hán và phải học chữ Quốc Ngữ.

Năm 1878 chữ Quốc Ngữ áp dụng ở Nam Kỳ đầu tiên, các “tổ sư” chữ Quốc Ngữ áp dụng đầu tiên toàn dân Nam Kỳ như: Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Tống, Trương Minh Ký, Nguyễn Trọng Quản…

“Chữ quốc ngữ phải trở thành chữ viết của đất nước. Phải như thế vì lợi ích và sự tiến hóa. Vậy, người ta nên tìm cách phổ biến thứ chữ này bằng mọi phương tiện…”(Trương Vĩnh Ký “Vần quốc ngữ” xuất bản năm 1876).

Trong văn hóa Việt tộc ta, vì xài chữ Quốc Ngữ nên Việt Nam được coi là nước theo hệ chữ La Tinh, nhưng Việt khác các quốc gia Tây khác như Anh hay Pháp là chữ Quốc Ngữ có rất nhiều dấu.

Chúng ta đã có chữ viết, chữ La Tinh tuy là “vay mượn” Tây, nhưng nó thể hiện đúng nhứt về cấu trúc cách nói, ngữ âm của dân tộc Việt, chỉ có 24 chữ ráp lại, thêm dấu là xong, thể hiện đúng hình và thanh của dân tộc Việt.

Tờ báo quốc ngữ đầu tiên là tờ Gia Định Báo, do Pháp lập năm 1865, với chủ bút Trương Vĩnh Ký, rồi Huỳnh Tịnh Của. Tiếp đó đến tờ Nam Kỳ Nhật Trình (số 1 ra ngày 21/10/1897), Nông Cổ Mín Đàm (số 1: 1/8/1901), Lục tỉnh tân văn (số 1: 15/1/1907) v.v…

Theo tài liệu của Nguyễn Văn Trung (công bố năm 1987), cuốn tiểu thuyết quốc ngữ sớm nhứt viết theo lối Tây phương là “Thầy Lazzaro Phiền” của Nguyễn Trọng Quản, xuất hiện ở trong Nam ngay từ 1887 và bản dịch Tam Quốc Chí đầu tiên, cũng khởi đăng trên Nông Cổ Mín Đàm, số một. (Nguyễn Văn Trung, Lục Châu Học).

Ông Phạm Quỳnh vào Nam năm 1918 hết hồn thấy báo chí, nhựt trình trong Nam nhiều quá.

Người Bắc 54 vô Nam ngạc nhiên khi có cảnh người đạp xe xích lô ở Sài Gòn, buôn gánh bán bưng vào buổi trưa tìm chỗ mát nghỉ ngơi, ngồi gác chân đọc nhựt trình, cảnh không thể có ở ngoài Bắc.

Sở dĩ có hiện tượng này bởi vì Miền Nam có truyền thống đọc sách báo của người bình dân mà ở ngoài Bắc không có, bởi Miền Nam đã là vùng đất của quốc ngữ và báo chí, tiểu thuyết, ngay từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khiến nền văn chương bình dân phát triển mạnh ở trong Nam, trong khi ngoài Bắc, sách vở, báo chí phần lớn chỉ dành cho người có học trung lưu.

Tới năm 1910 chánh phủ Đông Pháp mới áp dụng chữ Quốc Ngữ ở Bắc Kỳ.

Nhớ hồi năm 2009 dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội, nhà điêu khắc Phạm Văn Hạng muốn hiến tặng tượng cha A Lịch Sơn Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) cho Hà Nội.

Linh Mục Alexandre de Rhodes (1591 – 1666) là người có công lớn nhứt với chữ “Quốc Ngữ” Việt Nam ta.

Tuy nhiên sau đó ông Phạm Văn Hạng đã bị một số người lên án thất kinh. Trong khi Sài Gòn đã có đường Alexandre de Rhodes từ xưa rồi.

Hà Nội không thể chấp nhận một con đường mang tên Alexandre de Rhodes nhưng lại có đường Mạc Đăng Dung thì cũng đã thể hiện suy nghĩ Nam Bắc khác nhau rồi.

Đi sau Miền Nam nhưng vẫn thích ta đây là anh cả, vẫn thích bố đời.

