LÊ TRỌNG HÙNG: NGƯỜI ĐÀN ÔNG DÁM TỰ ỨNG CỬ QUỐC HỘI BẰNG MỘT CHIẾC ĐIỆN THOẠI

Kim Dao Lam

Fb Việt Tân

Anh Lê Trọng Hùng, sinh năm 1979, từng là một người đàn ông bình thường ở Hà Nội: có vợ, có con, có công việc ổn định. Nhưng anh lại mắc “cái tật” không bỏ được: thấy bà con mất đất khóc ngoài ruộng thì phải quay phim, thấy cán bộ xã chèn ép dân thì phải livestream, thấy người dân không biết quyền của mình thì phải mở kênh YouTube dạy từng điều luật.

Thế là anh cùng vài người bạn lập ra Chấn Hưng Nước Việt Television – viết tắt là CHTV. Không phòng thu, không biên tập viên áo vest, chỉ có một chiếc điện thoại, một cái xe máy và một trái tim nóng. CHTV trở thành “đài truyền hình” của người dân oan: Đồng Tâm, Dương Nội… ở đâu có tiếng khóc vì mất đất, ở đó có mặt anh Hùng.

Anh dạy bà con cách viết đơn khiếu nại, dạy cách đối thoại với chính quyền, dạy cả cách quay phim để lưu chứng cứ. Anh nói chậm, nói rõ, nói bằng thứ ngôn ngữ mà ngay người ít học nhất cũng hiểu: “Quyền của mình nằm trong Hiến pháp, không phải trong miệng cán bộ”.

Rồi đầu năm 2021, anh làm một việc mà cả nước giật mình: tuyên bố tự ứng cử Đại biểu Quốc hội với tư cách độc lập. Không đảng đoàn bảo lãnh, không cơ quan giới thiệu, chỉ một mình anh và lá đơn. Anh bảo: “Hiến pháp cho phép, sao tôi không làm?”

Chỉ chưa đầy ba tháng sau, ngày 27-3-2021, công an đến nhà anh ở quận Đống Đa. Còng tay. Bắt khẩn cấp. Điều 117 – tội “tuyên truyền chống Nhà nước”.

Ngày cuối cùng của năm 2021 – 31-12-2021 – tòa tuyên anh 5 năm tù giam và 5 năm quản chế. Lý do? Vì những video anh quay cho người dân oan, vì những buổi dạy luật miễn phí, vì lá đơn ứng cử mà anh chưa kịp nộp. Tòa nói thẳng: anh “làm giảm lòng tin của nhân dân vào chính quyền”.

Giờ anh đang ở Trại giam số 6, Nghệ An – cùng trại với thầy giáo Bùi Văn Thuận, luật sư Đặng Đình Bách và nhiều tù nhân lương tâm khác. Người nhà chỉ được thăm vài lần mỗi năm, mỗi lần nhìn anh qua tấm kính, gầy đi, tóc bạc đi, nhưng mắt vẫn sáng. 

Anh Hùng là minh chứng sống động nhất cho nghịch lý của thời đại này:

Một người chỉ dùng chiếc điện thoại để nói thay cho dân oan, dạy dân biết quyền của mình, và dám đứng ra ứng cử như Hiến pháp cho phép – lại bị kết án 5 năm tù vì “đe dọa an ninh quốc gia”.

Trong khi đó, hàng triệu người dân vẫn đang mất đất, vẫn đang khiếu kiện, vẫn đang cần những người như anh Hùng lên tiếng.

Hôm nay, ngày Nhân quyền, chúng ta không thể không nhắc đến anh – người đàn ông đã biến chiếc điện thoại thành vũ khí mạnh nhất: sự thật.

Anh không cầm súng, không kêu gọi bạo lực, anh chỉ cầm điện thoại và nói thay cho những người không có tiếng nói. Vậy mà phải trả giá bằng 5 năm tự do và thêm 5 năm quản chế.

Anh đã bị cướp mất tự do, nhưng không ai cướp được điều anh để lại: ý thức công dân mà anh đã gieo vào từng người dân nhỏ bé nhất.

Tự do cho nhà báo công dân Lê Trọng Hùng!

Thế Bảo


 

PHẠM CHÍ DŨNG: 15 NĂM TÙ CHO MỘT CÂY BÚT ĐỘC LẬP  ĐÃ TỪ BỎ HÀNG NGŨ CHẾ ĐỘ

Kim Dao Lam

Sáu năm trước, vào một buổi chiều cuối tháng 11-2019, không tiếng còi xe công an, không tiếng còng tay, không quá đông công an và vài người đàn ông mặc thường phục “mời” ông Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam (IJAVN),  lên xe. Từ đó, một trong những cây bút sắc bén của báo chí độc lập Việt Nam bị giam cầm sau song sắt.

Ông Phạm Chí Dũng, sinh năm 1966, tiến sĩ kinh tế, cựu sĩ quan quân đội với 30 năm tuổi Đảng. Người đàn ông ấy từng ngồi ở những vị trí mà nhiều người mơ cả đời không tới. Nhưng ngày 5-12-2013, ông làm một việc mà không ai ngờ: nộp đơn xin ra khỏi Đảng với lý do ngắn gọn đến đau thắt: “Đảng không còn đại diện cho quyền lợi của đại đa số nhân dân”.

Từ đó, ông chọn con đường còn lại của đời mình: làm nhà báo, thật sự là nhà báo.

Ông thành lập IJAVN – Hội Nhà Báo Độc Lập Viet Nam, tổ chức đầu tiên và duy nhất dám tự nhận mình là “nhà báo độc lập” trong một đất nước mà mọi tờ báo đều phải có “giấy phép sinh hoạt”. Ông viết hàng trăm bài báo, phân tích kinh tế sắc như dao, phơi bày tham nhũng, lên tiếng cho người dân mất đất, cho ngư dân Formosa, cho những tù nhân lương tâm bị lãng quên. Ông ký tên vào mọi thư ngỏ gửi Liên Hợp Quốc, gửi Nghị viện châu Âu, gửi bất kỳ nơi nào còn sẵn lòng lắng nghe tiếng Việt Nam không qua bộ lọc.

Ngày 5-1-2021, Tòa án Nhân dân TP.HCM tuyên phạt ông 15 năm tù giam về tội “tuyên truyền chống Nhà nước” theo Điều 117 Bộ luật Hình sự. 15 năm mức án nặng nề dành cho một nhà báo tâm huyết. Cùng ngày hôm ấy, hai thành viên khác của IJAVN là Nguyễn Tường Thụy và Lê Hữu Minh Tuấn cũng nhận án nặng. Một thông điệp rõ ràng được gửi tới toàn bộ những ai còn dám cầm bút tự do.

Amnesty International, Phóng viên Không Biên giới (RSF), Human Rights Watch, Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ)… đều đồng loạt gọi tên ông Phạm Chí Dũng là “tù nhân lương tâm” và xếp vụ án này vào danh sách những vụ đàn áp tự do báo chí nghiêm trọng nhất khu vực Đông Nam Á những năm gần đây.

Sáu năm trôi qua, ông đã bước sang tuổi 59 trong tù. Không ai được thăm gặp thường xuyên, không thông tin sức khỏe, chỉ có những dòng tin ngắn ngủi lọt ra từ người thân: “Anh vẫn đọc sách, vẫn viết khi được phép, và có lẽ anh vẫn có thể tự hào cười khi nhắc tới IJAVN”.

15 năm tù cho một người từng phục vụ chế độ 30 năm.

15 năm tù cho những con chữ không chịu nói dối.

15 năm tù chỉ để nhắc chúng ta rằng: ở Việt Nam năm 2025, nói thật vẫn là tội nặng nhất.

Ngày Quốc tế Nhân quyền năm nay, chúng ta không thể không nhắc đến ông, người đã chọn từ bỏ mọi đặc quyền để giữ lại một thứ duy nhất: lương tâm của một nhà báo.

Ông Phạm Chí Dũng không còn tự do, nhưng cây bút của ông vẫn đang được hàng trăm người trẻ âm thầm tiếp nối ngoài kia. Họ có thể không dám công khai đứng dưới ngọn cờ IJAVN nữa, nhưng mỗi dòng chữ trung thực họ viết hôm nay có bóng dáng của những người cầm bút can đảm như ông.

15 năm là quá dài với một con người, nhưng quá ngắn để dập tắt một ngọn lửa đã được thắp đúng chỗ.

Tự do cho nhà báo Phạm Chí Dũng!

Tự do cho báo chí độc lập Việt Nam!

Vân Phong


 

Miền Trung Lũ Ngập Nhưng Lương Tâm Ai Vẫn Khô Hạn?

Luong Nguyen

Miền Trung Lũ Ngập Nhưng Lương Tâm Ai Vẫn Khô Hạn?

