NGUYỄN XUÂN VINH – NHÀ BÁC HỌC VŨ TRỤ GỐC VIỆT CỦA NASA HOA KỲ…

Việt Luận – Viet’s Herald

 NGUYỄN XUÂN VINH – NHÀ BÁC HỌC VŨ TRỤ GỐC VIỆT CỦA NASA HOA KỲ…

Nhà toán học Nguyễn Xuân Vinh, gốc Bắc, di cư 1954, gia đình không theo Công giáo, nguyên là Đại Tá Tư lệnh của Quân chủng Không quân Việt Nam Cộng hòa (thời Đệ Nhất Cộng Hòa), sau này là giáo sư đại học Michigan, Hoa kỳ. Ở cái thời mà đại đa số người dân Việt còn đi xe đạp, thì bằng các lý thuyết toán học, những nghiên cứu của GS. Vinh đã vạch đường bay cho phi thuyền vũ trụ lên Mặt Trăng.

TIỂU SỬ VÀ SỰ NGHIỆP:

Nguyễn Xuân Vinh (sinh năm 1930) nguyên là Đại tá tham mưu trưởng kiêm tư lệnh của Không quân Việt Nam Cộng hòa. Ông là giáo sư, tiến sĩ, viện sĩ chuyên ngành kỹ thuật không gian người Mỹ gốc Việt nổi tiếng trên thế giới.

Năm 1962, ông là người Việt Nam đầu tiên và cũng là người đầu tiên ở Đại học Colorado được cấp bằng tiến sĩ khoa học không gian sau khi ông thực hiện thành công nghiên cứu công trình tính toán quỹ đạo tối ưu cho phi thuyền do NASA tài trợ. Những lý thuyết của Nguyễn Xuân Vinh đã góp phần quan trọng đưa các phi thuyền Apollo lên được mặt trăng thành công đồng thời được ứng dụng vào việc thu hồi các phi thuyền con thoi trở về trái đất an toàn. Ông còn là nhà nhà văn với bút danh Toàn Phong với nhiều tác phẩm nổi tiếng được xuất bản.

Từ khi còn nhỏ Nguyễn Xuân Vinh là một người có năng khiếu toán. Ông tham gia viết sách từ rất sớm. Khi đang là học sinh, ông đã có sách được xuất bản với cuốn sách giáo khoa Bài tập hình học không gian. Cuốn sách đã trở thành tài liệu tham khảo và học vấn quan trọng thời bấy giờ.

Năm 1951 ông nhập ngũ theo lệnh động viên và tham gia khóa I Trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định và Thủ Đức. Năm 1952, ông theo học tại Học viện Không quân ở Salon-de-Provence, Pháp (École de l’Air) cho đến năm 1955. Sau đó ông lưu trú tại Pháp và Maroc. Trong thời gian này ông đồng thời lấy bằng cử nhân toán ở Đại học Máeille.

Năm 1957, Nguyễn Xuân Vinh được bổ nhiệm chức vụ Tham mưu trưởng Không lực Việt Nam Cộng hòa. Cho đến tháng 2 năm 1958, ông được giao chức Tư lệnh Không quân. Ông giữ chức vụ này cho đến năm 1962 rồi đi du học ở Hoa Kỳ.

Năm 1962, Đại tá Nguyễn Xuân Vinh đến Hoa Kỳ để bắt đầu sự nghiệp khoa học của mình khi ông 32 tuổi.

Năm 1965, là người đầu tiên được cấp bằng tiến sĩ về khoa học không gian tại Đại học Colorado. Ba năm sau, Tiến sĩ Vinh làm giảng sư (associate professor) tại Đại học Michigan. Năm 1972, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Vinh được phong cấp giáo sư (professor) tại viện đại học Đại học Michigan. Cũng trong năm này ông lấy tiếp bằng tiến sĩ quốc gia toán học tại Đại học Sorbonne, Paris, Pháp.

Năm 1982, Nguyễn Xuân Vinh là giáo sư (chair professor) của ngành toán ứng dụng tại Đại học Quốc gia Thanh Hoa (National Tsing Hua University) ở Đài Loan. Hai năm sau, năm 1984, Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh là người Hoa Kỳ thứ ba và là người Châu Á đầu tiên được bầu vào Viện Hàn lâm Quốc gia Hàng không và Không gian Pháp (Académie Nationale de l’Air et de l’Espace). Đến năm 1986, Giáo sư Vinh trở thành viện sĩ chính thức của Viện Hàn lâm Không gian Quốc tế (International Academy of Astronautics).

Trong nhiều năm Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh đã được mời tham gia thuyết trình thỉnh giảng tại nhiều đại học lớn và các hội nghị quốc tế nhiều nơi trên thế giới bao gồm Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Áo, Đức, Ý, Hà Lan, Thụy Sĩ, Na Uy, Thụy Điển, Hungary, Israel, Nhật, Trung Quốc, Đài Loan và Úc.

Năm 1999, Giáo sư viện sĩ Nguyễn Xuân Vinh nghỉ hưu, ông đã được Hội đồng Quản trị (Board of Regents) tại Đại học Michigan phong tặng chức Giáo sư danh dự ngành kỹ thuật không gian (professor emeritus of aerospace engineering) vì công lao đóng góp cho khoa học và giáo dục.

Ngày 19 tháng 10 năm 2016, Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh đã được Giám mục Đa Minh Mai Thanh Lương, Giám mục Công giáo người Việt đầu tiên tại Hoa Kỳ, làm phép Thanh Tẩy gia nhập Đạo Công giáo tại nhà thờ Saint Bonaventure Church ở Huntington Beach, California. Ông lấy tên Thánh là Anphongsô.

GIẢI THƯỞNG:

– Năm 1994: “Mechanics and Control of Flight” của American Institute of Aeronautics and Astronautics.

– Năm 1996: “Excellence 2000 Award” của Pan Asian American Chamber of Commerce

– Năm 2006: “Giải thưởng Dirk Brouwer” về Cơ học Du hành Không gian của Hội Du hành Không gian Hoa Kỳ (American Astronautical Society)

– Năm 2007: Dirk Brouwer Award do the American Astronautical Society tặng

– Năm 1994: Mechanics and Control of Flight Award presented do American Institute of Aeronautics and Astronautics tặng.

– Năm 2000: Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh được bầu vào Viện Hàn lâm Quốc tế du hành vũ trụ và Viện Hàn lâm Hàng không và Vũ trụ Quốc gia Pháp. Ông được chọn là một trong những người xuất sắc của Hoa Kỳ Pan Asian American Chamber of Commerce tại Washington, DC.

– Hội Khuyến Học ở Saint Louis, Missouri, đề ra giải thưởng hàng năm tên là giải thưởng “Truyền thống Nguyễn Xuân Vinh” để khuyến khích học sinh ở địa phương.

TÁC PHẨM:

Tác giả Nguyễn Xuân Vinh đã xuất bản ba cuốn sách và hơn 100 bài báo kỹ thuật trong lĩnh vực toán học, astrodynamics, và tối ưu hóa quỹ đạo (trajectory optimization). Ông Vinh cũng từng là biên tập viên trong khoảng thời gian dài 20 năm cho tạp chí lưu trữ cho Học viện vũ trụ Quốc tế (the archival journal for the International Academy of Astronautics). Giáo sư Vinh nguyên là chủ tịch hội đồng chấm luận án tiến sĩ (chaired the doctoral committees) cho 30 nghiên cứu sinh, nhiều người trong số họ hiện nay đang là giáo sư của các Hiệp hội uy tín của Hoa Kỳ, các trường Đại học các trường học hoặc các hiệp hội nhà khoa học hàng đầu trong ngành công nghiệp hàng không vũ trụ.

Theo FB Nguyễn Hùng Dũng


 

 Joseph Stalin không ngủ như một con người tin tưởng vào quyền lực của mình

Phuong Tran

 Joseph Stalin không ngủ như một con người tin tưởng vào quyền lực của mình.