Thí dụ nữa là, đường sắt Sài Gòn – Mỹ Tho có từ năm 1885 (ngưng chạy năm 1958). Dân Nam Kỳ kêu và đặt tên là “xe lửa” là từ chuẩn.

Xe vì nó chạy trên bộ, nhưng nó chạy bằng đường ray sắt và đầu máy hơi nước phun ra khói lửa nên kêu là xe lửa, trúng bài.

Sân bay Tân Sơn Nhứt xây ở Nam Kỳ đầu tiên, dân Nam Kỳ kêu sân bay là phi trường, phi cơ, phi công.

Không biết vì sao từ máy bay thành tàu bay, từ xe lửa thành tàu hỏa?

Bắc thời đó là xứ kém văn minh, bị bỏ quên, tới những năm 1900 vì toàn quyền Paul Doumer muốn lấy Hà Nội làm bàn đạp tấn công qua Vân Nam nên mới dời thủ đô từ Sài Gòn về Hà Nội và bắt đầu xây hạ tầng.

Nên nhớ thống đốc Nam Kỳ Charles Le Myre de Vilers và ông Paul Blanchy, Chủ tịch Hội đồng quản hạt Nam Kỳ đều chống đối chuyện đem ngân sách Nam Kỳ đầu tư ra Bắc.

Hà Nội toàn đi sau Nam Kỳ.

Nam Kỳ định hình, khái niệm xe lửa, dầu hôi, xe hơi, phi trường, phi cơ là của người Nam đặt ra đầu tiên.

Bắc đi sau nhưng rất khoái dạy đời, sửa chữ.

Sửa sạch sẽ, từ “nhựt” thành nhật, “bịnh” thành bệnh, “bổn” thành bản, “lộ” thành đường, “nhứt” thành nhất, “bịnh” thành “bệnh”, “dòng” thành “giòng”….

Cái gì mà tàu bay, tàu hỏa, cảng hàng không, dầu hỏa?

Và nay lại sửa chữ Quốc Ngữ theo âm Bắc, dám nói đọc kiểu Nam là sai? Bắc đứng ở chuẩn nào mà dám nói mình chuẩn nhứt?

Trong gần 100 năm dân Nam Kỳ chỉ biết có Paris mà không nhớ Huế chứ đừng nói tới Hà Nội.

Vua Nguyễn chỉ là một chút hoài niệm của người Nam Kỳ. Dân Nam Kỳ chỉ biết có Thống Đốc, quan chủ tỉnh, chủ quận, đốc phủ sứ, ông hội đồng.

Thành ra giai đoạn Quốc Gia VN, Quốc trưởng Bảo Đại đâu có ở Sài Gòn lâu, ông thích ở Đà Lạt nhiều hơn, ông thích ở bên Pháp, bên Cannes nhiều hơn VN.

Đến độ lúc bị ông Ngô Đình Diệm làm trưng cầu dân ý lật đổ mà Bảo Đại có mặt ở Sài Gòn đâu.

Quốc trưởng Bảo Đại dính với Nam Kỳ nhờ lấy bà Nam Phương hoàng hậu, nếu soi kỹ ông không có dấu ấn nào với đất Nam Kỳ Lục Tỉnh.

Quốc trưởng Bảo Đại không đủ uy tín để cầm đầu đất Nam Kỳ.

Sử dạy cho chúng ta trước nhứt là kinh nghiệm vì lịch sử không chỉ có quá khứ, sử nối liền quá khứ với hiện tại và tạo ra nền tảng tương lai.

Bạn nhìn quá khứ, cảm nhận hiện tại, hiểu hiện tại và hình dung ra tương lai, hết thảy nó đi theo một quy luật nhứt quán.

Lịch sử chánh trị Việt Nam xưa nay là lịch sử của biến động, chánh trị của binh đao, máu và nước mắt.

Nhứt là khi xuất hiện xứ Đàng Trong, xứ Nam Kỳ thì người Bắc hết còn vai trò “độc quyền” trong chánh trị nữa, sĩ phu Bắc Hà không thể khua môi múa mép nữa.

Nam, Bắc, ta có nhiều điều vui và buồn từ ngày đó.

Sài Gòn là đô thành, đẹp tuyệt vời, đẹp từ những cái tên đường.