(Nhận từ Người phương Nam)

Có lẽ chưa bao giờ cảm giác bất lực lại trĩu nặng như những ngày này, khi mở bất kỳ trang tin nào cũng thấy hình ảnh nước đục ngầu phủ lên mái nhà, người ta ngồi co ro trên nóc tôn, gương mặt trắng bệch vì lạnh, vì đói, vì sợ. Miền Trung, dải đất gầy guộc mà tôi từng lớn lên, vốn đã quen với điệp khúc “năm thì mười hoạ bão lũ”, bỗng dưng những năm gần đây như bị đẩy vào tâm điểm của một trò thí nghiệm tàn nhẫn: lũ hết đợt này đến đợt khác, nước hết dâng lại rút, rồi lại dâng, mỗi lần là thêm vài chục sinh mạng, thêm vài chục ngàn căn nhà ngập sâu, thêm vài trăm ngàn phận người trắng tay.

Là người con miền Trung, tôi không lạ gì cảnh nước lụt tràn sân, gùi sách trên đầu lội đến trường, đêm nằm nghe tiếng mưa ràn rạt trên mái tranh mà tim nơm nớp lo lắng. Nhưng cái lũ ngày xưa, dù khốc liệt – vẫn là lũ trời: mưa nhiều, nước sông lên, rồi vài ngày nó cũng rút; người ta xắn quần lên dọn bùn, dựng lại mái nhà, trồng lại luống rau, vá lại cuộc đời. Còn bây giờ, càng nhìn càng thấy đây không chỉ là lũ của thiên nhiên, mà là lũ của lòng người, là kết quả cộng dồn của bao năm quyết định sai lầm, của cách đối xử tàn nhẫn với rừng, với sông, với đất.

Ai cũng biết dọc thượng nguồn bao con sông miền Trung, bao nhiêu năm nay người ta cho phép mọc lên dày đặc những đập thuỷ điện. Hết dự án này tới dự án khác, rừng bị xẻ ngang, bị “dọn dẹp” tới tận chân núi để làm đường, làm hồ, làm nhà máy. Đến khi mưa lớn, nước đổ về, hồ đầy, lại vội vã “xả lũ theo quy trình”, mà cái quy trình ấy hình như chỉ có mỗi một bước: “mở cửa xả và… mặc kệ phía hạ du xoay xở ra sao”. Cái mà lẽ ra phải là công trình bảo vệ – điều tiết nước, giảm lũ – thì nay lại trở thành bản lề nhân tai, biến trận lũ vốn dĩ đã nặng nề vì mưa thành cơn cuồng nộ cuốn phăng làng mạc.

Nhưng bi kịch không chỉ nằm ở chỗ “thiên tai + nhân tai”, mà còn nằm ở cách người ta đối xử với những người đang chìm trong nước. Giữa lúc bao nhiêu xóm làng kêu cứu, người dân phải leo lên nóc nhà, đứng cả ngày trên cột điện chờ một chiếc xuồng, một chiếc ca nô đi ngang, thì có những nhóm thiện nguyện – tự họ gom góp, tự họ thuê ca nô, tự họ xông vào vùng nước xiết cứu người. Ấy vậy mà thay vì được hỗ trợ, họ lại bị… nhắc nhở là “vượt quyền”, “không phối hợp đúng tuyến”. Nghe mà nghẹn. Người ta có thể tranh luận mãi về quy trình, về phân cấp, nhưng trước mặt là mạng người, là đứa nhỏ đang bám cột dừa, là bà già đang ngồi ôm cái rương áo quần trên mái nhà, thì có lý do nào, có văn bản nào quan trọng hơn việc cứu cho được con người đó hay không?

Buồn hơn nữa là những câu chuyện “hậu trường” của các đoàn cứu trợ. Biết bao người ở trong và ngoài nước, gom từng đồng, từng thùng mì, từng bao gạo, áo ấm, thuốc men để gửi về. Thế mà khi xe cứu trợ đến cửa ngõ địa phương, lại thấp thoáng những “thủ tục”, những “điều tiết”, những dạng “cống nạp mềm”, nếu không khéo léo, không “biết điều”, thì hàng sẽ nằm ở đó, hoặc bị “xin lại một phần” trước khi đến tay người dân. Có nơi còn muốn đoàn phải “đi theo danh sách” do mình lập sẵn, trong khi người cho chỉ muốn trao tận tay những gia đình khẩn cấp, những mái nhà đang trắng tay. Trong một thảm hoạ, lòng người vốn đã tổn thương, mà còn phải hoài nghi xem phần gạo mình gửi có đến đúng chỗ không, đó là một loại đau buồn rất khó gọi tên.

Ở bên này bờ Thái Bình Dương, mỗi mùa lũ về, tôi lại thấy những cảnh rất ngược nhau. Trong bao nhiêu buổi lễ ở nhà thờ Việt Nam, sau thánh lễ, cha xứ lại nhắc khéo: “Tuần này xin cộng đoàn cầu nguyện đặc biệt cho đồng bào vùng lũ, và nếu có thể, xin mỗi gia đình góp một chút tình thương…”. Khay quyên góp chuyền qua từng hàng ghế, cả nhà đạo gốc lẫn đạo… theo vợ, ai cũng móc túi, có khi chỉ vài đồng lẻ, có khi là một ngân phiếu khá hơn, nhưng đó là tấm lòng. Bên chùa cũng vậy: sau buổi tụng kinh hay lễ Vu Lan, thầy trụ trì đứng nhắc nhẹ: “Chúng ta ở xa, không gánh nước, không kéo dây được, thôi thì góp chút tịnh tài, tịnh vật gửi về cho bà con bớt khổ”. Những thùng quyên góp đặt ở cổng chùa, trên bàn tiếp tân hội trường, đầy dần lên; người già lấy tiền hưu, người mới đi làm bớt lại ly cà phê, đứa nhỏ bớt tiền ăn quà, gom lại thành chuyến hàng đi về phương trời bão gió.

Những nỗ lực ấy âm thầm, đều đặn, năm này qua năm khác. Thế nhưng, trái ngược với tấm lòng đó là những lời lẽ độc địa vẫn đều đặn xuất hiện trên mạng xã hội từ một bộ phận “dư luận viên” nào đó: họ xem những người Việt hải ngoại chỉ là “3///”, là “khát nước”, là “ngụy”, là “ăn cơm Mỹ thờ ma…”. Hễ thấy ai ở nước ngoài nhắc tới chuyện cứu trợ, phê phán việc phá rừng, xả lũ bừa bãi, hay cách chính quyền đối xử với dân vùng lũ, là lập tức bị chụp mũ, bị chửi rủa, bị bôi nhọ. Thật trớ trêu: những bàn tay chìa ra từ nhà thờ, từ chùa, từ hội trường cộng đồng ở tận trời Tây thì gọi là “phản động”, còn những lời nhạo báng đau thương đồng bào, bào chữa cho sai lầm của bộ máy lại được xem như “đúng lập trường”, “bảo vệ nhà nước”.

Cái bất lực lớn nhất với tôi, và chắc với nhiều người, không phải là không làm gì được, mà là thấy rất rõ nguyên nhân mà không ai chịu đứng ra nhận trách nhiệm. Mưa lớn hơn, bão dày hơn, đó là xu thế khí hậu toàn cầu, không riêng gì ta. Nhưng phá rừng “tới tận chân núi” cho lâm tặc và cho các dự án, chặn hết dòng sông để làm thuỷ điện, quy hoạch bê tông lên cả vùng trũng tự nhiên, buộc dân nghèo phải sống chen chúc ở những nơi vốn là đường thoát lũ, đó là lựa chọn của con người. Cảnh báo của giới chuyên gia, của báo chí độc lập, của những tiếng nói lẻ loi nhiều năm qua chẳng thiếu, vậy mà mỗi mùa mưa đến, ta vẫn lặp lại kịch bản: “bất ngờ trước mưa lớn kỷ lục”, “đang rà soát quy trình xả lũ”, “sẽ kiểm điểm, rút kinh nghiệm sâu sắc”.

Tôi không biết phải an ủi người dân vùng lũ bằng lời nào nữa. Nói “rồi cũng qua” thì tàn nhẫn, vì qua đợt lũ này sẽ tới những khoản nợ mới, những mùa màng mất trắng, những đứa trẻ phải nghỉ học, những ngôi nhà chưa kịp trả xong tiền vay đã trôi mất. Nói “cố gắng lên” thì nghe sáo rỗng, vì bao đời nay họ đã cố gắng hơn ai hết. Cứ mỗi mùa lũ đi qua là thêm một lớp người rời quê, bỏ ruộng, bỏ đồi chè, bỏ rẫy cà phê, bỏ xóm nhỏ bên sông mà đi làm thuê xứ khác, bám trụ ở thành phố, ở xứ người, chỉ vì họ không thể mãi sống chung với cái kiểu lũ không còn giống như xưa.