Khi ông đã thống trị Liên Xô một cách tuyệt đối – nắm trong tay quốc gia rộng lớn nhất thế giới, chỉ huy hàng triệu binh sĩ, định đoạt số phận của cả những dân tộc – ông vẫn đặt bên gối một khẩu súng lục đã lên đạn. Mỗi đêm, ông thay đổi phòng ngủ, không bao giờ nằm lại cùng một chiếc giường hai đêm liền. Ông từ chối đi lại trên cùng một con đường cũ. Ông không ngừng cải tạo các dinh thự, thêm những hành lang bí mật, những cánh cửa khóa layered, những lối thoát hiểm ngoằn ngoèo nhằm đánh lừa kẻ ám sát tiềm tàng.

Đó không phải là thói lập dị. Đó là bản năng sinh tồn của một người hiểu rõ hơn ai hết cách mà các nhà độc tài rời bỏ thế gian.

Vì Stalin đã trèo lên đỉnh quyền lực bằng cách khiến người khác chết trước mình.

Ông thấu suốt cơ chế của những vụ ám sát chính trị. Chính ông đã đạo diễn chúng. Ông đã chứng kiến đối thủ tan biến trong ngục tù, thấy đồng chí cũ bị bắn trong tầng hầm tối, ra lệnh những cuộc thanh trừng nuốt chửng hàng ngàn sinh mạng. Ông biết rằng những lưỡi dao ông đã phóng ra có thể bất cứ lúc nào quay ngược lại. Người trung thành hôm nay có thể đang mài dao ngày mai. Đồng minh đáng tin nhất cũng có thể hóa thành kẻ sát nhân.

Thế nên Stalin không tin ai. Và ông dựng nên cả cuộc đời mình trên nền tảng duy nhất ấy: sự nghi kỵ tuyệt đối.

Nỗi sợ ấy định hình lại mọi ngóc ngách trong cuộc sống ông. Một buổi sáng, nhân viên đến làm việc và bỗng thấy mình bị đuổi mà không một lời giải thích. Lính gác bị thay phiên liên tục để không ai kịp thuộc lòng nhịp sống của ông. Đội cận vệ thay đổi khuôn mặt thường xuyên đến mức sự quen thuộc trở thành điều xa xỉ.

Ngay cả các bác sĩ cũng run rẩy khi chữa trị cho ông – một chẩn đoán sai, một liều thuốc không hiệu nghiệm, và họ có thể bị kết tội là kẻ phá hoại hay gián điệp ngoại bang. Họ tiếp cận sức khỏe của Stalin như những người tháo ngòi nổ, tim đập trong lồng ngực.

Các cố vấn học được rằng sống sót nghĩa là cúi đầu và im lặng. Không đưa ra nhận định trung thực. Không báo tin xấu. Đặc biệt không được phản biện Tổng Bí thư. Họ chỉ nói những gì ông muốn nghe, gật đầu trước mọi lời ông phán, và thầm cầu mong được về nhà nguyên vẹn đêm ấy.

Vì vòng tròn thân cận của Stalin đều thấu một chân lý lạnh lẽo: gần quyền lực tức là gần tử thần.

Nhưng nỗi kinh hoàng không dừng lại bên trong tường thành Kremlin. Nó lan tỏa như ung thư, nhiễm độc toàn bộ cơ thể nhà nước Xô Viết.

Qua cuộc Đại Thanh trừng những năm 1930, chế độ Stalin hành quyết hàng trăm nghìn người, giam cầm và lưu đày hàng triệu linh hồn khác. Các tướng lĩnh từng dẫn quân chiến thắng bị bắn như phản tặc. Các bộ trưởng trung thành suốt mấy thập kỷ tan biến trong đêm. Nhà khoa học, nghệ sĩ, giáo viên, công nhân – bất kỳ ai cũng có thể bị bóng đêm nuốt chửng. Cảnh sát mật gõ cửa lúc nửa đêm, và con người bỗng hóa thành hư vô.

Trung thành không mua được sự an toàn. Năng lực đôi khi lại là lời mời gọi tử thần. Quá giỏi việc, bạn có thể bị coi là mối uy hiếp. Quá được lòng cấp dưới, bạn có thể bị nghi xây dựng phe cánh. Vị trí an toàn nhất là tầm thường và vô hình.

Cả nhà nước Xô Viết dần mang tâm lý của lãnh tụ: đa nghi, bí ẩn, tàn nhẫn. Sự thật trở thành lưỡi dao, nên người ta nói dối. Trung thực mời gọi roi vọt, nên mọi người giấu nhẹm vấn đề. Hệ thống lẽ ra kiến tạo thiên đường cộng sản lại dựng nên một cỗ máy khổng lồ chuyên ăn thịt chính con dân mình.

Stalin không tin ai vì ông tin rằng chẳng ai đáng tin. Và có lẽ ông đúng – bởi chính ông cũng chẳng đáng tin. Sao người khác lại khác được?

Sự mỉa mai thật nghiệt ngã: chính nỗi đa nghi ông tưởng sẽ che chở cho mình lại gây ra những thảm họa khôn lường.

Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, văn hóa sợ hãi của Stalin làm tê liệt mọi quyết sách của Liên Xô. Sĩ quan biết rõ điểm yếu quân sự nhưng không dám báo – báo tin xấu đồng nghĩa với viên đạn. Tình báo về cuộc xâm lược của Đức bị bỏ ngoài tai vì dám trái ý Stalin là tự sát. Báo cáo giả thay thế báo cáo thật, bởi sống sót nghĩa là nói những lời lãnh đạo muốn nghe.

Thế nên khi Đức Quốc xã tràn qua biên giới tháng 6 năm 1941, Hồng quân thảm khốc không chuẩn bị dù đã có vô số lời cảnh báo. Cuộc tấn công chớp nhoáng của Đức xé nát lực lượng Xô Viết. Hàng triệu binh sĩ ngã xuống, bị bắt hoặc bị bao vây chỉ trong vài tháng đầu. Thành phố sụp đổ. Cả quân đoàn tan rã như cát bụi.

Những cuộc thanh trừng đa nghi trước đó đã làm suy kiệt Hồng quân – Stalin hành quyết hoặc giam cầm nhiều tướng tài nhất vì sợ họ thành đối thủ. Giờ đây, văn hóa dối trá và sợ hãi khiến đất nước trần trụi trước lưỡi hái chiến tranh mà ai cũng thấy trước nhưng không ai dám chuẩn bị.

Cái giá phải trả thật kinh hoàng. Hơn 26 triệu công dân Xô Viết bỏ mạng trong cuộc chiến – cả quân nhân lẫn thường dân. Nhiều sinh mạng ấy có thể quy trực tiếp hoặc gián tiếp về những rối loạn do nỗi đa nghi của Stalin gây ra.

Song chiến thắng trước phát xít Đức chỉ khiến ông nghi ngờ thêm.

Những năm cuối đời, nỗi đa nghi quay ngược vào trong với cơn cuồng nộ mới. Ông tin rằng chính các bác sĩ – những người giữ mạng sống cho ông – đang âm mưu hại ông. “Âm mưu Bác sĩ” 1952-1953 chứng kiến hàng loạt y sĩ danh tiếng, nhiều người gốc Do Thái, bị bắt và buộc tội mưu sát lãnh đạo.

Đó là cơn điên rồ. Nhưng là cơn điên có gốc rễ – Stalin đã xây một hệ thống nơi lý thuyết âm mưu thành chính sách quốc gia, nơi đa nghi được thưởng, nơi nhìn kẻ thù khắp nơi được ca tụng là trí tuệ thay vì bệnh hoạn.

Stalin tự cách ly mình khỏi thực tại ngày một xa. Càng ít người được tiếp cận ông. Càng ít tiếng nói đến được tai ông. Vòng tròn tin tưởng – vốn đã nhỏ bé – co lại thành hư vô. Ông là người quyền lực nhất Liên Xô, cai trị một siêu cường trải dài từ Đông Âu đến Thái Bình Dương.

Và ông cô độc đến tận cùng đáy lòng.

Ngày 1 tháng 3 năm 1953, Joseph Stalin bị đột quỵ nặng. Ông ngã quỵ trong dinh thự Kuntsevo, không thể cất tiếng kêu cứu.

Và đây là vòng tròn định mệnh của nỗi đa nghi: lính gác do dự hàng giờ không dám bước vào phòng.

