Cha Bắn Tài Xế Từng Cán Chết Con Gái Rồi Tự Sát, Nghi Án “Chìm Xuồng” Lộ Diện

Ba’o Dat viet

April 30, 2025

Một bi kịch đẫm máu vừa xảy ra sáng 28 Tháng Tư tại huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, khi ông Nguyễn Vĩnh Phúc, 43 tuổi, nổ súng bắn vào một tài xế vận tải – người từng liên quan đến cái chết của con gái ông – rồi tự kết liễu đời mình bên vệ đường.

Theo tường thuật từ báo Tuổi Trẻ, khoảng 7 giờ 30 phút sáng cùng ngày, ông Phúc mang theo một khẩu súng tự chế đến tiệm bán vật tư nông nghiệp Nga Bình, xã Vĩnh Xuân, huyện Trà Ôn. Tại đây, ông bất ngờ rút súng bắn vào người chủ tiệm là ông Nguyễn Văn Bảo Trung, 33 tuổi, quê ở Cầu Kè, Trà Vinh – người từng là tài xế trong vụ tai nạn giao thông khiến con gái ông Phúc tử vong vào năm ngoái.

Sau phát súng, ông Phúc chạy bộ khoảng 200 mét ra quốc lộ 54 rồi quay súng tự bắn vào đầu mình. Cả hai được đưa đi cấp cứu trong tình trạng nguy kịch tại Bệnh viện Đa Khoa Trung Ương Cần Thơ.

Được biết, ông Trung là người điều khiển xe tải trong vụ tai nạn giao thông xảy ra ngày 4 Tháng Chín, 2024, trên tỉnh lộ 901, khiến em Nguyễn Ngọc Bảo Trân, 14 tuổi, con gái ông Phúc, tử vong tại chỗ. Vụ tai nạn sau đó gây ra nhiều tranh cãi khi Công An Huyện Trà Ôn không khởi tố vụ án, với lý do lỗi thuộc về em Trân do “không giữ khoảng cách an toàn” và “không chú ý quan sát.”

Tuy nhiên, kết luận này ngay lập tức vấp phải phản ứng từ Viện Kiểm Sát và Tòa Án Tỉnh Vĩnh Long. Hai cơ quan này khẳng định lỗi chính thuộc về tài xế Nguyễn Văn Bảo Trung do “vượt xe không bảo đảm an toàn,” trong khi em Trân chỉ vi phạm hành chính.

Dư luận địa phương khi đó sôi sục với nghi vấn có “bàn tay che chắn,” khi tin đồn lan truyền rằng tài xế Trung là cháu của một lãnh đạo cấp cao Công An Huyện Trà Ôn. Trên mạng xã hội xuất hiện nhiều bài viết cáo buộc công an địa phương “đánh tráo khái niệm” để không khởi tố vụ án, đẩy phần lỗi hoàn toàn về phía nạn nhân.

Vụ án từ đó rơi vào im lặng. Cho đến sáng 28 Tháng Tư, người cha của nạn nhân tự tay “lật lại hồ sơ” bằng một hành động tuyệt vọng và bạo liệt.

Ông Phúc – người dân xã Trà Côn, được nhiều người địa phương mô tả là “ít nói nhưng thương con vô cùng” – đã im lặng suốt nhiều tháng, lặng lẽ sống cùng nỗi uất nghẹn vì cái chết của con gái không được làm rõ minh bạch.

Sự việc nay không chỉ là một vụ án hình sự liên quan đến súng đạn, mà còn là tiếng chuông cảnh báo về niềm tin đang mai một trong hệ thống tư pháp cấp cơ sở.

Một người cha mất con, một kẻ gây tai nạn không bị khởi tố, và một hệ thống điều tra – tố tụng bị nghi ngờ “nương tay” vì quan hệ cá nhân – tất cả đan xen trong một câu chuyện mà công lý vẫn chưa có lời đáp.


 

Tuẫn Tiết- Đinh Khắc Nam

Đinh Khắc Nam

 Tuẫn Tiết.

Trước đó, như một hành động nhận lãnh trách nhiệm của mình, ngày 29-41975, Tư lệnh Quân đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, người đảm trách cuộc triệt thoái thất bại khỏi ba tỉnh Cao Nguyên, đã tự tử bằng một liều thuốc độc; gia đình đã đưa vào bệnh viện Grall, nhưng đến trưa 30-4-1975, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, thì tắt thở.

Chiều 30-4-1975, tại căn cứ Đồng Tâm, Chuẩn tướng Trần Văn Hai, tư lệnh Sư đoàn 7 tự tử bằng thuốc độc. Tướng Lê Văn Hưng về phòng nói lời từ biệt với thuộc cấp và vợ con. Tám giờ 45 phút, từ dưới nhà, vợ ông, bà Phạm Thị Kim Hoàng, nghe tiếng súng, chạy lên. Khi cùng người nhà cạy cửa phòng, bà Hoàng thấy Tướng Hưng đã chết với một phát súng tự bắn vào đầu. Mười một giờ đêm hôm đó, Tướng Nguyễn Khoa Nam gọi điện thoại cho bà Hoàng chia buồn. Sáng hôm sau, khoảng 7 giờ 30 phút ngày 1-5-1975, Tư lệnh Quân đoàn IV, Quân đoàn cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa, Tướng Nguyễn Khoa Nam tự sát.

Cũng trưa 30-4, tại Lai Khê, Tướng Lê Nguyên Vỹ tự sát tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 sau khi cho binh lính rã ngũ. Vào lúc 2 giờ chiều ngày 30-04-1975, Ðại tá Đặng Sĩ Vinh cùng gia đình gồm vợ và bảy người con đã tự tử bằng súng lục.

Nhưng đấy vẫn chưa phải là những phát súng cuối cùng của cuộc chiến tranh. Nhiều quân nhân vô danh vẫn tìm đến cái chết trong những ngày sau đó.


