9 tổ chức kêu gọi quốc tế đòi CSVN thả bà Phạm Đoan Trang

Ba’o Nguoi-Viet

December 12, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Chín tổ chức nhân quyền quốc tế đã cùng đứng tên chung kêu gọi cộng đồng quốc tế áp lực chế độ Hà Nội trả tự do cho nhà báo độc lập Phạm Đoan Trang.

Bà Phạm Đoan Trang, năm nay tuổi, năm nay 47 tuổi, bị nhà cầm quyền CSVN kết án 9 năm tù ngày 14 Tháng Mười Hai 2021 vì vu cho bà tội “Tuyên truyền chống” chế độ độc tài, đảng trị và cực kỳ tham nhũng tại Việt Nam.

Nhà báo độc lập Phạm Đoan Trang bị chế độ Hà Nội lôi ra tòa ngày 14 Tháng Mười Hai 2021, kết án 9 năm tù vì bà đã can đảm đấu tranh cho nhân quyền tại Việt Nam. (Hình: VNA)

“Phạm Đoan Trang là biểu tượng của quyền tự do báo chí và sự kiên cường. Bà dấn thân cho công lý và tự do báo chí không được phép bị bỏ quên. Bà xứng đáng được đặt lên hàng đầu các hoạt động ngoại giao và cộng đồng quốc tế phải làm hết tất cả mọi nỗ lực trong quyền hạn của mình để cho bà được trả tự do”.

Nhân ngày Quốc tế Nhân Quyền 10 Tháng Mười Hai, liên minh các tổ chức vận động cho bà Phạm Đoan Trang viết trong bức thư ngỏ gửi các chính phủ để thúc giục họ tích cực hành động mà nhờ đó bà có thể hy vọng chấm dứt tù tội. Liên minh 9 tổ chức đó gồm cả Phóng viên Không Biên giới (RSF), Văn Bút Quốc tế (PEN international), Ủy ban Bảo vệ Ký giả (CJP), Ân Xá Quốc tế v.v…

“Phạm Đoan Trang là biểu tượng của tự do báo chí nên tiếng nói của bà là đại diện cho tấy cả những người bị chế độ bịt miệng. Bà xứng đáng được tôn vinh cho lòng can đảm chứ không phải đáng bị bỏ tù trong những điều kiện khắc nghiệt, xa gia đình hàng ngàn cây số, chỉ vì đã làm nhiệm vụ của một nhà báo. Cộng đồng quốc tế phải vận dụng tất cả mọi nguồn lực để đòi CSVN trả tự do cho bà.” Lời bà Aleksandra Bielakowska, Giám đốc vận động khu vực Á Châu – Thái Bình Dương viết trong điện thư của RSF.

Theo thông tin mà các tổ chức trên được biết, sức khỏe của bà Phạm Đoan Trang ngày càng tồi tệ khi bị giam giữ trong những điều kiện tệ hại, lại không được chăm sóc y tế từ hệ quả những lần bị Công an CSVN hành hung dã man đến vỡ đầu, đánh gãy chân. Thêm nữa, ở trong trại giam An Phước tỉnh Bình Dương, bà bị di chứng từ dịch Covid-19 kéo dài như viêm xoang mãn tính, viêm khớp và nhiều vấn đề phụ khoa khác.

Bà là một nhà báo độc lập với những bài viết rất sắc sảo về tình hình thời sự chính trị tại Việt Nam phổ biến trên mạng xã hội và được hàng trăm ngàn người theo dõi suốt nhiều năm cho đến khi bị bắt. Bà là tác giả của một số sách vận động dân chủ hóa đất nước, nổi tiếng như “Chính trị bình dân”, “Cẩm nang nuôi tù”, “Phản kháng phi bạo lực” v.v…

Nhưng nhiều phần, tập tài liệu “Báo cáo Đồng Tâm” là đỉnh điểm đã dẫn tới việc chế độ Hà Nội quyết định bỏ tù bà để bịt miêng. Trong tài liệu này, bà kể lại từ nguyên ủy sâu xa của việc cưỡng chế đất nông nghiệp của dân xã Đồng Tâm huyện Mỹ Đức, Hà Nội, đến cuộc đàn áp đẫm máu đêm mùng 8 Tháng Giêng 2020 của hơn 3 ngàn lính công an, Cảnh sát cơ động. Những gì được kể ra trái với truyền thống bưng bít sự thật của chế độ Hà Nội về các cuộc cưỡng chế đất của dân.

Tấm hình này phổ biến trên YouTube nhân dịp bà Phạm Đoan Trang được Bộ Ngoại giao Mỹ vinh danh năm 2022 là một trong những phụ nữ can đảm trên thế giới. (Hình: YouTube)

Hồi Tháng Mười năm nay, cũng đã có 21 tổ chức quốc tế thúc giục các chính phủ trên thế giới áp lực buộc chế độ Hà Nội trả tự do vô điều kiện cho bà Phạm Đoan Trang. Tuy nhiên dù là áp lực trực tiếp chế độ Hà Nội hoặc gián tiếp qua các đối tác kinh tế chính trị với nhà cầm quyền độc tài này, người ta không hề thấy có kết quả khi chế độ ấy tảng lờ đối với áp lực cho nhân quyền.

Thậm chí, ngay sau khi bà bị kết án tù, một nhóm gồm 8 chuyên gia nhân quyền của Cao Ủy Nhân quyền LHQ, mà CSVN cũng là thành viên, đòi trả tự do cho bà, cũng bị chế độ bưng tai bịt mắt. Họ cho biết việc kết án tù Phạm Đoan Trang theo điều 88 Luật hình sự CSVN là “điều luật được viết một cách mơ hồ và vi phạm các chuẩn mực quốc tế về nhân quyền.”

Trong khi bà Phạm Đoan Trang bị CSVN đàn áp thẳng tay, bà lại được nhiều tổ chức quốc tế vinh danh và trao tặng giải thưởng vì những gì bà đã làm cho người dân trong nước, bất chấp khủng bố, tù tội. Năm 2022, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh danh bà là một trong những phụ nữ can đảm trên thế giới.(NTB)


 

 

 “CHA DONALD CALLOWAY: TỪ NGHIỆN NGẬP VÀ TỘI LỖI ĐẾN ƠN GỌI LINH MỤC”

Thao Teresa

  1. Xuất thân và tuổi thơ

Donald Calloway sinh ngày 29 tháng 6 năm 1972 tại Dearborn, Michigan, Hoa Kỳ. Gia đình ông sau đó chuyển đến West Virginia, rồi sang miền Nam California (Los Angeles – San Diego). Do cha/cha dượng phục vụ trong quân đội, gia đình thường xuyên di chuyển, khiến tuổi thơ của ông không có nhiều sự ổn định.

  1. Tuổi trẻ lạc lối: nghiện ngập – tội lỗi – mafia Nhật

Lớn lên trong môi trường thiếu định hướng, Donald rơi vào con đường sa ngã rất sớm:

– Khoảng 11 tuổi, ông đã bắt đầu dùng ma túy, nghiện ngập và sống buông thả.

– Ông bỏ học giữa chừng, lang thang và tiếp tục chìm trong tệ nạn.

– Khi gia đình chuyển sang Nhật Bản, Donald bỏ nhà đi, tham gia vào lối sống trụy lạc và dính líu đến tội phạm.

– Ông trở thành người vận chuyển ma túy và tiền cho mafia Nhật Bản (Yakuza).

– Năm 15 tuổi, ông bị trục xuất khỏi Nhật Bản vì các hoạt động phạm pháp.

– Trở về Mỹ, Donald nhiều lần vào trung tâm cai nghiện, nhưng liên tục tái nghiện.

18 tuổi, ông bị bắt và vào tù tại Louisiana.

– Thời gian này, Donald sống lang thang, nghiện ngập nặng, tinh thần suy sụp, có lúc muốn kết thúc cuộc đời mình.

Đó là giai đoạn đen tối nhất – tưởng chừng không còn hy vọng cho tương lai.

  1. Bước ngoặt hoán cải – Ánh sáng trở lại

Ơn Chúa đến một cách bất ngờ nhưng mạnh mẽ:

– Một đêm kia, trong lúc tâm hồn trống rỗng và rối loạn, Donald vô tình lấy từ tủ sách gia đình một quyển sách về Đức Mẹ Medjugorje.

– Khi đọc, ông cảm nhận một sự đánh động sâu xa: nỗi hối hận, khao khát thay đổi và ước muốn trở về với Thiên Chúa.

– Ông bắt đầu đến nhà thờ, tham dự Thánh lễ, xưng tội và quyết tâm làm lại cuộc đời.

– Nhờ ơn sủng này, ông xin gia nhập –  Dòng Thừa Sai Đức Mẹ Vô Nhiễm – MIC, một dòng tu nổi tiếng về lòng sùng kính Đức Mẹ và Lòng Thương Xót.

Từ một kẻ sa đọa, Donald bước vào hành trình trở thành môn đệ của Đức Kitô.

  1. Học vấn – Đào tạo – Lãnh chức linh mục

Sau khi hoán cải, Donald quyết tâm học hành và tu luyện:

– Ông hoàn thành chương trình Đại học (B.A.) tại – Franciscan University of Steubenville.

– Học Thần học tại – Dominican House of Studies, nhận bằng M.Div. và S.T.B.

– Tiếp tục học S.T.L. chuyên ngành Thánh Mẫu học (Mariology) tại International Marian Research Institute.

– Ngày 31 tháng 5 năm 2003, Donald Calloway được – truyền chức linh mục tại National Shrine of the Divine Mercy (Massachusetts, Hoa Kỳ).

Từ đây, cuộc đời ông bước sang chương mới: sống trọn vẹn cho Thiên Chúa và Hội Thánh.

  1. Sứ vụ linh mục – Truyền giáo – Viết sách

Trong sứ vụ của mình, cha Donald Calloway đã phục vụ với nhiều vai trò:

– Giữ các nhiệm vụ quan trọng trong Dòng MIC như – Vicar Provincial và Vocation Director.

– Trở thành nhà giảng thuyết – nhà truyền giáo nổi tiếng khắp thế giới.

– Tác giả của nhiều sách thiêng liêng, đặc biệt cuốn “Consecration to St. Joseph” được hàng triệu tín hữu đón nhận.

Giảng thuyết mạnh mẽ về sức mạnh của Kinh Mân Côi, lòng sùng kính Đức Mẹ và Lòng Thương Xót Chúa.

– Dẫn các chuyến hành hương đến nhiều thánh địa trên thế giới.

– Vì yêu thích lướt sóng, ngài được nhiều người gọi bằng biệt danh dễ thương: “the surfer priest”  linh mục lướt sóng.

  1. Ý nghĩa từ cuộc đời cha Donald Calloway

Câu chuyện đời ngài là một chứng tá đầy sức mạnh:

– Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi ai, dù họ tội lỗi đến mức nào.

– Không bao giờ quá muộn để quay đầu và trở về với Chúa.