Tại sao? Vì ông đã ra lệnh nghiêm cấm làm phiền. Vì bước vào mà không được phép – dù để cứu mạng – có thể lãnh án tử. Vì văn hóa kinh hoàng ông gieo rắc khiến người ta sợ cơn thịnh nộ của ông hơn là lo cho sinh mạng ông.

Nhà độc tài nằm trên sàn lạnh, nửa người tê liệt, không nói không động, trong khi cận vệ và nhân viên đứng ngoài cửa, run rẩy không dám hành động.

Khi bác sĩ cuối cùng được gọi đến và dám bước vào, Stalin đã nằm đó hàng giờ. Sự chậm trễ làm tình trạng ông tồi tệ hơn nhiều. Họ cố cứu chữa, nhưng tất cả đã quá muộn.

Joseph Stalin qua đời ngày 5 tháng 3 năm 1953, thọ 74 tuổi.

Khẩu súng dưới gối không cứu được ông. Những căn phòng luân phiên không cứu được ông. Biện pháp an ninh, thanh trừng, hành quyết, cả một đế chế kinh hoàng – chẳng gì cứu nổi ông.

Cuối cùng, chính nỗi đa nghi đã định nghĩa cả cuộc đời ông lại góp phần đưa ông đến cái chết. Nỗi sợ ông gieo vào lòng người khác khiến không ai dám kịp thời ra tay khi ông cần nhất.

Cuộc đời Stalin chứng minh một chân lý sâu thẳm và đáng sợ: quyền lực tuyệt đối không xua tan nỗi sợ, nó chỉ nhân nó lên gấp bội.

Khi cai trị bằng kinh hoàng, bạn tạo ra một thế giới mà mọi người – kể cả chính mình – sống trong nỗi sợ triền miên. Khi trung thành bị ép buộc bằng bạo lực, bạn mãi mãi không thể tin nó chân thật. Khi đã loại trừ mọi mối đe dọa, bạn chỉ còn lại những kẻ che giấu sự thật vì trung thực đồng nghĩa với tử thần.

Stalin tưởng mình đang dựng nên pháo đài an toàn. Thực ra ông đã xây một nhà tù. Và ông là tù nhân chính – cô đơn nhất.

Ông thống trị một siêu cường vĩ đại. Ông chỉ huy đạo quân hùng mạnh. Ông nắm trong tay sinh mạng hàng trăm triệu người. Các quốc gia run sợ trước sức mạnh Xô Viết. Các nguyên thủ coi ông ngang hàng trên trường quốc tế.

Vậy mà mỗi đêm, ông ngủ như một kẻ bị truy nã. Thay giường liên tục. Vũ khí kề bên. Không tin ai. Sợ hãi mọi người.

Người gieo rắc kinh hoàng cho triệu triệu con người lại sống trong chính kinh hoàng ấy. Kiến trúc sư của nhà nước giám sát lại là kẻ bị giám sát chặt chẽ nhất. Nhà độc tài có quyền giết bất kỳ ai lại biết rằng bất kỳ ai cũng có thể muốn giết mình.

Đó là cái giá cuối cùng của bạo quyền. Không chỉ những gì nó gây ra cho nạn nhân – dù đã đủ kinh hoàng. Mà còn những gì nó làm tan nát tâm hồn chính kẻ bạo chúa.

Stalin dành những năm cuối đời trong cô lập, đa nghi và sợ hãi. Ông chết một mình trên sàn lạnh, bên ngoài là những con người quá kinh hoàng để cứu ông. Hệ thống kinh hoàng ông tạo dựng đã hoàn tất vòng tròn: nuốt chửng cả chính người sinh ra nó.

Quyền lực không có lòng tin chẳng phải sức mạnh. Đó chỉ là một xiềng xích vô hình mà không khẩu súng nào có thể bắn đứt.

Như Like Thần Chưởng


 

TẦN VƯƠNG ĐỐT SÁCH CHÔN TRÒ!…

Trần Tố Ngọc

TẦN VƯƠNG ĐỐT SÁCH CHÔN TRÒ!

CỘNG SẢN CŨNG ĐỐT KHO TÀNG VĂN CHƯƠNG

TRẢI QUA NHỮNG CẢNH ĐOẠN TRƯỜNG

SÁCH MIỀN NAM LẠI KHIÊM NHƯỜNG HỒI SINH!

Câu chuyện này làm tôi nhớ đến ông soạn giả Mai Quân (mọi người lên Google sẽ biết là ai), chồng NSUT Thuỳ Liên (diễn viên cách mạng miền Nam, đóng phim Mùa gió chướng), là người quen với gia đình tôi! Ông này sau năm 1975 là cán bộ văn nghệ của thành phố, làm việc bên Hội Sân khấu của thành phố. Không biết nhờ quen biết hay sao mà ông này đem rất nhiều sách Miền Nam trước 75 về nhà cất giữ (những cuốn sách lẽ ra đã bị tiêu huỷ theo lệnh của chánh quyền Cộng Sản).

 Ông chứa được một kho sách lớn trong nhà vì hai vợ chồng ông có công với cách mạng nên được Nhà Nước cấp cho một căn nhà bự như biệt thự ở đường Nguyễn Văn Trỗi, quận Phú Nhuận (ngày nay). Mấy năm trước ổng mất, bà vợ (diễn viên Thuỳ Liên) kêu người bên tiệm sách cũ (tiệm nào thì tôi không biết) vô thâu mua. Tất nhiên là tiệm sách cũ ở đâu trên khắp thành phố này thì đều thâu mua sách cũ bằng hình thức… cân ký! 

Thế nhưng, tuy cân ký bán như ve chai mà bà ấy bán hết chỗ sách đó và thâu được… 20 mấy triệu VNĐ! Nói như vậy là tưởng tượng được số sách nhiều cỡ nào! 

Nhiều khi tôi cũng thắc mắc: chỗ sách ấy rốt cuộc đi về đâu, ai đã may mắn mua được? Không biết trong những cuốn sách mà quán sách Mùa Thu bán khống giá vài triệu đồng kia, có cuốn sách nào từ kho sách của ông soạn giả Mai Quân không!?

Luu Pham Tam Minh st

Tố Ngọc Trần chia sẻ


 

THAN ÔI! CŨNG MỘT KIẾP NGƯỜI

Phuong Trach Ngô

THAN ÔI! CŨNG MỘT KIẾP NGƯỜI.

Cụ Bà đi nhặt ve chai mất bên vệ đường.

Một cái chết lặng lẽ và khoảng trống mang tên an sinh xã hội

Một cụ bà gục xuống bên vệ đường, bên cạnh là chiếc bao ve chai cũ kỹ.

Không còi hú, không bệnh viện kịp thời, không người thân bên cạnh.

Chỉ có một cuộc đời khép lại trong im lặng.

Cái chết ấy không phải là tai nạn hiếm hoi. Nó là hệ quả của một hệ thống an sinh xã hội thiếu vắng, nơi người già không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục lao động cho đến khi kiệt sức.

Ở những quốc gia phát triển, tuổi già là giai đoạn được chăm sóc. Người cao tuổi có lương hưu tối thiểu, có bảo hiểm y tế, có dịch vụ chăm sóc tại nhà, có nhà dưỡng lão, có những cơ chế bảo vệ để không ai phải chết trên vỉa hè vì mưu sinh. Xã hội coi việc bảo đảm phẩm giá cho người già là một nghĩa vụ căn bản.

Còn ở Việt Nam, quá nhiều người già không có lương hưu. Họ từng lao động cả đời trong khu vực phi chính thức: bán hàng rong, làm thuê, làm ruộng nhỏ lẻ. Khi sức khỏe cạn dần, họ không có điểm tựa. Không lương hưu. Không trợ cấp đủ sống. Không hệ thống chăm sóc dài hạn. Cuối cùng, họ ra đường—nhặt ve chai, bán vé số, bốc vác—đổi từng đồng lẻ lấy một bữa ăn.

Một xã hội được đo bằng cách nó đối xử với những người yếu thế nhất.

Và người già là thước đo không thể chối cãi.

Khi một cụ bà phải kéo lê tấm lưng còng trên đường phố để nhặt từng chai nhựa, đó không phải là “ý chí vượt khó”. Đó là sự thất bại của chính sách. Khi cụ chết bên vệ đường, đó không phải là “số phận”. Đó là khoảng trống của an sinh xã hội.