Có người bảo: “Thiên tai thì ở đâu chẳng có, Mỹ, Nhật, châu Âu cũng lũ, cũng bão”. Đúng, nhưng cái làm người ta phẫn nộ ở đây là cảm giác bị bỏ mặc và bị đối xử như “đối tượng quản lý” hơn là công dân. Người dân không được tham gia vào những quyết định lớn liên quan đến rừng, đến sông, đến thuỷ điện, đến quy hoạch; đến khi hậu quả ập xuống cuộc đời họ, thì lời giải thích lại là “biến đổi khí hậu”, là “trận mưa lịch sử”, là “tình hình rất phức tạp”. Còn những ai cố gắng tự tổ chức, tự lo cho nhau, từ nhóm đi ca nô đến các đoàn cứu trợ độc lập, thì đôi khi lại bị gây khó, bị soi, bị gán nhãn.

Viết những dòng này, tôi biết mình cũng chỉ là một người đứng bên lề, nhìn quê hương từ xa qua màn hình, chia sẻ được chút tiền, chút lời, chút vật chất, nhưng không thể thay được tấm phao, chiếc xuồng, vòng tay cụ thể cho ai đó đang giữa dòng lũ. Cái cảm giác bất lực ấy không chỉ là chuyện cá nhân, mà là một nỗi buồn chung của cả một thế hệ người Việt lưu lạc: nơi mình sinh ra thì cứ hết lũ này đến lũ khác, hết “tai trời” đến “hoạ người”; nơi mình đang sống thì bình yên hơn, nhưng lòng lúc nào cũng giằng xé.

Có lẽ điều duy nhất còn lại mà chúng ta có thể làm, ngoài việc tiếp tục cứu trợ, tiếp tục đứng về phía những nạn nhân, là không im lặng trước những nguyên nhân đã quá rõ. Bởi vì nếu mỗi mùa lũ đi qua chỉ kết thúc bằng vài câu “chia buồn sâu sắc” và vài dòng thống kê thiệt hại, thì những cơn lũ năm sau, năm sau nữa sẽ còn dữ hơn, rộng hơn, tàn phá hơn. Và đến một lúc nào đó, người miền Trung sẽ không còn gì để mất, ngoài ký ức về những ngôi làng từng nằm yên bên triền sông, trước khi bị nuốt chửng bởi những quyết định mà họ chưa từng được hỏi ý kiến một lần.

 (1) BẢO TỒN TIẾNG VIỆT | Miền trung lũ ngập nhưng lương tâm ai vẫn khô hạn | Facebookig


 

TẠI SAO THẾ HỆ TRẺ VN SINH RA LÀ ĐỂ ĐI LÀM CU LI CHO NGOẠI BANG?

Nguyễn Doãn Đôn

Vì Nhà nước VN do Đảng CS độc tài kết hợp với bất tài lãnh đạo, nên không tạo ra được công ăn việc làm cho họ. 

Cả nước hiện nay biến thành thị trường tiêu thụ lượng hàng rất lớn từ Trung Quốc đưa sang qua nhiều con đường. Nó đã làm cho các hãng xưởng của VN không cạnh tranh nổi, nên phải đóng cửa, dẫn đến tình trạng công nhân bị thất nghiệp.

Lẽ ra hàng Tầu vào phải đánh thuế thật cao, còn hàng nội địa thì phải được ưu tiên, để kích thích cho doanh nghiệp VN mạnh lên,  từ đó mà họ có đủ khả năng cạnh tranh với hàng Tầu mới phải. Nhưng phía VN đã không làm. Thành thử nhiều ngành công nghiệp chủ là người  VN bị thương trường Tầu quật không tồn tại được. Họ phải bán hãng xưởng với giá rẻ rúng lại cho Tầu.

Sau đó một số công nhân VN sẵn sàng ở lại làm tiếp cho Hãng Tầu mua lại này, với đồng lương rẻ mạt. Nghĩa là họ làm nô lệ ngay trên chính Đất nước mình. Số còn lại tìm cách bung ra nước ngoài để hy vọng kiếm được nhiều tiền hơn và cũng là để biết đó biết đây; đồng thời tò mò xem Tư bản giãy chết thế nào mà chúng giàu có thế.

Cũng sinh ra  ở Châu Á với nhau, nhưng những nước văn minh có Chính phủ dân chủ  lãnh đạo, thì  nền kinh tế của họ phát triển tốt. Ví dụ như Nhật, Đài Loan, Nam Hàn thì  họ thừa việc làm. Nên họ mới nhận chúng ta sang làm cu li cho họ.

Còn lý do nữa là vì Chính phủ VN không biết xử dụng người tài, có trình độ chuyên môn. Họ để đa phần là người kém cỏi cho lên làm lãnh đạo, thành thử sai đường lạc lối. Kinh tế thị trường lại gắn cái đuôi “định hướng XHCN” vào, để Đảng có cớ  lãnh đạo và can thiệp toàn diện, nên không thể thành công được. Mà cũng không ai người ta công nhận. Thành thử các chính sách ưu tiên, ưu đãi về thuế  và chất lượng hàng hóa cũng như luật pháp không được bình đằng như các nước khác.

Nguyễn Doãn Đôn


 

AI BẢO CHĂN TRÂU LÀ KHỔ? – LM Phan Phát Huồn

Đặng Minh Tâm 

 Câu chuyện của một vị Linh Mục ở trong tù cộng sản

(Fb Lê Đăng Ngô Đồng chia sẻ)

AI BẢO CHĂN TRÂU LÀ KHỔ? – LM Phan Phát Huồn

https://hoiquanphidung.com/forum/các-chuyên-mục/thời-sự/chuyện-tù-cải-tạo/61327-câu-chuyện-của-một-vị-linh-mục-ở-trong-tù-cs

Lời giới thiệu của KD

Cha Phêrô Phan Phát Huồn, DCCT (1926-2015), người quê giáo xứ Phường Đúc, Huế, nguyên Trung Tá Phó Giám đốc Nha Tuyên Úy VNCH và cũng là người sáng lập và xây dựng nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp tại Xóm Mới. Sau 1975, bị tù cs 13 năm (75-88), trải qua nhiều trại giam từ Nam chí Bắc như: Tam Hiệp, Thanh Phong, Nam Hà. Tại trại Nam Hà, cha Huồn đã ban bí tích Rửa Tội… cho các: Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Thiếu Tướng Lê Văn Tư và Chuẩn Tướng Phan Đình Thứ tự Lam Sơn trở lại đạo Công Giáo.

Năm 1992 cha Huồn sang Hoa Kỳ theo diện H.O. Sau đó Ngài làm chủ bút nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp xuất bản tại Long Beach, Nam California.

Ngay từ khi vừa chịu chức linh mục ngài đã viết cuốn lịch sử Việt Nam Giáo Sử- tác phẩm đầu tiên về lịch sử GHCG Việt Nam từ ban đầu cho đến giữa thế kỷ XX.

Tôi gặp ngài lần đầu ở Thái Hà dịp Tết năm 1988 khi ngài vừa được trả tự do sau 13 năm trong ngục tù cộng sản. Vì Thái Hà là nơi ngài đã sống 7 năm khi còn làm thầy trước năm 1954, nên ngài cùng với cha Ngô Đình Thỏa và Đinh Ngọc Quế đã ở lại đây ăn tết với cha Vũ Ngọc Bích và tôi gần 1 tháng, trước khi về Sài Gòn.

Năm sau -1989- tôi được cha Vũ Ngọc Bích gửi vào tu viện DCCT Sài Gòn ở đường Kỳ Đồng. Thế là chúng tôi lại có dịp chung sống với nhau. Bấy giờ công an cấm những người như ngài và tôi- không có hộ khẩu- ngủ qua đêm tại tu viện. Vì thế khoảng 8g mỗi tối tôi chở ngài về chỗ ngủ nhờ ở nhà 1 giáo dân và khoảng 4g45 sáng khi tôi đi qua chỗ ngài ở thì lại chở ngài đến tu viện.

Trong mấy năm ở chung tại tu viện Kỳ Đồng, ngài kể cho tôi nghe nhiều chuyện đau khổ trong tù trong đó cũng có nhiều chuyện cười ra nước mắt. Tôi nhớ mỗi lần kết thúc một câu chuyện ngài lại nói: “Đó là chuyện tôi sẽ viết khi đáp máy bay xuống phi trường Washington!”

Ngài đã viết thật. Năm 1991 ngài sang Hoa Kỳ theo diện HO và năm 1994 ngài đã xuất bản cuốn hồi ký có tựa đề là “AKA và Thập Giá. Ai thắng ai?”viết về 13 năm sống trong ngục tù cộng sản và gửi về VN tặng tôi một bản. Nhân dịp 30 tháng 4 tôi xin trích vài trang kể về hai “tai nạn” khi ngài đi chăn trâu lúc ở tù.