– Lòng sùng kính Đức Mẹ có thể chạm đến những tâm hồn tội lỗi nhất.

– Quá khứ không quyết định tương lai – ơn Chúa có thể làm mới toàn bộ cuộc đời.

Ngày nay, cha Calloway dùng chính dấu tích đau thương của tuổi trẻ để nâng đỡ những ai đang nghiện ngập, tuyệt vọng, lạc lối – chứng minh rằng:

Không ai là quá tội lỗi để Thiên Chúa không thể cứu.

  1. Trích từ cha Donald Calloway

“Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Sao thật sự của thế giới.”

– Thế giới có nhiều “ngôi sao”:

– cầu thủ bóng đá

– ca sĩ nổi tiếng

– diễn viên

Nhưng tất cả rồi sẽ qua đi.

Chỉ có Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Sao không bao giờ lụi tàn

là Đấng luôn tỏa sáng và dẫn dắt nhân loại.”

Câu chuyện hoán cải của cha Donald Calloway cho chúng ta thấy rằng không có ai quá tội lỗi để bị Chúa bỏ rơi, và cũng không có vết thương nào sâu đến mức ân sủng không thể chữa lành. Một con người từng nghiện ngập, sa đọa, bạo lực, vô thần… đã trở thành một linh mục thánh thiện, được cả thế giới biết đến như một chứng nhân mạnh mẽ của Lòng Thương Xót Chúa và tình yêu của Đức Mẹ.

Chúa đã không chọn người hoàn hảo. Chúa chọn người “đã từng gãy đổ” để nói với nhân loại rằng ơn Chúa mạnh hơn bóng tối, và ai biết mở lòng ra thì đều có thể trở nên mới.

Nhìn vào cuộc đời cha Calloway, chúng ta cũng được mời gọi soi lại chính mình:

Có những vùng tối nào trong trái tim mà ta chưa trao cho Chúa?

Có những thói quen, yếu đuối, vết thương hay tội lỗi nào mà ta nghĩ rằng “mình không bao giờ thay đổi được”?

Câu chuyện của ngài nhắc chúng ta nhớ:

Ơn Chúa không nhìn quá khứ, chỉ nhìn trái tim biết trở về.

Nguồn tham khảo chính:

“Donald Calloway”  Wikipedia. (Wikipedia 1)

“Biography”  fathercalloway.com. (fathercalloway.com 11)

Bài viết “Từ kẻ chuyển ma túy cho mafia Nhật, trở thành linh mục”. ([Hội dòng Đaminh Tam Hiệp][6])

Link chính thức để đọc thêm: [https://fathercalloway.com/…/fathercalloway…/biography/)

[1]: https://en.wikipedia.org/wiki/Donald_Calloway… “Donald Calloway”

[2]: https://de.wikipedia.org/wiki/Donald_Calloway… “Donald Calloway”

[3]: https://cgvdt.vn/roi-bo-mafia-nhat-de-tro-thanh-linh-muc… “Rời bỏ mafia Nhật để trở thành linh mục”

[4]: https://www.columbuscatholicwomen.com/an-interview…/… “An Interview with Fr. Donald Calloway, MIC”

[5]: https://www.catholic.com/profile/fr-donald-calloway… “Fr. Donald Calloway | Catholic Answers Profile”

[6]: https://daminhtamhiep.net/…/tu-ke-chuyen-ma-tuy-cho…/… “Từ kẻ chuyển ma túy cho mafia Nhật, trở thành linh mục”

[7]: https://chnetwork.org/…/fr-donald-calloway-m-c…/… “Fr. Donald Calloway, M.I.C.: Kicked Out of Japan as a Teen …”

[8]: https://www.206tours.com/…/fr-donald-calloway-the…/… “Fr. Donald Calloway, The Pilgrimage King!”

[9]: https://www.thedivinemercy.org/…/maybe-youve-seen-him… “Maybe You’ve Seen Him on Film?”

[10]: https://saintpaulseminary.org/…/joyful-catholic…/… “Joyful Catholic Leaders Show: Out of the depths with Fr. …”

[11]: https://fathercalloway.com/biography/?utm_source=chatgpt.com “Biography”


 

Người phụ nữ thầm lặng tên Thu

Kim Dao Lam

 Fb Tri Nguyen Ông Tám

Người phụ nữ thầm lặng tên Thu

Trong những câu chuyện đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam, người ta thường nhắc đến những cái tên như Trịnh Bá Phương – người đàn ông kiên cường, dũng cảm đối diện với nhà tù và bạo lực chỉ vì dám lên tiếng cho người dân mất đất, cho những nạn nhân của bất công. Nhưng ít ai nhắc đến người phụ nữ luôn đứng sau lưng anh, lặng lẽ gánh lấy mọi nỗi đau lớn nhất: Thu Đỗ – người vợ, người mẹ, người đồng chí bất khuất.

Thu Đỗ không phải là người thích xuất hiện trước ống kính. Chị không diễn thuyết hùng hồn, không livestream dài dòng. Chị chỉ làm một việc duy nhất, ngày này qua ngày khác: sống sót để giữ lửa cho gia đình, để con cái còn có mẹ, để chồng dù trong tù vẫn còn biết rằng ở ngoài kia có một người phụ nữ nhỏ bé đang thay anh chống lại cả bầu trời sụp đổ.

Khi Trịnh Bá Phương bị bắt lần thứ nhất, rồi lần thứ hai, rồi bị kết án 10 năm tù với tội danh “tuyên truyền chống nhà nước”, rồi lần thứ ba thêm 11 năm chỉ vì một tờ giấy do người khác viết. Người ta thấy Thu Đỗ gầy đi trông thấy. Chị không khóc trước mặt ai. Chị chỉ lặng lẽ đi thăm nuôi, mang theo những gói bánh, chai nước mắm, và những lá thư viết tay mà anh Phương không bao giờ được đọc hết vì cán bộ trại giam giữ lại. Có lần chị kể, trên đường về từ trại giam Nam Hà, chị ngồi trên xe buýt mà nước mắt cứ rơi, nhưng chị lấy tay áo lau thật nhanh vì không muốn hành khách nhìn thấy. “Mình mà khóc thì ai lau nước mắt cho các con?” – chị nói, giọng nhẹ như gió.

Hai đứa con của anh chị, đứa nhỏ nhất còn chưa biết chữ “tù” nghĩa là gì. Thu Đỗ một mình nuôi con, một mình làm thuê, một mình đối mặt với những lần công an đến nhà “làm việc”, bị gọi lên đồn tra hỏi đến khi về được nhà thì trời đã gần sáng . Chị vẫn dậy nấu cơm cho con đi học, vẫn cười thật tươi khi con hỏi: “Mẹ ơi hôm nay mẹ ngủ đủ chưa?”. Không ai biết rằng tối hôm trước chị đã bị dọa dẫm, bị đe dọa sẽ cho cả nhà “đi theo chồng”.

Nhưng Thu Đỗ không bao giờ đầu hàng. Chị học cách livestream như chồng từng làm, giọng run run ban đầu, rồi dần dần đanh thép hơn. Chị kể về những ngày anh Phương bị tra tấn trong tù, về những vết thương không lành rồi lại mới, về những lần anh tuyệt thực đến kiệt sức. Chị nói mà như khóc, nhưng mắt vẫn khô: “Tôi chỉ muốn chồng tôi được chữa bệnh, được đối xử như một con người. Có gì sai đâu mà phải chịu thế này?”.

Có một chi tiết rất nhỏ mà khiến nhiều người rơi nước mắt: Mỗi lần đi thăm nuôi về, chị lại mang theo một chiếc áo anh Phương mặc trong tù để giặt. Chị giặt thật sạch, phơi khô, gấp thật gọn rồi… cất vào tủ, không mặc. Chị bảo: “Để dành, khi nào anh về thì mặc, còn thơm mùi nhà”. Chiếc tủ ấy đã chứa gần chục chiếc áo như thế suốt bốn năm qua.

Thu Đỗ không phải anh hùng theo nghĩa bắn súng hay hô khẩu hiệu. Chị là anh hùng theo cách đau đớn nhất của một người vợ, một người mẹ Việt Nam: dùng chính thân mình để che chắn cho chồng con trước bão tố. Chị không có vũ khí, chỉ có tình yêu và lòng kiên nhẫn ghê gớm của một người phụ nữ tưởng như yếu đuối mà lại mạnh mẽ hơn cả thép.

Hôm nay, khi Trịnh Bá Phương vẫn còn trong song sắt, khi những bản án bất công vẫn treo lơ lửng trên đầu những người dám nói thật, thì ở một góc nhỏ Hà Nội, vẫn có một người phụ nữ tên Thu Đỗ ngày ngày thắp hương thì thầm: “Anh ơi, em và các con vẫn ổn. Anh cứ yên tâm đấu tranh. Em ở đây, chờ anh về… dù phải chờ bao lâu cũng được”.

Và trong lòng những người biết câu chuyện này, đều thầm cầu nguyện: Mong một ngày không xa, người phụ nữ nhỏ bé ấy sẽ được ôm chồng trong vòng tay còn ấm hơi nhà, thay vì chỉ ôm những chiếc áo đã giặt sạch sẽ đang nằm lặng lẽ trong tủ.

Thu Đỗ – cái tên đẹp như một cánh hoa giữa mùa đông lạnh giá. Chị không cần ai phong thánh. Chị chỉ cần chồng được tự do, con cái được bình yên. Thế thôi mà sao khó đến thế.

Nhưng chị vẫn tin. Và vì chị tin, nên chúng ta cũng xin được tin cùng chị: rằng tình yêu và lòng kiên định cuối cùng sẽ thắng cả nhà tù và bất công.

Cảm ơn chị, Thu Đỗ – người vợ Việt Nam đẹp nhất mà chúng tôi từng biết.


 

11 NGƯỜI BẦU VÀ 34 NGƯỜI MẸ ĐƠN THÂN KHÔNG ĐỒNG

Nguyễn Văn Tịch 

 11 NGƯỜI BẦU VÀ 34 NGƯỜI MẸ ĐƠN THÂN KHÔNG ĐỒNG

Nhà Tạm Lánh Mai Tiến không đồng là nơi giúp cho các mẹ bầu và mẹ đơn thân. Đây là Quán Trọ của Giáo hội, giáo phận Xuân Lộc cho những mẹ đang gặp khó khăn đến tá túc lúc bị bỏ lại, lúc khó khăn, lúc bị bạo hành, lúc lang thang… Quán Trọ Mai Tiến luôn đủ chỗ cho các mẹ và các bé, bởi vì tấm lòng của các đức giám mục và của Giáo hội luôn luôn thương xót, thì chỗ ở vẫn còn.

11 mẹ bầu và 34 mẹ đơn thân hiện trong Nhà Tạm Lánh là con số ai nghe cũng hỏi : còn đủ chỗ, đủ phòng cho các mẹ nữa không. Nhà Tạm Lánh Mai Tiến đã dự trù những căn phòng, những bữa cơm, sữa bỉm, nơi chăm sóc trẻ… Tôi chỉ nghĩ đơn giản, mình còn có tấm lòng thì các mẹ và các bé vẫn chỗ ăn ở….