Người ta thường nói về tăng trưởng, về chỉ số, về thành tích. Nhưng tăng trưởng nào có ý nghĩa nếu nó không đủ để bảo vệ những người đã cống hiến cả đời? Thành tích nào có giá trị nếu cái kết của tuổi già là một cái chết lặng lẽ giữa phố?

Một bà cụ lớn tuổi đáng lẽ phải được chăm lo—được nghỉ ngơi, được chữa bệnh, được sống những năm cuối đời trong an toàn và tôn trọng. Thay vào đó, bà phải mưu sinh đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là lựa chọn của bà. Đó là lựa chọn mà xã hội đã không làm.

Cụ bà đã ra đi. Nhưng câu hỏi còn ở lại:

Bao nhiêu người già nữa sẽ phải đi nhặt ve chai cho đến khi không còn đứng dậy được?

Và bao lâu nữa, an sinh xã hội mới thôi là khẩu hiệu để trở thành điểm tựa thực sự cho những phận người yếu thế?

Im lặng trước những cái chết như vậy cũng là một hình thức chấp nhận.

Còn lên tiếng, ít nhất, là cách để nhắc nhau rằng: tuổi già không nên là một cuộc mưu sinh đến chết.

Quy Nguyen


 

 Đức chính thức lên án đàn áp xuyên quốc gia của Việt Nam

Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do

 Đức chính thức lên án đàn áp xuyên quốc gia của Việt Nam

Berlin, 19–12–2025 – Bộ Ngoại giao Đức đã chính thức lên án mọi hình thức đàn áp xuyên quốc gia, sau khi nhà báo Lê Trung Khoa, công dân Đức, bị phía Hà Nội sách nhiễu từ bên ngoài lãnh thổ Việt Nam.

Trong tuyên bố gửi báo chí, Bộ Ngoại giao Đức khẳng định:

“Đàn áp xuyên quốc gia vi phạm nhân quyền của những người bị ảnh hưởng và xâm phạm chủ quyền của các quốc gia liên quan.”

Đức nhấn mạnh rằng tự do báo chí và tự do ngôn luận là những quyền cơ bản, và lập trường này đã được chính phủ Đức nêu rõ với phía Việt Nam ở nhiều cấp độ, bao gồm cả Đại sứ quán Việt Nam tại Berlin.

Bộ Ngoại giao Đức cũng cho biết đang phối hợp với các cơ quan an ninh Đức để theo dõi và xử lý các đe dọa tiềm tàng đối với những cá nhân sinh sống tại Đức, cho thấy Berlin coi đây là vấn đề an ninh và chủ quyền quốc gia, không chỉ là tranh chấp cá nhân.

Liên quan đến khả năng dẫn độ, Đức làm rõ: Bộ Tư pháp Liên bang Đức, chứ không phải Bộ Ngoại giao, có thẩm quyền xử lý các yêu cầu dẫn độ. Tuy nhiên, theo nguyên tắc pháp lý của Đức:

  • Đức không dẫn độ công dân Đức sang nước khác;
  • Đức chỉ dẫn độ nếu hành vi bị cáo buộc cũng là tội phạm theo luật Đức;
  • Hoạt động báo chí không phải là tội phạm ở Đức.

Vì vậy, các công dân Đức như ông Lê Trung Khoa, cũng như ông Nguyễn Văn Đài và bà Huệ Như, sẽ không bị dẫn độ về Việt Nam.

Vụ việc này được xem là một trường hợp điển hình của đàn áp xuyên biên giới, trong đó một chính quyền tìm cách xuất khẩu mô hình kiểm duyệt và bịt miệng ra ngoài lãnh thổ. Tuyên bố của Đức gửi đi thông điệp rõ ràng: chủ quyền quốc gia và tự do ngôn luận sẽ được bảo vệ trước mọi hành vi đàn áp từ bên ngoài.


 

Người tù thế kỷ” Nguyễn Hữu Cầu

Phạm Thanh Nghiên

 Hôm nay 19/12/2025, tròn 3 năm “người tù thế kỷ” Nguyễn Hữu Cầu về với Chúa.

Trong 75 năm hành trình dương thế, ông đã trải qua 37 năm bị đoạ đày sau song sắt, trở thành người bị cầm tù lâu nhất tại Việt Nam. Với kỷ lục bất đắc dĩ này, ông đã đi vào lịch sử đau thương của dân tộc, như một bằng chứng không thể chối cãi về tội ác của ch.ế đ.ộ c.ộ.n.g sả.n đối với đồng bào mình.

Xin cầu cho linh hồn ông Gio-an Bao-ti-xi-ta được hưởng nước Thiên đàng.


 

XỨ THIÊN ĐƯỜNG

Lê Ngọc Công

XỨ THIÊN ĐƯỜNG .

Cụ Bà đi nhặt ve chai mất bên vệ đường.

Một cái chết lặng lẽ và khoảng trống mang tên an sinh xã hội

Một cụ bà gục xuống bên vệ đường, bên cạnh là chiếc bao ve chai cũ kỹ.

Không còi hú, không bệnh viện kịp thời, không người thân bên cạnh.

Chỉ có một cuộc đời khép lại trong im lặng.

Cái chết ấy không phải là tai nạn hiếm hoi. Nó là hệ quả của một hệ thống an sinh xã hội thiếu vắng, nơi người già không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục lao động cho đến khi kiệt sức.

Ở những quốc gia phát triển, tuổi già là giai đoạn được chăm sóc. Người cao tuổi có lương hưu tối thiểu, có bảo hiểm y tế, có dịch vụ chăm sóc tại nhà, có nhà dưỡng lão, có những cơ chế bảo vệ để không ai phải chết trên vỉa hè vì mưu sinh. Xã hội coi việc bảo đảm phẩm giá cho người già là một nghĩa vụ căn bản.

Còn ở Việt Nam, quá nhiều người già không có lương hưu. Họ từng lao động cả đời trong khu vực phi chính thức: bán hàng rong, làm thuê, làm ruộng nhỏ lẻ. Khi sức khỏe cạn dần, họ không có điểm tựa. Không lương hưu. Không trợ cấp đủ sống. Không hệ thống chăm sóc dài hạn. Cuối cùng, họ ra đường—nhặt ve chai, bán vé số, bốc vác—đổi từng đồng lẻ lấy một bữa ăn.

Một xã hội được đo bằng cách nó đối xử với những người yếu thế nhất.

Và người già là thước đo không thể chối cãi.

Khi một cụ bà phải kéo lê tấm lưng còng trên đường phố để nhặt từng chai nhựa, đó không phải là “ý chí vượt khó”. Đó là sự thất bại của chính sách. Khi cụ chết bên vệ đường, đó không phải là “số phận”. Đó là khoảng trống của an sinh xã hội.

Người ta thường nói về tăng trưởng, về chỉ số, về thành tích. Nhưng tăng trưởng nào có ý nghĩa nếu nó không đủ để bảo vệ những người đã cống hiến cả đời? Thành tích nào có giá trị nếu cái kết của tuổi già là một cái chết lặng lẽ giữa phố?

Một bà cụ lớn tuổi đáng lẽ phải được chăm lo—được nghỉ ngơi, được chữa bệnh, được sống những năm cuối đời trong an toàn và tôn trọng. Thay vào đó, bà phải mưu sinh đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là lựa chọn của bà. Đó là lựa chọn mà xã hội đã không làm.

Cụ bà đã ra đi. Nhưng câu hỏi còn ở lại:

Bao nhiêu người già nữa sẽ phải đi nhặt ve chai cho đến khi không còn đứng dậy được?

Và bao lâu nữa, an sinh xã hội mới thôi là khẩu hiệu để trở thành điểm tựa thực sự cho những phận người yếu thế?

Im lặng trước những cái chết như vậy cũng là một hình thức chấp nhận.

Còn lên tiếng, ít nhất, là cách để nhắc nhau rằng: tuổi già không nên là một cuộc mưu sinh đến chết.

Nhật Ký Yêu Nước.