30 THÁNG 4

Xuyên Sơn

 30 THÁNG 4

Xin các bạn nói chuyện với tôi đừng bao giờ nhắc đến từ ăn mừng ngày giải phóng 30 tháng 4 nhe, nếu các bạn còn coi tôi là bạn, bởi với tôi đó là một tháng 4 đen vì giải phóng vô đây có vạn người vui nhưng có triệu người buồn !

Hình 1:

Thiếu tá Đặng Sĩ Vinh vị sĩ quan QLVNCH đã tuẫn tiết cùng với vợ con khi hay quân CSBV đã tiến chiếm Saigon, ông thà chết vinh hơn sống nhục

Hình 2:

Trung tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long tự sát trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến tại Saigon trong ngày 30 tháng 4 !

Ông chấp nhận cái chết chớ không muốn rơi vào tay giặc thù !

Anh Hùng Tử Khí Hùng Bất Tử

Mẹ Việt Nam Ơi,

Con Xin Tạ Lỗi Dưới Chân Người .!

Nguồn: fb Si Ngo


 

Bắt thẩm phán, gây khủng hoảng du học sinh: Chính quyền Trump bị tố “lạm quyền trắng trợn”

Ba’o Dat Viet

April 27, 2025

MILWAUKEE – Một thẩm phán liên bang bị bắt ngay giữa nhiệm sở. Hàng ngàn du học sinh lao đao, bị đẩy đến bờ vực trục xuất. Ngày 25 Tháng Tư, hai sự kiện chấn động đã phơi bày tình trạng rối loạn và lạm quyền ngày càng trắng trợn của chính quyền Donald Trump trong cuộc chiến di trú đầy tranh cãi.

Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) đã còng tay thẩm phán Hannah Dugan, hạt Milwaukee (bang Wisconsin), với cáo buộc trợ giúp người nhập cư bất hợp pháp trốn tránh truy bắt. Giám đốc FBI Kash Patel xác nhận trên mạng xã hội X rằng bà Dugan bị truy tố vì “cản trở thi hành công vụ” – một cáo buộc đang bị giới luật gia lẫn các chính trị gia chỉ trích là nhằm mục tiêu chính trị.

Tại phiên tòa cùng ngày, bà Dugan chọn im lặng, để luật sư của mình, Craig Mastantuono, lên tiếng phản đối vụ bắt giữ mà ông gọi thẳng là “hành động phi lý, đe dọa nền pháp quyền.”

Thống đốc bang Wisconsin, ông Tony Evers, cũng không giấu được sự phẫn nộ khi tuyên bố việc còng tay một thẩm phán là “cú đòn đánh vào năng lực hành pháp và nền dân chủ Mỹ.” Vụ việc diễn ra giữa lúc nhiều thẩm phán liên bang và tiểu bang đang mạnh mẽ chống lại các sắc lệnh di trú hà khắc của ông Trump.

Chưa dừng lại ở đó, cùng ngày, Bộ An ninh Nội địa Mỹ phải chấp nhận khôi phục trạng thái cư trú hợp pháp cho hàng trăm du học sinh – sau ba tuần gây ra hỗn loạn chưa từng thấy bằng cách xóa hồ sơ cư trú trên hệ thống SEVIS.

Ít nhất 1.800 du học sinh và 280 trường đại học bị cuốn vào cơn bão nhập cư. Hàng loạt sinh viên mất việc, buộc phải rời khỏi Mỹ, hoặc kéo nhau ra tòa. Theo thống kê, hơn 100 đơn kiện đã được các tòa án trên toàn quốc thụ lý, khiến chính quyền Trump phải đối mặt với áp lực pháp lý ngày càng lớn.

Dưới áp lực trong và ngoài nước, giới quan sát nhận định rằng việc bắt thẩm phán và truy lùng du học sinh chỉ càng bộc lộ một chính quyền ngày càng đơn độc, đang sử dụng luật pháp như vũ khí chính trị, bất chấp mọi nguyên tắc pháp quyền căn bản mà nước Mỹ từng tự hào.


 

VẪN CÒN NƯỚC MẮT –  DODUYNGOC

THÁNG TƯ. MỘT BÀI VIẾT CŨ

VẪN CÒN NƯỚC MẮT –  DODUYNGOC

Tháng tư. Khi cái nóng miền Nam lên đến đỉnh điểm và cờ đỏ giăng đầy lối phố, là đến ngày kỷ niệm. Ngày mà cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt cho rằng: Triệu người vui cũng có triệu người buồn.

Người bên thắng trận có triệu người vui, nhưng thật ra trong niềm vui cũng có chất chứa sâu kín nỗi buồn. Hàng ngàn thanh niên miền Bắc sinh Bắc tử Nam, đã đi và không về cho một chiến thắng cuối cùng. Họ nằm lại và cho đến giờ, cuộc chiến tranh chấm dứt đã 43 năm, gần nửa thế kỷ qua rồi, thịt  xương của họ đã thành cát bụi, đã hoà lẫn với đất cát, tro than, cây cỏ. Người thân của họ vẫn trông chờ, tìm kiếm trong vô vọng. Những bà mẹ miền Bắc chiều chiều vẫn ngóng về Nam, thắp nén nhang gọi hồn con về. Cắm nén nhang lên bàn thờ nhiều khi chỉ là khung ảnh trống không có hình, nhiều khi chỉ ghi một cái tên, cũng có khi là chân dung của một người rất trẻ. Họ ra đi trong chiến tranh và không trở về trong ngày hoà bình, thân xác của họ được vùi vội vàng đâu đó và bây giờ không còn dấu tích. Bạn bè, đồng đội trở về nhưng họ không về. Có người cho đến giờ vẫn chưa được công nhận là liệt sĩ. Và hàng ngày những bà mẹ già buồn bã vẫn đợi tin con. Ngày lễ chiến thắng nhiều người vui nhưng mẹ lại buồn dù con mẹ là người lính của đoàn quân thắng trận.