Thật ấm lòng khi thấy các mẹ muốn phá thai, giờ tiếp tục cưu mang con và sinh con. Thật ý nghĩa khi thấy các bé đáng lẽ đã dừng lại ở Nghĩa Trang Thai Nhi giờ vẫn được sống và được yêu thương, được lớn lên. Thật vui khi thấy các mẹ lại đầy sức sống : đi làm, sống tốt hơn, sống trên đôi chân mình và chăm sóc con cái của mình…. Với đủ công việc : rửa chén, bảo mẫu, giáo viên, công nhân, làm việc nhà,… để các mẹ có cuộc sống và nuôi con cái.

Sáng sáng các mẹ gửi con lên nhà trẻ, tung tăng đi làm, chiều về lên nhà trẻ đón con về, chăm sóc con, tối ăn cơm chung, đọc kinh cầu nguyện và nghỉ ngơi ấm áp, riêng tư. Mỗi phòng các mẹ tự sắp xếp và chăm sóc phòng của mình ngăn nắp, sạch sẽ như căn nhà riêng để cuộc sống các mẹ có tư cách, có trách nhiệm và tử tế với mọi người chung quanh. Khi nào các mẹ hoà giải được gia đình, tự lập thì rời Nhà Tạm Lánh Mai Tiến để hội nhập với xã hội.

Các bé được tiêm vaccin theo chương trình của chính phủ cũng rất đầy đủ. Nhà sơ sinh cho các bé dưới 1,5 tuổi, nhà trẻ cho các bé từ 1,5-6 tuổi. Tất cả cũng trong Nhà Tạm Lánh Mai Tiến, thuận tiện. Còn các bé lớp 1 trở lên thì ra trường nhà nước học, hết giờ học về lại Nhà Tạm Lánh.

Xin cám ơn Giáo hội Mẹ đã cho con sứ vụ này, Xin cám ơn tất cả quý vị và các bạn cùng con làm thành Quán Trọ không đồng cho những phận người bị bỏ lại, tha hương và gánh nặng nề đến 4 con. Cầu xin ơn Trên ban sức khoẻ, bình an, lòng thương xót và thánh thiện để chúng ta tiếp tục là Quán Trọ cho các phận người mang gánh nặng nề không phân biệt tôn giáo.

Linh Mục Giuse Nguyễn Văn Tịch, TB BVSS giáo phận Xuân Lộc.


 

BẢO ĐẠI – HOÀNG ĐẾ ĐA TÌNH VỀ LÀM RỂ GÒ CÔNG…

Việt Luận – Viet’s Herald

Trần Văn Nhựt

Chuyện tình nào cũng ít được suông sẻ, kể cả nhà vua cũng vậy. Muốn làm rể Gò Công không phải là dễ.

Gái Gò Công không tự cho mình là đẹp, nhưng tự hào có được Hoàng Hậu Nam Phương. Hoàng Hậu duy nhứt của triều Nguyễn, qua 12 – 13 đời vua, trị vì 153 năm, đó là bà Nguyễn Hữu Thị Lan – (Mariette Jeanne Nguyễn Hữu Thị Lan con của Ông Nguyễn Hữu Hào). Người đẹp nhứt thời bấy giờ, bà đã ba năm liền trúng giải hoa hậu Đông Dương. Người đã chiếm trọn trái tim Hoàng Đế Bảo Đại khi mới gặp mặt lần đầu tiên trên chiếc tàu D’Artagnan. Hoàng Đế si tình đến nỗi thà bỏ ngôi vua chớ không chịu bỏ làm rể xứ Gò. Thật vậy, khi bị bà Từ Cung từ chối, Bảo Đại nói nếu không lấy được Thị Lan thì sẽ “ở vậy” suốt đời. Nếu chọn một trong hai, tôi sẽ chọn Thị Lan chớ không chọn ngai vàng. Đó là lời thuật của viên bí thư của Bảo Đại.

Ai ở Gò Công mà không biết Nguyễn Hữu Hào rể của Ông Huyện Sỹ tức Lê Phát Đạt đã xây ba nhà thờ: Chợ Đũi, Hạnh Thông Tây và Thủ Đức để dâng cúng cho dân địa phương. Dân địa phương thường gọi là nhà thờ Huyện Sỹ.

Cái trở ngại lớn nhứt của Bảo Đại đó là triều đình nhà Nguyễn thì chủ trương chống lại công giáo, chống lại dân Tây mà Tây thì bị xem là kẻ xâm lược nước mình, còn gia tộc của Nguyễn Hữu Thị Lan thì quốc tịch Pháp và nặng nhứt là sùng đạo.

Người Nam Kỳ từ đầu thế kỷ 20 đã truyền miệng nhau câu “Nhất Sỹ, nhì Phương, tam Xường tứ Định”. Nghĩa là người giàu nhứt Nam Kỳ thời đó là gia đình Huyện Sỹ (Tỷ phú), tức ông ngoại của Nguyễn Hữu Thị Lan.

Nếu so với Hoàng Đế cuối cùng của Trung Hoa – vua Phổ Nghi sau khi bị hạ bệ thì bị đày đi nông trường cải tạo nhiều năm mới được cho về làm công dân Trung Quốc, thì Bảo Đại – người Rể Gò Công nầy may mắn hơn nhiều, diễm phúc hơn nhiều cũng là nhờ bà Hoàng Hậu Nam Phương – Người con gái Gò Công làm nên lịch sử.

Muốn làm rể Gò Công không phải là dễ. Đầu tiên là việc chống đối của triều đình. Các quan đại thần, ông nào cũng có con gái lớn chạc bằng hoặc nhỏ tuổi hơn cũng đều muốn gả cho Bảo Đại. Đó là truyền thống, đó là danh dự suốt cuộc đời làm quan cho triều đình. Làm Quốc trượng ai ai mà không ham.

Trong đoạn hồi ký “Con Rồng An Nam” ông tâm sự: “M.J Lan có một vẻ đẹp thùy mị của người con gái miền Nam, hiền lành và quyến rũ làm tôi say mê.

Vì vậy tôi ngỏ ý xin cưới cô và cô đã đồng ý nhưng với điều kiện:

– Gia đình cô đồng ý trước đã

– Về phía gia đình cô Mariette Jeanne Lan cũng đồng ý nhưng phải thêm các điều kiện sau:

– Nguyễn Hữu Thị Lan phải được tấn phong Hoàng Hậu Chánh Cung ngay ngày cưới.

– Được giữ nguyên đạo Công Giáo, và các con khi sinh ra phải được rửa tội theo luật công giáo và giữ đạo.

-Riêng Bảo Đại thì vẫn giữ đạo cũ là Phật giáo.

-Phải được Tòa Thánh La Mã cho phép.

Tiếp đó cụ Tôn Thất Nhân nêu lý do: Thị Lan chỉ đậu tú tài toàn phần Pháp không thể so ra với Trạng Nguyên xứ ta, lại đòi làm Hoàng Hậu nữa thì không thể chấp nhận được.

Trước Hoàng Tộc, Bảo Đại thẳng thắn trả lời Tôn Nhân Phủ như sau: “Trẫm cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và Triều đình đâu.” Câu nói lịch sử mà tất cả triều thần đều trố mắt nhìn nhau chịu thua. Tình yêu là sức mạnh. Tình yêu là trên tất cả.

Cuối cùng thì tình yêu đã thắng. Ngày cưới được ấn định vào ngày 20 tháng 3 năm 1934. Bảo Đại đúng 21 tuổi, và Nguyễn Hữu Thị Lan 19 tuổi. Bảo Đại chính thức là Rể Gò Công. Ngày mùng 10 tháng 2 (tức tháng 3 năm 1934) lễ tấn phong Hoàng Hậu được diễn ra rất trọng thể ở điện Dưỡng Tâm.

Bảo Đại chính thức đã có với Nam Phương Hoàng Hậu năm người con: hai trai và ba gái:

Hoàng tử Bảo Long 1936

Công chúa Phương Mai, ngày 1 – 4 năm 1937.

Công chúa Phương Liên, ngày 3 – 11 năm 1938.

Công chúa Phương Dung, ngày 5 – 2 năm 1942.

Hoàng tử Bảo Thắng năm 1948.

Trần Văn Nhựt


 

Chế độ Hà Nội ra lệnh truy nã, truy tố người bất chấp luật lệ-*Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

December 11, 2025

*Chuyện Vỉa Hè
*Đặng Đình Mạnh

Ngày 28 Tháng Mười 2025, Công an tỉnh Hưng Yên thông báo ban hành “Quyết định truy nã” bà Đặng Thị Huệ (Huệ Như), người bị khởi tố hình sự theo Điều 117 Bộ luật Hình sự về tội danh “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu nhằm chống Nhà nước”.

Khoảng hơn một tháng sau, ngày 5 Tháng Mười Hai 2025, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an tiếp tục ra thông báo ban hành “Quyết định truy nã” đối với luật sư Nguyễn Văn Đài và nhà báo Lê Trung Khoa cùng về tội danh theo Điều 117 tương tự.

Luật sư Nguyễn Văn Đài (bên phải) và nhà báo Lê Trung Khoa (bên trái) chụp hình chung với bà luật sư của họ. Hai ông bị CSVN “khởi tố” và “truy nã” rồi sẽ xử án khiếm diện. (Hình: FB Lê Trung Khoa)

Được biết, cả ba người bị truy nã gồm bà Đặng Thị Huệ (Huệ Như), luật sư Nguyễn Văn Đài và nhà báo Lê Trung Khoa hiện đang cư trú hợp pháp, công khai tại Cộng hòa Liên bang Đức.

Nếu chỉ đọc bản tin, công chúng có thể cho rằng đây là hoạt động tố tụng bình thường. Nhưng khi tham chiếu với Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, đặc biệt tại các điều 229 và 231 quy định về truy nã, thì bức tranh tư pháp hiện ra hoàn toàn khác, đây không phải là thực thi pháp luật, mà là sự bẻ cong pháp luật một cách cố ý vì nhu cầu chính trị của chế độ.

Truy nã, một biện pháp tố tụng

Luật tố tụng hình sự CSVN quy định rất rõ, rằng truy nã chỉ được áp dụng trong phạm vi giới hạn, bao gồm: Khi không xác định được nơi ở của bị can hoặc khi bị can trốn tránh pháp luật, cụ thể như sau:

– Điều 229 quy định: Truy nã chỉ đặt ra trong trường hợp “không biết rõ bị can đang ở đâu” sau khi đã hết thời hạn điều tra.

– Điều 231 tiếp tục khẳng định: Chỉ truy nã khi “bị can trốn hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu”.