Từ Fb Van Nguyen


 

NHỮNG NGÀY THÁNG KHÓ QUÊN SAU 1975…- Nguyễn Văn Tuấn

Việt Luận – Viet’s Herald

Nguyễn Văn Tuấn

Đó là những ngày tháng rất khó khăn sau 1975, mà ngày nay ít ai trong giới trẻ biết dù họ thỉnh thoảng nghe đến cái gọi là “Thời Bao Cấp”. Càng ít người nghe qua về chế độ tem phiếu, đốt sách, Đánh tư sản, Kinh tế mới, tù cải tạo, thảm nạn Thuyền Nhân, v.v…

Tem phiếu:

Một phần trong nền kinh tế mới sau 1975 là “chế độ tem phiếu”. Mặc dù nó đã có từ 1957 ở miền Bắc, nhưng dân trong Nam chẳng biết gì! Theo chánh sách tem phiếu này, tất cả nguồn lương thực, thực phẩm và nhu thiết yếu cuộc sống được phân phối qua tem phiếu được cấp cho mỗi gia đình.

Nhà nước có những tiêu chuẩn cụ thể cho mỗi giai tầng trong xã hội. Một người dân được tiêu chuẩn 150 gram thịt mỗi tháng (tương đương với mức tiêu thụ thịt trung bình trong 1 ngày hiện nay của người trưởng thành). Nhưng các cán bộ nhà nước thì được hưởng 300 gram đến 500 gram mỗi tháng, tùy theo cấp bậc. Gạo cũng được phân phối theo chế độ tem phiếu, và tiêu chuẩn theo giai cấp rất rõ rệt.

Những tiêu chuẩn như thế không thể nào đủ sống. Hậu quả là người dân bị đói. Nên nhớ rằng miền Nam, đặc biệt là miền Tây, là vựa lúa của cả nước và người dân ở đây chưa bao giờ thiếu gạo ăn. Ấy vậy mà sau 1975 người dân bị đói vì thiếu gạo! Người ở thành thị đói hơn người ở nông thôn.

Danh từ “ăn độn” có nghĩa là người ta phải trộn gạo với các nguyên liệu khác như khoai mì, đôi khi lên đến 60-70 % để có một bữa ăn. Kiên Giang là tỉnh nông nghiệp, vậy mà ở Rạch Giá gạo được xem là hàng quý hiếm đến mức người ta phải cất giữ nó như sâm quý, chỉ dùng để nấu cháo khi đau ốm.

Đổi tiền:

Screenshot

Ngày 22 Tháng Chín 1975, chánh quyền mới ra lệnh đổi tiền, 500 đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa đổi lấy 1 đồng tiền Ngân hàng Việt Nam tức loại tiền mới. Mỗi gia đình (hộ khẩu) được đổi tối đa 200 đồng mới. Tiền cũ còn dư phải gởi vào ngân hàng, rút ra và đổi từ từ.

Người dân xem là một biện pháp làm nghèo dân chúng. Sau 1975 ai cũng nghèo. Lúc đó, xuất hiện câu ca dao: “Năm đồng đổi lấy một xu/ Người khôn đi học [tập], thằng ngu làm thầy.”

Đốt sách:

Sau 1975, rất nhiều sách báo xuất bản trước 1975 ở miền Nam bị thiêu hủy. Nhà nước huy động thanh niên, thậm chí là trẻ em mang băng đỏ vào nhà của người dân để lục soát, tịch thu các thể loại sách vở, báo chí, băng đĩa. Một chủ tiệm cho thuê sách cạnh nhà thờ Ba Chuông (Quận 3, TPHCM) đã cho nổ một quả lựu đạn khi các em nhỏ đeo băng đỏ xông vào nhà để tịch thu sách.

Không ai biết con số chính xác là bao nhiêu, nhưng có vài con số đã được báo cáo. Nhưng năm 1977, một cán bộ tại TPHCM nói với báo chí quốc tế rằng có khoảng 700 tấn sách của miền Nam đã bị tịch thu và nghiền nát sau hai năm giải phóng. Ở Huế, một cán bộ cho biết hàng chục ngàn cuốn sách và tranh ảnh “lạc hậu” về “tình yêu ủy mị” và “tìm kiếm niềm vui thể xác” đã bị đốt bỏ.

Linh mục André Gelinas cho biết một số lượng lớn trong khoảng 80.000 cuốn sách của thư viện Trung tâm Giáo dục Alexandre de Rhodes tại Sài Gòn đã bị đốt bỏ theo chánh sách tiêu diệt “văn hóa tư sản”.

Đánh tư sản:

Có đến ba chiến dịch “Cải tạo công thương nghiệp tư nhân”, thường gọi là “Đánh tư sản” ở miền Nam. Các đợt Đánh tư sản được đánh mã số X1, X2 và X3.

Đợt X1 khởi động sáng 09 Tháng Chín 1975, diễn ra tại 17 tỉnh thành miền Nam và Sài Gòn. Mục tiêu chánh là nhà ở đô thị, tịch thu tài sản và buộc cư dân phải di dời đến các vùng Kinh tế Mới.

Đợt X2 bắt đầu từ Tháng Ba 1978, kéo dài đến sau Đổi Mới (khoảng 1990). Đợt này tập trung vào tư thương, tiểu tư sản và các cơ sở sản xuất nhỏ – vốn là nền tảng kinh tế tự do được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa hỗ trợ.

Song song với X2, đợt X3 diễn ra mạnh mẽ tại Sài Gòn, do Đỗ Mười trực tiếp chỉ huy. Mọi cửa hàng kinh doanh, từ lớn đến nhỏ, đều bị UBND TPHCM ra lệnh đóng cửa. Các cơ sở buôn bán, nhà hàng, kho bãi, dịch vụ bị niêm phong. Tổ công tác bất ngờ ập đến, kiểm soát tài sản, khống chế gia đình, không cho ra vào. Mỗi tổ niêm phong gồm ít nhất ba người từ các cơ quan khác nhau, không quen biết nhau, bao gồm thanh niên xung phong, công nhân, sinh viên và thanh niên địa phương.

Hậu quả là ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng tiêu dùng và gia dụng bị phá hủy hoàn toàn. Các nhà máy nhỏ sản xuất nhu yếu phẩm như đường, bột giặt, giấy cũng ngừng hoạt động do chủ sở hữu bị quốc hữu hóa.

Nhà báo Huy Đức viết: “Không chỉ bị ‘tước đoạt tài sản’, các nhà tư sản còn bị buộc phải rời thành phố, cho dù, cũng như nhiều chính sách làm xáo trộn xã hội lúc bấy giờ, chủ trương đưa các nhà tư sản đi kinh tế mới cũng không được công bố một cách công khai, minh bạch. Ngày 10 Tháng Tư 1978, trên báo Sài Gòn Giải Phóng xuất hiện một bài báo dưới dạng ‘hỏi-đáp’, kiểu như một tài liệu được soạn sẵn rồi phát cho các cơ quan báo chí. Tính cưỡng bức của chính sách mà tài liệu này thể hiện là rất mạnh mẽ.”

“Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: ‘Lúc đầu, tôi cũng cứ tưởng cải tạo tư sản sẽ khác với cải cách ruộng đất, một sai lầm mà những người ở miền Nam chúng tôi nhắc nhau phải tránh. Nhưng, tiến hành rồi mới thấy, cách cải tạo tư sản thương nghiệp mà anh Đỗ Mười làm, cũng không khác gì đánh tư sản mại bản nhưng tràn lan hơn. Anh Đỗ Mười làm cải tạo cũng thành thật lắm. Giữa thập niên 1980, khi tôi ra Hà Nội vẫn thấy anh Đỗ Mười kêu những người buôn bán là bọn con buôn’. ”

Kinh tế mới:

Ngày nay, ít ai nhớ đến danh từ “Kinh tế mới”, nhưng thời đó (1975) là một nỗi ám ảnh lớn của cư dân Sài Gòn. Chủ trương là di dời 5 nhóm dân sau đây ra vùng kinh tế mới (theo lệnh ngày 19 Tháng Năm 1976):

  • Người thất nghiệp
  • Người cư ngụ bất hợp pháp
  • Người cư ngụ trong những khu vực dành riêng cho công chức và quân nhân Việt Nam Cộng Hòa
  • Tiểu thương gia, tiểu địa chủ, đại thương gia
  • Người gốc Hoa, dân theo đạo Công giáo.