Một người không về là nỗi đau không riêng người mẹ, nó là nỗi xót xa, khổ đau của cha, của anh em và còn là nỗi đau của người vợ mất chổng, những đứa con lớn lên không biết mặt cha. Chiến tranh đi qua như một con lốc dữ, để lại những nỗi đau không lấp được.

Hàng dãy mộ bia trùng trùng điệp điệp ở Trường Son, ở các nghĩa trang liệt sĩ, nhiều đến không còn nước mắt để khóc thương.

Người ta có thể tung hô, hùng hồn đọc diễn văn, vui chơi với ngày chiến thắng. Nhưng những bà mẹ, người cha, người vợ làm sao vui khi vẫn chưa tìm thấy hài cốt người thân của mình, hay chỉ thấy con, cháu mình chỉ còn là nấm mồ hiu quạnh.

Theo thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam, trong tất cả các cuộc chiến tranh kể từ sau năm 1945 (bao gồm Chiến tranh Đông Dương, Chiến tranh Việt Nam, Chiến tranh biên giới Tây Nam, Chiến tranh biên giới Việt-Trung và một số chiến dịch chống thổ phỉ và FULRO), cả Việt Nam có trên 1.140.000 liệt sĩ. Theo tài liệu thống kê của cổng thông tin điện tử ngành chính sách quân đội – Cục chính sách – Tổng cục Chính trị – Bộ Quốc phòng thì đến năm 2012, toàn quốc có 1.146.250 liệt sĩ và khoảng 600.000 thương binh, trong đó có 849.018 liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ.(Wikipedia)

Bên thua cuộc là hàng triệu người buồn. Họ bị mất nhiều thứ: công việc, nhà cửa, tương lai không biết về đâu? Là chia ly, là ly tán, là những bất hạnh dồn dập.

Họ cũng có những người thân cầm súng chết trong cuộc chiến. Và cũng có rất nhiều người không về. Trong cơn hoảng loạn của tháng ba, cả tiểu đoàn Thuỷ quân lục chiến bị kẹt lại ở biển Thuận An, pháo dội, súng nổ, nhiều người đã chết và vùi thây trong hố chôn tập thể. Trên con đường từ Phú Bổn về trong những ngày cuối tháng tư, bao nhiêu xác người đã nằm lại bên đường, họ nằm đó và cát bụi thời gian phủ thây họ, gia đình bặt tin và lấy ngày đó làm ngày giỗ. Những ngày cuối của cuộc chiến, xác người vẫn ngã xuống và nhiều người bây giờ cũng không tìm thấy xương cốt mộ bia. Rồi khi lá cờ của bên chiến thắng tung bay trên những thành phố, hàng trăm ngàn người vào trại cải tạo, và hàng ngàn người cũng không trở về, họ chết và thân xác được chôn vội vàng giữa vùng đồi núi xa lạ hoang vu. Người thân của họ đi tìm mà mấy người tìm gặp.

Con số 220.357 binh sĩ VNCH tử trận được Lewy dẫn từ tài liệu lưu trữ của Bộ quốc phòng Mỹ, tính từ năm 1965 đến năm 1974. Cộng thêm con số tử trận trong giai đoạn 1974-1975 và trước đó cho ra ước tính khoảng 300.000 tử trận. Nhà sử học R.J. Rummel đưa ra con số ước tính cao nhất có thể lên tới 313.000 tử trận.

Theo thống kê chi tiết của Jeffrey J. Clarke thì tính từ năm 1960 tới 1974, Quân lực Việt Nam Cộng hòa có 254.256 lính tử trận. Cộng thêm con số tử trận trong các năm 1956-1959 và năm 1975 thì số lính Việt Nam Cộng hòa tử trận ước tính là khoảng 310.000 người.

Sau năm 1975 ở miền Nam có hơn 1.000.000 người thuộc diện phải ra trình diện. Riêng ở Sài Gòn có 443.360 người ra trình diện, trong số đó có 28 viên tướng, 362 đại tá, 1.806 trung tá, 3.978 thiếu tá, 39.304 sĩ quan cấp uý, 35.564 cảnh sát, 1.932 nhân viên tình báo, 1.469 viên chức cao cấp trong chính quyền, và 9.306 người trong các “đảng phái phản động”.

Hàng trăm ngàn người đi về phía biển, hàng triệu người bất chấp hiểm nguy đi ra biển và hàng trăm ngàn người chôn vùi thân xác dưới đáy đại dương. Hàng trăm, hàng ngàn người đàn bà bị hãm hiếp trên con đường đi về phía biển ấy, có người bị chết xác quăng xuống biển, cũng có người đi được đến nơi và sống đến bây giờ, nhưng dấu tích của vết thương theo suốt đời họ, không xoá được. Có hàng trăm, hàng ngàn cô gái bị bắt đi và mấy chục năm rồi không tin tức, có thể họ chết lần mòn trong những căn nhà chứa ở Thái Lan. Theo thống kê của cơ quan Tị nạn Liên Hiệp quốc thì có khoảng 500.000 người vượt biên đã bỏ xác ở biển Đông. Thế giới cho rằng đó là cuộc di dân tồi tệ nhất của lịch sử.

Nỗi đau tức tưởi đó làm sao quên, nên tháng tư đối với họ là tháng nước mắt.

Như thế, trong ngày chiến thắng của bên thắng cuộc, cả hai phía vẫn còn những nỗi đau khó xoá. Cả hai phía đều vẫn còn nước mắt. Nước mắt khóc cho một dân tộc bất hạnh có cuộc chiến tranh dài nhất của thế kỷ hai mươi. Một cuộc chiến tranh giữa anh em mà đã 43 năm rồi vẫn chưa hàn gắn được. Thời gian đã trôi qua, cuộc chiến tranh đã lùi xa, nhưng VẪN CÒN NƯỚC MẮT.