Hai điều luật này không hề mơ hồ, không có khoảng trống để có thể “linh hoạt” diễn giải và cũng không có ngoại lệ cho ý chí chính trị. Nôm na, truy nã chỉ hợp pháp khi không biết họ ở đâu hoặc họ đang lẩn trốn.

Trong khi đó, sự thật không thể chối cãi là cả ba người đang bị truy nã, gồm các ông bà Đặng Thị Huệ, Lê Trung Khoa và Nguyễn Văn Đài đều “ở đâu” một cách không thể rõ ràng hơn! Cả ba đều đang cư trú hợp pháp, công khai tại Cộng hòa Liên bang Đức, có địa chỉ rõ ràng, có quy chế cư trú. Đồng thời, họ cũng không hề có hành vi lẩn trốn đi đâu cả.

Trong đó, bà Đặng Thị Huệ (Huệ Như) và luật sư Nguyễn Văn Đài viết bài, đi khắp nơi để diễn thuyết về thực trạng nhân quyền Việt Nam. Nhà báo Lê Trung Khoa vẫn đăng tải hàng ngày thông tin chính trị trong nước trên trang mạng xã hội cá nhân của mình và trên báo mạng Thoibao.de.

Chế độ CSVN biết rất rõ điều này, bằng chứng là trong chính bản cáo trạng của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao truy tố ông Lê Trung Khoa, được trích đăng tải trên truyền thông trong nước, tại mục lý lịch “Nơi ở hiện nay” ghi rất rõ: “Cộng hòa Liên bang Đức”. Cho thấy, chính cơ quan tiến hành tố tụng của chế độ CSVN thừa nhận rằng họ biết rõ nơi cư trú của ông Khoa.

Vậy câu hỏi pháp lý đặt ra không chỉ là: Có quyền truy nã hay không, mà là lấy tư cách gì để truy nã khi điều kiện pháp lý để truy nã không hề tồn tại? Và truy nã, một biện pháp tố tụng, trong trường hợp này, đã bị bẻ cong để biến thành một hành xử chính trị.

Truy nã không đúng luật, dấu hiệu điển hình của lạm quyền tố tụng

Khi cơ quan điều tra cao nhất thuộc về cấp bộ trung ương (Bộ Công an) ban hành lệnh truy nã trong điều kiện không có các yếu tố luật định gồm “không biết rõ nơi ở” và “trốn tránh”, thì hành vi tố tụng đó không thể là sai sót nghiệp vụ thông thường, mà đích thị, đó là sự lạm quyền tố tụng.

Nghiêm trọng hơn, đó là biến một biện pháp tố tụng thành công cụ chính trị, nhằm tạo hiệu ứng tâm lý thông qua truyền thông rằng các cá nhân này là “tội phạm bỏ trốn”, trong khi thực tế họ đang sinh sống công khai, hợp pháp và sinh hoạt bình thường tại một quốc gia khác, chứ không hề trốn tránh luật pháp.

Nói cách khác, đây là một dạng “truy nã chính trị trá hình”.

Vấn đề cốt lõi là tuy ban hành lệnh truy nã hình sự đối với các ông bà Đặng Thị Huệ, Lê Trung Khoa và Nguyễn Văn Đài đầy vẻ nghiêm trọng như thế, nhưng lại trở thành trò hề cười cợt cho chính những người bị truy nã mà thôi. Vì lẽ, họ biết rất rõ rằng chế độ Cộng Sản Việt Nam không thể viện dẫn lệnh truy nã để có thể chạm mảy may đến sự tự do của họ được.

Thông thường, sau lệnh truy nã nội địa, thì lệnh ấy được chuyển đến cơ quan Interpol quốc tế để được ban hành lệnh truy nã đỏ. Thế nhưng, một lệnh truy nã đỏ chỉ có thể được ban hành khi sự khởi tố, truy nã nội địa ấy không trái với luật pháp trong nước và tiêu chuẩn pháp quyền quốc tế.

Thế nhưng, với việc khởi tố hình sự các ông bà Đặng Thị Huệ, Lê Trung Khoa và Nguyễn Văn Đài bằng điều luật 117 Bộ luật Hình sự Việt Nam, một điều luật vô pháp và mang nặng màu sắc chính trị, thì bản thân sự khởi tố ấy đã không hề phù hợp với tiêu chuẩn pháp quyền quốc tế. Cho nên, việc yêu cầu Interpol ban hành một lệnh truy nã đỏ là hoàn toàn không bao giờ được chấp nhận.

Chưa kể đến việc chế độ ban hành quyết định truy nã trái pháp luật. Vì nếu một quyết định vi phạm chính luật tố tụng của quốc gia ban hành, thì trên bình diện quốc tế, nó không khác gì một văn bản pháp lý bị vô hiệu.

Bà Đặng Thụ Huệ, bút danh Huệ Như đang ở nước Đức cũnh bị chế độ Hà Nội ra lệnh “khởi tố” và “truy nã” vì hoạt động chống chế độ độc tài đảng trị và cực kỳ tham nhũng tại Việt Nam. (Hình: FB Huệ Như)

Điều này lý giải vì sao trong thực tế, những lệnh truy nã mang màu sắc chính trị như vậy không có giá trị thực thi tại Đức hay tại hầu hết các quốc gia văn minh khác. Không phải vì họ “chống” chế độ CSVN, cũng không phải vì lý do ý thức hệ gì cả, mà đơn giản vì họ không công nhận hành vi lạm dụng tố tụng theo cách mà chế độ trong nước thường hành xử một cách phổ biến.

Hệ quả nguy hiểm về niềm tin pháp quyền

Một quốc gia chỉ có thể yêu cầu công dân tôn trọng pháp luật khi chính cơ quan công quyền hành xử trong khuôn khổ pháp luật. Khi luật tố tụng hình sự quy định rất rõ về các điều kiện truy nã hình sự, nhưng cơ quan tiến hành tố tụng vẫn cố tình bẻ cong theo ý mình, thì thông điệp gửi ra xã hội là gì nếu không phải là sự vô pháp? Nếu không phải vì động cơ chính trị? Trong trường hợp này, niềm tin pháp quyền có là gì khi chính cơ quan công quyền ngang nhiên vi phạm pháp luật?

Đó chính là dấu hiệu điển hình của một nền tư pháp bị chính trị hóa.

Tóm lại, bằng việc ban hành các “Quyết định truy nã” hình sự đối với bà Đặng Thị Huệ, nhà báo Lê Trung Khoa và luật sư Nguyễn Văn Đài, những người bất đồng chính kiến đang cư trú hợp pháp, công khai tại Cộng hòa Liên bang Đức, đã cho thấy tình trạng vô pháp của chế độ CSVN nặng nề như thế nào. Không chỉ đối với đồng bào trong nước, mà nay còn “vươn vòi” ra thế giới để đàn áp đồng bào sinh sống tại hải ngoại.

Theo đó, chế độ đã công nhiên lạm dụng pháp lý, bẻ cong các thủ tục tố tụng, biến chúng trở thành các biện pháp đàn áp nhân dân, phục vụ cho nhu cầu chính trị, củng cố quyền lực chế độ độc tài, phản động vốn đã lỗi thời và tồn tại trong sự oán ghét, xem thường của nhân dân.

Hoa Thịnh Đốn, ngày 8 Tháng Mười Hai 2025

Đặng Đình Mạnh.


 

LỊCH SỰ- Nguyễn Hưng Quốc

Nguyễn Hưng Quốc

LỊCH SỰ

Năm 1979, tốt nghiệp Đại học Sư phạm, tôi được giữ lại trường làm giảng viên môn Văn học Việt Nam. Một lần, giáo sư Mai Quốc Liên, thầy cũ của tôi, dẫn tôi đến thăm nhà phê bình Hoài Thanh (1909-82). Lúc ấy ông bà Hoài Thanh đã dọn vào sống ở Sài Gòn. Nói chuyện một lát, không nhớ tại sao, cả Hoài Thanh lẫn thầy tôi (vốn từ Hà Nội vào) lại so sánh người miền Nam và người miền Bắc. Hoài Thanh nhận xét:

“Bản chất của chế độ nguỵ là xấu vậy mà không hiểu sao nó lại đào tạo con người giỏi thế. Ai cũng lịch sự. Cứ mở miệng ra là cám ơn với xin lỗi rối rít. Ngồi ở trong nhà, có ai đi ngoài đường chõ miệng hỏi cái gì mà mình trả lời xong, cắp đít đi thẳng, không thèm cám ơn một tiếng, thì không cần nhìn, mình cũng biết ngay đó là dân ngoài Bắc vào.”

Năm 1996, lần đầu tiên về Việt Nam, tôi ở Hà Nội ba tuần. Suốt thời gian ấy, hầu như hàng ngày, tôi hay ra vào các tiệm sách để tìm các tài liệu mình cần cho công việc nghiên cứu ở Úc. Mỗi lần vào tiệm, tôi đều gật đầu chào các cô bán sách. Tất cả đều trố mắt nhìn tôi, đầy ngạc nhiên. Sau khi trả tiền sách, tôi “cám ơn”, họ lại trố mắt nhìn tôi, vẫn đầy ngạc nhiên. Nhìn họ, tôi nhớ đến các hợp tác xã thời bao cấp. Ở đó, những người bán hàng là những kẻ đầy quyền lực. Họ bán như bố thí. Mặt họ lúc nào cũng lạnh tanh. Không bao giờ cười hay chào ai cả.

Mà không phải chỉ những người bán hàng. Dạo ấy, đi ra ngoài đường, tôi cũng hiếm nghe những tiếng “xin lỗi” hay “cám ơn”. Cực hiếm.

Ở trên toàn là những chuyện cũ, đã hơn 40 năm. Chắc chắn bây giờ tình hình đã khác. Nhắc lại chủ yếu là để nhớ lại miền Nam xưa cũ. Vậy thôi.


 

Đà Lạt – Lâm Đồng Tiếp Tục Tê Liệt Vì Sạt Lở Nhiều Đèo Sau Mưa Lớn

Ba’o Dat Viet

December 5, 2025

Những trận mưa nặng hạt kéo dài từ ngày 3 đến rạng sáng 5 Tháng Mười Hai đã gây ra hàng loạt vụ sạt lở nghiêm trọng trên các tuyến đèo trọng yếu của tỉnh Lâm Đồng, khiến giao thông tê liệt và nhiều khu dân cư bị nhấn chìm trong nước lũ. Theo Dân Trí, tình hình tại Đà Lạt và các xã lân cận đang trở nên đặc biệt đáng lo ngại khi nhiều khu vực chìm trong ngập lụt, đất đá tiếp tục đổ xuống đường và hàng trăm hecta hoa màu bị phá hủy.

Đèo Mimosa, D’Ran, Gia Bắc đồng loạt sạt lở

Nửa đêm 4 Tháng Mười Hai, đèo Mimosa lại xảy ra sạt lở đúng tại đoạn đường tạm vừa được thông xe chưa đầy một tuần. Nhà chức trách lập tức phong tỏa, cấm phương tiện qua lại và thiết lập trực chiến để theo dõi diễn biến sạt lở nhằm ngăn nguy cơ tiếp tục đổ đất xuống đường.