Có lẽ ý tưởng chánh là giảm số người thuộc Việt Nam Cộng Hòa tập trung ở những đô thị. Trong thời gian 1975-80, đã có 832.000 người từ Sài Gòn bị di dời về vùng nông thôn. Phương pháp di dời bao gồm cưỡng bức, thu hồi hộ khẩu, rút thẻ mua gạo và các nhu yếu phẩm, và cấm trẻ em nhập học khiến đối tượng phải di chuyển ra vùng nông thôn.

Tù cải tạo:

Tù cải tạo là một vấn đề nhức nhối cho đến ngày nay. Sau 1975, nhiều người từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa tình nguyện đi học tập vì nghĩ rằng chỉ vài tuần là xong, nhưng không ngờ có nhiều người phải đi cả chục năm trời. Có nhiều người qua đời trong các trại tù cải tạo.

Chánh quyền mới không cho biết con số tù nhân cải tạo là bao nhiêu. Nhưng Encyclopedia of the Vietnam War, sau năm 1975, số sĩ quan, công chức và cán bộ Việt Nam Cộng Hòa bị bỏ tù khoảng hơn 1.000.000 người trên tổng dân số Nam Việt Nam lúc đó khoảng 20 triệu người. Tất cả bị giam tại trên 150 trại giam; theo đó khoảng 500.000 được thả về trong 3 tháng đầu; 200.000 bị giam từ 2 đến 4 năm; 250.000 bị giam ít nhất 5 năm, và năm 1983 (tức sau 8 năm) còn khoảng 60.000 người bị giữ lại.

Theo một bài báo: “Trong số trên 1.000.000 người bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở Hoa Kỳ và Âu Châu, có khoảng 165.000 nạn nhân đã từ trần trong các trại tù cải tạo”.

“Thuyền nhân”:

Screenshot

Sau 1975, nhiều người (kể cả giới trí thức) không thấy tương lai trên quê hương, nên họ tìm đường vượt biên. Nhiều người tù cải tạo sau khi được trả tự do họ đều tìm đường vượt biên.

Chế độ mới áp dụng “chủ nghĩa lý lịch”, nên ngay cả con em của họ cũng không có cơ hội học đại học và đóng góp. Chẳng hạn như trong quy chế chọn sinh viên đại học, họ chia học sinh thành 14 nhóm theo lý lịch của thân nhân. Nhóm 1 và 2 là con em của “gia đình cách mạng” và được ưu tiên cho học dù năng lực học tập của họ rất kém. Ngược lại, những học sinh trong nhóm 13 và 14 sẽ không được đi học đại học vì được xem là con em của “những sĩ quan cao cấp, hay là người công giáo”.

Những người không thấy tương lai đành phải ra đi: Vượt biển.

Rất khó biết chính xác có bao nhiêu người Việt đã vượt biên. Nhưng theo Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, trong thời gian 1975-1995, có chừng 800.000 người Việt vượt biên bằng đường biển và chừng 100.000 bằng đường bộ. Đa số là xảy ra trong thời gian 1975-1985 vì đó là “cao trào” của làn sóng vượt biển.

Theo một nghiên cứu trên những thuyền nhân tới Thái Lan thì đa số (trên 50 %) thuyền tới bờ bị hải tặc Thái Lan tấn công. Vẫn theo Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, có ít nhứt 10 % người vượt biển bỏ mạng ngoài khơi, “vĩnh viễn không bao giờ tới miền đất hứa”. Dựa vào đó, chúng ta có thể ước tính rằng có ít nhứt 100.000 người Việt đã nằm trong lòng Biển Đông.

Nguyễn Văn Tuấn


 

 NĂM ẤY, TÔI TỐ CÁO CHÍNH MẸ MÌNH; NGÀY HÔM SAU BÀ BỊ XỬ BẮN

Dành cho Bò Đỏ và DLV

 NĂM ẤY, TÔI TỐ CÁO CHÍNH MẸ MÌNH; NGÀY HÔM SAU BÀ BỊ XỬ BẮN — GIỜ TÔI ĐÃ GIÀ, ĐÊM NÀO CŨNG SỐNG TRONG ÁC MỘNG†

Năm 1970, giữa cao trào Cách mạng Văn hóa, Trương Hồng Binh mới 16 tuổi nhưng đã là một hồng vệ binh cuồng tín. Với cậu, Mao Trạch Đông là chân lý tuyệt đối, còn mọi nghi ngờ đều là tội ác. Một buổi tối trong gia đình ở An Huy, khi tranh luận về sách vở, mẹ cậu – bà Phương Trung Mưu – buột miệng nói rằng có những câu người ta gán cho Mao thực ra không phải do Mao viết, và việc thần thánh hóa lãnh tụ là không bình thường. Chỉ vài câu nói ấy thôi cũng đủ làm không khí trong nhà nổ tung. Đối với người mẹ, đó có thể chỉ là lời than mệt mỏi; nhưng với cậu con trai đã được giáo dục bằng đấu tranh giai cấp, đó là lời “phản cách mạng” không thể tha thứ.

Cơn phẫn nộ nhanh chóng biến thành hành động. Trương Hồng Binh cùng cha mình viết đơn tố cáo chính người mẹ, người vợ trong gia đình, lên chính quyền địa phương. Không yên tâm, cậu còn tự tay viết thêm một bản tố cáo khác, đeo huy hiệu hồng vệ binh, lén gửi để chắc chắn vụ việc không bị bỏ qua. Chỉ trong một đêm, ranh giới giữa mẹ và “kẻ thù giai cấp” bị xóa sạch. Ngày hôm sau, bà Phương Trung Mưu bị bắt.

Vài tuần sau, tại một buổi “đấu tố” công khai với hàng nghìn người, bà bị trói, treo bảng “phản cách mạng” trước ngực, ép quỳ giữa quảng trường. Bản án được tuyên rất nhanh: tử hình, thi hành ngay. Khi đoàn xe chở bà ra pháp trường, Trương Hồng Binh đứng trong đám đông nhưng không dám tiến lên. Người mẹ bị bắn chết, còn cậu con trai – người đã góp phần đẩy bà đến cái chết – chỉ biết đứng chết lặng, vừa sợ hãi vừa trống rỗng.

Bi kịch không kết thúc ở đó. Gia đình tan nát, cha mẹ ly hôn trên giấy tờ để “cắt đứt quan hệ với kẻ phản cách mạng”, bản thân Trương Hồng Binh và cha cũng bị xã hội xa lánh. Nhiều năm trôi qua, khi Cách mạng Văn hóa kết thúc và sự cuồng tín dần lắng xuống, ông mới bắt đầu hiểu điều mình đã làm. Ông viết đơn, viết hồi ký, cố xin phục hồi danh dự cho mẹ, thú nhận rằng ngày ấy ông đã đặt khẩu hiệu lên trên tình mẫu tử.

Giờ đây, khi đã già, Trương Hồng Binh nói rằng mỗi đêm ông vẫn mơ thấy mẹ. Trong những cơn ác mộng ấy, không có khẩu hiệu, không có quảng trường, chỉ có ánh mắt của người phụ nữ đã sinh ra ông – ánh mắt của một người mẹ trước khi bị chính con mình đẩy ra trước họng súng. Đó là bản án không tòa án nào tuyên, nhưng kéo dài suốt phần đời còn lại.

https://hk.aboluowang.com/2021/0308/1565844.html

BỆNH KHOE CỦA NGƯỜI VIỆT…

Trong năm bậc nhu cầu tâm lý của con người, nhu cầu tự thể hiện mình được các nhà tâm lý học xếp ở vị trí cao nhất. Cái sự khoe chính là biểu hiện của nhu cầu tự thể hiện. Nó chỉ diễn ra khi mình có cái gì đó mà xung quanh không ai có.