*****

(….) Chúng tôi chia tay nhau mà lòng đầy phấn khởi, và cũng vì phấn khởi mà tôi leo lên lưng trâu cỡi, tôi vừa cỡi trâu vừa nghêu ngao ca bài của Phạm Duy:

Ai bảo chăn trâu là khổ,

Chăn trâu sướng lắm chứ

Đầu tôi đội nón mê như lọng che.

Tôi vừa ca đến đây thì tôi nghe tiếng quen quen:

– Tụt, tụt, anh tụt khỏi lưng trâu ngay lập tức.

Tôi nhận ra tiếng của cán bộ quản giáo của tôi. Tôi lanh lẹ cầm đuôi trâu tụt xuống khỏi lưng nó. Cũng lúc ấy cán bộ xông tới gần tôi, tôi nghĩ là ông ta muốn đánh tôi, tôi nói:

– Yêu cầu cán bộ đứng xa tôi 3 mét.

Sở dĩ tôi nói như vậy vì trong nội quy của nhà tù, tôi không được đứng gần cán bộ 3 mét.

Ông cán bộ đăm đăm nhìn tôi như muốn ăn sống tôi làm tôi nhớ lời trong thánh vịnh:

Tôi phải nằm giữa bầy sư tử,

Loài thú ăn thịt người

Nanh vuốt chúng là đầu tên mũi giáo,

Lưỡi thì sắt bén tựa gươm đao.

– Anh có biết anh là gì không?

– Thưa cán bộ tôi là Phan Phát Huồn.

– Phan Phát Huồn là cái thớ gì? Anh là tư sản, là tanh hôi là xấu xa, anh biết chưa?

Tôi không trả lời cho câu hỏi ấy. Ông cán bộ hỏi tôi tiếp:

– Anh có biết con trâu này là gì không?

– Thưa cán bộ có, về mặt sinh vật học con trâu này là một con vật có 4 chân thuộc loài có vú.

Nghe tôi nói có vẻ lạ tai, ông ta trợn đôi mắt tròn xoe rồi ông ta khạc nước bọt lên trên nền đất tỏ vẻ bất mãn:

– Cà chớn, ai lại không biết con trâu này có 4 chân thuộc loài có vú, cha cố gì mà ăn nói tục tĩu, điều mà anh cần phải nhớ, phải ghi lòng tạc dạ: con trâu này là một con trâu xã hội chủ nghĩa, và anh là tư bản chủ nghĩa, vậy mà anh dám đưa cái đít thối tha tư bản chủ nghĩa của anh, ngồi lên trên, cà lên trên lưng của con trâu xã hội chủ nghĩa. Láo.

Cán bộ nói câu ấy với tất cả tấm lòng thành của một cán bộ cộng sản lúc ông ta tưởng rằng lý thuyết của ông ta bị xúc phạm.

– Vậy bây giờ anh hãy tự xử lấy.

– Thưa cán bộ tôi chẳng biết phải tự xử làm sao cả.

– Học tập như anh quá kém, làm sao lên lớp được, anh đem trâu xuống suối tắm, giải tỏa cho lưng nó sạch mùi xú uế.

– Thưa cán bộ sáng hôm nay đài khí tượng cho biết tại Yên Bái là 5 độ C, đem trâu xuống suối tắm thì cả trâu lẫn người sẽ đều bị bệnh. Vậy tôi xin cán bộ cho phép tôi lấy lá khô xung quanh đây chùi lưng trâu với mục đích giải tỏa cho lưng trâu sạch mùi xú uế.

Cán bộ suy nghĩ chốc lát rồi trả lời ngắn gọn:

– Được!

Thế rồi tôi hái lá khô chùi lưng trâu, vừa chùi vừa cười thầm trong bụng về cái công tác kỳ cục này. Sau đó tôi lại tiếp tục nghề chăn trâu của tôi.

Một hôm cán bộ đến gần tôi và nói rằng:

– Anh Huồn, anh biết là sắp đến ngày quốc khánh mồng 2/9 không? Anh lựa con trâu nào coi được, trao cho nhà bếp làm thịt cho trại viên ăn.

Tôi lựa một con thật béo tốt và tôi để trong trí tôi, không cho ai hay biết. Tôi lựa một con thật béo là cốt ý cho anh em bồi dưỡng chứ không phải để mừng ngày 2/9 vì ngày ấy đối với tôi là một ngày toàn dân bắt đầu làm thân trâu ngựa để phục vụ cho một chế độ độc tài, độc đảng, độc ác.

Sáng mồng 2/9 tôi vào chuồng trâu để đưa con trâu tôi đã chọn trao cho nhà bếp làm thịt, thì nó nhìn tôi và tràn trụa nước mắt, thấy vậy tôi về trại cáo bệnh và tôi xin bác sĩ cho tôi nghỉ ngày hôm ấy, như thế tôi tránh được việc dẫn trâu đến lò sát sinh vì tôi không muốn chứng kiến cái cảnh đau thương dù là của một con vật.

Chiều đến chúng tôi được một bữa cơm thịnh soạn với thịt trâu, anh NSX linh mục tuyên úy Quân khu 3, bạn đồng nghiệp của tôi, nằm khít bên cạnh tôi, là người bạn giúp đỡ tôi trong suốt thời kỳ tôi đau ốm, chúng tôi cùng ngồi ăn chung với nhau suốt thời kỳ ở Yên Bái. Hôm ấy ăn món thịt trâu xong, tôi để xương vào đĩa định đem đi đổ thì anh NSX không cho và anh lấy hết đĩa xương ấy ngồi mút thật ngon lành, rồi một buổi chiều kia anh NSX đưa tôi lên bệnh xá nhận thuốc bổ của gia đình anh gởi và bắt tôi uống, có lẽ đó là cách anh trả xương trâu lại cho tôi! Anh em chúng tôi ở với nhau thật tình như thế đấy.

Lâu lâu các linh mục BĐH và mục sư ĐVL cũng ghé thăm tôi, và một hôm các anh đề nghị với tôi, tổ chức đại hội trâu, thật là một ý kiến tuyệt vời. Đến ngày ấn định chúng tôi cùng kéo nhau lên đỉnh núi cầu nguyện, để đàn trâu ăn cỏ dưới chân núi. Đứng trước cảnh trời bao la, một màu xanh biếc, chúng tôi cảm thấy tâm hồn nhẹ nhõm thư thái, và quên hết tất cả những nỗi lo âu, phiền toái của cuộc sống ở chốn nhà tù việt cộng âm u. Thế rồi không ai bảo ai, chúng tôi cất tiếng hát:

Chúa ơi cho con hầu kề, Gần bên Chúa luôn.

Trí con đinh ninh một bề làm tôi Chúa luôn.

Con quyết không bao giờ nguôi.

Theo Chúa con luôn không rời.

Chúa ơi cho con hầu kề gần bên Chúa luôn…

Chính lúc đó một tiếng từ trong bụi quát ra:

– Làm gì có Chúa mà gần các anh, chính tôi, tôi đây, cán bộ nhân lực, cán bộ an ninh, tôi gần các anh đây, tôi bắt quả tang các anh bỏ giờ lao động, tập họp bất hợp pháp để hát những bài nhạc vàng, những bài dâm ô. Các anh xuống núi, lùa trâu về trại.

Anh Hiểu quay lui nói với tôi:

– Làm gì mà không chịu ngó trước ngó sau!!

– Lỡ rồi biết sao được.

Lúc xuống núi tôi nhìn quanh quẩn nhưng không thấy đàn trâu của chúng tôi đâu cả, tôi đâm lo, người xưa nói thật đúng: Họa vô đơn chí, nhưng may cho tôi, tôi thấy được dấu chân trâu và tôi lần mò đi theo lối chân ấy, lúc tôi tới cuối ruộng mía, tôi thấy đàn trâu đang bị buộc ở đấy, bỗng trong ruộng mía một cụ già xông ra, tay cầm bó mía, vừa chạy vừa chửi:

– Mẹ kiếp nhà mày, chúng mày cho trâu ăn mía nhà ông. Ông phang cho vỡ sọ bây giờ.

Ông vừa chửi vừa chạy nhanh về phía tôi, vấp phải một hòn đá ông ngã lăn quay ra, miệng cạp phải đất, bó mía rơi khỏi tay ông nhưng miệng ông vẫn nói: “Ông phang vỡ sọ nhà mày”.

Tôi chạy tới đỡ ông dậy, ông hơi trầy gối, tôi lấy thuốc đỏ trong túi tôi xức cho ông, vì khi chúng tôi đi lao động chúng tôi luôn mang theo thuốc đỏ và thuốc trị rắn cắn, đồng thời tôi xin ông cho tôi chuộc lại bầy trâu. Bây giờ ông không còn hung hăng nữa, ông chấp nhận đối thoại, ông hỏi tôi:

– Anh có gì mà chuộc?