Tình cảnh tương tự diễn ra trên đèo D’Ran, quốc lộ 20 đoạn gần cầu Xéo – nơi ranh giới giữa phường Xuân Trường (Đà Lạt) và xã D’Ran. Người dân đi làm và học sinh đi học sáng 4.12 hoàn toàn không thể qua lại vì mặt đường bị đất đá che kín.

Sở Xây dựng Lâm Đồng xác nhận thêm: đèo Sacom – hồ Tuyền Lâm, đèo Prenn đều ghi nhận sạt lở tại nhiều vị trí. Dù xe vẫn có thể lưu thông với tốc độ hạn chế, lực lượng chức năng đang gấp rút thu dọn đất đá để tránh nguy cơ tắc đường kéo dài.

Đáng lo ngại nhất là đèo Gia Bắc trên quốc lộ 28 nối Phan Thiết – Di Linh. Tại các Km43, Km50 và Km53, lượng đất đá sạt xuống dày đặc đến mức lấp hoàn toàn mặt đường, chia cắt giao thông và khiến mọi phương tiện phải dừng lại. CSGT đã phải chốt chặn từ hai đầu đèo, hướng dẫn tài xế quay đầu để tránh nguy hiểm.

Tại xã Hiệp Thạnh, nước từ thượng nguồn đổ về khiến quốc lộ 20 qua các thôn Định An, K’Rèn, K’Long bị nhấn chìm. Ông Hồ Hữu Hiếu – Trưởng phòng Kinh tế – Hạ tầng – Đô thị xã Hiệp Thạnh – cho biết mưa lũ từ nửa đêm đến rạng sáng đã làm ngập hơn 400 ha đất sản xuất, phá hủy hoa màu và gây thiệt hại lớn cho người dân.

Trên 70 căn nhà ngập sâu từ 1,5 đến 2,5 mét, hai căn nhà bị hư hỏng nặng, ba cây cầu dân sinh bị sạt lở. Nhờ lực lượng cứu hộ có mặt kịp thời, 16 người dân, gồm cả người già, trẻ nhỏ và bệnh nhân, đã được đưa ra khỏi vùng nguy hiểm. Rất may không có thiệt hại về người.

Bên trong nội thành Đà Lạt, nước mưa dâng cao gây ngập nặng khu vực dọc suối Phan Đình Phùng thuộc phường Cam Ly và Xuân Hương. Các khu dân cư, nhà kính trồng hoa ở đường Cách Mạng Tháng 8, Trạng Trình, Trương Văn Hoàn (phường Lâm Viên) cũng bị bao phủ bởi nước lũ, nhiều khu vực biến thành sông chỉ trong vài giờ.

Lâm Đồng hiện đang đối mặt với nguy cơ sạt lở lan rộng khi mưa lớn vẫn kéo dài, đất đá chưa kịp ổn định và nhiều tuyến giao thông nằm trên địa hình dốc. Chính quyền địa phương đang huy động tối đa nhân lực, máy móc để mở đường, hỗ trợ người dân sơ tán và hạn chế thiệt hại thêm.

Sau nhiều đợt sạt lở liên tiếp trong năm, người dân Lâm Đồng không chỉ lo lắng trước thiệt hại vật chất mà còn đặt câu hỏi lớn về năng lực ứng phó thiên tai cũng như tình trạng phá rừng, quy hoạch yếu kém khiến khu vực cao nguyên này ngày càng dễ tổn thương trước mưa lũ.


 

NỖI ĐAU KHÔNG CÒN GÌ ĐỂ MẤT… – BS Xuân Sơn Võ

Việt Luận – Viet’s Herald

BS Xuân Sơn Võ

“… Đặt mình vào vị trí người dân ở đây, có lẽ sẽ cảm thấy đau lắm, khi phải chịu mất mát, mà không phải do mình ẩu, cũng không phải do Trời phạt mình. Mất chỉ vì thằng khác ẩu. Mà nó không ẩu để gây hậu quả cho nó, cho cha mẹ nó, cho vợ con nó. Nó ẩu mà nó gây hậu quả cho bà con mình, cho bản thân mình, và gia đình mình… Nó lời một đồng, nó làm người ta mất hết tài sản. Nó ăn một miếng, còn người ta thì mất mạng…”

Một trong các thắc mắc mà mấy anh em chúng tôi cứ hỏi nhau hoài, là làm sao có thể tính được thiệt hại vật chất trong vụ lũ lụt vừa qua ở những nơi chúng tôi đến, tại Khánh Hòa, tại Phú Yên?

Mất sạch. Có lẽ đó là khái niệm chung nhất của bà con ở những vùng lũ lụt nặng. Nhưng mất sạch theo quan niệm chung, là mất những cái “động sản”, còn những thứ thuộc về “bất động sản” thì đâu có mất đi đâu. Nhưng không. Truyền thông đưa tin, nơi có 7 cái trang trại nuôi heo bò gà vịt đã bị biến thành một dòng sông. Ngay cả bất động sản cũng bị lũ cuốn trôi luôn.

Mất sạch ở đây cần được hiểu rằng, có gì mất nấy. Có ít mất ít, có nhiều mất nhiều. Có càng nhiều mất lại càng nhiều. Sau lũ, ai cũng trắng tay, ai cũng bắt đầu lại với hai bàn tay trắng… bệch. Cứu trợ bao nhiêu cho đủ, đền bù bao nhiêu cho đủ. Tiền tỉ mang ra đó, cũng chỉ như muối bỏ biển, chẳng thấm tháp vào đâu. Cái gì cũng phải mua lại, từ cây kim, sợi chỉ, đến xong nồi, chén dĩa, đũa muổng…

Anh Toàn, chủ một cơ sở bida thuộc hàng top đầu ở Tuy Hòa, Phú Yên với 20 cái bàn bida phải bỏ đi, phải thay mới hoàn toàn. Đi trên đường Võ Nguyên Giáp ở Nha Trang, bạt ngàn xe hơi chờ sửa sau khi bị ngập. Ngay trong thành phố Nha Trang, cứ chỗ nào thấy xe hơi xếp hàng dài, lớp trong lớp ngoài, là y như rằng ở đó có cái garage, xe xếp hàng đó để chờ đến lượt vô sửa. Đi trên cao tốc, ngoài các chuyến xe cứu trợ có gắn bandrole, thì nhiều thứ nhì là những chuyến xe cứu hộ, kéo những chiếc xe bị lũ đi từng đoàn, từng đoàn… theo hướng ngược lại.

Nhiều tỉnh đã phải điều xe rác đến Khánh Hòa, Phú Yên để giúp dọn rác. Dân ở đây làm gì mà lắm rác vậy? Không, đó là của cải, là tài sản, là mồ hôi, là nước mắt… của bao nhiêu người dân, bị lũ lụt biến thành rác. Chứng kiến một chỗ người ta đốt rác, trong đó lỏng chỏng tủ lạnh, TV… Không chỉ có cảm giác xót ruột. Của cải, tài sản không phải của mình, nhưng sống mũi cứ cay cay, lái xe nhìn đường cứ nhòe đi.

Đặt mình vào vị trí người dân ở đây, có lẽ sẽ cảm thấy đau lắm, khi phải chịu mất mát, mà không phải do mình ẩu, cũng không phải do Trời phạt mình. Mất chỉ vì thằng khác ẩu. Mà nó không ẩu để gây hậu quả cho nó, cho cha mẹ nó, cho vợ con nó. Nó ẩu mà nó gây hậu quả cho bà con mình, cho bản thân mình, và gia đình mình… Nó lời một đồng, nó làm người ta mất hết tài sản. Nó ăn một miếng, còn người ta thì mất mạng.

Đau hơn nữa, là biết vậy, mà vẫn cứ phải cắn răng chịu mất, cứ phải chống mắt nhìn nó ăn, nhìn nó kiếm tiền, nhìn bà con mình bỏ mạng, nhìn của cải, đồ đạc mất sạch, nhìn hai bàn tay trắng bệch…

BS Xuân Sơn Võ


 

Vụ chính quyền Trump trục xuất bà Melissa Trần phơi bày bi kịch của người Việt nhập cư (BBC)

 BBCVietnamese

Cảnh sát di trú đang thực hiện một chiến dịch truy quét nhập cư bất hợp pháp vào đầu năm 2025 tại Chicago (trái); bà Melissa Tran (phải)

Sau hàng chục năm sống tại Mỹ với tấm thẻ xanh, bà Melissa Trần đã bị trục xuất về Việt Nam ngày 17/11/2025.

Hành trình bay 48 giờ được mô tả là “đầy đau khổ”.

Bà Melissa Trần, tên thật là Trần Thị Mộng Tuyền, đã bị cùm tay và chân trong suốt chuyến bay dài 48 tiếng, qua nhiều chặng dừng, từ Mỹ về Việt Nam.

Trong tin nhắn gửi luật sư, bà Melissa Trần nói rằng bà cảm thấy “bị đối xử tồi tệ còn hơn một con vật”.

Hiện bà đang ở với một người anh họ tại Việt Nam, để lại gia đình gồm chồng và bốn con ở Maryland, Mỹ.

Luật sư của bà Melissa Trần nói với BBC News Tiếng Việt rằng vụ trục xuất là “một bi kịch”, trong khi cộng đồng ở Mỹ vẫn đang nỗ lực để đưa bà trở về Mỹ.

“Bà Melissa Trần nhận được sự ủng hộ to lớn từ cộng đồng địa phương.”

“Tất cả những người quen biết bà ấy đều đã bày tỏ rằng họ sẽ làm những gì có thể để hỗ trợ bà ấy.”

“Cần thấy rằng đây là một sai lầm nghiêm trọng về mặt tư pháp và chúng ta cần tìm cách đưa bà ấy trở về,” luật sư Jennie Pasquarella nói với BBC News Tiếng Việt, và nhấn mạnh rằng việc này hiện đang phụ thuộc rất lớn vào các chính trị gia Mỹ.

Về khả năng bà Melissa quay lại nước Mỹ, bà Pasquarella nói “khó” nhưng “vẫn có thể”.

Bà Jennie Pasquarella cũng chỉ trích cách thức mà chính quyền Mỹ đối xử với những người bị giam giữ hoặc bị trục xuất, như cùm tay chân họ, là đi ngược lại hiến pháp và và các chuẩn mực quốc tế, có thể cấu thành hành động “tra tấn”.

“Luật pháp Mỹ quy định chính phủ không được phép giam giữ người nhập cư chỉ nhằm mục đích trục xuất, theo cách có tính chất trừng phạt như thể họ đang bị xử lý vì một tội hình sự,” bà Jennie Pasquarella lý giải.

Bà cho rằng đây là một chiến dịch nhằm khiến người nhập cư khiếp sợ và tự nguyện rời đi.