15.4.2018

DODUYNGOC


 

Chuyến Vượt Biển Kinh Hoàng – (Sài Gòn trong tôi – Hoàng Định)

Sài Gòn trong tôi

Chuyến Vượt Biển Kinh Hoàng

– Đoàn người chúng tôi vượt biển bằng chiếc ghe với chiều dài khoảng 10 thước, ngang 2 thước, kéo bằng chiếc máy đầu tám ngựa khỏi Bãi Giá, Đại Ngãi, Hậu Giang, Sóc Trăng chở 78 con người đủ lứa tuổi, riêng trẻ em khoảng 20 cả trai lẫn gái, hầu hết thuộc về làng ven biển, mà tôi chỉ biết một số người.

Chúng tôi rời quê hương tháng 2 năm 1990, thời tiết êm dịu, mọi việc kể như trót lọt, nhưng đồ ăn nước uống rất thiếu thốn, vì thế sau bảy ngày chịu đựng một em bé sáu tuổi khóc mãi và chết trong tư thế đang khóc, mọi người lấy ván có sẵn trong ghe làm tạm chiếc hòm với hy vọng ngày mai mang lên bờ chôn cất,

Tối đó có rất nhiều người nằm mơ nhiều chi tiết liên quan đến cái chết của cháu bé, riêng tôi thấy rất nhiều trẻ em kêu khóc, níu kéo ghe chìm xuống, thế là mọi người đều đồng ý cúng vái với một ít mì gói vụn và thả hòm xuống biển, mấy đêm sau đó mọi người không còn những giấc mơ kinh hoàng nữa.

Vài giờ sau chiếc ghe máy bị hỏng không ai sửa chữa được, thế là thuyền lênh đênh trên biển thêm bảy ngày đêm, đói thì ăn cả kem đánh răng, khát thì uống nước biển hoặc nước tiểu, cứ tối đến thì thỉnh thoảng đốt lửa kêu cứu bằng quần áo tẩm dầu. (SGtt-HĐ)

Một đêm, khoảng 2 giờ 30 sáng, trong lúc người ta đốt lửa làm hiệu thì nhận ra một chiếc tàu chạy đến và dừng lại trao cho chúng tôi chuối, nước, rồi tự động cột dây kéo đi. Người trên chiếc tàu đó không biết là người nước nào. Chúng tôi rất mừng vì được cứu. Khoảng mười phút sau đó, tàu dừng lại song song với ghe và ra dấu chỉ vào tai, vào ngón tay, cổ tay chúng tôi, mấy tiếng giọng lơ lớ “US đô la”.

Vì quá vui mừng nên chủ ghe Năm Be vội lấy mũ nỉ gom góp nữ trang của những người trên ghe, họ đứng nhìn và thấy nữ trang được bỏ đầy vào chiếc mũ thì nhẩy qua ôm chiếc mũ sang tàu họ. Một người có vẻ là chủ tàu ra dấu như không đủ vào đâu nên ra dấu bảo đưa thêm hoặc chính họ sang để lục soát. Rồi họ tự động cột giây từ bánh lái đến mũi ghe và cột vào tàu họ.

Tôi và một số thanh niên khác cảm thấy lo sợ và nghi ngờ hành động này thì tức thời họ ra dấu chỉ đám đàn ông đu dây xuống nước dọc thành ghe. Tôi và mọi người cùng biết đây là bọn hải tặc đang tìm cách hãm hại những người trên ghe, đang do dự không tuân lệnh nhưng chủ ghe Năm Be lại giải thích vì của cải chúng tôi nộp cho họ quá ít ỏi không đủ cho chuyến đánh cá của họ. Và vì họ ít người nên ngại chúng tôi đông người đó thôi. (SGtt-HĐ)

Thấy chúng tôi vẫn đứng yên, Năm Be vung tay nói; “Đ.M! có thằng nào chịu nổi cú đấm của tao không mà bày đặt chống cự?”, thế là chúng tôi hậm hực đu xuống, bọn họ chỉ tay ra dấu cho Năm Be đu xuống luôn. Cả đám đàn ông thanh niên đu dây trong biển dọc thành ghe mà nhìn họ.

Trời lờ mờ sáng và với đốm lửa cấp cứu mà chúng tôi đã đốt lên, nhận ra bọn họ khoảng năm tên, tay xách búa chặt cây bước sang lục soát những phụ nữ, trẻ em trên ghe, sau dó tên lái táu lái ghe chạy làm lệch ghe.

Đàn ông thanh niên dưới nước ôm chặt dây sát vào ghe, cố ngoi đầu lên thở còn thân mình và đôi chân trôi trong nước theo tốc độ của ghe bị kéo. Chúng tôi còn đang kinh hoảng thì những chiếc búa vun vút chém vào đầu, vào mình đám đàn ông thanh niên đang đu dây.

Cảnh tượng thật kinh hoảng, những tiếng la ó từ trên ghe của phụ nữ, trẻ con, những tiếng hét đau đớn, thảm thiết vang lên chỉ một lần để rồi tắt lịm của những nhát búa trúng đích vào đầu, tiếng la thất thanh của những ai bị bọn hải tặc man rợ chém trúng tay, cổ, vai hoặc lưng.

Tôi kinh hãi buông tay lúc nào không hay và lặn ngầm qua bên kia của ghe. Tên lái tầu rọi đèn pha đảo qua đảo lại để nhìn cho rõ ràng mà chém, chợt nhận ra tôi, một tên trong bọn lấy mỏ neo liệng theo nhưng may không trúng, thế là tôi lặn tiếp một hơi. (SGtt-HĐ)

Rời xa ghe một khoảng, tôi nhìn lên ghe, đèn sáng choang từ dưới mặt nước nhìn rất rõ, tôi thấy rõ bọn ác thú man rợ tách một đứa bé ra khỏi tay một bà nào đó rồi liệng đứa bé tội nghiệp xuống biển. Tôi tiếp tục bơi xa và nhìn thấy tàu của bọn ác thú hải tặc đã húc cho chiếc ghe của những người tỵ nạn khốn khổ chìm hẳn.