Những năm cuối của thế kỷ trước, chiếc xe máy dream Thái là niềm mơ ước của nhiều người. Trong lúc tôi còn chưa có chiếc xe đạp tử tế mà đi thì ông anh họ đã bán đất, vay mượn tứ tung để rước về “con dream” giá 6 cây vàng. Tính theo giá vàng hiện nay, chiếc xe của anh tương đương 210 triệu đồng. Nhưng mua xe rồi, anh vẫn còng lưng đi xe đạp vì sợ xe máy xây xước, mau cũ. Hàng ngày, anh dựng xe trước cửa, tối lại dắt vào dựng ở phòng khách như một thứ đồ trang trí.

Những năm sau, thiên hạ lại chứng kiến người ta khoe điện thoại di động. Dù trong cuộc họp hay ngoài đường ngoài chợ, hễ nghe tiếng nhạc hiệu thật to thì thể nào chủ nhân của nó cũng sẽ oang oang đàm thoại, để ai cũng phải quay lại nhìn và biết rằng, anh ta đang sở hữu một món hàng đắt giá. Bây giờ nghĩ lại những trò lố ấy, thấy buồn cười không chịu được.

Giờ người ta khoe kiểu khác, đặc biệt là cái sự khoe của giới Showbiz Việt. Những diễn viên, người mẫu, ca sĩ cùng các hot girl lên báo không phải để khoe album mới, vai diễn thành công, giải thưởng danh giá mà là để khoe biệt thự triệu đô, khoe xe khủng, những bộ đồ hoặc trang sức “có một không hai”. Cao hơn nữa là khoe phi thuyền, máy bay riêng, biệt thự ở Mỹ, ở Úc… Nhưng trước khi có những thứ đó để khoe, nhiều chàng, nàng trong giới Showbiz Việt phải khoe thân trước đã. Có cô hoa hậu nọ xuất hiện trên các trang mạng với bộ áo dài trong suốt mà không mặc nội y. Họ tự hào với các danh hiệu “nữ hoàng nội y”, “vòng một khủng”. Thậm chí một số người (cả nam lẫn nữ) lại toàn khoe… “của quý”.

Rồi người ta khoe chồng, khoe bồ giàu và gắn mác ngoại. Một thời gian dài, báo chí tốn bao nhiêu giấy mực bởi anh chàng người mẫu mới tập tễnh vào làng giải trí Việt đã cặp kè một bà triệu phú còn lớn tuổi hơn cả mẹ mình rồi mang đi khoe khắp nơi. Và anh ta đã đạt mục đích trở nên nổi tiếng, dù không phải bằng các hoạt động nghề nghiệp. Nhưng không chỉ giới showbiz, hầu hết người Việt mắc bệnh khoe. Nhiều buổi họp lớp thực chất là dịp gặp nhau để khoe. Ai có gì khoe nấy, chủ yếu là tài sản, sự thành đạt của bản thân hay con cái đều học tại một trường danh tiếng nào đó “ở bển”! 

Vậy ở các nước Mỹ, Pháp, Úc… những người nổi tiếng có khoe không? Chắc chắn là có. Nhưng họ khoe gì? Theo dõi báo chí thì thấy họ khoe những hầm rượu mấy trăm năm, khoe những cuốn sách quý họ đọc được trong thư viện, khoe những chuyến đi và những vùng đất họ từng khám phá, về những con người ở xứ sở tít mù nào đó mà họ đã đến khám chữa bệnh, dạy học hay cứu trợ…

Chợt nhớ câu chuyện đọc được trên báo, nói về chuyến thăm Sa Pa của một tỷ phú Mỹ thế hệ 8x. Người ta cứ tưởng tỷ phú cùng bạn gái sẽ xuất hiện với siêu xe, hàng hiệu và vung tiền như nước nên rất ngỡ ngàng khi thấy tỷ phú đi dép lê, còn bạn gái mặc đồ rất bình thường. Và nhiều người đã thất vọng.

Cũng là khoe, nhưng người Việt mình khác thiên hạ quá!

From: Tu-Phung


 

‘Tiền trong dân còn rất nhiều’ và niềm tin trong dân đã cạn-Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

December 13, 2025

*Chuyện Vỉa Hè
*Đặng Đình Mạnh

Trong nhiều năm qua, các nhà lãnh đạo cao cấp CSVN liên tục nhắc đi nhắc lại một cụm từ, mà thoạt nghe, tưởng như rất “kinh tế học” nhưng thực chất lại rất “chính trị học”: “Tiền trong dân còn rất nhiều”.

Khi còn sinh tiền, Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng CSVN nói “Các đồng chí nói “Tiền trong dân còn nhiều” như thế là không đúng, thậm chí, rất lệch lạc. Dân không mang tiền ra làm ăn là vì họ không yên tâm, không có môi trường thuận lợi chứ đâu phải vì họ không muốn phát triển? Chính cán bộ yếu kém, quản lý chồng chéo, thủ tục nhiêu khê, hết kiểm tra lại thanh tra… mới làm dân sợ rủi ro, đành để tiền nằm một chỗ…”.

Các nhân viên (bên trái) một ngân hàng thương mại tại Hà Nội tiếp khách hàng trong dịch vụ thường lệ từ ký thác, chuyển khoản, đến tín dụng. (Hình: Nhạc Nguyễn/AFP/Getty Images)

Sau khi kế nhiệm chức vụ Tổng Bí thư, Tô Lâm cũng đã lập lại câu nói này với lời chê trách nhân dân “…vì nhân dân không biết kinh doanh, không biết sản xuất, không mở được doanh nghiệp, thì tỉnh làm sao có thuế được, thu được thuế ở đâu được”.

Cho thấy, tuy cùng một câu nói “Tiền trong dân còn rất nhiều”, nhưng ít ra, Nguyễn Phú Trọng còn nói được về nguyên nhân “dân sợ rủi ro”, nên chưa huy động được nguồn tiền trong dân, khác với Tô Lâm chỉ nói về lợi ích của tiền sinh ra tiền một cách đầy thực dụng.

Nhưng nói cách nào đi nữa, hàm ý phía sau câu nói ấy không phải để suy tư về niềm tin xã hội, mà là để ám chỉ một điều khác, rằng dòng tiền đang nằm im trong túi dân, chúng chưa được huy động cho mục tiêu phát triển, và vì thế, chế độ muốn “khai thông”.

Nhưng vấn đề của người dân lại không nằm ở đồng tiền, lại càng không phải ở chỗ khơi thông, mà nằm ở niềm tin. Điều mà chế độ đã sớm “phung phí” đến cạn kiệt từ lâu! Thú vị là chính Nguyễn Phú Trọng, người cứ hay bị công chúng đùa với hỗn danh “Trọng lú” lại công khai thừa nhận nguyên nhân cốt lõi của tình trạng này. Dĩ nhiên, với ông Trọng, đây không phải lời “tự diễn biến”, chúng là lời tự thú chính trị.

Nó cho thấy ông ấy hiểu khá rõ bản chất vấn đề, rằng dân không thiếu tiền, mà là dân sợ hãi, dân thiếu niềm tin. Khiến cho nguồn lực tài chính khổng lồ trong dân phải ngủ yên, chúng chưa được khai thác hiệu quả. Đó là sự lãng phí nguồn lực khi không tạo ra được giá trị gia tăng trong bối cảnh thiếu vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, y tế, giáo dục… làm chậm sự phát triển chung.

Thế nhưng, thay vì chữa bệnh từ gốc, người kế nhiệm Tổng Bí thư, Tô Lâm, lại nhìn vấn đề theo hướng ngược lại, rằng “Tiền trong dân rất nhiều… nhân dân không biết kinh doanh, không biết sản xuất…”. Cách tư duy này đánh dấu một sự trượt dài nhận thức, thay vì tự kiểm điểm cấu trúc quyền lực lại quay sang đổ lỗi cho người dân! Đó là vấn đề của chế độ CSVN lúc này.

Nước Anh thế kỷ XVII và giải pháp dân chủ hóa tài chính

Lịch sử thế giới cũng từng có dịp ghi nhận về giải pháp huy động nguồn lực tài chính trong dân rất hiệu quả, đó là Anh quốc vào thế kỷ thứ XVII.

Năm 1689, ngay trong cuộc Chiến tranh Chín Năm (Nine Years’ War) nổ ra giữa Anh và Pháp. Tình thế tài chính của Anh lúc đó vô cùng kiệt quệ, nhà vua không có uy tín để đi vay tiền, ngân khố trơ khốc. Chiến tranh đã gây tiêu hao các nguồn lực của nước Anh một cách khủng khiếp.