Phóng viên BBC từng tới thăm một trung tâm trục xuất ở New York và chứng kiến cảnh những người di cư bị “đối xử như thú vật”, khiến nhiều người sang chấn tâm lý.

Luật sư Jennie Pasquarella và bà Melissa Trần

Bà Melissa Trần từ Việt Nam đến Mỹ vào năm 1993, khi mới 11 tuổi, với tư cách là người tị nạn.

Sau đó bà trở thành thường trú nhân hợp pháp.

Năm 2001, bà bị kết tội trộm cắp.

Trong thời gian 2003-2004, tòa di trú ra lệnh trục xuất bà, nhưng Việt Nam từ chối nhận lại, nên bà vẫn được ở Mỹ và đi trình báo đều đặn với Cơ quan Thực thi Di trú và Hải quan Hoa Kỳ (ICE) suốt hơn 20 năm.

Bà khai rằng khi còn trẻ, bạn trai cũ của bà trộm tiền của một chủ lao động, nhưng bà nhận tội, hoàn trả số tiền đánh cắp và ngồi tù sáu tháng, theo luật sư.

Thời điểm đó, bà không biết rằng thỏa thuận nhận tội trong vụ án này có thể dẫn đến việc bà bị trục xuất.

Điều này có nghĩa, về mặt luật pháp, bà Melissa Trần sau khi lãnh án tù đã nằm trong danh sách có thể bị trục xuất.

Điều đáng nói là trong nhiều năm, Việt Nam không nhận những người tị nạn rời khỏi đất nước trước năm 1995.

Do đó, bà Trần trong suốt những năm qua vẫn sinh sống bình thường tại Mỹ và chỉ phải đi trình diện viên chức di trú theo quy định – điều mà bà vẫn tuân thủ.

Đây là một thủ tục đăng ký thông thường mà bà đã thực hiện trong hàng chục năm qua: trình giấy tờ tùy thân, sau đó quan chức ICE cấp cho bà một ngày hẹn tiếp theo để ra trình diện.

Nhưng mọi chuyện đã thay đổi trong nhiệm kỳ thứ hai của chính quyền Trump.

Chính phủ Việt Nam gần đây đã chấp thuận những trường hợp bị Mỹ trục xuất và là những người rời Việt Nam trước mốc 1995.

Hồi tháng 2/2025, chính phủ Việt Nam đã cam kết hỗ trợ việc hồi hương của hàng chục công dân bị giam giữ tại Hoa Kỳ và nhanh chóng xử lý các yêu cầu trục xuất mới sau khi chính quyền ông Trump đe dọa áp thuế thương mại và trừng phạt thị thực.

Tháng 10/2025, bà Melissa Trần bị bắt giam khi ra trình diện ICE, sau đó bị giam năm ngày ở Baltimore, Maryland “mà không có lời giải thích”.

Sau đó, bà Melissa Trần được cho về nhà nhưng rồi bị bắt lại vào lần trình diện kế tiếp hồi tháng 11/2025, bị tạm giam, sau đó bị đưa lên máy bay đến Louisiana, rồi lên máy bay về Việt Nam, mà “không có bất kỳ thông báo nào”.

Một trong những giải pháp được xem là mang lại nhiều hi vọng nhất hiện nay là xin ân xá cho bà Melissa Trần từ thống đốc sắp nhậm chức của bang Virginia – nơi bà Trần bị kết tội trộm cắp.

Tuy nhiên, quy trình xin ân xá này rất khó khăn và sẽ kéo dài, theo luật sư.

Trong khi đó, Bộ An ninh Nội địa Mỹ đã trả lời về vụ việc của bà Trần:

“ICE đã bắt giữ Trần Thị Mộng Tuyền, một người nhập cư bất hợp pháp từ Việt Nam, với tiền án bao gồm làm giả, trộm cắp, gian lận và viết séc gian lận. Một thẩm phán di trú đã ban hành lệnh trục xuất cuối cùng cho bà vào năm 2004. Bà ấy có hơn 20 năm để rời khỏi Hoa Kỳ và được hưởng đầy đủ quy trình tố tụng hợp pháp,” Trợ lý Bộ trưởng An ninh Nội địa Tricia McLaughlin viết trong phản hồi với kênh truyền thông WJZ Investigates. “Thông điệp của Tổng thống Trump và Bộ trưởng Noem rất rõ ràng: người nhập cư bất hợp pháp phạm tội không được chào đón tại Hoa Kỳ.”

Thượng nghị sĩ Dân chủ Chris Van Hollen của Maryland đã lên án vụ trục xuất bà Trần, theo CBS News, và nói rằng đây là một câu chuyện “quá bi thảm”, “không đáng để xảy ra”, và rằng văn phòng của ông sẽ nỗ lực đưa bà quay về Mỹ.

Hàng trăm người Mỹ gốc Việt đã bị trục xuất, hàng ngàn người nằm trong nguy cơ cao

Nhiều người Việt đã rời đất nước để sang Mỹ tị nạn sau 30/4/1975

Trong vài tháng qua, đã có hàng trăm người gốc Việt bị Mỹ trục xuất về Việt Nam, đặc biệt trong các tháng Sáu và Bảy, theo luật sư.

Chính phủ Mỹ và Việt Nam không công bố chính thức các con số này.

Ước tính hiện có khoảng 16.000 người từ Đông Nam Á – gồm Việt Nam, Campuchia và Lào – có lệnh trục xuất của chính phủ Mỹ, nhưng chưa bị trục xuất.

Những người này hiện đều có nguy cơ bị giam giữ và trục xuất ngay lập tức, trong khi chính phủ Mỹ đang cố gắng yêu cầu các quốc gia quê hương của họ cấp giấy tờ hồi hương.

Trong trường hợp các quốc gia này không đồng ý, thì chính phủ Hoa Kỳ sẽ cố gắng trục xuất họ sang một nước thứ ba, luật sư cho hay.

“Đây là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra đối với những trường hợp này, bởi vì việc trục xuất sang nước thứ ba sẽ đưa họ đến những nơi mà họ không có bất kỳ mối liên hệ nào.

“Thường là trong những điều kiện vô cùng khắc nghiệt, bao gồm cả việc một số người bị bỏ tù ngay khi họ đặt chân tới nơi.

“Và mọi thứ đều được thực hiện trong bí mật. Chính phủ không hề thông báo trước cho họ rằng họ đang bị đưa tới một nước thứ ba. Họ [chính quyền] cũng không cho họ bất kỳ cơ hội nào để phản đối quyết định trục xuất đó,” luật sư Jennie Pasquarella nói.

Tháng 7/2205, Bộ An ninh Nội địa Mỹ đã nối lại các chuyến bay trục xuất người nhập cư bằng việc đưa năm người từ Việt Nam, Lào, Jamaica, Cuba và Yemen đến Eswatini, một quốc gia nhỏ bé ở miền nam châu Phi.

Một công dân gốc Việt khác bị Mỹ trục xuất sang Nam Sudan hồi tháng 5/2025.

Chấn thương từ Chiến tranh Việt Nam

Nhưng người Việt chạy khỏi Sài Gòn sau năm 1975 để tới Mỹ tị nạn chịu nhiều vết thương tâm lý chồng chất, theo luật sư Jennie Pasquarella

Theo bà Jennie Pasquarella, điều quan trọng là cần phải nhìn thấy toàn bộ bức tranh của việc trục xuất này.

Đó là bức tranh về một cộng đồng người Việt phải di cư sang Mỹ sau khi “chính phủ Mỹ đã can thiệp vào đất nước của họ” thời Chiến tranh Việt Nam.

Những người này chịu các chấn thương tâm lý chồng chất, theo luật sư.

Họ cũng chính là lớp người rời Việt Nam trước năm 1995 mà nay chính phủ Việt Nam mới tiếp nhận họ (trong trường hợp bị Mỹ trục xuất).

Chiến tranh Việt Nam kết thúc đã dẫn đến cuộc khủng hoảng người tị nạn ở Đông Dương. Khoảng 1,5 triệu người Việt đã phải rời bỏ đất nước do cuộc chiến này. Một phần rất lớn trong số đó định cư tại Mỹ.

Người nhập cư Việt Nam và con cái của họ chào đời tại Hoa Kỳ tạo nên một trong những cộng đồng người di cư lớn nhất tại Hoa Kỳ, với 2,3 triệu người.

Khi đến Mỹ, những người vừa trải qua cú sốc chiến tranh và lìa xa quê hương lại trải qua một cú sốc khác do thiếu hụt các nguồn lực hỗ trợ dành cho cộng đồng người tị nạn.

Theo luật sư, nhiều người nhập cư mà bà từng tiếp xúc đã trải qua những khủng hoảng về sức khỏe tâm thần. Đây cũng chính là lý do khiến họ hoặc con cái họ phạm tội thời thanh thiếu niên.

Do Việt Nam không tiếp nhận họ, những người này tiếp tục ở lại Mỹ và đã xây dựng một cuộc sống ổn định, khiến bà Jennie Pasquarella cho rằng “rất đau lòng” khi họ bị trục xuất.

“Phần lớn những người hiện nay bị đưa vào diện trục xuất đều trên 40 tuổi. Họ có sự nghiệp, họ đã học hành ở đây, họ có con, có cháu.

“Họ không biết gì về Việt Nam, và vì thế mức độ tổn hại giờ đây nghiêm trọng hơn rất nhiều so với việc họ bị trục xuất cách đây 20–30 năm,” luật sư nói.

Luật nhập cư ‘lỗi thời’

Bà Monica Moreta Galarza bị quật ngã xuống đất khi chồng bà bị bắt bên ngoài tòa án di trú ở thành phố New York

Luật nhập cư được cập nhật lần cuối vào năm 1996 và những thay đổi khiến luật này trở nên hà khắc hơn rất nhiều và làm tăng hậu quả cũng như hình phạt cho những trường hợp như bà Melissa, theo luật sư Jennie Pasquarella.

Nhiều thay đổi cần phải được chỉnh sửa. Nhưng bà Jennie Pasquarella tin này điều này sẽ không xảy ra với một Quốc hội hiện tại mà bà đánh giá là không hiệu quả.

Vụ việc của bà Melissa Trần phản ánh rõ luật nhập cư của Hoa Kỳ lạc hậu đến mức nào, theo luật sư.

“Luật này không tính đến thực tế rằng một người có thể mắc sai lầm từ rất nhiều năm trước, nhưng họ đã chứng minh được họ đã thay đổi hoàn toàn, họ đóng góp cho cộng đồng và xã hội. Và họ không nên bị trừng phạt vì sai lầm đó suốt phần đời còn lại.”

“Nhưng bi kịch là luật không nhìn thấy con người đã thay đổi và đã làm mọi điều mà xã hội mong đợi họ làm. Về cơ bản, luật nói rằng: vâng, anh có thể bị trừng phạt suốt đời, chúng tôi không quan tâm. Bà Melissa là một ví dụ điển hình cho điều đó.”