Tôi quá kinh hãi không biết chuyện gì đã xảy ra sau đó nữa ! Mãi sau này khi qua đến trại Sikew và qua những lời kể lại của một bé gái 13 tuổi, tôi mới biết là những trẻ em quá nhỏ thì bị bọn ác thú hải tặc Thái Lan quăng xuống biển, còn bé gái đang lớn và tất cả phụ nữ thì bọn chúng bắt lên tàu bọn chúng và ngày đêm thay nhau hãm hiếp những nạn nhân nữ đáng thương. (Sài Gòn trong tôi)

Tôi vẫn tiếp tục bơi mà chẳng biết đi về đâu, mãi gần sáng gặp được tài công Thời (còn gọi là Chệt Lác) lưng bị chém một nhát búa, và ông Hùng bị một nhát búa ngang mang tai máu me còn rỉ ra.

Cả hai đang ôm một thùng nhựa đựng dầu 20 lít làm phao, tôi mệt quá ghé tay vịn vào nhưng cả hai năn nỉ tôi rời xa đi vì thùng dầu quá bé không đủ sức nổi cho ba người. Tôi thông cảm với họ và chợt nhớ ra vết thương của hai người máu đang rỉ ra và như vậy rất dễ làm mồi cho bọn cá mập hung ác.

Thế là tôi bơi đi và chợt nảy ra sáng kiến cởi chiếc quần dài thắt ống, lộn ngược làm phao, tôi dựa cổ vào đáy quần và cứ thế một vài giờ lập lại cách làm như vậy cho đến khoảng gần giữa ngọ ngày hôm sau. Nhìn xa xa thấy một vật mầu đen đen nhấp nhô, thế là tôi cố gắng lội đến và rất may vớ được thùng dầu từ chiêc ghe của chúng tôi.

Tôi vội ôm ngay vào ngực và thấy sung sướng lạ thường như vừa trút được một khối nặng nề mệt mỏi ra khỏi con người vậy. Nhìn quanh thấy kẻ ôm thùng, người bơi, người ôm ván, không biết ai là ai nhưng nhẩm đếm những điểm di động có vào khoảng 30 người. Tôi rất mừng vì còn được nhiều người sống sót, hoạt cảnh xẩy ra như thể chúng tôi đang chia từng nhóm bơi lội vậy. (SGtt-HĐ)

Có khá nhiều tàu đánh cá khoảng hơn mười chiếc không biết của nước nào đi ngang, nhưng họ tỉnh bơ nhìn chúng tôi như đang tắm biển vậy, có thể nói từng chiếc tàu đó nghe thấy tiếng kêu cứu não nề tuyệt vọng của chúng tôi trên mặt biển đều khoác tay từ chối.

(Khi đến trại chúng tôi được biết nếu họ cứu thì sẽ phiền đến họ vì phải khai báo, chụp hình chung với nhau theo luật Cao Ủy Tị Nạn để điều tra, và nhất là họ sợ bọn hải tặc nhận ra sẽ trả thù)

Chúng tôi cứ lênh đênh ngày đêm trên biển đến ngày thứ ba đã thấy lờ đờ vài ba xác chết và nhiều người bất động còn ôm thùng, ván, có một cái xác ngay sát gần bên tôi. Đến trưa, chợt một tàu đánh cá chạy lại gần lại một cặp vợ chồng.

Họ vớt vội người đàn bà, đó là chị Lên đang lả người bám vào ván, anh Vũ vội bám vào thành tàu để họ vớt lên thì bọn họ gỡ tay đẩy xô ra, nhìn xuống trông thấy tôi chị Liên vội la lên; “Hoàng ơi, giúp anh Vũ với !”.

Tôi chẳng giúp được gì, tôi cũng như anh ấy lều bều trên mặt nước, anh Vũ chỉ biết nhìn theo vợ, thẫn thờ như một cái xác không hồn.

Chiều đến sóng bắt đầu lớn, cha con ông Ba Vạn và cháu Hồng ôm thùng dầu bị dập vùi trong cơn biển động trông quá kiệt sức, đột ngột ông Ba Vạn thốt lên “Hồng ơi! Tao bỏ mày!”, thế là ông buông tay mất tăm.

Lúc này, chẳng mấy ai còn ai để ý đến ai nữa, tôi cũng như mọi người đều mê sảng, hoa mắt, có người thốt lên thấy cồn cát trước mặt, có kẻ thấy hàng dừa xanh mướt, kẻ thì thấy núi xanh thăm thẳm, người thấy cồn đất, còn tôi thì thấy bờ dừa và người đàn bà ngoắc tay như bảo tôi bơi vào, tôi bơi theo hướng tôi thấy, mạnh ai nấy lội theo hướng riêng. (SGtt-HĐ)

Tôi bơi rất lâu mà chẳng thấy đến gần, rồi người đàn bà hiện ra bảo tôi bỏ thùng mà bơi cho nhanh, tôi buông ra và ra sức bơi bằng tay, được vài phút cũng vẫn chẳng thấy bờ dừa đâu.

Chợt ôi như bừng tỉnh và cầu nguyện thì thấy cát biển, cây dưới nước, tôi đứng xuống rồi người tôi chìm hẳn và mê sảng, thấy như người nào cho ăn, tự nhiên tỉnh táo, mở mắt nhìn lại thấy mình đang chìm dần nên tôi hoảng hồn lội lên, một hồi mới nổi khỏi mặt nước.

Nhìn chung quanh toàn biển là biển, thì ra tôi đang mê man hoang tưởng, và kỳ lạ là không cảm đói khát chi, đêm hôm đó trải qua một đêm quả là kinh hãi.

Đến sáng tôi gặp được ba người lớn và ba trẻ em còn lại trên biển gồm người cha có đứa con sáu tuổi bị tách rời mẹ quăng xuống biển và vợ thì chúng bắt hãm hiếp, đứa bé chín tuổi con của anh ta, cô bé 13 tuổi có mẹ bị chúng bắt sang tàu hãm hiếp và hai người em nhỏ bị tách ra liệng xuống biển, cháu Hồng con ông Ba Vạn bị sóng dập kiệt sức buông tay, Từ Minh Tường, Thời (Chệt Lác).