– Cháu có áo Tây Gi.

– Áo Tây Gi là áo gì?

– Là áo chúng cháu đang mặc đây.

Ông nhìn chúng tôi một chốc rồi ông nói:

– Được, các anh trao cho tôi.

Chúng tôi cởi áo chúng tôi ra, xót xa như bị lột da vậy, vì đây là một gia tài đối với tù nhân như chúng tôi. Ông nhận lấy áo chúng tôi, xem đi xem lại rồi bảo tôi:

– Cả quần của các anh nữa.

Chúng tôi dành phải tụt quần trao cho ông, nhưng riêng đối với tôi, tôi còn một chiếc quần đùi, mà quần đùi của tôi chỉ còn khả năng che phía đằng trước. Lấy xong bộ đồ tây gi của 3 anh em chúng tôi, ông nhìn tôi và nói:

– Áo lót của anh nữa!

Biết làm sao bây giờ, tôi cũng phải chiều lòng ông cởi chiếc áo lót duy nhất của tôi cho ông, sau đó thì ông đăm đăm nhìn tôi rồi ông hỏi tôi:

– Anh là Công Giáo à?

– Vâng cháu là Công Giáo và còn hơn thế nữa.

– Hơn thế nữa nghĩa là gì?

– Cháu là Linh Mục.

– Cháu là Linh Mục?

Nói câu ấy xong, tôi thấy một sự thay đổi rõ rệt trên nét mặt, đôi mắt ông trở nên đỏ ngầu, ông chấp hai tay lại và ông van nài tôi:

– Lạy cha, xin cha tha tội cho con, thưa cha thật tình là con không biết, lúc cha cởi áo thun ra, con thấy cha đeo thánh giá, con chỉ nghĩ rằng cha là một giáo hữu thường, con đâu có ngờ là linh mục.

Rồi ông gọi thằng con ông:

– Tuấn, mày đem nồi khoai ra đây cho tao.

Ông cụ già chẳng những hoàn lại cả bầy trâu cho chúng tôi, mà còn biếu chúng tôi một nồi khoai nóng hổi, thảo nào các em thường hát: Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!

Phan Phát Huồn

(Trích Hồi ký: AK và Thập Giá. Ai thắng ai của LM Phan Phát Huồn – trong mục XIV: Ai bảo chăn trâu là khổ? Trang 137-142).

********

DANH SÁCH NHỮNG LINH MỤC BỊ TÙ TRONG TRẠI A20 XUÂN PHƯỚC SAU NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975 (và một số trại tù khác)

Tại nhà tù A20 thuộc xã Xuân Phước, tỉnh Phú Yên:

– Linh mục Marcô Bùi Quốc Khánh (nguyên Chánh xứ nhà thờ Tiên Chu)

– Linh mục Giuse Maria Đinh Bình Định (nguyên Chánh xứ nhà thờ Tân Chí Linh)

– Linh mục Giuse Đinh Hoàng Năng (nguyên Chánh xứ nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm)

– Linh mục Phanxicô Xaviê Đinh Quốc Thụy (cai quản họ đạo Bố Mua)

– Linh mục Đaminh Đinh Xuân Hải (Chánh xứ tiên khởi gx Bùi Môn, gx Tân Phú, tù 10 năm, chết tại Mỹ)

– Linh mục nhạc sĩ Giacôbê Đỗ Bá Công (nguyên Chánh xứ nhà thờ Mỹ Lợi)

– Linh mục Giuse Hoàng Văn Hinh (nguyên Chánh xứ nhà thờ Giuse), tù 11 năm

– Linh mục Giuse Lê Thanh Quế (Dòng Tên, chết tại VN)

– Linh mục Matthia M. Nguyễn Huy Chương(Dòng Đồng Công, tù 20 năm)

– Linh mục Giuse Nguyễn Huyền Linh (nguyên Chánh xứ Bù Đăng, tù 20 năm)

– Linh mục Đaminh Nguyễn Quang Minh (nguyên Chánh xứ nhà thờ Vinh Sơn, chết trong nhà biệt giam)

– Linh mục Giuse Nguyễn Tiến Khẩu (cai quản Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Xóm Mới)

– Linh mục Giuse Nguyễn Văn Bút (từng làm Mục Vụ tại Giáo Phận Vĩnh Long)

– Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Đệ (đi tập trung, hiện là giám mục giáo phận Thái Bình)

– Linh mục Nguyễn Văn Đoan (đi tập trung)

– Linh mục Nguyễn Văn Hiệu (chung thân, sau đó bị tử hình)

– Linh mục Gioakim Nguyễn Văn Hiếu (dòng Đông Công, tù 20 năm)

– Linh mục Nguyễn Văn Luân (tù 20 năm, chết trong nhà biệt giam)

– Linh mục Nguyễn Văn Thuyên (dòng Đồng Công, tù 20 năm)

– Linh mục Nguyễn Văn Vàng (dòng Chúa Cứu Thế, tù chung thân, thổ huyết chết trong buồng cùm A20 năm 1986)

– Linh mục Phanxicô Maria Nguyễn Viết Linh (đi tập trung, sáng lập Tu Đoàn Nữ Thừa Sai Thánh Mẫu Chúa Cứu Thế)

– Linh mục Micae Phạm Bá Tước (tù 13 năm, Phục vụ tại Giáo xứ Gia Cốc, ngài qua đời ngày 9/4/2021)

– Linh mục Micae Phạm Quang Hồng (tù 13 năm, khi đi tù là Sư huynh dòng Lasan, sau này được thụ phong linh mục tại hải ngoại)

– Linh mục Phạm Minh Trí (Dòng Đồng Công, tù 20 năm)

– Linh mục Trần Văn Long (Dòng Đồng Công, tù 20 năm)

– Linh mục nhạc sĩ Rôcô Trần Hữu Linh (Bị bắt đi tù 11 năm “vì đã thương tình cho một chủng sinh tá túc một đêm!”. Anh chủng sinh này bị gán tội phản động. Vì vụ này, trụ sở Tu hội Thánh Vinh Sơn tại Tam Hiệp bị nhà nước chiếm đoạt.)

– Linh mục Trần Văn Nguyện(chết tại Bà Rịa tháng 12 năm 2008)

– Linh Mục Tuyên (tù trên 10 năm)

– Linh mục Phaolô Võ Văn Bộ (chánh xứ tiên khởi nhà thờ Fatima Bình Triệu, tù 15 năm)

-Linh mục Antôn Vũ Ngọc Đăng (nguyên Chánh xứ nhà thờ Chánh tòa Phan Thiết, tù trên 10 năm)

– Linh mục Phêrô Hoàng Văn Thiên (dòng Đaminh, chết tại Mỹ)

– Linh mục Phêrô Nguyễn Đình Đệ (cai quản Giáo xứ Đồng Tiến)

-Linh mục Phanxicô Nguyễn Sơn Miên (qua Mỹ và cai quản giáo xứ các Thánh Tử Đạo VN, TGP Seattle)

– Linh mục Nguyễn Văn Thông (tuyên úy nhà giam Chí Hòa trước năm 1975, chết năm 2011 tại Nam Cali)

– Linh mục Mai Đức Chương (dòng Đồng Công)

– Linh mục Phêrô Nguyễn Luân (quản xứ Thủy Lợi, bị tù 20 năm, biệt giam dài ngày, thiếu ăn, bị bệnh phổi nên kiệt sức mà chết)

– Linh mục Đaminh Ngô Quang Tuyên (đi tù 13 năm hoặc hơn, hiện là chính xứ Giáo Xứ Phú Xuân, Tổng Giáo Phận Sài Gòn, cha cũng là thành viên ban cố vấn cho Đức Tổng Năng hiện giờ)

– Linh mục Vũ Huy Chương (không rõ tt)

– Linh mục Trần Quang Điềm, Tuyên uý, chánh xứ nhà thờ Vinh Sơn, Sơn Trà , Đà nẵng

– Linh mục Phong (không rõ tt)

– Linh mục Nguyễn Văn Thế (không rõ tt)

– Linh mục Lê Quang Tạo (không rõ tt)

(Trại tù A Xuấn Phước là một trong số các trại tù khắc nghiệt nhất nước. Hầu hết tù nhân đều bị cùm, bị hành hạ, nên rất nhiều người bị thương tật, bệnh hoạn hoặc bỏ mình ở đây.)


 

CẦN KHỞI TỐ HÌNH SỰ 86 CHỦ DOANH NGHIỆP THỦY ĐIỆN XÃ LŨ “ĐÚNG QUY TRÌNH”

Manh Dang

Khá nhiều bạn đã hiểu nhầm khi trích dẫn lại câu thần chú “đúng quy trình” của các chủ doanh nghiệp thủy điện, để cho rằng việc xả lũ gây chết người và hư hại tài sản của công dân và nhà nước trong tuần qua sẽ được miễn trừ trách nhiệm.