“Có thể ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực mà chúng ta đang chứng kiến ​​bởi chính phủ liên bang, nhưng tại thời điểm này, chúng ta đang sống trong một cuộc khủng hoảng và rất khó để kiềm chế chính phủ này và buộc họ phải chịu trách nhiệm,” bà Jennie Pasquarella nói.

Với những người hiện đang trong diện bị trục xuất nhưng vẫn còn ở Mỹ, bà Jennie Pasquarell cho rằng họ nên kiếm tư vấn pháp lý trước khi bị ICE bắt giam.

“Hãy quay lại tòa án nơi họ bị kết án và xem liệu có cơ hội nào để bản án có thể được hủy bỏ hoặc sửa đổi hay không,” bà nói.

Bởi một khi đã bị ICE bắt giam, thì họ sẽ không có thời gian để thực hiện các thủ tục pháp lý để cứu mình.

Và tệ hơn nữa là khi bị trục xuất về Việt Nam, thì cơ hội để quay lại Mỹ của họ là rất mong manh, bà Jennie Pasquarell cho hay.


 

Bão tố, lũ lụt – Một thách thức về sinh thái và môi trường mà còn là một thách thức chiến lược sống còn của Hà Nội

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

09/12/2025

Tôi còn nhớ khi chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ vào tháng 12-1946 thì tôi có mặt ở Hà Nội và chứng kiến chỉ trong một đêm sau một tiếng nổ kinh hoàng và nhà đèn tắt phụt và ngày hôm sau, bộ đội chủ lực của Võ Nguyên Giáp đã rút lui ra khỏi Hà Đông và chỉ còn lại dân quân du kích ở lại cầm chân Pháp và làm vật hy sinh chết dần, chết mòn..

Người Pháp đã mau chóng ổn định an ninh Hà nội dần trở lại nếp sinh hoạt bình thường cho đến năm 1954 với Hiệp định Genève chia đôi hai bên ở Vĩ Tuyến 17..

Trong suốt gần 10 năm trời ở Hà Nội, tôi không hề thấy cảnh tượng Hà Nội chìm trong biển nước như hiện nay..Nay  cứ một trận mưa thì Hà Nội biến thành một hồ nước nhân tạo. Xe cộ chết máy la liệt trông đến thảm thương.

Vì Hà Nội xưa có những hồ chứa nước như Hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, hồ Trúc Bạch một sự điều hòa đúng mực..

Vào miền Nam, tôi ở Đà Nẵng một năm mới chuyển vào Sài Gon. Lên Đại học, học ở Viện Đại Học Đà Lat. Ra trường, đổi về Nhatrang trong 6 năm. Mùa hè ra Huế sống hơn 2 tháng, coi thi ở Quảng Ngãi, Quảng Trị..

Nhắc đến đây, tôi xin đặc biệt nhớ lại những kỷ niệm khó quên ở Phan Thiết, tôi không còn nhớ năm nào? Nơi mà nay cũng chìm đắm trong lũ lụt.

Chỉ biết rằng,  trước đây, tôi được điều động ra Phan thiết với vai trò phó hội đồng thi. Trương Ân, hiệu trưởng Quy Nhơn -một người bạn cũ Đà lạt làm chủ tịch. Hai chúng tôi đến ở nhà  một người bạn học cũ, anh Tùng được điều đi nơi khác..

Một lần, một nữ giáo viên vốn bố mẹ làm chủ vựa nước mắm mời đến nhà ăn. Cô Ung Thị Bạch Tuyết. Ôi thì sơn hào hải vị, cái gì ngon nhất, hai chúng tôi đều được hưởng. Cũng bữa tiệc đó, có một nữ giáo viên

đem lòng “ mê” tôi. Số tôi đúng là số “con rệp”, đi đâu gieo rắc họa đến đấy. Em nữ giáo viên tên N. có ngỏ lời bằng cách tặng tôi bài hát rất ư “ thôn nữ quê” : “hãy trả lời em đi anh” với băng casette.

Về nhà, Trương An cho vào máy, rồi hát rống lên: Hãy trả lời em di anh..Tôi nghe mà lòng lạnh tanh.  Trong khi Trương Ân nói: Này toa, em này nó mê toa rồi đố. Tôi lặng thinh.

Khi hai chúng tôi quay về, tại phi trường Phan Thiết, cả một bày nữ giáo viên ra tiễn đưa, trong đó có N. , nước mắt lưng tròng.. Sau này N. trở thành nhà

văn nữ khá nổi tiếng. Quà mang về là thứ nước mắm nhĩ thứ hảo hạng, cộng với mực phơi hai nắng trên nóc các thuyền đánh cá, ăn mới ngon và mới ngọt làm sao.

Ôi, cả một thời yên bình và hạnh phúc cho một con dân miền Nam.

Nhắc lại như một hồi ức khó quên!!!

Trong những năm tháng ấy, tôi chưa hề chứng kiến những trận bão như số 11, 12, 13 và những trận lụt khủng khiếp, nước ngập sâu đến mái nhà, dân chúng phải leo lên mái nhà. Lũ lụt trong khoảnh khắc phá tan cầu đường, thiệt hại chẳng những tài sản, nhất là đến sinh mạng con người.

Được biết, một gia đình nuôi đến 4000 con vịt, sau cơn lũ, chỉ còn khoảng 900 con. Người khác, ở Quảng Bình, có khoảng 100 gốc sầu riêng, sau lũ còn lại vài gốc.

Chưa kể, hàng trăm người bị lũ cuốn trôi mà nhiều người sau này không tìm được xác..

Nghĩ đến đây, bất giác như buồn nôn…

Tôi chỉ hỏi mà không có câu trả lời cho mình và cho đồng bào bị nạn..

Dân chúng trong khắp các tỉnh thành lập các đoàn cứu trợ để kịp thời để đền bù các thiệt hại về nhà cửa và nhất là người chết oan..

Lấy gì và bằng cách nào đền bù cho những oan hồn chết oan mà vốn mạng người là vô giá!!

Tôi theo dõi các bản tin mỗi ngày và  tôi nhận ra hai điều:

  • Dân chúng chỉ thấy đây là “tai trời” mà không một lời oán thán nhà cầm quyền.
  • Một cơn lụt lội khủng khiếp như thế, nhưng tôi không hề thấy cấp lãnh đạo cấp tỉnh bên cạnh người dân. Nói chi đến thủ tướng Phạm Minh Chính hay ông Tô Lâm? Người ta chỉ có cơ hội nhìn thấy các ông trong những chuyến công du liên tiếp, bên cạnh các mệnh phụ phu nhân ăn mặc  sang trọng.
  • Hình như thể họ thuộc một tầng lớp lãnh đạo chỉ biết cai trị hơn là người của dân chúng.

Tuy nhiên, nhà nước cộng sản Hà Nội đã không hề tiết lộ nạn phá rừng, xẻ núi, lấp ao hồ, lấp dòng sông để xây xa lộ, xây đường cao tốc và xây dinh thự.

Đất nước hình như chỗ nào cũng bị “xi măng hóa” hay “ nhựa hóa” đến độ mưa lũ xuống không có tầng đất xốp để hấp thụ nước nên gây nạn ngập lụt.

Mà đáng nhẽ, nó cần “một thành phố bông gòn” để có thể hấp thụ nước, tránh lũ lụt.

Nạn phá rừng tùy tiện lấy gỗ đã tạo ra nạn sạt lở, vì không có cây rừng ngăn chặn.

Nghĩ đến đây, tôi nghĩ đến trường hợp hãng Cimexcol, Minh Hải với Dương Văn Ba, toa rập với các quan chức đã cho người sang Lào khai thác gỗ, tạo ra dòng chảy sạt lở mà chúng gọi là “Chương trình phát tiển Lào”.

( Xin tóm lược  trở lại năm 1985, cách mạng Lào chiến thắng. Để kỷ niệm chiến thắng này, quân đội cách mạng Lào đã lập ra” công ty phát triển rừng núi Lào là Borisat Phattana Khet  Phoudoi, gọi tắt là BKKP. Công ty được đặt dưới chỉ đạo của đại tướng Khăm Tây Xiphandoong- thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc Phòng Lào.

Công ty lại liên doanh với một công ty mới thành lập tại TP Hồ Chí Minh và tỉnh Minh Hải, gọi là Cimexcol liên doanh..( Trích Đời của Hồ Ngọc Nhuận, trang 307). 

  • Về phía người dân

Dân chúng thì vô trách nhiệm. Rác cứ đem đến lỗ ống cống mà đổ gây nghẹt ống cống và nước lũ không trôi được..Lấy trường hợp Kênh Nhiêu Lộc cứ phải vét đi vét lại vì dân chúng coi con kênh như chỗ xả rác .

Đường Cỏ Ngư ở Hà Nội được ví như con đường tình Duy Tân ở Sài gòn. Nhưng hai bên đường mọc đầy quán ăn chen lấn cả lề đường làm con đường bị ô nhiễm trầm trọng..

Hiện nay, không ai còn biết, bao nhiêu ao hồ ở Hà Nội đã bị vùi lấp làm nhà ở?

Mảnh đất nào cũng bị cời xấy lên bằng xi măng làm nhà ở hoặc bằng nhựa đường làm các xa lộ, các cao tốc.

Hà Nội chỉ nhìn thấy cái lợi nhất thời mà không  có một cái nhìn về tương lai của một đất nước.

Mưa xuống không có lớp đất xốp, bãi cỏ để thẩm thẩu nước mưa gây nạn lụt gây ra sức tác hại về môi sinh, môi trường đến không thể nào tính hết thiệt thại bằng tiền.

Cả nước như chìm vào biển nước, dân chúng không biết kêu cứu vào ai. Hà Nội chỉ đưa ra những giải pháp vá víu cục bộ, nhất thời.

Năm nay lụt thì có thể năm sau cũng tiếp tục lụt lội ở một mức độ kinh kihủng hơn.

Có một cái gì bảo đảm là tương lai sẽ hết ngập lụt?

 Sự sửa chửa những sai lầm về môi sinh, môi trường đòi hỏi những tốn phí gấp hai, gấp ba lần hơn trước?

Đó là cái giá mà chúng ta phải trả cho sự sai lầm ngu ngốc của mình..

Nay vẫn ưu tiên tiếp tục xây dựng những đền đài, cung điện như đài” tưởng niệm những nạn nhân đại dịch Cô Vít”?

Chúng ta chỉ biết lên tiếng cảnh báo, còn trách nhiệm là ở quan chức lãnh đạo Hà Nội!!!!

Ước gì Hà Nội học được bài học của Thủ tướng Lý Quang Diệu mà vứt mẩu thuốc lá xuống đường cũng bị phạt nặng.

Đó là một nếp sống văn minh và văn hóa cao mà người dân biết tự trọng tuân thủ.

Viết những dòng này, chúng tôi mong mỏi một đất nước “ độc tài dân chủ vì người dân” như nhiều xã hội Đông nam Á như Nhật, Đại Hàn, Singapore  thay vì một “ đất nước độc tài mà quyền lợi của đảng trên hết” như Việt nam, Triều Tiên.