Giải pháp mà họ chọn không phải là tịch thu tài sản nhân dân bằng các chiến dịch “Đánh tư sản mại bản”, “Tư sản công thương nghiệp”, quốc hữu hóa, cũng không phải vận động nhân dân đóng góp, mà là một bước đột phá bằng tạo dựng lòng tin thể chế.

Đó là việc thành lập Ngân hàng Anh (Bank of England) vào năm 1694. Đây là ý tưởng của một nhà quý tộc Scotland, ông tên William Paterson, được giao thành lập ngân hàng tư nhân Anh quốc. Theo đó, ông có quyền thành lập Ngân hàng Anh với những đặc quyền ngân hàng của chính phủ bao gồm phát hành giấy bạc.

Sắc lệnh hoàng gia hợp thức các quyền này ngày 27 Tháng Bảy 1694. Thị trường tài chính lúc đó rất nghèo nàn nên khoản vay bị tính lãi suất tới 8% một năm cộng thêm phí quản lý của khoản vay là £4.000 mỗi năm.

Bản chất của ngân hàng này là một công trình của niềm tin. Khi ấy, người dân góp vốn, nhưng đổi lại họ có: Quyền sở hữu rõ ràng, được bảo đảm pháp lý và một thể chế buộc phải tôn trọng cam kết của mình. Kết quả hết sức ngoạn mục, chỉ trong chưa đầy hai tuần, nước Anh huy động được 1,2 triệu bảng Anh, một số tiền khổng lồ ở thế kỷ XVII.

Câu chuyện không nằm ở chỗ người Anh ít hay nhiều tiền hơn người Việt hôm nay, mà điều quan trọng nhất là họ đã đồng ý góp rất nhiều tiền vào ngân hàng khi có lòng tin rằng tài sản của họ được bảo vệ bởi luật pháp.

Bài học từ Anh quốc và sự bất khả thi trong thể chế độc đảng Việt Nam

Chúng ta sẽ tự hỏi, liệu chăng mô hình huy động tài chính thành công tại Anh quốc có thể áp dụng tại Việt Nam hay không? Câu chuyện của Anh quốc là một lý thuyết rất đẹp. Nhưng hoàn cảnh thực tế tại Việt Nam hiện nay lại đối lập hoàn toàn với những tiền đề căn bản của mô hình này.

Để huy động được tiền trong dân theo cách văn minh như Anh, cần tối thiểu 5 điều kiện nền tảng: Chính quyền có tính chính danh, nếu ở Anh Quốc là sự truyền ngôi chính đáng thì ở Việt Nam cần thông qua bầu cử tự do; Một nền tư pháp độc lập tuyệt đối để có thể ban phát công bằng, công lý mà không bị tác động bởi chính trị, đảng phái; Quyền tài sản được Hiến pháp bảo đảm thực chất; Minh bạch hóa ngân khố và chi tiêu công; Không có nỗi sợ bị tước đoạt tài sản tùy tiện.

Nhưng Việt Nam hiện nay có gì?

Chính quyền không chính danh, do độc tài đảng trị; Tư pháp bị đặt dưới sự “lãnh đạo toàn diện của đảng Cộng Sản”, tác động bởi những cơ chế như Ban An ninh Nội chính và tình trạng hối lộ, tham nhũng; Quyền tài sản không được bảo đảm, như nhà đất bị giải tỏa bất công mà không được bồi thường đầy đủ; Tình trạng công an trị và tham nhũng có hệ thống; Doanh nhân vi phạm pháp luật để có thể tồn tại và trở thành con tin của công an.

Trong môi trường ấy, khuyên người dân mang tiền ra kinh doanh, sản xuất, làm dịch vụ chẳng khác nào bảo người ta bước ra khỏi nhà mà không khóa cửa, không có công an bảo vệ, không có tòa án độc lập, rồi trách họ sao “không dám ra đường!?

Tiền nằm trong dân là phản ứng phòng vệ

Một thực tế cần được thẳng thắn, rằng người dân Việt Nam gửi tiền tiết kiệm vì không phải không biết làm ăn, mà họ gửi tiền tiếp kiệm vì đó là phương thức phòng vệ cuối cùng trước một hệ thống bất định, bất lương và đầy rủi ro.

Họ hiểu rất rõ xã hội, nơi chế độ CSVN tạo ra môi trường, mà: Làm ăn lớn ⇒ dễ bị thanh tra. Mở rộng doanh nghiệp ⇒ dễ “va chạm” lợi ích. Thành công quá ⇒ có thể trở thành mục tiêu chính trị. Trong xã hội như vậy, lựa chọn an toàn nhất không phải là “khởi nghiệp”, mà là trú ẩn tài sản. Đó không phải tâm lý tự ti, đó là phản ứng sinh tồn.

Bài học cốt lõi từ Anh quốc — Niềm tin

Nhiều người nhầm tưởng rằng bài học huy động tài chính trong dân từ giải pháp của nước Anh là “hãy tạo lập một ngân hàng mới”. Điều này sai một cách cơ bản. Vì lẽ, bài học thật sự là: Hãy lập một thể chế mang lại cho dân niềm tin mới.

Người dân tại Việt Nam tới nay vẫn quen dùng tiền mặt trong mọi giao dịch trong khi trị giá đồng bạc CSVN thì rất thấp nên số tiền bỏ vào hay rút ra đều chồng đống như những cục gạch. (Hình: Hoàng Đình Nam/AFP/Getty Images)

Thể chế đó chỉ có thể là: Một chính quyền dân chủ được hình thành từ bầu cử tự do. Một nền tư pháp hoàn toàn độc lập . Một hệ thống quyền lực chính trị có thể kiềm chế, giám sát được. Quyền tài sản, quyền tự do được bảo đảm bởi luật pháp … thì “Tiền trong dân còn nhiều” sẽ được huy động vào nền kinh tế một cách tự nhiên mà không cần đến lời kêu gọi.

Nhưng trong một thể chế độc tài, đảng trị, nơi công an mạnh hơn tòa án, nơi hiến pháp có hiệu lực thấp hơn nghị quyết, nơi luật pháp yếu hơn chỉ thị, nơi tài sản có thể bị “thu hồi” chỉ bằng một quyết định hành chính bất kỳ, nơi tham nhũng tràn lan, thì vĩnh viễn, “Tiền trong dân còn nhiều” đến mức nào đi nữa, sẽ vẫn mãi mãi nằm trong hầu bao của họ.

Nước Anh đã trở thành đế quốc, nơi được xưng danh “Mặt trời không bao giờ lặn”, không phải vì họ giàu hơn dân tộc khác, mà vì họ tạo được một thể chế để dân dám tin.

Còn Việt Nam hôm nay, nơi được hứa hẹn “Kỷ nguyên vươn mình”, không phải vì giàu, vì mạnh, mà vì chế độ nơi ấy rất hào phóng hứa hẹn điều mà họ và dân của họ đều quá hiểu nhau, rằng chẳng có cơ sở gì để kỷ nguyên hão huyền ấy trở thành sự thật.

Vì lẽ, “Tiền trong dân còn rất nhiều” nhưng niềm tin trong dân đã cạn.

Hoa Thịnh Đốn, ngày 9 Tháng Mười Hai 2025

Đặng Đình Mạnh.


 

Thân bất lao tù , chí bất cao

Chau Trieu is with Phaolô Hiển Nguyễn 

Cùng cầu bình an cho các TNLT/VN đang bị đày đọa trong chốn lao tù CS, trong đó có  TNLT cô Phạm Đoan Trang, được Tổ chức Phóng viên Không Biên giới RSF kêu gọi trả tự do trong chiến dịch ưu tiên năm 2025.

***

“ Đời không cát bụi , đời không sạch

Thân bất lao tù , chí bất cao “ .

Tù không có gì phải sợ , chỉ sợ trong cuộc dạo chơi cõi nhân gian này không làm được gì cống hiến cho nhân thế.

Không ai muốn sống trong tù ( dù chỉ một ngày ) nhưng nếu cần cho một đất nước hồi sinh và thịnh vượng thì tù cả đời cũng không đáng sợ.

(PVT)