Vì lẽ, “đúng quy trình” chỉ là khi căn cứ vào các văn bản hành pháp về quản lý, điều hành đối với các đập thủy điện mà thôi. Chúng không hoàn toàn có giá trị để truy cứu trách nhiệm khi xảy ra việc gây thiệt hại như vừa xảy ra.

Vì trách nhiệm mặc định của họ là phải bảo đảm an toàn cho tính mạng và tài sản của dân, của nhà nước trong mọi hoạt động của đập thủy điện (chứ không riêng việc xả lũ).

Nền tảng trách nhiệm của pháp lý họ là các quy định từ cơ quan lập pháp (quốc hội), gồm Bộ luật Dân sự (về bồi thường trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng) và Bộ luật Hình sự.

Với mức độ thiệt hại như cơn lũ lụt vừa qua, mặc dù nhà báo Lê Trung Khoa (Đức) đưa tin số người tử nạn lên đến 2.257 người không thể kiểm chứng được. Nhưng, chính truyền thông trong nước đưa tin, số người thiệt mạng là 409 người, số tài sản thiệt hại là 85.000 tỷ đồng (Vietnamnet) cũng đã cho thấy sự thiệt hại vô cùng to lớn về người và tài sản.

Nếu khách quan, chế độ phải cho khởi tố hình sự ngay tại các tỉnh, thành bị thiệt hại.

Việc khởi tố không chỉ trong phạm vi số 86 chủ doanh nghiệp thủy điện xả lũ, mà cả các quan chức thuộc các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan.

Do đó, nếu chỉ có “soi” các văn bản hành pháp để truy trách nhiệm, thì dễ đưa đến kết luận rằng không có cơ sở pháp lý nào để xử lý đối với họ, rằng tất cả đều đã “đúng quy trình”, một quy trình “sát nhân”.

Vấn đề còn lại là chế độ có đủ khách quan để thực hiện việc khởi tố hình sự hay không mà thôi, vì lẽ, cơ sở pháp lý đã có sẵn và hoàn toàn đầy đủ trong trường hợp này.

Qua mạng xã hội, tôi được biết có một luật sư đã đề xuất việc khởi kiện dân sự để yêu cầu đòi bồi thường. Điều này rất đáng quý, nhất là trong bối cảnh luật sư trong nước bị “rọ miệng” phát ngôn, cũng như không mấy sẵn lòng đứng ra bảo vệ pháp lý cho người dân bị thiệt hại, mà con số có thể lên đến hàng vạn người. Gồm thân nhân người tử nạn, người thiệt hại tài sản…

Thế nhưng, nếu chỉ khởi kiện dân sự để yêu cầu bồi thường thiệt hại là chỉ mới đúng phần nào về hậu quả mà thôi. Chưa thỏa đáng về tính chất nguy hiểm của sự việc khi nó phủ rộng đến nhiều tỉnh thành, vừa mức độ thiệt hại vô cùng to lớn.

Cho nên, cần khởi tố hình sự để còn có thể chế tài, trừng phạt sự vô trách nhiệm của những người có liên quan. Trong vụ án khởi tố hình sự, khi đó, mới nên đưa vấn đề khởi kiện dân sự vào để yêu cầu bồi thường thiệt hại chung trong một vụ án.

Chỉ như thế, sự việc mới có thể được giải quyết toàn diện, đầy đủ, hợp tình, hợp lý và đặc biệt, mang tính răn đe, phòng ngừa về sau.

Còn không, tất cả mọi biện pháp đều chỉ như “gãi ngứa” ngoài da mà thôi. Đến hẹn mùa bão lụt hàng năm, điệp khúc “đúng quy trình” sẽ lại được nhắc như câu thần chú của bọn doanh nghiệp thủy điện tham tàn. Đổi lại, có lẽ lại có hàng trăm đồng bào khác thiệt mạng oan ức và hàng chục ngàn tài sản, vốn liếng của nhân dân lại đội nón ra đi…

Manh Dang

——-///——-

Ảnh: Thủy điện Sông Ba xả lũ

– Tin Vietnamnet: https://www.facebook.com/share/p/14SKD22SDKh/

– Tin nhà báo Lê Trung Khoa: “”Họp Quân ủy Trung ương hôm qua. Số người dân chết/ mất tích đến 15h 24/11 ~ 2.257 người.” https://www.facebook.com/share/p/16knuCBivq/

@người theo dõi


 

Anh trai ở Tây Ninh lao xe vào nhà cán chết em gái do ‘mâu thuẫn’

Ba’o Nguoi-Viet

November 30, 2025

TÂY NINH, Việt Nam (NV) – Nghi can Nguyễn Tấn Thành, 46 tuổi, ở xã Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, bị bắt giữ với cáo buộc lái xe hơi lao vào nhà, cán chết em gái ruột.Theo báo VnExpress hôm 30 Tháng Mười Một, vào trưa cùng ngày, ba người chị em ruột của nghi can Thành là Nguyễn Thị Hạnh, Nguyễn Thị Bé Năm và Nguyễn Thị Bé Sáu, đứng nói chuyện trước sân nhà bà Hạnh ở cùng địa phương.

Nghi can Nguyễn Tấn Thành lúc bị bắt. (Hình: Công An Tây Ninh)

Thời điểm đó, nghi can Thành lái chiếc Lexus 5 chỗ màu trắng chạy ngang qua. Hai bên xảy ra to tiếng, nam nghi can bất ngờ lùi lại rồi lao xe thẳng vào ba chị em.

Cú tông mạnh khiến một chiếc xe gắn máy đậu trước nhà bị đổ, bà Bé Sáu bị văng về phía trước hàng chục mét.

Bà Bé Năm bị hất ngã nhưng kịp đứng dậy chạy thoát. Bà Hạnh cùng một đứa bé đứng gần đó hoảng loạn la hét.

Chưa dừng lại, nghi can Thành lùi xe ra đường, tông vào trụ mái che sân. Chiếc xe hơi tiếp tục lao vào sân, húc thêm một chiếc xe gắn máy khác. Bà Hạnh kịp ôm đứa bé chạy thoát thân.

Toàn bộ vụ lao xe xảy ra trong chưa đầy một phút.

Bà Bé Sáu được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Xuyên Á nhưng thiệt mạng do vết thương quá nặng.

Nghi can Thành lái xe bỏ trốn khỏi hiện trường. Một lát sau, nghi can Thành bị bắt giữ tại cửa khẩu khi đang làm thủ tục xuất cảnh sang Cambodia, cách hiện trường gần 30 cây số.

Theo điều tra sơ bộ của Công An Tây Ninh, nghi can Nguyễn Tấn Thành và gia đình ba chị em gái có mâu thuẫn. Thời gian gần đây, ông ta từng nhiều lần lái xe hơi đến gây sự với ba chị em.

Trong một bi kịch gia đình tương tự, báo Khánh Hòa hồi cuối Tháng Bảy cho hay, bị cáo Lê Văn Hùng, 63 tuổi, ở phường Đông Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa, bị kết án tử hình với cáo buộc giết vợ chồng em ruột.

Theo cáo trạng, bị cáo Hùng và ba chị em ruột sống gần nhà nhau trên mảnh đất cha mẹ để lại tại phường Đông Ninh Hòa. Sau khi cha mẹ mất không chia thừa kế, mấy chị em phát sinh tranh chấp đất đai và khởi kiện nhau.

Camera an ninh ghi lại vụ nghi can Nguyễn Tấn Thành lao xe vào nhà. (Hình: Chụp qua màn hình)

Hồi đầu năm nay, bị cáo Hùng nhận được thông báo của tòa án về việc xem xét, thẩm định thửa đất tranh chấp.

Cho rằng vợ chồng bà LTTT, em gái, tham lam, bị cáo Hùng nảy sinh ý định giết họ rồi tự sát nên đã chuẩn bị cây đao và chai thuốc trừ sâu.


 

 TNLT CẤN THỊ THÊU: BIỂU TƯỢNG CỦA DÂN OAN MẤT ĐẤT

Kim Dao Lam

Sinh năm 1962, bà Cấn Thị Thêu là một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào đòi quyền đất đai và nhân quyền tại Việt Nam. Con đường đấu tranh của bà bắt đầu không phải từ lý thuyết hay chính trị, mà từ chính mảnh đất nuôi sống gia đình, nơi bị thu hồi trong những quyết định mà bà cho rằng chưa bảo đảm quyền lợi chính đáng của người dân. Khi chứng kiến hàng loạt hộ nông dân rơi vào cảnh mất nhà, mất sinh kế, bà đã không chọn im lặng.