Qua 5 ngày 4 đêm trên biển chúng tôi gặp một tầu sắt và một tầu đánh cá, họ dừng lại, chúng tôi cũng chẳng màng đến vì hàng trăm chiếc cũng đã qua đi như vậy. Thế nhưng họ đang vớt chúng tôi, tuy có muộn màng vì quá nhiều người kiệt lực trên biển, nhưng vẫn còn sống sót bảy người lớn nhỏ, tôi nhìn đồng hồ tay là 6 giờ 58 chiều. (SGtt-HĐ)

Nhìn họ nước da ngăm đen, quấn xà rông tôi không đoàn được họ là người nước nào, họ đang loay hoay nấu cháo cho chúng tôi ăn, uống từng chút như họ đã có kinh nghiệm cho những người vượt biển đói khát này rồi.

Họ chở chúng tôi và tiếp tục đi đánh cá, hơn một giờ sau đánh bắt được một con cá mập họ đem bỏ xuống hầm tàu, nó quậy ầm ầm, họ chỉ tay xuống hầm rồi chỉ chúng tôi như muốn nói sẽ bị cá ăn thịt nếu tụi tôi còn lêu bêu trên nước.

Tầu chở chúng tôi vào bờ khoảng 5 giờ sáng, họ ra dấu sẽ có cảnh sát tới giúp nhưng đừng nói số tàu của họ cứu, rồi họ vội quay tầu ra khơi (Sau này tôi mới biết vùng biển đó thuộc Mã Lai Á cạnh Thái Lan)

Khoảng nửa giờ sau, có cảnh sát đến, chúng tôi vẫn chưa rõ là người nước nào, một cảnh sát biết tiếng Việt chỉ vào một chiếc xe pick up truck và bảo chúng tôi “Lên xe đi” (Sài Gòn trong tôi).

Trên đướng đi họ hỏi chúng tôi có biết cô gái nào tên N. 13 tuổi không? Một anh nhận là cháu vợ, thế là họ trở về trạm cảnh sát và anh đã gặp được cô cháu gái thân xác ốm yếu, và nhất là đôi chân bước đi hai hàng trông đau đớn lắm. Gặp lại chúng tôi, cháu khóc nức nở kèm theo nỗi kinh hoàng ghê gớm trên khuôn mặt, chúng tôi cùng im lặng trong nỗi đau đớn chung.

Một chập sau đó cháu kể lại đã bị nhốt trên tầu 3 ngày đêm và bọn hải tặc liệng hết quần áo em mà đè ra thay nhau hãm hiếp, cháu khóc la hét đau đớn mà bọn chúng thì cứ hết đứa nọ đến đứa kia cho đến khi cháu không còn biết gì thì chúng xách liệng xuống biển cháu mới bừng tỉnh dậy.

Cũng may mắn là chỉ vài phút sau đó được tàu cảnh sát vớt. Anh ta hỏi thăm về vợ mình (là dì của cháu N), cháu cho biết là vẫn còn sống nhưng dì la hét suốt ngày đêm vì bọn họ hãm hiếp dì nhiều quá! thế là trong số 78 người ra đi, chỉ còn lại 8 người sống sót.

Sáng hôm sau một số người trong Cao Ủy Tị Nạn đến chích ngừa, chăm sóc cho bé N…Còn 7 người chúng tôi thì hình dáng gần như nhau, ai cũng lở loét khắp mình và mặt mũi, da sưng từng mảng, được thoa và uống thuốc trị liệu.

Tám người chúng tôi ở đó ba tháng rồi được làm hồ sơ đi trại Sikhew, 30 ngày sau được thanh lọc và tất cả chúng tôi được chấp thuận đi diện nhân đạo. Ở lại trại thêm 6 tháng nữa, riêng tôi định cư tại Hoa Kỳ theo diện đoàn tụ anh chị em ngày 20 tháng 10 năm 1992.

Mong rằng những câu chuyện đau thương này sẽ tạo khối đoàn kết mạnh hơn trong cộng đồng người Việt hải ngoại khắp thế giới. (Sài Gòn trong tôi – Hoàng Định)


 

HÃY DỠ BỎ NHỮNG CÁNH CỔNG TRONG ĐẦU CÁC THẾ HỆ

Luân Lê

Những đứa trẻ ở ngôi trường mầm non này làm sao hiểu được những gì chúng làm và càng không thể có đủ năng lực cảm nhận mọi giá trị hay ý nghĩa của những gì chúng (phải) làm – những thể nhân chưa có năng lực hành vi dân sự theo luật pháp. Chúng chỉ diễn tập lại, và tái hiện cảnh tượng của chiến tranh trên chiếc xe tăng 50 năm trước theo hướng dẫn của những người là giáo viên (và cả cha mẹ) của chúng.

Nếu ông TBT đã nói việc hoà hợp hoà giải là vấn đề quan trọng nhất hiện nay để tạo nên một dân tộc Việt Nam thống nhất – là một, thì người ta phải ngay lập tức cần hành động với một nguyên tắc cốt lõi, rằng chính những người ở hiện tại phải xây dựng một thực tại với hoà bình và tôn trọng, cũng như ông nói – không thể giữ mãi lòng hận thù mà cần xem lịch sử là các bài học.

Thử hỏi, những đứa trẻ hò reo lao vào húc đổ cánh cổng ấy học được gì, khi bản thân chúng còn không hiểu bất cứ điều gì về những gì mình làm?

Những đứa trẻ không có lỗi, nhưng những diễn cảnh được thực hành được tạo bởi những người có trách nhiệm nhận thức rõ ràng về lịch sử và giá trị các bài học của nó – nếu ở đó người ta tin rằng nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, hẳn sẽ không để cho thế hệ tiếp theo lớn lên húc đổ cánh cổng nào nữa, thay vào đó chúng sẽ xây nên những sự vĩ đại trên những mảnh đất rộng lớn hơn hay xa xôi hơn nhiều.