Một nhạc sĩ đã viết rằng:

“Cùng nhau đi tới Saigon

Cùng nhau đi tới Saigon

Thủ đô yêu dấu nước Nam tự do

Dừng chân trên bến Cộng Hòa

Người Trung Nam Bắc một nhà

Về đây chung sống hát khúc hoan ca”

Xin ghi nhớ Trần Đại Định, Võ Tánh,Tả Quân Lê Văn Duyệt, Trương Tấn Bửu, Võ Di Nguy,Cha Cả Bá Đa Lộc, Lê Quang Định,Trịnh Hoài Đức, Tôn Thọ Tường, Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Hui Bon Hoa, Quách Đàm… đã ghi dấu ấn ở đất này.

Đất Miền Nam là đất dân chủ, tự do, biết vị nhân tâm, hễ ai theo luật chơi thì cứ ở lại.

Người Miền Nam không bao giờ nhìn họ hàng xa, cũng không bao giờ lấy số đông dòng họ ra “đè” người ta.

Người Miền Nam không quan trọng huyết thống kiểu “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”.

Ai cũng biết câu đặc tánh Miền Nam “Bán bà con xa mua láng giềng gần”. Đi đám hay đi ra dường tự dưng có người lạ hoắc xấn xổ nhào lại nhìn bà con xa thì người ta sẽ cảnh giác liền, muốn cái gì đây?

Miền Nam cũng như Huê Kỳ là một hợp chúng quốc tứ xứ, ai có khả năng, tôn trọng luật chơi, biết giữ đạo lý, biết giữ quyền lợi là cứ chơi.

Vũ Tài Lục nói rằng: “Không đọc sử không đủ tư cách nói chuyện chánh trị” nên chúng ta phải siêng tìm sử.

Và thêm một câu nữa xin góp là: “Hãy đọc sử với tư cách của người tử tế”.

Lịch sử dân tộc này khá phức tạp, Nam Bắc vốn đã từng là hai quốc gia riêng và cách suy nghĩ cũng có nhiều khác biệt.

“Tinh hoa” Bắc V gì mà “tụ lại”, “dồn vào” khi mà văn hóa, cách sống, hát xướng, cấu trúc xóm làng, cúng tế, lễ nghi Nam Bắc đều khác nhau.

Bà bóng và cách thức lên đồng Nam Bắc cũng khác nhau mà.

Nội ẩm thực, ăn uống cũng khác nhau nữa. Hãy nhớ, đoàn kết là sự tôn trọng, tử tế chứ không phải dạy đời và áp đặt.

Không bàn tới yêu hay ghét kiểu lý tính, không nói ý thức hệ, bỏ hết, cũng không làm “phản động” như người ta hay nói, cứ nhìn lịch sử thôi và so sánh, ai không dám nhìn là đã thua nặng.

Lịch sử rất công bằng, nếu cứ cố níu kéo, cứ phá, cứ làm nó nát bấy tất sẽ có sự trừng phạt, khi đó còn tàn khốc hơn trong thực tế.

Lịch sử đã cho người đọc sử thấy rõ ràng là xứ Bắc thời cuối nhà Lê trung hưng đã rất uể oải và không còn cái gì thì lấy đâu ra “tinh hoa” xuôi Nam. Khi mà Lê Chiêu Thống ôm Tàu về, khi mà một anh “sơn dã” người phía nam sông Gianh như Nguyễn Huệ vô Thăng Long, một anh buôn trầu như Nguyễn Nhạc nhìn vua tôi nhà Lê khinh khỉnh coi thường trước hình ảnh ông vua già tàn tạ Lê Hiển Tôn lê lết lấy hơi lên sắp chết.

Thiệt là dở khi cố đào mồ mả tìm cho ra huyết thống. Để làm gì? Mọi sự là con người thực tại, là đầu óc thực tại, nó không phải chỉ là quá khứ.

Không ai cạp quá khứ ra ăn hoài để no bụng.

Thế giới văn minh luôn xiển dương sự tôn trọng nhau, có tôn trọng mới hiểu biết được.

NGUYỄN GIA VIỆT

 Ghi chú: Nên đọc thêm ” Khẩn Hoang Miền Nam” của Sơn Nam để hiểu về đất phương Nam. (Phùng Văn Phụng)

Được xem 1 lần, bởi 1 Bạn Đọc trong ngày hôm nay