Từ một người dân bình thường, bà trở thành tiếng nói kiên định trong việc ghi lại các vụ thu hồi đất, thu thập thông tin, và lên tiếng bảo vệ những người yếu thế. Trong nhiều năm, bà cùng chồng và các con miệt mài hỗ trợ hàng trăm gia đình bị ảnh hưởng bởi các tranh chấp đất đai. Chính sự kiên trì đó đã góp phần đưa nhiều vụ việc ra ánh sáng, giúp công luận trong và ngoài nước hiểu rõ hơn về những bức xúc xoay quanh vấn đề đất đai tại Việt Nam.

Nhưng con đường bà lựa chọn đầy thử thách.

Năm 2014, khi đang ghi hình một vụ cưỡng chế đất, bà bị bắt và bị kết án 15 tháng tù với cáo buộc “chống người thi hành công vụ”. Sau khi ra tù, bà tiếp tục hoạt động. Năm 2016, bà lại bị bắt và bị kết án 20 tháng tù với cáo buộc “gây rối trật tự công cộng” sau khi tham gia các hoạt động phản đối thu hồi đất.

Dù nhiều lần bị giam giữ, ý chí của bà chưa bao giờ suy chuyển. Tháng 6/2020, bà cùng hai con là Trịnh Bá Phương và Trịnh Bá Tư lập “Báo cáo Đồng Tâm”, phản ánh những vấn đề liên quan đến tranh chấp đất đai tại Đồng Tâm. Sau đó, cả ba bị bắt và bị kết án 8 năm tù với cáo buộc “tuyên truyền chống Nhà nước”.

Nhiều tổ chức quốc tế như Human Rights Watch và Amnesty International xem bà là tù nhân lương tâm, người bị giam giữ vì thực hiện quyền bày tỏ ý kiến và lên tiếng về bất công một cách ôn hòa.

Bà Thêu không chỉ đấu tranh cho gia đình mình, mà còn cho hàng nghìn người chung cảnh ngộ, những người mà tiếng nói dễ bị bỏ quên giữa những tranh chấp và áp lực.

Bà từng nói:

“Ngày hôm nay các ông bắt một người sẽ có một trăm người đứng lên. Ngày mai nếu các ông giết một người, sẽ có một triệu người đứng lên.”

Bất chấp tất cả, hình ảnh bà Cấn Thị Thêu vẫn là biểu tượng của lòng dũng cảm và sự kiên định trong hành trình đòi công lý, quyền sở hữu đất đai, và các quyền cơ bản của con người. Bà đã trả giá bằng tự do, bằng sức khỏe và bằng sự an toàn cá nhân, nhưng chưa bao giờ từ bỏ niềm tin vào lẽ phải.

Vân Phong

Nguồn fb Việt Tân


 

Đu trụ điện 2 ngày, khi được cứu mới biết cha mẹ đã chết

Công Tú Nguyễn – Chuyện tuổi Xế Chiều

Căn nhà nhỏ của vợ chồng cụ ông Nguyễn Nghiệp (84 tuổi) và bà Nguyễn Thị Nhựt (80 tuổi, vợ ông Nhựt, ở thôn Phú Hữu, xã Hòa Thịnh) nằm lọt thỏm giữa cánh đồng đã không còn đẹp như mọi ngày. Vợ chồng ông gặp nạn trong cơn lũ và đã ra đi mãi…

Mấy năm trước, vợ chồng con trai út là ông Nguyễn Văn Hần (42 tuổi) xây căn nhà cấp bốn bên cạnh. Các anh chị gửi gắm hai cụ cho vợ chồng ông lui tới thăm hỏi, chăm sóc.

Mấy hôm trước, vợ ông Hần chuyển dạ nhập bệnh viện sinh con thứ ba. Vợ chồng nhờ chị họ đến trông coi hai cô con gái nhỏ để ông Hần có thời gian làm việc, lui tới bệnh viện.

Trước giờ lũ ập đến, chiều 18-11, ông Hần đưa đàn bò 17 con lên lán trại cách nhà mấy trăm mét tránh lũ.

“Đưa chúng vào chuồng xong thì tôi không còn đường về nhà, nước vây tứ phía, chảy cuồn cuộn. Lũ dâng từng phút, chẳng mấy chốc đàn bò bị cuốn trôi, tôi lên mái chuồng trú nhưng cũng ngập”, ông Hần kể.

Không còn đường thoát, ông mở dây buộc bò, buộc người vào trụ điện để giữ lấy mạng sống. Ông ôm trụ điện, kêu cứu thất thanh giữa dòng lũ dữ nhưng không một ai dám đến cứu.

“Hai ngày hai đêm, nước dâng tới đâu tôi buộc dây cao đến đó. Tôi biết chắc ở nhà đã ngập, ba mẹ già, hai con ở cùng người thân gặp nguy nhưng không có lựa chọn”, ông Hần nói.

Chống chọi với lũ dữ hai ngày. Nước rút dần, một thanh niên trong xóm bơi ghe ra kiểm tra xem ông còn bám ở trụ điện không ? “

Em nghĩ anh đi rồi !”, ông Hần thuật lại lời thanh niên nói với mình khi thấy anh còn sống.

Ông Hần hỏi lại : “Ba mẹ và con anh có ai cứu không ?”.

“Em biết ba mẹ anh đã mất, còn hai cháu trong nhà em gọi mà không thấy trả lời”…

Ông Hần lấy chút sức lực cuối cùng, chẳng còn quan tâm mọi thứ xung quanh, mặc kệ dòng nước chảy xiết, về nhà kiểm tra.

“Mở cửa không thấy hai con, tim tôi ngừng đập, đầu óc không còn suy nghĩ được gì nữa.

Tôi lội tìm khắp xóm mới biết các con được hàng xóm cứu”, ông Hần đau buồn.

Còn cha mẹ ông Hần đã ra đi mãi mãi…

Theo: THANH NHẬT, NGUYỄN YÊN – Pháp luật TP Hồ Chí Minh


 

LŨ LỤT MIỀN TRUNG VÀ NHỮNG KẺ MUỐN BỊT MIỆNG ANH JOHNNY TRÍ NGUYỄN.

Thao Teresa

Johnny Trí Nguyễn (tên thật Nguyễn Chánh Minh Trí, sinh 16/1/1974) là một diễn viên – võ sư Việt kiều Mỹ. Anh từng là cascadeur tại Hollywood trước khi quay về Việt Nam và nổi bật với dòng phim hành động – võ thuật.

Những phim tiêu biểu của anh gồm Dòng máu anh hùng, Bẫy rồng và Bụi đời Chợ Lớn, giúp anh trở thành gương mặt được yêu mến trong làng điện ảnh Việt.

Ngoài diễn xuất, anh còn mở võ đường riêng, tiếp tục đóng góp cho võ thuật và phát triển cộng đồng võ.

Anh là tiếng nói hiếm hoi trong giới điện ảnh, diễn viên về lũ lụt miền Trung. Một bài viết mang tên THỜ Ơ (xem theo link dưới phần bình luận) của anh đến thời điểm này có hơn 70.000 like, 7.400 bình luận, 11.000 lượt chia sẻ, lan tỏa mạnh trong cộng đồng.

Quan điểm chung của bài viết là:

“Lũ lụt miền Trung lặp lại suốt nhiều thập kỷ vì chúng ta chỉ cứu trợ mà không giải quyết gốc rễ.”

Anh nêu bốn nguyên nhân chính làm tình hình ngày càng nặng: rừng tự nhiên bị mất và thay bằng rừng kinh tế không giữ nước; thủy điện nhỏ dày đặc, hồ quá bé nên không thể cắt lũ; quy hoạch tùy tiện, xây dựng lấn vùng trũng và bóp dòng chảy; và “địa khí” miền Trung vốn nhạy cảm nên càng bị tổn thương khi tự nhiên bị can thiệp.

Anh kêu gọi chuyển từ cứu trợ sang các giải pháp dài hạn: phục hồi rừng, rà soát thủy điện nhỏ, quy hoạch theo luồng nước, ứng dụng khoa học để chấm dứt cảnh “năm nào cũng cứu”.

Không hẳn những điều anh viết đều đúng, đều chính xác, nhưng đó là một tiếng nói có trách nhiệm, một tiếng nói lương tâm của một nghệ sĩ.

Hầu hết độc giả đều ủng hộ, đồng tình với anh. Nhưng không thiếu những tiếng nói phản đối. Và nhiều tiếng nói phản đối được vận hành theo nguyên tắc bịt miệng, điển hình là bài viết của Xuancuong Bùi (xem hình chụp).

Không chỉ với Johnny Trí Nguyễn mà đó là cách họ làm với bất cứ ai lên tiếng có trách nhiệm, có lương tâm về lũ lụt miền Trung (và rộng ra các vấn đề xã hội).