Hãy chắp những đôi cánh cho những đứa trẻ bay đi những chân trời mới, không phải là gắng mọi cách chỉ để buộc chặt chúng vào những cánh cổng của thương đau, vốn đã đổ sập. Người ta không thể bay lên nếu tiếp tục ghìm nhau bằng gánh nặng và tính uy nghi chết lặng của quá khứ. Muốn vậy, hãy dẹp bỏ mọi rào chắn trong trí óc của những thế hệ mà họ đang đứng trong vai trò và đảm nhận việc giáo dục của hiện tại – tương lai của những đứa trẻ phụ thuộc vào việc đứng cách xa bao nhiêu trong một thái độ khiêm nhường và bao dung trước lịch sử.


 

Mẹ đơn thân năm con bị cấm xuất cảnh vì “phản đối diễn binh”

Ba’o Dat Viet

April 27, 2025

HÀ NỘI – Một văn bản được dư luận viên Cộng Sản Việt Nam tung ra trên mạng hôm 26 Tháng Tư cho thấy, bà Hoàng Thị Hồng Thái, 45 tuổi, chủ tài khoản Facebook Hong Thai Hoang với gần 80,000 người theo dõi, vừa bị Công An Hà Nội áp lệnh cấm xuất cảnh với lý do “phục vụ điều tra tin báo về tội phạm.”

Bà Thái, quê Hưng Yên, nổi bật gần đây nhờ những phát ngôn thẳng thắn trên mạng xã hội. Bà viết: “Tôi phản đối việc tổ chức diễn binh tiêu tốn hàng ngàn tỷ tiền thuế của dân. Thay vì phô trương, hãy xây bệnh viện, trường học cho vùng cao.” Không dừng lại ở đó, bà cũng tuyên bố coi ngày 30 Tháng Tư là “ngày đau thương của dân tộc,” chứ không phải là dịp để tự hào hay hân hoan.

Những dòng chia sẻ này lập tức trở thành cái gai trong mắt bộ máy dư luận viên. Chúng nhanh chóng gạch chéo hình ảnh thông điệp của bà, bêu riếu bà là “kẻ vô ơn,” thậm chí mỉa mai rằng bà chỉ nổi tiếng nhờ “diễn sâu quá mức cho phép,” chứ chẳng có đóng góp gì cho xã hội.

Không chỉ phản đối diễn binh, bà Thái còn chia sẻ những video lay động lòng người, như cảnh một người cha nghèo nuôi ba đứa con sau cái chết của vợ vì tự tử. Dưới đoạn video ấy, bà bình luận: “Có ở đâu mà đứa trẻ không có nổi miếng cơm ăn như thế này? Sao không dùng tiền diễn binh để lo cho các em?”

Sau những phát ngôn và hành động trên, Công An Hà Nội ra tay. Lệnh cấm xuất cảnh giáng xuống trong lúc bà đang gồng gánh nuôi năm đứa con nhỏ, đứa út mới sáu tuổi và mắc chứng tự kỷ. Theo những chia sẻ trước đó trên Facebook cá nhân, bà Thái khẳng định mình tự tay nuôi con bằng mồ hôi công sức, “chưa một lần được hưởng dịch vụ miễn phí,” và thậm chí còn bị tước quyền được bảo vệ bởi chính hệ thống pháp luật mà đáng ra phải bảo vệ công dân.

Bà từng tâm sự: nếu chọn im lặng, có lẽ các con bà sẽ có cuộc sống đầy đủ vật chất hơn, “nhưng chúng sẽ lớn lên như những con chim trong lồng, không bao giờ thoát khỏi tư duy nô lệ.”

Trong bối cảnh nhà cầm quyền Việt Nam gia tăng kiểm soát mạng xã hội và đàn áp những tiếng nói đối lập, câu chuyện của bà Hoàng Thị Hồng Thái không chỉ là nỗi buồn cá nhân, mà còn là tấm gương phản chiếu một xã hội mà tự do ngôn luận đang ngày càng bị bóp nghẹt.


 

Chị và cháu tôi đã ra đi mãi mãi vào ngày 21/04/2025 tại Bệnh viện II Lâm Đồng.

Đinh Hữu Thoại 

Hai mẹ con sản phụ tại thôn Tân Hoá 1, Lộc Nga, Bảo Lộc, Lâm Đồng tử vong: thông tin từ Bệnh viện II Lâm Đồng (link trong bài) và từ người nhà nạn nhân.

“Hiện, các cơ quan chức năng đang điều tra, xác minh làm rõ nguyên nhân tử vong của mẹ con sản phụ H.”

———-

Chị và cháu tôi đã ra đi mãi mãi vào ngày 21/04/2025 tại Bệnh viện II Lâm Đồng.

Không có sự công bằng nào có thể đổi lại hai sinh mạng ấy, nhưng gia đình chúng tôi cần một điều duy nhất: Sự minh bạch! Chúng ta ở 1 thành phố đẹp nhưng cũng cần ở 1 thành phố văn minh, nơi có đội y tế lành nghề và những trái tim nhân đức!

  • Chị tôi – sản phụ Bùi Thị H. – đã đến Bệnh viện II Lâm Đồng vào khoảng 7h sáng, trong tình trạng đau bụng liên tục, sốt cao 38.7°C, kèm ói và chảy máu. Tuy nhiên, theo hồ sơ của bệnh viện, mãi đến 10h sáng chị tôi mới được “nhập viện chính thức”. (thông tin bệnh viện 10h nhập viện theo link báo đính kèm:

https://baolamdong.vn/…/benh-vien-ii-lam-dong-thong…/…)

=> Tại sao lại có khoảng cách tới 3 tiếng đồng hồ như vậy trong khi đây là một bệnh viện tuyến tỉnh, lượng bệnh nhân không đông? Và trong thời gian đó, người nhà chúng tôi nhận thấy không có bác sĩ nào tiếp nhận ca trực, chỉ có sự thờ ơ của một vài nhân viên y tế, cho rằng “thai phụ nào cũng đau như thế cả thôi” ?!!