Phần Hai: Sự lựa chọn ưu tiên chiến lược dưới sự trình bày của giáo sư Khương Hữu Lộc.

Phần bài viết này chủ yếu dựa trên sự trình bày khoa học, khách quan về mọi mặt giúp có một cái nhìn sáng tỏ và khách quan về sự chọn lựa sống còn cho Việt Nam.

Chúng ta không thể không ưu tiên giải quyết vân đề lũ lụt.

Thứ nhất, không thể nào không giải quyết sự an toàn giao thông nếu không giải quyết hạ tầng cơ sở với nạn ngập lụt trên khắp các tỉnh thành từ Nam ra Bắc.

Sự ưu tiên giải quyệ’t nạn lũ lụt này đòi hỏi một chi phí từ 70 chục tỉ đồng tiền Mỹ đến 100 tỉ đồng.

Không có sự chi phí ưu tiên thì xe điện đi ngang qua các vùng lũ lụt không có sự an toàn của những vùng địa lý thiên nhiên với những hồ chứa nước.

Chưa nói đến các tảng băng ở bắc cực nay tan nhanh tạo ra một dòng chảy như thác lũ đổ ra biển, làm cho mực nước biển tăng lên!! ảnh hưởng trục tiếp đến địa lý thiên nhiên khu vực.

Bên Mỹ, các xa lộ đều có hệ thống Master Plan- một hệ thống ao, bờ để giúp thoát nước..

Nhưng mặt khác, để đất nước phát triển không thể không nghĩ tới một dòng xe điện cao tốc với tốc độ trung bình 350 kilo/mét giờ. Từ ga xe lửa Ngọc Hồi đến ga Thủ Thiêm, đi qua 22 trạm chỉ mất 5 tiếng thay vì 33 tiếng của xe lửa đã lỗi thời của thời Pháp để lại.

Tuy nhiên, sẽ có sự cạnh tranh với việc xử dụng phương tiện máy bay. Chi phí vé máy bay thường tốn kém hơn, mặc dầu chỉ mất hai giờ 10’ bay từ Hà Nội vào Sài Gon.

Tuy nhiên, chúng ta đừng quên là hành khách phải có mặt ở phi trường một tiếng đồng hồ trước cho việc check in cũng như thủ tục đợi lấy hành lý.

Thời tiết xấu cũng ảnh hưởng tới các chuyến bay với thời gian chờ đợi tại các phi trường không phải là điều dễ chịu..

  • Các công ty góp phần xây dựng đường cao tốc Bắc-Nam.

Hiện nay được biết có 6 công ty. Trong đó có hai công ty của người VN là Vin Speed và Taco. Trong đó việc góp vốn của công ty là 20 %, 80% còn lại vay vốn nhà nước không tiền lời, trả dần trong 30 năm.

Vin Speed là của ông Phạm Nhật Vượng- một người dám nghĩ và dám làm. Và làm là có thể lỗ. Và vì vậy khó có kết quả tài chánh hay thương mại, nhưng vẫn phải đứng ra đấu thầu.

Trễ một năm, tiền vốn dự chi có thể tăng không trù liệu trước được. Giả dụ  đầu tư 65 tỉ đô la, cho rằng tiền lời hàng năm là 5% vẫn lợi thế hơn làm đường cao tốc.

Việt Nam phải lựa chọn các nhà đầu tư như Nhật, Pháp và cả Trung Quốc. Nhờ đó có sự kiểm soát lẫn nhau, tránh việc cài đặt các thiết bị do thám có hại cho an ninh quốc gia.

Đồng thời về mặt quyền lợi pháp lý, phải có sự bảo đảm quyền lợi bảo trì vốn là điều kiện tối ưu.

Và trong một thời gian nhất định, phải bàn giao việc chuyển giao công nghệ toàn bộ cho Việt Nam.

Nước Mỹ ưu tiên phát triển kỹ nghệ xe hơi. Trong khi nước Pháp ưu tiên phát triển kỹ nghệ xe điện cao tốc. Vì thế với kinh nghiệm nhiều năm, chúng ta nên mời Pháp tham gia chương trình kỹ nghệ đường sắt cao tốc cũng như mời cả Nhật bản.

Về mặt thương mại, mỗi một nhà ga là một điểm hội tụ tất cả những lợi ích thương mại như giao thông, vận tải, nhà băng, khu vực buôn bán làm ăn, các khu chung cư, các khu thương mại,  khu du lịch, các nhà hàng ăn như một thành phố đô thị mới phát triển và bền vững.

Lợi ích kinh tế không phải là nhỏ.

Trong trường hợp khi có nhu cầu quân sự, việc chuyển quân, các nhu cầu quân sự như súng ống, đạn dược, xe cộ chỉ mất vài tiếng đồng hồ, tránh tình trạng bị động, không thích ứng kịp..

Trước những lợi ích về nhiều mặt như thế, việc khai thác đường xe lửa cao tốc Bác- Nam là điều chẳng đặng đừng, không làm không được.

Và càng trì trệ, vốn sẽ đội lên không theo kịp..


 

Phạm Đoan Trang – Ngọn lửa không bao giờ tắt

Tri Nguyen Ông Tám 

Trong lịch sử Việt Nam đương đại, hiếm có ai khiến người ta vừa kính nể vừa đau đớn như nhà báo Phạm Đoan Trang. Cô không cầm súng, không đứng trên chiến trường, nhưng lại chọn một mặt trận còn khắc nghiệt hơn: mặt trận của sự thật giữa một xã hội bị bịt miệng. Với cô, ngòi bút không chỉ là công cụ, mà là vũ khí; tự do không chỉ là khái niệm, mà là hơi thở mà cô sẵn sàng đánh đổi cả cuộc đời để bảo vệ.

Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, Đoan Trang từng là một cô gái bình thường với ước mơ làm báo tử tế. Cô tốt nghiệp Đại học Ngoại thương, từng làm việc ở các tờ báo lớn, từng được đồng nghiệp yêu mến vì tài năng và sự sắc sảo. Nhưng càng đi sâu vào nghề, cô càng nhận ra rằng ở nơi cô sống, nói thật là một tội lỗi. Năm 2009, khi viết về vụ Formosa và những bất công môi trường, cô bắt đầu bị công an theo dõi, bị đe dọa, bị đánh đập. Nhiều người chọn im lặng. Cô thì không. Cô chọn viết tiếp, viết mạnh hơn, viết rõ hơn.

Những cuốn sách của Đoan Trang – “Chính trị bình dân”, “Cẩm nang nuôi tù”, “Phản kháng phi bạo lực” – không phải là những tác phẩm học thuật khô khan. Chúng là những lời thì thầm gan dạ giữa bóng tối, là ánh sáng lọt qua khe cửa nhà tù. Cô viết bằng thứ ngôn ngữ mà bất kỳ người dân nào cũng hiểu, để họ biết rằng mình có quyền, rằng mình không đơn độc. Cô dịch tài liệu về nhân quyền, về bầu cử tự do, về kháng cự bất bạo động, rồi phát miễn phí, bất chấp biết chắc sẽ bị bắt. Cô từng nói: “Tôi không muốn làm anh hùng, tôi chỉ muốn sống đúng với lương tâm mình”. Nhưng chính câu nói ấy đã biến cô thành biểu tượng.

Ngày 6 tháng 10 năm 2020, công an ập vào khách sạn ở Sài Gòn, bắt cô khi cô đang chuẩn bị ra mắt cuốn sách mới. Họ đánh gãy chân cô, kéo lê cô trên sàn như một tội phạm nguy hiểm. Bản án 9 năm tù dành cho “tội tuyên truyền chống nhà nước” đã khiến cả thế giới sửng sốt. Tổ chức Phóng viên Không Biên giới, Ân xá Quốc tế, Liên minh Châu Âu, Quốc hội Mỹ… đều lên tiếng. Nhưng ở trong nước, rất nhiều người chỉ biết khóc thầm.

Trong tù, Đoan Trang vẫn cười. Người thân kể rằng mỗi lần thăm gặp, cô đều hỏi thăm mọi người trước khi nói về mình. Cô từ chối nhận đồ tiếp tế nếu biết đó là từ những người đang gặp khó khăn. Cô tuyệt thực nhiều lần để phản đối việc bị đối xử tệ bạc với tù nhân lương tâm khác. Cô bị biệt giam, bị cắt hết quyền thăm gặp, bị bệnh tật hành hạ vì đôi chân từng bị đánh gãy không được chữa trị tử tế. Nhưng cô vẫn viết. Bằng cách nào đó, những dòng chữ của cô vẫn lọt ra ngoài: “Tôi không hối hận. Nếu được làm lại, tôi vẫn sẽ làm như vậy”.

Có người hỏi: vì sao một người phụ nữ nhỏ bé, không chồng con, không tài sản, lại sẵn sàng trả giá đắt đến thế? Câu trả lời nằm trong chính cuộc đời cô. Đoan Trang yêu đất nước này theo cách sâu sắc nhất: không phải bằng những lời hô hào trên tivi, mà bằng việc dám chỉ ra những ung nhọt để đất nước được chữa lành. Cô tin rằng một dân tộc chỉ thực sự tự do khi không ai phải sợ hãi vì nói lên sự thật.

Hôm nay, khi cô vẫn đang bị giam giữ ở một nơi mà ngay cả người thân cũng không được biết chính xác, vẫn có hàng ngàn người âm thầm đọc sách của cô, chia sẻ bài viết của cô, và lặng lẽ tiếp nối tinh thần của cô. Mỗi cuốn sách bị cấm là một ngọn lửa được thắp lên. Mỗi năm tù của cô là một năm thêm hàng vạn người Việt Nam biết đến khái niệm “quyền con người”.

Phạm Đoan Trang không phải là thánh nữ. Cô cũng sợ đau, cũng cô đơn, cũng từng khóc. Nhưng cô đã chọn cách sống sao cho khi rời khỏi thế giới này, cô không phải xấu hổ với chính mình. Và chính điều đó khiến cô trở thành người phụ nữ Việt Nam đẹp đẽ nhất mà thời đại này có may mắn chứng kiến.

Cô từng viết: “Tự do không phải là thứ chúng ta có, mà là thứ chúng ta làm”. Hôm nay, ngọn lửa Đoan Trang vẫn cháy. Trong song sắt, trong đau đớn, trong im lặng bị áp đặt, cô vẫn đang làm tự do – từng ngày, từng hơi thở.

Và chỉ cần chúng ta còn đọc cô, còn nhắc đến tên cô, còn dám sống thật với lương tâm mình, thì ngọn lửa ấy sẽ không bao giờ tắt.

Cảm ơn chị, Phạm Đoan Trang.

Vì chị, chúng ta học được rằng sống đáng sống là sống như thế nào.

Và vì chị, chúng ta tin rằng một ngày nào đó, Việt Nam sẽ tự do – như cách chị đã mơ, đã trả giá, và vẫn đang sống.