Thủ thuật, xảo thuật của họ là:

  1. Công kích cá nhân

“Anh chỉ là diễn viên – võ sư, không đủ tư cách nói về thiên tai, quy hoạch, thủy điện, khí hậu.”

“Lấy hoạn nạn của dân làm bàn đạp đánh bóng tên tuổi.”

“Đứng ngoài cuộc mà phán xét, cảm tính, dân túy.”

“Mượn nỗi đau để dựng vai ‘người thức tỉnh’.”

“Không chuyên môn thì nên câm lặng, đừng dạy đời.”

2.Chiến thuật đánh tráo vấn đề

Biến thảo luận chính sách thành công kích động cơ.

Biến việc góp ý về quy hoạch – rừng – thủy điện – quản lý rủi ro thành “chê dân”, “xúc phạm quốc gia”.

Quy kết người nêu bất cập thành “gieo chia rẽ, gây hoài nghi”.

Đánh đồng việc nói “thờ ơ tập thể” với “chửi cả dân tộc, bôi nhọ bao thế hệ”.

III. Chiến thuật so sánh sai lệch

Lấy ví dụ nước ngoài để phủ nhận trách nhiệm quản lý:

“Nhật, Hàn, Mỹ, châu Âu cũng chết vì lũ — vậy Việt Nam có lũ là bình thường.”

“Họ quy hoạch tốt mà vẫn thiệt hại, vậy không thể nói ta sai.”

“Mưa cực đoan quá lớn, đến hồ Hòa Bình đặt vào cũng vô dụng.”

4. Chiến thuật tuyệt đối hóa thiên tai

“Thiên nhiên quá mạnh thì con người bó tay, đừng đòi hỏi gì.”

“Mưa 1,2–1,8m/3 ngày thì không nơi nào chống nổi.”

“Địa hình miền Trung như vậy thì xoay xở cũng vô ích.”

Cách nói này nhằm loại bỏ mọi khả năng cải thiện, xem tan hoang là điều “không thể tránh”.

5. Chiến thuật dùng tổ tiên để bác bỏ lý luận

“Tổ tiên cũng trị thủy, khai hoang, đâu trốn tránh vùng trũng.”

“Dân số tăng thì phải lan xuống vùng nguy hiểm, đó là điều hiển nhiên.”

“Nếu tổ tiên né nước dữ thì làm gì có đồng bằng sông Hồng ngày nay.”

Xem lịch sử như bằng chứng chống lại quy hoạch khoa học hiện đại.

 VI. Chiến thuật tuyệt đối hóa thủy điện

“Bỏ thủy điện nhỏ thì lấy gì dùng? Anh có dám cắt 30% điện không?”

“Hồ chứa bé do địa hình, chứ không phải lỗi quy hoạch.”

“Xem xét thủy điện nhỏ là ảo tưởng của kẻ đứng ngoài.”

Xóa bỏ mọi thảo luận về tác động thủy điện nhỏ – vốn là chủ đề khoa học đã được nêu từ 15 năm nay.

VII. Chiến thuật gán nhãn nguy hiểm

“Gieo bất mãn, gây hoài nghi về Nhà nước.”

“Làm nhiễu loạn dư luận.”

“Phán xét mơ hồ, đứng trên mà dạy đời.”

Tạo áp lực dư luận để bịt miệng tiếng nói phản biện.

Những kẻ dùng luận điểm bịt miệng này đa số là Facebook khóa trang, ẩn danh … cho phép chúng ta hiểu rằng họ là thế lực thù địch đang muốn chống lại sự tiến bộ, sự thay đổi của đất nước.

Cũng có thể chúng thuộc nhóm người đã gây nên nhân tai trong các thảm họa và đang tìm cách chống chế, chạy tội. Tất nhiên cũng có thể đó là một số bạn chưa nắm bắt vấn đề, chưa hiểu biết đầy đủ…

Vì vậy, nhắn gửi diễn viên Johnny Trí Nguyễn và các bạn đang lên tiếng về lũ lụt:

Các bạn không có gì phải sợ, phải e ngại trước những luận điểm này khi tâm các bạn sáng và mục đích các bạn tốt đẹp!

Và, nhất là khi tiếng nói của chúng ta phù hợp với chính sách của nhà nước. Mới nhất trong cuộc họp hôm qua, chính quyền cũng đã có những kết luận tương tự .

Nguồn : FB Đặng Chương Ngạn


 

Di tản khẩn cấp giữa biển lũ và đất sụt ở Đắk Lắk

Ba’o Dat Viet

November 27, 2025

Giữa những cơn mưa dầm dề và nỗi bất an dâng đầy trong lòng dân, hơn ba chục gia đình ở thôn Vĩnh Xuân, xã Tuy An Tây, tỉnh Đắk Lắk, lại một lần nữa phải rời bỏ mái nhà thân thuộc. Không còn là để tránh lũ, mà là để chạy trốn khỏi những vết nứt đang há miệng nuốt dần từng mảnh đất dưới chân họ.

Cơn mưa lớn đêm 19, rạng sáng 20 Tháng Mười Một đã khiến cả vùng đồi núi Vĩnh Xuân rung chuyển. Đường làng sạt lở, tường nhà nứt toác, đất nền trượt xuống từng mảng. “Nền đất yếu đi từng ngày, có chỗ đã lún sâu, tường nhà nứt và nghiêng hẳn,” ông Phan Quang Phi – chủ tịch xã Tuy An Tây – nói với báo VietNamNet. Cả xã buộc phải ra lệnh di tản khẩn cấp 35 hộ dân, tổng cộng 119 người, trước khi tai họa ập đến.

Không chỉ riêng Vĩnh Xuân, mưa lớn kéo dài suốt nửa tháng qua đã biến miền Trung và Tây Nguyên thành vùng thiên tai tang thương nhất trong nhiều thập niên. Theo số liệu từ Cục Quản Lý Đê Điều và Phòng Chống Thiên Tai, đợt mưa lũ “gần như chưa từng có trong hơn 50 năm quan trắc” từ ngày 16 đến 21 Tháng Mười Một đã khiến 108 người chết và mất tích.

Đắk Lắk là nơi chịu thiệt hại nặng nề nhất, với 71 người thiệt mạng hoặc mất tích. Khánh Hòa có 22 nạn nhân, Lâm Đồng năm người, Gia Lai và Đà Nẵng mỗi nơi ba người, Thừa Thiên Huế hai người, và Quảng Trị một người. Mỗi con số là một phận người, là một mái nhà bị cuốn trôi trong bùn đất.

Thiệt hại vật chất cũng khổng lồ: hơn 274,000 căn nhà bị ngập hoặc hư hỏng; gần 52,000 hécta lúa và hoa màu bị phá hủy; 39,000 hécta cây trồng khác thiệt hại nặng; hơn 920,000 con gia súc, gia cầm và 370 hécta thủy sản mất trắng. Hệ thống hạ tầng gãy gập theo dòng nước: quốc lộ 20 và 27C vẫn còn 12 điểm sạt lở nặng; hàng nghìn hộ dân mất điện, nhiều xã bị cô lập hoàn toàn vì mất kết nối thông tin. Thiệt hại kinh tế ban đầu được ước tính hơn 14,000 tỷ đồng, tương đương nửa tỷ Mỹ kim – con số mà người dân nghèo khó nơi đây phải trả bằng chính mồ hôi và nước mắt.

Trước thảm cảnh đó, Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam tuyên bố đã tiếp nhận hơn một triệu lượt quyên góp với tổng số tiền khoảng 2,088 tỷ đồng (gần 80 triệu Mỹ kim) tính đến ngày 25 Tháng Mười Một. Tuy nhiên, người dân trong vùng lại nói đến những đoàn cứu trợ nhỏ lẻ, tự phát – nhiều trong số đó là kiều bào và hội nhóm người Việt ở hải ngoại – đang âm thầm chuyển hàng cứu tế, tiền bạc và thuốc men trực tiếp đến tay người gặp nạn. Họ làm việc không cần “giấy phép,” không cần “chỉ đạo,” chỉ đơn giản vì lòng nhân ái.

Trong khi nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam vẫn hối hả tổ chức các buổi “vận động cứu trợ” theo lối hành chính, thì hàng trăm người dân ở vùng núi Đắk Lắk vẫn đang sống tạm bợ trong trường học, nhà văn hóa, hay dưới những mái tôn dựng tạm. Họ không biết ngày mai ra sao, chỉ mong trời ngớt mưa để còn trở lại mảnh đất đã gắn bó cả đời.

Từ nỗi đau thiên tai, người ta lại nhìn thấy một sự thật chua chát: trong khi đất đá sụp xuống từng ngày, thì niềm tin vào bộ máy cứu trợ của nhà nước cũng đang sụp đổ theo cách âm thầm nhưng không kém phần dữ dội.