  • Khoảng trưa ngày hôm đó, khi tình trạng chị tôi đã nguy kịch, chị mới được đưa vào mổ. Sau khi kết thúc ca mổ, gia đình chúng tôi nhận thông tin em bé đã mất. Người mẹ được đưa vào hồi sức trong tình trạng sức khỏe yếu, nhưng ở thời điểm đó chúng tôi vẫn tiếp tục không nhận thấy sự theo dõi, chăm sóc cho chị. Mà đáng lẽ ở thời điểm hậu phẫu sau sinh của 1 thai phụ vừa mất con, chính là thời điểm nguy hiểm nhất và lẽ ra phải được theo dõi đặc biệt?!

Tình trạng của thai phụ ngày càng chuyển biến xấu, nhưng gia đình chúng tôi vẫn nhận được sự từ chối và trấn an rằng bệnh viện vẫn có khả năng cứu sống bệnh nhận.

Tới tận 18h cùng ngày, tức hơn 8 tiếng sau mổ, chị tôi mới được làm thủ tục chuyển viện lên TP.HCM. Nhưng không còn kịp nữa… Trên đường đi, chị tôi qua đời tại Bệnh viện huyện Định Quán.

Chị tôi – và cháu tôi – không chết vì “rủi ro y khoa”. Họ chết vì sự chậm trễ, thờ ơ, thiếu đạo đức, thiếu chuyên môn của đội ngũ được gọi là bác sĩ, y tá tại Bệnh viện II Lâm Đồng.

Chúng tôi quá đau đớn, bàng hoàng, phẫn nộ trước sự mất mát to lớn của 2 sinh mạng quý giá này – vì mọi thứ đáng ra đã có thể được ngăn chặn!

Chúng tôi viết những dòng này để cảnh báo, để thức tỉnh, để đòi lại sự thật cho người đã khuất – và để bảo vệ những thai phụ khác, những đứa trẻ khác. Hãy hành động trước khi con cháu bạn có thể trở thành nạn nhân tiếp theo!

Gia đình chúng tôi đã quá đau lòng về sự ra đi quá sức bàng hoàng của chị và cháu tôi, không muốn nhắc tới và cũng chấp nhận sự thật là chị và cháu đã mất thật rồi, nhưng bên bệnh viện lại có những bài báo viết sai sự thật, khi người nhà chúng tôi lên tiếng thì bị block và không được bình luận, tới mức này rồi chúng tôi không thể im lặng được nữa, xin hãy làm việc đúng lương tâm và đưa ra những thông tin thật đúng đắn!

Nguồn: Loan Kim

Quân Dân Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử qua Hiệp định Paris 1973

Austin D Nguyen

Quân Dân Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử qua Hiệp định Paris 1973 :

“Trong khi Mỹ cắt giảm viện trợ cho miền Nam từ 2 tỉ 300 triệu xuống 964 triệu và cuối cùng bác bỏ luôn ngân khoản này thì Nga Xô tăng mức viện trợ quân sự năm 1974 cho Bắc Việt lên gấp đôi là 1 tỉ 700 triệu. Trung Quốc cũng gửi qua Bắc Việt 500 ngàn súng cá nhân với 90 triệu đạn, 21 ngàn súng cộng đồng với 4 triệu 500 ngàn đạn và ngót 3 triệu quân trang, quân phục… Trong khi quân đội Mỹ cùng các quốc gia đồng minh rút khỏi miền Nam thì tàu hàng Nga Xô chở đầy ắp chiến cụ nối nhau cập bến cảng Hải Phòng.

Cuối tháng 2-1973, tức vỏn vẹn 30 ngày sau hiệp định ngưng bắn, phi cơ quan sát đã ghi nhận 175 xe vận tải và 223 chiến xa Bắc Việt băng qua khu phi quân sự vượt đường mòn Hồ Chí Minh xâm nhập miền Nam. Cuộc xâm nhập không còn lén lút vì quân đội Mỹ đã rời cuộc chiến và hiệp định ngưng bắn cũng loại bỏ hoàn toàn khả năng ngăn chặn bằng không quân của quân đội Miền Nam. 

Cuối tháng 4-1975, tin ghi nhận cho biết đã có 18 ngàn lượt xe vận tải công khai chạy trên đường mòn Hồ Chí Minh chở vào Nam gần 80 ngàn quân cùng hàng trăm ngàn tấn chiến cụ, các loại đại pháo, hoả tiễn tối tân của Nga Xô và 650 xe tăng…”

(Pierre Darcourt, Dương Hiếu Nghĩa dịch)

 


 

TỔN THẤT NHÂN MẠNG TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM

Lê Châu An Thuận

 Chiến tranh Việt Nam là một cuộc xung đột kéo dài và tàn khốc với số người chết cao. Việc ước tính chính xác số người chết là rất khó, nhưng đây là những gì được biết dựa trên các nguồn có sẵn:

–   Thương vong của người Việt Nam:

. Tổng số người Việt Nam tử vong (quân sự và dân sự): Ước tính từ 970.000 đến 3 triệu.

. Dân thường Việt Nam: Chính quyền Việt Nam báo cáo có tới 2 triệu thường dân tử vong ở cả hai bên vào năm 1995.

. Chiến binh Bắc Việt và Việt Cộng: Việt Nam chính thức ước tính khoảng 1,1 triệu người tử vong vào năm 1995.

. Binh lính Nam Việt Nam: Quân đội Hoa Kỳ ước tính rằng có từ 200.000 đến 250.000 binh lính Nam Việt Nam tử vong.

–   Các quốc gia khác:

. Hoa Kỳ: Hơn 58.000 quân nhân Mỹ đã tử trận hoặc mất tích trong khi chiến đấu.

. Các lực lượng đồng minh khác:

– Hàn Quốc mất hơn 4.000 binh lính,

– Thái Lan mất khoảng 350,

– Úc mất hơn 500 và

– New Zealand mất khoảng ba chục.